-------------------------- Phúc Âm: Mc 6, 30-34: “Họ như đàn chiên không người chăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Chính vì muốn tường trình cho Thầy mình công việc rao giảng nên các môn đệ đã trở về gặp: TN 16-B51
Chính vì muốn tường trình cho Thầy mình công việc rao giảng nên các môn đệ đã trở về gặp lại Chúa Giêsu (c.30). Đã đến giờ các thừa sai làm bảng tổng kết đầu tiên. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Maccô gán cho nhóm Mười Hai biệt danh “Tông đồ”, nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Chúa Giêsu moơì các bạn hữu Ngài tìm chỗ yên tĩnh xa lánh mọi người để nghĩ ngơi cho lại sức (c.31a). Đám cứ quấy nhiễu không cho họ có thời giờ phục hồi sinh lực (c.31b). Như thế chủ đề về thực phẩm mà Maccô dự tính trình bày đã được loan báo. Có sự tương phản sống động giữa một ý định chạy trốn đám đông (sang bên kia hồ) và một bên là làn sóng người tìm cách cuốc bộ tới địa điểm trước để đón các Ngài (2,32-33).
Vì thế, vừa đặt chân lên đất, Chúa Giêsu đã lại thấy một đám đông vô kể (c.34). Chúa Giêsu không thể và cũng không muốn trốn họ nữa. Ngược lại, Maccô nhấn mạnh đến sự lo lắng đặc biệt Chúa dành cho đám đông này. Trong tiếng Hy Lạp, thành ngữ “động lòng xót thương” có ý nghĩa rất mạnh. Bản văn nói lên rõ ràng: “Lòng dạ Ngài xúc động” giống như lòng dạ Thiên Chúa đối với dân Người (Hs 11,8).
Lòng xót thương của Chúa Giêsu có thể sánh ví với lòng xót thương của người mục tử đối với bầy chiên bơ vơ lạc lõng. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước, Israel được trình bày như một đàn cứu được Thiên Chúa và các mục tử Ngài gửi đến dẫn dắt. Tuy nhiên không phải tất cả các mục tử này là những người gương mẫu giống như Môsê hoặc Đavit (x.Ed 34,1-31). Dân Chúa từng gặp phải và vẫn còn gặp phải những người lãnh đạo rất bất xứng với sứ mệnh của họ. Vì thế Thiên Chúa đã hứa sẽ ban cho Israel một vị mục tử nhân lành là chính Đấng Mêsia được toàn dân mong đợi. Trong chương này, Chúa Giêsu xuất hiện như vị Mục Tử thần linh cực kỳ lo lắng cho dân Ngài. Và Maccô nhấn mạnh việc Chúa bắt đầu bằng hành động “giáo hóa” dân chúng một cách kỹ lưỡng. Có tới hai lần, tác giả ghi nhận tầm quan trọng của lời Chúa Giêsu giảng dạy (1,22; 4,1-2) dù không hề xác định rõ nội dung của lời giảng dạy đó. Ở đây cũng thế. Tuy nhiên, sự kiện này vẫn mang đầy ý nghĩa. Trước khi cho dân chúng bánh ăn thì lời giảng của Chúa Giêsu đã làm cho họ “no thỏa”. Trình thuật hóa bánh sắp diễn ra không được phép tách lìa khỏi trình thuật giảng dạy trước đó. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã “dùng Lời” để cố quy tụ đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này. Trong nghi thức Thánh Thể, Giáo Hội luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, rồi sau đó là bàn tiệc Bánh Thánh.
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô gọi các môn đệ là "Tông đồ" ("apostoloi", có nghĩa là: TN 16-B52
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô gọi các môn đệ là "Tông đồ" ("apostoloi", có nghĩa là "những kẻ được sai đi"). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin Mừng, nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh đạm. Và đoạn Tin Mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi. Vào thời đó, người ta chỉ đi bộ.
Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Đó là giờ ‘báo cáo’. Hành động rồi xét lại hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại. Người ta quen làm việc theo nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các Hiệp hội, nghiệp đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến, dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về "thảo luận", "đối thoại". Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa chúng ta thấy Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con người; sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin Mừng. Đó là mục đích của việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô hữu "trở về" với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?
Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Thánh Maccô tóm lại tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện "làm" và "nói". Đó cũng là đặc điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.
Người bảo các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.
Đức Giêsu cũng "nghỉ mát". Đức Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là ‘stress’ có hại cho công việc Tông đồ cũng như các công việc khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh, ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.
Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua những kỳ nghỉ nào?
Đây không phải là lần duy nhất Máccô cho chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn biết chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2). Những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1) những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31) đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Héc-mon (Mc 8,27).
Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.
Đức Giêsu khích lệ các Tông đồ đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài" đến những giai đoạn suy tư "bên trong" – xem, xét, làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: Sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài". Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là ngày sabat, ngày nghỉ ngơi không?
Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng.
Ở đây Đức G'iêsu và các môn đệ dường như đang chơi trò "ú tim" hay "cút bắt" với đám đông. Nhưng không có cách nào trốn được. Người ta muốn trốn đám đông Nhưng người ta cũng phải lo cho đám đông đó. Người ta muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến nỗi không có thời giờ để ăn. Người ta sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương trình của Người thế nào?
Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.
Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa. Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển -Đám đông chạy ùa đến với Chúa. Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi chướng trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này. Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta "có lẽ không muốn", làm những gì "phải làm", những việc "đang ở đó", "Kẻ nào muốn làm môn đệ Tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo Tôi" (Mc 8,34), Kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống" (Mc 8,35). Thua mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; Thua mất vì tình yêu.
Người chạnh lòng thương.
Cảm xúc này đã biểu lộ trên ương mặt, trong cử chỉ của đôi -tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu thế nào?
Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thới đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn "trắc ẩn" như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế nào?
Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người chăn! Thật là hỗn độn? Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dẫn đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13). Môisen lúc chết đã lo lắng cho dân Israel "như chiên không có chủ chăn” (Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh Vịnh 22; "Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ". Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình ảnh này: "Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác" (Mc 14,27). Người xác quyết mình được sai đến với nhung con chiên lạc" (Lc 19,10; 15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).
Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là Thiên Chúa - Mục tử của dân Israel.
“Những con chiên không người chăn". Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng. Người ta đang tìm Đấng "Chúa hứa ban". Nhưng thường thì sau một thời gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.
Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên dân chúng một chính sách nặng nề.
“Chiên không có chủ chăn": Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của đồng cỏ xanh tươi?
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám đông mất phương hướng đó, là "Phục vụ Lời Chúa". Một lần nữa Máccô không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.
Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy nói nhiều hơn…
Sự thể bắt đầu gần giống như một trò chơi ú tim. Khác một điều là ở đây người chơi không có: TN 16-B53
Sự thể bắt đầu gần giống như một trò chơi ú tim. Khác một điều là ở đây người chơi không có cách để ẩn mình! Thầy trò Đức Giêsu muốn trốn khỏi đám đông, thì rốt cuộc lại phải chăm lo cho đám đông. Trình thuật nhìn bề ngoài có vẻ như một cảnh "chụp vội”, nhưng xét kỹ mới thấy là rất công phu. Trình thuật cốt ý làm một nhịp cầu nối hai sự kiện lại với nhau là công việc truyền giáo vừa hoàn thành của Nhóm Mười Hai và việc hóa bánh sắp diễn ra bằng cách đặt Đức Giêsu trước mặt đám đông mà Người không thể tránh khỏi được. Đúng là có một vài chi tiết không thích hợp, theo như nhận xét của M.E. Boismard: "Việc mô tả đám đông tụ tập lại thật là kỳ lạ, và người ta có cảm tưởng là Máccô phối hợp hai tư liệu khác nhau. Theo tư liệu thứ nhất, có một đám đông đã ở bên cạnh các ngài trước khi các ngài lên đường ra đi (c 31). Họ thấy thầy trò Đức Giêsu bỏ đi (c.33a) nên họ đi bộ (c 33c) đến nơi trước các ngài (c.33e). Còn theo tư liệu thứ hai, thì có nhiều người ở quanh vùng khi nghe tin Chúa đến (c.33b) họ liền từ khắp các thành thị chung quanh đó tuôn đến nơi các ngài đang có mặt (c.33d): ("Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, 1996, trang 89).
Ở đây, Nhóm Mười Hai lần đầu tiên được gọi là "các Tông đồ” (nghĩa là "những người-được-sai-đi") đã đi truyền giáo về. Đây là giờ các ông báo cáo về công việc truyền giáo ấy: "Các ông kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”. Đầy vẻ ân cần chăm lo cho các cộng sự viên của mình, Đức Giêsu bảo các ông tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi và trốn khỏi những chuyện rầy rà vốn làm cho các ông ‘cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa’. Người bảo các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút".
Nơi đây hoàn toàn hoang vắng! Vậy mà người ta ‘đã theo đường bộ chạy đến nơi’ trước cả các ngài ở phía bờ bên kia Biển Hồ. Khi các vị vừa ra khỏi thuyền thì đã thấy đám đông trước mặt mình.
2. Đến dân tộc được Chúa quy tụ
Thánh sử ghi: "Ngài chạnh lòng thương họ”. Dịch là chạnh lòng thực ra không lột được hết ý nghĩa rất mạnh của kiểu nói trong Kinh Thánh: "ruột gan bồn chồn”. Giống như trường hợp Thiên Chúa tỏ ra với dân Người, trong sách ngôn sứ Ôxê (11,8); như ông chủ trong dụ ngôn tha món nợ khổng lồ cho người đầy tớ van xin ông (Mt 18,27); như người Cha thấy đứa con trai đã mất nay trở về (Lc 1 5,20); như người Samaria trước cảnh người đàn ông bị cướp đánh nhừ tử nằm lây lất bên đường (Lc 10,33); như Đức Giêsu trước cảnh hai người mù lòa van xin khi Người vừa ra khỏi Giêricô (Mt 20,34); hoặc như lần khác, trước những giọt nước mắt đầm đìa của bà quả phụ Naim trên đường đi chôn đứa con duy nhất của bà (Lc 7,13). Từng ấy nơi lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người được cử hành, được biểu lộ ra nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Như vậy là trong trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 này, qua thái độ Đức Giêsu "chạnh lòng" thương đám dân chúng. Đáp lại nỗi khốn khổ của họ, chính là lòng thương xót của Chúa được mặc khải, tình thương yêu của Người được biểu lộ ra; chính là lời Thiên Chúa hứa được thực hiện, như phần tiếp theo của trình thuật sẽ cho thấy.
"Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Biểu tượng của đoàn chiên và người Mục tử là những chủ đề quen thuộc trong Cựu ước. Cựu ước thường dùng những hình ảnh ấy để gợi nghĩ đến tình cảnh đáng thương của dân Chúa bị bỏ rơi, vất vưởng, không người chăn dắt như Êgiêkien 34 hoặc Giêrêmia được trích đọc trong bài đọc 1 hôm nay. Cựu ước cũng dùng biểu tượng ấy để tán tụng sáng kiến của Chúa và Người lãnh đạo đoàn chiên của Người, như còn thấy trong Giêrêmia 23, hoặc Thánh vịnh 22 được dùng làm đáp ca của Chúa nhật này và là Thánh vịnh tạo hậu cảnh cho trình thuật của Máccô. Những lời Tin Mừng hay dùng, đặc biệt gợi nhớ lại lời Môsê cầu nguyện cùng Chúa trước khi chết; ông xin Chúa ban cho dân Người một vị lãnh đạo "để cộng đoàn dân Chúa không rơi vào tình trạng bầy chiên không người chăn dắt” (Ds 27, 17) .
Vậy giờ đây, Maccô mời gọi chúng ta cùng ngài hướng nhìn về Đức Giêsu như vị Mục Tử Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo; như Môsê mới của một Xuất hành mới; như Đấng Chúa sai đến để quy tụ một dân mới và dưỡng nuôi họ bằng Lời và Lương thực của Người.
- Maccô kết luận: "Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Việc đầu tiên Người đáp ứng những nhu cầu của dân chúng là dạy dỗ, dùng lời có khả năng quy tụ, tập họp, sau đó là săn sóc và cung cấp lương thực cho dân.
J.Hervieux nhận xét: thánh sử đã hai lần ghi nhận tầm quan trọng của lời Thầy dạy dỗ (1,22; 4,1-2) không lần nào Maccô ghi rõ ràng nội dung lời dạy dỗ. Cả ở đây cũng vậy. Nhưng sự việc diễn ra lại mang nhiều ý nghĩa. Trước khi phân phát lương thực thì tiên vàn Đức Giêsu đã dùng lời mà quy tụ người ta lại. Trình thuật về hóa bánh xảy ra sau đó không được tách biệt với việc xảy ra lúc trước. Chính nhờ "Lời" mà Đức Giêsu quy tụ được đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Hội Thánh lúc ban đầu đã ghi nhớ rõ ràng và cẩn thận duy trì việc này. Trong cử hành nghi lễ bẻ bánh, Hội Thánh luôn đặt ‘hai bàn’ nối tiếp nhau: đầu tiên là bàn để Lời, rồi mời đến bàn để bánh. ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 95).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Từ đám đông không người chăn dắt, Đức Giêsu khai sinh một dân tộc”.
(G.Bessière, trong ‘Dieu si proche’, năm B), Desclée de Brouwer, trang 125-126).
Kìa họ đang trở về, những con người mà Đức Giêsu đã sai đi trên mọi nẻo đường. Không mang theo lương thực, tiền bạc, bao bị. Họ chỉ được mang theo một cái áo và cây gậy đi đường. Các ông ra đi nhẹ nhàng như gió Thánh Linh. Nhưng các ông có quyền trừ quỷ, chữa người đau ốm khỏi bệnh. Các ông kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dứt khoát trở lại với Đấng hoán cải lòng người và có thể biến đổi toàn bộ xã hội.
Kìa họ đang trở về, những con người tay mang gậy. Các ông phải trở về báo cáo về chuyến đi của mình. Các ông quây quần bên Đức Giêsu "và kể lại cho người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy”. Các ông đã không chỉ nói suông mà còn hành động, như Đức Giêsu đã làm gương. Tin Mừng không chỉ ở trong những lời nói suông mà là bằng những việc làm: một cuộc sống chứng từ.
Chúa nói với các ông: chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Nhóm nhỏ đó cần tìm lại được những giây phút thân tình với Chúa, và được Người bồi dưỡng cho tâm hồn. Tiên vàn Chúa đã chọn các ông để các ông "ở với Người" (Mc 3,14) rồi mới sai các ông đi rao giảng. Ngày mai đây các ông sẽ lại phải ra đi, có mang gậy hay không nhưng hiện giờ thì còn cần phải được thưởng thức thêm hương vị của tình nghĩa rạng ngời, phải nói cho Người biết rằng hạt giống gieo đã mọc lên, phải nhận định cho rõ ràng hơn cái gì đã làm và cái gì còn phải làm. Phải ra đi, rồi phải biết lui về nơi yên tĩnh hoặc trong thanh vắng của tâm hồn, thiết tưởng luôn luôn là vấn đề sinh tử.
Đức Giêsu đã kéo các môn đệ của Người ra khỏi vòng xoáy của cơn lốc đám đông. Những kẻ lui người tới những cuộc chuyện trò, những lúc gặp gỡ không để cho các ông có thời giờ ăn uống nữa. Đức Giêsu vẫn là trọng tâm của phong trào quần chúng này. Người cố gắng "đồng hội, đồng thuyền"với các tông đồ. Khi thuyền các ngài cập nơi được kể là hoang vắng, "Đức Giêsu thấy một đám người rất đông”. Người đã theo đúng chữ - "bồn chồn ruột gan”, như Người cũng đã cảm thấy khi đứng trước những người ốm đau hay tật nguyền. Bởi lẽ họ "như bầy chiên không người chăn dắt”, nghĩa là một quần chúng lạc đường đang trông mong một vị Thiên Sai nào đó. Cả một quần chúng bệnh hoạn.
Trong đám quần chúng này, Đức Giêsu sẽ khai sinh ra một dân tộc Người bắt đầu "dạy dỗ" họ, bởi lẽ "người ta sống không chỉ nhờ cơrn bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Dnl 8,3). Sau đó, Người sẽ hóa bánh ra nhiều và manna mới để làm giao ước mới cho một dân tộc đang trên đường xuất hành. Cả một tương lai bao la được cô đọng trong cảnh quá mạnh này.
2. "Thách thức lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành"
(J.Rigal trong llfêtes ét Saisons", số 483: "Để chuẩn bị tương lai Giáo Hội", trang 11-12).
Thiết tưởng Hội Thánh sẽ đi lầm đường nếu vì nghĩ đến tương lai mình, mà chỉ lo lắng trước tiên cho sự sống còn của mình. Thiết tưởng Hội Thánh sẽ không tìm, được đường đi cho mình khi chỉ con đường trong sự thu mình vào nội bộ và cậy dựa vào việc củng cố hàng ngũ của mình.
Thách đố lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành, tất nhiên không phải là thách đố về số người điều hành, hay là về nguồn tài chánh, cho dù những vấn đề này có tầm quan trọng thế nào đi nữa. Đúng hơn chính là thách đố về nhiệt tình truyền giáo và sống tình huynh đệ, yêu thương đối với thế giới chung quanh ta.
Người ta cũng có thể nói được là Hội Thánh đánh mất đi lẽ sống của mình và tự tan rã, nếu chỉ quan tâm đến chính mình hơn là lo cho những con người nam nữ mà Hội Thánh được sai đến. Trái lại Hội Thánh được biến đổi, tìm được nhuệ khí mới, khi nỗ lực đối chiếu sứ điệp Tin Mừng với nếp sống duy thực của những con người thời nay, và với những thách đố của lịch sử. Cần nhắc lại rằng truyền giáo không nhằm bành trướng Hội Thánh mà nhắm mở rộng Nước Trời.
Mọi lựa chọn liên quan tới tương lai của Hội Thánh đều phải quy hướng trước nhất về mục tiêu truyền giáo. Điều này sẽ không bao giờ nói đủ. Được Chúa triệu vời, cộng đoàn Kitô hữu quy tự để cầu nguyện, đón nhận Lời Chúa, liên hệ Lời Chúa với những khát mong của con người thời nay. Bởi lẽ việc quy tụ luôn được bố trí để hướng tới sự ra đi, gần gũi, chia sẻ. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời tụ họp, tốt rồi, nhưng còn để hòa mình hơn vào cuộc sống thường ngày của mọi người, hầu làm chứng Tin Mừng Phúc Âm cho họ.
Công đồng Vatican II mở đầu Hiến chế Mục vụ "Gaudium et Spes" bằng những lời thấm thía sau đây: "Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay... cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô”.
Khi phác họa bản đồ mục vụ của địa phận, thiết tưởng phải tự hỏi xem làm thế nào để hiện thực hóa những lời kêu gọi này của Công đồng Vaticanô II trên một quy mô thật rộng rãi.
Chúa Giêsu dã không ngần ngại sai các môn đồ đi phổ biến những dấu chỉ Nước Trời là lời: TN 16-B54
1) Chúa Giêsu dã không ngần ngại sai các môn đồ đi phổ biến những dấu chỉ Nước Trời là lời mời gọi thống hối và những việc chữa lành bệnh tật, mặc dù các ông chưa đạt tới đức tin chân chính và sung mãn (chỉ có sau lễ Ngũ Tuần). Trong những trang Tin Mừng kế tiếp, ba lần Chúa Giêsu còn phải lay tỉnh họ vì họ chậm hiểu: coi những kẻ chai đá ... các ngươi còn chưa hiểu ư?” (6,52; 7,18; 8,17.21). Chính Phêrô, dù đã biết Chúa Giêsu là ai (8,29), vẫn còn phải tìm hiểu thêm nhiều nữa (8,32). Như vậy không nhất thiết phải chờ cho đến khi thấu hiểu tất cả, học hỏi mọi điều mới khởi sự rao giảng và hành động trong Nước Chúa. Nhiều Kitô hữu có mặc cảm không đủ khả năng rao giảng và làm chứng cho đức tin, nên đổ trách nhiệm này cho các giáo sĩ, tu sĩ và các "chuyên viên", trong khi đó họ bỏ qua bao nhiêu cơ hội tốt: dạy giáo lý cho trẻ em, chia sẻ Tin Mừng với các nhóm. chuẩn bị phụng vụ sửa soạn cho các kẻ sắp lãnh bí tích rửa tội, hôn nhân, Xức dầu, thăm viếng các bệnh nhân, an ủi những người sầu khổ v.v...
2) Chúa Giêsu thích lui vào nơi hoang vắng (1,35, 6,46).
Sau chuyến đi truyền giáo về, các môn đồ sung sướng kể lại những gì đã làm và đã rao giảng (x. Lc 10,17): Chúa Giêsu không khen ngợi cũng chẳng phiền trách, Người chỉ bảo họ tìm nơi hoang vắng, như Người thường làm, để nghỉ ngơi, thẩm định, suy nghĩ về nhung biến cố mà họ đã sống, đã gặp. Vì trong cuộc sống hoạt động náo nhiệt, họ đã có thể quên kết quả đích thực của kinh nghiệm vừa trải qua là biết chính Chúa Giêsu hơn. Điều này chỉ có thể làm được bằng việc cầu nguyện rong thinh lặng thanh vắng, như Chúa Giêsu đã làm.
3) Quần chúng đang khao khát chân lý. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để đến với Chúa Gíêsu. Và Chúa Giêsu đã muốn đáp ứng nhu cầu này của họ trước tiên. Nhiều lần trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một kế hoạch, bỏ một lộ trình dự tính, để dừng lại bên một đám tang, một người bệnh, một bờ giếng. Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thì giờ thích thú nghe môn đồ thân yêu kể chuyện truyền giáo, Người đã có thể dẫn các ông đi vào một nơi riêng không ai quấy rầy, để nghỉ ngơi tâm sự với họ. Nhưng không, Người đã muốn trước hết đáp ứng nhu cầu sâu xa của quần chúng.
Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (6,7.12). Bản văn hôm nay tường: TN 16-B55
Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc các ông trở về báo cáo công việc đã làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỉ, các ông phải chấp nhận định mệnh của Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa đoạn văn về sai phái đi và trở về báo cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc: Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã được nói đến ở 3,20.
Nếu đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng (6,34-44). II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành hai phần: Đức Giêsu và các Tông Đồ (6,30-32); Đức Giêsu và đám đông dân chúng (6,33-34).
chú giẢi
- Các Tông Đồ tụ họp quanh Đức Giêsu (30): Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng về, Nhóm Mười Hai được nhận danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn này với đoạn văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của Người, mà các ông tái xuất hiện.
- và kể lại … mọi điều các ông đã làm … đã dạy: Họ báo cáo đúng theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao giảng – trừ quỉ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã được minh hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của Người.
Đây là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy” (edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc thái phân biệt hai từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21). Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt; khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến việc giảng dạy của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang nêu bật hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười Hai.
- Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích việc ra đi đến nơi thanh vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm Mười Hai được “ở với Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.
Đàng khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như Người. Các ông được mời bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt giống tự mọc một mình (4,26-29)?
- chạnh lòng thương (34): Động từ splagchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm đến lòng dạ (ta splagchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
- vì họ như bầy chiên không người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16), bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34 hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết, đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực nhiệm mầu của Israel trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.
Nhiều chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh lòng thương”, bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.
- và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương xót. Vả lại công việc của người mục tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn chiên.
Thật ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không cảm thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động giảng dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết lập Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay Đức Giêsu đến để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa với ân ban các lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội: hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong đó việc giảng dạy và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)
Cần phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ với sự ân cần Người tỏ ra với các môn đệ.
Trong TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm. Song song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu đã làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ. Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch của lương thực và về truyền thống với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một người mù (8,22-26) được đặt giữa những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)
Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng ngay khi Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy Người, khiến Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng tế lèo lái trong cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông không phải là không có ý nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám đông biểu lộ một phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết luận
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái của Người, chiếu cố đến mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ loan báo Tin Mừng.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Khi khuyên các môn đệ đi đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất nhân bản, Người đã tỏ ra là một vị Thầy quan tâm đến mọi phương diện thuộc đời sống các môn đệ. Đấy là một tấm gương cho tất cả những ai có trách nhiệm về những người khác.
2. Trong Cựu Ước, lòng từ bi thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua thái độ của Đức Giêsu, ta thấy được lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với loài người. Bất cứ ai có vai trò “mục tử” (cha xứ, bề trên, cha mẹ…) đều được mời gọi bắt chước Đức Giêsu về phương diện này.
3. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất vả mới mở mắt các ông ra được, thì chắc hẳn không người môn đệ nào hôm nay muốn thực tập đời tông đồ mà lại miền chuẩn cho mình khỏi phải ở với Đức Giêsu, nhìn ngắm Người, bước theo Người và cứ thường xuyên bị Người ngăn cản trong những kế hoạch theo lô-gích loài người.
- Lm. Carolô Hồ Bặc Xái Chủ Ðề: Thiên Chúa chăm sóc đoàn chiên Ngài
I. DẪn vào Thánh lỄ
Anh chị em thân mến
Người ta thường gọi các kitô hữu là những "con chiên" của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì? Lời Chúa: TN 16-B56
Người ta thường gọi các kitô hữu là những "con chiên" của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì? Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết được làm con chiên của Chúa thì sẽ hạnh phúc như thế nào. Xin Chúa cho chúng ta hiểu được hạnh phúc của chúng ta và luôn vui sống dưới sự chăm sóc của Chúa là mục tử chúng ta.
II. GỢi ý sám hỐi
Chúng ta ít nghĩ đến tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta chưa gắn bó với các tín hữu khác là những người sống trong cùng một đoàn chiên Chúa với chúng ta.
Chúng ta không vâng nghe các mục tử mà Chúa đã đặt lên để hướng dẫn chúng ta.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Gr 23,1-6
Trích đoạn này gồm 2 phần:
Trong phần đầu, Thiên Chúa trách "các mục tử Israel". Ðó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo cho đoàn chiên của Ngài là dân do thái. Nhưng trái lại họ phan tác và xua đuổi chúng.
Trong phần sau, Thiên Chúa nói Ngài sẽ lấy đoàn chiên ấy lại và đích thân chăm sóc: quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ cho từ nhà Ðavít nổi lên một mục tử đích thực. Ðây là lời hứa ban Ðấng Messia.
2. Ðáp ca Tv 22
Tv này rất quen thuộc với chúng ta. Ðây là bài ca tụng Thiên Chúa như một mục tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát. Lại che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Tv bày tỏ niềm tin tuyệt đối rằng được sống dưới sự chăn dắt của Thiên Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì nữa.
3. Bài đọc II Ep 2,13-18
Thánh Phaolô trình bày cho những tân tòng ở Êphêxô hiểu về hai ơn trọng mà Chúa đã ban cho họ: ơn hòa giải và ơn quy tụ.
Ơn hòa giải: trước đây có một bức tường ngăn cách người Do Thái với người ngoại. Nhưng Ðức Kitô đã phá đổ bức tường ấy để tử nay Do Thái và dân ngoại hòa giải với nhau.
Quy tụ: trước đây dân ngoại như những con chiên tản mác khắp nơi. Nhưng Ðức Giêsu Kitô đã quy tụ họ lại trong cùng một đoàn chiên với dân do thái. Từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài.
4. Tin Mừng Mc 6,30-34
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Ðức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Trong bài này, các ông trở về hân hoan báo cáo những thành công của mình.
Ðức Giêsu rất nhân bản, Ngài bảo các ông tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Thầy trò xuống thuyền chèo đến một nơi yên tĩnh.
Nhưng vừa ra khỏi thuyền, Ðức Giêsu lại thấy dân chúng kéo đến đông đảo. Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ như một đoàn chiên bơ vơ không người chăn. Thế là Ngài bỏ nghỉ ngơi, tiếp tục dạy dỗ họ.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Con tim mục tử
Hình ảnh Ðức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này thật dịu dàng và rất đáng kính mến, vì Ngài có một trái tim rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác:
Các môn đệ trở về sau chuyến đi thực tập truyền giáo. Các ông vui mừng vì những thành công, hăng hái kể chuyện cho Ngài nghe, quên hết những mệt nhọc. Nhưng con tim mục tử của Ðức Giêsu biết họ cần được nghỉ ngơi. Ngài dịu dàng bảo họ "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút".
Khi đã đến chỗ có thể nghỉ ngơi, Ðức Giêsu thấy dân chúng kéo đến với mình. Con tim mục tử lại xúc động, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài liền hy sinh sự nghỉ ngơi để tiếp tục giảng dạy họ.
Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta rút ra được hai điều:
Thứ nhất: chúng ta hãy vui sướng vì được làm một con chiên đang sống dưới sự chăm sóc của một Vị mục Tử giàu tình thương như thế. Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cảm thấy điều cần đó, và Ngài lo liệu đầy đủ cho chúng ta.
Thứ hai: chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng tại sao có một con tim giống như Ngài, một con tim biết xúc động và biết mở rộng trước nhu cầu của người khác, vì quả thực rất nhiều khi con tim của chúng ta đã chai lì, băng giá và khép kín.
2. "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v. Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồ ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Ðể thoát ra khỏi bầu khí ồn ào cẳng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tỉnh, trầm lặng, nội tâm... người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh... Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Ðó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê miền biển, miền núi... Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó... Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Ðức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tỉnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các Giám mục, linh mục, Tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới...
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rãnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào... Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ... Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: "Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong giá, và để xem trời giải nghĩa yêu..." Ðó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán! Ðúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện... nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tỉnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Ðột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con "Hãy cầm lấy mà đọc". Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu "Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa". Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng hôm nay là Lời Chúa khuyên: "Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ..." Ðể thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn. Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
3. Sức quyến rũ của Lời Chúa
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ - nay gặp thấy giáo huấn của Ðức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
Ðến nỗi một mình Ðức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Ðức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Ðức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Ðức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Ðức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên "Eureka" (nghĩa là: "Tôi đã khám phá ra rồi") và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng! Ðó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: "Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thầy dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v... tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép."
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Ðến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tan hoang, sinh mạng con người bị đe doạ từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, Bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào, gọi là phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: "Chúng ta hãy sống Tin mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin mừng, từng câu, từng chữ".
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Thành Assisiô, câu "Phúc cho những người nghèo" đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu "Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ"; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một Dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Ðức Giêsu ở Nagiarét...
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quý chuộng Lời Chúa. Ðọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn dấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các Bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới v.v. Nếu chúng ta chỉ biết có các Bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Ðức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
4. Bị quấy rầy
Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên. Cuối cùng người bạn hỏi: "Làm sao anh có thể làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế?" Vị giáo sư đáp: "Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế".
Vị giáo sư có thể đóng cửa, không tiếp ai hết, để miệt mài với công việc. Làm thế thì ông có thể được yên tĩnh. Nhưng vì là một con người quảng đại hay giúp đỡ, ông không thể làm thế. Thay vào đó ông coi việc tiếp xúc và giúp đỡ sinh viên là việc chính của mình. Bởi đó, không lạ gì ông được sinh viên quý mến, và ông là người hạnh phúc nhất và hoàn thành trách nhiệm giáo sư tốt nhất trong trường Ðại học.
Vị tha vừa dễ mà cũng vừa khó. Dễ là khi việc phục vụ người khác là do ta tự ý chọn, nhờ đó ta chẳng những không cảm thấy bực bội mà còn thoải mái. Còn khó là khi ta phục vụ mà miễn cưỡng, thành ra bực bội và khó chịu.
Một hành vi được xét là tốt không do tầm quan trọng của nó, mà do tấm lòng của người làm hành vi đó: sẵn sàng chấp nhận nếp sống bị xáo trộn để giúp đỡ người khác, sẵn sàng tạm gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác.
Như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại kéo đến. Thấy vậy, "Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều".
Mặc dù biết phục vụ người khác là tốt, nhưng nhiều người chỉ muốn phục vụ một chút thôi, miễn là việc phục vụ đó đừng quá quấy rầy, đừng xáo trộn nếp sống quen thuộc của họ. Nhưng như thế không phải là phục vụ. Ðức Giêsu đã phục vụ khi sẵn sàng cho người khác quấy rầy, làm xáo trộn chương trình của Ngài. Cha mẹ chúng ta cũng thế: biết bao lần các ngài đang ngủ giữa đêm phải thức dậy để chăm sóc con cái?
5. Lắng đọng và bình an
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ. Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Ðến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần. Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
Ðáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Ðức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất "mài rìu", vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng "mài rìu" cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: "Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi".
P.Doncocur đã quả quyết: "Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện". Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã "lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện". Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu muốn có những giây phút nghỉ ngơi với các tông đồ, nhưng thấy dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Người lo chăn dắt họ, Người thật là mục tử nhân hậu điển hình. Chúng ta hãy cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội thánh biết tìm thời giờ để nghỉ ngơi và bồi dưỡng / để rồi lại hăng say chăn dắt đàn chiên tốt đẹp hơn.
2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà cầm quyền biết từ bỏ thói quan liêu tham nhũng và tư lợi / để tận tâm phục vụ công ích và hạnh phúc của người dân.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người bơ vơ không nhà cửa, không việc làm, bị xã hội bỏ rơi / được có người biết quan tâm giúp đỡ.
4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / năng cầu nguyện và tận tâm giúp đỡ các vị chủ chăn trong Hội thánh.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu là vị chủ chăn điển hình, xin sai đến với chúng con những vị chủ chăn xứng đáng với Chúa, và xin cho chúng con trở thành đoàn chiên ngoan ngoãn của Chúa, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời./
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương: TN 16-B57
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.
1. Ta sẽ đem chúng trở lại đồng cỏ
Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.
2. Đức Giêsu động lòng thương dân như chiên không người chăn
Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.
3. Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Theo bạn, con người ngày nay mong ước gì một cách sâu xa nhất? Theo bạn, Giáo Hội Công Giáo ngày nay đáp ứng được đến mức nào mong ước của con người hiện đại? Tại sao bạn nghĩ vậy?
Đối diện với các vị mục tử vô trách nhiệm của dân Ít-ra-en dẫn đưa dân đến cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh của đàn chiên Ngài và sẽ sai phái cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô cho thấy ở nơi Đức Ki tô Đấng quy tụ người Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài tường thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử chân thật, một vị mục tử Mê-si-a. Ngài quy tụ đám đông dân chúng, nuôi dưỡng họ bằng lời của Ngài trước khi cho họ được no thỏa bằng bánh hóa nhiều, tiên trưng bí tích Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I Gr 23: 1-6
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc: TN 16-B58
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 nầy được định vị giữa hai cuộc tấn công vào Giê-ru-sa-lem, cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597 BC., thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; và cuộc tấn công thứ hai vào năm 587 BC., thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới. Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem: vị ngôn sứ cực lực tố cáo các vua chúa và các vị lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về tai họa.
Tuy nhiên ngay cả ở giữa lòng thành đô tang thương nầy, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín: Ngài không bỏ rơi dân Ngài; đến thời đến buổi, Ngài sẽ sai phái cho họ một vị mục tử đích thật.
1. Những mục tử vô trách nhiệm.
Đó là những vị vua của vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa); vị ngôn sứ trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Nhưng bên kia các vua, Giê-rê-mi-a ngỏ lời với toàn thể tầng lớp lãnh đạo, đạo cũng như đời (nhiều lần ông cho họ tước hiệu mục tử nầy: 2: 8; 10: 21; 25: 34). Ngôn sứ đã nói trước đó, những vị chức sắc của dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống thụ hưởng phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân).
Cuối cùng họ đã dẫn dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản lạc khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”. Không chỉ những người bị lưu đày phải tha hương ở đất khách quê người, nhưng biết bao dân cư đã rời bỏ Giê-ru-sa-lem để tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Ta sẽ hỏi thăm các ngươi về những hành vi ngang trái của các ngươi”. Quả thật án phạt đã không chậm trể. Vua Giơ-hô- gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Còn thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 BC (2V 24: 10-16).
2. Sứ điệp tràn đầy hy vọng: vị mục tử Mê-si-a.
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc nầy, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Ngài sẽ đích thân đảm nhận việc chăm sóc dân Ngài; Ngài sẽ tập hợp đàn chiên của Ngài bị phân tán khắp nơi và đưa chúng về đồng cỏ của chúng.
Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng trong niềm mong chờ thời Mê-si-a đến để hiệp nhất quốc gia Ít-ra-en. Việc phân tranh giữa các bộ tộc phương Bắc và các bộ tộc phương Nam mặc dầu đã xa xưa nhưng vẫn còn cảm thấy niềm đau trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc phương Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do tự nguyện hoặc bi lưu đày (cuộc lưu đày ở Át-sua). Cuộc sụp đổ vương quốc phương Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò mục tử nhân lành, Ngài sẽ tập hợp đàn chiên của Ngài vào đồng cỏ của chúng. Viễn cảnh được loan báo là viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về quê cha đất tổ từ chốn lưu đày. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Ngài niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh vượng: “Chúng sẽ sinh sôi nẩy nở ra nhiều”. Ở đây còn là dấu chỉ Mê-si-a. Theo các ngôn sứ, thời đại Mê-si-a phải được đánh dấu bởi “sự no thỏa” (“bữa tiệc Mê-si-a” mà bánh hóa nhiều là một trong những biểu tượng tiên trưng).
3. Chân dung của vị mục tử lý tưởng.
Sau cùng, vị mục tử lý tưởng sẽ ngự đến: “Nầy đây sẽ đến thời kỳ Ta khiến mọc lên cho nhà Đa-vít một Mầm Non công chính”.
“Nầy đây sẽ đến những thời kỳ” đây là công thức mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông đã mượn công thức nầy từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Từ “Mầm Non” đã trở thành tước hiệu Mê-si-a. Tước hiệu nầy đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu nầy hai lần (một ở đây và nơi khác ở 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu nầy tại ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12). Dưới triều đại của vị vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít nầy, “miền Giu-đa sẽ được cứu thoát, miền Ít-ra-en sẽ an cư lạc nghiệp”.
Giu-đa và Ít-ra-en, gợi lên địa danh của hai vương quốc: như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa sẽ chỉ là một dân tộc duy nhất.
Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a nầy là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”. Danh xưng nầy các ngôn sứ thường dùng để chỉ Đấng Mê-si-a, nhưng ở nơi tên gọi nầy ngôn sứ Giê-rê-mi-a đặt một lời châm biếm cay độc: một trong “những vị mục tử vô trách nhiệm” là vua Xê-đê-xi-át, vương hiệu nầy có nghĩa “Đức Chúa, sự công chính của tôi”.
Trái lại, vị vua Mê-si-a tương lai sẽ truyền đạt sự công minh chính trực của Ngài cho toàn thể dân chúng của mình.
BÀI ĐỌC II Ep 2: 13-18
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tin hữu Ê-phê-sô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ muôn thuở của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Ki tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki tô thực hiện: chết cho mọi người, cả người Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki tô muốn kiến tạo nên một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
1. Người Ki tô hữu gốc lương dân.
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong những cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thuật ngữ “xa-gần” đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi (Is 57: 19).
Dụng ngữ nầy đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua dụng ngữ “xa-gần” nầy, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ cũng được ban cho ơn tha thứ tội lỗi.
2. Một dân duy nhất.
Vì thế, những người Ki tô hữu, dù gốc lương dân cũng như gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki tô “là sự bình an của chúng ta”.
Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và gốc Do thái đã mang đến tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki tô hữu, ở đó nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và khinh bĩ qua lại ở giữa đôi bên.
Những Ki tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân mang mặc khải; họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh những giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên của dân ngoại khỏi khuôn viên của dân Ít-ra-en. Qua ngôn từ: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, Thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách nầy. Chắc chắn thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái tra tay bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh nầy! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh nầy ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố của người Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền phiền nhiễu. Thái độ bài Dp thái nầy cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki tô đã hủy bỏ ngăn cách nầy: tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mĩ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
3. Một thân thể duy nhất.
Thánh Phao-lô thật bạo dạn khi khẳng định rằng: đôi bên, người Ki tô gốc lương dân và gốc Do thái, hình thành nên chỉ một con người duy nhất, một người mới. Người Ki tô hữu là một con người được tái tạo và tất cả những người Ki tô hữu được quy tụ là những chi thể của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki tô.
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học nầy rồi trong các thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô và Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo của thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô nầy, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
4. Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG Mc 6: 30-34
Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về.
Thánh Mác-cô luôn luôn cho chúng ta bài tường thuật đầy tình tiết sống động; và thánh ký nầy luôn luôn cho chúng ta những xác định nêu bật con người của Đức Giê-su.
1. Các tông đồ tụ họp quanh Đức Giê-su.
Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của ông; cách dùng nầy được biện minh: các tông đồ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Như chúng ta đã nhắc lại điều nầy trước đây, các tác giả Tin Mừng chung chung tránh dùng danh xưng nầy cho nhóm Mười Hai, bởi vì chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu nầy. Ngài là Đấng được Chúa Cha sai phái.
Nhóm Mười Hai quy tụ lại chung quanh Đức Giê-su, chắc chắn ở Ca-phác-na-um, thành phố mà Đức Giê-su chọn làm bản doanh cho sứ vụ của Ngài. “Các ông kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của sứ vụ đã được trao gởi cho các ông: lời giảng dạy đi kèm theo các dấu chỉ, theo gương Thầy mình. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất của thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó thuật lại cho Đức Giê-su sứ vụ mà họ vừa mới thi hành theo lệnh của Ngài. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết theo ông có ý nghĩa nhất “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mõi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mõi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát ra khỏi đám đông quấy nhiễu nầy: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh sang một nơi khác.
2. Lánh xa một nơi khác.
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ mình và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Người giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dể dàng. Thánh Mác-cô cũng đã còn viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Người” (3: 7).
Cũng xảy ra đúng y như vậy vào lúc các môn đệ trở về sau khi thi hành sứ mạng của mình. 3. Tấm lòng của đám đông dân chúng. Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện nầy không phải là không có tương quan với sự thành công của sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta địa danh nơi gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ.
Cách thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một khoảng cách như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng nầy với Đức Giê-su như cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
4. Tấm lòng mục tử của Đấng Mê-si-a.
Tấm lòng nhiệt thành nầy của đám đông dân chúng làm ngăn trở cho ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”. Dịch như thế chưa lột hết ý nghĩa của động từ Hy lạp, động từ nầy gợi lên một sự xúc động sâu xa dâng lên tận đáy lòng. Quả thật, động từ nầy phát xuất từ danh từ “ruột gan” để diễn tả niềm thương mến cuộn lên tận ruột gan như tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Ngài: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta rối bời” (Hs 11: 8). Đặc biệt trong các sách Tin Mừng, động từ nầy thường chỉ được dùng cho Đức Giê-su; và luôn luôn với động tự nầy, Ngài không thể nào kềm lòng được mà không ra tay hành động.
Đức Giê-su thương mến tận đáy lòng khi thấy đám đông dân chúng cùng nhau chạy đến với Ngài “như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đàn chiên thương mến của Thiên Chúa. Ngài đã trao gởi đàn chiên của mình cho sự chăm sóc của các vị mục tử; nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm nầy chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Ngài, khiến đàn chiên của Ngài phải lạc lõng bơ vơ. Đức Giê-su sẽ ra tay ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị mục tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông nầy trước hết là lương thực của Lời Ngài; chính cái đói nầy phải được đáp ứng trước tiên: “Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại bánh hóa nhiều được nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều nầy là luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, rồi sau đó là bàn tiệc Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghĩ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đàn chiên”.
Bài tường thuật của Mác-cô nầy chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mõi của Ngài sau khi hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Bài tường thuật nầy là một trong số các bài tường thuật bày tỏ ở nơi Đức Giê-su một tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khổ đau của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nơi nương tựa vào Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài nầy hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khổ đau của dân chúng, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10: 11).
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một: TN 16-B59
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su. (Mt 4,4)
Khao khát lương thực tinh thần
Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giê-su, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.
Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giê-su sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.
Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giê-su và các môn đệ.
Khi Chúa Giê-su lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.
Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.
Chúng ta vô cùng diễm phúc khi được sống bên Chúa Giê-su là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng trắng” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có bậc nhất.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu đáo hơn. Amen.
Sau những ngày ra đi mọi nơi làm việc truyền giáo, loan báo Nước Trời, các môn đệ đã gặt: TN 16-B60
Sau những ngày ra đi mọi nơi làm việc truyền giáo, loan báo Nước Trời, các môn đệ đã gặt hái được nhiều thành quả thật tốt đẹp. Người ta có thể ví được đây là lúc vàng son của các môn đệ. Do đó, các Ngài trở về gặp Chúa Giêsu và sung sướng kể lại cho Thầy của mình nghe mọi việc các Ngài đã làm được, mọi thành công các Ngài đã gặt hái. Chúa Giêsu sau khi nghe các môn đệ trình bầy sự việc, kể lại những thành tựu tốt đẹp họ đã gặt hái trên đường truyền giáo. Chúa Giêsu đã khuyên các Ngài hãy rút lui vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện và nghỉ ngơi…
MỘT SỰ THÀNH CÔNG NGOÀI SỨC TƯỞNG TƯỢNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ:
Các môn đệ được Chúa cho ra đi các nơi thực tập truyền giáo.Nhờ học hỏi nơi Chúa Giêsu, nhờ sự nâng đỡ của Ngài và sự tác động của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã gặt hái hết thành công này tới thành công khác.Sự thành công của các môn đệ ngoài dự tưởng của các Ông bởi vì có những người nhờ lời giảng dạy của các Ông đã tìm được Chúa, có những người, các môn đệ đặt tay đã làm cho họ được khỏi bệnh, có những người bị quỷ dữ hành hạ đã được các môn đệ cứu sống.Các môn đệ quả thực đã rất hạnh phúc và thành công. Trong cuộc đời làm môn đệ, có lẽ không lúc nào các Ông cảm thấy hãnh diện và sung sướng bằng lúc này vì những thành công tới với các Ông một cách rất dễ dàng và xem ra thật nhẹ nhàng. Những thành công này có lẽ đã làm cho các Ông quên đi những điều căn bản nhất Thầy mình đang muốn các Ông phải tuân thủ, vâng lời.
ANH EM HÃY LÁNH RIÊNG RA MỘT NƠI THANH VẮNG MÀ NGHỈ NGƠI ĐÔI CHÚT:
Vâng, làm gì không hạnh phúc bằng những công việc của các môn đệ Chúa được người ta đón nhận và những thành quả truyền giáo ấy như là những việc vàng son nhất của của môn đệ ? Chính vì thế, các môn đệ đã rất phấn khởi thuật lại những kết quả xem ra rất thành công của các Oângcho Chúa Giêsu nghe. Chúa hiểu tường tận những thành quả của các môn đệ, nhưng Ngài lưu tâm đến con người của các môn đệ hơn các công việc. Chúa muốn các môn đệ hãy lánh xa sự ồn ào, tránh xa dân chúng, Ngài muốn các môn đệ nghỉ ngơi bởi vì công việc nhiều ngày qua đã làm các ông quá vất vả, quá mệt mỏi, Chúa muốn các Ông để cho tâm hồn yên tĩnh, lắng đọng để Thầy và trò được sống trong sự thân mật tri giao và để Thầy và trò có dịp hàn huyên rút ra những ưu khuyết điểm, những gì cần phải củng cố, những gì cần phải phát triển vv…Việc Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải nghỉ ngơi, phải cầu nguyện, phải rà soát lại công việc quả thực rất cần thiết. Có rà soát công việc, có thẩm định lại những biến cố để cho tâm hồn tĩnh lặng và để Chúa nói những việc đó mới thật cần thiết . Chúa muốn cho các môn đệ của Ngài yên tĩnh, lắng đọng tâm hồn và giãn xả nghỉ ngơi là để công việc truyền giáo còn dài càng ngày càng tốt đẹp hơn.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Ngày nay, thế giới càng lúc càng văn minh, tiến bộ, người ta thích ồn ào hơn thích yên lặng để nhìn lại những gì đã làm được. Người ta thích nhìn thấy những thành công trước mắt hơn là thích suy tư, suy nghĩ vv…Sự ồn ào bên ngoài nhiều khi lấn át tất cả những gì thâm sâu. Đức Hồng Y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý: “ Người ta dễ nghe thấy tiếng cây đổ hơn làtiếng tí tách của hàng triệu triệu những hạt mầm đang cố ngon lên khỏi mặt đất “. Những thành tựu trước mặt con người dễ nhận ra hơn là những cố gắng đã phải mất biết bao thời gian ấp ủ mới đi tới thành công. Đường vào Nước Trời là đường hẹp bởi vì Chúa đã nói:” Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy “…Muốn đi xa cần phải dừng bước để ngơi nghỉ và rồi lại tiếp bước.Muốn học tốt phải có kế hoạch, có thời giờ hợp lý. Muốn tới đích phải có định hướng vv…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết bắt chước Chúa biết lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Xin cho chúng con đừng tự phụ với những thành công gặt được và cũng đừng chán nản với những thất bại ê chề, nhưng biết dừng, biết lắng đọng tâm hồn để nghe tiếng Chúa chỉ bảo. Amen.
Bài Đáp Ca Thánh Lễ hôm nay trích trong Thánh Vịnh 22, ca tụng Chúa là Vị Chủ Chăn: TN 16-B61
Bài Đáp Ca Thánh Lễ hôm nay trích trong Thánh Vịnh 22, ca tụng Chúa là Vị Chủ Chăn luôn lo lắng chăn dắt mọi người chúng ta qua mọi hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, Trong đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi nằm nghỉ… Bên dòng suối mát, Người cho tôi uống thỏa thuê… Người dẫn dắt tôi trên đường ngay nẻo chính… Dù khi phải qua những thung lũng tối tăm, Tôi vẫn không lo sợ, vì Chúa luôn ở cùng tôi…”
Đó là những lời tâm tình của những người thời Cựu Ước ca tụng Chúa luôn là Vị Chủ Chăn lo lắng cho đoàn chiên của Chúa.
Qua dòng thời gian, Chúa cũng chọn một số người ở trần gian để chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Tuy nhiên, cũng có những chủ chăn không chu toàn bổn phận, nên trong Bài Đọc I (Giêrêmia 23: 1-6), qua miệng Tiên tri Giêrêmia, Chúa đã phải lên tiếng cảnh cáo những chủ chăn thiếu trách nhiệm, làm tan nát đoàn chiên của Chúa. Rồi chính Chúa đã ra tay “quy tụ đoàn chiên lại và chọn những chủ chăn xứng đáng để coi sóc. ”
Bài Phúc Âm (Matcô 6: 30-34) ghi việc các Tông đồ, sau những ngày được Chúa Giêsu sai đi truyền giáo, đã trở về vui mừng thuật lại những điều đã làm và đã giảng dạy. Sau đó bao nhiêu việc phải làm cho đoàn dân chúng đông đảo kéo tới “đến nỗi Chúa Giêsu và các Tông đồ không có giờ ăn uống nghỉ ngơi!” Vì thế, Chúa Giêsu cảm thấy các Tông đồ cần phải có những giây phút thinh lặng để nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng tâm hồn, nên Chúa bảo các ông chèo thuyền đến một nơi thanh vắng. Nhưng, dân chúng vẫn kéo đến, và Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đã lại phải chiều lòng phục vụ họ. Tấm lòng mục tử yêu thương, hết lòng vì đoàn chiên đã làm Chúa Giêsu “động lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt!”
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay (Êphêsô 2: 13-18) nói về việc Chúa Giêsu, vị Chủ Chăn Nhân Lành, vì thương xót loài người tội lỗi, đã hy sinh trên Thập Giá để cứu chuộc chúng ta và nối kết chúng ta nên một trong tình yêu của Chúa Cha và trong ơn nghĩa của Chúa Thánh Thần.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng hiệp lời cầu nguyện: xin Chúa ban cho Giáo Hội những chủ chăn luôn biết noi gương Chúa “ yêu thương và tận tâm chăn dắt đoàn chiên” Chúa trao phó. Dâng những hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho các chủ chăn là nhiệm vụ của mọi người chúng ta, đặc biệt trong “Năm Linh Mục” này.
Thế giới mỗi ngày một văn minh. Khoa học luôn tiến triển không ngừng. Văn minh hiện đại đã: TN 16-B62
Thế giới mỗi ngày một văn minh. Khoa học luôn tiến triển không ngừng. Văn minh hiện đại đã đáp ứng rất nhiều nhu cầu sinh hoạt cho con người. Thế nhưng, cơn lốc của văn minh đã cuốn hút con người chạy theo những đam mê hưởng thụ. Con người dường như đang trở thành một cái máy không hồn. Ăn và làm đó là mục đích chính yếu của con người văn minh hôm nay. Họ không còn giờ để bàn về việc có Thiên Chúa hay không. Họ không còn giờ để nhận ra niềm vui, nỗi buồn của tha nhân. Họ không còn thời giờ dành cho Chúa và cho nhau.
Mỗi lần có dịp trao đổi với các bạn trẻ, tôi thường nghe họ nói: “Con rất ít cầu nguyện”. Nguyên do đơn giản là quá bận rộn với công việc. Ngoài thời giờ học hành, làm việc, mệt mỏi và lăn ra ngủ thế là hết ngày, hết tháng, có khi hết cả năm vẫn không một lần đọc kinh cầu nguyện. Thế giới văn minh đã đẩy con người vào cơn lốc của tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Dưới góc cạnh của luân lý, đây là hiểm hoạ đang đe doạ con người. Văn minh là điều tốt. Giải thoát con người khỏi lầm than, lạc hậu. Nhưng nếu văn minh khoa học chỉ nhắm phát triển thể xác mà không hướng con người đến sự sống siêu nhiên, sẽ giới hạn con người thuần túy là loài vật, sẽ dấn đến huỷ diệt con người thay cho phát triển và hoàn thiện. Con người có hồn – có xác. Con người có tương quan với Đấng tạo hoá và với tha nhân. Nếu quá chú trọng đến nhu cầu thể xác mà quên đi đời sống tâm linh, con ngươi đã tự vong thân. Chỉ là những thây ma không hồn, gieo tai hoạ và khổ đau cho nhau. Con người sẽ đối xử tàn bạo với nhau nếu con người chỉ coi mình thuần túy là loài vật mà chối bỏ niềm tin vào Trời, vào Thiên Chúa, vào Đấng tạo thành. Không còn cảm nhận sự nhỏ bé trước Đấng Tạo Thành, con người sẽ mất đi sự khiêm tốn để sống gần gũi và hòa hợp với mọi người.
Cha ông ta vẫn nói: Có tài mà không có đức chỉ là tai hoạ cho gia đình và xã hội. Cái đức có là do tin vào có đời sau. Tin vào sự thưởng phạt của Đấng Tạo hóa. Người ta sống có đức vì trời có mắt. Người ta ăn ở ngay lành vì để đời sau được bình an hạnh phúc. Thế nên, là người thì tài đức cần phát triển song hành và hỗ trợ với nhau. Thế giới đã qúa đau khổ bởi những người có tài mà phi nhân bất nghĩa như: Hitle, Ponpót . . . Họ tìm vinh quang cho bản thân của mình đến nỗi sẵn sàng huỷ diệt cả hàng triệu sinh linh. Thế giới đã quá sợ hãi bởi những cuộc chạy đua kinh tế, khai thác dầu mỏ và vàng bạc đá qúy chỉ dẫn đến chiến tranh, bạo động và cướp phá lẫn nhau.
Chúa Giêsu đã rất khôn ngoan và tỉnh táo. Ngài không để các môn đệ quá say sưa trong công việc, và ngủ say trong chiến thắng. Sau một thời gian hoạt động tông đồ miệt mài và đạt nhiều thành quả tốt đẹp. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ trở về với chính mình. Nhận biết mình thật nhỏ bé. Chỉ là dụng cụ được Thiên Chúa sử dụng vào công việc của Ngài. Cần phải hướng lòng lên Chúa để tạ ơn về thành quả đạt được và cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa. Chính Chúa Giêsu vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện riêng với Chúa Cha. Chính Ngài đã nhiều lần tạ ơn Chúa Cha vì những gì đang diễn ra trong cuộc đời của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã từng một lòng cương quyết vâng theo thánh ý Chúa Cha, quyết một lòng đi theo con đường Chúa Cha đã định. Chúa Giêsu đã sống phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Sứ mệnh của Ngài là giới thiệu về Thiên Chúa cho con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa. Như vậy, việc tôn vinh Chúa Cha cũng gắn liền với việc phục vụ tha nhân. Nếu chỉ chú trọng việc phục vụ tha nhân mà xa rời Thiên Chúa con người sẽ đánh mất căn tính của mình. Nếu chỉ quy hướng cuộc đời mình về Thiên Chúa mà dửng dưng hay làm ngơ trước sự khốn cùng của đồng loại, cuộc sống trần gian sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì lẽ đó, dù rằng sau những giờ làm việc mệt mỏi, Chúa Giêsu cùng các môn đệ muốn tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng đoàn dân lại khao khát tìm đến Chúa để được no thỏa vật chất và tinh thần, Chúa Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Ngài không lỡ từ chối hay chạy trốn đám đông. Ngài tiếp tục giang rộng đôi tay để thi ân và đón nhận tha nhân.
Ngày nay vẫn còn đó biết bao cảnh đời tha phương cầu thực đang cần một chút tình thương của chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sẵn lòng mở rộng đôi tay để trao ban và đón nhận hay chúng ta lại ngoảnh mặt làm ngơ, và tìm cách thoái thác để tiếp tục với công việc của mình mà quên đi đồng loại? Phải chăng chúng ta đang mải dệt đời mình trong danh lợi thú mà quên đi bổn phận với Đấng Tối Cao?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại mục đích đời người là gì? Người ta sống ở đời này để làm gì? Nếu không xác định được hướng đi của đời người thì cuộc sống của chúng ta chỉ tựa như con thiêu thân đang hủy hoại đời mình trong ánh hào quang của danh vọng trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta đang khi vất vả lo lắng cho những nhu cầu đời sống hằng ngày, cũng biết tìm vinh danh Chúa trong cuộc sống phục vụ tha nhân. Ước gì mỗi ngừơi chúng ta cũng tìm được lẽ sống của đời mình, để có thể dâng lên Chúa lời cầu nguyện như thánh Phanxicô thành Assisi: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. . . Vì chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen
Nếu chủ đề của Tin mừng Chúa nhật trước là RA ĐI Ợ đây là từ ngữ để diễn tả việc làm của: TN 16-B63
Nếu chủ đề của Tin mừng Chúa nhật trước là RA ĐI – đây là từ ngữ để diễn tả việc làm của các nhà thừa sai, được Chúa sai đi rao giảng Tin mừng, thì chủ đề của Tin mừng Chúa nhật này là ĐEM VỀ. Thật vậy, ở Chúa nhật trước, chúng ta đã có dịp tìm hiểu việc Chúa Giêsu gọi và sai các môn đệ từng nhóm hai người một ra đi rao giảng Tin mừng với những quyền năng của Chúa đi kèm. Các ông vâng lời Thầy ra đi, miệt mài với sứ vụ Chúa giao phó. Nay, sau bao nhiêu ngày rong ruổi trên bước đường truyền giáo, các ông hân hoan trở về bên Chúa, ĐEM VỀ cho Chúa những việc các ông đã làm và những gì các ông rao giảng. Các môn đệ đã đem về cho Chúa những gì và, những gì xảy đến sau sự kiện này? Chúng ta cùng tìm hiểu.
Từ đám đông không buông tha…
Sau khi nghe tất cả những công việc các tông đồ hân hoan “đem về” trong hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu có sáng kiến muốn các ông lui vào nơi thanh vắng, tạm thời rời xa mọi người, nghỉ ngơi an dưỡng sau bao ngày vất vả nhọc nhằn. Đây không chỉ là một việc hiển nhiên mà còn là dụng ý đến từ Chúa Giêsu. Thật thế, chúng ta để ý đến bộ mặt hân hoan vui mừng của các môn đệ sau chuyến đi truyền giáo. Có thể nói chuyến đi truyền giáo đợt này, các ông “đem về” toàn niềm vui, toàn sự thành công. Vì thế,việc Chúa Giêsu muốn các ông lánh vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi nhằm giúp các ông lắng đọng tâm hồn, đừng quá say sưa với những thành quả do công việc mang lại. Mặt khác, chúng ta còn nhớ khi nhóm 72 ra đi truyền giáo trở về, cũng hớn hở nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (x. Lc 10, 17). Còn với Chúa Giêsu, điều đó không quan trọng cho bằng “tên anh em được ghi trên trời”- một phần thưởng xứng đáng và trị hơn nhiều do sứ mệnh các ông mang lại.
Tuy nhiên Tin mừng cho thấy, đám đông vẫn không buông tha các ngài. Khi biết các ngài lìa xa, từ khắp nơi, họ tuôn đến để nghe các ngài rao giảng. Dường như Chúa Giêsu và các tông đồ muốn “chạy trốn” đám đông, lánh vào nơi hoang vắng. Thế nhưng đám đông lại đến nơi trước các ngài với ước mong được các ngài dạy dỗ. Chúa Giêsu nhìn thấy lòng khát khao của số đông người muốn bước theo và lắng nghe lời chân lý, vì thế, chính Người cũng như các môn đệ dường như quên hết những vất vả nhọc nhằn để tiếp tục đến với họ, nhằm giúp họ thoả mãn những điều họ ước mong.
Đến tâm tình của người mục tử
Lên bờ, Chúa Giêsu thấy đám người rất đông thì chạnh lòng thương. Thực ra từ ngữ “chạnh lòng thương” chưa lột tả hết tâm tình mục tử của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể hiểu thế này. Khi thấy đám người rất đông tuôn đến với Chúa và các môn đệ – điều này lẽ ra họ phải về trong khi thầy trò Chúa nghỉ ngơi sau bao vất vả- hành động đức tin của họ khiến cho lòng dạ Chúa Giêsu thương đến “quặn thắt ruột gan”. Đây là từ ngữ diễn tả lòng thương tột đỉnh của người mục tử.
Chúa Giêsu thương đám đông. Lý do là vì họ bơ vơ vất vưởng không mục tử dẫn dắt. Vì thế, tấm lòng của người mục tử không thể dửng dưng trước nhu cầu cần được hướng dẫn dạy dỗ của đoàn chiên. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân lanh và Người thấu hiểu điều đó. Đứng trước đám đông đang khát khao Lời Chúa, Chúa Giêsu trở nên Lời hằng sống, đáp ứng cơn khát của dân chúng. Người dạy dỗ họ chẳng khác nào Môsê khi xưa trong hoang địa.
Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu và các môn đệ, bởi họ nhận ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống đàng sau lời dạy dỗ và những việc Chúa Giêsu và các môn đệ đã làm. Tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống nhân sinh thật quan trọng. Vì nếu không, con người dễ dàng bị bao cám dỗ trần thế bủa vây giam hãm, khiến họ quên mất ý nghĩa đích thực. Tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống nhân sinh, chính là chìa khoá, là kim chỉ nam dẫn lối đưa đường giúp ta tiến bước trên đường chân lý, giúp ta tìm về những giá trị tinh thần hầu có thể khoá giải những vấn nạn của thời đại. Hơn ai hết, dân chúng thời Chúa Giêsu đã khát khao đi tìm và đã tìm ra giá trị vĩnh hằng cho cuộc sống nhân sinh của họ.
Mỗi khi đọc và suy niệm Lời Chúa, mỗi khi tham dự thánh lễ, mỗi khi chạy đến với các bí tích chính là lúc chúng chúng ta tìm về nguồn sống đích thực; tìm về những giá trị vĩnh cửu có sức mạnh giúp chúng ta vượt thắng những khốn khó trong cuộc đời. Xin cho lời Chúa hôm nay giúp chúng ta biết khát khao và: tìm đến với nguồn sống đích thực đó hầu dẫn đưa chúng ta đến bến bờ Chân Thiện Mỹ vẹn toàn.
Giáo huấn Chúa nhật 15 B nhằm mô tả dung mạo người mục tử (Tông Đồ) của Chúa Giê-su; thì: TN 16-B64
Giáo huấn Chúa nhật 15 B nhằm mô tả dung mạo người mục tử (Tông Đồ) của Chúa Giê-su; thì giáo huấn Chúa nhật 16 B này nhắm đến bản chất của người mục tử, đã trở thành mẫu người mục tử hoàn hảo như Mục Tử Giê-su. Chính vì duy chỉ có Chúa Giê-su là Mục Tử hoàn hảo, ngoài Ngài trong loài người không ai xứng đáng là mục tử. Để xác quyết điều này thánh sử Gio-an không ghi lại danh sách Mười Hai Tông Đồ của Chúa Giê-su, trừ tác giả Nhất lãm có ghi bốn lần (x Mt 10,2-4; Mc 3,16-19; Lc 6,13-16; Cv 1,13).
Thực vậy, người mục tử chính danh dựa vào các Bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, họ phải hội đủ bảy điều sau đây:
Kết hợp nên một với Chúa Giê-su qua Bí tích. Làm trước dạy sau. Nâng đỡ người cộng tác với mình. Chỉ dạy Lời Chúa. Làm hoàn hảo Luật. Chết vì say sưa giảng Lời. Giảng đúng và đủ.
1- Kết hợp nên một với Chúa Giê-su qua Bí tích.
Người mục tử của Chúa Giê-su phải là người đã lãnh nhận Bí tích Khai tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể) và đặc thù là còn phải lãnh Bí tích Truyền Chức Thánh. Người như thế, thánh Phao-lô nói: “Họ ở trong Đức Giê-su Ki-tô, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, họ không còn là người ở xa, mà là người ở gần” (Ep 2,13: Bài đọc II). Bởi vì, “ai không kết hợp với Chúa Giê-su, họ như cành nho tách lìa thân nho, cành nho ấy tự khô héo, không thể sinh quả. Và kẻ nào như thế thì không thể làm được việc gì!” (x Ga 15,4-6) Còn ai lưu lại trong Chúa Giê-su, dù họ còn gặp đau khổ, họ giống như cành nho bị tỉa, có thế mới sinh nhiều hoa trái, trở nên môn đệ của Chúa Giê-su làm vinh hiển Chúa Cha (x Ga 15,1-3.7-8).
Người mục tử sống niềm tin như trên, họ đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Đức Chúa phán: Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đa-vít, một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23,5-6: Bài đọc I). Ta lại biết “chồi non chính trực Vị Vua nhà Đa-vít” chính là Chúa Giê-su (x Mc 12,35-37).
2- Làm trước dạy sau.
Chúa Giê-su là mẫu mực, là tiêu chuẩn, để đánh giá những hoạt động của các Ki-tô hữu thời Giáo Hội sơ khai, họ muốn được hành động rập theo khuôn mẫu với Chúa Giê-su, họ phải sống giống như Thầy Giê-su: “Làm rồi mới dạy” (Cv 1,1). Đấy là lý do thánh sử Lu-ca khéo léo đặt lời ấy ngay đầu sách Công Vụ Tông Đồ (lịch sử Hội Thánh), để mọi Ki-tô hữu lấy đó làm mẫu cho cuộc sống mình, tiếp tục viết trang sử của Hội Thánh, diễn tả dung nhan rạng ngời của Chúa Giê-su Phục Sinh cho đến ngày cánh chung, và đấy cũng là lý do khi thánh Gio-an viết về cuộc đời hoạt động của Mục Tử Giê-su, và hoạt động của Hội Thánh, ông đều dùng một câu: “Đức Giê-su đã làm trước mặt các môn đệ của Ngài, nhiều dấu lạ khác nữa không viết lại trong sách này, bởi vì nếu viết lại từng điều, thì thiết tưởng thế gian không đủ nơi mà chứa sách viết ra” (Ga 20,30; 21,25).
Chính vì phải làm trước rồi dạy sau mới xứng danh là “Tông Đồ” của Chúa Giê-su. Thế nên trong toàn bộ Tin Mừng của Mác-cô, ông chỉ gọi các môn đệ là Tông Đồ, khi họ làm rồi mới về trình lại cho Chúa Giê-su (x Mc 6,30: Tin Mừng).
3- Nâng đỡ người cộng tác với mình.
Các Tông Đồ của Chúa sau thời gian vất vả phục vụ mọi người theo lệnh của Thầy Giê-su, đến nỗi họ không còn thời giờ nghỉ ngơi ăn uống, thế nên Chúa Giê-su rất cảm thương họ, Ngài bảo họ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, thế là Thầy trò xuống thuyền trốn đến một nơi hoang vắng… nhưng dân chúng biết được, họ kéo nhau chạy bộ đến trước để đón. Chúa Giê-su thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến phá vỡ kế hoạch nghỉ ngơi của Thầy trò, lúc ấy Ngài cứ để các môn đệ nghỉ ngơi ăn uống, còn chỉ mình Ngài ra đón dân với đầy lòng trắc ẩn …” ( x Mc 6,30-34: Tin Mừng).
Rất tiếc nhiều chủ chăn lợi dụng tòa giảng để mạt sát giáo dân ! Hãy nhớ lời thánh Phê-rô dạy: “Anh em hãy chăn dắt đàn chiên của Thiên Chúa nơi anh em, không phải như thể miễn cưỡng, nhưng là sẵn lòng, thể theo ý Thiên Chúa, không hám trọc lợi, nhưng cách nhiệt thành. Đừng như thể làm chúa trên phần cơ nghiệp đã lĩnh, nhưng là làm gương mẫu cho đàn chiên” (1Pr 5,2-3).
Theo Giáo luật số 756-757 đã xác định việc loan báo Lời Chúa (hay dạy giáo lý) là bổn phận chính yếu của các Giám mục, Linh mục và Phó tế. Trong thực tế, không biết được bao nhiêu Linh mục nâng đỡ Phó tế, bao nhiêu cha Sở nâng đỡ cha Phụ tá, bao nhiêu Giám mục nâng đỡ cha Sở, và cụ thể việc nâng đỡ đó là thế nào ? Có lẽ phần lớn chỉ dùng quyền trên mà trao phó việc nặng nhọc cho người dưới, thế là xong bổn phận!
4- Chỉ giảng dạy Lời Chúa.
Cả đoàn lũ dân tuốn đến cùng Chúa Giê-su, chắc chắn là họ đi tìm Ngài chỉ vì miếng ăn no bụng, hoặc xin được chữa lành mọi bệnh tật (x Ga 6,22-27; Mc 1,29-39) thế mà Chúa Giê-su lại giảng dạy cho họ nhiều điều, như Ngài làm lơ trước những khát vọng của họ! (x Mc 6,33-34: Tin Mừng), bởi vì Ngài muốn xác định với mọi người:
Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước … (Mt 6,33).
Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (Ga 6,27).
Mà việc tiên quyết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hay ra công làm việc để có của ăn sinh sự sống đời đời, cụ thể nhất là tìm kiếm, đón nhận Lời Chúa như chính Chúa Giê-su đã nói: “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Vì vậy:
Người của Thiên Chúa sai thì nói Lời Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho vô lường vô hạn (Ga 3,34). Thế nên:
Ai có nói thì nói Lời Thiên Chúa, ai phục vụ thì phục vụ bằng sức lực Chúa ban, có thế trong mọi việc chúng ta làm mới tôn vinh Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su (1Pr 4,11).
Nói tóm lại, Chúa Giê-su cũng như các môn đệ của Ngài đều đặt sứ mệnh chính đứng hàng đầu mọi sinh hoạt là “loan báo Tin Mừng bình an, bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những người ở gần, hầu liên kết mọi người trong một Thần Khí duy nhất, mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,17-18: Bài đọc II).
5- Làm hoàn hảo Luật.
Nhờ Mục Tử Giê-su, Luật trở nên hiện thực và hoàn hảo. Chính Chúa Giê-su đã xác nhận: “Đừng tưởng tôi đến để bãi bỏ Lề Luật hay các tiên tri, tôi đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm trọn” (Mt 5,17).
a- Nhờ Chúa Giê-su, giá trị Cựu Ước trở nên hiện thực. Đan cử:
Xưa Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Thiên Chúa vào ngày thứ sáu (x St 1,27-31). Nay nhờ Chúa Giê-su chết vào ngày thứ sáu, Ngài lập các Bí tích phát xuất tự cạnh sườn Ngài bị đâm thâu, để loài người được tái tạo nên giống Con Thiên Chúa, đến nỗi cùng một sự sống với Thiên Chúa (x Ga 6,57), và được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20).
Xưa loài người được Chúa tạo dựng từ đất (x St 2,7t), vào thời Tân Ước, ai kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh, đặc biệt là qua Bí tích Thánh Thể, dù họ có chết trở về bụi đất, Chúa cũng cho họ được sống lại vinh hiển như Ngài (x Ga 6,54).
b- Chỉ Chúa Giê-su mới làm hoàn hảo Luật dạy. Đan cử:
Luật xưa cho phép Ca-in báo thù bảy lần (x St 4,15), hoặc cho phép La-méc báo thù 70x7 ! (x St 4,24) Nhưng Chúa Giê-su cấm báo thù, lại còn phải tha thứ 70x7 cho kẻ xúc phạm đến mình nội trong một ngày (x Mt 18,22t).
Luật xưa chỉ nhằm những người đã cắt bì mới cho theo đạo Chúa; nhưng Chúa Giê-su lại dạy các Tông Đồ: phải rửa tội và dạy Lời cho cả những kẻ không cắt bì (x Cv 11,5t; 15,28-29).
Xưa dùng chiên cừu bò lừa sát tế làm của lễ dâng cho Thiên Chúa; nay Chúa chỉ nhận của lễ những người đã được kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh, để cùng trở nên một hiến tế nhờ Chúa Giê-su mới đem lại ơn cứu độ cho kẻ hiệp dâng (x Dt 10).
Nói tắt, mọi lời sấm ngôn đã được ứng nghiệm cách hoàn hảo nhờ, với, trong Chúa Giê-su mà thôi (x Lc 4,14-22; Rm 11,36), để Ngài trở nên Đấng duy nhất cứu độ loài người (x Cv 4,12). Vì vậy thánh Phao-lô nói: “Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới Luật. Khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất, trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2,15-16: Bài đọc II).
6- Chết vì say sưa giảng Lời chân lý cứu độ.
Trong Bài đọc II, thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: Nhờ Chúa Giê-su hết lòng rao giảng Tin Mừng, đến nỗi phải mang án tử, nhằm biểu lộ tình thương tuyệt đỉnh cứu độ loài người, để tập họp kẻ ở xa, người ở gần, dân ngoại, dân Do-thái; Ngài phá đổ mọi bức tường ngăn cách vì sự thù ghét nhau, để tất cả được hòa giải trong một Thân mình Chúa Giê-su Phục Sinh, nhằm bình an cho hết thảy mọi người (x Ep 2,13-18).
Thực vậy, những người đòi mạng Chúa Giê-su họ đã nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông, nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Bởi thế, trước tòa công nghị, những người Do-thái la hét: “Nó đã nói phạm thượng, nó phải mang án tử!” (Mt 26,65-66)
Bởi đó, khi Chúa Giê-su trao quyền cho ông Phê-rô chăm sóc Hội Thánh, Ngài đã cho ông biết trước: “Khi con còn trẻ, con tự thắt lưng mình, mà đi đâu tùy ý; nhưng khi đã về già, con sẽ giăng tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho con, lôi con đến nơi con không muốn. Ngài nói vậy để ám chỉ Phê-rô phải chết cách nào mà tôn vinh Thiên Chúa. Nói thế rồi, Ngài bảo ông: Hãy theo Ta!” (Ga 21,18-19).
Thánh Phao-lô đón nhận đau khổ trong đời sống phục vụ Tin Mừng như một ơn cao trọng đặc biệt Chúa ban, nên ông nói: “Ngoài Chúa Ki-tô chịu đóng đinh,tôi không muốn biết điều gì khác nữa!” (1Cr 2,2) Vì thế, “tôi vui thỏa trong nỗi yếu đuối, trong lăng nhục, trong quẫn bách, trong bách bớ, và cùng khốn, vì Đức Ki-tô. Bởi khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh!” (2Cr 12,10).
7- Giảng đủ và giảng đúng.
Chắc chắn Chúa Giê-su biết các môn đệ Ngài đã vất vả giảng Lời, đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi ăn uống, thế là Ngài bảo họ: Tìm nơi hoang vắng để có điều kiện bồi dưỡng sức khỏe làm việc tiếp, và Ngài biết các môn đệ giảng chưa đủ điều phải nói, nên Ngài lên tiếng giảng dạy dân chúng nhiều điều ! (x Tin Mừng Mc 6,30-34).
Ngài giảng nhiều điều, nên kéo dài tới ba ngày mà vẫn chưa nói hết điều phải nói, dù dân đã nhịn đói đến ba ngày, thế mà Ngài cứ thao thao giảng, đến nỗi nếu các môn đệ không lên tiếng xin Ngài ngưng giảng, để dân vào làng mua bánh ăn, thì Ngài cứ mặc họ nhịn đói mà nghe giảng! (x Mt 15,32-33)
Noi gương Thầy Giê-su, ông Phao-lô đến Trô-a phục vụ suốt cả tuần lễ, mà ngày cuối cùng, ông biết ngày mai phải lên đường, nên buổi giảng cuối ông kéo dài đến nửa đêm, khiến anh Êu-ty-khô, ngồi ở ban công lầu ba - đang cách mặt đất khoảng 10 mét, anh quá buồn ngủ, “gật gù nhất trí nghe Phao-lô giảng”, thế là anh lộn đầu xuống đất, anh đã chết, cả cộng đoàn nhớn nhác đứng lên, nhưng ông Phao-lô ra hiệu cho mọi người ngồi yên, vì ông chưa giảng xong, đoạn Phao-lô tới bế xác Êu-ty-khô đưa đặt nơi chân ông và tiếp tục giảng cho đến sáng. Rất may sau bài giảng, Êu-ty-khô được sống lại, ra về vui vẻ với mọi người! (x Cv 20)
Nhìn lại lịch sử Hội Thánh thời sơ khai, người giảng xem ra không quan tâm đến nhu cầu của người nghe, nên cứ phải giảng cho hết ý, mặc ai nghe hay không; thế mà giáo dân lại rất quảng đại dành nhiều giờ để nghe giảng! Nhưng ngày nay trong các Thánh lễ Trọng hay lễ Chúa nhật, dù Hội Thánh buộc vị có chức Thánh phải giảng, thì hầu hết các Thánh lễ, nếu có giảng cũng chỉ khoảng 10 phút đã cho là tốt, là đủ, là dài rồi! Thì làm sao có thể trình bày cho giáo dân nhận ra một sợi dây giáo lý xuyên suốt qua các Bài đọc trong Phụng vụ, để mọi người xác tín rằng giáo lý của Chúa thống nhất qua các thời đại, và càng tới ngày cánh chung càng hoàn hảo hơn nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 16,12-13).
Là người Công giáo, ai cũng phải xác tín rằng: Chúa chỉ mạc khải và trao quyền công bố Lời Chúa cho Hội Thánh Công giáo Ngài lập mà thôi ! (x Mt 11,25-26; 13,11; 16,13-19; Lc 10,16; 22,31-32; Ga 18,19-21; Gl 1,8; Cv 10,10t). Mà Hội Thánh đã thể hiện quyền giáo huấn Chúa đã trao, cụ thể Hội Thánh đã chọn các Bài đọc một cách chủ ý có liên quan để hiểu rõ cùng với Tin Mừng. Nhưng hầu hết giáo dân chỉ được nghe cắt nghĩa một câu trong Tin Mừng là may mắn lắm, còn các Bài đọc kia không hề cho biết tại sao Hội Thánh chọn để đọc? Nhiều khi bài giảng rất đạo đức, nhưng chẳng liên quan gì đến các Bài đọc đã công bố, thì đó chỉ là lời khuyên răn, không phải là Lời Chúa do Hội Thánh công bố ngày hôm đó!
Tôi đưa một thí dụ: Chủ nhà mời tôi đến ăn tái nhúng, chắc chắn trên bàn bày ra bốn món chính:
Thịt. Rau. Bánh tráng. Nước mắm.
Thế mà người phục vụ bàn ăn chỉ cho tôi dùng một trong bốn món trên. Hỏi chủ tiệc và người dự tiệc có bằng lòng không?
Vậy trong bàn tiệc Lời Chúa của Phụng vụ, lễ Trọng hoặc lễ Chúa nhật, Hội Thánh cũng dọn ra “bốn món” để dân Chúa dùng:
- Bài đọc I.
- Bài Đáp ca. - Bài đọc II. - Bài Tin Mừng.
Người phục vụ bàn tiệc chỉ cho dân dùng một trong bốn Bài đọc của Thánh lễ, nhưng chẳng ai bực tức cả! Mà còn cho đó là tốt, thì thật là không thể hiểu nổi!? Trong khi đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II về Việc Giáo Dục Nuôi Dưỡng Dân bằng Lời Chúa rất ư là quan trọng, như Hội Thánh đã dạy.
“Trong việc cử hành Phụng vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng, Hội Thánh đã trích từ Thánh Kinh những Bài đọc, những Bài để dẫn giải trong Bài giảng, cũng như những Thánh Vịnh để hát… Vì vậy, để xúc tiến việc canh tân, và phát triển thích ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động” (Hiến Chế Phụng Vụ số 24).
“Phải cổ võ việc suy tôn Lời Chúa vào những ngày áp lễ Trọng, nhất là trong các mùa Vọng, mùa Chay, những Chúa nhật” (Hiến Chế Phụng vụ số 35).
“Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin, và các quy tắc cho đời sống Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm Phụng vụ, và rất đáng được coi như một phần chính của Phụng vụ… nên không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng” (Hiến Chế Phụng Vụ số 52).
“Phải luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa Ki-tô, nhất là trong Phụng vụ Thánh” (Hiến Chế Mạc Khải số 21).
“Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Ki-tô hữu hơn nữa” (Hiến Chế Mạc Khải số 22).
“Các giáo sĩ, cả giáo lý viên phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi… để học biết Thánh Kinh “khoa học siêu việt của Đức Giê-su Ki-tô”. Vì ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô” (Hiến Chế Mạc Khải số 25).
“Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh mục … nhờ rao giảng Lời Chúa làm cho dân Chúa ngày càng đông thêm… Do đó, các Linh mục mắc nợ mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm. Phận sự của các ngài không phải là giảng sự thông thái của chính mình, mà phải xác tín như thánh Phao-lô: “Tôi giảng chẳng cần dựa vào lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Lời Chúa” (1Cr 2,4). Vì giảng Lời Chúa là khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh” (x Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục số 4 của Công Đồng Vat.II).
Thánh Tông Đồ sau khi đã tận lực rao giảng Lời, ông hân hoan nói với giáo đoàn: “Tôi hoàn toàn trong sạch về máu mọi người, vì tôi đã không e ngại mà giấu diếm đi, để không loan báo cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv 20, 26-27 – Bản dịch NTT).
Thánh Phao-lô quyết: “Tôi không nhúng tay vào việc đổ máu ai, tôi hoàn toàn trong sạch về máu mọi người”, không phải ông chối tội trước khi trở lại Công giáo, ông đã ôm áo động viên mọi người ném đá ông Stê-pha-nô cho chết sớm ! (x Cv 7,58), rồi sau đó ông còn xông vào các nhà Công giáo bắt được ai theo đạo Giê-su là ông xiềng xích, trói chặt họ vào ngục! (x Cv 8,1-3) Vì lúc đó ông là kẻ mù quáng ngu xuẩn, ông có giết thân xác người ta, thì hồn người ấy lại bay ngay về Trời làm thánh; còn bây giờ ông đã được Chúa Giê-su chộp lấy (x Pl 3,12), Ngài đã mở mắt cho ông nhận ra chân lý (x Cv 9,7-18). Mà ông lại giấu Lời Chúa không giảng cho dân, như ông bắt chước nhiều giáo sĩ hôm nay chỉ giảng một phần tư Bài trong Phụng vụ, giấu đi ba Bài, thì ông đã giết cả hồn lẫn xác giáo dân mà quăng người ta xuống hỏa ngục !
Bởi vậy, thánh Phao-lô nói: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm điều đó thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1Cr 9,16) Và “nếu tôi luôn luôn làm hài lòng người đời, tôi không còn là tôi tớ của Chúa nữa!” (Gl 1,10) Làm hài lòng người đời, cụ thể nhất là giảng càng vắn càng tốt, không giảng thì tốt nhất, lễ càng mau dân càng đông!
Khi Chúa Giê-su hóa bánh cá nhiều nuôi dân, là dấu Ngài lập Bí tích Thánh Thể, Ngài không dùng quyền toàn năng của Ngài để nuôi dân, mà Ngài lại muốn các Tông Đồ cộng tác, Ngài nói: “Anh em hãy cho dân ăn” (Mt 14,16b). Như thế, mầu nhiệm Thánh Thể không phải chỉ duy Chúa Giê-su nuôi dân, mà Chúa còn mời kẻ tin Ngài cùng cộng tác với Ngài cho dân ăn. Hỏi trong Thánh lễ, chủ tế lấy gì cho dân ăn nếu không phải là đã vất vả dọn bài giảng để trình bày đúng nhiệm vụ Giáo Hội giao (x Hiến Chế Phụng Vụ số 52) ? Nếu chủ tế chỉ cho dân rước lễ, thì đã cho dân “Chúa Giê-su cà thọt”, vì thiếu “bánh” (bài giảng) phải cộng tác với Chúa để nuôi dân, như thế Chúa Giê-su đã cụt mất một phần Thân Thể của Ngài!
Năm nay 19/06/2009 – 19/06/2010 Hội Thánh mời gọi mọi người cầu nguyện riêng cho hàng giáo sĩ. Chúng ta hãy cùng hiệp nhất cầu nguyện cho các ngài khởi đi từ chức Giám mục, hãy có tâm hồn giảng Lời như thánh Phao-lô, để xây thành công tháp Ba-ben mới, vì nay tỷ lệ giáo dân trên thế giới suy giảm cách trầm trọng, tưởng đó là do dân Chúa trên thế giới không nói chung một ngôn ngữ mà Hội Thánh đã chọn! Chỉ ngày nào dân Chúa khắp nơi trên thế giới hiểu và nói như các Bài đọc Phụng vụ Hội Thánh đã chọn (lễ Trọng, Chúa nhật: bốn Bài; ngày thường: ba Bài) . Tháp Ba-ben mới lại được tiếp tục xây chạm tới Trời: mọi người lên Thiên đàng ! (x St 11)
Mục tử nào không giống Thầy Giê-su, hay không giống Tông Đồ Phao-lô, thì Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a nguyền rủa họ: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác ! Các ngươi đã xua đuổi chiên và chẳng lưu tâm đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi!” (Gr 23,1-2: Bài đọc I).
Ngôn sứ Ma-la-ki còn lên án gắt gao hơn: “Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi. Ta sẽ chặt cánh tay các ngươi, và vãi phân lên mặt các ngươi” (Mal 2,1-3).
Lạy Chúa, “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi – Ngài lên tiếng dạy nhiều điều – nên tôi chẳng thiếu thốn gì… Ngài dẫn tôi đi trên đường ngay nẻo chính …Ngài dọn sẵn cho tôi bữa tiệc ngay trước mặt quân thù … lòng nhân hậu và tình thương của Chúa ấp ủ tôi trong suốt cả đời, trong đền thờ của Ngài” (Tv 22: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Chúa Giê-su thấy đoàn lũ dân chúng tuốn đến với Ngài, dù Ngài và các Tông Đồ đã phục vụ họ vất vả không còn giờ nghỉ ngơi ăn uống, thế mà Chúa Giê-su lại ra đón tiếp họ cách ân cần, rồi Ngài lên tiếng giảng dạy nhiều điều cho họ (x Mc 6,30-34). Lm Đinh Quang Thịnh
Hệ quả của một đàn chiên không người chăn, “rắn mất đầu” là tình trạng khủng hỏang, nô lệ cho những lạc thuyết, làm mồi ngon cho những xu hướng xấu và tệ nạn như:
Mất phương hướng, dễ lầm lạc. Sợ hãi, kinh hòang, thiếu thốn Thiếu sự chăm sóc, yêu thương. Bị đe dọa bởi nanh vuốt của sói dữ, kẻ thù.
Không được chăn dắt, điều đó cũng đồng nghĩa với việc “không được giáo dục” và trở thành mồi ngon cho những thù địch. Ma quỷ, thế gian, xác thịt luôn là những kẻ thù nhạy bén, chắc chắn sẽ không buông tha đàn chiên và chúng sẽ tìm mọi cách để xâu xé, hãm hại và là mồi ngon cho những cạm bẫy rình chực. Và “Chúa chạnh lòng thương xót họ”Chúa hiểu rõ tình trạng khốn khổ của đàn chiên “không có chủ chăn”.
B. Đàn chiên có chủ chăn:
Chúa chính là chủ đàn chiên. Ngài chính là người chủ chăn đầy yêu thương, đầy trách nhiệm và đầy sức mạnh sẽ chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và làm cho đàn chiên ngày càng phát triển.
Được chăm sóc, được nuôi dưỡngbằng chính Thịt và Máu Chúa, đàn chiên được thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Được bảo vệ: Chúa chính là thành lũy chở che trong mọi nơi mọi lúc, là chỗ dựa an tòan trong những lúc nguy nan hay mờ tối.
Được tồn tại và phát triển: Ngài dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, gần bên suối mát để chiên được no thỏa uống tận nguồn suối nước trường sinh.
Mỗi người chúng ta được mời gọi để gia nhập vào đàn chiên của Chúa qua bí tích rửa tội. Chúng ta được trở thành những người con chính thức của Chúa và Ngài chính là Cha, là chủ chăn và là Chúa của chúng ta. Được thuộc về Chúa, được sống trong sự chăm sóc và yêu thương của Chúa, chúng ta còn vinh phúc được chia sẻ sự sống đời đời của Ngài.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa là mục tử tốt lành và nhân hậu. Tình thương Chúa hằng luôn quan tâm, săn sóc chúng con trên mọi nẻo đường. Xin dạy chúng con luôn biết lắng nghe và sống Lời Chúa, để luôn đi trong tình thương và sự quan phòng yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con mãi là những con chiên ngoan trong đàn của Chúa, để được tồn tại trong Chúa. Amen.
Người Việt Nam với truyền thống hiếu học, người thầy bao giờ cũng được tôn trọng, vì vậy: TN 16-B66
Người Việt Nam với truyền thống hiếu học, người thầy bao giờ cũng được tôn trọng, vì vậy mà chúng ta thường nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” hay “tôn sư trọng đạo”. Trong thứ tự ưu tiên, người ta đặt để vị trí quan trọng cho người thầy:”Quân Sư Phụ”. Vì vậy, những người thầy bao giờ cũng tận tình dạy dỗ và mong những học trò trở thành những người có đủ: Tài-Đức, phục vụ cho đời. Cảm nhận này cũng có thể thấy trong tâm trạng của người thầy vĩ đại nhất là Đức Giêsu Kitô.
Sau một thời gian chuẩn bị, các môn đệ được sai đi thực tập công việc Tông Đồ. Có thể nói đây là một giai đọan mới trong hành trình rao giảng Tin Mừng của các Ngài. Thành công hay thất bại? Người ta đón nhận ơn cứu độ hay thờ ơ? Tất cả như là những nỗi niềm sâu kín mà hôm nay khi về bên Thầy Giêsu họ phấn chấn và òa vỡ trong những nụ cười và nước mắt. Thánh Marcô ghi nhận rằng:”Các Tông Đồ tụ họp lại bên Đức Giêsu, và tin lại cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy”(Mc 6,30). Đối với những người khác, khi có được những sự thành công ở đời, họ thường khao nhau một chầu nhậu để tưởng thưởng. Còn Chúa Giêsu, trước niềm vui dạt dào như sóng nghìn trùng vỗ, của các học trò thân yêu, Ngài dạy họ:”Cả các ngươi nữa cũng hãy đi riêng ra, vào chỗ nào hiu quạnh, mà nghỉ ngơi đôi chút”(Mc 6, 31).
Cũng trong một hòan cảnh tương tự như thế, trong khi các môn đệ như có vẻ tự hào về những việc mà họ làm được: như trừ quỷ, làm một vài phép lạ…thì Chúa Giêsu, Ngài tìm vào nơi hoang vắng để cầu nguyện:”Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, mà lại mặc khải cho những người bé mọn”( Mt 11,25). Đối với Đức Giêsu, thành công trước mặt thế gian chưa chắc gì là mua được hạnh phúc Nước Trời. Điều quan trọng là tìm được thánh ý của Chúa và đem ra thi hành trong đời sống của mình. Muốn thi hành đúng theo ý Chúa thì cần tâm sự với Chúa trong những nơi thanh vắng. Để tìm gặp Ngài, như đám đông dân chúng đi theo Chúa, họ đón Chúa mỗi lần Ngài rời đi nơi khác. Trước sự nhiệt thành của dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương xót họ, vì họ bơ vơ không người chăn dắt. Ở nơi Chúa Giêsu, một sự hòa hợp rất rõ ràng giữa đời sống tự nhiên và đời sống ân sủng. Giữa những bận rộn và vất vả, của công việc tiếp đón khách hành hương, Chúa Giêsu vẫn luôn có những giờ cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Những giờ Ngài trầm mình trong nguồn suối thánh ân mà Chúa Thánh Linh dẫn đưa Ngài.
Mỗi người trong cuộc đời nhân thế, ai cũng có những công việc, những bận rộn vì kế mưu sinh. Lắm lúc chúng ta chọn ưu tiên cho những họat động mang hình thức bên ngòai, còn đời sống tâm linh lắm khi bị xem nhẹ, có khi bị quên lãng. Thành công trong công việc, chúc mừng nhau trong những lúc tọai nguyện cũng xin đừng quên Đấng ban cho ta có được tất cả không ai khác ngòai người Cha trên trời đầy quan phòng và yêu thương. Mỗi ngày dù thời khóa biểu đã kín chỗ thì xin đừng quên dành cho Đức Kitô một chỗ, dù nhỏ nhoi trong hai mươi bốn giờ trôi qua.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi 5000 người, là phép lạ duy nhất được cả Bốn Tin mừng thuật: TN 16-B67
Phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi 5000 người, là phép lạ duy nhất được cả Bốn Tin mừng thuật lại. Thánh Máccô cũng thuật lại phép lạ này hai lần. Tin mừng hôm nay là phần đầu của trình thuật phép lạ này.
Câu chuyện diễn ra tại "một nơi hoang vắng", chứ không phải trong một thành phố ồn ào náo nhiệt. Dường như bối cảnh thanh vắng, lặng tĩnh, là bối cảnh dễ dàng để Thiên Chúa hành động. Trong Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu, vị Thiên Chúa Cứu độ đã hành động để "cứu đói", nói khác, để giải quyết cơn đói tức thời. Hẳn là một người đang sắp chết khát cần một chút nước hơn là một thỏi vàng sáng chói. Như thế, Chúa Giêsu cứu giúp con người cách cụ thể và đúng lúc.
Phải chăng chúng ta cần nhận ra ơn cứu độ trong chiều kích cụ thể, thực tế, đang diễn ra trong cuộc đời này; Ơn Cứu độ của Thiên Chúa phải rất thực và "dính dáng" đến những vấn đề quen thuộc hàng ngày nữa; tức là đem lại bình an, hạnh phúc ngay lúc này, tại đây, cho con người.
Ðể nhận ra khía cạnh cứu độ này, cần phải tìm một nơi thanh vắng, an tĩnh của tâm hồn mình, của cõi lòng mình. Bởi lẽ, với một cái nhìn đức Tin sâu sắc, chúng ta mới nhận ra một Tấm lòng đang yêu thương mình, một Ý định đang cứu độ mình. Hẳn là Thiên Chúa vẫn đang "động lòng thương" cuộc đời rách nát của mỗi người chúng ta ! Hẳn là tấm lòng Thiên Chúa vẫn đang đi tìm tấm lòng của con người. Ðiều cần thiết để các tấm lòng gặp nhau được là "trong nơi thanh vắng", thoát khỏi những vọng động của "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến; thoát khỏi những phiền toái, lo âu, sợ hãi của cuộc đời.
Ðể được như thế, cần phải xác tín có một vị Mục tử nhân lành đang "đứng sừng sửng" trong cõi lòng ta, hết ngày này qua tháng khác. Người đó vẫn hiện diện để khích lệ và nâng đỡ ta.
Lạy Chúa Giêsu, Cuộc sống của chúng con đang bị vây chặt vì biết bao cơn đói, đói ơn gọi, đói nhà cửa, đói việc làm, đói bình an… Nhưng trong tấm bánh nhỏ này, Chúa muốn ban cho con tất cả, vì Chúