Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1101-1150

Thứ hai - 04/03/2019 08:32
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1101-1150
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1101-1150
Suy tư của Đức Cha GB Bùi-Tuần Bài 1101-1150
Bùi-Tuần 1101: SỐNG BÉ NHỎ 07-05-2010. 2
Bùi-Tuần 1102: TIẾNG KÊU CỦA TRÁI TIM 27-05-2010. 5
Bùi-Tuần 1103: TRÁI TIM CHÚA GIÊSU HIỀN LÀNH.. 8
Bùi-Tuần 1104: CÁC MÔN ĐỆ CHÚA VỚI ĐỊA VỊ QUYỀN CHỨC.. 11
Bùi-Tuần 1105: THÁNH LỄ CUỘC ĐỜI 02-07-2010. 14
Bùi-Tuần 1106: CÔNG GIÁO AN GIANG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.. 16
Bùi-Tuần 1107: TÌNH YÊU ĐƯỢC THANH LUYỆN 20-07-2010. 19
Bùi-Tuần 1108: Góp ý với Đại Hội Dân Chúa 04-08-2010. 22
Bùi-Tuần 1109: SUY NGHĨ VỀ CHIỀU KÍCH TÂM LINIH 02-09-2010. 25
Bùi-Tuần 1110: NÂNG TÂM HỒN LÊN VỚI CHÚA 12-09-2010. 28
Bùi-Tuần 1111: MỘT CÁI NHÌN VỀ CÁC TÔNG ĐỒ 30-09-2010. 31
Bùi-Tuần 1112: TRƯỚC NHỮNG NGUY HIỂM ĐANG ĐE DOẠ.. 34
Bùi-Tuần 1113: MÙA VỌNG, NHỮNG DẤU CHỈ DỌN ĐƯỜNG 26-11-2010. 37
Bùi-Tuần 1114: Nhân kỷ niệm 45 năm Bế mạc Công đồng Vaticăng II 40
Bùi-Tuần 1115: THÊM NỮA TÌNH YÊU 02-12-2010. 43
Bùi-Tuần 1116: Về bài viết của trang Nữ Vương Công Lý 23-11-2010. 47
Bùi-Tuần 1117: ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ 01-01-2011. 49
Bùi-Tuần 1118: ĐẦU XUÂN CHIA SẺ VỀ TÌNH HÌNH DIỄN BIẾN.. 52
Bùi-Tuần 1119: GẶP GỠ ĐỨC KITÔ 20-01-2011. 55
Bùi-Tuần 1120: BÊN ĐỨC MẸ DƯỚI CHÂN THÁNH GIA 07-01-2011. 58
Bùi-Tuần 1121: THÔNG VỚI ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI HIỆP. 61
Bùi-Tuần 1122: SUY GẪM VỀ THÁNH GIÁ 10-02-2011. 65
Bùi-Tuần 1123: SỐNG GIỮA NHỮNG MONG MANH 20-03-2011. 68
Bùi-Tuần 1124: ĐỪNG VÔ CẢM 25-03-2011. 71
Bùi-Tuần 1125: HÃY RA KHỎI MỒ 07-03-2011. 74
Bùi-Tuần 1126: HIẾN TẾ MÌNH LÀM CỦA LỄ ĐỀN TỘI 08-03-2011. 77
Bùi-Tuần 1127: ĐỂ ĐƯỢC GẶP CHÚA PHỤC SINH 12-04-2011. 80
Bùi-Tuần 1128: VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA 18-04-2011. 83
Bùi-Tuần 1129: HỒN CỦA ĐỐI THOẠI NƠI NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA.. 86
Bùi-Tuần 1130: VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA 18-04-2011. 89
Bùi-Tuần 1131: Sống đạo là một cuộc chiến. 93
Bùi-Tuần 1132: NIỀM VUI  CỦA NHỮNG NGƯỜI CON ĐỨC MẸ MARIA.. 96
Bùi-Tuần 1133: ĐỔI MỚI BẢN THÂN 20-05-2011. 99
Bùi-Tuần 1134: RA TRƯỚC TOÀ CHÚA 26-05-2011. 102
Bùi-Tuần 1135: CẢM TẠ CHÚA 02-06-2011. 106
Bùi-Tuần 1136: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO 10-06-2011. 109
Bùi-Tuần 1137: NGƯỜI TÔI TỚ NGHÈO KHÓ CỦA THIÊN CHÚA.. 111
Bùi-Tuần 1138: NHỮNG ĐẠI DƯƠNG TRONG TRÁI TIM BÉ NHỎ.. 114
Bùi-Tuần 1139: ĐƯỢC ĐỠ NÂNG ĐỂ HIẾN DÂNG 16-09-2011. 117
Bùi-Tuần 1140: ĐÔI CHÚT TÂM TÌNH 26-09-2011. 121
Bùi-Tuần 1141: THEO MẸ LÊN TRỜI 05-08 -2011. 125
Bùi-Tuần 1142: TUỔI THƠ TRƯỚC NHỮNG NGUY CƠ 08-08-2011. 129
Bùi-Tuần 1143: MỨC ĐỘ CỦA TẤM LÒNG VÀNG 12-08-2011. 132
Bùi-Tuần 1144: HỌC TỪ NHỮNG CHUYỂN BIẾN HIỆN NAY 18-08-2011. 136
Bùi-Tuần 1145: ĐI TÌM NHỮNG CON ĐƯỜNG 22-08-2011. 139
Bùi-Tuần 1146: SỐNG ƠN GỌI MỚI 26-08-2011. 142
Bùi-Tuần 1147: KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ 07-10-2011. 146
Bùi-Tuần 1148: MỘT ĐÊM THÁNG MƯỜI 17-10-2011. 150
Bùi-Tuần 1149: XIN THƯƠNG ĐỠ NÂNG CON 22-10-2011. 154
Bùi-Tuần 1150: TÔI THẤY TIN MỪNG 13-10-2011. 157

Phân cách bài ĐC Bùi Tuần

Bùi-Tuần 1101: SỐNG BÉ NHỎ 07-05-2010

+ GB. BÙI TUẦN

Tôi xác tín cái nhìn sau đây của tôi về tôi là đúng: "Tôi bé nhỏ, yếu đuối, hèn hạ". Đó là cái 07-05-2010 Bùi-Tuần 1101

Tôi xác tín cái nhìn sau đây của tôi về tôi là đúng: "Tôi bé nhỏ, yếu đuối, hèn hạ". Đó là cái nhìn nền tảng. Từ cái nhìn đó, tôi vui sướng nhìn thấy Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi cậy tin Người. Tôi phó thác mình cho Người. Tôi vâng theo ý Người. Tôi ra đi rao giảng lòng thương xót Chúa.
Sống bé nhỏ, đó cũng là nét tôi cho là đẹp nơi các môn đệ Chúa. Dù môn đệ Chúa là ai, giữ chức vụ nào, ở địa danh nào, ngài vẫn sẽ chỉ đẹp, nếu ngài sống bé nhỏ.
Sống bé nhỏ, đó cũng là một nét mà người thời nay thích tìm nơi các môn đệ Chúa. Bởi vì họ cần đến những người có kinh nghiệm đúng đắn về chính mình và về Thiên Chúa, để biết cư xử hiền từ xót thương đối với họ là những người bé mọn, yếu hèn. Những chứng nhân dễ thương như vậy có thể giúp họ đi trên con đường bé nhỏ hợp với họ, như Chúa đã dạy.
1/ Chúa dạy phải sống bé nhỏ
Sống bé nhỏ, đó là điều chính Chúa Giêsu đã dạy.
Phúc Âm kể: "Người ta dẫn trẻ em đến với Chúa Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ mắng chúng. Thấy vậy, Chúa Giêsu bực mình nói với các ông rằng: Cứ để trẻ em đến với Thầy. Đừng ngăn cấm chúng. Vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng. Thực, Thầy bảo thực anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, sẽ chẳng được vào đó" (Mc 10,13-15).
Hiểu lời Chúa, chúng ta có thể quả quyết: Sống bé nhỏ không những là một nét đẹp, mà còn là một điều cần cho phần rỗi.
Sống bé nhỏ, khi đi vào đời sống cụ thể, sẽ có những chọn lựa cụ thể theo hướng đó. Dưới đây là vài chọn lựa cần để ý.
2/ Bé nhỏ là tinh thần khiêm tốn
Chúa Giêsu dạy: "Khi anh em được mời, thì hãy ngồi vào chỗ cuối... Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên" (Lc 14,10-11).
Giáo Hội, nhìn như một cơ chế, thì có phân cấp trên dưới, có phẩm trật nhiều bậc, có tổ chức hàng ngũ với nhiều địa vị khác nhau.
Dù với hình thức nào, Hội Thánh vẫn là công trình của Chúa, được Chúa thanh luyện hằng ngày. Mỗi người trong Hội Thánh phải sống đúng ơn gọi của mình với tinh thần khiêm tốn.
Khi sống ơn gọi của mình, người con Hội Thánh sẽ luôn tìm vâng phục thực thi ý Chúa. Chúa phán: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Khi thực thi thánh ý Chúa, người con Hội Thánh luôn biết khiêm nhường. Ở địa vị nào cũng phải khiêm tốn.
Khiêm tốn là coi mình đơn giản như người phục vụ. Phục vụ Chúa, phục vụ con người, phục vụ Hội Thánh, phục vụ Quê Hương Đất Nước. Đặc biệt là những người đứng đầu. Chúa phán: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và là người phục vụ anh em" (Mc 9,35).
Chúa còn dạy thêm: "Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những người đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm những việc chúng tôi phải làm đó thôi" (Lc 17,10). Làm đúng mọi sự cần làm mà còn phải khiêm tốn, phương chi làm sai và có những thiếu sót.
Muốn thực hiện tốt, thiết tưởng chúng ta hãy luôn nhớ mình phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa phán: "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 13,5).
Khi không kết hợp mật thiết với Chúa, người ta dễ có những tư tưởng, lời nói, việc làm, thái độ thiếu tinh thần phục vụ thực sự, cho dù bề ngoài khoác áo phục vụ.
3/ Bé nhỏ là tinh thần nghèo khó
Nghèo khó ở đây phải hiểu là sự không dính bén với của cải. Dùng của cải, mà không bị của cải sai khiến. Có nhiều thứ của cải như đất đai, tiền của, địa vị, danh vọng, chức tước, vv... Chúa Giêsu dạy: "Thầy bảo thật anh em. Những người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mt 19,23).
Lời Chúa phán thì phải đúng. Nếu chúng ta ôm vào lòng sự giàu có, khư khư mang theo mình đủ thứ của cải, từ tiền của đến chức tước, danh vọng, cả những điều sai trái, thì làm sao lọt được vào cửa thiên đàng. Cửa thiên đàng là cửa hẹp "Hãy chiến đấu, để qua được cửa hẹp mà vào" (Lc 13,24).
Có một thứ của cải người ta khó dứt bỏ, đó là những tham vọng và những ảo vọng. Không thiếu trường hợp người ta buộc vào mình từng khối nặng tham vọng và ảo vọng. Những thứ đó đôi khi coi như đạo đức, nhưng thực ra chỉ là những phản chiếu của một tâm trạng tham lam thầm kín. Những khối nặng đó là động cơ phát sinh ra những khao khát thăng tiến giả tạo. Tạo ra những hào quang ảo, rồi tự mãn với những giả tạo đó. Tâm trạng ám ảnh chức tước địa vị tiếng khen là một thứ thiếu quân bình, mà ác thần hay lợi dụng trong việc "gọi là" bênh vực Hội Thánh nơi nhiều người thiếu tỉnh thức.
Mình có những yếu đuối nào, thì khiêm tốn chấp nhận như vậy để sám hối sửa mình. Rồi bước những bước nhỏ dựa vào ơn Chúa, mà đến với Chúa.
Nhận thức như vậy, kẻ khó nghèo sẽ cầu nguyện một cách khiêm nhường như người thu thuế. "Anh đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc 18,13).
Kết quả là người tội lỗi khiêm nhường đã được cứu độ. Còn người tưởng mình đàng hoàng, tự mãn biểu dương với những thành tích đạo đức của mình lại bị Chúa ruồng bỏ (x. Lc 18,19).

Trong Năm Linh mục, nếu Chúa thanh luyện các linh mục, đưa các ngài về đời sống bé nhỏ, thì nên coi đó là một dịp tốt để sống theo ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ suốt đời sống bé nhỏ, khiêm nhường.
Trong Năm Thánh Việt Nam, nếu Chúa thanh luyện các con cái Chúa thuộc mọi tầng lớp, đưa họ về đời sống bé nhỏ, thì nên bớt đi những ồn ào phô trương hình thức, để tập trung hơn vào việc đổi mới con người bên trong, khiêm tốn chấp nhận chỉ là muối là men.
Thanh luyện gây nên đau đớn. Nhiều vết thương sẽ còn lâu mới lành. Tình hình nhiễm độc sẽ còn lây lan. Nhưng Chúa sẽ cứu những ai sống bé nhỏ, cậy tin nơi Người.
Lạy Chúa, xin thương xót những người con bé nhỏ của Chúa.

 

Bùi-Tuần 1102: TIẾNG KÊU CỦA TRÁI TIM 27-05-2010

 + GB. BÙI TUẦN
 

Từ ít lâu nay, thời sự Công giáo Việt Nam bị dao động mạnh. Tin tức có đúng có sai. Nhiều bình 27-05-2010 Bùi-Tuần 1102

Từ ít lâu nay, thời sự Công giáo Việt Nam bị dao động mạnh. Tin tức có đúng có sai. Nhiều bình luận rất lung tung.
Lòng người hoang mang và phân hoá.
Để soi sáng cho tình hình chia rẽ, những người có trách nhiệm đã tìm đến lời chỉ giáo của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, dịp khai mạc Năm Thánh Việt Nam ngày 17-11-2009. Chính lời chỉ giáo đó lại nhắc đến đường hướng mục vụ trong Thư Chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Tình hình còn đang biến chuyển. Vì thế, mọi người con Chúa đều được mời gọi góp phần vào việc lắng nghe ý Chúa và thực thi ý Chúa trong việc cải thiện tình hình.
Chia sẻ này chỉ là một tiếng kêu của trái tim. Trái tim đọc lại quá khứ và nói lên cảm nghiệm trên hành trình thực thi yêu thương. Tôi muốn nói tới bổn phận yêu Nước trong Thư Chung, và những gì đã là động lực cho tôi trong việc thực thi bổn phận tế nhị đó.
Trước hết, xin đọc lại phần Thư Chung 1980 nói về bổn phận yêu Nước.
1/ Bổn phận yêu Nước
"Là Hội Thánh trong lòng Dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng Quê Hương, noi theo truyền thống Dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của Đất Nước... Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta, để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa, sự gắn bó và hoà mình này đưa tới những nhiệm vụ cụ thể, mà chúng ta có thể tóm tắt lại trong hai điểm chính:
- Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc.
- Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả phù hợp hơn với truyền thống Dân tộc.
Về nhiệm vụ thứ nhất là tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc, chúng tôi muốn khẳng định rằng yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào đối với người công giáo không những là một tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là đòi hỏi của Phúc Âm...
Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của Quê Hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật Nhà Nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng một Nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc".
Xét về mặt lý thuyết, Thư Chung 1980 đã rất rõ ràng. Lý thuyết rõ ràng đó giúp an tâm các người công giáo Việt Nam. Tôi xác tín đó là ý Chúa. Còn thực thi thì sao?
2/ Cảm nghiệm khi thực thi đường hướng mục vụ về bổn phận yêu nước
Xin nói ngay là thực thi đường hướng đó một cách cụ thể trong thời gian đầu không là việc dễ. Khó khăn đến từ nhiều phía.
Trong nội bộ, sự nghi ngờ đối với chế độ còn nặng. Nghi ngờ có lý do chủ quan và cũng có lý do khách quan.
Trong chính quyền, không thiếu những thành kiến xấu đối với công giáo được bộc lộ tại nhiều địa phương, ở nhiều cấp khác nhau.
Tất cả một quá khứ dài chinh chiến và chia rẽ đã làm nên một tiềm thức lo sợ và bi quan. Tiềm thức cá nhân cũng như tiềm thức tập thể.
Tình hình phức tạp. Nhưng Thư Chung dạy tôi phải dấn thân. Cho dù, nếu phải đi một mình, tôi vẫn đi. Vì tôi xác tín Chúa dạy tôi đi để làm chứng cho Chúa. Trên hành trình dấn thân, tôi được nâng đỡ bởi những yếu tố sau đây:
Yếu tố thứ nhất là nền tu đức về bác ái yêu thương. Tu đức này hệ tại ở việc suy gẫm lời Chúa dạy về yêu thương, việc Chúa làm vì yêu thương, đau khổ Chúa chịu vì yêu thương. Cầu nguyện theo suy niệm và sau đó là quyết tâm.
Quyết tâm mạnh nhất là phải tập trung vào bác ái yêu thương. Bài ca đức mến của thánh Phaolô thành tâm niệm hằng ngày:
"Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la inh ỏi mà thôi.
Giả như tôi được ơn tiên tri và được biết mọi điều bí ẩn, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ  nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
Đến mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13,1-8).
Tu đức về bác ái yêu thương cho tôi những cái nhìn mới về Đất Nước, về đồng bào, về những người ngoài công giáo, nhất là về những người nghèo khổ. Những cái nhìn mới ấy chan chứa tình yêu chân thành cởi mở, chấp nhận quên mình.
Yếu tố thứ hai là những người thiện tâm.
Khi cởi mở, tôi được gặp nhiều người tốt. Họ có thiện chí. Họ nhã nhặn chân thành. Họ chia sẻ số phận người nghèo. Họ quảng đại dấn thân cho lợi ích chung của đồng bào và Tổ Quốc. Họ là người công giáo. Họ là người không công giáo. Tất cả đều nêu gương sáng về niềm tin, về bác ái yêu thương, khiêm nhường. Đúng là Nước Thiên Chúa đang lan rộng trong nhiều tâm hồn. Họ là những chứng nhân dũng cảm.
Yếu tố thứ ba là những kết quả tốt đẹp.
Thực sự, chúng tôi không có khả năng làm nhiều. Chúng tôi chỉ làm những việc nhỏ. Những việc nhỏ đó chủ yếu là gieo hạt giống Tin Mừng vào các tâm hồn, trong mọi tầng lớp. Các hạt giống ấy được đón nhận. Dần dà lớn lên, lan rộng. Một nền văn minh yêu thương đoàn kết được nở hoa kết trái. Tuy chưa đều khắp, nền văn minh tình thương ấy vẫn góp phần không nhỏ vào hạnh phúc của đồng bào. Nhờ đó, Hội Thánh được trân trọng, đạo Chúa được phát triển mạnh.
Kết quả tốt đẹp đó vẫn bị thử thách. Mưu ma chước quỷ luôn rình rập, tìm cách phá hoại nó. Nên những người xây dựng yêu thương đoàn kết, hoà bình, cần phải rất tỉnh thức. Xây dựng thì khó, phá hoại thì dễ. Một sơ suất nhỏ có thể tạo ra những bùng nổ lớn. Kết quả sẽ rất tai hại cho Hội Thánh.
Lịch sử luôn là những dấn thân còn dang dở. Nhiều khi trái tim cũng chỉ biết kêu lên lời mời gọi gởi tới những thế hệ đi sau: Hãy tiếp nối những gì còn dang dở trong yêu thương đối với nhau trên Quê Hương quý yêu này.

 

Bùi-Tuần 1103: TRÁI TIM CHÚA GIÊSU HIỀN LÀNH

VÀ KHIÊM NHƯỜNG 02-06-2010
+ GB. BÙI TUẦN
 

Sống vất vả và mang nhiều thứ gánh nặng, đó là thân phận con người, nhất là thời nay. Cảm thương 02-06-2010 Bùi-Tuần 1103

Sống vất vả và mang nhiều thứ gánh nặng, đó là thân phận con người, nhất là thời nay.
Cảm thương thân phận đó, Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy. Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy và hãy học cùng Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái, và gánh của Thầy thì nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).
Ở đây, chỉ xin nói về một số vất vả và gánh nặng trên đường thiêng liêng gợi ý cho chúng ta chạy đến với Trái tim Chúa.
1/ Trước hết là đổi mới con người cũ
Tâm hồn chúng ta có nhiều dơ bẩn và sai trái. Những tính mê nết xấu chứa nhiều ác tính. Tội nặng, tội nhẹ, cho dù được tha, vẫn để lại nhiều hậu quả xấu. Những hậu quả đó vẫn sống. Chúng chìm vào tiềm thức, rơi sâu xuống vô thức, trở thành những đợt sóng ngầm với những khát vọng thầm kín không kiểm soát nổi.
Xoá được những vết nhơ tâm hồn không là việc dễ. Dẹp tan được những sức mạnh xấu trong con người càng không đơn giản. Mà cứ thế, chúng sẽ bị ác thần lợi dụng. Con  người cũ của ta là gánh nặng cho ta và cho bao người khác.
Chúng ta phải đổi mới con người của ta. Thấu suốt hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu khuyên dạy ta một cách giải quyết, đó là hãy đến với Trái tim Chúa hiền lành và khiêm nhường.
Thực vậy, khi chúng ta chạy đến với Trái tim Chúa và học ở Trái tim Người sự hiền lành và khiêm nhường, thì chính Trái tim Chúa sẽ dần dần đổi mới tâm hồn ta.
Sự đổi mới tâm hồn được thực hiện trong thẳm sâu con người. Trước hết và căn bản là trái tim sẽ tập sống hiền lành và khiêm nhường. Nhờ đó, sẽ đón nhận được ơn đổi mới Chúa ban cho, như tiên tri Edekiel mô tả: "Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi, các ngươi sẽ được thanh sạch. Các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi" (Ed 36,26-27).
Với thần khí mới, chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xót thương, hiền lành và khiêm nhường. Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn biết cộng tác với Chúa trong việc đổi mới chính ta. Khi ta được Chúa biến đổi trái tim ta nên giống Trái tim Người, thì chính trái tim ta sẽ là một tác phẩm tuyệt vời có sức làm sáng danh Chúa hơn mọi tác phẩm trần thế.
Một thứ vất vả và gánh nặng khác thúc giục chúng ta chạy đến với Trái tim Chúa hiền lành và khiêm nhường, đó là những đau khổ của ta.
2/ Cách chịu đau khổ
Những đau khổ chúng ta gặp hằng ngày thực rất nhiều. Quen nhất là bệnh tật, túng thiếu, thiên tai, bị khinh khi, bị hiểu lầm, bị xúc phạm, thiếu khả năng, thiếu tài đức.
Đàng nào chúng ta cũng phải đau khổ. Nhưng khi chúng ta đem những đau khổ của ta đặt vào Trái tim hiền lành và khiêm nhường của Chúa, thì chúng ta sẽ được nhận ra những ý nghĩa cao đẹp của những đau khổ ấy, và được Chúa làm cho đau khổ dịu đi.
Chắc chắn là chúng ta cần phải đền tội và cần được thanh luyện.
Chắc chắn là chúng ta có phần nào trách nhiệm về cuộc tử nạn của Chúa. Chắc chắn là chúng ta có phần nào trách nhiệm về tội lỗi người khác, và về những đau khổ của họ. Thế thì những đau khổ của ta sẽ là của lễ đền tội chính đáng.
Cũng chắc chắn là khi chúng ta chịu đau khổ trong cầu nguyện, thì bao người sẽ được nhờ. Việc hy sinh hãm mình cầu nguyện của chúng ta sẽ xua đuổi được ma quỷ ra khỏi lòng nhiều người. Những đau đớn của chúng ta cũng sẽ góp phần đưa Hội Thánh đến vinh quang (x. Mt 16,21).
Rất nhiều khi, những đau khổ ta chịu chứng tỏ được lòng mến yêu của ta đối với Chúa, với Hội Thánh và với người khác một cách có chất lượng. Đau khổ là trường dạy yêu thương. Những người đau khổ là những địa chỉ Chúa tìm đến. "Không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người đau bệnh" (Lc 5,31).
Đau khổ mang biết bao ý nghĩa cao đẹp. Những ý nghĩa đó được Trái tim Chúa dạy ta, nếu chúng ta chấp nhận cũng sống hiền lành và khiêm tốn như Người. Lúc ấy, đau khổ sẽ bỏ được nhiều tính cách khắc nghiệt, nhiều khi còn được an ủi đỡ nâng.
Sau cùng một thứ vất vả gánh nặng của chúng ta, đó là đẩy lùi hận thù, và xây dựng yêu thương hoà bình
3/ Xây dựng yêu thương hoà bình.
Chúng ta là con cái Chúa tình yêu. Chúng ta được sai đi đem yêu thương đến cho mọi người. Chúng ta có sứ vụ xây dựng hoà bình cho cộng đoàn đạo đời của ta.
Việc đó khá phức tạp. Tuy sao, chúng ta vẫn cứ thực hiện bổn phận của mình. Cách thực hiện tốt nhất là chúng ta cậy nhờ Trái tim Chúa.
Trái tim Chúa sẽ huấn luyện trái tim ta nên hiền lành khiêm nhường. Nhờ đó, chúng ta sẽ đón nhận được những ơn Chúa Thánh Thần cần cho việc xây dựng hoà bình.
Thánh Phaolô viết: "Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22).
Cũng nhờ hiền lành và khiêm nhường, chúng ta cũng sẽ biết cách đối xử với mọi thứ người, như thánh Phaolô dạy: "Hãy chúc lành cho mọi người bắt bớ anh em. Chúc lành chứ đừng nguyền rủa. Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau. Đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan. Đừng lấy ác báo ác. Nhưng chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người" (Rm 12,14-18).
Chúng ta hãy hiền lành và khiêm nhường, để khi chúng ta nói về chân lý, chúng ta cũng sẽ nói một cách khiêm nhường hiền từ, nhất là, để khi chúng ta phục vụ, chúng ta sẽ cố gắng chu toàn bổn phận của mình như người tôi tớ.
Chúng ta không những học nơi Trái tim Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, mà chúng ta còn dâng mình ta cho Trái tim Chúa. Qua sự dâng mình này, chúng ta xin Chúa cho trái tim ta, được đầy tình yêu Chúa.
Đạo đức đang xuống dốc một cách trầm trọng. Chúa muốn thanh luyện chúng ta. Chúng ta hãy khiêm nhường đón nhận ơn thanh luyện đó, nhờ Trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường.

 

Bùi-Tuần 1104: CÁC MÔN ĐỆ CHÚA VỚI ĐỊA VỊ QUYỀN CHỨC

14-06-2010
+ GB. BÙI TUẦN
 

Đối với mọi tín hữu, được làm con Chúa là một hạnh phúc cao quý. Nhưng không thiếu người coi 14-06-2010 Bùi-Tuần 1104

Đối với mọi tín hữu, được làm con Chúa là một hạnh phúc cao quý. Nhưng không thiếu người coi hạnh phúc đó còn có thể thêm lên, nếu được làm con Chúa với chức nọ tước kia. Chức tước trong đạo là một trách nhiệm, nhưng nhiều khi cũng là một cơn cám dỗ. Địa vị là để phục vụ, nhưng nhiều khi cũng là những quyền lợi gợi nên thèm muốn.
Thực tế đó đã xảy ra từ rất lâu. Ngay khi Chúa Giêsu rao giảng về Nước Trời, một số người thân cận Người cũng đã nghĩ tới việc dành chỗ cao trong đó.
1/ Theo Chúa với suy tính về địa vị
Phúc Âm thánh Matthêu viết: "Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Chúa Giêsu, có các con bà đi theo. Bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà. Bà muốn gì? Bà thưa: Xin Thầy truyền cho hai con đây, một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong Nước Thầy. Đức Giêsu bảo: Các ngươi không biết các ngươi xin gì. Các ngươi có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống không? Họ đáp: Thưa uống nổi. Đức Giêsu bảo: Chén của Thầy, các ngươi sẽ uống. Còn việc ngồn bên hữu bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho. Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được" (Mt 4,21).
Bà mẹ hai môn đệ này là người tốt. Bà vui lòng dâng con cho Chúa. Nhưng trong tâm tình dâng hiến, bà vẫn tưởng các con bà cũng nên có được những địa vị đặc biệt. Xem ra hai con bà cũng đã không nghĩ khác, nên đã cùng theo mẹ mình đến xin chỗ ngồi đặc biệt. Mà hai môn đệ này là những người đã được Chúa chọn và được Chúa gọi cách riêng (x. Mt 4,21).
Điều này chứng tỏ những người được Chúa gọi vẫn mang theo mình những tính tình, khuynh hướng nhân loại của mình. Ơn gọi không xoá đi con người cũ. Con người cũ được kêu gọi đổi mới. Việc đổi mới là một quá trình đào tạo. Đào tạo phải kiên trì, không lúc nào được coi là hoàn chỉnh.
Phúc Âm thánh Luca cho thấy sự yếu đuối về vấn đề địa vị là một sự kiện không riêng của ai, mà là của chung các môn đệ Chúa. Cả khi nghe Thầy mình sắp bị nạn, các môn đệ vẫn còn nghĩ đến chuyện ngồi trên ngồi dưới. Phúc Âm kể: "Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời...
Các ông chợt suy nghĩ tự hỏi xem ai là người lớn nhất trong các ông. Đức Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng. Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ bé nhất trong tất cả anh em, thì kẻ đó là người lớn nhất" (Lc 9,44-48).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho thấy: Tham vọng về địa vị là chung tập thể. Thời gian xảy ra tham vọng là vừa lúc nghe Thầy báo cuộc tử nạn đang tới. Tình tiết trên đây cho thấy khuynh hướng tìm địa vị nơi các môn đệ là rất mạnh.
Khuynh hướng tìm địa vị không hợp với ơn gọi. Nó lại rất nặng nề. Chúa đã thanh luyện các môn đệ cho khỏi khuynh hướng đó. Bằng cách nào?
2/ Chúa thanh luyện các môn đệ
Trước hết, Chúa từ chối đòi hỏi của khuynh hướng đó một cách dứt khoát. Người nói thẳng, nói rõ. Khi vừa thấy khuynh hướng đó nổi lên, Người liền dẹp ngay lập tức. Người không để mình bị những khuynh hướng xấu đó của các môn đệ gây áp lực với Người. Tính cách triệt để của Người đã giúp cho các môn đệ mau thức tỉnh.
Tiếp đến là những lời khuyên răn của Chúa. Để giúp các môn đệ hiểu bản chất người theo Chúa, Chúa đưa ra một số hình ảnh, như người uống chén đắng (Mt 20,20), như em bé khó nghèo (Lc 9,48), như người tôi tớ phục vụ (Lc 22,26). Những hình ảnh đó gợi lại lời cốt lõi Chúa hay nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24).
Các môn đệ khó từ bỏ tham vọng địa vị, chức quyền. Biết thế, Chúa Giêsu thanh luyện họ không phải chỉ bằng thái độ và lời nói, mà còn bằng chính đời sống gương sáng của Người. Đời sống của Người được thánh Phaolô mô tả như sau: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá" (Pl 2,6-8).
Sau cùng, để đào tạo và thanh luyện các môn đệ, Chúa Giêsu đã chia sẻ cho họ thân phận đau khổ của Người. Các môn đệ lần lượt được đón nhận vào mình cuộc thương khó của Chúa. Các ngài nhờ đó mới nhận ra rằng: Vinh quang của các ngài là được nên giống Thầy mình ở chỗ dâng mình làm của lễ cứu độ cho nhân loại trên thánh giá, chứ không phải ở chức này, địa vị nọ.
3/ Tình hình hiện nay
Xưa, địa vị chức quyền đã là cơn cám dỗ đối với các tông đồ Chúa. Nay, cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng hoạt động trong Hội Thánh, nơi mạnh nơi yếu.
Cơn cám dỗ ấy được thể hiện dưới nhiều hình thức. Như chức tước trong đạo được tâng bốc lên một thế giới thần thiêng, nắm đặc quyền đặc lợi. Tâng bốc nhiều khi quá mức. Rồi, như vận động, đấu tranh, thủ đoạn, giả hình để được lên chức. Như lợi dụng chức tước để tìm tư lợi. Có nơi ơn gọi trở thành bậc thang thăng tiến xã hội. Công bằng mà nói: chính cộng đoàn và xã hội cũng nhiều khi góp phần vào cơn cám dỗ.
Để bảo vệ Hội Thánh, Chúa không ngừng thanh luyện. Thanh luyện từ cơ chế, đến não trạng, thói quen của từng cá nhân. Thanh luyện nào cũng gây nên đau đớn.
Trong tiến tình Chúa thanh luyện, rất nhiều môn đệ Chúa đã cộng tác vào việc thanh luyện của Chúa. Nhờ vậy, họ trở nên giống hình ảnh Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhường, làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Cũng nhờ thanh luyện, Hội Thánh thắng được cơn cám dỗ muốn trở thành một quyền lực, nhưng an tâm với sứ vụ là dấu chỉ và là dụng cụ của tình xót thương Chúa cứu độ.

 

Bùi-Tuần 1105: THÁNH LỄ CUỘC ĐỜI 02-07-2010

 + GB. BÙI TUẦN
 

Trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay đang có nhiều thứ lời nói dâng lên Chúa. Có những lời tuyên 02-07-2010 Bùi-Tuần 1105

Trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay đang có nhiều thứ lời nói dâng lên Chúa.
Có những lời tuyên xưng, bằng kinh nguyện, bằng nghi thức và bằng những biểu dương hoành tráng.
Có những lời tạ ơn, bằng tiếng ca, bằng công thức, và bằng những bài kể ra thành tích.
Có những lời khấn xin, bằng những cuộc hành hương, bằng những chuỗi kinh, và bằng những bông hoa, đèn nến.
Sau cùng, có những lời kêu than thảm thiết, hoặc công khai, hoặc âm thầm. Tôi gọi đó là tiếng kêu của đêm tối, tiếng rên khóc của những vết thương, tiếng cầu cứu của những giao tranh mệt mỏi, tiếng gọi của nỗi cô đơn xa vắng.
Trong mọi thứ lời nói ấy, tôi thấy lời kêu than đã thành công nhất trong việc đánh động lòng tôi. Thành công ở chỗ những lời đó đã giúp tôi hướng về Chúa và gần lại con người một cách mãnh liệt. Nói thật là, những lời kêu khóc ấy không phải chỉ thuộc về người khác, mà cũng là của chính tôi. Chính tôi cũng hay dâng lên Chúa những khóc than diễn tả cảnh khốn cùng của mình và của người khác.
Khóc than nói đây không phải là chuyện tình cảm. Cho dù là tình cảm, nó vẫn dựa trên nền tảng Phúc Âm. Một chi tiết của Phúc Âm đã là nền tảng sống động nhất đối với tôi, chính là lời kêu thê thảm của Chúa Giêsu trên thánh giá: "Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con" (Mt 27,46). Cả hai thánh sử Matthêu và Marcô đều ghi lại rằng: Chúa Giêsu đã kêu lời đó lớn tiếng (x. Mt 27,46; Mc 15,34). Chứng tỏ nỗi đau của Chúa Giêsu là cực kỳ ghê gớm.
Suy gẫm việc kêu than trên đây của Chúa Giêsu, tôi cảm nghiệm được mấy ý nghĩa sau đây:
1/ Liên đới với những người khốn khổ
Chúa Giêsu làm chứng Người yêu thương nhân loại bằng nhiều cách. Một trong những cách đó là Người mặc lấy thân phận con người cùng khổ. Không phải chỉ là sống giữa những người đau khổ. Cũng không phải chỉ là thăm viếng họ, an ủi họ. Mà còn là chia sẻ nỗi khổ của họ. Chia sẻ nói đây có nghĩa là cùng chịu khổ như họ.
Tình yêu chia sẻ nỗi khổ ấy là một tình yêu nhưng không. Sự chia sẻ sống động ấy đòi một sự từ bỏ mình một cách tuyệt đối. Với một cái nhìn mới về những người đau khổ. Đó là cái nhìn yêu thương, sẵn sàng phục vụ. Đó là một cái nhìn thấu tận những nhục nhã, những thất vọng, những khốn cùng, những ray rứt chồng chất trong họ.
Chia sẻ này của Chúa Giêsu có giá trị cứu độ. Cứu độ một cách âm thầm kín đáo, nhưng có hiệu quả thiêng liêng cao quý.
Liên đới với những người đau khổ, chia sẻ nỗi đau của những người đau khổ, việc đó đã được Chúa Giêsu thực hiện một cách sống động. Chúa nêu gương cho chúng ta và cho tôi. Nếu, một lúc nào đó, không nén được cơn đau, tôi phải thốt lên: "Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con" thì tôi tin, cơn đau ấy của tôi chính là một lời cầu nguyện. Nó giúp tôi đi theo Chúa Giêsu, trong lãnh vực liên đới với những người đau khổ.
2/ Tín thác trọn vẹn nơi Chúa
Lời kêu than: "Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con" tỏ rõ có một khoảng cách nào đó giữa Cha và Con. Khoảng cách đó là về bản tính loài người nơi Chúa Giêsu. Với khoảng cách đó, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng Cao Cả vô cùng. Ngài không mạc khải cho chúng ta những câu trả lời trực tiếp. Ngài là Thiên Chúa ẩn dật. Chương trình của Người là nhiệm mầu. Con người nhiều khi phải rất khiêm tốn và rất nhẫn nại, nếu cảm thấy như Người vắng mặt. Thánh Gióp kêu than:
"Con kêu lên Chúa, nhưng Chúa không trả lời,
Con trình diện Chúa, nhưng Chúa không để ý.
Con hy vọng hạnh phúc, thế mà vô phước lại tới,
Con đợi ánh sáng, thế mà bóng tối lại tràn" (G 30,20-26).
Nếu gọi được đây là Tin Mừng, thì Tin Mừng đó là một mầu nhiệm bao phủ bởi thinh lặng. Chúa hiện diện một cách thinh lặng trong bóng tối. Nhưng những lương tâm tỉnh thức vẫn có thể tìm được những dấu vết, đủ để tin vào Chúa.
Tin vào Chúa. Phó thác nơi Chúa. Đó là những gì Thiên Chúa đã đào tạo nơi các thánh tổ phụ Abraham, Giacob, Isaac, Moisen và David. Và đó cũng là những gì Chúa mời gọi nơi chúng ta. Càng gặp đau khổ, thì càng cần làm chứng về niềm tin cậy, phó thác nơi Thiên Chúa chúng ta. Sự tín thác của chúng ta trong những cơn đau khổ chính là một cách làm chứng mang nhiều giá trị thiêng liêng có sức cứu độ. "Cha ơi, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).
3/ Thánh lễ cuộc đời
Với những đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn vì mến Chúa Cha và vì thương nhân loại, Chúa Giêsu đã là của lễ cứu chuộc loài người.
Nay, của lễ ấy được diễn tả lại bằng thánh lễ trên bàn thờ, qua những lễ nghi, do các linh mục.
Nay, của lễ ấy cũng được diễn tả lại bằng thánh lễ cuộc đời, qua những đau đớn trong cuộc sống, do bất cứ ai biết chịu đựng cho người khác và với niềm tin.
Nếu tôi không lầm, thì "thánh lễ cuộc đời" đã là một nội dung khá quen thuộc trên nhiều cơ quan truyền thông của Công giáo Việt Nam.
Riêng tôi, tôi ưa đọc và thích viết về hai chiều kích của thánh lễ cuộc đời như đã nói ở trên.
- Một là chiều kích đau khổ liên đới sống động với những người đau khổ.
- Hai là chiều kích đau khổ tín thác nơi Chúa giàu lòng thương xót.
"Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con". Với lời kêu than thảm thiết ấy của Chúa Giêsu, tôi muốn nói lên nỗi đau trong thánh lễ cuộc đời là rất nặng nề, rất ghê gớm. Cuộc đời của bao người trong Hội Thánh Việt Nam và trên Đất Nước Việt Nam này. Đó là một thực tế làm tôi thao thức. Thao thức đồng hành. Cho dù, nhiều khi cô đơn, thao thức ấy vẫn kết hợp với lời kêu than của Chúa Giêsu trên thánh giá: "Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con". Nhờ vậy, thao thức trở thành liên đới và tín thác, như một của lễ thiêng liêng. Tuy chôn vùi, nhưng chứa đầy giá trị có sức cứu độ.

 

Bùi-Tuần 1106: CÔNG GIÁO AN GIANG LÀM CHỨNG CHO CHÚA

 THEO TINH THẦN HAI THÁNH TỬ ĐẠO CỦA AN GIANG 02-07-2010
 + GB. BÙI TUẦN
 

Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng đã hoạt động tôn giáo tại An: 02-07-2010 Bùi-Tuần 1106

Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng đã hoạt động tôn giáo tại An Giang. Hai ngài đã chết vì đạo tại An Giang. Tới nay là 151 năm (31-7-1859 / 31-7-2010).
Hai thánh đã sống và chết, để đáp lại một ơn gọi. Chúa gọi các ngài hãy là những hạt lúa gieo vào An Giang và hãy chết trong lòng đất An Giang.
Chúa Giêsu phán: "Thật, Thầy bảo thật các con. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Đúng là hai thánh đã sinh ra nhiều hạt lúa mới làm nên một cánh đồng bát ngát Tin Mừng.
Cánh đồng này là cách sống đạo nhẹ nhàng mà phong phú. Nếu mỗi giáo đoàn thường có những nét riêng, thì Công giáo An Giang cũng có vài nét riêng, nhờ hai thánh An Giang để lại.
1/ Nét riêng thứ nhất là sự gần gũi đậm tình gia đình giữa linh mục và giáo dân
Đang khi nhiều giáo đoàn địa phương khác bảo vệ khoảng cách cơ chế giữa linh mục và giáo dân, thì Công giáo An Giang lại phát triển tinh thần gia đình giữa mọi thành phần trong cộng đoàn, đặc biệt là giữa linh mục và giáo dân.
Sự kiện này có vẻ không mới. Vì thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Galata thế này: "Bất cứ ai trong anh em đã được thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Tất cả, không phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô" (Gl 3,27).
Thánh Phaolô kêu gọi sự hiệp nhất nhân danh phép Rửa tội. Còn sự yêu thương, gần gũi, hiệp nhất của Công giáo An Giang thì không chỉ do phép Rửa, mà còn do tình hình truyền thống. Nếp sống gia đình gần gũi giữa linh mục và giáo dân được phát triển, nhờ gương hai thánh tử đạo An Giang. Thánh Quý là linh mục, thánh Phụng là giáo dân. Hai đấng sống với nhau trong tình thương cha con thân thiết. Sống nhờ nhau. Chết bên nhau.
2. Nét riêng thứ hai là liên hệ tốt với các tôn giáo bạn
Hai thánh chịu chết là vì lệnh triều đình. Chứ các ngài không hề có mâu thuẫn nào với tôn giáo bạn. Không những thế, giữa các ngài và các tín đồ tôn giáo bạn luôn có liên hệ tốt. Rất nhiều người ngoài công giáo đã tỏ lòng xót xa trước cái chết của các ngài.
Liên hệ tốt đó nay đang phát triển trong Công giáo An Giang. An Giang hiện có nhiều tôn giáo. Đặc biệt là Phật giáo Hoà Hảo, Phật giáo, Cao Đài, Tin Lành, Hồi giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Công giáo. Liên hệ của công giáo với các tôn giáo bạn luôn được xây dựng trên nền tảng đạo đức nghĩa tình.
Đã có nhiều người ngoài công giáo tham gia vào các đoàn thể công giáo. Thậm chí đã có chùa dựng bàn thờ kính Đức Mẹ.
Tiếp xúc với các tôn giáo bạn, chúng tôi nhiều khi khám phá thấy những giá trị không ngờ. Người ngoại đạo Samaritanô trước nạn nhân bị cướp trấn lột nằm vệ đường đã nhân ái hơn các tư tế đạo Chúa (x. Lc 10,29). Dụ ngôn đó cũng xảy ra tại nhiều nơi hiện giờ.
3/ Nét riêng thứ ba là sự hài hoà giữa đời và đạo
Hai thánh của An Giang đã không vâng lệnh vua bắt bỏ đạo. Còn bao nhiêu việc khác, thì các ngài vẫn vâng phục. thánh Phaolô khuyên các giáo đoàn: "Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa" (Rm 13,1).
An Giang có 4 dân tộc chính: Người Kinh, người Khơme, người Chăm, người Hoa. Các dân tộc sống chung với nhau. Đời sống chung ấy rất hài hoà. Các dân tộc ấy và chính quyền cùng lo xây dựng một Đất Nước Việt Nam hoà bình, công bình, thịnh vượng.
Để có hoà bình, công bình, thịnh vượng, công giáo đóng góp phần mình về mọi mặt. Nhất là về mặt tâm linh.
Những giá trị tâm linh phủ khắp miền đất An Giang. Những giá trị tâm linh ấy không những được diễn tả rộng rãi ở việc đọc kinh, giữ chay, tu thân, từ thiện, mà cũng ở sự tin tưởng vào những Đấng thiêng liêng vô hình. Những giá trị tâm linh ấy làm nên một chiều kích thiêng liêng đào tạo lương tâm mỗi người An Giang. Công giáo làm chứng chiều kích thiêng liêng ấy là một yếu tố không thể thiếu của hạnh phúc con người và phục hưng đất nước. Thiết tưởng hai thánh sẽ rất hài lòng với cách làm chứng này.

Với ba chiều kích trên đây, Công giáo An Giang cùng với hai thánh đang làm chứng cho Chúa. Với nhiều sáng tạo, con đường làm chứng đã được vạch ra rõ ràng. Kết quả chưa nhiều. Sự thực đó đòi phải có một tấm lòng khiêm tốn, cậy trông vào Chúa, nhất là một đức tin mạnh và một đức ái sống động.
Chúng ta hiểu biết thế nào là mong manh trong lịch sử, nhưng lại vững mạnh trước tôn nhan Chúa.
Dù nhỏ bé, Công giáo An Giang vẫn đi về phía trước. Hy vọng là không nhỏ.

 

Bùi-Tuần 1107: TÌNH YÊU ĐƯỢC THANH LUYỆN 20-07-2010

+ GB. BÙI TUẦN
 

Càng về già và càng bệnh tật, người ta càng cảm thấy rõ điều này là: Mình không nên muốn làm: 20-07-2010 Bùi-Tuần 1107

Càng về già và càng bệnh tật, người ta càng cảm thấy rõ điều này là: Mình không nên muốn làm nhiều, cũng không nên muốn làm vội, nhưng chỉ nên muốn làm những việc nhỏ. Một cách đơn sơ. Một cách bình tĩnh.
Việc làm sẽ giảm đi. Việc làm sẽ chậm lại. Dù muốn dù không, tình trạng hao mòn đó sẽ phải tới.
Tuy nhiên, họ cầu xin Chúa ban cho họ tình yêu đừng bao giờ suy tàn. Chúa không trực tiếp trả lời họ. Nhưng họ cảm nhận được lửa tình yêu trong họ vẫn phát triển và không ngừng được thanh luyện.
1/ Tình yêu được thanh luyện, để càng ngày càng trở nên khiêm nhường hơn
Tình yêu được thanh luyện để trở nên khiêm nhường, trước hết ở chỗ họ cảm nhận được Chúa yêu thương, mặc dù họ yếu đuối.
Càng ngày họ càng cảm thấy lời thánh Phaolô xưa là thích hợp đối với họ: "Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Tôi cảm thấy vui mừng, khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, khi bị bắt bớ ngặt nghèo, vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,9-10). Chính những yếu đuối của họ lại là dịp, để Chúa tỏ hiện lòng thương xót Chúa.
Tình yêu còn được thanh luyện để trở nên khiêm nhường ở chỗ họ nhận ra ý Chúa rất khác ý của họ.
Xưa, một thời Giêrusalem hãnh diện về những huy hoàng của mình. Nhưng Chúa Giêsu nhìn thấy, đã khóc thương. Chúa báo trước đền thờ sẽ bị phá "Không hòn đá nào trên hòn đá nào, vì không nhận biết thời giờ được Chúa viếng thăm" (Lc 19,44).
Nay, các công trình của bản thân họ và cộng đoàn của họ có lúc coi như những thành công bền vững như những đền thờ làm sáng danh Chúa. Nhưng Chúa cho họ thấy những thành công ấy có thể sẽ bị phá huỷ tan tành, bởi vì họ đã không đón nhận thánh ý Chúa. Ý Chúa rất khác ý của con người.
Tình yêu còn được thanh luyện, để trở nên khiêm nhường, khi Chúa cho họ thấy phải tôn thờ Chúa hơn tôn thờ bất cứ sự gì thế gian. Thực tế là nhiều lúc họ đã bị lôi cuốn vào nhiều thứ ngẫu tượng. Họ tôn thờ thành công, danh vọng, thú vui, tiền của, và những ngôi sao. Nhưng Chúa giúp họ trở về với Chúa là Chúa Cả mọi loài.
Tình yêu còn được thanh luyện, để nên khiêm nhường, khi Chúa cho họ thấy trái tim họ đôi lúc cũng lệch lạc, hay cứng cỏi, vô tình, hoặc quá nóng vội và phô trương, lợi dụng. Trái tim họ cần được Chúa đốt nóng lên bằng lửa của trái tim Chúa, một thứ lửa trong sáng kiên trì đầy tế nhị và khôn ngoan, vị tha.
Tình yêu cũng được thanh luyện, để trở nên khiêm nhường, khi họ nhận ra rằng: Chỉ có tình yêu vị tha, quên mình mới đúng là tình yêu cứu độ. Do đó, họ chấp nhận được chôn vùi, được mang gánh nặng của người khác, được đền tội riêng mình và đền tội thay cho mọi người Chúa trao phó cho họ.
Chúa phán: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt giống gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,24). Lời Chúa trên đây thanh luyện họ, để họ khiêm tốn chấp nhận mọi hy sinh trên các nẻo đường tình yêu.
2/ Lời Chúa thanh luyện tình yêu của những người Chúa thương
Rõ ràng nhất trong thanh luyện là yếu tố Lời Chúa.
Lời Chúa là nguồn suối chứa đầy sức cứu độ có khả năng tẩy rửa tình yêu chúng ta.
Lời Chúa làm mới lại trái tim ta và trí khôn ta. Nhờ đó, ta sẽ bỏ đi được những kiêu căng, hận thù, chia rẽ. Nhưng sẽ đón nhận được những sáng kiến trong việc phục vụ. Những sáng kiến đó sẽ do Chúa Thánh Thần tác động, luôn hợp với gương đời sống Chúa Giêsu, đồng thời cũng đáp ứng được những nhu cầu thiết thực của thời đại.
"Lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,6). Vì thế, chúng ta bám vào Lời Chúa, nương tựa vào Lời Chúa, chiêm niệm Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa, thực thi Lời Chúa.
Không ai buộc chúng ta phải coi thường những lời của đấng nọ, vị kia. Nhưng, trước hết và trên hết, chúng ta phải tin vào Lời Chúa.
Lời Chúa có một sức mạnh vô hình, mà không lời ai có được. Sức mạnh đó là xua đuổi ác thần. Satan và các ác thần thuộc quyền Satan luôn chống phá Chúa. Thứ chống phá, mà chúng tập trung nhất, chính là chống phá Hội Thánh, để tranh giành con cái Chúa. Vì thế, chúng tìm mọi cách để lôi con người vào đàng tội lỗi, hầu có thể thống trị con người. Có thể nói, điểm mà chúng tấn công mạnh mất, đó là trái tim, trụ sở của tình yêu. Chúng cố làm cho tình yêu con người trở thành nguồn ham muốn những sự xấu, để dần dần biến con người trở thành dụng cụ của chúng, phục vụ cho lực lượng sự ác.
Để chống lại chúng, Chúa cho chúng ta một khí giới, đó là Lời Chúa. Lời Chúa đào xới tâm hồn chúng ta, để ơn thánh Chúa thấm nhập vào mọi cơ năng của chúng ta, khiến chúng ta trở thành đền thờ của Chúa, không còn chỗ cho ác thần xâm nhập.
3/ Cộng tác vào ơn thanh luyện
Chúa thanh luyện tình yêu của ta. Nhưng Chúa vẫn cho chúng ta có tự do. Chúa không áp đặt. Vì thế mà việc chúng ta cộng tác vào ơn Chúa là cần thiết.
Trước hết là biết đón nhận ơn thanh luyện. Khởi đầu ơn thanh luyện là sự ngoan ngoãn vâng phục Chúa. Sự ngoan ngoãn vâng phục ban đầu sẽ tiếp tục mãi trong quá trình thanh luyện.
Để nuôi dưỡng thêm mãi tinh thần vâng phục, chúng ta phải cầu nguyện thực nhiều. Thêm vào đó là sự tỉnh thức mọi lúc. Với sự cầu nguyện và thái độ tỉnh thức, chúng ta sẽ dễ đón nhận được thánh ý Chúa. Chỉ khi chúng ta thực sự thi hành thánh ý Chúa, chúng ta mới thực sự mến Chúa yêu người.
Thiết tưởng sẽ không thừa, nếu nói thêm một yếu tố nữa trong việc cộng tác vào ơn thanh luyện tình yêu, đó là chịu đau khổ cho những người đau khổ, và cùng với những người đau khổ. Những đau khổ như thế của ta, khi kết hợp với đau khổ của Chúa Giêsu trên thánh giá, sẽ là của lễ có sức cứu độ. Nhờ thế, mà tình yêu của ta sẽ trở thành tình yêu dâng hiến, góp phần vào tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu.
Tình yêu dâng hiến có những tâm tình riêng tư. Ta nói với Chúa trong thinh lặng. Chúa nói với ta trong âm thầm. Thầm lặng nhiều khi lại chứa nhiều tình yêu hơn ồn ào náo động.
Nói cho cùng, chỉ có tình yêu đạo đức là cứu độ, đặc biệt là tình yêu khiêm nhường được Chúa thanh luyện, để kết hợp với tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Hiến dâng những của lễ nhỏ, nhưng đặt vào đó rất nhiều tình yêu. Cái nhìn như vậy sẽ giúp cho biết bao người yếu đuối, già cả, bệnh tật, túng nghèo, được an tâm phấn đấu trên đường về với Cha trên trời.

 

Bùi-Tuần 1108: Góp ý với Đại Hội Dân Chúa 04-08-2010

+ GB. BÙI TUẦN
PHÂN HOÁ
 

Hiện tình Hội Thánh Việt Nam có ánh sáng và cũng có bóng tối. Một bóng tối, mà tôi cho là 04-08-2010 Bùi-Tuần 1108

Hiện tình Hội Thánh Việt Nam có ánh sáng và cũng có bóng tối. Một bóng tối, mà tôi cho là nguy hiểm nhất, chính là sự phân hoá.
Sự phân hoá thường xảy ra trong mọi thời. Nhưng nay nó đang trở nên nặng nề và lan rộng.
Nguyên nhân
Mỗi người là một cấu trúc riêng, về sinh lý, tâm lý và tinh thần. Cấu trúc riêng đó làm nên tính tình riêng. Tính tình riêng người này ngả mạnh về khuynh hướng này. Tính tình riêng người kia lại nghiêng chiều về hướng kia. Bá nhân bá tính. Mỗi người có những phần riêng tư của mình.
Ngoài ra, mỗi người là một lịch sử. Một lịch sử, mà nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều mang theo những biến cố riêng. Mỗi biến cố đều để lại dấu vết, gây nên những chuyển biến trong con người, từ tình cảm đến tư tưởng. Với những chuyển biến đó, lịch sử của từng giai đoạn tác động không ngừng đến toàn thể con người từ sức khoẻ thể xác, đến sức khoẻ tâm linh, làm nên một động lực riêng.
Hơn nữa, nền giáo dục, phong hoá và nếp sống của tập thể hoặc giai cấp cũng ảnh hưởng nhiều đến tư duy của mỗi người, khiến họ có thể có những chọn lựa riêng, không giống những  người khác.
Chính nhu cầu sống của mỗi người cũng thường phát sinh ra những tình cảm, ước muốn và tư tưởng riêng. Thí dụ để sống thì phải đấu tranh. Để đấu tranh có hiệu quả, thì phải phe phái, mưu cơ, đôi khi cần có lãnh tụ. Do đó mà họ có những chủ trương, đường lối riêng.
Trên đây chỉ là tóm lược rất vắn một số nguyên nhân thường dẫn tới phân hoá trong cộng đoàn.
Bây giờ, với cái khung đó, chúng ta nhìn vào Hội Thánh Việt Nam.
Chúng ta thấy mỗi miền Bắc, Trung, Nam đều có những nét riêng. Cũng thế, mỗi giáo phận cũng có những nét riêng. Nói bạo một chút, thì mỗi giáo xứ cũng có những nét riêng. Mỗi tổ chức, mỗi nhóm cũng có những nét riêng. Mỗi nơi có lịch sử riêng của mình, với những hoàn cảnh riêng, với những nhu cầu riêng, với những tập quán riêng.
Nếu những nét riêng đó là những màu sắc đẹp, bổ túc cho nhau, thì bộ mặt Hội Thánh Việt Nam sẽ rất rạng rỡ. Nhưng nếu xảy ra trường hợp những nét riêng đó quay ra chọi nhau, thậm chí tìm loại trừ nhau, thì đó là phân hoá.
Phân hoá càng sẽ trở nên trầm trọng, khi nó đưa đến những hậu quả xấu.
Hậu quả xấu
- Phân hoá dễ gây nên hoang mang. Rất nhiều người đau xót, không biết đâu là đúng, đâu là sai. Đau xót đôi khi dẫn tới chán nản.
- Phân hoá dễ làm cớ cho nhiều người giảm lòng tin đối với các đấng bậc giữ trách  nhiệm soi sáng cho đoàn chiên.
- Phân hoá dễ phát sinh những làn sóng ngầm độc hại. Khi dư luận để tự do trôi nổi, tình hình sẽ dễ bị những người cơ hội, thủ đoạn lợi dụng. Những ai nông nổi sẽ dễ bị lôi cuốn vào đủ thứ suy đoán và bịa đặt.
- Phân hoá làm cho nhiều người mất phương hướng, nhất là mất sự bình an tâm hồn. Họ không còn tập trung vào bổn phận, mà lại chạy theo những tiên tri giả, những thầy dạy giả.
- Phân hoá cản trở việc rao giảng Tin Mừng. Bôi lọ nhau, kết án nhau, loại trừ nhau nơi những người đạo Chúa, đó có phải là dấu chỉ của Tin Mừng hay là phản Tin Mừng?
- Phân hoá ở cấp cao dù chỉ là theo dư luận đồn thổi, sẽ làm cho uy tín của Hội đồng Giám mục Việt Nam bị giảm sút. Vị trí của Hội Thánh trong nước bị rớt xuống một cách thê thảm.
- Phân hoá nguy hiểm nhất không phải là phân hoá trong lãnh vực chính trị, mà là phân hoá trong lãnh vực đạo đức.
Báo động
Đang khi nhiều người vốn nhìn Hội Thánh Việt Nam là Hội Thánh của Đức Giêsu Kitô, thì cũng nhiều người lại nhìn Hội Thánh Việt Nam là Hội Thánh của nhân vật này, nhân vật kia.
Đang khi nhiều người luôn xây dựng đời sống đạo trên nền tảng Phúc Âm, thần học, Công đồng, giáo luật, thì cũng nhiều người lại xây dựng đời sống đạo một cách tuỳ tiện theo ý riêng mình, dựa trên những ý kiến của phe này  nhóm nọ.
Đang khi nhiều  người coi đời sống nội tâm là cần thiết, thì cũng nhiều người lại bỏ đời sống nội tâm, để chạy theo đời sống bên ngoài một cách mù quáng.
Đang khi nhiều người vốn tu thân theo con đường tu đức Phúc Âm, sống sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Chúa, thì cũng nhiều người đang biến đời tu thành một lối sống hưởng thụ, buông thả.
Khi đạo đức đã xuống dốc, thì sự phân hoá sẽ nảy nở mạnh trong đời sống đức tin, đời sống luân lý, đời sống tu trì.
Kinh nghiệm của các nước công giáo lâu năm cho thấy: Khi đạo đức xuống là lúc các thứ giáo phái sai lạc, các phong trào xấu, các thứ chủ nghĩa thế tục tràn vào nội bộ Hội Thánh. Nếu chính lúc đó, hàng giáo phẩm và giáo sĩ lại suy giảm uy tín, thì Hội Thánh sẽ bị phân hoá dữ dội. Chẳng cần chính quyền nào bắt bớ Hội Thánh, mà chính nội bộ Hội Thánh sẽ bắt bớ Hội Thánh.
Ước mong
Vì thế, ước mong tha thiết mà tôi xin gởi tới Đại Hội Dân Chúa là hết sức tránh nảy sinh thêm những phân hoá mới, trái lại hết sức chỉnh đốn lại đời sống đạo đức trong Hội Thánh Việt Nam, nhờ đó, mà bớt đi những phân hoá tai hại.
Hội Thánh Việt Nam chúng ta rất cần tái-Phúc-Âm hoá. Việc đào tạo những người đào tạo phải chăng là một vấn đề ưu tiên cho chương trình tái-Phúc-Âm hoá, để có thể cộng tác với Chúa Thánh Thần một cách có hiệu quả.

 

Bùi-Tuần 1109: SUY NGHĨ VỀ CHIỀU KÍCH TÂM LINIH 02-09-2010

+ GB. BÙI TUẦN
Nhân lễ Quốc Khánh SUY NGHĨ VỀ CHIỀU KÍCH TÂM LINIH
 

Năm nay, lễ Quốc Khánh được tổ chức trọng thể khác thường. Thời gian mừng không chỉ ngày: 02-09-2010 Bùi-Tuần 1109

Năm nay, lễ Quốc Khánh được tổ chức trọng thể khác thường. Thời gian mừng không chỉ ngày lễ, mà còn trước lễ và sau lễ. Chương trình mừng rất đa dạng. Điều khiến tôi để tâm suy nghĩ nhiều nhất trong dịp trọng đại này là chiều kích tâm linh.
1/ Chiều kích tâm linh
Bầu khí lễ, dù với hương sắc nào, vẫn có một cái gì đó được gọi là linh thiêng.
Linh thiêng ở chỗ phần đông tưởng nhớ tới tổ tiên và những người đã có công dựng Nước, và bảo vệ Nước. Tưởng nhớ này rất sâu. Họ như đối diện với các hồn những người đã khuất. Như tin rằng các hồn ở cõi bên kia, vẫn thấy được tâm tình con cháu mình đang sống. Họ như cảm được niềm vui của các hồn trước những thành tựu của thế hệ đi sau.
Linh thiêng ở chỗ phần đông hướng về hồn Đất Nước. Sông núi như có hồn. Hồn Đất Nước như thiêng liêng và hũng vĩ, đùm bọc chở che, lắng nghe và khen thưởng.
Linh thiêng ở chỗ phần đông cảm nhận được tình nghĩa giữa đồng bào là linh thiêng quý báu. Tình nghĩa ấy bắt đầu từ những cội nguồn thần thánh, trải qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm nghi ngút khói hương, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những tâm tình thờ tự, khấn cầu và đạo lý.
Linh thiêng ở chỗ phần đông được thúc đẩy bởi động cơ đạo Hiếu. Hiếu với tổ tiên và những ân nhân, trung với Đất Nước và đồng bào, đó là những giá trị cao cả như từ trên ban xuống.
Linh thiêng ở chỗ phần đông ý thức được vấn đề trách nhiệm và danh dự. Trách nhiệm cống hiến, đáp đền. Danh dự được phục vụ, hy sinh.
Những yếu tố linh thiêng trên đây dễ gây nên cảm xúc. Cảm xúc tác động đến phán đoán. Rồi đưa tới ước muốn và chọn lựa. Chọn lựa đúng đắn nhất sẽ là một lý tưởng. Lý tưởng ấy là một niềm tin chan chứa tình thương đối với Tổ Quốc và đồng bào.
Tất cả những linh thiêng nói trên đều góp phần làm nên chiều kích tâm linh.
Chiều kích tâm linh này, dù gọi được là một tín ngưỡng hay không, nó vẫn giúp nhiều người có một lẽ sống. Cuộc sống của họ trở nên cao thượng với những dấn thân chan hoà.
Suốt thời gian dài mừng Quốc Khánh, các phương tiện truyền thông đều đồng loạt phổ biến những dấn thân đủ loại dành cho lớp người nghèo túng, bệnh tật, cô đơn.
Các việc từ thiện được kể như mảng thời sự làm đẹp lễ Quốc Khánh. Thời sự ấy được coi như thước đo chiều kích tâm linh của từng cá nhân, từng đoàn thể, từng địa phương. Chính chế độ chính trị cũng được đánh giá theo thước đo chiều kích tâm linh ấy.
Tâm thức quần chúng coi chiều kích tâm linh là một yếu tố quan trọng cần thiết của con người Việt Nam. Tâm lý ấy càng trân trọng mến yêu những nhân vật lãnh đạo nào có chiều kích tâm linh toả sáng.
Với một thoáng nhìn trên đây, chúng ta đánh giá chiều kích tâm linh của dân tộc ta là một gia tài quý giá.
Gia tài đó sẽ tồn tại mãi, chúng ta ước mong như vậy. Chúng ta nuôi hy vọng, nhưng cũng cần tỉnh táo. Điều chắc chắn sẽ xảy ra, đó là sẽ có nhiều thử thách.
2/ Thử thách đe doạ chiều kích tâm linh
Những thử thách đe doạ chiều kích tâm linh phải kể là nhiều và mạnh.
Trước hết chúng đến từ ngoài bờ cõi. Bờ cõi bây giờ chỉ là ranh giới địa lý, chứ đâu còn là ranh giới của các nền văn hoá, các trào lưu tư tưởng và các lối sống. Thực tế là bờ cõi nước ta đang mở rộng, để các luồng văn hoá tư tưởng đủ loại nhập vào. Một số các luồng văn hoá tư tưởng đó đang tập trung vào cuộc sống hưởng thụ.
Hưởng thụ khi trở thành lẽ sống, sẽ dễ đi vào chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi.
Chủ nghĩa cá nhân gây nên nhiều xung đột với gia đình, cộng đoàn và xã hội. Những xung đột này sẽ rất nguy hiểm, khi cá nhân nhắm tới mục đích tìm lợi ích riêng cho riêng mình bằng những bất công và giả dối.
Khi mục đích hưởng thụ lấn át mục đích phục vụ, nó sẽ không ngại phá hoại các giá trị cao quý về đạo đức.
Từ đó, sẽ nảy sinh ra khuynh hướng thực dụng. Cái gì có lợi trước mắt cho mục đích hưởng thụ, đều được chạy theo, nắm bắt, bất kể cái lợi trước mắt đó có hại cho đạo đức hay không.
Hưởng thụ nói đây tìm sung sướng vật chất. Một cuộc đời cốt tìm sung sướng đó sẽ không chấp nhận những giao tranh khổ cực, mà đạo đức đòi hỏi.
Phong trào khuyến khích hưởng thụ đang tràn vào Việt Nam một cách dễ dàng. Hơn nữa, nó lại đang được đón nhận với nhiều điều kiện thuận lợi. Đó là một thử thách lớn cho chiều kích tâm linh của dân tộc.
Ngoài thử thách từ ngoài, còn có thử thách từ trong. Đó là lãng quên quá khứ.
Quá khứ của dân tộc dày đặc những gian khổ. Những ai đã từng trải qua những gian khổ đó đều coi chiều kích tâm linh gian khổ của dân tộc là một yếu tố cần thiết, để không mất Nước và đánh mất chính mình.
Nhưng, khi đời sống hôm nay đã nhàn hạ, thì người ta dễ quên đi quá khứ gian khổ. Nhất là những ai chưa hề biết quá khứ đó trên thực tế, mà chỉ biết sơ sơ trên sách vở, họ sẽ chẳng có gì để quên. Số những người như thế có thể sẽ tăng dần. Do đó, sự lãng quên quá khứ sẽ trở thành một thử thách lớn.
Sự lãng quên quá khứ sẽ dẫn tới sự đứt đoạn với quá khứ, hoặc đoạn tuyệt với quá khứ. Mà nếu thực sự sẽ xảy ra như vậy, thì sớm muộn những giá trị đạo đức làm nên chiều kích tâm linh của dân tộc sẽ chỉ còn là những tài liệu trong thư viện mà thôi.
Nói tóm lại, nếu chẳng may, sự suy thoái và băng hoại đạo đức trở nên bình thường, thì vận mệnh của dân tộc sẽ mãi là nỗi lo âu của nhiều tâm hồn yêu nước thương nòi.
Cũng vì thế, mà khi lễ Quốc Khánh được coi như dịp để tôn vinh và chỉnh đốn đạo đức, thì những hy vọng chính đáng sẽ được thắp sáng lên, tạo nên được một sức sống mới đầy hứa hẹn.

 

Bùi-Tuần 1110: NÂNG TÂM HỒN LÊN VỚI CHÚA 12-09-2010

  + GB. BÙI TUẦN
 

Nâng tâm hồn lên với Chúa, đó là một việc đạo đức rút ra từ Kinh Thánh, từ thánh lễ : 12-09-2010 Bùi-Tuần 1110:

Nâng tâm hồn lên với Chúa, đó là một việc đạo đức rút ra từ Kinh Thánh, từ thánh lễ và từ linh đạo.
Việc đạo đức này vốn được nhiều người thực hiện trong Hội Thánh. Tại Việt Nam, nhiều nhóm cầu nguyện đã chọn việc đạo đức đó như hành trang, để biết tiếp tục hành hương trên cuộc đời chìm nổi.
Trong tinh thần hiệp thông, họ xin chia sẻ một số kinh nghiệm của họ về việc đạo đức đó.
1/ Trút bỏ
Khi họ dùng đức tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần nâng tâm hồn mình lên với Chúa, họ cảm thấy dần dần một sự biến đổi sâu sắc xảy ra trong họ, đó là sự trút bỏ.
Họ trút bỏ các tội lỗi, nhất là các tội trọng và những tội nhẹ cố tình.
Họ trút bỏ các thứ đam mê, như mê tiền bạc, danh vọng, khoái lạc thấp hèn.
Họ trút bỏ tất cả những gì cản ngăn họ dấn thân yêu mến Chúa, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn.
Sự trút bỏ càng dựa vào ơn Chúa Thánh Thần, càng cho tâm hồn thấy cái tôi của mình đầy những bóng tối, những gánh nặng, do bao nhiêu thứ xấu xa chồng chất. Họ như bị chìm trong bãi bùn lầy. Họ được Chúa kéo lên.
Sự trút bỏ lúc ấy được thực hiện trong sự bình an của Chúa, một sự bình an đầy tâm tình cảm tạ khiêm tốn. Tuy trong bình an, việc trút bỏ vẫn đi đôi với sự ăn năn sám hối. Ăn năn sám hối này dâng trào lên lòng yêu mến và gắn bó thiết tha.
Tâm tình ăn năn và sám hối thường dừng lại ở những gì đã lỗi lầm thiếu sót trong trách nhiệm phục vụ, mà Chúa đã trao phó cho họ.
Lỗi lầm nhất là, khi thi hành trách nhiệm phục vụ, họ đã theo ý riêng mình hơn là thực thi ý Chúa.
Thiếu sót nhất là, khi làm việc bổn phận, họ chưa hết sức lo kết hợp mật thiết với Chúa như ngành cây với thân cây. Cũng là thiếu sót lớn, khi họ để mình trôi dạt trong cuộc sống ồn ào bên ngoài, mà lơ là đời sống nội tâm.
Những trút bỏ trên đây đã xảy ra không cùng một lúc. Khi thì nổi bật chi tiết này, khi thì nhấn mạnh đến chi tiết kia. Trút bỏ là công việc thường xuyên, bao quát từ bên trong nội tâm đến hoạt động bên ngoài.
Tuy được ơn Chúa, con người có những trút bỏ, vẫn phải phấn đấu một cách tỉnh táo cả bên trong lẫn bên ngoài. Ngoài sự trút bỏ cái tôi của con người cũ, việc nâng tâm hồn lên với Chúa còn giúp nhiều người biết vác thánh giá đời mình.
2/ Vác thánh giá đời mình
Gọi là thánh giá đời mình tất cả những gì là nặng nhọc trong cuộc đời mình. Xin tạm kể ra một số gánh nặng rất dễ nhận ra:
Gánh nặng là những yếu đuối và những giới hạn của mình. Mình không muốn mang chúng vào mình, nhưng chúng cứ bám chặt lấy mình. Mình phải phấn đấu để vượt qua, hoặc để chịu đựng.
Gánh nặng là những bệnh tật, đau yếu, những thiếu thốn, những nghịch cảnh. Chúng cản trở, đôi khi tàn phá sự ổn định của mình vốn đã mong manh.
Gánh nặng là những khác biệt không thích hợp, gây khó chịu và đụng chạm trong đời sống chung.
Gánh nặng là những suy thoái về đạo đức xảy ra ở nơi này nơi nọ, trong đạo ngoài đời. Chúng đe doạ sự tồn vong của Hội Thánh và quê hương đất nước.
Gánh nặng là những mệt mỏi trên cuộc sống luôn phải tranh đấu cho sự thiện và đẩy lùi sự ác đến từ nhiều phía.
Gánh nặng là những vất vả để chu toàn bổn phận một người có trách nhiệm. Trách nhiệm gồm nhiều thứ, như: An ủi những kẻ buồn phiền, nâng đỡ những người yếu đuối, giải hoà những người tranh chấp, nuôi dưỡng những kẻ đói khát nhất là về mặt thiêng liêng, giải thoát những kẻ lầm lạc...
Gánh nặng là những đau khổ của người khác.
Đời sống nhiều khi đã là một gánh nặng, trách nhiệm lại là một gánh nặng khác thêm vào.
Vác tất cả những gánh nặng vừa kể trên chính là vác thánh giá đời mình.
Khi nâng tâm hồn lên với Chúa, người con Chúa khiêm tốn dâng lên Chúa những thánh giá lớn nhỏ của đời mình. Dần dần, họ cảm thấy mình được nhẹ nhàng. Đau đớn sẽ còn đó, mệt mỏi vẫn không giảm, nhưng họ thấy Chúa chia sẻ với họ. Họ thấy được giá trị của thánh giá đời họ trong chương trình cứu độ. Họ vác thánh giá với rất nhiều tình yêu như của lễ đền tội.
Nhờ nâng tâm hồn lên với Chúa, bao người đã vác được thánh giá đời mình một cách có ý nghĩa.
Sau cùng, nhờ nâng tâm hồn lên với Chúa, người con Chúa đã biết đường đi theo Chúa.
3/ Đi theo Chúa
Đường đi theo Chúa là con đường vâng phục thánh ý Chúa, đón nhận thánh ý Chúa, thi hành thánh ý Chúa.
Khi người con Chúa nâng tâm hồn lên với Chúa, họ không trình bày nhu cầu bằng nhiều lời, nhưng chủ yếu là họ xin Chúa thương điều chỉnh lòng họ, sao cho hợp với ý Chúa, để họ có thể nhận biết được thánh ý Chúa, và có khả năng thực thi thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa chủ yếu tập trung vào đức ái.
Chúa mà họ được gặp, đã tỏ hiện là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Người được họ nhận ra ở sự Chúa yêu thương họ, cứu độ họ, kêu gọi họ, thánh hoá họ, nhất là trong mầu nhiệm thánh giá. Người làm tất cả theo thánh ý khôn ngoan của Người. Họ tín thác nơi Người. Họ cảm nhận chỉ Người là hạnh phúc thực của họ.
Như vậy, việc nâng tâm hồn lên với Chúa đã giúp bao người sống lời Chúa dạy: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Thầy" (Mt 16,24).
Việc nâng tâm hồn lên với Chúa được thực hiện thường xuyên. Có trường hợp trong một thời gian dài. Có trường hợp chỉ trong một thoáng vắn vỏi. Nhưng phải thành một thói quen. Thói quen ấy giúp ta thấy mình dưới thẳm sâu, và gặp Chúa yêu thương cứu chuộc ta trên thánh giá. Từ đó ta không ngừng trở về với Chúa bằng tất cả lòng khiêm nhường vâng phục và yêu mến.

 

Bùi-Tuần 1111: MỘT CÁI NHÌN VỀ CÁC TÔNG ĐỒ 30-09-2010

 + GB. BÙI TUẦN
 

Trong tháng 10 này, các giám mục tại Việt Nam được quan tâm một cách đặc biệt. Bởi vì Đại hội Hội: 30-09-2010 Bùi-Tuần 1111

Trong tháng 10 này, các giám mục tại Việt Nam được quan tâm một cách đặc biệt. Bởi vì Đại hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được tổ chức vào một thời điểm quan trọng có nhiều vấn đề bức xúc trong Đạo ngoài Đời. Nhiều cái nhìn khác nhau sẽ làm nảy sinh ra nhiều tính toán khác nhau.
Tình thế rất phức tạp. Suy đoán dễ sai lầm. Vì thế, nên bình tĩnh dựa vào một nền tảng chắc chắn, để nhìn và để ước mơ nơi các người kế vị các thánh tông đồ.
Nền tảng chắc chắn sẽ tìm trong Phúc Âm. Ở đây, xin trích Phúc Âm thánh Marcô.
"Rồi Chúa Giêsu lên núi, và gọi đến Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người.
"Người lập Nhóm Mười Hai. Để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ" (Mc 3,13-15).
Cách chọn nhóm Mười Hai
Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai cách nào?
Thưa một cách trang trọng.
Trang trọng trước hết ở chỗ Chúa Giêsu tách 12 người Chúa chọn ra khỏi đám đông. Phúc Âm tả đám đông đó thế này: "Từ miền Galilê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giuđê, từ Giêrusalem, từ xứ Samaria, từ vùng bên kia sông Giođan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xiđon, người ta lũ lượt đến với Người" (Mc 3,7-8).
Đám đông như vừa kể được hiểu là rất nhiệt tình, từ khắp nơi, gồm nhiều khác biệt. Đám đông ấy rất xô bồ. Họ là một số nhiều phức tạp. Có thể số đông ấy là mấy ngàn người. Từ đám đông ấy, Chúa tách ra 12 người. Chúa tách ra một nhóm rất nhỏ. Họ là "những kẻ Người muốn" (Mc 3,13). Họ được tách ra từ đám đông và trước mặt đám đông. Đó là một cử chỉ trang trọng.
Trang trọng đó được thêm lên bởi một cử chỉ trang trọng khác, đó là Người gọi tên từng người được chọn "Và các ông đến với Người" (Mc 3,13). Các ông đến với Chúa, tức là các ông bước ra khỏi đám đông, đến với Chúa và đứng ở cạnh bên Chúa.
Mục đích Chúa chọn Nhóm Mười Hai
Chúa Giêsu chọn Nhóm Mười Hai đó, vì mục đích gì?
Phúc Âm nói rõ vì hai mục đích:
- "để các ông ở với Người".
- "để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ" (Mc 3,14).
Mục đích thứ nhất là "để các ông ở với Người". Ở với Chúa không chỉ là hiệp thông với Chúa bằng trí khôn, mà là sống thân mật bên cạnh Người. Như những người bạn, như những người đồng hành, như những người chia sẻ mọi thăng trầm cuộc sống của Chúa, như những người cảm thông được mọi ý định của Chúa.
"Ở với Chúa" một cách thân mật như thế sẽ không chỉ nhấn mạnh đến những gì Chúa dạy, mà còn quan tâm đến nếp sống thường ngày của Chúa. Như cách Người sống khó nghèo, cách Người nguyện cầu tín thác, cách Người phục vụ với tấm lòng hiền lành khiêm nhường, yêu thương tha thứ.
Tất cả cuộc sống "ở với Chúa" sẽ là một kinh nghiệm bản thân, riêng tư, sống động. Chính kinh nghiệm ấy sẽ được các tông đồ rao giảng.
Mục đích thứ hai là để "Người sai các ông đi rao giảng" (Mc 3,14).
Mục đích thứ hai này gồm hai chi tiết, đó là "để được sai đi" và "đi rao giảng".
Được Chúa sai đi có nghĩa là sáng kiến việc đi rao giảng là do chính Chúa. Chúa sai đi đâu, đi lúc nào, cách nào, phải do chính Chúa.
Rao giảng chủ yếu là rao giảng Đức Kitô, là Đấng mà các ngài đã có kinh nghiệm bản thân. Rao giảng về Nước Thiên Chúa, mà các ngài đã cảm nhận một cách sâu sắc trong suốt đời mình.
Rao giảng Đức Kitô như thế chính là làm chứng về Đức Kitô. Làm chứng bằng kinh nghiệm bản thân của mình.
Làm chứng về Đức Kitô một cách đích thực như thế sẽ kèm theo "việc trừ quỷ" (Mc 3,14).
Việc trừ quỷ, mà Phúc Âm thánh Marcô ghi liền với việc rao giảng, phải hiểu là mọi phấn đấu để xua đuổi tội lỗi.
Các tông đồ Chúa Giêsu gắn liền việc rao giảng với việc phấn đấu chống lại mọi sự ác.
Nhìn vào các Đấng kế vị Nhóm Mười Hai
Trên đây là một thoáng nhìn về Nhóm Mười Hai được Chúa Giêsu thiết lập. Nhóm Mười Hai này được gọi là 12 tông đồ. Kế vị các tông đồ là các giám mục. Các ngài hiệp thông chặt chẽ với Đức Giáo Hoàng, là Đấng đại diện Chúa Giêsu. Các ngài được chọn một cách đặc biệt, để làm việc theo những chức vụ được cắt đặt. Dù với chức vụ nào, các giám mục vẫn luôn muốn mình là những người làm chứng về Đức Kitô và cho Đức Kitô.
Chứng của các ngài chủ yếu rút ra từ Phúc Âm và kinh nghiệm được sống với Chúa Giêsu. Rao giảng của các ngài luôn tập trung vào Đức Kitô. Sự kết hợp với Chúa Giêsu trên thánh giá chính là sức mạnh đẩy lùi tội lỗi và góp phần làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng vào các tâm hồn. Các ngài thành thực nói như thánh Phaolô: "Ước chi tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Gl 6,11).
Làm chứng về Đức Kitô trong những hoàn cảnh thuận lợi vẫn không luôn dễ dàng. Làm chứng về Đức Kitô trong những hoàn cảnh bi đát càng rất khó khăn và đòi nhiều khiêm tốn.
Xưa, trước khi bước vào con đường tử nạn, Đức Kitô đã sợ  hãi, toát mồ hôi máu ra. Người đã cầu nguyện thảm thiết với Đức Chúa Cha: "Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mc 14,36).
Chúa Giêsu đã là như thế. Các tông đồ của Người nhiều khi cũng sẽ phải nguyện cầu như vậy. Các ngài cũng sẽ làm chứng về Đức Kitô bằng sự từ bỏ mình dấn thân vào mầu nhiệm thập giá.
Xin hãy cầu nguyện nhiều cho các ngài. Xin hãy cùng các ngài nói lời tín thác: "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Theo gương Chúa Giêsu, các ngài muốn sống và chết như một của lễ bình an và khiêm nhường trong công trình cứu độ của Chúa Giêsu.

 

Bùi-Tuần 1112: TRƯỚC NHỮNG NGUY HIỂM ĐANG ĐE DOẠ

HỘI THÁNH VIỆT NAM 24-11-2010
 + GB. Bùi Tuần
 

Tỉnh thức là điều mọi người thường có, để tránh các hiểm nguy trên đời. Báo động là điều: 24-11-2010 Bùi-Tuần 1112

Tỉnh thức là điều mọi người thường có, để tránh các hiểm nguy trên đời.
Báo động là điều những người có trách nhiệm phải làm, khi thấy hiểm nguy sắp xảy ra cho cộng đoàn.
Cảnh báo là điều những người thiện chí được lương tâm thúc đẩy nên làm, khi thấy trước hiểm nguy có thể xảy ra cho bất cứ ai.
Dù mang danh nghĩa nào, chia sẻ dưới đây cũng vẫn là một tiếng kêu. Kêu la, kêu than, kêu khóc, kêu cầu trước hiện tình Hội Thánh Việt Nam.
Tiếng kêu trước một tình hình Hội Thánh không có nghĩa là tình hình ấy xấu. Nó chỉ có nghĩa là một tình hình nguy hiểm cần phải hết sức thận trọng trước những đe doạ tàn phá đức tin. Những hiểm nguy đó từ ngoài cũng có, và tự trong cũng có. Xem ra những hiểm nguy từ trong nội bộ lại rất phức tạp, nặng nề. Sự thận trọng, mà tiếng kêu xin được giãi bày ở đây, sẽ vắn gọn ở vài điểm.
1/ Xin quan tâm nhiều hơn đến việc hối cải, trở về với Chúa
Khi Chúa xuống trần, dân Do Thái được lãnh đạo bởi một cấp bậc đạo đức, đó là các vị thượng tế, được nâng đỡ bởi một lớp chuyên viên đạo đức, đó là các biệt phái và các luật sĩ, được che chở bởi một cái khung đạo đức, đó là luật Maisen, được gắn kết lại với nhau bằng những thói tục truyền thống đạo đức, không ai có quyền đụng tới.
Đạo đức đến như thế phải coi là chắc chắc lắm. Thế nhưng, thánh Gioan Baotixita được Chúa sai đi dọn đường cho Chúa Cứu thế, đã nhấn mạnh đến việc sám hối. Chính Chúa Giêsu cũng coi việc rao giảng sự sám hối, đổi mới con người là ưu tiên của sứ vụ cứu đời. Tất cả đều chứng tỏ rằng: Canh tân đạo Chúa phải khởi đi từ việc đổi mới con người với việc hối cải. Cần hối cải, bởi vì Chúa thấy nhiều cơ chế gọi là đạo đức, nhưng thực sự chỉ là đạo đức hình thức; nhiều người gọi là đạo đức, nhưng thực sự chỉ là đạo đức giả; nhiều thói quen gọi là đạo đức, nhưng chỉ là đạo đức vụ lợi phô trương.
Hiểm nguy của đạo thời đó cũng tiềm ẩn trong đạo thời nay. Đó là những thứ đạo đức giả đó đây. Tự hào với những đạo đức giả sẽ không thể có sám hối. Cái gì cũng cho mình là đúng, thì làm sao sám hối được. Đó lại là một nguy cơ dẫn tới diệt vong.
Hiểm nguy rất lớn hiện nay đối với sự sám hối còn là: Nơi nhiều người có sự cứng lòng, sự mất ý thức về tội, và trốn tránh những chân lý sau cùng của đời người.
Hiểm nguy tệ nhất có thể là một nếp sống đạo đón nhận đủ thứ thông tin, nhưng lại không đón nhận thông tin từ Lời Chúa.
2/ Xin quan tâm nhiều hơn đến đời sống nội tâm
Chúa Giêsu, khi nói về đời sống nội tâm, đã nhấn mạnh đến sự gắn bó mật thiết với Người. "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Con người nội tâm gắn bó với Chúa, để thực thi thánh ý Chúa Cha: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Con người nội tâm đón nhận thánh ý Chúa Cha từ Chúa Thánh Thần. "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với các con từ nơi Chúa Cha. Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy" (Ga 15,26).
Khi nói về đời sống nội tâm, thánh Phaolô hay so sánh con người bên ngoài và con người bên trong. "Con người bên trong của chúng ta đổi mới mỗi ngày" (2 Cr, 4,16).
Ngài cũng so sánh con người cũ và con người mới. "Con người mới không ngừng đổi mới theo hình ảnh của Đấng tạo dựng nên nó" (Cl 3,9).
Đời sống nội tâm như vậy là một hành trình tái sinh trong ơn nghĩa Chúa. Nó làm cho con người trở nên con Chúa, có sự sống của Chúa.
Tiếc thay là đời sống nội tâm hiện nay không được quan tâm đúng mức. Phong trào tục hoá đang hoạt động mạnh. Nó được đón nhận trong nhiều cộng đoàn. Nó gây được thiện cảm nơi nhiều người tu. Nó có chỗ đứng cả trong nhiều phụng vụ và bài giảng.
Hiểm nguy là nhiều người có trách nhiệm canh tân Hội Thánh lại không ưa thích đời sống nội tâm, nhưng đổ sức vào những tổ chức bề ngoài. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi còn là Hồng Y, đã viết trong cuốn "Muối của Đất": "Những cải cách hôm nay, sẽ không đến từ những Thượng Hội đồng, cho dù các Thượng Hội đồng có lý do chính đáng để tồn tại, và đôi khi cũng cần thiết, nhưng những cải cách sẽ đến từ những nhân vật có sức thuyết phục, mà chúng ta gọi là những vị thánh".
Các Thượng Hội đồng đã được Đức Thánh Cha nhìn như thế. Phương chi các thứ Đại hội của chúng ta. Ấy thế mà nhiều khi các tổ chức ồn ào lại được chúng ta quá đề cao. Hiểm nguy chính là ở đó.
Nếu không được Chúa hướng dẫn, chúng ta dễ trở thành những người phản chứng.
3/ Xin quan tâm nhiều hơn đến yêu thương bác ái
Những dòng sau cùng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong cuốn "Muối của Đất" đã nhấn mạnh đến tình yêu bác ái. Ngài khuyên những người công giáo hãy là những người biết yêu thương. Họ hãy là hình ảnh sống động của Thiên Chúa tình yêu.
Lời khuyên của Đức Thánh Cha chỉ là tiếng vang vọng của lời Chúa Giêsu: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Yêu thương bác ái là giá trị cần thiết nhất, như lời thánh Phaolô quả quyết: "Giả như tôi có đức tin mạnh đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì" (1 Cr 13,2).
Lý thuyết là như vậy. Còn trên thực tế, phải nhận rằng chúng ta còn nhiều lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực bác ái. Nhiều khi còn thua kém xa những người ngoài công giáo.
Hiểm nguy dễ nhận thấy nhất về bác ái đang đe doạ Hội Thánh Việt Nam là nhiều lỗi lầm thiếu sót về yêu thương đang được bình thường hoá, nhất là sự phân hoá và sự dửng dưng, vô cảm trước cảnh khổ đau của người khác. Thậm chí một số trường hợp, sự độc ác đối với những người khác lại được hợp thức hoá, vì lý do bênh đạo.
Cũng vì thiếu lửa bác ái, nhiều sinh hoạt tôn giáo hiện nay đang trở thành nhàm chán, tẻ nhạt, không những không lôi cuốn được ai đến với Chúa, mà còn gây nên chia rẽ và ác cảm đối với Hội Thánh.
Những cái nhìn trên đây cho phép chúng ta thấy những nguy hiểm là rất lớn. Tuy nhiên, ánh sáng vẫn nhiều hơn bóng tối. Tôi tin Hội Thánh Việt Nam của tôi vẫn luôn được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa sai đi. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời.
+ GM. GB. Bùi Tuần

 

Bùi-Tuần 1113: MÙA VỌNG, NHỮNG DẤU CHỈ DỌN ĐƯỜNG 26-11-2010

 + GB. BÙI TUẦN
 

Mùa Vọng là thời gian mong chờ Chúa Cứu thế. Tâm tình mùa Vọng là cầu nguyện, kêu van: 26-11-2010 Bùi-Tuần 1113

Mùa Vọng là thời gian mong chờ Chúa Cứu thế. Tâm tình mùa Vọng là cầu nguyện, kêu van. Việc đó phải rất chân thành. Ngoài ra, việc làm mùa Vọng còn là bắt chước những việc của các nhân vật quan trọng dọn đường cho Chúa.
Mỗi nhân vật có một việc được đề cao. Có thể coi những việc đó là những dấu chỉ dọn đường cho Chúa đến.
Dưới đây xin kể vắn tắt những việc làm đó.
1. Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Elisabet
Phúc Âm kể: "Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabet" (Lc 1,39-40).
Từ Nadarét là quê Đức Mẹ đến làng Ain-Karim là quê bà Elisabet, đường xa khoảng 150 kilômét.
Đi bộ phải mất 4 ngày 4 đêm.
Đức Mẹ Maria bấy giờ là một cô gái rất trẻ. Sự thường với sức khoẻ của tuổi ấy, Đức Mẹ không dám lên đường. Nhưng Đức Mẹ đã vội vã khởi hành. Sức mạnh nào đã thúc đẩy Maria? Thưa Chúa Thánh Thần.
Cuộc hành trình có 3 giai đoạn: Xuất hành, qua miền núi như qua sa mạc và tới Đất Hứa. Suốt chuyến đi, Mẹ Maria vừa giữ tâm hồn chiêm niệm, vừa ngắm cảnh, vừa vui vẻ chào hỏi những người mình gặp.
Mẹ mang niềm vui có Chúa trong lòng. Niềm vui của Mẹ là được chia sẻ niềm vui ấy, và thấy niềm vui ấy trong ánh mắt và thái độ nơi những người khác.
Vừa gặp bà Elisabet, Mẹ Maria chào bà. Từ lời chào ấy, bà Elisabet cảm nhận được một niềm vui lạ lùng khôn tả.
Mẹ Maria đã trao tặng bà Elisabet niềm vui cứu độ. Chứng tỏ rằng: điều quan trọng trong bác ái không phải là cho đi, mà là cho đi cái gì. Đức Mẹ ở lại nhà bà Elisabet 3 tháng, để chăm sóc cho bà.
Chia sẻ niềm vui cứu độ và làm các việc bác ái, đó là một dấu chỉ dọn đường cho Chúa.
2. Bà Elisabet cảm nhận được ơn thánh hoá
Phúc Âm kể: "Bà Elisabet vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc" (Lc 1,41-42).
Bà Elisabet, khi được ơn Chúa Thánh Thần, đã trở nên con người nhạy bén. Bà cảm thấy những việc thánh hoá Chúa làm, dù những việc đó xảy ra kín đáo. Bà nghiệm được những kỳ công của Chúa, dù những kỳ công đó là do đức tin. Bà nói với Đức Mẹ: "Em thực có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45).
Bà nhận ra những ai là kẻ được Chúa chúc phúc. Đó là Đức Mẹ và con của Đức Mẹ, bản thân bà và con của bà. Bà nhận ra một cách chắc chắn với niềm vui sướng hồn nhiên, khiêm tốn, đầy cảm tạ. Từ đó, bà gợi ý cho Đức Mẹ nói lên lời ca tụng chan chứa niềm hy vọng: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi..." (Lc 1,46-55).
Cảm nhận được ơn thánh hoá của Chúa và chúc tụng Chúa, đó là dấu chỉ dọn đường cho Chúa.
3. Ông Dacaria nói về con trẻ Gioan
Phúc Âm kể: Khi làm phép cắt bì cho con trẻ Gioan, ông Dacaria "được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: ... Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao. Con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người, làm cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội lỗi" (Lc 1,76-77).
Con trẻ Gioan sau này là Gioan Tiền Hô, cũng gọi là Gioan Baotixita. Ngài nổi tiếng về việc hay giảng về tội, như ăn năn tội, chừa tội, rửa tội, đền tội.
Nhưng cũng có một cách khác để nói về việc thánh Gioan dọn đường cho Chúa, đó là Ngài giúp người ta cảm nghiệm được tình Chúa xót thương tha thứ tội lỗi.
Ông Dacaria đã nói về Gioan như một tiên tri về lòng Chúa thứ tha: "Người sẽ cứu độ là tha thứ cho họ hết mọi tội lỗi. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn" (Lc 1,77-78).
Để nếm được ơn tha tội, người ta cần biết mình tội lỗi, mà tội lỗi là cái gì xấu xa tồi tệ. Nhưng khi người ta biết mình và sám hối, Chúa sẽ tha thứ. Thứ tha là niềm vui của Chúa giàu lòng thương xót.
Hơn nữa, Chúa đi tìm người tội lỗi, để tha thứ cho họ. Chỉ cần họ biết đón nhận ơn tha thứ, bằng cách sửa mình và tín thác vào tình yêu Chúa.
Lo việc sám hối và gẫm suy về sự Chúa xót thương tha thứ tội lỗi, đó là dấu chỉ dọn đường cho Chúa.
4. Nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay
Nhìn vào hiện tình Hội Thánh Việt Nam, chúng ta thấy phong trào đón mừng lễ Chúa Giáng sinh là rất rầm rộ.
Rầm rộ, như làm hang đá, trang trí nhà thờ, gửi thiệp chúc mừng, tặng quà Noel.
Chúng ta rất mừng, vì bên cạnh những tổ chức bề ngoài, vẫn có những dấu chỉ dọn đường như nói ở trên, tức là
- chia sẻ Tin Mừng cứu độ và làm việc bác ái dưới nhiều hình thức,
- xưng tụng các việc thánh hoá Chúa đã làm,
- đón nhận sự tha thứ của lòng thương xót Chúa.
Điều cần quan tâm là, hãy làm hết sức để đi vào chiều sâu khi làm ba việc đó.
Đi vào chiều sâu là thực sự có ơn Chúa Thánh Thần trong mình, khi làm bác ái, khi xưng tụng những việc Chúa thánh hoá, khi nói về sự đón nhận ơn Chúa thứ tha.
Đi vào chiều sâu là thực sự có sự sống Thiên Chúa trong mình, khi thực hiện những việc làm có tính cách là dấu chỉ dọn đường cho Chúa.
Sự khiêm nhường và sự nghèo khó là đặc điểm của tình yêu dâng hiến nơi Đức Mẹ Maria, thánh Elisabet và thánh Gioan Tiền Hô. Các người dọn đường cho Chúa sau này cũng vậy.
Tình hình Hội Thánh Việt Nam hôm nay là rất phức tạp. Chúa đang đến để cứu. Người cứu bằng tình yêu khiêm tốn, tự hạ, quên mình. Người đòi sự cộng tác của Hội Thánh. Nếu chúng ta không tỉnh thức đón nhận Người và cách Người giải cứu, thì hậu quả sẽ là tai hoạ khôn lường. Tuy nhiên, chúng ta tin vào sự khôn ngoan của Hàng Giám mục Việt Nam chúng ta.
Xin thân ái cầu chúc cho nhau một mùa Vọng như lòng Chúa mong ước.

 

Bùi-Tuần 1114: Nhân kỷ niệm 45 năm Bế mạc Công đồng Vaticăng II

06-12-2010
+ GB. BÙI TUẦN
 (1965-2010)
Một thoáng nhìn về TINH THẦN CÔNG ĐỒNG VATICĂNG II TẠI VIỆT NAM
 

Công đồng Vaticăng II được nói đến như Công đồng canh tân. Giữa một thế giới sôi nổi nhiều: 06-12-2010 Bùi-Tuần 1114

Công đồng Vaticăng II được nói đến như Công đồng canh tân. Giữa một thế giới sôi nổi nhiều chủ thuyết, Công đồng muốn Hội Thánh đổi mới chính mình, để dễ đối thoại. Hy vọng nhờ đó, Tin Mừng được dễ hiểu và dễ được đón nhận.
Bầu khí canh tân của Công đồng đã làm nảy sinh nhiều phong trào canh tân, như canh tân phụng vụ, canh tân mục vụ, canh tân truyền giáo, canh tân thần học. Đồng thời, nhiều cộng đoàn mới cũng đã mọc lên, với những linh đạo mới.
Để đổi mới chính mình, Hội Thánh quyết tâm trở về Nguồn. Đây là yếu tố hết sức quan trọng mà Công đồng nhấn mạnh. Có trở về Nguồn, thì mới có sức canh tân. Ở đây, chỉ xin nói vắn tắt về mấy dòng sông trở về Nguồn.
1. Trở về Nguồn
a) Phúc Âm: Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu chuộc loài người. Lịch sử Người là lịch sử cứu độ. Mọi lời Người nói, mọi việc Người làm đều có sức cứu độ. Người là đàng, là sự thực, là sự sống và là sự phục sinh. Người là mẫu gương, là thầy dạy, là người chỉ đàng dẫn lối đi về thiên đàng. Người là cửa mà những ai muốn hưởng Nước Trời, phải bước vào. Người là Đấng dâng lễ và là của lễ đền tội thay cho nhân loại.
Bổn phận của chúng ta là yêu mến Đức Kitô, bước theo Đức Kitô, kết hợp mật thiết với Đức Kitô, và ở lại với Đức Kitô.
Đức Giêsu Kitô là nguồn cứu độ duy nhất. Vì thế, Phúc Âm được coi là môn học chính, mà những ai muốn canh tân, phải đào sâu.
b) Toàn bộ Kinh Thánh: Nhưng, để dọn đường cho Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã dùng tất cả những gì được chép trong toàn bộ Kinh Thánh. Vì thế toàn bộ Kinh Thánh được coi là một dòng sông mang sự sống cứu độ phát xuất từ nguồn là Tin Mừng Đức Kitô.
Riêng Cựu Ước là một chuỗi dài mênh mông nói tiên tri về Đức Giêsu Kitô, còn Tân Ước là biến cố ứng nghiệm kho tàng tiên tri của Cựu Ước. Tân Ước giấu mình trong Cựu Ước. Cựu Ước được tỏ mình trong Tân Ước. Tất cả Kinh Thánh đều ăn khớp với nhau, để tập trung vào Đức Giêsu Kitô.
Học hỏi Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là rất phong phú, ơn cứu độ là vô cùng cao quý, Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng được trao ban cho tất cả những ai biết chuẩn bị đón nhận với tâm hồn thức tỉnh và khao khát.
Chính vì vậy, mà Công đồng khuyên nhủ chúng ta phải trở về Nguồn là Kinh Thánh, trong đó Phúc Âm là trung tâm.
c) Truyền thống các giáo phụ: Cũng theo hướng trở về Nguồn, Công đồng tha thiết ước mong chúng ta tìm về truyền thống. Truyền thống nơi đây là các giáo phụ. Các bản văn của các giáo phụ là một dòng sông đầy uy tín chuyển tải đức tin được rao giảng từ các thánh Tông đồ. Thời kỳ các giáo phụ bắt đầu từ đầu thế kỷ thứ nhất cho tới thế kỷ thứ bảy. Những nhân vật nổi tiếng như thánh Clêmentê thành Roma, thánh Inhatiô thành Antiôkia, Justinô, Irênê, Augutinô, đã làm nên thời kỳ xây dựng nối liền thời kỳ nền móng của các thánh Tông đồ. Thời kỳ xây dựng này có một sự liên tục và sự hiệp nhất với thời kỳ các thánh Tông đồ. Nên thời kỳ này được coi như một dòng sông nối kết với đầu Nguồn là Phúc Âm. Bởi thế, trở về Nguồn đòi hỏi phải trở về dòng sông giáo phụ. Tại đó, chúng ta sẽ tìm thấy vô số những điều mới mẻ, làm sáng thêm những chân lý của Phúc Âm.
2. Bộ mặt mới của đức tin theo Công đồng
Nhờ trở về Nguồn, người sống đức tin sẽ được đổi mới. Đức tin của họ có một bộ mặt trẻ trung, trưởng thành.
Bộ mặt đó có những nét đẹp sau đây:
Nó là một hồng ân nhưng không, một quyết định tự do, một dấn thân tự nguyện, một trách nhiệm cao cả, một đồng hành với cuộc đời, một linh đạo có những chọn lựa ưu tiên thích hợp với thời đại.
Nó không lạc quan, không bi quan, nhưng là hy vọng, ngay trong những khủng hoảng và những đổ vỡ coi như tuyệt vọng.
Bộ mặt mới của đức tin theo Công đồng Vaticăng II luôn hướng về tương lai, không tiếc nuối quá khứ, không tìm thu gom những đặc ân.
Bộ mặt mới của đức tin theo Công đồng Vaticăng II có tính cách làm chứng và giới thiệu Tin Mừng.
Bộ mặt mới của đức tin theo Công đồng Vaticăng II có nét can đảm và khiêm nhường. Dám nhìn nhận những sai lầm của mình. Dám chấp nhận những thách đố. Dám công nhận những cái hay của các người ngoài công giáo.
Nói tóm  lại, bộ mặt đức tin theo Công đồng Vaticăng II có nhiều nét đẹp, do đổi mới chính mình trong sức mạnh về Nguồn.
Bây giờ chúng ta thử nhìn vào tình hình Hội Thánh Việt Nam ta. Xem Hội Thánh chúng ta đã chuyển mình theo hướng Công đồng Vaticăng II như thế nào?
3. Nhìn vào Hội Thánh Việt Nam
Thú thực, tôi không là người nghiên cứu. Tôi chỉ xin nói lên cảm tưởng của tôi.
Nhìn chung, tinh thần Công đồng Vaticăng II được nhận thấy khá rõ ở những nét sau đây trong Hội Thánh Việt Nam.
Lời Chúa được suy tôn, được học hỏi nhiều hơn.
Đức Giêsu Kitô trở nên trung tâm nhiều hơn trong phụng vụ và linh đạo.
Lòng quảng đại đối với Hội Thánh được phát triển nhiều hơn dưới nhiều hình thức.
Liên hệ với các tôn giáo bạn được mở rộng hơn.
Những kết quả trên đây thực đáng trân trọng. Tuy nhiên, vẫn còn có những mặt không thích hợp cần khắc phục, thí dụ:
Còn quá đặt nặng việc giữ luật lệ, hình thức, quyền lợi. Đang khi, sống đạo cần đặt nặng việc dấn thân phục vụ.
Còn quá đặt nặng việc làm chứng đức tin bằng những lễ lạy xây cất, tổ chức. Đang khi, việc làm chứng cho đức tin qua đời sống bác ái phải được coi là quan trọng hơn.
Còn quá đặt nặng vinh quang Chúa ở những thành công và quyền lực. Đang khi, vinh quang của Chúa là ở sự thực thi ý Chúa, cho dù thực thi đó đôi khi đòi phải chấp nhận thất bại bề ngoài.
Còn quá đặt nặng vấn đề thắng thua trong sống đạo, đang khi, tinh thần hoà giải, yêu thương, tha thứ lại rất cần để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Những sự không thích hợp kể trên cũng gọi là những yếu kém, sẽ được giải quyết nhờ trở về Nguồn.
Canh tân, đổi mới chính mình, đó là một lời Chúa kêu gọi chúng ta, nhân dịp kỷ niệm Công đồng, nhân dịp Năm Thánh, và nhân dịp Năm Mới.
Đón nhận lời kêu gọi đó, chính là một việc lành cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc loài người.

 

Bùi-Tuần 1115: THÊM NỮA TÌNH YÊU 02-12-2010

+ GB. BÙI TUẦN
 

Noel là lễ mừng Chúa giáng sinh. Dịp này, người ta quen chào chúc nhau. Chào chúc bằng: 02-12-2010 Bùi-Tuần 1115

Noel là lễ mừng Chúa giáng sinh. Dịp này, người ta quen chào chúc nhau. Chào chúc bằng nhiều cách đặc biệt. Mọi cách đó đều chuyển đi tâm tình.
Mỗi người có tâm tình riêng tư. Riêng tôi, tôi gửi một tâm tình đơn sơ, đó là: Chúc nhau biết đón nhận thêm nhiều tình yêu Chúa và biết trao tặng thêm nhiều tình yêu Chúa tới mọi người.
Chia sẻ tâm tình này, thiết tưởng cũng là một chuẩn bị tốt, để mừng lễ Chúa giáng sinh.
1. Cảm nghiệm về tình yêu Chúa
Hiểu biết về tình yêu bằng lý thuyết thì không đủ. Nếm mật thì mới biết mật là gì. Tình yêu Chúa còn hơn mật ngọt và hơn tình yêu nhân loại. Lý thuyết về tình yêu Chúa, cho dù uyên thâm sâu sắc, vẫn là lý thuyết. Nhưng khi được cảm nghiệm, nó không chỉ ở lý trí, mà tràn vào trái tim, trở thành cõi trời thiêng liêng, êm đềm, vừa thanh luyện, vừa cứu độ, vừa thánh hoá. Nó là sự sống mới.
Một đặc điểm cảm thấy đậm đà nhất của tình yêu Chúa, khi thấm vào hồn ta, là sự khiêm tốn tự hạ.
Chúng ta cảm thấy tình yêu Chúa rất cao cả, nhưng lại rất khiêm nhường.
Một sự khiêm nhường tự hạ như trẻ thơ bé nhỏ ở hang đá Belem.
Một sự khiêm nhường tự hạ như của lễ đền tội thay trên thánh giá ở đồi Calvariô.
Một sự khiêm nhường tự hạ như Chúa hiện diện trong tấm bánh nhỏ ở thánh lễ bàn thờ.
Một sự khiêm nhường chấp nhận tất cả, như bài ca đức mến của thánh Phaolô:
"Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác. Nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13,4-7).
Khi cảm nghiệm được sự khiêm nhường là đặc điểm của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ rất thấm thía với lời Chúa Giêsu dạy các tông đồ xưa: "Khi chúng con đã làm những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con chỉ làm bổn phận mà thôi" (Lc 17,10).
Với lời Chúa phán trên đây, chúng ta thấy việc chúng ta phải làm theo lệnh của Chúa là "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 14,39). Chúa yêu thương con người bằng cách hoà mình vào cuộc sống con người, chia sẻ thân phận những người nghèo khổ, tìm cách cứu họ bằng tình yêu dâng hiến và đền tội thay. Tình yêu đó rất khiêm nhường. Khi thực hiện được tình yêu khiêm nhường đó, chúng ta vẫn phải khiêm nhường nhận mình là đầy tớ vô dụng.
Tình yêu khiêm nhường được cảm nghiệm như một ơn Chúa ban. Nó đem lại sự bình an sâu thẳm cho tâm hồn. Ta như được tan hoà vào sự sống của Thiên Chúa. Nước Trời đã đến trong đời ta.
Đến đây, một câu hỏi tất nhiên sẽ cần đặt ra, đó là: Làm thế nào để có được tình yêu của Chúa?
2. Đón nhận tình yêu Chúa
Chúa rất muốn ban tình yêu Chúa cho hết mọi người. Nhưng Chúa tôn trọng sự tự do của mỗi người. Với sự tự do, hầu như mọi người đều muốn đón nhận tình yêu Chúa, nhưng lại không muốn đón nhận sự khiêm nhường mà tình yêu đó đòi hỏi.
Không muốn đón nhận thế nào, thì dụ ngôn người gieo giống Chúa nói trong Phúc Âm giúp chúng ta hiểu.
"Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi vào sỏi đá, chỗ không có nhiều đất, nó mọc lên; nhưng vì đất không sâu, nên khi nắng lên, nó liền bị cháy. Và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết ngạt và không sinh hoa kết quả. Có những hạt rơi vào đất tốt, nó mọc liền và lớn lên, sinh hoa kết quả: Hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm" (Mc 4,3-8).
Dụ ngôn cho thấy: Chúa vẫn gieo tình yêu Chúa, như những hạt giống tốt.
Có hạt rơi xuống vệ đường. Đất vệ đường là tâm hồn đứng bên lề đời sống thiêng liêng.
Có hạt rơi vào đất sỏi đá, chỗ không có nhiều đất. Đất sỏi là những tâm hồn hời hợt.
Có hạt rơi vào bụi gai. Đất có bụi gai là những tâm hồn bị chi phối bởi những tham vọng và những bận tâm vô bổ.
Có những hạt rơi vào đất tốt. Đất tốt là những tâm hồn biết tập trung khao khát những giá trị đạo đức.
Tất nhiên chúng ta muốn là đất tốt. Muốn mà thôi chưa đủ. Chúng ta cần cầu xin ơn Chúa giúp. Chúa sẽ ban ơn đó cho ta. Nhưng ta phải biết cộng tác vào ơn đó. Cộng tác nhất là bằng sự khiêm nhường thường xuyên.
Tình yêu Chúa sẽ được gieo vào lòng ta qua nhiều cách. Như khi ta cầu nguyện, suy gẫm, sám hối, tham dự thánh lễ. Cũng không thiếu trường hợp tình yêu Chúa đi vào lòng ta qua các biến cố đời sống, như những gặp gỡ, những niềm vui và cả đến những thất bại.
Có tình yêu Chúa trong lòng, chúng ta sẽ trao tặng tình yêu ấy cho những người khác.
3. Trao tặng tình yêu Chúa
Không gì vui cho bằng trao tặng tình yêu Chúa. Chúng ta trao tặng tình yêu Chúa qua mọi lời nói, mọi chữ viết, mọi thái độ, mọi việc làm. Cầu nguyện và hy sinh hãm mình chịu đau khổ cũng là những cách âm thầm chuyển tải tình yêu đến các linh hồn. Việc nhỏ, nhưng mang nhiều tình yêu trao tặng, vẫn có giá trị cao quý.
Tình yêu trao tặng sẽ rất đơn sơ. Đó là tâm tình ước muốn cho người khác được bình an trong tình yêu thương của Chúa. Sự bình an, mà chúng ta cầu chúc không là một lý thuyết, mà là một sự sống hợp thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là mọi người được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa sai đi, tất cả trong chương trình của Người.
Cùng với tâm tình, còn có tất cả trái tim, tất cả tâm hồn cùng với lễ vật cuộc đời và cầu nguyện. Xin trao tặng tất cả.
Trao tặng sẽ không ồn ào. Nó nhẹ nhàng, lắng đọng và hồn nhiên. Nó gắn kết và cởi mở. Nó khiêm tốn hy vọng trong phó thác.
Giữa muôn vàn cái mong manh của cuộc đời, chúng ta sẽ thấy cái giá trị bền vững nhất chính là tình yêu trao tặng, nhất là khi tình yêu trao tặng lại là tình yêu Thiên Chúa.
Đón nhận tình yêu Chúa và trao tặng tình yêu Chúa là một hạnh phúc cao cả. Trái lại, chối từ hay chống lại tình yêu Chúa là tự chuốc vào mình những khổ cực khôn lường, nhất là ở đời sau.
Xin cầu chúc cho nhau biết đón nhận thêm nữa tình yêu của Chúa. Xin cầu chúc cho nhau biết trao tặng thêm nữa tình yêu của Chúa. Một tình yêu khiêm tốn đi sâu vào cuộc đời mỗi người chúng ta. Một tình yêu êm đềm đưa ta vào cõi bình an hạnh phúc. Một tình yêu hiền từ giúp ta dấn thân phục vụ Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta.

 

Bùi-Tuần 1116: Về bài viết của trang Nữ Vương Công Lý 23-11-2010

Long Xuyên, ngày 23 tháng 11 năm 2010
Anh A. thân mến!
 

Cám ơn Anh đã thông tin kịp thời về bài viết của trang Nữ Vương Công Lý. Tôi đã in ra toàn bộ: 23-11-2010 Bùi-Tuần 1116

Cám ơn Anh đã thông tin kịp thời về bài viết của trang Nữ Vương Công Lý.
Tôi đã in ra toàn bộ nội dung bài viết, và tìm cơ hội để đưa Đức Cha xem . .  (Vì) Bản thân tôi cho rằng Đức Cha đã bị thiên hạ lợi dụng.  Chưa kịp đưa thì Đức Cha gọi xuống cho hay :
- Có bài trên mạng viết không đúng về Cha ?
Tôi tiện dịp nói luôn:
- Con có in nội dung bài viết đó, (đang gởi cho) nhờ chú B coi. (để ) và sẽ gửi đến Đức Cha xem.
Thế rồi câu chuyện bèn dừng lại đó, vì có khách.
Tôi sang bên NT. Chánh Toà nói với một cha phó về trang mạng ấy. Cha bảo cũng vừa đọc xong. Tôi nói: Con đã in cho Đức Cha Gioan xem nhưng chưa đưa cho ngài  (được). Cha phó bảo: Coi chừng Cụ xem xong thì mất ăn mất ngủ. Tôi trả lời: Con chịu trách nhiệm về điều này.
Khi trở về TGM., tôi thấy Đức Cha ngồi một mình, tưởng rằng Đức Cha đã đọc xong, bèn vào trấn an, nhưng chú B. bảo là chưa đưa nên ngồi nói chuyện.
Tôi thuật lại nội dung của bài viết cho Đức Cha nghe.
Đức Cha  xác nhận rằng: Cha có nói là cha biết rất rõ về Đức Tổng Kiệt, rất tốt. Cha có nói rằng cha chỉ bị áp lực về Lời Chúa mà thôi. Đức Cha hỏi tôi: (không hiểu  rõ ý câu này nói muốn nói : ĐC hay DTKiet)
- Ông C. làm gì?
- Thưa, vợ buôn bán. Ông  làm việc chung.
- Việc chung là việc gì?
- Thưa, ông dành thời gian để làm việc cho nhà thờ.
Đức Cha à một tiếng. Khi được hỏi như thế, tôi chưa hình dung được điều gì đã xảy ra. Nhưng Đức Cha lại nói:
- Hôm đưa xác Cha Giáo Tường từ TP.HCM về đây, cha rất là mệt. Ông C. có dắt một người vào và giới thiệu người đó quê Thái Bình, nên Cha có tiếp. Cha chỉ nằm mà nói chuyện. Chỉ có ông ta và ông C., ngoài ra không có ai nữa. Mấy lần cha bảo là cha mệt, nhưng vị khách lại không muốn về. Cha dặn đi dặn lại trước khi khách về là: Ông không được viết gì, nói gì cả. Hãy tôn trọng các Đức Cha và Hội Đồng Giám Mục. Khách có hứa sẽ thực hiện đúng lời cha dặn. Từ đầu đến cuối câu chuyện, chỉ một mình khách lên tiếng, còn ông C. thì chỉ ngồi im lặng.

Anh A. thân mến!
Đến đây thì Anh thấy rõ là bài viết có khởi đầu gần như hoàn toàn đúng sự thật của nó. Nhưng người ta đã thêm thắt từ số ít ra số nhiều (đoàn chúng tôi gồm mấy anh em, cả người Bắc lẫn người địa phương; một người khác đặt câu hỏi...). Toàn là phịa cả đấy Anh A. ơi, trắng trợn thật.
Tôi nghĩ thế này: Ta tạm gọi vị khách kia là nhà báo hay là phóng viên gì đó của Nữ Vương Công Lý. Nhưng họ nhân danh thứ công lý nào mà lại "đâm bị thóc, chọc bị gạo". Họ bôi nhọ, vu khống các Đức Giám Mục một cách công khai mà khoa học. Các Đức Giám Mục của chúng ta, theo Giáo lý Công giáo dạy rằng: Là những người kế vị các Thánh Tông đồ, và có quyền cầm buộc, hoặc tháo gỡ. Vậy họ nhân danh ai mà dựng chuyện có thành không, không thành có, tung hoả mù để lôi kéo những người nhẹ dạ, gây chia rẽ trong cộng đồng dân Chúa. Làm sút giảm lòng tin của giáo dân đối với các bậc Bề Trên của mình? Họ nhân danh Chúa ư? Các Đức Giám Mục lãnh nhận nơi Chúa Giêsu năng quyền để chăn dắt đoàn chiên của Hội Thánh địa phương, vậy họ là ai mà muốn lèo lái các Bề Trên của mình phải theo ý họ? Họ tự đồng hoá mình ngang hàng với Thiên Chúa sao? Thứ công lý này từ đâu mà ra? Ngoài quyền năng của Thiên Chúa ra thì còn có một thứ quyền năng khác (và) cũng có thể thống trị tâm hồn chúng ta. Vậy thì họ nhân danh thứ quyền năng đó chăng? Đoạn Phúc Âm thánh Lc 9,50 Chúa Giêsu nói với các môn đệ mình rằng: "... Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta". Vậy thì họ nhân danh Chúa nào để bôi nhọ, vu khống, dựng chuyện đủ điều (để ) chống lại các Đức Giám Mục và Hội Đồng Giám Mục?
Buổi chiều tôi có dịp đến phòng Đức Cha, Đức Cha ngồi ở băng đá ngoài sân. Tôi đi tới, Đức Cha  ngoắc lại rồi mỉm cười và nói:
- Cha đã đọc hết rồi.
Tôi ngồi xuống và thở phào nhẹ nhõm. Nhẹ nhõm vì không phải chuyện Đức Cha đã đọc xong bài viết phải nói là hỗn xược nọ, mà vì nụ cười của Đức Cha. Nụ cười đó không sao diễn tả được. Nó toả lộ ra một thứ bình an nội tâm mà không phải ai cũng có, muốn là được. Đức Cha nói tiếp:
- Đọc xong, phần bản thân cha không thấy buồn cho mình, mà buồn cho tay ấy. Tâm hồn của họ sao mà nặng nề quá.
Anh A. thân mến!
Tôi không thể nói hết những gì hôm qua (22/11/2010) mà Đức Cha đã tâm sự. Mong rằng chúng ta nên cảnh giác với những lời vu khống cách tinh vi nào đó về các Bề Trên của mình. Và điều cần nhất là chúng ta hãy lên tiếng bênh vực, vì im lặng là đồng loã.
Thân ái chào Anh.
CTS.

 

Bùi-Tuần 1117: ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ 01-01-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Đầu năm là mốc thời gian trọng đại. Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời.: 01-01-2011 Bùi-Tuần 1117

Đầu năm là mốc thời gian trọng đại. Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời. Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.
Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa. Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.
1/ Bài học tạ ơn và khám phá
Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn. Khám phá đó là do Chúa ban. Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy. Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai? Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: "Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: 'Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha'" (Lc 10,21).
Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.
Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:
"Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: 'Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con', Chúa Giêsu bảo các ông: 'Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời'" (Lc 10,17-20).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.
Họ đã được Chúa sai đi.
Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ, để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.
Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.
Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.
Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:
- Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ. Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.
- Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa. Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi. Họ luôn bé mọn, nghèo khó.
Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời. Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn. Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.
Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn. "Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì... đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn"
2/ Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá
Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa. Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:
a. Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ. Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.
b. Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta. Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.
c. Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ. Chúa Giêsu "hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha". Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave. Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: "Linh hồn tôi tung hô Chúa". Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa. Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.
d. Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa. Chúa là nguồn mọi sự tốt lành. Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.
3/ Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá
Thánh Phaolô khuyên: "Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn" (Cl 4,2). Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.
Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn. Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự. Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn. Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.
Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn. Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.
Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ. Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa. Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ. Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa.
Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ. Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.
Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích. Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh  nghĩa Chúa.
Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.

 

Bùi-Tuần 1118: ĐẦU XUÂN CHIA SẺ VỀ TÌNH HÌNH DIỄN BIẾN

 PHỨC TẠP 15-01-2011
 + GB. BÙI TUẦN
 

Phức tạp", đó là những chữ, những lời, được đọc và được nghe nhiều trong mấy tháng qua: 15-01-2011 Bùi-Tuần 1118

"Phức tạp", đó là những chữ, những lời, được đọc và được nghe nhiều trong mấy tháng qua.
Tình hình phức tạp, diễn biến phức tạp. Thực tế đã qua đúng là như vậy. Thực tế đang tới chắc cũng là thế. Tính cách phức tạp và mức độ phức tạp có thể rất khó lường.
Mọi phức tạp đều ảnh hưởng đến đời sống đạo. Nhân dịp đầu Xuân, tôi xin chia sẻ vài nhận xét khiêm tốn của tôi.
1. Cảnh lẫn lộn tốt xấu
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh cánh đồng có lúa tốt nhưng cũng có cỏ lùng chen vào: Lúa tốt do chủ trồng. Cỏ lùng do kẻ xấu gieo. Cả lúa cả cỏ cùng mọc xanh tươi. Đến mùa gặt, chủ mới phân loại. Lúa thì được giữ trong kho. Cỏ thì đem đi đốt (x. Mt 13,24-30).
Những lời Chúa phán trên đây cho chúng ta thấy tính cách phức tạp của cuộc đời. Sống ở đâu cũng là sống trong một xã hội, sống với những cơ cấu và sống chung cùng những người khác. Đó là một thứ cánh đồng. Cỏ lùng, mà Chúa nói, là những người xấu, việc xấu. Chúng phát sinh và phát triển. Cảnh lẫn lộn đó cũng thấy ngay cả trong Hội Thánh.
Cảnh lẫn lộn đó càng ngày càng phức tạp hơn, khi việc xấu người xấu lại khéo đội lốt việc tốt người tốt. Thời Chúa Giêsu, Người khuyên dân chúng đừng theo loại xấu đó. Nhưng phức tạp càng thêm phức tạp, khi những người đạo đức giả đó trở thành một giai cấp quyền lực trong đạo. Chính họ đã bày mưu giết Chúa Giêsu.
Tất nhiên, chương trình cứu độ của Chúa không chấm dứt ở đó.
Tôi có cảm tưởng là cuộc phấn đấu giữa thiện và ác trên thực tế Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng cũng đang diễn biến phức tạp. Chắc chắn sau cùng Chúa sẽ thắng. Nhưng trong hành trình đi tới chiến thắng cuối cùng, các môn đệ Chúa phải triệt để trung thành với Chúa. Tuy nhiên, trên thực tế ai trong chúng ta dám nói là mình không bao giờ phạm tội. Thành ra, chính chúng ta gọi là tốt, mà cũng không luôn tốt. Tốt xấu lẫn lộn ngay trong chính mình ta. Bao lần mạnh đâu theo đó một cách tuỳ tiện. Tình hình mất ý thức về tội đang phát triển một cách đáng ngại. Hiện tượng không biết và không cần phân biệt đúng sai cũng đang phổ biến mạnh.
2. Cảnh không thi hành ý Chúa
Từ ít năm nay, nhất là trong Năm Thánh vừa qua, một phong trào được nở rộ, đó là phong trào học hỏi về đạo. Phải nói ngay là những phong trào đó bề ngoài coi như đạo đức. Nhưng chất lượng không phải đâu cũng hoàn toàn mang Tin Mừng. Nguyên nhân hoặc ở nội dung thiếu vắng lời Chúa, hoặc ở người dạy trống vắng đời sống nội tâm, hoặc ở người học hời hợt, không chủ ý học để hành.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phân loại và đánh giá người ta một cách đơn giản. Một loại là những người nghe lời Chúa mà không thực hành, một loại là những người nghe lời Chúa mà thực hành. Những người không thực hành thì bị phạt, những người thực hành thì được thưởng. Xin đọc lại nguyên văn đoạn Phúc Âm đó:
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
"Vậy, ai nghe lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành" (Mt 7,21-27).
Những lời Chúa Giêsu phán trên đây làm tôi khiếp sợ. Nhân danh Chúa nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, những việc như thế thường được coi là những việc đạo đức do người đạo đức mới làm được, thế mà Chúa Giêsu lại không nghĩ như vậy. Chúa Giêsu để ý đến ý hướng khi ta làm những việc lành. Chẳng hạn, tôi dâng thánh lễ đúng phụng vụ, thì việc đó luôn sinh hiệu quả tốt. Nhưng nếu tôi dâng thánh lễ với mục đích chỉ để làm kinh tế hay để khoe khoang và trong tình trạng mang tội trọng, thì tôi dâng lễ sai thánh ý Chúa, đáng bị Chúa phạt.
Nghe lời Chúa, nhưng không thi hành lời Chúa đang là một lối sống đạo khá bình thường.
Một tình hình nữa đang diễn biến phức tạp, đó là: Càng ngày càng thêm kinh mới. Càng ngày càng mọc lên những công trình xây cất mới. Càng ngày càng thêm nhiều tổ chức mới. Tất cả đều nhân danh Chúa. Nhưng, nếu xét về sự thực thi Tám mối phúc, thì xem ra xa lạ. Nếu thế, thì lối sống đạo của chúng ta đang trở thành một thứ phức tạp cực kỳ nguy hiểm.
Ấy là chưa nói tới những việc gieo rắc hận thù, gian dối, phân hoá, dưới nhãn hiệu "nhân danh Chúa". Những phức tạp như thế, xem ra đang được tự do phát triển một cách bình thường. Đó là một diễn biến phức tạp có khả năng đưa Hội Thánh Việt Nam rời xa Tin Mừng.
Một diễn biến phức tạp khác rất nguy hiểm, đó là cảnh đi vào con đường thênh thang.
3. Cảnh đi vào con đường buông thả
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu phán: "Hãy qua cửa hẹp mà vào thiên đàng, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa tới sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy" (Mt, 7,13-14).
Lời Chúa phán trên đây vốn được kính trọng, nhưng xem ra không luôn được thực hành nghiêm túc. Thậm chí, ngay cả việc nhắc đến lời đó, cũng đã và đang bị hạn chế. Lý do sau cùng chỉ vì người ta muốn được an tâm đi theo lối sống tự do hưởng thụ. Lối sống tự do hưởng thụ đang là một mời gọi của đà phát triển kinh tế và tự do. Tự do và hưởng thụ, nếu thực thì trong những ranh giới được phép, thì vẫn cần cảnh giác, kẻo dễ sa vào hư hỏng. Đạo đức Phúc Âm khuyên người môn đệ Chúa hãy tự hy sinh, tự từ bỏ cả nhiều cái được phép hưởng, vui sống khó nghèo để góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn và đổi mới Hội Thánh.
Trên thực tế tại Hội Thánh Việt Nam, nhiều người vốn coi trọng việc đi vào cửa hẹp, đi trên đường hẹp, theo lời Chúa dạy. Họ sống từ bỏ mình một cách quảng đại, âm thầm. Đang khi đó, không thiếu người lại đi vào cửa rộng đường rộng. Phạm vi tự do càng ngày càng rộng thêm. Nhiều người tự cho phép mình được làm những gì mình thích. Ranh giới tự do cũng do họ tự đặt ra cho mình. Thậm chí một số người có vẻ quả quyết họ và Chúa Thánh Thần là một trong một phương diện nào đó. Họ mở ra một chân trời quyền lực rộng lớn, để tự quyết định.
ù
Những diễn biến phức tạp trên đây khiến chúng ta lo ngại. Nhưng bên cạnh đó, đang phát triển  những diễn biến đáng mừng. Đó là những phong trào đạo đức trở về vói Đức Kitô và thánh giá của Người. Tôi tin Mùa Xuân thiêng liêng đang và sẽ đến với Hội Thánh chúng ta từ thánh giá của Đức Kitô. Chính sự từ bỏ quảng đại theo gương Đức Kitô mới là yếu tố chính của tình yêu cứu độ.

 

Bùi-Tuần 1119: GẶP GỠ ĐỨC KITÔ 20-01-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Tết là dịp chúng ta chúc nhau hạnh phúc. Lời chúc hạnh phúc nào cũng nên được trân trọng: 20-01-2011 Bùi-Tuần 1119

Tết là dịp chúng ta chúc nhau hạnh phúc. Lời chúc hạnh phúc nào cũng nên được trân trọng. Điều quan trọng là lời chúc hạnh phúc phải thực sự chân thành, đậm tình yêu dâng hiến.
Lời chúc hạnh phúc của tôi là gặp được Đức Kitô. Ai chưa gặp, thì mong sẽ gặp được Người. Ai đã gặp, nhưng chỉ gặp thoáng qua, thì mong sẽ gặp được Người một cách thân mật.
Lý do là vì Đức Kitô đem lại cho chúng ta hạnh phúc đích thực. Người là Đấng Cứu độ, là đường đi, là sự thực, là sự sống và là sự phục sinh của chúng ta.
Ở đây, xin được chia sẻ đôi chút về 3 điều:
- Bầu khí thuận lợi để gặp gỡ Đức Kitô.
- Những cảm nhận do sự gặp gỡ Đức Kitô.
- Trật tự từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô.
1. Bầu khí thuận lợi để gặp gỡ Đức Kitô
Đức Kitô, mà chúng ta tìm gặp, chính là Đức Kitô đã tỏ mình ra trong Kinh Thánh. Vì thế, Kinh Thánh là bầu khí đầu tiên giúp chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Đối với phần đông chúng ta, bầu khí Kinh Thánh có thể là việc chúng ta nghe Lời Chúa, cầu nguyện Lời Chúa, đọc Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa, cách này cách khác, chung tại nhà thờ và trong gia đình, hoặc tư riêng một mình.
Cùng với bầu khí Kinh Thánh, sẽ là bầu khí yêu thương. Bầu khí yêu thương hệ tại ở sự chúng ta cố gắng nâng đỡ người khác, kính trọng người khác, làm nhẹ gánh nặng cho người khác, cảm thương nỗi khổ của người khác. Những ai để ý sống yêu thương và góp phần tạo ra bầu khí yêu thương sẽ dễ gặp được Đức Kitô.
Một bầu khí nữa được coi là rất thuận lợi để gặp Đức Kitô, đó là bầu khí khiêm nhường. Bầu khí khiêm nhường khởi đi từ sự chúng ta nhận mình là nghèo khó, tội lỗi, nên chân thành sám hối, khao khát gặp Chúa cứu độ. Hơn nữa, chúng ta tỉnh thức đợi chờ với tinh thần tĩnh lặng khẩn nguyện, xin Chúa xót thương. Chúng ta không ngại đứng bên, đứng giữa, đứng cuối lớp người tội lỗi, để cùng với họ, ôm hy vọng được gặp Chúa.
Bầu khí Kinh Thánh, bầu khí yêu thương, bầu khí khiêm nhường không luôn có sẵn. Ngay trong các cuộc lễ hoành tráng, những bầu khí đạo đức như thế vẫn có thể bị hạn chế, thậm chí còn bị tàn phá nặng nề. Vì thế, việc gây dựng bầu khí luôn sẽ phải là một phấn đấu, vừa cho bản thân mình, vừa cho cộng đoàn.
Kinh nghiệm cho thấy, ngay trong những hoàn cảnh rất khó khăn, bầu khí đạo đức vẫn hình thành đây đó. Nhờ vậy, biết bao người thiện chí đã dần dần gặp được Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô được cảm nghiệm như gặp được Đức Kitô đã được diễn tả trong Kinh Thánh. Người hiện diện một cách thiêng liêng ngay bên cạnh chúng ta. Người gần gũi, tuy một cách vô hình, nhưng như chạm vào đời ta. Chúng ta đón nhận được rất nhiều điều kỳ diệu từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
2. Những cảm nhận do sự gặp gỡ Đức Kitô
Riêng tôi, điều gây ấn tượng nhất, mà tôi đón nhận được từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, là cảm thấy Đức Kitô trong lòng tôi chính là Đức Kitô cứu độ đã tỏ mình ra trong Phúc Âm. Người phán: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Các con hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn các con sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).
Đức Kitô, mà tôi được gặp trong lòng tôi, hay nhắc đi nhắc lại với tôi lời mà Người đã nói trên đây trong Phúc Âm. Tôi đón nhận Người. Tôi đem hết mọi gánh nặng của tôi đặt trước mặt Người. Những gánh nặng đó rất nhiều. Từ những đau đớn thể xác đến những đau đớn tâm hồn. Từ những yếu đuối, tính mê tật xấu đến những tội lỗi và những thiếu sót. Tất cả những gánh nặng đó của tôi đều được Người nhận lấy. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Nhẹ nhất là vì được Người an ủi. Có gánh nặng được cất đi. Có gánh  nặng được bớt đi. Có gánh nặng được Người cùng chia sẻ.
Qua việc nhận lấy những gánh  nặng của tôi, Đức Kitô đã diễn tả tình yêu của Người. Tôi cảm nhận được tình yêu của Người là vô biên, vô bờ. Tình yêu cao cả ấy lại rất hiền từ và khiêm nhường. Tình yêu ấy không ngừng cứu độ tôi, luôn luôn thánh hoá tôi. Nếu gọi đó là một cái ách, một gánh nặng, thì đúng là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng.
3. Trật tự từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô
Từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, tôi thấy phải sắp xếp lại trật tự trong nội tâm tôi.
Trật tự đó là thế này:
Việc quan trọng nhất tôi phải thực hiện trong tôi là: Chính bản thân tôi phải luôn luôn trở về với Đức Kitô, luôn luôn tìm gặp gỡ Đức Kitô, luôn luôn ở lại với Đức Kitô, luôn luôn nghe lời Đức Kitô, luôn luôn đi theo Đức Kitô.
Đó là việc ưu tiên phải thực hiện trong mọi hoàn cảnh và trong mọi lãnh vực.
Lao mình vào việc truyền giáo và mục vụ, với các thứ hoạt động bận rộn bôn ba dễ làm cho tôi có ảo tưởng là tôi hy sinh cho Chúa. Nhưng khi hồi tâm, tôi thấy, nếu không quyết tâm giữ được thói quen trở về gặp gỡ Đức Kitô hằng ngày, lòng tôi sẽ dần dần mất quân bình. Sự mất quân bình nội tâm đó sẽ gây hại cho tôi và các linh hồn. Việc truyền giáo và mục vụ do đó, dù có lúc coi như náo nhiệt tươi vui, nhưng rồi sẽ tàn lụi mau chóng, nhất là khi gặp thử thách.
Trái lại, khi quyết tâm thực hiện việc trở về gặp gỡ Đức Kitô thường xuyên mọi ngày, tôi được bình an và tự do tâm hồn. Chúa hoạt động trong tôi. Tôi trở nên bé nhỏ ngoan ngoãn trong tay Người.
Nguy cơ lớn nhất hiện nay đang đe doạ những nhà làm truyền giáo và làm mục vụ tại Việt Nam là sự mất trật tự trong nội tâm. Coi việc chính là phụ. Coi việc phụ là chính. Do đó, nội tâm trở thành trống vắng và ngổn ngang lộn xộn.
Tôi thiết nghĩ rằng: Để đổi mới mục vụ và truyền giáo, việc ưu tiên nên chỉnh đốn là đời sống nội tâm. Một đời sống nội tâm luôn trở về gặp gỡ Đức Kitô chính là nền tảng và đầu nguồn của mọi hoạt động mục vụ và truyền giáo. Chính Đức Kitô là hạnh phúc cứu độ của ta.
Cùng với việc chia sẻ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em, trong năm mới này, sẽ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thường xuyên và mỗi ngày mỗi mật thiết hơn.

 

Bùi-Tuần 1120: BÊN ĐỨC MẸ DƯỚI CHÂN THÁNH GIA 07-01-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Năm Thánh Việt Nam đã kết thúc ở La Vang. Lễ Bế mạc được tổ chức rất trọng thể hoành: 07-01-2011 Bùi-Tuần 1120

Năm Thánh Việt Nam đã kết thúc ở La Vang. Lễ Bế mạc được tổ chức rất trọng thể hoành tráng. Toàn thể Hội Thánh Việt Nam hướng về Đức Mẹ ở La Vang.
Trong thời gian linh thiêng ấy, tôi ở Long Xuyên, cũng bên Đức Mẹ. Ảnh Đức Mẹ mà tôi ưa nhìn ngắm nhất khi tôi đau yếu, là Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Những giờ phút bế mạc Năm Thánh được tôi cảm nhận như một chuẩn bị đi vào một tương lai có nhiều thử thách. Vì đang mang sẵn trong mình nhiều đau đớn và nhiều lo âu, tôi nhìn những thử thách đó là tất cả những gì gây nên đổ vỡ, làm nên hoang tàn, với mưu đồ kéo tôi và những người khác xa rời Phúc Âm.
Trong giây lát, tất cả những thử thách đó hiện lên như một cơn lũ lụt gồm đủ thứ thảm khốc. Bị vùi dập, tôi thấy mình cô đơn tăm tối. Tôi nhìn vào Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Đức Mẹ như đắm chìm trong đau khổ, nhưng trung tín vững vàng trong đức tin.
Tôi nhận được từ Mẹ sầu bi những chỉ dẫn ủi an. Đại khái như sau:
1. Thánh giá mang giá trị cứu chuộc
Đức Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh Phêrô sau đây: "Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát, như vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi đời sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô" (1 Pr 1,18-19).
Với lời dạy trên đây của thánh Phêrô, Đức Mẹ cho tôi hiểu: Tôi và bao người đã phạm tội hoặc trong nguy cơ phạm tội. Tội lỗi trói con người vào ách sự ác, lôi con người vào chốn diệt vong. Để cứu con người khỏi vực thẳm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã dâng mình chịu khổ nạn và sau cùng chịu chết trên thánh giá. Máu châu báu Người đã đổ ra, để cứu chuộc. Đau khổ của Người có giá thiêng liêng cao quý, đó là cứu khỏi nguy cơ phạm tội, xoá tội, tha tội, đền tội thay cho nhân loại.
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá phải đau đớn vô vàn. Mẹ kết hợp những đau đớn của Mẹ với những đau đớn của Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những đau đớn của Mẹ có giá trị góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Mẹ sầu bi khuyên tôi cũng hãy kết hợp những khổ đau của tôi với thánh giá Chúa Giêsu. Nhờ vậy, những khổ đau của tôi sẽ được chia sẻ giá trị cứu chuộc. Tôi và nhiều người sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Khi nhìn công cuộc cứu chuộc là như thế, tôi không dám nghĩ rằng con người tội lỗi sẽ được cứu chuộc nhờ những việc đạo đức tưng bừng, những khẩu hiệu đạo đức hô vang. Đức Mẹ khuyên hãy theo gương Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nếu thử thách tới.
2. Cái chết sinh ra sự sống
Khi nói tới thử thách, tôi đặc biệt nghĩ tới những sa sút đạo đức cá nhân và tập thể, những rạn nứt trong các gia đình, những khuynh hướng ham danh lợi, những chủ nghĩa cực đoan. Một phần không nhỏ các thử thách đến từ nội bộ những người trong Hội Thánh. Là người môn đệ Chúa, tôi nhìn những sự kiện đó như những loại thuốc độc đưa con người và xã hội đến sự huỷ diệt về phần linh hồn. Người môn đệ Chúa có bổn phận bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Trước cảnh đó, Đức Mẹ đưa lòng trí tôi nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, đồng thời giúp tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: "Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Khi nhớ lại lời trên đây của Chúa Giêsu, tôi nhìn cái chết khổ đau của Người trên thánh giá chính là nguồn mang lại sự sống thiêng liêng cho biết bao người. Phải nói ngay là cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là một dấn thân cao cả vì yêu thương. Người vui lòng chịu chết để nhiều người được sống.
Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá cũng như chết đi cùng với Chúa Giêsu. Cái chết như thế của Mẹ được kết hợp với cái chết của Chúa Giêsu đã là một sự sản sinh. Thực sự, Đức Mẹ đã sinh ra nhiều tín hữu cho Chúa, từ cái chết đau đớn dưới chân thánh giá. Đó chính là truyền giáo.
Như vậy, đời người môn đệ Chúa cũng sẽ theo gương Đức Mẹ. Phải chấp nhận dấn thân vì yêu thương, cho dù phải chết. Cái chết đó sẽ được thực hiện hằng ngày, bằng sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Cái chết đó sẽ góp phần rất lớn cho việc mở rộng Nước Trời.
Được Đức Mẹ nhắc nhở về giá trị của cái chết trong đời mình, tôi thấy người môn đệ Chúa phải rất tỉnh thức. Nếu đức tin chỉ được nuôi sống và phát triển bằng những sùng kính ngọt ngào và những tổ chức ồn ào, thì rất dễ sụp đổ trước những bất ngờ tàn phá. Phải đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá một cách can đảm, rồi đón nhận thánh giá như một chọn lựa, và sống dấn thân cho chọn lựa đó, thì không những đức tin sẽ sống mạnh, mà còn giúp cho sự sống đức tin sinh sản.
Khi thực sự sống mầu nhiệm thánh giá, người môn đệ Chúa sẽ biết an ủi những người sẵn sàng chết đi cho người khác.
3. Niềm tin ủi an trong mọi thử thách
Chìa khoá mở nguồn an ủi cho Đức Mẹ sầu bi là sự trung tín trong đức tin.
Đức Mẹ tin vào chương trình cứu độ của Chúa: "Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26).
Đức Mẹ tin lời thiên thần nói: "Đấng mà bà sắp sinh ra, sẽ gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35).
Niềm tin của Đức Mẹ cũng giống như niềm tin của tổ phụ Abraham. "Ông đã chẳng bao giờ mất niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Vì ông hoàn toàn xác tín rằng: Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người cũng đủ quyền năng thực hiện" (Rm 4,20).
Đức Mẹ tin một cách khiêm nhường, với lòng vâng phục triệt để thánh ý Chúa và tuyệt đối phó thác ở Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chính niềm tin trung tín đã an ủi Đức Mẹ trong mọi thử thách. Niềm tin đó cũng đã an ủi các con cái Mẹ, để rồi họ cũng sẽ biết an ủi những người khác. Họ có thể nói với những người bị thử thách như thánh Phaolô xưa: "Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, vì Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng sẽ biết an ủi những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó" (2 Cr 1,4).
ù
Với chia sẻ trên đây, tôi có cảm tưởng là sau Năm Thánh sẽ là Năm Thánh giá. Nhiều thử thách sẽ tới. Chúng ta tin: Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta.
Xin Mẹ sầu bi đứng dưới chân thánh giá luôn ở bên chúng con trong mọi thử thách. Chúng con là những đứa con yếu đuối hèn mọn. Xin Mẹ thương chỉ dạy, an ủi nâng đỡ chúng con trong suốt cuộc đời gian truân khổ ải này.

 

Bùi-Tuần 1121: THÔNG VỚI ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI HIỆP

 11-02-2011
 + GB. BÙI TUẦN
 

Ngày 22 tháng 2 hằng năm là lễ kính nhớ việc lập Tông Toà Thánh Phêrô. Năm nay, lễ này: 11-02-2011 Bùi-Tuần 1121

Ngày 22 tháng 2 hằng năm là lễ kính nhớ việc lập Tông Toà Thánh Phêrô. Năm nay, lễ này mang đến cho tôi một ý nghĩa mới. Đó là trong hiện tình Đấng kế vị thánh Phêrô đang có nhiều trăn trở, lễ này nên trở thành cơ hội tốt, để đốt nóng lên bổn phận hiệp thông với Người Cha chung.
Trong ý hướng đó, Chúa đã cho hiện lên trong lòng tôi một hình ảnh về Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tất nhiên đây là một hình ảnh có những nét thiêng liêng. Hình ảnh đó ví như một sức mạnh kỳ diệu, mở hồn tôi ra, để tôi nhận thấy bầu trời hiệp thông với Đức Thánh Cha là rất phong phú.
Tôi xin được chia sẻ vắn gọn một số nét của hình ảnh đó.
1. Con người trao tặng
Đức Bênêđictô XVI là con người đơn sơ, giản dị. Ấn tượng rõ nhất khi gặp Ngài, không phải là con người quyền lực, nhưng là con người trao tặng. Quà, mà Ngài trao tặng là chân lý và tình yêu.
Chân lý và tình yêu do Ngài trao tặng không phải là những lý thuyết về chân lý và tình yêu, nhưng là chân lý và tình yêu đã trở thành sự sống nơi Ngài. Những giá trị tinh thần cao quý ấy đã chảy vào hồn Ngài từ nhiều nguồn như Triết học, Thần học, Kinh Thánh, nhất là từ đức tin, đức cậy, đức mến.
Chân lý đó, tình yêu đó có bề sâu, bề cao, bề rộng phi thường.
Chân lý đó, tình yêu đó có sức giải cứu con người.
Chúng là lương thực nuôi dưỡng tinh thần.
Chúng mở rộng phạm vi tinh thần, để đón nhận Chúa và để Chúa ở lại.
Chúng đổi mới con người từ những lớp thẳm sâu nhất.
Chính vì vậy, mà nhiều người, khi được gặp Đức Bênêđictô XVI, đã nhận được một ấn tượng lạ lùng. Như thể họ đã gặp được bầu khí thiêng có Thiên Chúa hiện diện. Bầu khí thiêng đó không chỉ do chân lý và do tình yêu, mà do chính Thiên Chúa là nguồn chân lý và tình yêu cứu độ.
Một nét đặc biệt nữa của hình ảnh Đức Bênêđictô XVI là sự gắn kết. Ngài là con người gắn kết.
2. Con người gắn kết
Qua những hoạt động của Đức Bênêđictô XVI, tôi thấy Ngài rất ý thức về những dây liên hệ của Ngài. Ý thức sâu sắc về sự mình sống trong một hệ thống những dây liên hệ, đó là một trí thức cao. Sống có trách nhiệm với từng dây liên hệ của mình, đó là một đạo đức sâu.
Trước hết, Đức Thánh Cha sống gắn kết với Chúa một cách hết sức khiêm nhường. Ngài sống hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa. Luôn tựa nương vào ơn Chúa. Luôn gắn bó với Chúa trong tâm tình tạ ơn phó thác.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người đau khổ, nghèo túng, bệnh tật, bị áp bức. Ngài gắn kết với họ bằng tâm tình liên đới, chia sẻ, đồng hành.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người lầm lạc. Ngài gắn kết bằng sự xót thương, kiên trì chờ đợi.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với các nền văn hoá, các dân tộc, các tôn giáo. Ngài gắn kết bằng sự tôn trọng những gì là tốt đẹp nơi họ, đồng thời cũng giới thiệu Tin Mừng của mình một cách tế nhị.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với tất cả mọi thành phần Dân Chúa. Ngài gắn kết qua mọi phục vụ của người chăn chiên tốt lành.
Tất cả mọi gắn kết với mọi người đều được thực hiện trong chân lý và tình yêu. Nhưng con người vẫn phức tạp. Lịch sử mà con người sinh sống cũng phức tạp. Vì thế, mọi liên hệ với con người trong lịch sử đều phải thực hiện trong sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Thánh Thần không miễn cho Đức Thánh Cha khỏi phải chiến đấu.
3. Con người chiến đấu
Là người đứng đầu Hội Thánh, Đức Thánh Cha đứng trước vô số vấn đề. Thấy được vấn đề đã là khó. Giải quyết được vấn đề càng khó hơn. Không có giải pháp sẵn. Không có giải pháp dễ dàng.
Phải suy tư. Phải nghiên cứu. Phải tìm tòi. Phải có kế hoạch. Riêng những vấn đề trong lãnh vực đạo đức, mục vụ, truyền giáo lại rất cần đến ơn Chúa để có thể giải quyết.
Trên con đường tìm tòi, nhất là trên con đường thực hiện giải quyết, sẽ không thiếu đủ thứ cản trở, từ ma quỷ, thế gian, xác thịt, đến chính nội bộ. Đó là một thực tế đau lòng. Chiến đấu với những cản trở là việc không dễ. Chiến đấu với những lực lượng phá hoại do Satan càng không dễ chút nào.
Tới đây, tôi nhớ lại một lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Hôm đó, trong buổi tiếp kiến riêng, tôi trình với Ngài những suy nghĩ của tôi về những việc Toà Thánh nên làm cho các hội thánh xa xôi, nghèo túng, bé nhỏ. Đức Gioan Phaolô II nghe một cách chăm chú. Ngài xúc động, thông cảm và trả lời một cách chân thành khiêm tốn: "Từ khi nhận chức Giáo Hoàng, tôi cũng có những ý nghĩ như Đức Cha. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được". Tôi hiểu là Đức Thánh Cha muốn nói đến những trở ngại. Mặc dù Ngài đã phấn đấu, nhưng những trở ngại vẫn còn và biết đâu lại tăng thêm.
Kinh nghiệm riêng tôi giúp tôi hiểu rõ ý Ngài. Với những gì là kinh nghiệm của tôi cũng như lời của Đức Gioan Phaolô II, tôi tin là Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI của chúng ta hiện nay cũng đã và đang phải chiến đấu rất nhiều. Những chiến đấu ấy không có tính cách đổ máu, nhưng là những chiến đấu nội tâm, tập trung trong đó nhiều đớn đau âm thầm. Từ ý muốn thánh thiện đến việc thực hiện ý muốn đó là cả một hành trình phức tạp. Cần hiểu sự thực đó, để tấm lòng hiệp thông của chúng ta đối với Đức Thánh Cha không những không bị suy giảm về những trở ngại, mà càng tăng thêm tâm tình đỡ nâng gắn bó.
4. Con người hành hương
Từ nhiều năm nay, mỗi chiều Chúa nhật, tôi thường mở truyền hình, tìm đài Ý, để tham dự giờ đọc kinh trưa của Đức Bênêđictô XVI với khách hành hương.
Đúng 12 giờ trưa của Ý, Đức Thánh Cha xuất hiện trước đám đông. Họ là những khách hành hương đến từ nhiều nước. Ngài chào thăm họ, đọc kinh chung với họ, và ban phép lành cho họ. Tôi có cảm tưởng Ngài cũng là một người hành hương. Tất cả cha con đều gọi Mẹ Maria, và cùng với Mẹ hướng về Thiên Chúa. Cha con thương yêu nhau, nâng đỡ nhau, đi theo Mẹ Maria, cầu nguyện với Cha trên trời.
Tôi cảm thấy hạnh phúc, vì có Ngài là người cha dẫn đầu cuộc hành hương. Tôi cảm thấy sung sướng, vì có Đức Mẹ Maria ở giữa đoàn con hành hương.
Có Đức Mẹ Maria và có Đức Thánh Cha trên đường hành hương trần thế này, đó là một ân huệ tuyệt vời, tôi sẽ muôn đời cảm tạ Chúa.
ù
Trên đây là hình ảnh Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong lòng tôi. Chắc chắn hình ảnh Ngài còn nhiều nét đẹp khác. Tuy nhiên, mấy nét tinh thần tôi mạo muội diễn tả vẫn được tôi coi là do ơn Chúa. Từ những nét đó, tôi tiến sâu trong việc tin mến Đức Thánh Cha. Sự tin mến này mở đường cho nhiều sáng kiến cộng tác với Ngài. Thiết tưởng đó là một sự hiệp thông mà Chúa muốn.

 

Bùi-Tuần 1122: SUY GẪM VỀ THÁNH GIÁ 10-02-2011

 + GB. BÙI TUẦN
Tâm tình Mùa Chay
 

Mùa Chay là thời gian hồi tâm. Hồi tâm sẽ sinh ích lợi cho phần rỗi. Để được như vậy, việc hồi: 10-02-2011 Bùi-Tuần 1122

Mùa Chay là thời gian hồi tâm. Hồi tâm sẽ sinh ích lợi cho phần rỗi. Để được như vậy, việc hồi tâm cần được thực hiện trong những điều kiện thuận lợi. Những điều kiện thuận lợi sẽ là một không gian thinh lặng, một thời gian yên tĩnh, một nội tâm tách rời khỏi những ồn ào, nhất là một sự an nghỉ tập trung vào Lời Chúa.
Chúa Giêsu phán: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,32).
Tôi lắng nghe Chúa nói trong lòng tôi những lời trên đây. Tôi xin Chúa Thánh Thần đưa tôi vào ý nghĩa Lời Chúa. Ý nghĩa Lời Chúa được tôi cảm nhận, không phải như những lý luận, mà như một sự chia sẻ tâm tình và sự sống của Chúa.
Bằng cách đó, tôi dần dần được dẫn vào một tâm trạng mới. Tôi gọi tâm trạng đó là một niềm tin và một cảm nhận.
Tôi tin và cảm nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ của tôi.
Trong tình hiệp thông liên đới, tôi xin được chia sẻ đôi chút tâm trạng riêng tư với lòng cảm tạ.
Trước hết, Chúa lôi kéo tôi lên với Người trên thánh giá.
1. Chúa lôi kéo tôi lên với Người trên thánh giá
Chúa Giêsu quả quyết: Chính Chúa lôi kéo tất cả mọi người lên với Chúa, khi Chúa bị treo lên (x. Ga 12,32). Chúa lôi kéo nhẹ nhàng. Người không ép buộc. Mọi người đều có tự do đáp ứng sự lôi kéo nhẹ nhàng của Chúa. Vì thế, biết bao người đã không đáp ứng. Họ đã từ chối.
Nhiều lần tôi cũng  muốn bỏ qua sự lôi kéo của Người. Lý do đơn giản là vì Người lôi kéo tôi lên thánh giá. Nhưng, rồi có lúc, tôi thấy mình quá yếu đuối, nên đã cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho tôi, để tôi đón nhận sự lôi kéo của Chúa. Trong chốc lát, tôi phó thác để Chúa kéo tôi lên. Tôi gặp được Chúa Giêsu. Trước mắt tôi, Chúa Giêsu lúc đó được tỏ hiện như một tình yêu cứu độ.
Người cho tôi hiểu sự lựa chọn của thánh giá. Chúa có thể cứu nhân loại khỏi tội lỗi đưa xuống địa ngục bằng nhiều cách nhẹ nhàng. Nhưng Chúa đã chọn thánh giá. Bởi vì trên thánh giá, Chúa thực hiện rõ ràng nhất tấm lòng của Chúa. Đó là yêu thương đến cùng, hy sinh đến cùng, khiêm hạ đến cùng, vâng phục thánh ý Chúa Cha đến cùng.
Với tấm lòng như thế, Chúa cứu nhân loại bằng sức thiêng liêng và siêu nhiên ở nơi chính sự dâng hiến của Người trên thánh giá.
Để chính mình được cứu độ, tôi phải đón nhận Chúa Giêsu và thánh giá của Người. Để giúp người khác được cứu độ, tôi phải cố gắng giúp họ biết đón nhận Chúa Giêsu dâng mình trên thánh giá.
Đón nhận ở đây không có nghĩa thụ động, nhưng mang tính cách cộng tác. Vì thế, ngoài sự tôi biết Chúa cứu độ tôi qua việc Chúa lôi kéo tôi lên với Người trên thánh giá, tôi còn hiểu rõ hơn Chúa cứu độ tôi qua việc Chúa giúp tôi tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá.
2. Chúa giúp tôi tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá
Một trong những việc tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá là xác tín tội lỗi rất tai hại dẫn con người đến chỗ bị Chúa luận phạt, nên việc cứu con người khỏi tội lỗi phải được coi là ưu tiên. Chúa phán: "Nếu người ta được cả thế gian mà phải mất linh hồn, thì nào có lợi gì?" (Mt 16,26).
Tất nhiên những việc cứu con người khỏi bệnh tật, nghèo đói, bất công là những việc tốt. Nhưng trong chiếc thang giá trị, việc cần hơn vẫn là cứu con người khỏi mất linh hồn. Tội phát sinh từ cái tâm. Có thể quả quyết: Cái tâm là đầu nguồn của mọi tội lỗi. Nên phải làm thế nào, để cái tâm chịu sám hối và quyết đổi mới chính mình, thì con người mới trông được cứu khỏi tội. Việc đổi mới cái tâm bằng sám hối và ý chí sửa mình không dễ chút nào. Kinh nghiệm cho thấy, nếu không có ơn Chúa cứu độ, con người không trở về với Chúa một cách chính trực được. Nhận biết điều đó là bước đầu của sự trở về. Để rồi, tiếp theo là việc xin Chúa thứ tha nhờ việc hiến dâng mình của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Những việc trên đây là cách tham gia tích cực vào ơn Chúa cứu độ trên thánh giá.
Một việc tham gia nữa nên để ý là lấy sự thiện khử trừ sự ác.
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã thực hiện sự khiêm nhường để đẩy lùi sự kiêu căng, lấy tình yêu để đẩy lùi sự ghen ghét, dùng hy sinh để đẩy lùi sự ích kỷ, sống hoàn toàn vâng phục Chúa Cha để đẩy lùi sự bất phục tùng ý định của Chúa.
Những cái thiện vừa nói đều sống động trong trái tim Chúa Giêsu. Những cái thiện đó, tuy âm thầm, nhưng là hồn của chương trình cứu độ. Vì thế, cho dù, Chúa bị đóng đinh chân tay vào thánh giá, không còn đi được, không còn làm được, nhưng những cái thiện trong trái tim Người vẫn có giá trị cứu độ.
Với sự hiểu biết trên đây, tôi tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá Chúa trong mọi hoàn cảnh. Những hoạt động bề ngoài của tôi sẽ cần cái hồn bên trong là những sự thiện trong trái tim tôi. Khi hoàn cảnh không cho phép hoạt động bên ngoài, tôi vẫn tiếp tục tham gia vào chương trình cứu độ của Chúa bằng trái tim tôi.
Cách sau cùng Chúa cho tôi tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá là Người giúp tôi sống với những khổ đau một cách có ý nghĩa. Cách có ý nghĩa nhất thiết tưởng là đem những đau đớn mình chịu kết hợp vào sự thương khó của Chúa trên thánh giá. Nhờ đó, những đau đớn của tôi trở thành giá trị, góp  phần vào công việc cứu rỗi các linh hồn.
Từ đây, tôi hiểu rõ hơn con đường chiến thắng của thánh giá Chúa.
3. Chúa nâng đỡ tôi trên con đường chiến thắng của thánh giá
Theo Chúa Giêsu chọn lựa thánh giá làm phương tiện cứu độ, tôi tự nhiên sợ hãi. Bởi vì tôi rất yếu đuối. Nhưng Chúa đã nâng đỡ tôi.
Người nâng đỡ tôi bằng cách cho tôi nhìn thấy con đường thánh giá sẽ đưa tới Phục Sinh một cách chắc chắn.
Người nâng đỡ tôi bằng cách cho tôi nhận thấy sự sụp đổ của quyền lực Satan nhờ thánh giá Chúa. "Giờ đây, thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài" (Ga 12,31).
Người nâng đỡ tôi bằng cách cho tôi cảm nhận được vinh quang của Chúa rực sáng trên thánh giá Chúa: "Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17,1). "Nào Đức Kitô chẳng phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao" (Lc 24,26).
Người nâng đỡ tôi bằng cách cho tôi nhìn thấy trong Hội Thánh Việt Nam yêu quý của tôi số người được Chúa kéo lên thánh giá và được Chúa ban ơn tham gia vào chương trình cứu độ của thánh giá là khá đông. Họ âm thầm. Nhưng chính họ là những chứng nhân đáng tin cậy của Hội Thánh Việt Nam hôm nay.
Người nâng đỡ tôi, nhất là bằng sự Người làm cho tôi tin và cảm thấy Người thương cứu độ tôi một cách đặc biệt, mặc dù tôi bất xứng.
Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa hết lòng.

 

Bùi-Tuần 1123: SỐNG GIỮA NHỮNG MONG MANH 20-03-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Thời sự hiện nay là những chuỗi sự kiện bất ngờ choáng váng. Có những quyền lực hưởng thu: 20-03-2011 Bùi-Tuần 1123

Thời sự hiện nay là những chuỗi sự kiện bất ngờ choáng váng.
Có những quyền lực hưởng thụ, được đủ thứ mình muốn, như chức cao quyền cả, tiền của dư đầy, tự do vô hạn, tưởng là bền vững đời đời. Nhưng đã sụp đổ mau chóng.
Có những phát minh khoa học gồm đủ mọi bảo đảm, tưởng là mãi mãi an toàn. Nhưng đã bị hư hỏng mau chóng.
Có những công trình kinh tế gồm đủ mọi phát minh tân tiến, tưởng là vô địch trước mọi thách đố. Nhưng đã trở thành hoang tàn trong giây lát.
Có những biện pháp giải cứu, gồm đủ mọi phương tiện hùng mạnh, tưởng là thành công chắc chắn. Nhưng đang đưa tới những hậu quả nặng nề, nhất là về mặt đạo đức.
Tất cả những sự kiện trên đây, tuy khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một kết luận, đó là tính chất mong manh.
Xem ra mọi sự trên đời đều mong manh. Niềm tin giữa những con người cũng trở thành mong manh. Chính cuộc sống con người cũng rất mong manh.
Những mong manh ấy gây nên bất an, bất ổn. Có vẻ như nguy hiểm không còn xa.
Vì thế, tình hình hiện nay đang là một báo động. Sống trong một tình hình như thế bằng cách nào đây.
Những người sống đức tin chạy đến với Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse. Hai Đấng này là những người Chúa đã chọn đặc biệt để tham gia vào chương trình cứu độ của Chúa. Hai Đấng dạy chúng ta mấy điều sau đây:
1. Con người không được cứu độ chỉ bằng những giá trị vật chất và tinh thần, nhưng chủ yếu phải bằng những giá trị đạo đức.
2. Những giá trị đạo đức giải cứu con người không phải chỉ trong lãnh vực nhân bản, mà còn phải trong lãnh vực siêu nhiên.
3. Những người cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa phải kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô  và thánh giá của Người.
1/ Những giá trị đạo đức trong lãnh vực tự nhiên
Để được gọi là đạo đức, dù trong lãnh vực tự nhiên, người ta phải giữ mấy điều kiện sau đây:
- Không được phạm tội nghịch với đạo đức, nhất là đối với người khác.
- Nếu lỡ phạm tội thì phải sám hối.
- Trường hợp đã làm hại ai thì phải đền bù.
- Hơn nữa, phải tích cực làm điều lành.
- Tất cả đều phải thực hiện trong ý hướng chân thành, với thực tâm hướng về sự hiện. Chứ không đạo đức chỉ ở cái vỏ bề ngoài.
Phải chỉnh đốn cái tâm như một điều kiện tiên quyết. Chúa Giêsu phán: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo,  ngông cuồng" (Mc 7,20-22).
Trong nhiều hoàn cảnh như hiện nay, cái tâm sẽ được gọi là đạo đức, khi bén nhạy trước những khổ đau của đồng bào.
Trong những bùng nổ xung đột hiện nay tại một số nơi trên thế giới, có những đạo đức thuộc về cá nhân, có những đạo đức thuộc về tập thể, và có những đạo đức thuộc về cơ chế.
Nhìn qua, người ta dễ thấy đạo đức do lời nói rất nhiều, đạo đức do việc làm cũng không ít, đạo đức do tư tưởng thì vô vàn.
Một thoáng nhìn trên đây hy vọng cho chúng ta có một nhận thức tương đối tốt về sự sống đạo đức ngay trong lãnh vực tự nhiên. Sự sống đạo đức ấy đòi một nền giáo dục tốt, một cố gắng đào tạo kiên trì.
2. Những giá trị đạo đức trong lãnh vực siêu nhiên
Đạo đức trong lãnh vực siêu nhiên luôn quy chiếu về Chúa. Quy chiếu bằng niềm tin tưởng, lòng cậy trông, tình yêu mến, thái độ lắng nghe Lời Chúa và ý chí thực thí ý Chúa. Tất cả đều trong thái độ khiêm tốn vâng phục.
Chúa thấu suốt mọi sự. Người thương xót những kẻ khổ đau. Người cứu chuộc những ai tội lỗi. Người tha thứ cho mọi kẻ sám hối trở về.
Điều Chúa muốn nhiều nhất là mọi người hãy yêu thương nhau. Người muốn đổi  mới con người, thánh hoá con người, đưa con người vào cõi phúc trường sinh. Người muốn chúng ta hãy đón nhận Người.
Về một phương diện nào đó, người sống đạo đức trong lãnh vực siêu nhiên chính là một nhân chứng của Đấng vô hình. Đấng vô hình đó là tuyệt đối. Khi Đấng vô hình ấy là tình yêu thương xót, sống động, thì niềm tin vào Người chính là một đặc ân vô cùng quý giá.
Với niềm tin đó, biết bao người sống đạo đức trong lãnh vực siêu nhiên đã có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,9-10).
3/ Người cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa
Riêng những người được Chúa gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa sẽ sống theo gương Đức Mẹ và Thánh Giuse. Họ đi vào cửa hẹp (x. Mt 7,13).
Họ từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Chúa (x. Mt 16,24).
Họ sống thân phận hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu thối đi, để sinh được nhiều hạt khác (x. Ga 12,24).
Họ đặt trọng tâm đời sống của họ vào Đức Giêsu Kitô, một Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thánh giá (x. 1 Cr 2,2).
Họ kết hợp với Chúa một cách mật thiết như cành nho với cây nho, vì họ tin: Nếu không có ơn  Chúa, họ chẳng làm được gì (x. Ga 15,5).
Họ cố gắng chu toàn bổn phận, nhưng cho dù thành công, họ vẫn kể mình như người đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10).
Họ sống một bầu khí tự do tâm hồn hết sức căn  bản, đầy sự thật. Sự thật dựa trên Lời Chúa. "Nếu anh em ở lại trong lời của Thầy, thì anh em thật là môn đệ của Thầy. Anh em sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải cứu anh em" (Ga 8, 31-32). Sự thật được ban cho những ai sống trong Thần Khí. "Chúa là Thần Khí, đâu có Thần Khí của Chúa, ở đấy có tự do" (2 Cr 3,17).
Họ tin và cảm nhận được họ được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa chọn và được Chúa sai đi. Đó là hạnh phúc vô cùng lớn lao của họ. Họ tạ ơn Đức Mẹ và Thánh Giuse. Họ ca ngợi tình yêu Chúa đến muôn thuở muôn đời.
Suy nghĩ đến đây, tôi nhìn thấy những gì mình nên và cần phải chọn lựa, để cuộc sống mình trở nên có ý nghĩa, giữa muôn vàn cái mong manh. Mình sẽ được cứu, và mình cũng sẽ góp phần  vào việc cứu giúp những kẻ khác.
Xã hội Việt Nam hôm nay đang rất cần những người đạo đức. Vì thế sống đạo đức thánh thiện là một bổn phận khẩn thiết, mà những người của Hội Thánh Việt Nam hôm nay cần phải thực hiện một cách rõ ràng và can đảm.

 

Bùi-Tuần 1124: ĐỪNG VÔ CẢM 25-03-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Vô cảm là một tiêu cực tồi tệ trong đạo đức. Vô cảm thuộc về cái tâm. Cái tâm thuộc về tâm: 25-03-2011 Bùi-Tuần 1124

Vô cảm là một tiêu cực tồi tệ trong đạo đức. Vô cảm thuộc về cái tâm. Cái tâm thuộc về tâm linh, nhưng được diễn tả ở trái tim, nên hay gọi là trái tim cho dễ hiểu.
Người vô cảm là người có trái tim chai cứng.
Hậu quả của vô cảm trong đạo đức là rất nghiêm trọng. Xin đưa ra vài cảnh báo của Chúa được ghi trong Phúc Âm.
1. Hậu quả khủng khiếp của vô cảm trong đạo đức
Về vô cảm trước những khổ đau của người khác, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn ông phú hộ và người ăn mày Ladarô. Ông phú hộ hưởng cuộc đời sung sướng. Người nghèo khó Ladarô thì ngồi ăn xin ở cổng nhà ông phú hộ. Ladarô vừa nghèo, vừa bệnh tật. Ông phú hộ không thể không biết người ăn mày đó ngày đêm ở cổng nhà ông. Nhưng ông vô cảm. Sau cùng, người nghèo khó Ladarô chết. Ông được đưa lên thiên đàng. Ít lâu sau, ông phú hộ cũng chết. Ông bị ném xuống hoả ngục. Hình phạt rất khủng khiếp. Đâu có ngờ!
Về vô cảm đối với tình yêu Chúa, Chúa Giêsu đã nói về thành Giêrusalem: "Giêrusalem, Giêrusalem, đã bao  lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà của các ngươi sẽ bỏ mặc cho các ngươi" (Lc 13,34).
Lần khác, Chúa Giêsu nhìn Giêrusalem mà khóc. Người nói: "Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm" (Lc 19,44). Hình phạt rất nặng nề. Đâu có ngờ!
Về vô cảm trước sự không theo ý Chúa, Chúa Giêsu nói rõ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác" (Mt 7,21-23). Họ bị kết án, vì họ đã nhân danh Chúa mà làm những việc lành để tìm lợi riêng, chứ không thực sự để làm sáng danh Chúa. Án phạt thực đau đớn. Đâu có ngờ!
Nguy cơ của vô cảm sẽ tăng lên, khi nó phát triển theo hướng phạm thêm tội lỗi.
2. Phát triển phức tạp của vô cảm
Người vô cảm trước tiếng gọi của bổn phận mến Chúa yêu người, lại hay che giấu lỗi lầm của mình bằng lối sống đạo đức giả.
Phúc Âm nói về họ như những người thích vẻ đạo đức bề ngoài. Họ giữ luật kiêng việc ngày Sabat, không ngồi chung bàn với những người tội lỗi, rửa tay trước khi ăn. Họ tỏ ra bén nhạy, hăng say và tỉ mỉ với những hình thức đạo đức như thế. Mục đích chính là gây uy tín.
Lối sống đạo đức bề ngoài đó dễ lây lan. Đông người trở thành nhóm. Nhiều nhóm làm nên giai cấp. Khi giai cấp có quyền lợi riêng và luật lệ riêng, nó sẽ trở thành cơ chế. Cơ chế như thế là một quyền lực. Nó lèo lái, hướng dẫn dư luận, nhiều khi áp đảo.
Theo Phúc Âm, chính giai cấp đạo đức giả đã kích động đám đông đổi lòng đối với Chúa Giêsu. Họ đưa đám đông đến sự vô cảm tột độ, đó là hiệp thông hiệp nhất với họ trong quyết tâm loại trừ Chúa Giêsu bằng cái án chết rất mực bất công. Mấy ngày trước, đám đông còn hoan hô đón rước Chúa Giêsu. Thế mà bây giờ họ quay ra phỉ báng, nhạo cười, nhục mạ và xin giết Người. Lúc hấp hối, trên thánh giá, Chúa kêu khát. Họ cho chút giấm chua thay vì nước. Chứng tỏ sự vô cảm của họ đã đưa họ tới sự thù ghét triệt để một cách man rợ kinh hoàng.
Vô cảm là một sức mạnh phá hoại đạo đức vừa tinh vi, vừa thô bạo. Nhất là khi nó đã trở thành nếp sống bình thường. Thời xưa là thế, thời nay cũng vậy.
3. Vô cảm lớn nhất
Kinh Thánh coi sự không ăn năn sám hối trước những cảnh báo là một vô cảm rất lớn. Trong ăn năn sám hối, điều quan trọng cần thực hiện là đổi mới cái tâm.
Thánh vương Đavít cầu nguyện: "Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một quả tim trong trắng" (Tv 51,12).
Nơi tiên tri Giêrêmia, Chúa phán: "Ta sẽ ghi luật Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ viết luật đó trên trái tim chúng" (Gr 31,33).
Nơi tiên tri Êdêkien, Chúa phán: "Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt Thần Khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá, và ban cho chúng một trái tim bằng thịt" (Ed 11,19).
Tất nhiên, trái tim nói đây phải được hiểu là một trái tim thẳm sâu, tức cái tâm, thuộc tâm linh.
Chính trái tim sâu thẳm ấy được Kinh Thánh gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Chính tại đó, Chúa đến gặp ta, ta gặp gỡ Chúa. Chính tại đó, Chúa ở lại với ta. Chính tại đó, Chúa ban cho ta lửa tình yêu và ánh sáng chân lý. Chính tại đó, ta sẽ có những lựa chọn, những hướng đi, những quyết định, nhờ Lời Chúa dẫn đưa.
Khi nghe lời Chúa Giêsu phán: "Tôi hy sinh mạng sống tôi cho đoàn chiên" (Ga 10,15), nếu tôi cảm thấy xúc động trong trái tim, thì xúc động đó là vang vọng từ cái tâm sâu thẳm của tâm linh. Xúc động đó là rất tư riêng.
Khi suy gẫm lời Chúa Giêsu nói: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con" (Ga 15,12), nếu tôi cảm thấy xao xuyến trong lòng, thì xao xuyến đó là rung động từ cái tâm sâu thẳm của tâm linh. Rung động đó thúc giục tôi gần gũi và chia sẻ.
Chính vì trái tim sâu thẳm giữ một vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức, nên sám hối cần phải đổi mới nó. Nếu không, sám hối sẽ chỉ là hình thức. Vô cảm sẽ vẫn còn vô cảm.
Tình hình hiện nay có nhiều dấu hiệu không lành. Có nhiều tiếng báo động. Nhưng trong lãnh vực phần rỗi, trái tim nhạy bén sẽ là cơ quan báo động cần thiết nhất. Nếu chẳng may, nó đã vô cảm, thì phần rỗi sẽ ra sao?
Riêng tôi, cho dù có thể đôi khi còn vô cảm trong một số lãnh vực, nhưng không bao giờ vô cảm trước lời Chúa phán sau đây: "Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay không thương đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù họ có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên con bao giờ" (Is 49, 15). Tôi tin vào tình yêu thương xót Chúa. Niềm tin ấy đã cứu tôi.

 

Bùi-Tuần 1125: HÃY RA KHỎI MỒ 07-03-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Một người đã chết, đã được an táng, đã chôn trong mồ. Nhưng đã được Chúa Giêsu cho sống lại: 07-03-2011 Bùi-Tuần 1125

Một người đã chết, đã được an táng, đã chôn trong mồ. Nhưng đã được Chúa Giêsu cho sống lại. Người đó là ông Ladarô. Xin trích lại ở đây vài chi tiết được ghi trong Phúc Âm thánh Gioan: "Đức Giêsu đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giêsu nói: Đem phiến đá này đi. Cô Mácta là chị người chết liền nói: Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày. Đức Giêsu bảo: Nào Thầy đã chẳng nói với con rằng nếu con tin, con sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện... Rồi, Người kêu lớn tiếng: Ladarô, hãy ra khỏi mồ. Người chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, để anh ấy đi" (Ga 11,38-44).
Câu chuyện Kinh Thánh trên đây dạy tôi hãy chạy đến với Chúa Giêsu. Tôi và nhiều người chúng ta có thể đã chết về nhiều mặt nào đó. Cũng có thể chúng ta đang bị chôn vào những nấm mồ vô hình còn nặng hơn mồ bằng đá. Chẳng ai sẽ cứu được chúng ta. Chỉ có Đức Giêsu Kitô. Người kêu to lên: "Hãy ra khỏi mồ". Nếu chúng ta biết đón nhận ơn Chúa, chúng ta sẽ đi ra khỏi những nấm mồ ấy.
Vậy, những nấm mồ đó là thế nào, xin kể ra đây mấy thứ tìm được trong Phúc Âm.
1. Mồ mả là những tối tăm tâm hồn
Chúa Giêsu giảng nhiều điều. Nhưng không phải mọi người nghe đều đón nhận. Riêng ý định của Thiên Chúa do Người nói ra thường bị từ chối. Chính các tông đồ là những người thân cận cũng không đón nhận ngay. Thí dụ Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của Người. Loan báo đến ba lần trong nhiều dịp khác nhau. Nhưng lần loan báo nào cũng không được các môn đệ Người đón nhận. Xem ra tâm hồn các môn đệ có những lớp tối tăm phủ kín. Những lớp tối tăm ấy như một nấm mồ chôn vùi tâm trí các ngài.
Mồ mả là những tối tăm tâm hồn. Xưa là thế, và nay cũng vậy. Có nhiều Lời Chúa không được chúng ta đón nhận. Có nhiều ý định của Chúa không được chúng ta quan tâm. Lý do chính là vì chúng ta tối tăm. Lời Chúa và ý định của Chúa muốn cho chúng ta những điều lành, nhưng chúng ta lại không hiểu hay không muốn hiểu. Và nếu có hiểu, thì cũng không muốn phấn đấu để đón nhận.
Thứ tối tăm nặng nề nhất là mình tối tăm mà lại khẳng định mình sáng suốt. Thứ tối tăm đó chính là một mồ mả chôn sâu con người.
Một thứ mồ mả khác thường chôn vùi con người là sự yếu đuối.
2. Mồ mả là sự yếu đuối
Sự yếu đuối được thánh Phaolô tả như sau: "Muốn sự thiện thì có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại làm" (Rm 7,17-18).
Ở vườn Cây Dầu, các môn đệ Chúa đã phạm tội. Kẻ thì bỏ trốn. Kẻ thì chối Chúa. Lý do là vì các ngài quá yếu đuối. Trước cơn thử thách quá mạnh và bất ngờ, các ngài cảm thấy mình đuối quá, nên để mình chết đuối trong sự phản bội.
Sự yếu đuối không chỉ là chuyện xưa. Hiện nay sự yếu đuối vẫn tồn tại. Hơn nữa, nó đang phát triển tràn lan và mạnh mẽ. Bởi vì hiện nay sự yếu đuối tại nhiều nơi được tôn vinh như một quyền tự do. Làm điều xấu do yếu đuối mà lại cho mình có quyền làm. Thậm chí còn dám cho việc làm đó là góp phần phát triển nền văn minh tự do. Do đó, mà lương tâm mất dần ý thức về tội. Không còn sám hối. Không còn vấn đề tự hạ xin Chúa thứ tha lỗi lầm.
Mồ mả là những yếu đuối biết mình thì đáng thương. Còn  mồ mả là những yếu đuối tự kiêu thì rất đáng trách.
Một cái mồ nữa chôn con người là sự cố chấp.
3. Mồ mả là tính cố chấp
Cố chấp thường được hiểu là sự không chấp nhận lẽ phải, cho dù lẽ phải được trình bày rõ ràng, được chứng minh đầy đủ, được nói ra do những người có uy tín. Mẫu người cố chấp được nhận thấy nơi một số đông thuộc lớp người gọi là biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu.
Lẽ phải mà Chúa Giêsu khuyên dạy là đừng phô trương, nhưng hãy khiêm nhường. Lẽ phải còn là yêu thương cứu giúp người đau khổ bệnh tật cả trong ngày Sabba, chứ đừng cấm cản, do giữ luật kiêng việc ngày Sabba một cách máy móc. Lẽ phải là sám hối.
Những lẽ phải như thế đã bị các biệt phái và luật sĩ chống đối. Chúa Giêsu trình bày cách nào cũng không được họ chấp nhận. Tính cố chấp nơi họ dần dần đưa họ đến sự vô cảm, rồi đến những toan tính độc ác quyết định loại trừ Chúa Giêsu bằng cách giết người.
Sự cố chấp trên đây cũng đang hiện hình ở thời nay trong đạo ngoài đời. Nó là một thứ mồ mả chôn sống con người. Thế mà không thiếu người lại tự mình xây dựng mồ mả đó cho chính mình. Rồi tự mình chui vào đó. Động lực sâu xa của cố chấp chính là kiêu ngạo tự ái.
Một thứ mồ mả khác chôn con người là tội lỗi.
4. Mồ mả là tội lỗi
Thánh Gioan viết: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ" (1 Ga 3,8). Lời đó cho ta thấy tội chôn con người vào kiếp khổ dành cho ma quỷ.
Có ba loại tội: Tội thuộc cá nhân, tội thuộc tập thể, tội thuộc cơ chế. Trong vụ kết án và giết Chúa Giêsu, Giuđa bán Chúa Giêsu, đó là tội cá nhân. Nhóm lãnh đạo tôn giáo kích động dân chúng thù ghét Chúa Giêsu, đó là tội tập thể. Toà án kết án tử hình Chúa Giêsu nhân danh luật đạo, luật đời, đó là tội cơ chế.
Ba loại tội đó thời nào cũng có. Thời nay tội cá nhân rất nhiều, tội tập thể là rất nặng nề, tội cơ chế cũng không thiếu. Lấy tội để trị tội. Lấy ác để đẩy lùi sự ác. Tình hình như thế nhiều khi rất là u ám.
ù
Đến đây chúng ta có thể thấy phần nào những gì đã và đang là những mồ mả chôn con người về mặt tâm linh. Ai sẽ cứu chúng ta? Thưa: Đấng cứu chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Xưa Người đã gọi ông Ladarô ra khỏi mồ, thì nay Người cũng dùng quyền năng và lòng thương xót của Người mà cho nhiều người được sống lại về phần linh hồn.
Chúa ban ơn phục sinh. Nhưng người ta cần phải biết đón nhận. Biết đón nhận bằng những việc được kể trong chuyện Chúa gọi ông Ladarô ra khỏi mồ.
Việc thứ nhất là người ta phải thành thực thú nhận tình trạng bi đát của mình. Cô Mácta thưa với Chúa: "Em con chết đã bốn ngày. Trong mồ đã có mùi hôi thối". Theo gương khiêm nhường đó, chúng ta thú nhận tâm hồn chúng ta là một vùng thối tha do tội lỗi, thì đó là bước đầu tốt để Chúa đoái nhìn.
Việc thứ hai là người ta phải vâng lời Chúa, mà cất tảng đá che đậy nấm mồ. Chúa phán: "Hãy đem phiến đá này đi". Trong trường hợp của chúng ta, lời đó có nghĩa là việc sám hối.
Việc thứ ba là người ta phải hết lòng tin vào Chúa. Chúa nói với cô Mácta: "Này Thầy đã chẳng nói với con rằng nếu con tin, con sẽ được thấy vinh quang của Chúa sao?".
Nhìn vào Hội Thánh Việt Nam hôm nay, tôi vui mừng nhận thấy những người được Chúa gọi ra khỏi mồ là rất đông. Nhiều người đã đón nhận ơn Chúa. Những sự sống lại như thế nói về Chúa chúng ta một cách hùng hồn, hơn bất cứ công trình xây dựng nào và hơn bất cứ tổ chức hoành tráng nào.
Lúc này, chính chúng ta có còn bị chôn trong mồ mả nào không? Chính chúng ta có cộng tác vào ơn Chúa gọi "Hãy bước ra khỏi mồ" không?.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

 

Bùi-Tuần 1126: HIẾN TẾ MÌNH LÀM CỦA LỄ ĐỀN TỘI 08-03-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Chúa Giêsu phán: "Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,15). Sau đó, Người: 08-03-2011 Bùi-Tuần 1126

Chúa Giêsu phán: "Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,15). Sau đó, Người còn khẳng định: "Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình" (Ga 10,18).
Sự Chúa Giêsu tự ý hy sinh mạng sống mình đã được thực hiện trong cuộc thương khó của Người. Cuộc thương khó ấy nhắm mục đích chứng tỏ tình yêu Chúa đối với con người. Thánh Phaolô viết: "Theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta... Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" (Rm 5,6-8).
Chúa Giêsu chịu chết vì yêu thương chúng ta có nghĩa là "để cứu chúng ta khỏi án chết của tội" (kinh trong Phụng vụ thứ sáu Tuần Thánh).
Ý đó đã được tiên tri Isaia diễn tả bằng những câu sau: "Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành" (Is 53,5). "Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ Người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu" (Is 53,10).
Như vậy, khi Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ đền tội cho nhân loại, Người đã nghĩ đến mỗi người chúng ta. Nghĩ đến trong tình yêu thương cứu độ. Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa. Tâm tình cảm tạ của chúng ta sẽ tha thiết hơn, khi chúng ta nhìn lâu vào của lễ đền tội đó.
1. Của lễ đền tội
Chúa Giêsu trở thành của lễ đền tội thay cho chúng ta trước hết bằng những đau đớn.
Đau đớn phần xác thì coi như đến tận cùng của làn sóng hận thù. Tất cả mọi độc ác đều trút lên thân Người. Bị trói, bị đánh đòn, bị đội mão gai, bị nhổ vào mặt, bị lột trần, bị xỉ vả, bị đóng đinh vào thập giá. Trong giờ phút sau cùng, Người kêu khát. Người ta đáp lại bằng chút giấm chua. Chết rồi, Người vẫn bị người ta đâm vào trái tim.
Đau đớn phần tâm trí thì coi như bị ném sâu vào vực thẳm buồn phiền cô đơn. Phúc Âm kể: "Người cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được... Người đi xa một chút, quỳ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được. Người nói: Abba, Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mc 14,34-35).
Tâm hồn Chúa Giêsu khổ đau nhất là vì tình yêu bị chối từ, hơn nữa bị đáp trả bằng những vô ơn và độc ác. Người cảm thấy cô đơn. Thử thách về cô đơn càng trở nên trầm trọng, khi Người cảm thấy như chính Chúa Cha cũng bỏ Người. Trên thánh giá, Người than: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc 15,33).
Đau đớn phần xác đến tận cùng, đau khổ tâm hồn đến cực độ. Tất cả đều chịu trong tinh thần hiền lành khiêm tốn. Những yếu tố trên đây chưa phải đã là của lễ đền tội. Một yếu tố cần phải nhắc tới, đó là tình yêu vẫn trọn vẹn. Trên thánh giá, Chúa Giêsu tha thứ và xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). Và lời sau cùng nữa trước khi tắt thở trên thánh giá là: "Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha" (Lc 23,46). Người nói những lời yêu thương đối với những kẻ làm khổ Người và những lời phó thác đối với Đức Chúa Cha, trong một tình trạng bi đát nhất, với một thân phận tiều tuỵ, tàn tạ và bị loại bỏ.
Những đau khổ xác hồn Chúa Giêsu phải chịu cùng với tình yêu vô biên của Người làm nên của lễ đền tội thay cho chúng ta. Cùng với của lễ đền tội đó, Chúa Giêsu đi về với Chúa Cha.
Sự Chúa Giêsu hiến tế mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại là việc của tình yêu. Tình yêu luôn là một tiếng gọi. Chúa Giêsu gọi các môn đệ Chúa hãy bắt chước Người. Người đã yêu thương thế nào, thì các môn đệ hãy yêu thương như vậy.
Thực sự, các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi vẫn vâng theo tiếng gọi ấy. Hiện nay, họ đang sống sự hiến tế mình làm của lễ đền tội thế nào?
2. Các môn đệ Chúa hôm nay sống tình trạng hiến tế
Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, các môn đệ Chúa Giêsu hiện nay vẫn sống tinh thần hiến tế. Cuộc sống đó được thực hiện dưới nhiều hình thức như: Đền tạ trước Thánh Thể hoặc trước thánh giá, đền tạ trong đời sống cộng đoàn, đền tạ trong khuôn khổ chu toàn bổn phận, đền tạ trong tình trạng đau yếu, đền tạ trong dấn thân phục vụ người nghèo túng, khổ đau...
Trong bất cứ hình thức đền tạ nào, họ luôn luôn khát khao Chúa. Chúa đã kêu gọi họ hãy khao khát Người. Phúc Âm ghi: "Đức Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: Ai khát, hãy đến với tôi. Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống" (Ga 7,37-38).
Thực sự, những ai khao khát Chúa với lòng tin, đã được Chúa đến trong lòng họ. Chúa tuôn đổ vào lòng họ nước hằng sống là tình yêu của chính Người. Một tình yêu cảm thương, một tình yêu dâng mình làm lễ vật đền tội.
Chính Chúa Giêsu biến đổi họ thành lễ vật đền tội thay cho người khác. Sự biến đổi ấy được thực hiện từ cõi lòng sâu thẳm. Nhờ vậy, họ biết yêu thương như Chúa đã yêu thương. Tình yêu đó không dừng lại ở ranh giới nội bộ, mà còn tràn sang những người khác, kể cả những người chống đối và ghen ghét họ.
Tình yêu ấy luôn kèm theo hy sinh. Hy sinh gây nên đau đớn. Đau đớn nào cũng vẫn là đau đớn. Hy sinh đau đớn làm chứng cho tình yêu dâng hiến.
Sáng sớm Chúa nhật vừa qua (03.4.2011), lúc 04 giờ, tôi mở đài Rai, Italia. Một bất ngờ đã thu hút tôi. Đài đang chiếu một cuộc toạ đàm mang tên: "Cuộc thương khó của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II". Toạ đàm gồm tường thuật và bình luận về những hình ảnh đau đớn của Đức Thánh Cha. Ngài đau đớn trước những đau đớn của người khác. Ngài đau đớn vì cảnh khổ đau của nơi này nơi nọ trên thế giới. Ngài đau đớn do những bệnh tật xảy đến cho Ngài. Những đau đớn hiện lên trên nét mặt của Ngài, trên những bước đi của Ngài, trong giọng nói của Ngài, trên thân hình của Ngài, trên hai tay run rẩy của Ngài. Sự thương khó của Ngài có một sức linh thiêng kỳ diệu. Nó đầy khiêm tốn, yêu thương và đời sống nội tâm. Chính cuộc thương khó đó đã lôi kéo từng triệu người đến với Ngài và đến với Chúa.
Qua cuộc toạ đàm trên đây, Chúa cho tôi hiểu rằng: Sự thương khó của Chúa Giêsu là một dấu ấn Chúa đóng vào những người Chúa thương yêu.
Chúa cũng cho tôi thấy rằng: Chúa đang kêu gọi các môn đệ Chúa hãy khiêm nhường phó thác đón nhận vào đời mình một phần sự thương khó của Đấng Cứu Thế. Chính bằng cách đó, họ sẽ tham gia vào công cuộc cứu độ nhân loại một cách hữu hiệu theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

 

Bùi-Tuần 1127: ĐỂ ĐƯỢC GẶP CHÚA PHỤC SINH 12-04-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Được gặp Chúa Phục Sinh là một ân huệ lớn lao. Các môn đệ Chúa xưa đã được ân huệ: 12-04-2011 Bùi-Tuần 1127

Được gặp Chúa Phục Sinh là một ân huệ lớn lao. Các môn đệ Chúa xưa đã được ân huệ đó.
Khi Chúa Phục sinh đến gặp họ, họ cảm nhận được rằng: Họ được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa chọn và được Chúa sai đi. Họ xác tín rằng: Không những họ được ơn Chúa yêu thương, mà họ còn được ơn biết yêu mến Chúa và yêu thương người khác.
Các môn đệ Chúa đã được gặp Chúa Phục sinh và đón nhận ơn Phục Sinh không phải một cách miễn cưỡng. Thực sự các ngài đã khao khát, đợi chờ. Hơn nữa, Chúa đã dọn lòng các ngài một cách đặc biệt, đó là làm cho các ngài trở nên hết sức khiêm nhường. Ở đây, xin nhìn sâu một chút vào điều kiện quan trọng đó.
1. Khiêm nhường nhận ra sự yếu hèn của bản thân mình
Đứng đầu các môn đệ là thánh Phêrô. Đã một thời, ngài luôn luôn tỏ mình là người trung tín và can đảm. Ngài dám nói công khai trước Chúa Giêsu và các anh em: "Dù mọi người bỏ Thầy, thì con cũng không bỏ Thầy" (Mc 14,29). Ngài tự tạo ra một hình ảnh anh hùng về chính mình, với tất cả sự quảng đại, nhiệt thành, bất khuất. Ngài tự hào về hình ảnh tự tạo đó. Nhưng đàng sau hình ảnh đó là sự yếu đuối, mà ngài không biết. Ngài chỉ nhận ra sự kém cỏi khốn nạn của mình, khi ngài chối Chúa. Hình ảnh vinh quang ngài tự tạo bị sụp đổ trước câu hỏi do một người đầy tớ gái của thầy cả Thượng phẩm: "Ông có phải là môn đệ của ông Giêsu không?" (Mt 26,71). Sự sụp đổ quá dễ dàng đó đã làm cho thánh Phêrô bừng tỉnh. Ngài nhận ra chính mình với tất cả sự khiêm nhường sâu thẳm.
Thánh Giacôbê và thánh Gioan cũng là những môn đệ được Chúa Giêsu thương cách riêng như thánh Phêrô. Hai ngài có lần cũng đã đoan chắc với Chúa là sẽ vui lòng uống chén đắng của Chúa (x. Mc 10,39). Có nghĩa là sẽ chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa, sẽ vác thánh giá đỡ cho Chúa. Các ngài hứa là hứa, chứ không nhận thức được khả năng của mình. Với lời hứa hùng hồn đó, các ngài cũng tự tạo ra cho mình một hào quang quả cảm. Nhưng ở vườn Cầy Dầu, lúc thử thách tới, các ngài đã bỏ trốn. Hào quang tự tạo bị tan vỡ. Các ngài nhận ra sự yếu đuối của mình. Khám phá đau đớn ấy khiến các ngài khiêm nhường sâu thẳm.
Các môn đệ khác trong bữa tiệc ly cũng đã nhận được chức thánh, được Chúa cầu nguyện cho với bao lời ủi an dặn dò, các ngài tưởng mình đương nhiên đã trở thành thánh thiện. Nhưng chỉ vài giờ sau, các ngài cũng vẫn mê ngủ, không đủ sức tỉnh thức cầu nguyện. Các ngài để mặc Chúa cô đơn trong cơn xao xuyến. Khi Chúa bị bắt, các ngài đều bỏ trốn. Có một cái gì đã đổ vỡ trong các ngài. Tưởng mình thánh thiện là ảo tưởng. Sự đổ vỡ ảo tưởng giúp cho các ngài thấy sự yếu đuối hèn hạ của mình. Các ngài trở nên khiêm nhường sâu sắc. Sự khiêm nhường ấy chính là điều kiện để các ngài được gặp Chúa Phục Sinh.
Cùng với sự khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối, các môn đệ Chúa còn được chuẩn bị thêm một sự khiêm nhường khác, đó là khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa.
2. Khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa
Hồi đó, nhiều người trong dân tin Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Nhiều người đã gọi Chúa Giêsu là con vua Đavít. Các môn đệ Chúa cũng tin như vậy. Niềm tin ấy dựa theo mong đợi của truyền thống đã vẽ ra một hình ảnh Đấng Cứu Thế với những nét của vua chúa. Theo đó, Chúa Giêsu sẽ gom lại trong tay mình các quyền lực, sẽ dẹp tan các quân thù, sẽ lên ngôi vua, ngồi trên ngai vàng, kế vị vua Đavít. Nước Người sẽ lớn lao, các môn đệ Người sẽ được chia quyền cai trị, với chức cao quyền cả. Những mộng ước như thế được các môn đệ coi là chính đáng.
Nào ngờ Chúa Giêsu lại đi theo hướng khác, đó là hướng hiến thân mình làm của lễ đền tội cho nhân loại. Chúa Cứu Thế đã nói nhiều lần cho các môn đệ biết hướng đó. Nhưng các ngài không hiểu, và như không muốn hiểu, thậm chí không thể hiểu nổi. Đến khi hướng đó được thực hiện bằng cái chết của Chúa trên thánh giá, các môn đệ mới chấp nhận.
Trong các ngài, có một cái gì tan vỡ, hụt hẫng thảm hại. Các ngài nhận ra ý của các ngài không phải là ý Chúa. Ý Chúa rất khác ý các ngài. Vâng phục ý Chúa thì phải bỏ ý riêng. Từ bỏ nào cũng gây đau đớn. Tuy nhiên, các ngài vẫn tin vào Chúa. Đức tin được thanh luyện. Các ngài trở nên khiêm nhường, coi sự vâng phục ý Chúa là một giá trị cao cả, có sức thánh hoá và cứu độ. Chính niềm tin khiêm nhường ấy đã là một điều kiện thích hợp, để các môn đệ được gặp Chúa Phục Sinh.
Thứ khiêm nhường sau cùng rất cần để các môn đệ gặp được Chúa Phục sinh, đó là khiêm nhường sám hối.
3. Khiêm nhường sám hối
Phúc Âm tả sự sám hối của thánh Phêrô bằng việc ngài rút vào thinh lặng và khóc lóc thảm thiết (x. Mt 26,75). Tôi nghĩ các môn đệ khác cũng đều đã sám hối.
Các ngài khiêm nhường nhận ra rằng: Trong các lời hứa trung tín của các ngài đã có mầm bất trung, trong các việc đạo đức của các ngài đã có nhiều vẩn đục, trong tình yêu của các ngài đã có nhiều ích kỷ, trong các việc làm tưởng là hợp ý Chúa đã có pha nhiều ý riêng. Những nhận thức đó khiến các ngài trở nên khiêm nhường.
Điều làm cho các ngài đau đớn là đã làm phiền lòng Chúa. Điều làm cho các ngài hối hận là thấy mình đã không tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Điều làm cho các ngài mến Chúa hơn trước là thấy Chúa đã chịu chết để đền tội cho mình.
Sám hối của các môn đệ Chúa là một sự trở về với tình yêu Chúa. Một sự trở về khiêm nhường, tự đáy lòng, với lời cầu nguyện thiết tha và với sự phó thác triệt để vào lòng thương xót Chúa.

ù
Những suy nghĩ trên đây giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn, để mừng lễ Phục Sinh. Mừng lễ Phục sinh không phải chỉ là tham dự thánh lễ Phục sinh với những lễ nghi phụng vụ và bầu khí hân hoan, nhưng chủ yếu phải là được gặp Chúa Phục Sinh, để đón nhận ơn phục sinh từ chính Chúa Phục Sinh.
Để được thế thì phải khiêm nhường. Khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường. Hãy tập trung vào điều kiện đó.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thương ban cho con ơn được gặp Chúa. Con rất bất xứng. Nhưng con tin Chúa giàu lòng thương xót sẽ đoái nhìn đến con. Con hết lòng cảm tạ Chúa. Con xin hoàn toàn phó thác con trong tay Chúa. Lạy Chúa là Đấng Cứu Chuộc vô cùng nhân ái.

 

Bùi-Tuần 1128: VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA 18-04-2011

 + GB. BÙI TUẦN
Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 36 năm thụ phong Giám Mục (30-4-1975/30-4-2011)
Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan.
 

Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên: 18-04-2011 Bùi-Tuần 1128

Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển. Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương  nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau" (Ga 13,31-33a. 34-35).
***
1. Lúc bắt đầu đi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người" (Ga 13,31).
Lời đó cho thấy: Vinh hiển của Chúa Giêsu là sự Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mình: 18-04-2011BT12
Lời đó cho thấy: Vinh hiển của Chúa Giêsu là sự Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mình làm của lễ đền tội cho nhân loại. Cũng chính tình yêu hy sinh của Người như của lễ sẽ làm cho Chúa Cha được vinh quang.
Chúng ta hãy nhìn vào của lễ Chúa Giêsu.
Của lễ là chính bản thân Người.
Bản thân Người như Con Chiên hiền lành, mà sách Xuất Hành nói tới (x. Xh 12,11-14) sẽ bị giết để cứu dân.
Bản thân Người như người tôi trung, mà tiên tri Isaia nói tới (x. Is 52,13-58) sẽ bị hành hạ, thay cho kẻ tội lỗi.
Bản thân Người như người nô lệ, mà thánh Phaolô nói tới (x. Pl 2,7) sẽ bị treo trên thập giá, để đền tội thay cho nhân loại.
Bản thân Người như vị tư tế, mà tác giả thư gởi Do Thái nói tới (x. Dt 10,8) như kẻ vâng phục: "Này con xin đến để thực thi ý Cha".
Như vậy, chịu đau khổ vì yêu thương là một giá trị cao cả. Nó có sức cứu độ, do đó mà Thiên Chúa được vinh quang.
Nhận thức trên đây đổi mới cái nhìn của tôi. Tôi ca ngợi những môn đệ Chúa trong đó có anh chị em, đã và đang chịu đau khổ vì mến Chúa yêu người. Tôi cảm thương sâu sắc với những ai đau khổ. Nhận thức đó cũng đã thúc đẩy tôi bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn, khi tôi sợ hãi trước những cơn bão tố đổ trên tôi đang phải hấp hối trong những ngày đen tối. Chính Người là sức mạnh của tôi.
2. Tôi càng bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn một cách phó thác, khi tôi thực thi lời Người dạy: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con" (Ga 13,34).
Theo tôi, cái khó không phải là yêu thương, nhưng là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.
Bản thân tôi rất yếu đuối. Nếu không được Chúa ban ơn giúp sức, tôi không thể nào yêu thương như Chúa yêu thương. Yếu đuối là một cái khó rất lớn.
Nhưng, cho dù tôi có yêu thương tới một mức nào đáng kể, tôi cũng sẽ gặp một cái khó khác. Cái khó đó từ bên ngoài. Rất nhiều người kể cả trong nội bộ chúng ta, vẫn coi yêu thương như Chúa yêu thương là một sự hèn yếu. Đám đông không thích thánh giá là một áp lực. Sống trong một môi trường như vậy, người môn đệ nào của Chúa kiên trì với đường lối yêu thương nhiều khi sẽ thấy mình bị cô lập. Nhất là khi Satan lại chỉ huy công việc chống phá. Satan là một cái khó rất mạnh.
Các môn đệ Chúa sẽ cô đơn và như thất bại. Nhưng Chúa vẫn thắng. Bởi vì Chúa quyền năng vẫn hay dùng những dụng cụ hèn yếu để mở rộng Nước của Người.
Tôi đã được nghe tâm sự của rất nhiều người trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Họ cho biết là họ đã được ơn Chúa và cảm nhận được tình Chúa xót thương, nhờ tiếp xúc với những người công giáo sống yêu thương. Qua những tâm sự đó, tôi thấy Nước Thiên Chúa là Nước ân sủng và tình yêu. Nước Thiên Chúa dưới hình thức đó đã đi vào biết bao tâm hồn, Nước Chúa đang đi vào lòng dân tộc Việt Nam.
3. Khi hiểu được sự thực trên đây, tôi vững tin hơn vào Lời Chúa phán: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau" (Ga 13,35).
Yêu thương là dấu chỉ, để nhận ra ai là môn đệ Chúa. Chính Chúa chọn yêu thương là dấu chỉ, thì không ai có quyền thay đổi. Chúng ta đón nhận sự chọn lựa mà Chúa ban cho ta như một ơn gọi. Ơn gọi này không dễ dàng. Vì thế chúng ta cầu xin Chúa đào tạo chúng ta. Chúa đào tạo chúng ta bằng nhiều cách. Một cách Chúa thường dùng đó là thánh giá Chúa Giêsu.
4. Anh chị em thân mến,
Tình hình hiện nay đang được Chúa báo động. Có nhiều bất an, bất ổn. Có nhiều nguy cơ rất đáng ngại. Nguy cơ nên để ý nhất là sự lộng hành của Satan. Mục tiêu mà Satan nhắm chống phá nhiều nhất, chính là Nước tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Trước tình hình này, Chúa đang gởi đến cho chúng ta một sứ điệp, đó là Chân Phước Gioan Phaolô II. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị thánh đương thời.
Ngài là người môn đệ Chúa đã được tham gia sâu sắc vào cuộc thương khó Chúa.
Ngài là vị chủ chăn đã luôn dạy đoàn chiên về bổn phận yêu thương nhau.
Ngài là người con Đức Mẹ hay kêu gọi mọi người hãy trông cậy vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Ba tình thương đều có hy sinh.
Ba tình thương như ba dòng chảy ơn thánh, giúp chúng ta đến với Chúa và gần lại với nhau.
Ba dòng chảy này giúp chúng ta sống Lời Chúa về tình yêu một cách phong phú và cụ thể trong thời sự hôm nay.
Vì thế, với việc suy gẫm Lời Chúa hôm nay, cùng với việc phong Chân Phước  ngày mai cho Đức Gioan Phaolô II, Chúa muốn chúng ta hãy vững tin vào đường lối, mà Chúa đã dạy trong Lời Chúa và trong vị tân Chân Phước, đường lối đó chính là tình yêu hy sinh. Khi bản thân ta biến thành của lễ tình yêu hy sinh, thì chúng ta sẽ làm cho Chúa được vinh quang.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con biết đón nhận Tin Mừng hôm nay của lòng thương xót Chúa. Amen.

 

Bùi-Tuần 1129: HỒN CỦA ĐỐI THOẠI NƠI NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA

GIÊSU 07-05-2011
 + GB. BÙI TUẦN
 

Thời nay, người ta hay nói tới đối thoại. Bởi vỡ hơn bao giờ hết, cuộc sống được nhấn mạnh: 07-05-2011 Bùi-Tuần 1129

1.
Thời nay, người ta hay nói tới đối thoại. Bởi vỡ hơn bao giờ hết, cuộc sống được nhấn mạnh đến mặt liên đới, sống là sống với.
Riêng tại Hội Thánh Việt Nam, đối thoại càng ngày càng được đặt thành vấn đề nóng. Như đối thoại với nền văn hoá dân tộc, với người nghèo, với chế độ, với các tôn giáo bạn. Đối thoại giữa các thành phần khác nhau trong nội bộ Hội Thánh cũng đang là vấn đề quan trọng cần quan tõm. Tài liệu về những vấn đề này phải nói là rất phong phú. Tất nhiên đối thoại trên đây đều có tính cách đi tỡm một cuộc sống chung bỡnh an và chia sẻ Tin Mừng.
Theo tôi, để đạt được mục đích trên, đối thoại cần phải có cái hồn. Cái hồn đó là Nước Trời. Dấu Chỉ của Nước Trời là tỡnh yờu, chõn lý và õn sủng. Nước Trời phải ở trong ta khi ta đối thoại. Nước Trời trong ta sẽ được gởi tới những người ta gặp một cách tự nhiên và tế nhị. Nước Trời trong ta sẽ được ban ra từ Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trỡnh đối thoại với loài người. Trong hành trỡnh dài này cú hai trường hợp được coi là những cuộc đối thoại quan trọng nhất, đó là sự kiện Chúa sinh ra và sự kiện Chúa chịu chết.
2.
"Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ" (Lc 2,1). Mục đích là biểu dương quyền lực. Qua cuộc kiểm tra này, các dân tộc, các quốc gia sẽ nhỡn thấy vinh quang của hoàng đế là bao la hùng vĩ.
Chính trong hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đó giỏng sinh. Người sinh ra không ở trong đền đài vua chúa, thậm chí cũng không ở trong một căn nhà thường dân. Nơi Người chọn để sinh ra đời là một hang đá dành cho súc vật giữa cánh đồng hoang vắng. Mục đích của Người là diễn tả tỡnh yờu. Nếu sự giỏng sinh của Chỳa là một cuộc đối thoại với loài người, thỡ cỏi hồn của cuộc đối thoại này chớnh là tỡnh yờu tự hạ để ở với loài người. Nước Trời mà Người đem đến là Chỳa tỡnh yờu ở giữa chỳng ta, một tỡnh yờu khiờm nhường, hy sinh, chấp nhận nghốo khổ, chia sẻ cảnh khốn cùng của những người thấp bé nhất. Đó là một Tin Mừng, được ban tặng mà không áp đặt.
Khởi đầu cuộc đời Chúa Cứu Thế là như thế.
Kết thúc cuộc đời Chúa Cứu Thế cũng như vậy.
3.
"Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Không Men, các thượng tế và kinh sư tỡm cỏch dựng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi" (Mc 14,1).
Lễ Vượt Qua và lễ Không Men là thời gian trọng đại của đạo Do Thái. Dân chúng quy tụ rất đông ở Đền thờ Giêrusalem. Bầu khí tôn giáo rất mực tưng bừng. Toàn dân nhớ lại sự kiện lịch sử vĩ đại đó xảy ra xưa, đó là họ đó được Chúa cứu khỏi quyền Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, chiếm hữu miền đất Hứa. Họ đó đại thắng trong vinh quang. Cũn Ai Cập thỡ đại bại trong nhục nhó.
Chính trong hoàn cảnh mừng lễ đó, Chúa Giêsu đó kết thỳc cuộc đời mỡnh. Nơi Người kết thúc cuộc đời mỡnh là nỳi Sọ, chỗ dành để xử tử các tội nhân. Người bị treo trên thập giá giữa hai tên cướp. Mục đích của Người là tỏ bày tỡnh yờu cứu độ. Người tự hiến dâng mỡnh làm của lễ đền tội cho nhân loại. Nếu sự chết đi của Chúa Giêsu là một đối thoại với loài người, thỡ cỏi hồn của đối thoại ấy chính là tỡnh yờu khiờm nhường, hy sinh chấp nhận cảnh nghốo khổ nhục nhó đến cùng, để đền tội cho những người mỡnh yờu. Đó là một Tin Mừng, được ban tặng nhưng không.
4.
Thực sự, tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần thế đều là một chuỗi dài những đối thoại với con người. Trong những đối thoại bằng lời khuyên dạy, Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến tỡnh yờu khiờm nhường.
"Khi anh em được mời dự tiệc thỡ đừng ngồi vào chỗ nhất" (Lc 14,8).
"Khi anh em đói tiệc, hóy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không cú gỡ đáp lễ, và như thế, anh em mới thực có phúc" (Lc 14,13-14).
"Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em xét đoán thế nào, thỡ anh em cũng sẽ bị Thiờn Chỳa xột đoán như vậy" (Mt 7,1-2).
Trong dụ ngôn hai người cầu nguyện trong đền thờ, Chỳa cho thấy: Người pharisờu khoe khoang thỡ khụng được Chúa chấp nhận. Cũn người thu thuế khiêm nhường thỡ được Chúa cứu độ  (x. Lc 18,11-14).
Khiêm nhường thực sự mà Chúa muốn không dễ chút nào. Phải có ơn Chúa mới hiểu đúng được, nhất là mới thực hiện đúng được.
5.
Chúa Giêsu đối thoại với con người nhiều nhất là bằng chớnh cuộc sống của mỡnh. Một cuộc sống làm chứng cho tỡnh yờu. Vỡ yờu, nờn Người mặc lấy thân phận con người nghèo khổ. Vỡ yờu, nờn Người chia sẻ tất cả những gỡ con người phải chịu, chỉ trừ tội lỗi. Nghèo với người nghèo khó, nhục với người khổ nhục, vất vả với người vất vả, im lặng với người im lặng, bị bắt bớ với người bị bắt bớ. Chúa ở với họ, ở giữa họ, đồng hành với họ, để họ được an ủi và tỡm được ơn cứu độ trong mọi nghịch cảnh.
Nói tắt là, trong mọi thứ đối thoại với loài người, Chúa Giêsu đều nhấn mạnh đến tỡnh yờu khiờm nhường, hy sinh tận hiến đến cùng, để ở với mọi người và để cứu độ mọi người. Tất cả đều được thực hiện trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đó là Tin Mừng được ban tặng. Chỉ cần người ta biết đón nhận với lũng khiờm nhường, biết ơn và dấn thân.
6.
Nhận thức trên đây giúp chúng ta biết phải làm gỡ trong cỏc đối thoại.
Biết tỡnh yờu khiờm nhường, hy sinh tận hiến trên lý thuyết là bước đầu tốt, nhưng chưa đủ. Điều cần thiết không được thiếu, đó là ta phải cú tỡnh yờu đó trong chính mỡnh. Cỏch tốt nhất là ta cú chớnh Chỳa Giờsu trong mỡnh ta.
Chỳng ta hóy cựng với Chỳa Giờsu phản chiếu tỡnh yờu Chỳa tự hạ ở hang đá Belem. Hóy cựng với Người phản chiếu tỡnh yờu Chỳa hoà mỡnh vào lớp người nghèo ở Nagiarét. Hóy cựng với Người phản chiếu tỡnh yờu Chỳa đền tội thay ở núi Sọ. Hóy cựng Người phản chiếu tỡnh yờu Chỳa phú thỏc võng phục của Người đối với Đức Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh. Hóy cựng với Người phản chiếu tỡnh yờu Chỳa đối với các con chiên lạc.
Những phản chiếu đó toả lan hương thơm của Nước Trời. Tất cả đều do Chúa Giêsu ngự trong ta.
Chỳng ta thực sự cú Chỳa Giờsu trong mỡnh khụng? Chỳng ta có cảm nhận được Người là tỡnh yờu cứu độ sống động trong ta khụng?
Cõu trả lời chõn thành sẽ luụn gợi ý cho lời cầu xin tha thiết: Lạy Chúa, xin Chúa đến với con, và ở lại trong con. Con xin Chúa giúp con biết đón nhận mọi đổi mới và mọi thanh luyện Chúa dành cho con, để con biết làm chứng cho Nước Trời trong mọi đối thoại suốt đời con.

 

Bùi-Tuần 1130: VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA 18-04-2011

 +  GB. BÙI TUẦN
Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 36 năm thụ phong Giám Mục
(30-4-1975/30-4-2011)
Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển. Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương  nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau" (Ga 13,31-33a. 34-35).
1. Lúc bắt đầu đi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người" (Ga 13,31).
 

Lời đó cho thấy: Vinh hiển của Chúa Giêsu là sự Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mìn: 18-04-2011 Bùi-Tuần 1130

Lời đó cho thấy: Vinh hiển của Chúa Giêsu là sự Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mình làm của lễ đền tội cho nhân loại. Cũng chính tình yêu hy sinh của Người như của lễ sẽ làm cho Chúa Cha được vinh quang.
Chúng ta hãy nhìn vào của lễ Chúa Giêsu.
Của lễ là chính bản thân Người.
Bản thân Người như Con Chiên hiền lành, mà sách Xuất Hành nói tới (x. Xh 12,11-14) sẽ bị giết để cứu dân.
Bản thân Người như người tôi trung, mà tiên tri Isaia nói tới (x. Is 52,13-58) sẽ bị hành hạ, thay cho kẻ tội lỗi.
Bản thân Người như người nô lệ, mà thánh Phaolô nói tới (x. Pl 2,7) sẽ bị treo trên thập giá, để đền tội thay cho nhân loại.
Bản thân Người như vị tư tế, mà tác giả thư gởi Do Thái nói tới (x. Dt 10,8) như kẻ vâng phục: "Này con xin đến để thực thi ý Cha".
Như vậy, chịu đau khổ vì yêu thương là một giá trị cao cả. Nó có sức cứu độ, do đó mà Thiên Chúa được vinh quang.
Nhận thức trên đây đổi mới cái nhìn của tôi. Tôi ca ngợi những môn đệ Chúa trong đó có anh chị em, đã và đang chịu đau khổ vì mến Chúa yêu người. Tôi cảm thương sâu sắc với những ai đau khổ. Nhận thức đó cũng đã thúc đẩy tôi bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn, khi tôi sợ hãi trước những cơn bão tố đổ trên tôi đang phải hấp hối trong những ngày đen tối. Chính Người là sức mạnh của tôi.
2. Tôi càng bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn một cách phó thác, khi tôi thực thi lời Người dạy: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con" (Ga 13,34).
Theo tôi, cái khó không phải là yêu thương, nhưng là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.
Bản thân tôi rất yếu đuối. Nếu không được Chúa ban ơn giúp sức, tôi không thể nào yêu thương như Chúa yêu thương. Yếu đuối là một cái khó rất lớn.
Nhưng, cho dù tôi có yêu thương tới một mức nào đáng kể, tôi cũng sẽ gặp một cái khó khác. Cái khó đó từ bên ngoài. Rất nhiều người kể cả trong nội bộ chúng ta, vẫn coi yêu thương như Chúa yêu thương là một sự hèn yếu. Đám đông không thích thánh giá là một áp lực. Sống trong một môi trường như vậy, người môn đệ nào của Chúa kiên trì với đường lối yêu thương nhiều khi sẽ thấy mình bị cô lập. Nhất là khi Satan lại chỉ huy công việc chống phá. Satan là một cái khó rất mạnh.
Các môn đệ Chúa sẽ cô đơn và như thất bại. Nhưng Chúa vẫn thắng. Bởi vì Chúa quyền năng vẫn hay dùng những dụng cụ hèn yếu để mở rộng Nước của Người.
Tôi đã được nghe tâm sự của rất nhiều người trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Họ cho biết là họ đã được ơn Chúa và cảm nhận được tình Chúa xót thương, nhờ tiếp xúc với những người công giáo sống yêu thương. Qua những tâm sự đó, tôi thấy Nước Thiên Chúa là Nước ân sủng và tình yêu. Nước Thiên Chúa dưới hình thức đó đã đi vào biết bao tâm hồn, Nước Chúa đang đi vào lòng dân tộc Việt Nam.
3. Khi hiểu được sự thực trên đây, tôi vững tin hơn vào Lời Chúa phán: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau" (Ga 13,35).
Yêu thương là dấu chỉ, để nhận ra ai là môn đệ Chúa. Chính Chúa chọn yêu thương là dấu chỉ, thì không ai có quyền thay đổi. Chúng ta đón nhận sự chọn lựa mà Chúa ban cho ta như một ơn gọi. Ơn gọi này không dễ dàng. Vì thế chúng ta cầu xin Chúa đào tạo chúng ta. Chúa đào tạo chúng ta bằng nhiều cách. Một cách Chúa thường dùng đó là thánh giá Chúa Giêsu.
4. Anh chị em thân mến,
Tình hình hiện nay đang được Chúa báo động. Có nhiều bất an, bất ổn. Có nhiều nguy cơ rất đáng ngại. Nguy cơ nên để ý nhất là sự lộng hành của Satan. Mục tiêu mà Satan nhắm chống phá nhiều nhất, chính là Nước tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Trước tình hình này, Chúa đang gởi đến cho chúng ta một sứ điệp, đó là Chân Phước Gioan Phaolô II. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị thánh đương thời.
Ngài là người môn đệ Chúa đã được tham gia sâu sắc vào cuộc thương khó Chúa.
Ngài là vị chủ chăn đã luôn dạy đoàn chiên về bổn phận yêu thương nhau.
Ngài là người con Đức Mẹ hay kêu gọi mọi người hãy trông cậy vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Ba tình thương đều có hy sinh.
Ba tình thương như ba dòng chảy ơn thánh, giúp chúng ta đến với Chúa và gần lại với nhau.
Ba dòng chảy này giúp chúng ta sống Lời Chúa về tình yêu một cách phong phú và cụ thể trong thời sự hôm nay.
Vì thế, với việc suy gẫm Lời Chúa hôm nay, cùng với việc phong Chân Phước  ngày mai cho Đức Gioan Phaolô II, Chúa muốn chúng ta hãy vững tin vào đường lối, mà Chúa đã dạy trong Lời Chúa và trong vị tân Chân Phước, đường lối đó chính là tình yêu hy sinh. Khi bản thân ta biến thành của lễ tình yêu hy sinh, thì chúng ta sẽ làm cho Chúa được vinh quang.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con biết đón nhận Tin Mừng hôm nay của lòng thương xót Chúa. Amen.

 

Bùi-Tuần 1131: Sống đạo là một cuộc chiến

Từ gần tháng nay, nhiều thứ cuộc chiến đã bùng nổ trên thế giới. Có những cuộc chiến vũ khí Bùi-Tuần 1131

Từ gần tháng nay, nhiều thứ cuộc chiến đã bùng nổ trên thế giới. Có những cuộc chiến vũ khí. Có những cuộc chiến chính trị. Có những cuộc chiến kinh tế. Có những cuộc chiến văn hoá. Có những cuộc chiến tôn giáo.
Trong xã hội Việt Nam, cuộc chiến chống tham nhũng và lãng phí đang trở thành trọng tâm của nỗ lực thiết lập kỷ cương và đạo đức để đưa Ðất Nước đi lên.
Còn trong Hội Thánh Việt Nam thì sao? Tôi thấy cũng đang có một cuộc chiến vô hình. Một đàng là đưa đời sống đạo vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, một đàng là để đời sống đạo đi theo sự hướng dẫn của tinh thần thế tục.
Hai xu hướng đó đang tranh nhau xâm nhập vào từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng đoàn, từng tổ chức.
Nếu cần nhận diện hai xu hướng đó, chúng ta nên căn cứ theo lời dạy của Kinh Thánh. Kinh Thánh dạy rất nhiều để giúp ta phân định thiện ác.
Ở đây, tôi xin nêu lên chỉ vài đoạn trong các thư của các thánh tông đồ. Trong vài đoạn này, sống đạo tốt lành là theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, còn sống đạo sai trái là theo đam mê xác thịt, thế gian, ma quỷ.
Người có đạo trước hai xu hướng khác nhau
Thánh Phaolô viết:
“Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với xác thịt. Ðôi bên kình địch nhau...
“Những điều do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: Dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi báo trước cho anh em biết, như tôi đã từng bảo: Những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Chúa đâu.
“Còn hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ... Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng là đam mê.
“Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước. Ðừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5,16-26).
Trong đoạn thư trên đây của thánh Phaolô, chúng ta có thể thấy cả hai con đường sống đạo tốt xấu đều tuỳ thuộc đến đạo đức nhân bản.
Từ nhận thức đó, chúng ta nên nhìn đời sống đạo một cách bao quát hơn. Nghĩa là người sống đạo tốt phải trước tiên là người giàu đức tính nhân bản.
Càng ngày, nhân loại càng ưa chuộng đạo làm người, để làm nền tảng cho sự phát triển các liên đới xã hội và quốc tế. Trong xu hướng phổ quát ấy, người ta sẽ tôn trọng tín ngưỡng của người khác, khi tín ngưỡng ấy được phiên dịch ra các đức tính nhân bản. Nếu một người có đức tin mạnh, nhưng nhân bản lại quá yếu, thì dễ bị đánh giá thấp. Người có đức tin vững, nhưng lương tri lệch lạc, sẽ rất khó làm chứng cho đạo Chúa.
Các đức tính nhân bản là đòi hỏi chung cho mọi người. Sống đạo hôm nay cần để ý nhiều đến đòi hỏi chung đó. Vì thế, cần huấn luyện mình, từ nhân bản bên trong nội tâm cho đến tư cách nhân bản bên ngoài.
Ngoài ra, người sống đạo hôm nay còn cần phải tôn trọng những giá trị riêng của người khác.
Người có đạo trước những đặc sủng khác nhau
Về phương diện này, thánh Phaolô ví Hội Thánh như một thân thể. Ngài viết:
“Anh em là thân thể của Ðức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.
“Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.
“Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ?
“Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ?
“Chẳng lẽ ai cũng là thầy dạy?
“Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ sao?
“Chẳng lẽ ai cũng được ơn chữa bệnh sao?
“Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ,
ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao? (1 Cr 12,27-30).
Suy gẫm đoạn thư trên của thánh Phaolô, rồi nhìn vào Hội Thánh Việt Nam, nhiều người khám phá thấy mấy điều sau đây:
1/ Có những người thực sự được Chúa ban đặc sủng này nọ, và họ dùng đặc sủng đó với tất cả lòng khiêm tốn tận tâm.
2/ Có những người ảo tưởng mình có đặc sủng này nọ, mà thực sự họ không có. Nên họ hoạt động sai ơn gọi.
3/ Có những người thấy người khác được đặc sủng mà mình không được, thì đâm ra ghen tương, tìm cách cản ngăn.
4/ Có những người dùng quyền, tự bày vẽ ra nhiều hình thức giữ đạo và truyền đạo. Từ ý riêng chứ không từ đặc sủng.
Tôi mong những điều trên là không đúng hoàn toàn sự thực khách quan. Nhưng chẳng may thực tế cho thấy tình hình sống đạo ở một số nơi đang phát sinh những hiện tượng buồn, nhất là sự ghen tương. Sống đạo rất cần phải chiến đấu với chính mình, để diệt trừ tính xấu đó.
***
Những gì tôi vừa trình bày chỉ vì mục đích này là: Phải đưa đời sống đạo vào con đường được soi dẫn bởi Chúa Thánh Linh.
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: Ðiều gì tốt thì giữ, còn điều gì xấu dù với hình thức nào thì phải lánh cho xa” (1 Tx 5,19).
Thánh Gioan còn nói rõ hơn: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin. Nhưng hãy cân nhắc các thần khí, xem có phải bởi Thiên Chúa không. Vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1 Ga 4,1).
Hai thánh tông đồ đều khuyên ta phải cân nhắc. Tất nhiên nên cân nhắc trong hồi tâm, cầu nguyện và tha thiết hiệp thông với Ðức Mẹ, Ðấng luôn khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời sống đạo của Ðức Mẹ. Ðức Mẹ vâng phục thánh ý Chúa với một ý chí chiến đấu không ngừng chống ma quỷ, thế gian, xác thịt, để luôn tuyệt đối trung thành với Chúa.
Chiến đấu của Mẹ trong đời sống đạo là rất cam go, đầy đau khổ. Con đường, mà Mẹ đã đi, để về Trời là thế. Xin Mẹ thương đến những người con Mẹ, đang theo Mẹ về Trời cũng bằng con đường đó.
Long Xuyên, ngày 5 tháng 8 năm 2006

 

Bùi-Tuần 1132: NIỀM VUI  CỦA NHỮNG NGƯỜI CON ĐỨC MẸ MARIA

 14-05-2011
 + GB. BÙI TUẦN
 

Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi với nhiều người. Một số người có liên hệ mật thiết với: 14-05 -2011 Bùi-Tuần 1132

Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi với nhiều người. Một số người có liên hệ mật thiết với chuyến đi của tôi. Sẽ rất thiếu sót, nếu tôi không ca ngợi tôn vinh một Người rất yêu dấu luôn đồng hành với tôi. Người đó là Đức Mẹ Maria.
Người mẹ nào cũng muốn con mình được vui.  Hơn mọi người mẹ, Đức Maria luôn tìm cách đưa niềm vui đến cho tôi. Tuy đời tôi là một chuỗi dài những chiến đấu nội tâm giữa vô vàn nghịch cảnh, Mẹ Maria vẫn luôn giúp tôi tin rằng: Tôi được Chúa yêu thương một cách nhưng không. "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con" (Ga 15,16). "Chúa đã yêu thương chúng ta trước" (1 Ga 4,19).
Tôi tin và tôi cảm nhận tình yêu Chúa dành cho tôi là tuyệt đối. Đó là nguồn vui căn bản. Nguồn vui căn bản này rất lớn lao. Nó triển nở trái tim tôi, giúp tôi khao khát Chúa.
Với lòng khao khát ấy, tôi được Mẹ Maria giúp đón nhận nhiều niềm vui từ Chúa. Chia sẻ sau đây sơ lược một số niềm vui đáng kể.
1. Niềm vui được có Chúa trong lòng mình
Trong biến cố Truyền Tin, Đức Mẹ được Tổng Lãnh Thiên Thần kính chào là người có phúc, bởi vì Mẹ có Chúa ở cùng. Theo kinh nghiệm đó, Đức Mẹ luôn dạy tôi về hạnh phúc được Chúa ở cùng. Không phải chỉ dạy mà thôi, Đức Mẹ còn giúp tôi đón nhận Chúa vào lòng.
Chúa đến với tôi và ở lại trong tôi. Tôi cảm nghiệm Người là một Đấng thiêng liêng, sống động. Người chính là Chúa tình yêu. Người khao khát chia sẻ tình yêu của Người. Tình yêu mà Người thông ban là tình yêu cứu độ. Tình yêu cứu độ của Người được ban tặng nhưng không. Người muốn tôi đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy chia sẻ cho nhiều người một cách nhưng không. Có người sẽ đón nhận, có người sẽ không đón nhận. Trách nhiệm về chọn lựa đó, hãy để mặc họ với Chúa. Phần tôi, tôi tin vào lời Chúa phán: "Không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Tôi phó thác những việc tôi làm cho Chúa nhân lành.
Khi được có Chúa ở cùng, tôi cảm thấy một niềm vui lạ lùng. Niềm vui ấy làm tôi nhớ lại hai dụ ngôn nhỏ Chúa Giêsu đã dùng để nói về Nước Trời. Nước Trời ví như kho báu chôn giấu trong ruộng. Người gặp được vui mừng bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng như viên ngọc đẹp. Người tìm thấy đã bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc đó (x. Mt 13,44-45).
Kho báu đó, viên ngọc đó có giá trị trên hết. Không gì sánh được. Tôi thấy hình ảnh kho báu và viên ngọc chỉ là những ví dụ dễ hiểu cho bình dân. Chứ khi được Chúa ở cùng, tôi thấy niềm vui có Chúa vượt xa bất cứ niềm vui nào, dù thuộc vật chất dù thuộc tinh thần. Niềm vui ấy rất sâu lắng, rất cao cả. Nhờ niềm vui ấy, tôi sẽ biết phân định giá trị của từng thực tại trần thế. Cũng nhờ niềm vui ấy, tôi được giải cứu khỏi những dụ dỗ chạy theo những niềm vui giả trá. Niềm vui có Chúa ở cùng giúp tôi sống tự do trong ơn nghĩa Chúa.
Niềm vui có Chúa ở cùng là một hành trình dài. Tôi thực hiện hành trình đó bằng những bước nhỏ. Những bước nhỏ đó là những cầu nguyện, những gẫm suy, những lắng nghe Chúa, những từ bỏ mình.
Niềm vui có Chúa ở cùng được tôi cảm nhận như một dòng chảy ân sủng. Dòng chảy đó phải được đón nhận, nếu không, nó sẽ chảy đi. Dòng chảy đó nếu đón nhận mà không biết dùng, nó sẽ cạn đi. Nghĩa là niềm vui có Chúa ở cùng đòi tôi phải dấn thân bước theo Chúa.
2. Niềm vui được làm chứng cho Chúa bằng tình yêu đối với những người khác
Khi vừa được Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng mình, Đức Mẹ liền vội vã đi thăm bà Isave (x. Lc 1,39). Cuộc thăm viếng được thực hiện với nhiều vất vả. Trong gặp gỡ, Đức Mẹ có tình cảm nồng nàn tặng cho người mình gặp và có niềm tin vững vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Phúc Âm cũng nhắc tới tình yêu Đức Mẹ đối với người khác qua tiệc cưới Cana (x. Lc 2,1-12). Tại đó, Đức Mẹ rất nhạy bén với hoàn cảnh cụ thể của chủ nhà, và hoàn toàn đặt tin tưởng nơi lòng xót thương Chúa.
Hình ảnh cảm động nhất về tình yêu Đức Mẹ đối với loài người là quyết định của Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu, để cùng hiến dâng mình làm của lễ đền tội cho nhân loại (x. Ga 19,25).
Trong chuyến đi đời tôi, tôi cũng được Đức Mẹ dẫn đưa vào con đường yêu thương đối với những người khác. Đức Mẹ cho tôi nhìn vào tình yêu của Đức Mẹ. Theo gương Đức Mẹ, tình yêu của tôi đối với người khác phải rất cụ thể, phải đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng thực tại. Tất cả đều do lửa tình yêu của Chúa trong lòng. Tình yêu ấy không tách rời khỏi hy sinh. Hy sinh đến cả mạng sống của mình. Hy sinh trong tinh thần khiêm tốn tự hạ. Hy sinh như của lễ mà Chúa Giêsu dâng mình trên thánh giá.
Tình yêu hy sinh như thế có sức giải cứu con người khỏi ách Satan, và đưa con người vào nguồn ơn cứu độ, gặp được Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Sống tình yêu hy sinh trong cộng đoàn đòi tinh thần hy tế. Chính mình sẽ là của lễ hiến dâng. Hy tế hiến dâng không tách rời khỏi đau khổ. Đau khổ lớn nhất là hy tế hiến dâng của mình không đưa tới thành công, trái lại kết quả thấy được là rất phũ phàng. Chính lúc đó, Đức Mẹ cho tôi thấy gương Đức Mẹ. Đức Mẹ dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Chúa Giêsu, là để làm chứng cho tình yêu, còn kết quả ra sao thì Mẹ phó dâng cho Chúa. Tôi tin hiệu quả cứu độ của hy tế đời mình luôn có. Nhưng thực hiện lúc nào, ở đâu và cách nào, thì Chúa biết. Xin khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa.
3. Niềm vui được về cùng Cha với những đào tạo
Để trả lời Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel, Đức Mẹ đã nói: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38).
Lời "xin vâng" của người nữ tỳ đã trải suốt cuộc đời Đức Mẹ. Đời Đức Mẹ là một cuộc hành hương về với Cha trên trời. Người lữ hành Maria luôn vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là đào tạo Mẹ Maria nên một tạo vật mới. Chúa đào tạo Mẹ qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cùng với Đức Mẹ đi vào những thực tại cuộc đời hồi đó. Thực tại có những người nghèo khó, bệnh tật trong xã hội, có những thói quen xấu và những người xấu trong đạo, có những biến cố xảy đến bất ngờ, "Đức Mẹ ghi nhớ tất cả và suy niệm trong lòng" (Lc 2,51). Sau cùng, Chúa dẫn Đức Mẹ vào mầu nhiệm thánh giá và phục sinh. Rồi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Mẹ trở nên một tạo vật mới, mang hình ảnh Chúa Giêsu, đầy Chúa Thánh Thần. Mẹ đi về với Cha như một công trình tuyệt vời của Chúa.
Đức Mẹ cũng dẫn các con mình về với Cha trên trời như vậy. Cuộc hành trình của họ về Trời là chuỗi dài những cuộc đào tạo. Đức Mẹ là cái khuôn làm nên những người con, mà Chúa muốn tuyển chọn.
Những người được Chúa đào tạo qua cái khuôn Mẹ Maria thường có niềm vui sâu lắng của tình yêu, chân lý và ân sủng nhận được từ Chúa. Những niềm vui ấy rất đơn sơ lặng lẽ.
Qua những niềm vui thiêng liêng của con cái, Đức Mẹ âm thầm dẫn nhiều người về với Chúa. Cách truyền giáo đó không ồn ào mà nhiều hiệu quả tốt.
Lạy Chúa, con xin hết lòng cầu xin Chúa ban cho nhiều người được ơn biết làm con Đức Mẹ. Con tin những người con Đức Mẹ sẽ góp phần không nhỏ vào việc đổi mới Hội Thánh hôm nay theo hình ảnh Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

Bùi-Tuần 1133: ĐỔI MỚI BẢN THÂN 20-05-2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Đổi mới Hội Thánh là chuyện lớn. Đổi mới xã hội cũng là chuyện lớn. Chuyện lớn nên: 20-05-2011 Bùi-Tuần 1133

Đổi mới Hội Thánh là chuyện lớn. Đổi mới xã hội cũng là chuyện lớn. Chuyện lớn nên bắt đầu từ chuyện nhỏ. Chuyện nhỏ ở đây là việc đổi mới bản thân ta.
Tôi tin việc đổi mới bản thân là điều Chúa muốn. Tôi cũng tin việc đổi mới ấy chỉ có thể thực hiện được nhờ Chúa Thánh Thần.
Nói thế không có nghĩa là bản thân tôi sẽ giữ thái độ thụ động. Trái lại, Chúa đòi tôi phải cộng tác tích cực vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.
2.
Việc cộng tác đầu tiên cần có là tôi phải thực sự muốn đổi mới. Lòng ta phải thực sự khao khát ơn đổi mới. Đó là điều kiện căn bản. Nếu chúng ta không thực sự muốn đổi mới, thì Chúa sẽ không một mình đổi mới chúng ta, công việc đổi mới sẽ không thành.
3.
Điều kiện tiếp theo là chúng ta cần nhận ra những gì cản ngăn ơn đổi mới.
Nếu chúng ta khiêm tốn cầu xin, Chúa sẽ cho chúng ta thấy dần dần những cản ngăn hoạt động của Chúa Thánh Thần. Đó là những tính mê nết xấu kéo chúng ta nghiêng về đàng xấu, và những hậu quả xấu do tội lỗi đã phạm gây nên.
Cản ngăn của những thứ đó được chúng ta cảm nghiệm rất rõ ở điểm này: Chúng ta dễ nếm thấy sự ngọt ngào của những giá trị phù du. Nếm một cách trực tiếp và cảm thấy hấp dẫn. Bám vào những thứ đó rồi, chúng ta hầu như không nếm được gì, không cảm thấy gì, khi tiếp xúc với Chúa.
Vì thế, sự đổi mới của Chúa Thánh Thần đòi việc thanh luyện. Việc thanh luyện này gọi là cuộc đấu tranh với xác thịt. Bởi vì xác thịt mang nhiều khuynh hướng xấu.
Trong thư gởi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô viết: "Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt, còn những ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những gì thuộc về Thánh Thần. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thánh Thần là sự sống và bình an" (Rm 8,5-6).
Những gì đưa tới sự chết do tính xác thịt, cũng đã được thánh Phaolô gọi tên. Trong thư gởi giáo đoàn Galata, thánh Tông đồ viết: "Những việc do tính xác thịt gây ra, thì ai cũng rõ: đó là dâm bồn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác như vậy" (Gl 5,19-20).
4.
Đổi mới không chỉ là đẩy lùi những cái xấu, mà còn phải đón nhận những cái tốt. Những cái tốt là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Cũng trong thư gởi giáo đoàn Galata, thánh Phaolô viết: "Hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23).
Trong số những hoa quả kể trên, hoa quả nào phải được coi là căn bản? Chính thánh Phaolô đã xác định, đó là tình yêu Chúa: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô gọi tình yêu Chúa là con đường trổi vượt hơn cả. "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng..., có được ơn tiên tri, có biết được mọi lễ cao siêu..., có đức tin mạnh mẽ..., có bán hết gia tài để bố thí,..., có nộp mình bị thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi... Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1 Cr 13,1-13).
5.
Tới đây, chúng ta có thể thấy việc đổi mới bản thân gồm hai việc chính: Một là đẩy ra khỏi bản thân ta những gì là xấu xa đưa tới sự chết. Hai là đón nhận vào bản thân ta những gì là tốt đưa tới sự sống, trong đó tình mến Chúa là căn bản, cao trọng hơn hết và quan trọng hơn hết.
Hai việc đó đều do Chúa Thánh Thần thực hiện. Nhưng Người đòi ta phải cộng tác vào.
Khi được đổi mới như thế, chúng ta sẽ cảm thấy mình được tự do trong tâm hồn. "Đâu có Thánh Thần Chúa, ở đó có tự do" (2 Cr 3,17). Lúc đó, chúng ta thấy trong ta có một động lực thiêng liêng thúc đẩy ta làm bất cứ sự gì Chúa muốn.
6.
Tiến trình đổi mới trên đây sẽ không được thực hiện một cách máy móc. Bất cứ chi tiết đổi mới nào đều tuỳ thuộc vào sự chúng ta đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần và sự cộng tác của ta.
Trong tiến trình đổi mới thường cũng có những thử thách. Những thử thách này nhắm mục đích tôi luyện chúng ta. Vì thế tiến trình được cảm nghiệm như nhiều bước đi qua nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhiều bước đi của chúng ta có thể sẽ vấp ngã. Chúng ta sẽ có kinh nghiệm về thất bại và tội lỗi. Chính lúc đó, Chúa Thánh Thần sẽ giúp ta chỗi dậy, gục đầu sám hối và khiêm tốn hơn trong mọi cái nhìn về những người khác.
Trên con đường đổi mới, Chúa luôn luôn huấn luyện ta về trách nhiệm yêu thương kẻ khác. "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Suốt dọc đường đổi mới, Chúa không ngừng nhắc bảo ta về mầu nhiệm thánh giá. Thánh giá là nguồn ơn cứu độ. Thánh giá là nơi vinh quang của Thiên Chúa giàu lòng thương xót được sáng tỏ. Thánh giá cũng là những gì quý giá chúng ta có thể tìm được để phục vụ Hội Thánh và nhân loại.
Đổi mới là một hành trình. Dần dần Chúa đưa ta tới mức độ trưởng thành thiêng liêng. Thái độ trưởng thành ấy được nhận ra ở những nét đạo đức, mà thánh Phaolô kể ra sau đây: "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13,4-7).
Những nét đạo đức trên đây làm chứng về một chân lý cội nguồn, đó là Chúa Giêsu ở trong ta. "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
7.
Với những nhận thức trên đây, chúng ta giờ đây nhìn vào bản thân chúng ta và Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Chúng ta có thấy việc đổi mới nơi chúng ta được thực hiện đúng hướng hay không? Chúng ta hy vọng là có. Nhưng cũng có bằng chứng để phải lo ngại. Bởi vì tình hình nhiều nơi xem ra đang xấu đi. Có hăng say đổi mới về nhiều mặt, nhưng lại ơ hờ về đổi mới bản thân. Tinh thần thế tục thì được đón nhận nhiệt tình, đang khi tinh thần Phúc Âm thì bị bỏ qua. Đáng lẽ phải đẩy ra khỏi mình những tính mê nết xấu, thì lại nhập thêm vào nhiều thói xấu mới. Trong những liên đới với tha nhân đáng lẽ phải có chiều kích siêu nhiên của tình yêu Chúa, thì xem ra chỉ còn chiều kích tự nhiên. Trong những hoạt động tôn giáo đáng lẽ phải tỏ hiện tính cách linh thiêng, thì như chỉ còn phô trương những giá trị phàm tục. Đạo đức siêu nhiên xuống, đạo đức nhân bản cũng xuống.
Không phải mọi người mọi nơi đều là thế. Nhưng số người số nơi như thế không phải là ít.
Hôm nay hơn bao giờ hết, chúng ta hãy nhớ lại những cảnh báo của Đức Mẹ Fatima. Xin Mẹ thương đến chúng ta. Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mà sớm đổi mới bản thân, kẻo sẽ quá muộn.

 

Bùi-Tuần 1134: RA TRƯỚC TOÀ CHÚA 26-05-2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Thời sự hiện nay luôn có những tin về những thảm hoạ bất ngờ. Những cái chết bất ngờ. Những: 26-05-2011 Bùi-Tuần 1134

Thời sự hiện nay luôn có những tin về những thảm hoạ bất ngờ. Những cái chết bất ngờ. Những tàn phá bất ngờ. Những tai nạn bất ngờ. Những phản bội bất ngờ. Những đổ vỡ bất ngờ.
Những bất ngờ ấy gây đau buồn lo lắng. Đối với những người sống đức tin, nhất là đối với người có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên, những bất ngờ ấy còn gợi ý về sự phải sẵn sàng ra trước toà Chúa. "Nếu được cả thế gian, mà mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì?" (Mt 16,26).
2.
Để được rỗi linh hồn, thì phải thi hành thánh ý Chúa. "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Thánh ý Chúa Cha là chúng ta phải trở thành con Chúa. Để trở thành con Chúa, thì không phải chỉ tránh tội lỗi, mà còn phải tham gia vào sự sống của Chúa, phải thông hiệp với bản tính của Chúa, phải nên giống hình ảnh Đức Kitô. Tất cả tiến trình đó đều do Chúa Thánh Thần.
Bởi vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8), tình yêu là sự sống của Thiên Chúa, là bản tính của Chúa, nên người con Chúa phải là người tham gia và hiệp thông vào tình yêu Chúa, nên giống Đức Kitô là hình ảnh tình yêu Chúa. Việc đó được thực hiện trong Chúa Thánh Thần.
Trở nên người con Chúa như vậy là có được một chiều kích thiêng liêng. Chiều kích đó là một ơn huệ của Chúa. Con người có quyền đón nhận và cũng có quyền từ chối.
3.
Là người con Chúa, chúng ta nhìn Chúa Giêsu là trung tâm đời ta. Nên giống như Người, đó là chọn lựa căn bản của chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa thế nào? Thưa bằng con đường khiêm tốn. Người tuyên bố Tám mối phúc ở tại sự khiêm tốn. Người sống trọn đời yêu thương trong khiêm tốn. Người dấn thân đến tận cùng con đường khiêm tốn để yêu thương, qua sự Người tự nộp mình bị bắt, bị nhục mạ, bị hành hạ, bị giết chết. Nhưng con đường khiêm tốn đó đã được sáng lên qua sự sống lại của Người.
Chọn lựa của Chúa Giêsu cũng phải là chọn lựa của những người con Chúa. Tính cách người con Chúa sẽ rực sáng nơi chúng ta nhờ chọn lựa yêu thương trong khiêm nhường.
4.
Sự chọn lựa yêu thương trong khiêm nhường sẽ rực sáng nơi chúng ta, không phải do một vài việc ta làm, nhưng phải do tất cả nếp sống của ta. Nếp sống ấy phải mang tâm tình của Chúa Giêsu. Tâm tình của Chúa Giêsu được thánh Phaolô mô tả trong thư gởi giáo đoàn Philipphê:
"Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá" (Pl 2,5-8).
Những tâm tình trên đây có thực sự sống động trong chúng ta không? Nhất là những tâm tình đó có là nếp sống thường ngày của chúng ta không?
5.
Sống những tâm tình của Chúa Giêsu là điều rất tốt. Nhưng rồi phải thực hiện những tâm tình đó bằng các việc làm bác ái khiêm nhường đối với tha nhân. Chúng ta nhớ lại lời sấm của ngôn sứ Isaia: "Hãy báo cho dân Ta hay tội ác của chúng, cho nhà Giacóp biết những lỗi lầm đã phạm.
"Ngày lại ngày chúng kiếm tìm Ta, chúng ao ước biết đường lối của Ta, chúng ăn chay, hãm mình... Nhưng, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức những kẻ làm công cho mình... Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải thế nào sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc... chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân... Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: Có Ta đây" (Is 58,1-9).
Tội ác mà Thiên Chúa truyền cho tiên tri Isaia bảo dân phải sám hối ăn năn, chính là sự mâu thuẫn giữa đời sống đạo đức bên ngoài đối với Chúa và đời sống thường ngày đối với tha nhân.
Đạo đức bề ngoài đối với Chúa là hằng ngày họ kiếm tìm Chúa, xin Chúa cho biết đường lối của Chúa, năng ăn chay hãm mình.
Còn đời sống thường ngày đối với tha nhân thì họ tàn nhẫn và độc ác.
6.
Điều Chúa muốn là họ hãy yêu thương tha nhân. Đức tin vào Chúa phải được diễn tả bằng đức ái đối với tha nhân. Đó chính là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?
"Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm" (1 Ga 3,17-18).
Khi tình yêu thương càng mạnh thì sự hiểu biết càng sâu, như lời thánh Phaolô viết: "Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt nhất" (Pl 1,9).
Đúng như vậy. Có yêu có thương  mới biết mới hiểu.
7.
Khi tôi đang viết bài chia sẻ này, thì một người từ miền xa tới xin gặp tôi. Cuộc gặp chỉ dài chừng 15 phút. Mục đích của khách là để tâm sự. Họ đang gặp nhiều thử thách. Nhưng nhờ một bài giảng họ đã nghe năm 1998 và họ đã ghi lại, nên họ vững tin vào Chúa. Bài giảng đó có một phần về sự chết. Tôi có cảm tưởng là Chúa sai họ đến với tôi. Vô tình họ động viên tôi hơn là tôi an ủi họ.
Cuộc gặp đó giúp tôi tiếp tục suy tư.
Cũng như mọi người, tôi sẽ ra đi. Tôi sẽ chết lúc nào, ở đâu, cách nào, thì chỉ Chúa biết. Điều chắc chắn tôi biết là tôi sẽ ra trước toà Chúa. Lúc đó, tôi sẽ rất vui mừng, nếu tôi được Chúa nhận tôi là con Chúa. Tôi sẽ rất hạnh phúc, nếu tôi được Chúa nhận thấy trong tôi có hình ảnh của Đức Kitô.
Để được như vậy, tôi phải thực thi Lời Chúa: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" (Mt 16,24).
Lạy Chúa, con xin vâng! Xin Chúa thương giúp con sống lời "xin vâng". Con biết, dù con cố gắng tới mức cao nhất, con vẫn luôn luôn bất xứng. Nếu Chúa xét xử con theo công lý, chắc chắn con sẽ bị loại. Nhưng con tin, Chúa sẽ xét xử con theo lòng nhân hậu xót thương vô cùng của Chúa. Chính Chúa ban cho con niềm tin ấy. Con vui sướng cảm tạ Chúa muôn đời.

 

Bùi-Tuần 1135: CẢM TẠ CHÚA 02-06-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Trên đường về trời, người môn đệ Chúa luôn hướng về Chúa. Có một sức thiêng thường xuyên: 02-06-2011 Bùi-Tuần 1135

Trên đường về trời, người môn đệ Chúa luôn hướng về Chúa. Có một sức thiêng thường xuyên thu hút lòng họ đến với Chúa. Họ không biết lúc nào sẽ bước vào cõi sau. Nhưng bất cứ lúc nào còn trên cõi đời này, họ vẫn cảm tạ Chúa nhân lành.
Việc cảm tạ của họ nhắc lại những biến cố đời họ. Đặc điểm của những biến cố đó là sự Chúa can thiệp vào đời họ. Sự can thiệp của Chúa được họ cảm nghiệm một cách sống động và riêng tư. Họ nếm được niềm vui linh thiêng của tình yêu Chúa dành cho họ.
Vì đề cập đến tình yêu, họ cảm tạ Chúa một cách thân mật nhẹ nhàng và khiêm tốn. Trong cảm tạ vẫn có sám hối và phó thác.
Ở đây, xin được phép chia sẻ một số khởi điểm, từ đó xuất phát tâm tình cảm tạ.
1. Cảm tạ, vì được Chúa cứu chữa
Cuộc đời người môn đệ Chúa có nhiều quãng rất nguy hiểm. Đã từng đứng trước vực thẳm thất vọng. Đã từng trải qua sóng gió có thể chết chìm. Đã từng bị sư tử, sói dữ săn đuổi để cắn xé. Những trường hợp như thế kéo dài. Tưởng chừng không sao thoát chết. Nhưng họ đã được Chúa cứu. Chúa đến một cách bất ngờ. Chúa cứu một cách lạ lùng. Người môn đệ Chúa như được chạm vào bàn tay vô hình của Chúa. Họ trở về với Chúa mỗi ngày mỗi thiết tha hơn, đó là cốt yếu của lòng cảm tạ.
Họ được cứu chữa không phải một lần. Có thể nói sự cứu chữa của Chúa vẫn được thực hiện mỗi ngày. Bởi vì con người có bao giờ là hết yếu đuối.
Đến đây, xin nói về sự Chúa cứu họ khỏi những hiểm nguy đối với phần rỗi trong bản thân họ.
Xưa, nhiều người đã khoe là họ đã nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ. Thành tích quá nhiều và xem như tốt lành. Nhưng Chúa đã không bằng lòng, hơn nữa Chúa còn mắng trách "Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác" (Mt 7,23). Bởi vì họ không làm theo thánh ý Chúa.
Nay, cái nhìn chủ quan, tự hào về thành tích vẫn còn. Người môn đệ Chúa nhiều khi mắc chứng bệnh đó một cách trầm trọng mà không hay biết. Nhưng Chúa biết, Người đã và đang cứu chữa họ. Không phải mọi môn đệ Chúa đều đón nhận, hoặc có đón nhận nhưng chậm và không trọn vẹn. Vì thế, trong cảm tạ họ vẫn phải sám hối khiêm nhường và xin ơn tỉnh thức, để biết làm  mọi việc theo thánh ý Chúa.
Ngoài ra trong con người thường có nhiều sự ác ẩn khuất. Chúng chôn vùi dưới lớp sâu tiềm thức. Những sự ác đó là một chuỗi dài phức tạp, như những tham vọng, những ảo tưởng, những bất mãn, những tổn thương trong các liên hệ, những định kiến, những ghen tương, những tự đắc. Chúng có thể ví như những siêu vi trùng khó phát hiện nhưng phá hoại sức khoẻ thân xác con người một cách tàn bạo. Cũng vậy, những sự ác giấu ẩn chìm sâu trong đáy lòng con người vẫn là một lực lượng xấu có sức đẩy chúng ta sống sai thánh ý Chúa. Chúng cần phải được khống chế. Ai có thể làm chuyện đó?
Thánh Phaolô, sau khi khiêm tốn nói ra cảnh xung đột khốc liệt trong nội tâm mình, đã kết luận: "Tôi là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 7,24).
Đúng vậy, chỉ có Đức Giêsu Kitô mới có thể cứu chúng ta. Các môn đệ Chúa hôm nay phải xác tín sự thực đó. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu độ đó. Tuy nhiên, Chúa vẫn không ngừng ban ơn cứu độ. Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa. Trong cảm tạ, chúng ta sám hối về những lỗi phạm đến ơn cứu độ. Chúng ta phó thác thiện chí quyết tâm của chúng ta cho Chúa nhân lành.
2. Cảm tạ, vì được Chúa ủi an
Thánh Phaolô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi thương xót, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách" (2 Cr 1,3-9).
Sự ủi an, mà thánh Phaolô nói ở đây là sự ủi an trong những gian nan thử thách. Chứ không phải là sự ủi an trong những thành công.
Các môn đệ Chúa hôm nay cần nhận định về thứ ủi an trong những cơn khổ cực mình gặp. Những khổ cực đó có thể là "những dồn ép, những hoang mang, những ngược đãi, những quật ngã", nói tắt là "chính cuộc thương khó của Chúa Giêsu" mà thánh Phaolô đã nói về chính mình (x. 2 Cr 4,8-10).
Chỉ những ủi an nâng đỡ trong gian khổ mới có sức làm chứng cho Chúa. Niềm ủi an được người môn đệ Chúa cảm nghiệm như một nỗi vui mừng chan chứa. "Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó" (2 Cr 7,4).
Họ vui, vì thấy mình được Chúa ban ơn thêm sức để luôn trung thành với bổn phận Chúa trao, cho dù họ bị đe doạ, chống đối, cản ngăn.
Họ vui, vì thấy mình hèn yếu mà lại được Chúa yêu thương nâng đỡ. Mình chỉ là một chiếc bình sành dễ vỡ, thế mà Chúa lại dùng để đựng một kho tàng vô giá là sứ điệp của tình thương Chúa vô biên vô bờ.
Họ vui, vì những ủi an họ nhận được từ Chúa, lại được họ chia sẻ cho những người khác, để mọi người khổ đau đều đón nhận được hy vọng, tình yêu, ân sủng và sự sống.
3. Cảm tạ Chúa, vì được Chúa sai đi
Người môn đệ Chúa vâng lời Chúa dạy: "Anh em đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không" (Mt 10,8). Đó là sai đi.
Điều mà họ muốn cho đi hơn hết là niềm tin cậy tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô. Khi họ nhận được ơn cứu độ và niềm an ủi đỡ nâng, họ đã gặp được Đức Kitô. Được gặp Đức Kitô, họ nhận lãnh được sự cứu độ, sự sống, ân sủng và tình yêu. Họ thấy mình có hy vọng chắc chắn sẽ được về với Cha trên trời.
Vì thế, họ dám quả quyết như thánh Phaolô: "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt đối là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người" (Pl 3,8-9).
Được biết Đức Giêsu Kitô là nhận lãnh một ân huệ lớn lao. Thánh Phaolô viết: "Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để nên vô hiệu" (2 Cr 6,1). Họ nhận thức bổn phận chia sẻ đó là thiêng liêng cao cả và đem lại ơn cứu độ.
Lúc nào họ sẽ thực hiện trách nhiệm chia sẻ đó? Thưa bất cứ lúc nào cũng là thời gian thuận tiện. Người môn đệ Chúa sẽ nói: Ngay bây giờ. Cách chia sẻ sẽ linh động, nhưng bao giờ cũng là làm chứng về Chúa do động lực của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, trong cảm tạ Chúa, họ ra đi loan báo Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ không ngừng cầu khẩn. Họ tin Chúa đoái nhìn đến họ. "Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" (Lc 11,13).
Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã không ngừng thanh luyện con, để đời con sẽ là bài ca cảm tạ đầy những cảm nghiệm về Chúa, có sức làm chứng cho Chúa, dọn đường cho Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ.

 

Bùi-Tuần 1136: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO 10-06-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Phúc Âm cho thấy: Thánh Gioan Tiền Hô là người Chúa chọn một cách đặc biệt. Ngài được: 10-06-2011 Bùi-Tuần 1136

1. Phúc Âm cho thấy: Thánh Gioan Tiền Hô là người Chúa chọn một cách đặc biệt. Ngài được thánh hoá ngay từ trong lòng mẹ, dịp Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Elisabét.
Tuy đã là thánh, Ngài vẫn được Chúa đào tạo. Ngay thời niên thiếu, Ngài đã được đào tạo trong gia đình. Gia đình Ngài đạo đức, cha mẹ thánh thiện, khá giả và có địa vị. Ngài được ấp ủ trong bầu khí ấm áp về mọi mặt.
Nhưng sau một thời gian, Ngài lại được Chúa đưa vào hoang địa. Cuộc đào tạo trong hoang địa khác hẳn cuộc đào tạo trong gia đình.
2. Trong hoang địa, về mặt vật chất, Ngài phải nếm cảnh thiếu thốn cùng cực. Phải tự lo kiếm sống, phải tự lo bảo vệ trước những thay đổi của thời tiết, nhất là trước những đe doạ của thú rừng. Về mặt tôn giáo, Ngài càng thấy thiếu thốn. Không có nhà thờ, không có tư tế, không có thánh lễ, không có trường lớp, không có cộng đoàn.
Trong bầu khí hoang vắng thẳm sâu đó, Ngài được Chúa đào tạo để nên người thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, để chính mình trở thành đền thờ, để chính mình trở thành của lễ. Ngài phải khiêm tốn cầu nguyện lắng nghe Chúa thường xuyên.
Trong hoàn cảnh hoang vu đáng sợ đó, Ngài cảm thấy mình rất mong manh, chẳng có gì để nương tựa, chỉ còn biết trông cậy phó thác nơi lòng thương xót Chúa mà thôi.
Trong hoang địa mênh mông đó, Ngài cảm thấy sự hoang tàn nội tâm do tội lỗi là đáng sợ nhất nơi con người. Sự sợ hãi đó cho Ngài thấy con người phải đi vào cửa hẹp, để trở về với Chúa.
Trong cảnh hoang vu cô đơn đó, Ngài cảm thấy xác thịt và ma quỷ tấn công Ngài dữ dội. Ngài đã chỉ thắng chúng nhờ tỉnh thức cầu nguyện, ăn chay và dựa vào Lời Chúa.
Trong hoang địa thiếu thốn mọi sự, Ngài nhận ra sự vinh quang của Chúa không phải là những hoạt động này nọ, mà chính là sống vâng phục thánh ý Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Trong cảnh hoang vu cô đơn, Ngài cảm nhận được giá trị của sự nhận lãnh và sự cho đi. Để rồi, khi trở về cộng đoàn, Ngài sẽ phục vụ với tất cả lòng khiêm tốn yêu thương.
3. Sau cuộc đào tạo trong hoang địa, Thánh Gioan
Tiền Hô xác tín: Cuộc đào tạo được kết quả tốt là nhờ Chúa Thánh Thần. Ngài cũng phải cộng tác vào bằng tất cả sự vâng phục thành kính.

Thời gian đào tạo trong hoang địa khá dài. Kết quả là Thánh Gioan Tiền Hô trở nên trưởng thành, ở sự Ngài có chiều kích siêu nhiên toả sáng, và có dấu ấn Thánh Thần sâu đậm.
4. Tới đây, chúng ta cảm tạ Chúa về những gì Chúa đã đào tạo Thánh Gioan Tiền Hô. Chúng ta cũng cảm tạ Chúa vì Chúa cũng đã và đang đào tạo chúng ta.
Kinh nghiệm cho thấy: Hội Thánh Việt Nam nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng cũng được Chúa đào tạo bằng hai con đường tương tự như nơi Thánh Gioan Tiền Hô. Một là các thứ bầu khí gia đình, hai là một vài bầu khí hoang địa.
Riêng những người được Chúa sai đi như Thánh Gioan Tiền Hô thường được Chúa đào tạo kỹ hơn bằng con đường hoang địa với nhiều thử thách.
Tỉnh thức và khiêm tốn nhận ra lòng Chúa xót thương khi Chúa đào tạo ta bằng con đường hoang địa đớn đau, đó là thái độ tu đức quan trọng Chúa đợi chờ nơi mỗi người chúng ta.
Hội Thánh Việt Nam hôm nay cũng đang được kêu mời suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề đào tạo.
5. Vấn đề đào tạo trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay đang trở thành cấp bách, vì nhiều lý do. Như ảnh hưởng đang lên của phong trào tục hoá, hưởng thụ và duy lợi. Nhiều người đang bị lôi cuốn vào lối sống đạo hình thức bên ngoài. Lời Chúa xem ra cũng đang bị tương-đối-hoá ở nhiều nơi. Thêm vào đó là trào lưu phân hoá và cục bộ. Thử thách, thách thức về đức tin hiện nay vừa nhiều vừa mạnh hơn trước.
Trong tình hình như thế đang xuất hiện nhiều xu hướng không lành mạnh, như mỗi người tự chọn cách sống đạo theo sở thích riêng, hoặc mạnh đâu theo đó, chứ không thực sự dựa trên Lời Chúa.
Sống đạo như thế sẽ dần dần đi xa Phúc Âm, nhất là hiện nay Satan và lực lượng hoả ngục của nó lại đang rất lộng hành. Chúng đang lợi dụng lối sống đạo đó để làm suy yếu Hội Thánh Chúa.
Những diễn biến phúc tạp trên đây thực đáng lo ngại. Chắc chắn Hội Thánh chúng ta sẽ vững vàng tồn tại và phát triển. Bởi vì Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng cũng chắc chắn là Chúa sẽ thanh luyện chúng ta theo cách đào tạo của Người, trong đó có hoang địa, hoang tàn, hoang vu, hoang vắng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Lạy Chúa, vì lời cầu bầu của Thánh Gioan Baotixita, xin giúp chúng con biết cộng tác vào việc Chúa đào tạo chúng con. Trong trường hợp nếu Chúa dẫn chúng con vào hoang địa nào đó để đào tạo, thì xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con biết nói lời xin vâng với tất cả lòng tin cậy phó thác nơi lòng xót thương vô cùng của Chúa.
Long Xuyên, ngày 10 tháng 6 năm 2011

 

Bùi-Tuần 1137: NGƯỜI TÔI TỚ NGHÈO KHÓ CỦA THIÊN CHÚA

 18-06-2011
 + GB. BÙI TUẦN
(Bài chia sẻ trong Thánh lễ Kính Thánh Gioan Baotixita ngày 24/6/2011 tại nhà nguyện TGM Long Xuyên)
 

Bài Phúc Âm thánh lễ mừng sinh  nhật thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1,57-66.80) kết thúc bằng: 18-06-2011 Bùi-Tuần 1137

1. Bài Phúc Âm thánh lễ mừng sinh  nhật thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1,57-66.80) kết thúc bằng câu sau đây: "Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng. Nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel".
Với câu nói trên đây, Phúc Âm giới thiệu thánh Gioan Tiền Hô là con người mạnh mẽ trong lòng. Mạnh mẽ trong lòng có nghĩa là mạnh mẽ nội tâm, mạnh mẽ do "bàn tay Chúa ở với mình" (Lc 1,66).
Tuy đã được mạnh mẽ, thánh Gioan Tiền Hô vẫn còn được Chúa huấn luyện thêm.
2. Chúa đưa Ngài vào hoang địa. Trong hoang địa hoang vu, hoang vắng, Ngài thấy mình cô đơn, mỏng manh, chẳng có gì để bám víu. Ngài thực sự nghèo khó, một sự nghèo khó cùng cực. Chính cảnh nghèo khó cùng cực đó đã huấn luyện Ngài. Đúng như tiên tri Isaia đã nói, Ngài nhận thức mình là "tôi tớ Chúa" (Is 49,5). Ngài là người tôi tớ rất hèn hạ, như chính Ngài đã xưng "Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế" (Ga 1,27). Tất cả sức mạnh nơi Ngài là nhờ Thiên Chúa. "Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi" (Is 49,5).
Thời gian thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện trong hoang địa không rõ về ngày đầu ngày cuối, nhưng chắc chắn đã kéo dài nhiều năm. Cuộc huấn luyện trong hoang địa càng lâu thì thánh Gioan Tiền Hô càng cảm nhận được sự nghèo khó của mình, đồng thời niềm cậy tin của Ngài vào Chúa càng mạnh. Nhờ đó, Ngài càng trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa.
Chính ở sự Ngài được biến đổi sâu sắc nhờ ơn Chúa như vậy, mà chiều kích siêu nhiên nơi Ngài được sáng tỏ rạng ngời. Chiều kích siêu nhiên đó đem lại cho Ngài một hạnh phúc linh thiêng, không hạnh phúc nào nơi trần gian sánh kịp. Ngài được thêm mạnh mẽ trong lòng.
3. Sau khi thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện trong hoang địa, để trở thành người tôi tớ nghèo khó của Chúa, Ngài được sai đến cùng dân Israel với mục đích dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Ngài thi hành trách nhiệm được trao cũng với tinh thần nghèo khó. Không tiền của, không trụ sở, không lễ phục, không hộ tống. Hơn nữa, Ngài mặc áo da thú, sống giản dị đến mức khắc khổ. Ngài chỉ là "một tiếng hô trong hoang địa" (Lc 3,4).
Đề tài Ngài rao giảng là mọi người hãy bỏ đàng tội lỗi, nhờ sám hối và tin vào Chúa Giêsu. Đề tài đó rất khó được người ta hưởng ứng. Ngài gặp nhiều chống đối. Nhưng Ngài vẫn kiên trì rao giảng. Ngài chia sẻ những gì Ngài xác tín. Ngài nói về những sự vô hình một cách tự nhiên như mình đã được thấy, đã được nghe, đã được gặp, đã được cảm nhận. Sức mạnh trong lời Ngài là từ Chúa. Ngài luôn được mạnh mẽ trong lòng. Ngài có thể nói như thánh Phaolô sau này: "Chính khi tôi yếu lại là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10).
4. Một thoáng nhìn trên đây cho thấy thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện thành người tôi tớ nghèo khó, để rồi ra đi rao giảng Tin Mừng với những phương tiện nghèo khó.
Những gì Chúa đã làm cho thánh Gioan Tiền Hô thuở xưa, thì Chúa cũng vẫn làm cho Hội Thánh sau này suốt 20 thế kỷ qua. Cách Chúa làm được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ nơi tuỳ lúc.
Chính Hội Thánh Việt Nam cũng đã được Chúa huấn luyện như thế. Có nơi có lúc tình hình rất cam go. Nhiều người công giáo Việt Nam đã từng trải qua những thời điểm rất khó khăn. Họ đã được huấn luyện, trong hoàn cảnh có thể gọi là hoang địa hoang tàn. Họ trở thành những dụng cụ nghèo khó của Chúa, để rồi họ loan báo Tin Mừng với những phương tiện hết sức nghèo khó. Họ được mạnh mẽ trong lòng  nhờ ơn Chúa.
5. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ thêm đôi chút về một điều mà chúng tôi đã được hưởng trong những thời điểm khó khăn nhất. Đó là chúng tôi được hạnh phúc, rất hạnh phúc trong lòng. Hạnh phúc do nhiều lý do. Tôi xin nói vắn tắt vài lý do.
Lý do thứ nhất là chúng tôi được gắn bó mật thiết hơn với Chúa. Khi bị thử thách tư bề, chúng tôi cảm thấy mình được gỡ bỏ khỏi mọi chi phối không cần thiết, để chỉ tập trung vào Chúa. Sự tập trung đó có thể gọi tắt là luôn "đi trước mặt Chúa" như lời ông Dacaria đã nói về thánh Gioan Tiền Hô (x. Lc 1,76). Luôn luôn đi trước mặt Chúa được chúng tôi cảm nghiệm như một hạnh phúc nhẹ nhàng cao quý.
Lý do thứ hai là chúng tôi tập trung cho đi những gì Chúa đã ban cho chúng tôi. Trong thử thách khốn khó, chúng tôi được Chúa cho xác tín: Chúa chính là Đấng Cứu Độ. Xác tín đó được chúng tôi chia sẻ. Thánh Gioan Tiền Hô đã: "Bảo cho dân Chúa biết: Chúa sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên" (Lc 1,77). Chúng tôi cũng nói cho dân Chúa điều căn bản đó. Nói bằng những phương tiện nhỏ và bằng sự nắm bắt những cơ may nhỏ. Được loan báo Tin Mừng đó, chúng tôi cảm nhận đây là một hạnh phúc đậm đà tình yêu chân thành đối với mọi người.
Lý do thứ ba là chúng tôi làm chứng về Chúa Giêsu bằng cách dâng chính mình làm của lễ. Thánh sử Gioan Tông đồ gọi thánh Gioan Tiền Hô là "người làm chứng về Chúa Giêsu" (Ga 1,15). Ngài làm chứng bằng đời sống thánh thiện. Còn chúng tôi là những kẻ tội lỗi yếu hèn, chúng tôi làm chứng bằng sự chúng tôi tội lỗi mà được Chúa cứu và tha thứ. Chúng tôi dâng chính đời sống ấy làm của lễ đền tội và tạ ơn. Chúa xót thương chấp nhận của lễ hèn mọn chúng tôi dâng. Chúng tôi cảm nhận đó là một hạnh phúc của sự phục sinh vô cùng quý giá.
Với những cảm nghiệm vừa kể, chúng tôi sống trong cơn thử thách một cách bình thản, như thánh Gioan Tiền hô mạnh mẽ trong lòng và hạnh phúc trong lòng.
Để kết, chúng ta khiêm tốn cầu nguyện cho nhau và cho Hội Thánh Việt Nam của chúng ta luôn được thuộc về Chúa. Trong thử thách vẫn mạnh mẽ trong lòng, và vẫn  hạnh phúc trong lòng.
Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Amen.

 

Bùi-Tuần 1138: NHỮNG ĐẠI DƯƠNG TRONG TRÁI TIM BÉ NHỎ

 01-08-2011
+ GB. BÙI TUẦN
 

Đời sống mỗi người ví như một chiếc áo dài thiêng liêng. Chiếc áo dài này được dệt bằng: 01-08-2011 Bùi-Tuần 1138

1. Đời sống mỗi người ví như một chiếc áo dài thiêng liêng. Chiếc áo dài này được dệt bằng những sợi chỉ hữu hình và vô hình. Đó là những mối liên hệ nối kết mình với những người khác và với Thiên Chúa.
Mỗi người sẽ mặc chiếc áo dài mình đan, để ra trước Chúa. Chính chiếc áo dài đan bằng những mối liên hệ sẽ là hồ sơ, để nhận thưởng phạt.
Những sợi dây liên hệ được Chúa nhận là đẹp đáng được thưởng, chính là liên hệ tình yêu.
Theo kinh nghiệm, những liên hệ tình yêu giữa người với người thường không đơn giản. Ở đây tôi chỉ khái quát vài hình thức quen thuộc.
2. Liên hệ với những gì làm nên bộ mặt bề ngoài thường có nhiều giới hạn.
Bộ mặt bề ngoài thường diễn tả theo những cái khuôn có sẵn: Khuôn nghi thức, khuôn phát biểu, khuôn tổ chức, khuôn xã gieo. Tất cả các khuôn đó thường muốn nói lên sự hoành tráng, sự chững chạc, và một số giá trị đo lường được.
Bộ mặt bên ngoài, dù được chuẩn bị chu đáo đến đâu, vẫn không nói lên đúng và đủ sự thực của lòng người, đặc biệt là của những người muốn đáp ứng những khát vọng nội tâm.
Nội tâm đi tìm những gì là thiêng liêng cao cả, là vô biên vô tận. Cái thiêng liêng vô biên, mà nội tâm khao khát nhất, chính là tình yêu. Thế mà bộ mặt bên ngoài lại không luôn phiên dịch trung tín sự thực của lòng người, đặc biệt là tình yêu.
Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, bộ mặt bên ngoài lại là thứ đạo đức giả tạo, chủ ý che giấu sự trống rỗng nội tâm, thậm chí còn là phương tiện bị lợi dụng để thực thi sự ác.
Đằng sau những tuyên thệ trung thành vẫn có thể có sẵn ý đồ bất trung. Đằng sau những bắt tay và vỗ tay vẫn có thể có sẵn những nhạo cười và vô cảm.
Cần đi vào lòng người.
3. Liên hệ với chính lòng người bao giờ cũng có giá trị sâu xa.
Đi vào lòng người không cần có kỹ thuật nào cả. Quan trọng nhất là có lửa yêu thương. Lửa yêu thương chân thành nồng nhiệt sẽ tỉnh thức đón chờ và đón nhận tấm lòng người khác với tất cả sự kính trọng.
Những gặp gỡ tin tưởng đằng sau bộ mặt bề ngoài cho phép tôi khám phá thấy: Tình yêu nơi nhiều người là một đại dương mênh mông cao cả.
Hầu như tất cả họ đều có những trải nghiệm khổ đau. Khổ đau của họ là những gánh nặng cuộc đời, là những đắng cay trong những liên hệ, là những thất bại trong việc làm ăn, là những bất công, những phũ phàng, những bội phản được trả đáp cho tình yêu của họ. Khổ đau còn là những bệnh tật, những cô đơn và những giới hạn của họ về nhiều mặt.
Trong khổ đau, họ tự hỏi tại sao, nhưng chẳng có giải đáp nào là thoả đáng.
Họ than thở, nhưng chẳng có chia sẻ nào làm vơi được lòng họ.
Tuy nhiên, họ có tình yêu. Tình yêu của họ giúp họ vượt qua được các trở ngại trên đường.
Gặp những tình yêu cao cả đó, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói về đức mến:
"Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả" (1 Cr 13,4-7).
4. Tình yêu của họ không ở chỗ chịu đựng, mà nhất là ở chỗ cho đi. Cho đi lớn nhất là hy sinh chính mạng sống mình, như lời Chúa Giêsu đã phán xưa: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người dám hy sinh mạng sống mình cho người mình thương" (Ga 15,13).
Tình yêu như thế là một hành trình dài, đi về phía trước với nhiều hy vọng. Tình yêu đó biến đổi tất cả cuộc đời con người yêu thương. Con người yêu thương sẽ tìm thấy ánh sáng trong những bóng tối, ngọt ngào trong những đắng cay, khả thi trong những bất khả thi.
Điều làm tôi trân trọng nhất nơi họ là khả năng yêu thương chân chính. Tưởng rằng họ không thể yêu thương quảng đại trong những hoàn cảnh quá khắc nghiệt, thế mà họ vẫn yêu thương một cách đạo đức tuyệt vời. Đúng là trong họ có tình yêu như biển cả bao la hùng vĩ.
Biển cả đó chưa là lời nói sau cùng của tình yêu. Tình yêu ấy vẫn ở lãnh vực tự nhiên. Còn một tình yêu nữa, đó là tình yêu tự nhiên được siêu nhiên hoá. Có những tình yêu rất đẹp trong lãnh vực tự nhiên đã trở thành đẹp hơn, khi được hoà tan vào tình yêu siêu nhiên của Thiên Chúa.
5. Liên hệ được ơn thánh phù trợ để đi vào tình yêu là một dấn thân đầy ý nghĩa.
Chúa là nguồn tình yêu. Người chia sẻ cho những kẻ Người thương chính tình yêu của Người. Tình yêu của Chúa có hình thánh giá. Nghĩa là một tình yêu chấp nhận hy sinh đến bằng lòng chịu chết trên thánh giá để cứu con người.
Với đức tin trong gặp gỡ, tôi khám phá thấy nhiều tâm hồn không những đậm đà tình thương tự nhiên, mà cũng nồng nàn tình yêu siêu nhiên. Tình yêu của họ vẫn là tự nhiên, nhưng được trở thành lửa thiêng, cầu nguyện và hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa. Lửa thiêng ấy được ban cho họ từ trái tim Chúa Giêsu, một trái tim bị đâm thâu qua trên thánh giá với biết bao nhục nhã, chỉ để cứu chuộc nhân loại, mà Chúa yêu thương.
Do nhận được lửa từ trái tim Chúa Giêsu, họ bước đi theo tình yêu Chúa. Họ đi một cách khiêm nhường, nên yêu thương của họ rất xa lạ với những bước đi ồn ào, chiến thắng.
Tình yêu của họ âm thầm, đôi khi chôn vùi trong những việc bề ngoài bé nhỏ hèn mọn.
Tình yêu của họ kín đáo, không lộ diện cả ở những việc khác thường, mà cũng rất tế nhị ngay cả trong những việc thường ngày.
Quảng đại trong khiêm nhường, nhất là khiêm nhường vâng theo ý Chúa, đó là một dấn thân làm cho tình yêu của họ nên cao thượng. Khiêm tốn âm thầm cũng là một phấn đấu.
Tuy nhiên, những người bén nhạy, vẫn có thể cảm thấy phần nào biển cả tình yêu của họ. Nó hiện lên trong cái nhìn của họ, trên nét mặt họ, giữa giọng nói của họ và qua nỗi đau của họ.
Đúng là trong trái tim nhỏ bé của họ có những đại dương tình yêu bao la thánh thiện.
 
  1.   Những khái quát trên đây của tôi chỉ là tiếng vang yếu ớt của những sự thực thiêng liêng thuộc thế giới nội tâm. Vang vọng này cho tôi niềm vui và hy vọng.
Vang vọng đó đưa tôi vào nhận thức về mình. Tôi chỉ là một con người chứa đầy những bất xứng. Nhưng Chúa đã chủ động làm cho đời tôi có được những sợi dây liên hệ tốt. Trong số đó có những sợi dây nối kết tôi chặt chẽ hơn với Chúa và gần gũi hơn với những cuộc đời đau khổ trên Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam yêu dấu của tôi.
"Lạy Chúa, xin hãy dạy con. Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu" (Kinh Hoà Bình).

 

Bùi-Tuần 1139: ĐƯỢC ĐỠ NÂNG ĐỂ HIẾN DÂNG 16-09-2011

 + GB. BÙI TUẦN
1. Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi về với Cha trên trời.
 

Trong chuyến đi dài, tôi đã băng qua nhiều chặng đường lịch sử khó khăn. Trong trí óc tôi hiện: 16-09-2011 Bùi-Tuần 1139

Trong chuyến đi dài, tôi đã băng qua nhiều chặng đường lịch sử khó khăn. Trong trí óc tôi hiện giờ còn lưu trữ rất nhiều hoài niệm để nhớ để thương. Ở đó có khổ đau, cô đơn và kinh hoàng sợ hãi, nhưng rồi đã gặp được tình thương ấp ủ, giúp tôi phấn đấu.
Tôi vác trên vai những gánh nặng. Mà tôi thì nhiều khi rất mệt mỏi. Bởi vì tôi thân phận yếu đuối mỏng manh.
Làm sao giữ được niềm hy vọng vào lòng thương xót Chúa? Làm sao tiếp tục yêu thương được mãi những người bội bạc ghen ghét? Làm sao cứu giúp được bao người nghèo khổ? Tôi gởi cho Chúa Giêsu những ưu tư như thế. Tôi gởi bằng tâm tình cầu nguyện, khát mong và đợi chờ.
2.
Chúa Giêsu trả lời tôi bằng lời Chúa được ghi trong Phúc Âm: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tôi đón nhận lời Chúa với lòng tin tưởng. Chúa đến với tôi qua lời Chúa. Cùng với lời Chúa là những con người bằng xương bằng thịt. Họ đến nâng đỡ tôi lúc tôi không ngờ.
Có trường hợp, lúc được họ đỡ nâng, tôi nhớ lại lời Phúc Âm kể về Chúa Giêsu, khi Người vác thánh giá lên núi Calvariô: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrinê... Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Chúa Giêsu” (Mc 15,21).
Có trường hợp, lúc được họ đỡ nâng, tôi nhớ tới Chúa Giêsu, khi Người phải chịu đóng đinh, có một nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôphát, cùng với bà Maria Madalena” (Ga 19,25).
Họ đến với tôi, không mang chứng từ gì. Nhưng tôi tin chắc họ được Chúa sai đến với tôi, để nâng đỡ tôi, bởi vì họ khiêm tốn quên mình.
3.
Nâng đỡ của họ là sự hiện diện của họ. Một hiện diện thân thương. Một hiện diện chia sẻ. Một hiện diện cùng đau khổ với tôi. Hiện diện ấy cốt ở tình thương. Cho dù xa mà vẫn gần.
Không những thế, đằng sau họ lại có Chúa Giêsu. Tình thương vô hình của Chúa được thể hiện phần nào bằng tình thương hữu hình của những con người dấn thân quên mình.
Dần dần, tôi thấy ứng nghiệm trong tôi lời Chúa hứa: “Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
4.
Tôi thấy gánh nặng của tôi vẫn còn đó. Nhưng nó được biến đổi. Thay vì nó làm cho tôi chỉ nghĩ về mình, thì nó làm cho tôi nghĩ về Chúa và về những người khác.
Khi nghĩ về Chúa Giêsu, tôi đem đau đớn của tôi hoà vào sự thương khó của Người làm của lễ, mà dâng lên Chúa Cha, để cứu độ nhân loại.
Khi nghĩ về những người khác, tôi cầu xin cho họ được Chúa yêu thương, được Chúa viếng thăm, được Chúa cứu độ.
Thế là đời tôi, từ một cuộc đời giữ lại cho mình đã trở thành cuộc đời dâng hiến. Sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu được chia sẻ cho tôi. Nhờ đó, tôi cảm thấy được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Ách Chúa ban thì êm ái, gánh Chúa ban thì nhẹ nhàng. Đúng như lời Chúa hứa (x. Mt 11,29-30). Chúa thương nên tôi đã gặp được nhiều cuộc đời dâng hiến. Những cuộc đời ấy đã dạy tôi làm chứng cho Chúa bằng những việc dâng hiến nhỏ hằng ngày.
5.
Kinh nghiệm trên đây cho phép tôi xác tín điều này: Những  người đau khổ chính là những chứng nhân hùng hồn về Chúa. Thương tích họ mang chứa đầy ơn thánh. Trong đau khổ, họ mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự mong manh của thân phận con người, để tìm về những gì là căn bản. Căn bản nhất là gặp được Chúa, được đón nhận nơi Chúa lòng thương xót và ơn cứu độ.
Như vậy, đau khổ, khi biết sống với đức tin, sẽ dẫn đưa con người vào một chiều kích thiêng liêng cao đẹp.
Chiều kích thiêng liêng, mà nhiều người đã được cảm nghiệm, đó là thấy được dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên khó nghèo và đau khổ, để đồng hành với mọi đau khổ và khó nghèo của con người, hầu giúp con người trở thành của lễ đáng được vào Nước Trời.
6.
Nếu những người đau khổ là chứng nhân hùng hồn về Chúa, thì mục vụ dành cho những người đau khổ phải được kể là một trách nhiệm đặc biệt của mọi người làm mục vụ.
Bộ mặt của một cộng đoàn, một giáo xứ, một giáo phận sẽ đẹp nhờ chiều kích thiêng liêng. Chiều kích này ít hệ tại ở những hào nhoáng vui nhộn, mà tuỳ thuộc rất nhiều vào tình thương dành cho những người nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn, hèn mọn.
Thánh Phaolô viết: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14).
Trong tinh thần đó, phụng vụ thánh lễ “Suy tôn Thánh Giá” được mở đầu bằng lời sau đây:
“Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Sách Lễ Rôma).
Nếu vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, thì chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người sống thập giá Đức Kitô một cách sống động và cụ thể.
Khi mục vụ dành cho những người đau khổ được thực hiện đầy đủ, những người đau khổ sẽ trở thành một nguồn trợ lực thiêng liêng phong phú cho cộng đoàn nói riêng và cho Hội Thánh nói chung.
Riêng tại Việt Nam hôm nay, những người đau khổ còn rất đông. Họ đau khổ dưới nhiều hình thức. Hãy cùng với Chúa Giêsu đến với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu đồng hành với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu chia sẻ với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu đau khổ với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu nâng đỡ họ.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy mình được đón nhận tình Chúa xót thương, như lời Chúa hứa: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Mục vụ và truyền giáo của chúng ta sẽ đẹp lòng Chúa.
Chúa đã phán: “Một khi được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32).
Lời Chúa phán trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Một khi chúng ta cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta cũng được cùng với Chúa Giêsu sẽ kéo nhiều người lên với Chúa. Sức mạnh lôi kéo người ta lên với Chúa chính là tình yêu hy sinh của thánh giá.
“Đời con như của lễ không hề ngưng”.
Long Xuyên, ngày 16 tháng 9 năm 2011
Để kỷ niệm ngày qua đời của
ĐHY. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
(+ 16/9/2002)

 

Bùi-Tuần 1140: ĐÔI CHÚT TÂM TÌNH 26-09-2011

 + GB. BÙI TUẦN
Nhân cuộc đón tiếp vị Đại Diện Toà Thánh
1.
 

Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện Toà Thánh, sẽ đến Long Xuyên đầu tháng Mười : 26-09-2011 Bùi-Tuần 1140

Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện Toà Thánh, sẽ đến Long Xuyên đầu tháng Mười (02/10/2011). Giữa mùa lũ lụt, giáo phận Long Xuyên sẽ đón tiếp Ngài với tâm tình trào dâng.
Tôi đón nhận biến cố như một sứ điệp của Chúa. Sứ điệp có thể là riêng tư. Sứ điệp gởi đến tôi qua những tâm tình, mà Chúa gợi lên trong tôi.
Những tâm tình này là những tình cảm gắn bó với Chúa và biết ơn Hội Thánh. Những tâm tình này phát sinh từ Lời Chúa vững bền và lịch sử biến chuyển, cùng với kinh nghiệm yếu đuối của bản thân tôi.
Dòng tâm tình như bản nhạc dài. Lúc vui như hoan ca toàn thắng. Lúc buồn như tưởng niệm tiếc thương. Lúc hồi hộp như có báo động. Lúc hy vọng như bình mình tươi sáng.
Dòng tâm tình nâng linh hồn tôi lên với Chúa. Gặp Chúa, Chúa giúp cho những tâm tình của tôi trở nên rõ nét.
2.
Tâm tình thứ nhất là sống cảm tạ.
Tôi cảm tạ Chúa đã nhận tôi vào Hội Thánh Chúa. Trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh, tôi được gặp Chúa là Đấng cứu độ tôi.
Chúa cứu tôi khỏi thân phận cuộc đời có vô vàn giới hạn, để tôi được hiệp thông với sự sống đời đời, tuyệt đối hạnh phúc của chính Chúa.
Chúa cứu tôi khỏi thân phận con người tội lỗi với biết bao tính mê nết xấu và cạm bẫy lôi kéo sự tự do của tôi vào đàng xấu, để tôi được hoà giải với Chúa.
Chúa cứu tôi bằng cách ban cho tôi ơn thánh như một quà tặng nhưng không, đồng thời cũng khuyên tôi hãy biết đón nhận ơn thánh Chúa.
Chúa cứu tôi như thế nhờ những đỡ nâng của Hội Thánh. Tôi còn được rất nhiều ơn hồn xác nhờ Hội Thánh. Tôi hết lòng biết ơn Hội Thánh và cảm tạ Chúa đến muôn đời.
3.
Tâm tình thứ hai là ­sống tin tưởng.
Tôi tin Hội Thánh Chúa sẽ mãi mãi tồn tại. Tin tưởng của tôi dựa trên nền tảng Lời Chúa. Chúa phán: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Lịch sử mấy ngàn năm cho thấy sự tồn tại của Hội Thánh không luôn dễ dàng. Phải nói là Hội Thánh tồn tại trong vô vàn khó khăn. Nhưng cho dù khó khăn tới mức độ nào, Chúa vẫn dùng Hội Thánh như một dụng cụ và một dấu chỉ để cải hoá con người và mọi thực tại trần thế. Để tất cả, với một cách nào đó, đều trở về với Đấng Tạo Thành. Để tất cả, với một cách nào đó, đều yêu thương nhau. Để tất cả, với một cách nào đó, đều hướng tìm về cõi Phục Sinh.
Với dung mạo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Hội Thánh đi qua mọi chặng đường lịch sử. Hội Thánh ban ơn mà không áp đặt. Cũng như Chúa cứu độ mà không cưỡng ép. Chúa cho con người được tự do. Mỗi người có tự do đón nhận hay từ chối Chúa và Hội Thánh Chúa.
Chúa biết trước nhiều người sẽ đón nhận. Chúa cũng biết trước nhiều người sẽ chống đối. Số người từ chối và chống đối có lúc sẽ rất đông. Vì thế, có lần Chúa đã nói: “Khi Con Người lại đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này không?” (Lc 18,8).
Lời Chúa trên đây nhuộm màu bi quan. Thế mà, bi quan đó đã xảy ra trên thực tế lịch sử. Nhiều người đã bỏ đạo. Nhiều nơi đã không chấp nhận Hội Thánh.
Những sự thực đó cho phép tôi nghĩ rằng: Lời Chúa hứa Hội Thánh sẽ tồn tại chỉ được áp dụng cho Hội Thánh toàn cầu, chứ không áp dụng cho từng Hội Thánh địa phương. Sự thực đó dạy tôi tin tưởng trong khiêm tốn.
4.
Tâm tình thứ ba là sống thức tỉnh.
Chúa dạy tôi hãy thức tỉnh. Thức tỉnh là nên biết những gì bi quan đã xảy ra nơi này nơi nọ cũng rất có thể xảy ra cho Hội Thánh địa phương của tôi.
Đất Thánh, xưa là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, đã giảng dạy, đã chịu tử nạn và đã sống lại. Xưa nơi đó đã có thời Công giáo phát triển mạnh. Nhưng nay Công giáo chỉ còn là một cộng đoàn bé nhỏ. Do Thái giáo và Hồi giáo bao trùm khắp Đất Thánh.
Tiểu Á, xưa là nơi hoạt động truyền giáo của thánh Phaolô, là nơi sản sinh ra nhiều thánh giáo phụ, là đất đã chứng kiến những Công đồng đầu tiên quan trọng. Nay Công giáo bị lu mờ trước cảnh phồn vinh của Hồi giáo.
Bắc Phi, xưa nổi tiếng vì có nhiều giáo phận, và vì có nhiều nhà thần học lừng danh, như thánh Augutinh, Tertuliêng và Cyprianô. Nay, bộ mặt quang vinh đã thuộc về quá khứ.
Châu Âu, trước đây phần đông là Công giáo, nhiều thánh, nhiều người đi tu, dân chúng sùng đạo. Nay tình hình đạo nhiều nước đang chuyển biến theo chiều hướng giảm.
Nói chung, nhiều nơi trước đây Công giáo tự hào khẳng định mình là mạnh về nhiều mặt. Nay những thế mạnh hầu như đã và đang chìm xuống.
Những sự thực trên đây khiến tôi phải thức tỉnh. Tôi không nên vội vàng đánh giá Hội Thánh địa phương của tôi dựa theo những thế mạnh bề ngoài. Tôi càng không nên căn cứ vào vài thế mạnh quá khứ, để dám khẳng Hội Thánh địa phương của tôi sẽ tồn tại và phát triển với tương lai huy hoàng bền vững.
Đối với đức tin, thế mạnh thực chất là nhờ ơn Chúa. Thánh Phaolô quả quyết Chúa đã nói với Ngài: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 11,9).
Thánh Phaolô nói tiếp: “Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui mừng, khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bị bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 11,10).
Vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của mình, đó là điều an ủi cho thánh Phaolô. Đó càng là điều an ủi cho tôi. Đó cũng là điều an ủi cho những người bé mọn trong Hội Thánh địa phương của tôi.
Tư tưởng trên đây dẫn tôi đến một tâm tình mới.
5.
Tâm tình thứ bốn là sống bé mọn.
Tôi thấy những người bé mọn là nhân tố quan trọng góp phần cho Hội Thánh được vững bền. Đến đây, Lời Chúa hiện lên trong tôi: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Riêng đối với tôi, những người mà tôi gọi là bé mọn, thường thuộc loại đơn sơ khiêm tốn. Điều làm tôi cảm động nhất nơi họ là sự tha thứ và lòng xót thương. Đó là điều cao cả, khiến tôi nhận ra Chúa ở trong họ. Họ bị sỉ nhục và loại trừ, mà vẫn tha thứ. Họ túng thiếu và khốn khổ, mà vẫn xót thương lo cho người khác.
Trong số những người bé mọn ấy, có những người đã có thời lầm lỗi, nhưng họ đã hối cải. Họ được kể vào số những người, mà Chúa Giêsu đã khen xưa: “Tôi nói thật với các ông, nhiều người thu thuế và đĩ điếm sẽ được vào Nước Trời trước các ông” (Mt 21,31). Lý do là vì họ đã khiêm nhường hối cải.
6.
Với những tâm tình trên đây, tôi đón mừng vị Đại Diện Toà Thánh. Tôi cầu chúc Ngài luôn là dấu chỉ hữu hình của Đấng thiêng liêng vô hình. Đấng thiêng liêng vô hình nói đây là Thiên Chúa.
Trong biến cố Truyền Tin, Sứ Thần Gabriel đã nói với Đức Mẹ Maria rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Lời quả quyết trên đây của Sứ Thần Thiên Chúa như được nhắc lại trong cuộc viếng thăm của vị Đại Diện Toà Thánh.
Tôi tin vào Lời Chúa, vì Chúa ta là Đấng toàn năng và là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa sẽ ban muôn phước lành cho mọi kẻ tin vào Người. Không gì cản trở được Chúa, kể cả những tội lỗi của chúng ta.
Lạy Chúa, con hết lòng xin Chúa thương làm cho mọi người Chúa sai đi được trở nên dấu chỉ sống động của tình yêu Chúa, mang đến cho mọi người sự bình an và niềm hy vọng cứu độ. Amen.

 

Bùi-Tuần 1141: THEO MẸ LÊN TRỜI 05-08 -2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Đức Mẹ đã lên Trời. Từ Trời, Đức Mẹ gọi tôi: "Con hãy lên Trời với Mẹ". Đức Mẹ gọi nhiều: 05-08 -2011 Bùi-Tuần 1141

Đức Mẹ đã lên Trời. Từ Trời, Đức Mẹ gọi tôi: "Con hãy lên Trời với Mẹ".
Đức Mẹ gọi nhiều lần, nhiều cách, nhiều lúc khác nhau. Tiếng gọi đầy yêu thương của Mẹ hối thúc tôi, qua những Lời Chúa, những kinh đọc, những lễ nghi tôn giáo, những người sống đức tin, và nhiều biến cố. Đôi khi một người nào đó đi sâu vào đời tôi, đã cùng với Đức Mẹ, nâng tâm hồn tôi lên.
Tôi nhìn lên Trời, nơi Đức Mẹ đang hưởng phúc trường sinh. Tôi thấy từ trần gian này tới thiên đàng là một khoảng cách mênh mông. Xa thăm thẳm, cao vời vợi. Hơn nữa, hai cõi đời lại rất khác nhau. Chỗ này là vật chất, trên kia là thiêng liêng. Tôi ái ngại và khiếp sợ. Vì tôi thấy tôi nặng nề, không sao băng qua được khoảng cách bao la ấy.
Nhưng tiếng gọi của Mẹ vẫn kiên trì. Dần dần tiếng gọi đó thấm vào lòng tôi. Tình thương trong tiếng gọi ấy đốt lên trong tôi một niềm khao khát. Từ niềm khao khát ấy đã bốc lên những lời kêu van khẩn nguyện: "Xin Mẹ dạy con đường lối về Trời".
2.
Đức Mẹ trả lời tôi.
Bỗng chốc, tôi nhận ra Đức Mẹ là Mẹ của tôi. Mẹ không dạy tôi bằng lý thuyết, nhưng bằng tình người mẹ. Với tình yêu thương thắm thiết, Mẹ in vào lòng tôi con đường Mẹ đã đi để lên Trời.
Con đường đó được ghi khắc vào tôi bằng những cảm nhận sống động. Xưa Mẹ đã có những cảm nhận nào trên đường về Trời, thì nay Mẹ cũng chia sẻ phần nào những cảm nhận đó vào con người của tôi.
Con người của tôi là cả hồn cả xác. Cho nên mọi cảm nhận Mẹ chia sẻ cho tôi cũng được tôi đón nhận cả nơi tâm hồn cả nơi thân xác. Tâm hồn là trí khôn, ý chí. Thân xác là cảm xúc, tình cảm, giác quan. Tất cả trộn vào đức tin, làm cho con người của tôi thành một tạo vật mới.
Tôi cảm được trong tôi có những gì rất mới. Những cái mới quan trọng trong tôi đã làm nên con đường về Trời là mấy cảm nhận sau đây:
3.
Trước hết, tôi cảm nhận được mình thấy rõ đích điểm phải tới.
Tôi sống trên đời như đi trên khoảng rộng có nhiều hướng. Hướng nào cũng mời gọi. Tôi phải chọn. Hướng mà tôi muốn chọn là hướng về Trời. Tôi chọn, vì Mẹ dạy tôi. Khi tôi chọn hướng về Trời như Mẹ muốn, tôi đã nhận ra Chúa. Chúa ngự trên thiên đàng. Chúa đang chờ đợi tôi ở đó.
Tôi xác tín Chúa là đích điểm của chuyến đi đời tôi. Chúa là hạnh phúc của tôi. Chúa là gia nghiệp của tôi. Chúa là thiên đàng của tôi.
Xưa Mẹ đã nhận thấy Chúa là đích điểm đời mình qua đức tin và nhiều dấu chỉ, nay tôi cũng nhận thấy đích điểm đó nhờ đức tin và nhiều mời gọi hữu hình. Mời gọi hữu hình thường lôi cuốn tôi là những người thương tôi và tôi thương.
Một khi đã nhận định Chúa là đích điểm đời mình, tôi cương quyết đi về với Chúa. Càng đi, tôi càng nhạn thấy Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người là Đấng, mà Mẹ đã ca ngợi trong bài ca "Linh hồn tôi tung hô Chúa" (Lc 1,46). Tôi được yêu thương.
Được Chúa yêu thương, tôi coi đó là một hạnh phúc ví như được thiên đàng ngay ở trần gian.
4.
Con đường đi lên với Chúa đã được Mẹ đặt tên, đó là con đường
"Xin vâng" (Lc 1,38). Lời xin vâng của Mẹ ngày Truyền Tin cho tôi thấy các con cái Mẹ phải rất khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa.

"Xin vâng" trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh bị thử thách. Mẹ đã khiêm tốn xin vâng, khi Mẹ thấy Con mình bị quần chúng loại trừ. Mẹ đã xin vâng, khi thấy Con mình như bị chính Đức Chúa Cha bỏ quên. "Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc 15,34), lời kêu đó của Chúa Giêsu trên thánh giá đã đâm thâu qua trái tim Mẹ. Nhưng Mẹ đã xin vâng. Đau khổ ấy là của lễ đền tội thay cho bao người.
Tôi cảm nhận được sự thực của con đường "xin vâng" qua Đức Mẹ. Cuộc đời "xin vâng" sẽ không nghĩ về mình. Cuộc đời đó muốn cho mọi người đều được cứu rỗi. Họ lấy tình yêu và hy sinh che phủ những người đau khổ. Họ sẵn sàng nhận vào mình hình phạt thay cho kẻ có tội.
5.
Tôi cảm tạ Mẹ đã cho tôi những cảm nhận nâng tâm hồn tôi lên với Chúa. Một cảm nhận khác Mẹ đã in vào lòng tôi, để tôi theo đó mà đi lên Trời, đó là cảm nhận mình có khả năng yêu thương.
"Xin vâng" quan trọng nhất là biết yêu thương như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm gương.
Chúa Giêsu đã dạy nhiều về yêu thương.
Yêu thương là "đến để cứu những gì đã hư mất" (Mt 18,11).
Yêu thương là "ai vả má mình bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy" (Lc 6,29-31).
Yêu thương là "hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em" (Lc 6,28).
Chúa Giêsu cũng đã làm gương rất nhiều về yêu thương.
Gương yêu thương trải qua suốt cuộc đời của Chúa. "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá" (Pl 2,6-8). Tất cả là vì yêu thương con người.
Ngay trước khi tắt thở trên thánh giá, Chúa Giêsu còn cầu nguyện với Chúa Cha cho chính những kẻ làm khổ mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Đức Mẹ đã suốt đời yêu thương theo lời dạy và gương sáng của Chúa Giêsu. Cuộc đời yêu thương đó không có gì là khác thường, ồn ào. Chỉ là cuộc đời đi theo Chúa, trong đời thường, với những việc thường, nhưng mang nội dung khác thường.
Những người con Đức Mẹ cũng vậy. Ở đây, xin được phép nhắc lại một câu của các giáo phụ trong sa mạc:
"Kẻ nào nhìn nhận tội lỗi của mình và không xét đoán tội lỗi của anh em mình, kẻ đó cao trọng hơn người làm cho kẻ chết sống lại" (trích Enzo Bianchi, Những mâu thuẫn của thánh giá). Nhận xét trên đây cho thấy yêu thương theo Chúa Giêsu và Đức Mẹ là việc âm thầm, không gây nổi tiếng. Nhưng âm thầm mà rất thánh. Tôi thấy nhiều con cái Đức Mẹ đã và đang thực hiện yêu thương đó trên đường về với Cha trên Trời. Khả năng yêu thương đó nơi họ là do Chúa ban cho.
6.
Cảm nhận sau cùng Đức Mẹ in vào lòng tôi để tôi an tâm đi trên đường về Trời là cảm nhận về sự an toàn.
Tôi cảm nhận mình được an toàn trên đường về Trời theo Đức Mẹ.
An toàn, mà tôi cảm nhận được không phải là sự tôi sẽ tránh được những khó khăn trắc trở, nhưng là tôi có sức Chúa ban để phấn đấu dưới sự che chở của Đức Mẹ.
Cảm nhận này được chứng minh qua thực tế. Thực tế là các con cái Đức Mẹ trong đó có tôi, đã và vẫn phải sống trong những hoàn cảnh không thiếu khó khăn. Có thể nói là khó khăn tư bề. Khó khăn nào cũng đòi phải phấn đấu. Phấn đấu nào cũng có rủi ro. Chúng tôi cảm thấy những sự thực đó một cách thấm thía. Nhưng bên cạnh những cảm nghiệm đó, chúng tôi vẫn cảm thấy mình được an toàn, nhờ ơn thánh. Đó là điều khiến tôi luôn cảm tạ Chúa và Mẹ.
7. Với những cảm nhận trên đây, tôi xin nhắc lại lần nữa là: Con đường lên Trời được Đức Mẹ in vào lòng tôi.
Nói cho cùng, con đường này chỉ là một sự phát triển con người trong tình yêu. "Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8). Người tạo dựng chúng ta do tình yêu, để chúng ta trở về với Người qua con đường tình yêu. Người mời gọi và ban ơn, nhưng chúng ta phải biết lắng nghe, đón nhận và cộng tác vào tình yêu của Người. Đức Mẹ đã sống như vậy. Như vậy nghĩa là sẽ rất xót thương, như một nhân chứng của lòng thương xót Chúa.
"Lạy Chúa, con xin phó thác con trong tay Chúa" (Lc 23,46).

 

Bùi-Tuần 1142: TUỔI THƠ TRƯỚC NHỮNG NGUY CƠ 08-08-2011

 + GB. BÙI TUẦN
 

Tuổi thơ là tuổi đẹp. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu đã quả quyết: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh: 08-08-2011 Bùi-Tuần 1142

Tuổi thơ là tuổi đẹp. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu đã quả quyết: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3).
Trẻ nhỏ mà Chúa Giêsu nói ở đây, là thứ tuổi ngây thơ sẵn sàng đón nhận nền giáo dục tốt, để vươn tới trưởng thành.
Thực tế cho thấy: Loại trẻ nhỏ với tuổi thơ ngoan ngoãn lành mạnh như thế không xuất hiện đều khắp mọi nơi, mọi thời. Nghĩa là trẻ nhỏ với tuổi thơ vẫn thay đổi như bất cứ sự gì trên trái đất này. Có thể tốt đấy, nhưng rồi trở nên xấu đấy. Nhiều trẻ em không có tuổi thơ. Nhiều trẻ em đánh mất tuổi thơ. Kinh nghiệm đó thực là đắng cay.
Trước tình hình này, các bậc phụ huynh không khỏi lo lắng. Lo lắng đó của các cha mẹ cũng là lo âu của những người có trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục.
Chia sẻ của tôi ở đây chỉ là một đóng góp rất nhỏ vào lãnh vực bao la đó. Tôi sẽ nhắc tới một số nguy cơ đang đe doạ tàn phá tuổi thơ. Những nguy cơ này được gợi ý từ câu chuyện một đứa bé. Phúc Âm thánh Marcô kể chuyện đứa bé này một cách tỉ mỉ (x. Mc 9,14-29). Xin tóm lược thế này:
Một ông bố đem đứa con mình đến Chúa Giêsu, xin Người cứu chữa. Ông thưa với Chúa là con ông từ nhỏ đã mắc bệnh với những triệu chứng sau đây:
1. Bị câm, mất khả năng diễn tả bằng lời nói.
2. Hay nổi cơn với những thái độ bất thường.
3. Đôi lúc khùng điên, tự mình làm khổ mình.
Chúa Giêsu động lòng thương, đã chữa lành đứa bé.
Những triệu chứng trên đây có thể áp dụng cho những nguy cơ đang đe doạ tàn phá tuổi thơ. Trẻ còn nhỏ và trẻ đã lớn đều bị như nhau.
Nguy cơ thứ nhất là sự tàn phá chức năng diễn tả.
Đứa bé đưa đến cho Chúa Giêsu là đứa bé bị câm (x. Mc 9,17). Không nói được, đó là một tật bệnh làm hư chức năng diễn tả.
Dùng lời nói để diễn tả, đó là một chức năng quan trọng trong đời sống xã hội. Mục đích là để hiệp thông, chia sẻ, góp phần, góp ý, thông tin, xây dựng bầu khí đạo đức, bầu khí trí thức, bầu khí văn hoá. Nói tắt là để phát triển cộng đồng và chính bản thân mình. Thế mà câm.
Chức năng diễn tả còn bị hư bởi nhiều tật bệnh khác, như nói bậy bạ, nói sai sự thực, nói có nội dung đúng, nhưng với hình thức thiếu lịch sự. Những tật bệnh này cũng do giáo dục.
Để góp phần xây dựng đạo đức, nếu diễn tả lại chỉ gieo rắc hận thù, thì sẽ ra sao?
Để góp phần phát triển trí thức, nếu giáo dục diễn tả lại trình bày những sự thực hàm hồ, thì sẽ ra sao?
Để gầy dựng một nếp sống văn minh, nếu giáo dục diễn tả lại phổ biến những cách suy nghĩ lệch lạc và những khát vọng đê hèn, thì sẽ ra sao?
Để chấn hưng một thế hệ đang xuống dốc về đạo đức, nếu giáo dục diễn tả lại quá nhấn mạnh đến những hình thức đạo đức bề ngoài mà thiếu nội tâm, thì kết quả sẽ ra sao?
Hiện nay, các nguy cơ trong diễn tả đang phát sinh mạnh. Không những trên sách báo, truyền hình, truyền thanh, mà nhất là trong những quan hệ công khai và riêng tư. Nhiều trẻ còn nhỏ bị lây nhiễm. Nhiều trẻ đã lớn bị mắc sâu.
Nguy cơ thứ hai là sự bùng nổ thái độ mất quân bình.
Đứa bé kể trong Phúc Âm mắc chứng hay nổi cơn. Mỗi lần nổi cơn là nó có những thái độ không kềm chế được. Như nghiến răng, xùi bọt mép, vật mình xuống đất, lăn lộn, la hét (x. Mc 9,18)
Tất cả những cử chỉ đó chứng minh một sự mất quân bình. Tình trạng mất quân bình đó không sao kiểm soát nổi, không thể kềm chế được. Nó làm giảm sút nhân cách, nhân phẩm con người.
Hiện nay, hiện tượng mất quân bình đang xuất hiện khắp nơi. Mất quân bình trong sinh lý, trong tâm lý, cả trong đạo đức.
Tình cảm mất quân bình sinh nhiều chuyện rắc rối. Phán đoán mất quân bình càng sinh nhiều hiệu quả tai hại. Đạo đức mất quân bình có thể đi tới hoang tưởng và những điều mê tín.
Xã hội với nhiều chuyển biến mau lẹ dễ làm cho nhiều người mắc bệnh mất quân bình. Người lớn còn bị, phương chi trẻ nhỏ.
Nguy cơ thứ ba là khuynh hướng tự mình làm khổ mình.
Đứa bé trong Phúc Âm nhiều lúc lao mình vào lửa, đâm đầu xuống sông (x. Mc 9,22).
Nó tự tạo ra trong đầu cảnh khổ, rồi tự chọn cách chấm dứt cảnh khổ, bằng dìm mình vào cái chết khổ. Trong chừng mực nào đó, nó là con người dại.
Trên đời không thiếu những người dại như thế. Xin đưa ra vài thí dụ. Có người luôn luôn nuôi mặc cảm mình bị khinh, bị chê, bị ngược đãi, bị đối xử bất công. Thực sự đó là suy nghĩ chủ quan, chứ thực tế khách quan không đúng như vậy. Nhưng mặc cảm tự ti chủ quan vẫn ám ảnh. Con người mặc cảm đó tự làm khổ mình.
Trường hợp người người có mặc cảm tự tôn cũng giống như vậy. Cứ tưởng mình có tài có đức, đáng được trọng kính. Nhưng thấy không được như ý muốn, thì đâm ra bất mãn. Họ tự làm khổ mình.
Có người chạy theo dư luận, bám sát các mẫu thời trang, ngả nghiêng dưới bóng các ngôi sao. Họ làm nô lệ, buông trôi đời mình. Họ tự làm khổ mình.
Có người tưởng mình dấn thân cho một lý tưởng nào đó, rồi vì thế mà lơ là với những giá trị nhân bản, khiến họ thất bại trong những liên hệ giữa người với người. Họ tự làm khổ mình.
Ba nguy cơ kể trên đây phát xuất từ đâu? Theo Phúc Âm, ông bố đã quả quyết đứa bé bị quỷ ám. Chúa Giêsu cũng xác nhận đứa bé bị quỷ nhập. Những nhận xét trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Những nguy cơ hiện nay đang đe doạ tàn phá tuổi thơ cũng có phần nào do ma quỷ. Nói là phần nào do ma quỷ, nghĩa là có những phần do những nhân tố khác. Những tội ác trong giới trẻ hiện nay đang tố cáo những nhân tố đó.
Cho dù thế nào, chúng ta cũng hãy bắt chước ông bố đứa bé. Ông đã cùng với con mình đến với Chúa Giêsu. Ông đã cầu nguyện thay cho con mình. Chúa Giêsu đã chữa con ông, đồng thời cũng đã chữa chính ông.
Chúng ta nên nhớ rằng: Khi đặt vấn đề giáo dục trẻ nhỏ, chính là đặt vấn đề cho người lớn chúng ta, nhất là cho những ai mang trách nhiệm giáo dục kẻ khác.
Riêng trong lãnh vực Đức tin, việc giáo dục hiện nay cần phải rất tỉnh thức. Bởi vì nền văn minh với những phát triển của nó ngày càng cung cấp cho sự tự do con người nhiều phương tiện, để chọn sự lành hoặc chọn sự ác, theo ý riêng mình. Những phương tiện ấy cũng đang lạm dụng để chống phá Đức tin. Đức tin ở tuổi thơ đang bị thử thách. Hiện tượng mất đức tin ở tuổi trẻ không còn là hiếm hoi.
Chính lúc này, chúng ta nên nhớ lại lời thánh Gioan khuyên bảo: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, hãy tránh xa các tà thần” (1 Ga 2,1).
Chúng ta càng cần nhớ lại lời Chúa đã phán với thánh Phaolô: “Ơn của Ta đã đủ cho con” (2 Cr 12,9).

 

Bùi-Tuần 1143: MỨC ĐỘ CỦA TẤM LÒNG VÀNG 12-08-2011

 + GB. BÙI TUẦN
1.
 

Mấy tháng nay vàng lên giá. Người ta coi vàng là một giá trị cao, có thực chất. Khi tình hình: 12-08-2011 Bùi-Tuần 1143

Mấy tháng nay vàng lên giá. Người ta coi vàng là một giá trị cao, có thực chất. Khi tình hình kinh tế trở nên bất ổn, tiền lạm phát, thì vàng hiện lên như một nơi cư trú vững bền của tài sản.
Hiện tượng trên của lĩnh vực kinh tế gợi ý cho tôi nghĩ tới một sự việc tương tự trong lãnh vực đạo đức. Khi tình hình đạo đức trở nên rối ren, ích kỷ thắng thế, thì người ta tìm đến những người có lòng tốt, một lòng tốt mà người ta thường gọi là tấm lòng vàng.
Tôi cũng đi tìm, và cũng đã gặp.
2.
Tấm lòng vàng, đối với tôi, có những nét rất đẹp. Có những nét đẹp rút từ Kinh Thánh. Có những nét đẹp hiểu từ nhân bản.
Nét đẹp thứ nhất của tấm lòng vàng là yêu thương bằng những việc phục vụ.
Để cắt nghĩa thế nào là yêu thương một cách vị tha, Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn sau đây: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy và cũng tránh qua bên kia mà đi.
Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngay chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại'" (Lc 10,30-36).
Phúc Âm kết luận, trong ba người của dụ ngôn, chỉ người thứ ba là yêu thương thực. Yêu thương thực là yêu thương bằng hành động tốt. Hành động tốt là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc và với lòng xót thương chân thành.
Tấm lòng vàng với nét đẹp diễn tả trên đây không thiếu xung quanh tôi. Họ là công giáo và họ là người ngoài công giáo.
3.
Nét đẹp thứ hai của tấm lòng vàng là hiền hậu và khiêm tốn.­
Chúa Giêsu phán: "Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11,29). Trong hiền hậu và khiêm nhường luôn có một sự kính trọng đối với người khác. Kính trọng đó làm cho tình yêu thương thêm giá trị. Hơn nữa, hiền hậu và khiêm nhường cũng luôn có sẵn sự chân thành, cởi mở.
Tấm lòng vàng với nét hiền hậu khiêm tốn không phải là hoạ hiếm tại Việt Nam hôm nay. Họ rải rác ở khắp mọi tầng lớp xã hội.
4.
Với hai nét đẹp trên đây, nhiều tấm lòng vàng đã đem lại cho tôi nhiều lợi ích. Trong những lợi ích thiêng liêng tôi nhận được, có ơn giúp tôi đi lên.
Cái tốt của họ thúc giục tôi nhìn lại chính mình bằng sự cầu nguyện:
"Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ
Biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa
Đi lại hay nghỉ ngơi, Ngài đều xem xét.
Mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
... Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác,
Thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời" (Tv 139/138).
Chúa thương dẫn tôi vào chính lộ ngàn đời. Lộ ngàn đời là Chúa Giêsu. "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
Tôi thấy Chúa Giêsu là tấm lòng vàng trên mọi tấm lòng vàng. Ở chỗ Người đã không tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng chỉ tìm lợi ích cho người khác. Với mục đích đó, Người đã khiêm nhường chịu mọi hy sinh suốt cả cuộc đời. Khiêm nhường và hy sinh đó được thánh Phaolô diễn tả như sau:
"Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá" (Pl 2,6-8).
5.
Vâng lời thánh Phaolô, tôi coi thánh giá Chúa là nơi suy gẫm.
Tôi ngắm nhìn Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Càng nhìn sâu vào Chúa chịu đóng đinh, tôi càng cảm nhận rằng: Chúa là tấm lòng vàng vô giá, do tình xót thương vô biên của Chúa.
Chúa xót thương tôi ở sự Chúa yêu thương tôi. Chúa thương tôi đến nỗi chết vì tôi.
Với tình xót thương đó, Chúa không những cho tôi thấy tôi được Chúa yêu thương, mà tôi còn được Chúa gọi. Chúa gọi tôi hãy đi theo Chúa trên đường làm chứng.
Làm chứng theo Chúa Giêsu có ba việc chính. Một là gắn bó với tấm lòng của Chúa Giêsu, để nhận được tình yêu luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha giàu lòng thương xót. Hai là yêu thương mọi người như Chúa Giêsu đã yêu thương. Ba là loan báo về Nước Trời là Nước tình yêu, sự sống, chân lý và ân sủng.
Thực hành ba việc đó là đề cập đến mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
6.
Để làm chứng, tôi phải chiến đấu rất nhiều. Qua phấn đấu, tôi nhận ra rằng: Để trở thành một tấm lòng vàng như Chúa muốn, tôi không những phải yêu thương, phải hiền lành khiêm nhường, phải quên mình, mà còn phải dũng cảm. Với nhận thức đó, tôi cầu xin như vua Đavít:
"Lạy Chúa, con kêu lên Ngài,
Lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con,
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu,
Xin biểu lộ tình thương diệu kỳ của Chúa,
Ngài cho con trú ẩn dưới cánh tay Ngài,
Khỏi quân thù xông đánh.
Xin giữ gìn con như thể con ngươi.
Dưới bóng Ngài, xin thương che chở,
Cho khỏi tay lũ ác nhân hãm hại,
Thoát bọn tử thù tứ phía bủa vây" (Tv 17/16).
Với kinh nghiệm bản thân tôi thấy: Theo tinh thần Phúc Âm, tấm lòng vàng ở mức độ cao chính là tấm lòng cầu nguyện, gắn bó với Chúa là tình yêu, phục vụ yêu mến mọi người trong khiêm hạ, hy sinh và dũng cảm.
7.
Nói tới đây, tôi tưởng nhớ tới Cha Phanxicô Xavie Trương Bửu Diệp. Cha là một linh mục gốc giáo phận Long Xuyên rất được dân chúng sùng mộ và cầu khấn. Trên khắp nước Việt Nam hôm nay, lương cũng như giáo, đều coi Ngài là một tấm lòng vàng rất dễ thương. Thánh thiện là như thế. Và như thế, dễ thương là một nét đẹp của tấm lòng vàng.
Lạy Chúa, con xin Chúa thương ban cho Hội Thánh Việt Nam được nhiều tấm lòng vàng. Cách riêng, xin Chúa thương ban ơn cho con được là một tấm lòng vàng, ở một mức độ nào đó mà Chúa muốn, để con sẵn sàng chịu mọi hy sinh cho tất cả những ai gọi con hãy đến cứu giúp họ. Amen.

 

Bùi-Tuần 1144: HỌC TỪ NHỮNG CHUYỂN BIẾN HIỆN NAY 18-08-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Mỗi lần niên học mới bắt đầu là mỗi lần tôi được thôi thúc phải học thêm mãi. Lãnh vực trí: muốn,: 18-08-2011 Bùi-Tuần 1144

1.
Mỗi lần niên học mới bắt đầu là mỗi lần tôi được thôi thúc phải học thêm mãi. Lãnh vực trí thức là mênh mông. Lãnh vực văn hoá là bao la. Lãnh vực đạo đức là bát ngát. Ngay lãnh vực nhân bản cũng đã là ngút ngàn thăm thẳm. Phương chi lãnh vực đức tin.
Tôi không có tham vọng học hết, và tất nhiên tôi cũng không có thể học tất cả. Nên tôi chọn học những gì có nhiều liên hệ đến tu đức trong những chuyển biến tại xã hội và Giáo Hội Việt Nam hôm nay.
2.
Sống giữa những chuyển biến hiện nay, tôi vui mừng học được từ  nhiều người những bước đi  về hướng cứu độ.
Có ý thức hay không có ý thức, nhiều người đang cộng tác với Thiên Chúa Ngôi Cha là Đấng tạo dựng sự sống. Họ cộng tác bằng cách bảo vệ sự sống và phấn đấu làm cho sự sống càng ngày càng thêm tốt đẹp về nhiều mặt, nhất là về mặt đạo đức.
Có ý thức hay không có ý thức, nhiều người đang cộng tác với Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng hy sinh cứu chuộc loài người. Họ chấp nhận quên mình, chịu đau khổ, để cứu người khác khỏi lầm than, nhất là khỏi tội lỗi.
Có ý thức hay không có ý thức, nhiều người đang cộng tác với Thiên Chúa Ngôi Ba là Thánh Thần chân lý và tình thương. Họ theo Người xây dựng hiệp thông bằng những sợi dây nhân ái và sự thật.
Tôi cầu nguyện cho họ. Tôi dâng họ lên Chúa. Tôi xin Chúa chúc lành cho họ.
Điều khiến tôi trân trọng họ là họ đã và đang chiến đấu dũng cảm. Họ phải trải qua những quãng đường tăm tối. Họ phải nếm những thất bại đắng cay. Nhưng họ vẫn đi về phía trước với niềm tin cậy.
Điều khiến tôi tin tưởng họ là họ có hoa quả của Chúa Thánh Thần: “Hoa quả của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22).
Điều khiến tôi khâm phục họ là họ hăng hái dấn thân, nhưng vẫn trung tín với việc hồi tâm cầu nguyện. Họ coi đời sống nội tâm gắn bó mật thiết với Chúa là linh hồn của mọi dấn thân.
Điều khiến tôi ca tụng họ là họ luôn tìm thực thi thánh ý Chúa. Họ triệt để tuân giữ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Bên cạnh những người đi đúng hướng, chẳng may lại có những người có vẻ đi sai hướng cứu độ.
 
  1.      
Thực vậy, sống giữa tình hình chuyển biến hiện nay, tôi không thể không thấy nhiều người đi theo hướng mà Phúc Âm gọi là dẫn tới diệt vong.
Chúa Giêsu phán: “Hãy đi vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
Người đi vào cửa rộng, đường rộng là người thích tự do theo ý riêng mình, mình là luật cho chính mình.
Tự do trong lối sống, với sự lạm dụng thời giờ, tiền bạc, địa vị và sức khoẻ.
Tự do trong việc xét đoán, với những thành  kiến và mặc cảm tự tôn, bất chấp công bình bác ái.
Tự do trong việc áp dụng Kinh Thánh, với sự ngạo mạn, cho mình là có Chúa Thánh Thần để áp đặt ý kiến của mình.
Tự do cắt nghĩa thánh ý Chúa trong các chọn lựa với mưu đồ tìm lợi ích riêng.
Người đi vào cửa rộng đường rộng còn là người nguội lạnh. Chúa phán: “Vì ngươi hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15).
Người đi vào cửa rộng đường rộng cũng còn là người làm việc đạo đức với ý muốn phô trương. Chúa phán: “Ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,22-23).
Người đi vào cửa rộng đường rộng còn là người ích kỷ không biết xót thương giúp đỡ kẻ khác. Dụ ngôn cuộc phán xét chung cho ta thấy rõ sự thực đó: “Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho ác quỷ và các sứ thần của nó, vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã không thăm nom... Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất, là các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25,41-45).

4.
Tôi có cảm tưởng những người đi theo hướng dẫn tới diệt vong như một chọn lựa có ý thức không phải là đông. Họ đi vì nông nổi, vì yếu đuối, vì phong trào, vì bị ảnh hưởng xung quanh, vì không được đào tạo. Vì thế, nhiều người trong họ đã trở về, khi được soi sáng và được lôi kéo trong nội tâm họ.
Do đó, giữa những chuyển biến của tình hình, nơi thiện ác giao tranh, tôi thấy sự thiện vẫn mạnh. Người tốt vẫn có sức cảm hoá. Họ có khả năng biến đổi tình thế nên ổn định hơn, công bình hơn, yêu thương hơn.
Vì thế, việc đào tạo để có những người thực tốt, trở thành men thành muối, là việc hết sức cần cho việc xây dựng hạnh phúc trong Hội Thánh và Đất Nước Việt Nam hôm nay.
5.
Đào tạo theo Phúc Âm là biết lắng nghe Chúa và biết trả lời Chúa. Chúa gọi mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy trả lời Chúa. Chúa gọi: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chắc chắn chúng ta là những con người có nhiều giới hạn. Nhưng dù với giới hạn nào, chúng ta cũng vẫn cố gắng làm cho những gì chúng ta có mang dung mạo yêu thương của Chúa.
Bắt chước các vị thánh là điều tốt. Nhưng thiết tưởng Chúa không cấm chúng ta có một nét riêng, mà vẫn đậm đà tình yêu đối với Chúa và đối với mọi người.
Sống nhập thể tại Đất Nước Việt Nam hôm nay là một mời gọi. Chúng ta hãy trả lời bằng một đời sống phục vụ yêu thương đậm đà bản sắc dân tộc mang dung mạo của Thiên Chúa Tình yêu.

 

Bùi-Tuần 1145: ĐI TÌM NHỮNG CON ĐƯỜNG 22-08-2011

 + GB. BÙI TUẦN
1.
 

Rất nhiều người Việt Nam đang sống trên Đất Nước Việt Nam hôm nay là những kẻ đi tìm: 22-08-2011 Bùi-Tuần 1145

Rất nhiều người Việt Nam đang sống trên Đất Nước Việt Nam hôm nay là những kẻ đi tìm.
Theo tôi, họ không đi tìm niềm tin.
Bởi vì đời họ đã trải qua nhiều niềm tin. Người thì bảo họ hãy tin bên này, thì được hạnh phúc. Họ tin, nhưng tin hoài mà không tìm được hạnh phúc. Rồi người kia lại bảo họ hãy tin bên kia, thì được hạnh phúc. Họ cũng tin, nhưng tin mãi mà cũng chẳng thấy hạnh phúc.
Họ có cảm tưởng nhiều niềm tin là quá xa vời. Họ thất vọng vì nhiều niềm tin. Lỗi tại họ, hay lỗi tại ai, thì họ không đặt thành vấn đề.
Vấn đề họ đặt ra bây giờ là họ đi tìm những con đường, chứ không đi tìm những niềm tin.
2.
Những con đường họ tìm không bắt đầu từ niềm tin, mà từ cảm nghiệm là mình được yêu thương, được kính trọng. Bắt đầu con đường đó không phải là gặp được một lý thuyết, mà là gặp được những con người yêu thương. Những con người yêu thương không phải là những người nói thay cho họ, nhưng là những người đau khổ với họ, hơn nữa còn dám chịu khổ thay cho họ và cũng dám chịu chết thay cho họ.
Con người yêu thương không phải là con đường, mà chỉ là một gợi ý cho một con đường. Mỗi người sẽ dần dần khám phá thấy con đường do cảm nghiệm mình được yêu thương, được kính trọng từ người khác. Họ với người đó cùng nhau dấn thân vào đời. Họ coi nhau là bạn đồng hành thân thương.
Trên đường dấn thân vào đời, người bạn đồng hành sẽ dần dần giúp họ khám phá ra những giá trị làm cho đời mình được hạnh phúc, được có ý nghĩa.
Có những giá trị mình phải phấn đấu học hành mới có được. Như những giá trị trong lãnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, sản xuất.
Có những giá trị mình phải phấn đấu khôn khéo chọn lựa mới có được. Như những giá trị trong lãnh vực văn hoá, chính trị.
Có những giá trị mình phải phấn đấu với niềm tin vào sự giúp đỡ của thần thánh mới có được. Như sống tốt giữa những sa đoạ xung quanh.
Có những giá trị mình phải phấn đấu với niềm tin vào Đấng Tối Cao mới có được. Như sự Đấng Tối Cao sẽ thứ tha, để có thể về với Người trên cõi phúc.
3.
Tâm lý con người Việt Nam hôm nay xem ra đang diễn biến như vậy. Một tâm lý không tìm niềm tin, nhưng tìm những người thực sự yêu thương họ, để cùng với họ đi tìm con đường dẫn tới hạnh phúc.
Những ai đi tìm như thế, đã gặp được Chúa. Chúa gọi họ một cách tự do. Họ trả lời Chúa một cách tự do. Đức tin của họ là một giao ước.
Kinh nghiệm trên đây cho tôi thấy vai trò của người truyền giáo tại Việt Nam hôm nay phải rất tế nhị.

4.
Tế nhị thứ nhất là khi nói về đức tin phải rất kính trọng và khiêm tốn, càng không nên ép ai phải chấp nhận đức tin của mình.
Bước đầu cần thiết của truyền giáo là yêu thương kính trọng những người mình muốn chia sẻ Tin Mừng.
Tế nhị thứ hai là phải đồng hành với những người mình muốn truyền giáo. Đồng hành là luôn yêu thương, chia sẻ vui buồn, lo âu và hy vọng. Nhất là phải làm gương sáng.
Gương sáng mà tâm lý người Việt Nam rất coi trọng là chữ hiếu. Hiếu với ông bà, cha mẹ đã qua đời. Hiếu với những bậc sinh thành còn đang sống. Hiếu với mọi ân nhân xa gần, với xóm làng hay cộng đoàn mà mình là thành phần. Xúc phạm những người mình phải hiếu thảo là rất phản chứng.
Tế nhị thứ ba là bén nhạy với thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất khác với ý riêng chúng ta. Nhiều khi người ta tự ý đặt ra nhiều thứ luật lệ, coi đó là hợp thánh ý Chúa, rồi áp đặt, buộc người khác phải tuân giữ. Thực sự Chúa không muốn thế.
Nhiều khi người ta có những lựa chọn riêng, coi là hợp thánh ý Chúa, rồi muốn loại trừ những ai không chọn lựa như mình. Thực sự Chúa đâu muốn thế.
5.
Thiết nghĩ tế nhị với thánh ý Chúa là làm chứng về Chúa trong các chiều kích thiêng liêng.
Người truyền giáo nhận ra Chúa hiện diện ở chiều kích thiêng liêng thường có trong đời thường. Nghĩa là trong những quan hệ tình nghĩa, trong cách ứng xử nhã nhặn khiêm nhường, trong cách làm việc có lương tâm, trong lối sống có kỷ luật, trong thái độ giữ được khoảng cách trước tiền bạc, quyền lực và các cám dỗ hưởng thụ.
Chiều kích thiêng liêng rất cần trong lúc này, chính là người truyền giáo giữ được tâm hồn yêu thương dũng cảm khi bị người ta phản bội, và khi coi như bị Chúa bỏ rơi. Chính những trường hợp tăm tối ấy mới chứng tỏ được lòng mình tin yêu trung tín. Nếu người ta không nhận ra hay chưa nhận ra đó là một giá trị thiêng liêng cao cả, thì ít là Chúa biết. Chúa sẽ nhận đó là của lễ ta dâng, có sức tham gia vào công cuộc cứu độ của Chúa. Đang khi đó, nhiều khi những hoành tráng, hùng hồn không những trống vắng chiều kích thiêng liêng, mà còn phản chứng trầm trọng.
Chiều kích thiêng liêng mà tôi cho là quan trọng nhất nơi người truyền giáo tại Việt Nam hôm nay là họ thuộc về Chúa.
Người được sai có đức tin và sống đức tin. Nhưng họ không bắt đầu phục vụ bằng cách ép người ta phải tin như mình. Họ làm chứng đức tin bằng đời sống yêu thương khiêm nhường đúng như người của Chúa. Trong yêu thương khiêm nhường có chiều kích thiêng liêng. Chiều kích thiêng liêng ấy là điểm mở ra, để gặp gỡ con người và Thiên Chúa.
6.
Cách họ truyền giáo như thế không có gì mới. Bởi vì cách đó chính là lặp lại con đường cứu độ của Chúa Giêsu, mà thánh Phaolô đã mô tả như sau:
“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.
Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-8).
Và như thế, người truyền giáo là người sống yêu thương khiêm nhường như Chúa Giêsu, để giới thiệu niềm tin vào chính Chúa Giêsu, Người “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
“Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” (Kinh Hoà Bình).

 

Bùi-Tuần 1146: SỐNG ƠN GỌI MỚI 26-08-2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Suốt đời, tôi để ý lắng nghe tiếng Chúa. Chúa gọi tên tôi. Chúa dạy riêng tôi. Những gì Chúa: 26-08-2011 Bùi-Tuần 1146

Suốt đời, tôi để ý lắng nghe tiếng Chúa. Chúa gọi tên tôi. Chúa dạy riêng tôi. Những gì Chúa dạy riêng tôi vẫn là những gì có sẵn trong Phúc Âm, nhưng luôn mang màu sắc mới.
Màu sắc mới là cách áp dụng Phúc Âm. Áp dụng sao cho đạt được hai hướng cần thiết. Vừa trung thành với truyền thống, vừa mở ra việc thích nghi theo nhu cầu hoàn cảnh thực tế.
Thực tế hoàn cảnh Hội Thánh Việt Nam hôm nay rất khác xưa. Thực tế hoàn cảnh của riêng tôi hiện nay cũng không còn như bao năm trước. Có lẽ vì thế, mà Chúa nhắn gởi tôi một ơn gọi mới.
Chúa nhắn gởi đã từ lâu. Nhưng về cuối đời, tiếng Chúa gọi mỗi ngày mỗi tha thiết hơn. Thiết tưởng, ơn gọi này cũng sẽ giúp ích cho nhiều người. Vì thế mà tôi xin được chia sẻ.
2.
Chúa gọi tôi thế này:
- Thay vì cho mình là người thánh thiện, con hãy nhận biết mình là kẻ tội lỗi, cần được Chúa thứ tha.
- Thay vì cho mình là người sáng suốt, con hãy nhận biết mình là kẻ yếu đuối, cần được Chúa dẫn đường chỉ lối.
- Thay vì cho mình là kẻ hơn người, con hãy nhận biết mình là kẻ rốt hết, cần được Chúa nhận như một của lễ mọn hèn..
Tôi nghe được những tiếng Chúa gọi trên đây trong những lúc hồi tâm, cầu nguyện, suy gẫm. Những thời gian đó, Chúa giúp tôi đọc lại Phúc Âm và đọc lại đời mình. Đọc nhiều lần, đọc sâu mãi.
Trong thinh lặng, tôi nghe tiếng Chúa. Chúa gọi từ thẳm sâu cõi lòng.
Dần dần, tiếng Chúa dẫn tôi đến với chính Chúa. Được gặp Chúa, tôi thấy Chúa không còn nói bằng lời, bằng tiếng, mà bằng những tâm tình của Chúa chia sẻ cho tôi. Chia sẻ nhẹ nhàng, thấm sâu vào tâm tư. Chúa chia sẻ như một mời gọi thân thương. Chúa đợi tôi trả lời một cách tự do. Chúa không hề áp đặt.
Tôi trả lời Chúa. Trả lời của tôi không bằng lời, mà bằng tình mến. Tình mến của tôi là, tôi xin thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa. Chúa muốn sao, tôi xin vâng như vậy.
Với tất cả tình mến chân thành, tôi xin Chúa giúp tôi sống ơn gọi mới. Tôi sống ơn gọi mới bắt đầu bằng tâm tình cầu nguyện và đặt nặng tâm tình cầu nguyện.
3.
Lời nguyện của ơn gọi mới là: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con”.
Khi nói lời trên đây với Chúa, tôi nhận thấy trong tôi biết bao thất trung thất tín. Thêm vào đó là vô số những nhận thức ảo về mình. Tưởng mình lành thánh nhưng thực sự là tội lỗi. Thay vì dâng lên Chúa những việc lành phúc đức, tôi thấy mình tay không, và còn tệ hơn là tay không, bởi vì tôi mang nhiều sai phạm: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Sự chân thành nhận biết mình tội lỗi giúp tôi khám phá thấy tình yêu xót thương của Chúa. Tôi chẳng đáng Chúa thứ tha. Nhưng Chúa vẫn tha thứ. Trong ơn tha thứ có tình yêu nhưng không. Tôi được tha thứ và được yêu thương.
Cảm nhận được ơn Chúa tha thứ và yêu thương, tôi được Chúa nhắn nhủ tôi cũng hãy tha thứ và yêu thương những người khác. Chúa đối xử với tôi thế nào, tôi cũng phải đối xử với những người khác như vậy.
Cảm nhận quý báu ấy cũng đã dẫn đưa tôi vào sự yêu mến Hội Thánh. Tôi yêu Hội Thánh với những nét thánh thiện của Hội Thánh. Tôi vẫn yêu Hội Thánh cả với bao lỗi lầm của những thành phần trong Hội Thánh.
4.
Lời cầu của ơn gọi mới còn là: “Lạy Chúa, xin thương soi đường chỉ lối cho con”.
Khi cầu nguyện với Chúa như trên, tôi được Chúa nhắc tới sự tỉnh thức. Biết phân định, biết chọn lựa là điều Chúa căn dặn cách riêng trong Phúc Âm. Và đó cũng là điều rất cần cho cuộc sống tu đức, mục vụ và truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Khi  nhắc tới điều cần thiết đó, Chúa cho tôi thấy Chúa đòi tôi phải rất tỉnh thức trong lãnh vực bổn phận mà Chúa trao phó cho tôi.
Là người kế vị các thánh tông đồ, tôi được Chúa trao trách nhiệm phải làm chứng cho Chúa về điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,34).
Trong lãnh vực bác ái yêu thương, Chúa giúp tôi có những chọn lựa. Tất nhiên giữa thiện và ác, thì dễ chọn lựa. Nhưng giữa các việc thiện, vẫn có những việc ưu tiên cần chọn. Cũng như để phục vụ, tôi cần xem nhu cầu nào là cấp bách hơn. Để đáp ứng nhu cầu đó, tôi phải chọn việc nào là việc tốt hơn. Để thực hiện việc đó, tôi phải chọn cách nào là cách tốt hơn. Biết bao điều phải chọn lựa.
Kinh nghiệm cho tôi thấy những chọn lựa như thế không thể thực hiện được, nếu thiếu ơn Chúa. Nhưng nếu quả quyết là mình luôn có Chúa Thánh Thần soi sáng trong mọi chọn lựa, thì e rằng sẽ tự dối mình. Vì thế, sự khiêm nhường thận trọng luôn luôn tìm hiểu thánh ý Chúa trong từng chọn lựa, đó là điều Chúa dạy tôi hãy cầu nguyện hằng ngày.
Thánh Phaolô tự thú: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Thánh Phaolô còn thế. Phương chi tôi. Nhưng tôi thấy Chúa có quyền năng và tình thương để biến những thất bại của tôi thành những thành công trong sự giúp tôi biết mình và biết Chúa.
Sự yếu đuối là một thánh giá. Tôi vác nó với tất cả tâm tình khiêm tốn và lòng cậy trông.
5.
Lời cầu của ơn gọi mới cũng còn là:
Lạy Chúa, xin thương nhận con như một của lễ mọn hèn.
Khi tôi nói với Chúa lời nguyện trên đây, tôi được Chúa cho thấy sự khiêm nhường là điều căn bản của tu đức. “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Thế mà sống khiêm nhường đâu phải dễ.
Sự khiêm nhường, mà Chúa dạy tôi phải cầu xin đặc biệt lúc này, là thái độ dè dặt khôn ngoan trước những chuyển biến hiện nay của thời đại.
Trong lãnh vực khoa học có những chuyển biến đang đi tới chỗ khẳng định tính độc lập, không cần đến tiếng nói của Hội Thánh.
Trong lãnh vực kỹ thuật sản xuất cũng có những chuyển biến đang đi tới chỗ phát triển độc lập, không cần ý kiến nào của Hội Thánh.
Trong lãnh vực chính trị cũng có những chuyển biến đang đi tới chỗ khẳng định chọn lựa là quyền độc lập của dân, không chấp nhận phán quyết nào của Hội Thánh.
Trong lãnh vực văn hoá cũng có những chuyển biến đang đi tới chỗ khẳng định mọi chọn lựa là độc lập theo tính hợp lý, không chấp nhận can thiệp nào của Hội Thánh.
Trong lãnh vực từ thiện xã hội đang có những chuyển biến đi tới chỗ nhiều tổ chức ngoài công giáo khẳng định vị trí ưu tiên đối với người nghèo, xem ra không cần đến Hội Thánh Công giáo.
Như thế, nhiều chuyển biến trong xã hội xem ra đang đi tới kết luận không cần đến Công giáo. Kết luận đó làm tôi rất buồn. Bởi vì Công giáo có ích cho nhân loại, đó là một sự thực được chứng minh trên lý thuyết và trên thực tế.
Chẳng may, trong nội bộ Hội Thánh cũng đang có những sự kiện phân hoá, làm cớ cho xã hội bớt tin vào Hội Thánh.
Đang khi đó, không thiếu thành phần công giáo cũng đang tha hoá, tự đánh mất giá trị người con của Chúa, không còn đáng tin.
6.
Những chuyển biến trên đây là một thực tế đáng ngại, nhưng không đáng sợ. Tuy nhiên, tôi không thể không đau đớn thấy mình như bất lực.
Trước một thực tế như trên, tôi thấy rất cần phải khiêm tốn. Sống bé mọn cậy trông Chúa, rồi Chúa sẽ giúp.
Chúa giúp tôi bằng cách chia sẻ với Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. Đức Kitô dạy tôi hãy trở nên của lễ như Người và với Người. Từ đó tôi hiểu lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Trong niềm tin mạnh mẽ vào Của lễ Đức Kitô trên thánh giá chắc chắn đưa tới cứu độ và Phục sinh, tôi sống ơn gọi mới với tâm tình phó thác và lòng vâng phục.
Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

 

Bùi-Tuần 1147: KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ 07-10-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Mội bài thánh ca đang nuôi dưỡng tâm hồn tôi lúc cuối đời, đó là bài: “Khi Chúa thương gọi: 07-10-2011 Bùi-Tuần 1147

1.
Mội bài thánh ca đang nuôi dưỡng tâm hồn tôi lúc cuối đời, đó là bài: “Khi Chúa thương gọi con về”.
Tôi không hát. Nhưng bài hát vang vọng trong tôi. Như một thôi thúc cầu nguyện. Như một chỉ hướng nhìn về phía trước. Như một hăm hở đi tới điểm hẹn.
Tiếng Chúa gọi rất nhẹ nhàng mà sâu lắng, rất âm thầm mà mạnh mẽ, rất đơn sơ mà đòi hỏi.
Chúa gọi, chứ không cắt nghĩa dài dòng. Có một sự dứt khoát trong lời Chúa gọi tôi, và Chúa cũng đòi phải có sự dứt khoát trong trả lời của tôi.
Nghe lời Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi tự hỏi: Tôi phải chuẩn bị thế nào? Tôi tự trả lời bằng nhiều phương án. Sau cùng chính Chúa trả lời cho tôi.
2.
Chúa trả lời tôi qua lời tiên tri Isaia: “Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi” (Is 61,10). Nghĩa là tôi phải nhờ Chúa để nên công chính. Và tôi phải đẹp “Như đất đâm chồi, như vườn nẩy lộc” (Is 61,11).
Hơn nữa, tôi phải được tái sinh, trở thành thụ tạo mới. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được tái sinh bởi ơn trên” (Ga 3,3). Thụ tạo mới đó có đặc điểm này: Họ ở trong Đức Kitô: “Phàm ai ở trong Đức Kitô, đều là thụ tạo mới” (2 Cr 5,17).
3.
Với những Lời Chúa trên đây, tôi hiểu sự chuẩn bị, mà tôi phải có để về với Chúa, chính là đời sống thiêng liêng đạo đức.
Đạo đức nói đây phải sâu. Nghĩa là đạo đức không chỉ là thứ áo choàng công chính khoác bên ngoài, mà còn phải là những hoa trái mọc ra từ bên trong, đặc biệt bên trong ấy phải có mầm mống sự sống của Thiên Chúa.
Đời sống đạo đức như thế có thể gọi là một sự cải đổi. Bỏ cái xấu để có cái tốt. Bỏ con người cũ, để thành con người mới.
Cái xấu là tội lỗi, cái tốt là nhân đức. Con người cũ là những thứ giá trị sẽ qua đi. Con người mới là những thứ giá trị sẽ tồn tại đời đời.
Khi đạo đức là một cải đổi nếp sống, thì tất nhiên phải có phấn đấu. Phấn đấu không ngừng.
Khi đạo đức là một sự lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng, thì tất nhiên phải có kiên trì. Kiên trì trải dài trên lịch sử cuộc đời.
Khi đạo đức là một sự tham dự vào sự sống Thiên Chúa, thì tất nhiên phải có ơn thánh Chúa. Ơn thánh làm cho tôi được tái sinh trong đời sống mới.
4.
Đời sống mới chính là sự sống Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa chính là đối tượng sau cùng tôi tìm kiếm. Tình yêu Thiên Chúa chính là quê hương tôi ước mơ. Tình yêu Thiên Chúa chính là hạnh phúc tôi được mời gọi trong cõi đời sau.
Chúa cho tôi được nếm thử một chút tình yêu Chúa ngay ở đời này, để một chút bé nhỏ đó trở thành động lực thúc đẩy tôi phấn đấu với mọi khó khăn, vượt qua mọi hoàn cảnh của thực tế lịch sử, để luôn khát tìm ơn thánh.
Với kinh nghiệm, tôi cảm thấy tình yêu Chúa dần dần đơn giản hoá việc tôi chuẩn bị đi về với Chúa.
- Tôi làm mọi việc với tình yêu Chúa.
- Tôi chịu mọi hy sinh vì tình yêu Chúa.
- Tôi lợi dụng mọi cơ hội để làm chứng cho tình yêu Chúa.
- Tôi yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.
5.
Tôi xin phép nói thêm ở điểm yêu thương. Bởi vì yêu thương người khác chính là một điều răn cản băn, mà Chúa sẽ căn cứ vào, để phán xét tôi có xứng đáng được vào Nước Chúa hay không (x. Mt 25,31-48).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi sẽ khiêm tốn phục vụ bất cứ ai trong cảnh khổ, theo khả năng của tôi. Chúa dạy tôi điều đó trong dụ ngôn người Samari tốt lành (x. Lc 10,29-37).
Vì yêu thương  người khác như Chúa dạy, tôi sẽ đề phòng tránh xét đoán người khác. Chúa dạy tôi điều đó khi Người nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Anh em xét đoán thế nào, thì anh em sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”.
Sao anh em thấy cái rác trong con mắt người anh em, mà cái xà trong con mắt mình thì không để ý tới” (Mt 7,1-3).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi theo gương các mục tử tốt lành, cố gắng đi tìm con chiên lạc, coi sự một con chiên lạc trở về là niềm vui lớn lao hơn hết. Vì Chúa phán: “Người nào trong các ông có 100 con chiên mà bị mất một con, lại không để 99 con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai... Vậy, tôi nói cho các ông hay trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi xin Chúa ban cho tôi và cho mọi người được ơn biết tha thứ cho nhau. Tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu trên thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi hết sức kết hợp với Chúa Giêsu. Vì Người quả quyết: “Không có Thầy, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5).
6.
Chúa dạy tôi là hằng ngày hãy cố gắng làm những việc đạo đức như trên. Những việc đạo đức ấy sẽ có giá trị đời đời. Cuộc sống đời đời được bắt đầu từ những việc đạo đức làm ở đời này. Đó là một chuẩn bị tốt để đi vào cuộc sống tình yêu đời đời ở cõi sau.
Các việc đạo đức trên đây đều dựa trên Lời Chúa. Vì thế số phận của tôi sẽ tuỳ vào sự tôi có nghe, có đón nhận và có thực hành Lời Chúa hay không, nhất là về bổn phận yêu thương.
Đến đây, suy nghĩ của tôi dừng lại ở lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh Gioan. “Kẻ không yêu thương, thì ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân. Vì anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó” (1 Ga 3,14-15).
7.
Trên thực tế, những điều tôi vừa diễn tả thường không luôn thực thi đầy đủ. Bởi vì rất nhiều khi nghe Chúa gọi trong cơn đau đớn, tôi chỉ có thể cầu xin với Chúa một lời vắn tắt này: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi, xin Chúa thương xót con. Con tin Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xin cứu độ con”.
May ra, đôi khi, tôi cũng thêm được vài lời cầu xin vắn nữa, như: Lạy Chúa, con xin ký thác nơi Chúa tất cả những người gắn bó với con. Xin Chúa đoái thương ban bình an cho Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam của con.
Tôi cảm nghiệm sâu sắc điều này: Khi Chúa thương gọi tôi về, điều làm tôi hân hoan nhất, chính là sự tôi được Chúa yêu thương tha thứ cứu độ.
Lời Chúa gọi kèm theo lời tha thứ. Trong lời gọi có ơn cứu độ tràn đầy.
Tôi đón nhận lời Chúa gọi với tất cả tấm lòng khiêm nhường sám hối, và tin cậy phó thác, cùng với hết tâm hồn cảm tạ ngợi khen. Tất cả đều trong tinh thần cầu nguyện thiết tha, để ra đi cũng trong tâm tình cầu nguyện khiêm nhường.
Đức Mẹ Maria ở bên tôi.
Trong giờ hấp hối, chắc chắn sự chuẩn bị tôi sẽ rất vắn gọn. Chuẩn bị vắn gọn lúc đó sẽ như thế này: Tôi không còn nhìn vào tôi, mà chỉ nhìn vào Đấng gọi tôi. Tôi nhìn vào Đấng thương yêu tôi, với chỉ một lời phó thác đơn sơ: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

 

Bùi-Tuần 1148: MỘT ĐÊM THÁNG MƯỜI 17-10-2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Chỉ cách đây vài chục tiếng đồng hồ, tôi đã gặp một đêm kỳ diệu. Đêm để ngủ, nhưng không sao: 17-10-2011 Bùi-Tuần 1148

Chỉ cách đây vài chục tiếng đồng hồ, tôi đã gặp một đêm kỳ diệu. Đêm để ngủ, nhưng không sao ngủ được. Trên giường, tôi trằn trọc giữa một đống thời sự nhức nhối.
Ở đây lũ lụt, chết người mất của. Nơi xa bạo loạn chiếm đất chiếm quyền. Chỗ nọ biểu tình chống tham nhũng, chống bất công. Chỗ kia chửi bới nhục mạ, bạo ngôn, bạo hành.
Nhiều làn sóng bất bình phản kháng đang tràn vào xã hội và Giáo Hội. Nhiều thứ luồng gió thực dụng đang tràn vào các gia đình. Nhiều thứ âm thanh và ánh sáng nghi ngờ đang lùa vào các tâm hồn. Hầu như mọi đê bao bảo vệ đạo đức đều đang theo nhau tan vỡ.
2.
Đêm đó, tôi thức dậy lúc 02 giờ 15. Theo thói quen, tôi mở tivi xem tin tức các đài trong nước và nước ngoài. Bất chợt hình ảnh đầu tiên tôi gặp trên màn hình, là ảnh Đức Mẹ Maria ẵm Chúa Hài Đồng. Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng. Màn ảnh lại là đài truyền hình Trung ương.
Điều làm tôi ngạc nhiên tiếp theo là lời cắt nghĩa của người dẫn chương trình. Cô thuyết trình nói về Đức Mẹ đại khái: Đức Mẹ Maria ôm con mình một cách tha thiết với tất cả tình âu yếm bảo vệ, nhưng điều làm cho Đức Mẹ trở nên cao cả, chính là sự Đức Mẹ khiêm tốn và quảng đại để con mình hy sinh cho công trình cứu độ nhân loại.
Hình như cô dịch bài bình luận của một nhà nghiên cứu hội hoạ bên Đức.
Dù sao, hình ảnh Đức Mẹ và lời bình luận đêm đó đã là những nhắc nhở quan trọng cho tôi. Đêm đó lại là đêm còn đang kỷ niệm sự kiện 13 tháng 10 Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
3.
Điều nhắc nhở thứ nhất mà tôi nhận được là tôi hãy bắt chước Đức Mẹ ôm lấy Chúa Giêsu là hạnh phúc đời mình.
Đức Mẹ tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu thế, là Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, là Đấng ban cho nhân loại ân sủng, chân lý và sự sống. Chính nhờ Người, mà Mẹ thắng vượt mọi thử thách.
Vì thế, Đức Mẹ gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Thánh Phaolô quả quyết: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,39). Phương chi Đức Mẹ, Mẹ ôm chặt Chúa Giêsu, gắn kết với Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu là tất cả hạnh phúc của Mẹ.
Tôi cũng bắt chước Đức Mẹ như vậy. Tôi gắn bó với Chúa Giêsu là tôi sống trong Người, tin yêu Người, nghe Lời Người, bắt chước Người, bước theo Người. Tôi sẽ sống thế nào, để có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Sự gắn bó của tôi phải trở thành mật thiết, như cành nho gắn chặt vào cây nho (x. Ga 15,5). Gắn bó ấy thưc hiện đúng lời Chúa khuyên dạy: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
4.
Điều  nhắc nhở thứ hai tôi nhận được là hãy bắt chước Chúa Giêsu về đời sống khiêm nhường nghèo khó bé mọn.
Cái gì đã làm cho Chúa Giêsu trở thành hài nhi bé nhỏ trong vòng tay Đức Mẹ? Thưa là tình yêu. Vì thương yêu loài người, Chúa muốn làm người, để ở giữa loài người. Chúa có thể ở giữa loài người, như ông vua ngồi trên ngai vàng nhìn xuống thần dân. Nhưng Chúa đã mặc lấy thân phận con người bé mọn nghèo khó, để sống như người nghèo khó, giữa lớp người nghèo khó.
Đức Mẹ Maria cũng sống đời khiêm tốn khó nghèo. Phục vụ như người đầy tớ.
Khiêm tốn khó nghèo đáng ngợi khen nhất của Chúa Giêsu và Đức Mẹ chính là sự các Ngài sống gần gũi với những người yếu đuối. Các Đấng sống giữa họ. Các Đấng có những quan hệ thân thương với họ.
Các Ngài sống khiêm nhường nghèo khó bé mọn như vậy, để dạy tôi hãy biết đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa với tâm hồn khiêm tốn khó nghèo bé mọn. Tình yêu cứu độ của Chúa là một quà tặng cao quý vô cùng. Không ai có sức hiểu nổi. Không ai xứng đáng được đón nhận. Chỉ có những tâm hồn bé mọn, tức là nghèo khó khiêm nhường bé mọn, mới được Chúa mạc khải cho ơn cực trọng ấy. Chúa Giêsu có lần đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Với ý thức đó, Chúa cho tôi nhìn thấy những người khiêm nhường nghèo khó bé mọn đang sống trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Họ âm thầm. Họ làm những việc lành nhỏ trong đời thường. Nhưng đời họ chính là những của lễ đẹp lòng Chúa. Họ được Chúa cho tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Chúa. Chính họ được Chúa đổi mới bằng cách Chúa chia sẻ cho họ sự sống siêu nhiên của Chúa. Chính vì họ biết đón nhận ơn Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn khó nghèo bé mọn.
5.
Điều nhắc nhỏ thứ ba tôi nhận được là hãy bắt chước Chúa Giêsu tập trung vào yêu thương trong mọi đổi mới và cải cách hiện nay.
Khi lắng nghe tình hình hiện nay trong xã hội và trong Giáo Hội, tôi không thể không giật mình vì một tiếng gọi khẩn thiết vang lên đều khắp: Hãy đổi mới. Hãy cải cách. Nếu không, sẽ không tránh được suy tàn và tiêu diệt.
Trước tiếng gọi đó đã và đang có nhiều phản ứng khác nhau.
Chúa và Đức Mẹ dạy tôi là trong lãnh đời sống tôn giáo, hãy coi tiếng gọi đó là đúng đắn, cần được đáp ứng thoả đáng.
Cách đáp ứng thoả đáng nhất là hãy theo gương Chúa Giêsu đổi mới và cải cách theo mô hình yêu thương. Nội dung đưa ra đổi mới hãylà yêu thương. Luật lệ nếp sống cần đổi mới phải căn cứ vào yêu thương.
Khi đổi mới đạo thời đó, Chúa Giêsu đã lấy yêu thương làm nền tảng. Người nhấn mạnh Thiên Chúa là Tình Yêu. Người ban bố điều răn mới là yêu thương. Người bắt đầu cải cách bằng chính gương sáng đời sống yêu thương của Người.
Yêu thương của Người là đền tội thay cho kẻ có tội, là tha thứ cho kẻ lỗi lầm, là vực dậy kẻ nằm liệt trong cảnh khốn cùng, là an ủi cứu giúp kẻ khổ đau bệnh tật túng thiếu.
Chúa Giêsu đổi mới tôn giáo luật lệ bằng tôn giáo yêu thương. Cải cách đó coi dễ, mà không dễ chút nào. Nó đòi phải đổi mới cách nhìn, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đào tạo. Nó bắt con người phải sửa lại từ trong tâm hồn đến lối sống bên ngoài. Đổi mới của Chúa Giêsu đã bị chống đối. Chống đối dữ tợn nhất là từ nội bộ tôn giáo. Nhưng Chúa Giêsu vẫn dũng cảm và quảng đại yêu thương đến cùng.
Chúa khuyên tôi hãy thực hiện việc đổi mới theo gương Chúa mặc dầu phải khổ. Xung quanh tôi, nhiều người cũng đang làm như vậy. Họ ôm thánh giá như một vinh quang.
6.
Ba nhắc nhở trên đây loé sáng lên trong tôi như những tia chớp giữa bóng đêm dày đặc. Tôi cảm tạ Chúa đã nhắc nhở tôi bằng nhiều cách. Chúa dạy tôi đọc thấy ý Chúa ngay trong chính cuộc đời, cả nơi thời sự và các biến cố. Tôi cảm thấy mình mong manh yếu đuối. Đồng thời tôi thấy Chúa là vô cùng yêu thương.
Đêm đó qua đi như mọi đêm. Nhưng có những gợi nhớ sẽ không qua đi bao giờ. Tôi cầu nguyện. Như để trả lời cho tôi, Đức Mẹ làm cho tôi nhớ lại lời Sứ thần Gabriel đã nói với Đức Mẹ trong biến cố Truyền Tin: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Tôi xác tín mọi đổi mới và cải cách về đạo đức đều phải cậy nhờ vào ơn Chúa, bằng cách trở về với Chúa Giêsu, Người là tình yêu cứu chuộc loài người.
Xin cảm tạ ngợi khen Chúa muôn đời.
Long Xuyên, ngày 16 tháng 10 năm 2011.

 

Bùi-Tuần 1149: XIN THƯƠNG ĐỠ NÂNG CON 22-10-2011

+ GB. BÙI TUẦN
 

Hơn bao giờ hết, tình hình hiện nay thúc giục tôi hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống yêu: 22-10-2011 Bùi-Tuần 1149

1.
Hơn bao giờ hết, tình hình hiện nay thúc giục tôi hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống yêu thương.
Bởi vì lịch sử lúc này đang đi vào một quãng đường rất nguy hiểm, do những bùng nổ dã man. Khắp nơi đây đó xuất hiện những bất công, ghen ghét, hận thù, tàn nhẫn, nghi kỵ, vô cảm. Những bùng nổ đó đang cố gắng thu phục nhân tâm bằng cách mang vào mình những chiếc áo đạo đức.
Thiết tưởng tình hình như thế rất đáng báo động. Báo động, để nhận thức hậu quả sẽ vô cùng khủng khiếp, nếu chúng ta không cộng tác với Chúa cứu nguy con người. Cộng tác thế nào? Thưa là nghe Lời Chúa dấn thân làm chứng cho yêu thương. Chỉ yêu thương, như Chúa yêu thương, mới có sức cứu độ.
Tôi xác tín yêu thương chính là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (x. Ga 13,35).
Tôi tự hào yêu thương chính là dấu ấn của người con Chúa, Đấng có bản tính là tình yêu (x. 1 Ga 4,8).
2.
Làm chứng cho Chúa bằng giáo lý yêu thương thì tương đối dễ. Làm chứng cho Chúa bằng đời sống yêu thương của những người khác thì cũng còn dễ. Nhưng làm chứng bằng đời sống yêu thương của chính mình thì không dễ chút nào.
Thánh Phaolô tự thú: “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Tôi cũng nói như thế về đời sống đạo đức nói chung và về đời sống yêu thương nói riêng của tôi.
Với ý thức sâu xa về sự yếu đuối của mình, tôi cầu xin Chúa hằng ngày: “Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời”. Tôi biết trong đời sống yêu thương, nếu tôi không được Chúa đỡ nâng, tôi sẽ không tránh được chán nản và thất bại.
Nhìn lại đời mình, tôi nhận thấy điều tôi cầu xin đã được Chúa nhậm lời. Thực sự, Chúa đã đỡ nâng tôi trong đời sống yêu thương bằng nhiều cách, đặc biệt là cách sau đây:
3.
Chúa dạy tôi hãy biết đợi Chúa ở những việc bé nhỏ của chính đời thường xảy ra hằng ngày.
Sáng nào cũng vậy, tôi bước vào ngày mới bằng việc cầu nguyện và xin phép lành của Chúa.
Phép lành của Chúa là một việc âm thầm bé nhỏ, nhưng thực là một gặp gỡ thân thương giữa Chúa và tôi.
Với phép lành đó, Chúa nhắc nhở tôi hãy biết gắn bó với Chúa là nguồn tình yêu. Yêu thương mà Chúa muốn không là một công bố, mà là một sự sống của tình Chúa nhập thể và nhập thế qua chính con người của tôi. Chúa là nguồn tình yêu, mà tôi phải làm chứng.
Được gắn bó với tình yêu Chúa, tôi hay nghe thấy tiếng Chúa dạy: Hãy tế nhị trong đời sống chung với những người gần xa.
Chúa nhập thể rất tế nhị. Sự tế nhị của Chúa nhập thể được thể hiện không phải theo một bản luật có sẵn, nhưng theo Chúa Thánh Thần soi dẫn trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Cùng với sự tế nhị, Chúa luôn nhắc bảo làm chứng cho tình yêu đòi phải có can đảm về mặt tha thứ. Tha thứ mà thôi cũng chưa đủ. Yêu thương mà Chúa muốn tôi làm chứng sẽ phải có sáng kiến tạo nên những điều kiện thuận lợi để người ta dễ trung thành với nhau và với Chúa.
4.
Tôi nghe Chúa nhắc bảo tôi những điều trên đây ở những việc bé nhỏ xảy ra thường ngày. Như khi thăm hỏi, trao đổi, ăn uống, bàn luận, vui chơi, học hành, lao động, phục vụ. Tôi có cảm tưởng là Chúa đợi tôi ở những việc bé nhỏ đó. Khi tôi cố gắng thực hiện những điều Chúa dạy ở những việc bé nhỏ đó, tôi liền nhận ra là chính Chúa nâng đỡ tôi sống yêu thương trong những việc đời thường.
Đừng đợi những việc lớn mới làm chứng cho tình yêu Chúa. Mà hãy làm chứng ngay trong những việc nhỏ nhất của đời thường.
Một điều tôi dần dần nhận ra đó là sự yếu đuối của tôi. Cả trong những việc bé nhỏ, nhiều khi tôi vẫn không yêu thương được như Chúa yêu thương. Khi thấy mình nghèo hèn như vậy, tôi cảm thấy tôi phải bám vào Chúa. Chính lúc đó, tôi thực sự nhận thức được là chính Chúa nâng đỡ tôi trong đời sống yêu thương qua những cụ thể hằng ngày đối với những người xung quanh.
5.
Trong đời sống yêu thương hằng ngày, tôi luôn được Chúa nhắc nhở là tôi phải biết nhạy bén nhận ra những ân nhân gần xa và phải biết ơn họ.
Họ là những người thực sự thương yêu tôi như người Samaria tốt lành, mà Chúa kể trong Phúc Âm. Họ làm cho tôi như người Samaria đã làm cho một kẻ bị thương nằm bên lề đường, nghĩa là họ không ngại lại gần, lấy dầu và rượu đổ lên vết thương của tôi, băng bó lại, đưa tôi vào quán trọ mà săn sóc, trả tiền cho chủ quán và tiếp tục lo chữa lành cho tôi (x. Lc 10,29-37).
Họ là những người thực sự yêu thương tôi, như ông Simon gốc Kyrinê. Họ đã làm cho tôi như người bên lương đó đã làm cho Chúa Giêsu trên đường lên núi Gôlgôtha. Việc họ làm là vác thánh giá đỡ cho tôi (x. Mc 15,21).
Họ là những người thực sự yêu thương tôi, như những cộng đoàn tín hữu thời Hội Thánh sơ khai, đã chia sẻ cho nhau tất cả (x. Cv 2,46).
Họ là những người thực sự yêu thương tôi, như một nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu (x. Ga 19,25).
Họ làm cho tôi một việc, mà bao người khác không dám làm. Đó là họ dám đứng gần, tỏ thái độ xót thương với một người bị loại trừ. Họ nâng đỡ ủi an tôi, mặc dù tôi là kẻ tội lỗi, xứng đáng bị đóng đinh vào thập giá.
6.
Thực sự đời thường không có gì lớn lao xảy ra. Nhưng đời thường có nhiều trường hợp xảy ra xem ra nhỏ, mà gây rất nhiều đau đớn, cả về khách quan lẫn về chủ quan. Chính trong những hoàn cảnh ấy, đã xuất hiện những người ân nhân không hẹn trước, mà tôi chẳng bao giờ sẽ quên ghi ơn và cảm ơn.
Chính họ đã được Chúa gởi đến tôi, để dạy tôi điều này: Những gì tôi đã nhận lãnh một cách nhưng không, thì tôi cũng phải cho đi một cách nhưng không. Nghĩa là tôi hãy biết cảm thương những người khác một cách vị tha, như họ đã cảm thương tôi một cách vị tha. Cảm thương những ai trong cảnh khốn cùng, đó là điều tôi đã thấy trong đời tôi. Đó cũng là điều Chúa dạy tôi hãy thực hiện. Vô cảm là một phản chứng, nhiều khi cũng là tội.
Nâng đỡ nhau trong cảnh khổ đau, đó là việc rất quan trọng trong đời sống yêu thương, ngay trong đời thường. Việc đồng cảm xót thương đó sẽ có sức làm chứng cho Chúa, hơn bất cứ lý thuyết cao siêu nào về yêu thương.
7.
Nhìn sâu hơn chút nữa vào đời mình, tôi thấy Chúa đã nâng đỡ tôi về đời sống yêu thương bằng cách kêu gọi nhiều người cầu nguyện thay cho tôi, nhất là đền tội thay cho tôi.
Cầu nguyện thay là một nâng đỡ quý. Đền tội thay càng là một nâng đỡ hiếm. Những nâng đỡ quý hiếm đó càng trở thành cao cả, khi được thực hiện trong tình yêu thương chân thành vị tha kín đáo.
Tôi cũng sẽ cầu nguyện thay và đền tội thay cho những người khác như vậy.
Càng đọc lại đời mình, tôi càng nhận ra những chứng từ Chúa đã viết trên đời tôi. Tôi hết sức ngạc nhiên. Ngạc nhiên tiếp nối ngạc nhiên. Không ngạc nhiên nào giống nhạc nhiên nào. Rất khác nhau. Khác nhau làm nên phong phú. Nhưng tất cả đều có một nội dung chung, đó là Chúa tình yêu đã nâng đỡ tôi trong đời sống yêu thương.
Chúa nâng đỡ tôi như người mẹ nâng đỡ đứa con bé nhỏ yếu bệnh. Nâng người con dậy mà không gây quá đau đớn cho con. Đỡ con đứng dậy mà con không cảm thấy choáng váng sợ hãi. Trái lại, đứa con cảm thấy tình Chúa là niềm hy vọng, để hoàn toàn phó thác. Phó thác cả những khi phải bắt đầu lại.
Tôi cảm tạ Chúa hết lòng, và không ngừng nài van Chúa bằng lời của thánh vương Đavít: “Chúa ơi, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Ngài” (Tv 15,1).

 

Bùi-Tuần 1150: TÔI THẤY TIN MỪNG 13-10-2011

+ GB. BÙI TUẦN
1.
 

Càng về già và càng thêm đau yếu, tôi càng thấy sự suy thoái tràn sâu vào khắp con người của: 13-10-2011 Bùi-Tuần 1150

Càng về già và càng thêm đau yếu, tôi càng thấy sự suy thoái tràn sâu vào khắp con người của tôi. Tôi cầu nguyện với Chúa. Nhưng nhiều khi Chúa xem ra cũng vắng mặt, nhiều điểm tựa xem ra cũng ra đi, nhiều ước mơ chính đáng xem ra cũng tan vỡ.
Tôi như trong cảnh mất mát. Nhưng chính trong cảnh tang thương đó, tôi đã xác tín được Tin Mừng. Tôi nói với Chúa như ông Gióp xưa: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại. Nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến” (G 42,5).
Thiên Chúa là tình yêu. Đó là Tin Mừng mà tôi tin, tôi được cảm nghiệm và đã được xem thấy. Tin Mừng đó trở thành một xác tín, nhờ những thất bại hơn là nhờ những thành công, nhờ những khó khăn hơn là nhờ những dễ dàng, nhờ những đau khổ hơn là nhờ những sung sướng.
2.
Kinh nghiệm trên đây của tôi thực là mờ nhạt, nếu so sánh với những kinh nghiệm của nhiều chứng nhân của Chúa, mà tôi được gặp. Ở đây, tôi xin nói về họ.
Trước hết, họ đã nhận ra Thiên Chúa là tình yêu khiêm tốn, ưa thích những tình yêu khiêm nhường.
Chúa yêu thương họ trước, nhưng Người không ép buộc họ phải nhận tình thương của Người. Người để họ tự do. Người cũng không muốn làm theo ý họ, để như áp lực buộc họ phải yêu mến Người. Người muốn họ dùng chính sự tự do của họ, để giao ước với Người trong tình yêu bền vững. Trong sự kính trọng sự tự do của con người, Chúa tỏ ra Chúa là tình yêu vô cùng khiêm tốn. Vì thế, Chúa rất quý trọng những tình yêu trung tín trong những nỗi khổ. Như tình yêu của ông Gióp: “Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Chúa” (G 1,20).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nêu gương tình yêu khiêm nhường trước những thử thách cam go đau đớn. Người nói với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin cứ làm theo ý Cha” (Lc 22,42).
Đức Chúa Cha cũng đã tỏ ra sự Người đón nhận tình yêu khiêm nhường của Chúa Giêsu trên thánh giá, coi đó như của lễ cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Chúa Cha vẫn làm thinh, khi nghe Chúa Giêsu kêu: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ rơi con” (Mt 15,34).
Tuy cảm nghiệm về sự cô đơn như bị Chúa Cha bỏ rơi, Chúa Giêsu vẫn trung thành với sứ vụ tình yêu: Người vẫn yêu loài người, cho dù loài người phản bội. Người xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Với Chúa Cha, Người vẫn khiêm nhường phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Tình yêu khiêm nhường của Chúa có một cái gì rất cao cả, rất linh thiêng. Tôi tin vì Lời Chúa dạy. Thêm vào niềm tin, tôi còn được thấy tận mắt tình yêu ấy nơi nhiều người tôi gặp. Họ có một tình yêu khiêm nhường giống Chúa Giêsu. Gặp họ, tôi nhận ra Chúa Giêsu trong họ. Họ quả là chứng nhân sống động của tình yêu Chúa.
3.
Cùng với họ, tôi cũng đã nhận ra Chúa Giêsu nơi những người phục vụ yêu thương lớp người nghèo khổ bé mọn.
Trong bài giảng về cuộc Phán xét chung, Chúa Giêsu nói rõ: Những người được gọi là chiên, được đứng bên phải Chúa, chính là những ai biết phục vụ yêu thương những người nghèo khổ bé mọn. Chúa đồng hoá chính Chúa với những ai đói khát, rách rước, yếu đau, ngồi tù. Chúa coi các việc phục vụ yêu thương dành cho họ là làm cho chính Chúa. Cũng thế, những gì không làm cho họ cũng kể là không làm cho chính Chúa (x. Mt 25,31-46).
Tôi tin Lời Chúa phán trên đây. Tôi đem Lời Chúa soi vào thực tế cuộc đời, thì thấy số người phục vụ yêu thương kẻ nghèo khổ bé mọn là khá đông.
Họ yêu thương phục vụ bằng nhiều sáng kiến khác nhau. Nhưng điều chung trong các sáng kiến chính là tình yêu chân thành, tế nhị, nồng nàn, vị tha. Thấy họ, tôi có cảm tưởng là gặp được Chúa. Họ đúng là chứng nhân của tình yêu Chúa.
4.
Một loại chứng nhân nữa của tình yêu Chúa, mà tôi rất khâm phục, đó là những người xây dựng bình an bằng thứ tha và thương xót.
Khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ. Lời đầu tiên Chúa nói với họ là: “Bình an cho anh em” (Lc 24,36). Lời chúc bình an của Chúa là lời tha thứ. Bởi vì tất cả các tông đồ đã phạm tội dịp Chúa bị bắt. Không những Chúa tha thứ tội lỗi cho họ, mà còn tỏ lòng tín nhiệm họ. Ngài trao cho họ việc đi rao giảng Tin Mừng và coi sóc đoàn chiên.
Chúa Giêsu chào chúc bình an là như thế đó. Bình an được xây dựng trên tha thứ yêu thương và cởi gỡ. Chúa cởi gỡ các môn đệ khỏi mặc cảm tội lỗi.
Sự cởi gỡ mặc cảm tội lỗi cũng được nhận thấy nhiều lần, khi Chúa ban ơn cứu độ cho những người bị dư luận kết án và loại trừ.
Chúa tìm cách đem lại danh dự cho người phụ nữ Samari có năm đời chồng, và người đàn ông đang sống chung với chị lại không là chồng (x. Ga 4,7-30). Chúa cho chị được ơn sai đi loan báo về Đấng Messia.
Chúa tìm cách đem lại danh dự cho người thu thuế Lêvi bằng cách vào dùng bữa với ông tại nhà ông (x. Lc 5,27-32).
Chúa tìm cách đem lại danh dự cho người phụ nữ tội lỗi công khai đã dám có mặt trong bữa tiệc đông người tại nhà ông Simon. Chúa đem lại danh dự cho cô bằng cách khen cô ấy đã được tha nhiều vì đã yêu mến nhiều (x. Lc 7,36-50).
Xung quanh tôi không thiếu những người xây dựng bình an bằng cách thứ tha, cởi gỡ mặc cảm và trao niềm tin tưởng. Thấy họ, tôi có cảm tưởng là gặp được Chúa. Họ quả là những chứng nhân của tình yêu Chúa.
5.
Ba loại chứng nhân vừa kể trên phải được kể là những chứng nhân có nhiều uy tín. Hơn nữa, theo tôi, họ là chứng nhân uy tín bậc nhất. Bởi vì họ sống Lời Chúa Giêsu, họ noi gương Chúa Giêsu, họ đi theo Chúa Giêsu. Họ là những người trở về Nguồn.
Vì thế, những chứng nhân loại này đều tha thiết suy gẫm Lời Chúa, siêng năng chầu Mình thánh và tham dự Thánh lễ. Họ trở về Nguồn, để nhận lãnh tình yêu từ Nguồn.
Tình yêu, mà họ nhận được từ Nguồn, biến đổi họ về chiều sâu. Chiều sâu đó là những mời gọi đi về những chân trời mới, như: “Các con hãy tìm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Chúa trước” (Mt 5,26). “Ý của Cha Ta là các con hãy mang hoa trái và là thứ hoa trái tồn tại” (Ga 15,16).
Khi những mời gọi đi về chân trời mới đó gợi lên trong họ những ước muốn thánh, thì Thánh Thần sẽ giúp họ tìm ra những sáng kiến thích hợp với họ và đáp ứng nhu cầu thực tế, để rồi thực thi ước muốn đạo đức của họ bằng những việc cụ thể. Đó là thánh ý Chúa.
6.
Những tư tưởng trên đây là rất bé nhỏ. Nhưng hy vọng sẽ là một đóng góp vào việc đào tạo những chứng nhân Tin Mừng cho Việt Nam hôm nay.
Nếu cần tóm tắt việc đào tạo này, thì có thể lấy ý của thánh Phaolô: Sự công chính không tuỳ ở lề luật, mà nhờ tham dự vào sự công chính của Chúa Giêsu (x. Rm 3,21-30).
Nghĩa là sự công chính của người chứng nhân không chủ yếu do giữ nhiều luật lệ, mà là do sự sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mới chính là nguồn công chính, làm cho chứng nhân trở thành dấu chỉ chắc chắn, để người ta có thể thấy được Tin Mừng.
 

Tác giả: + GB. Bùi-Tuần

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây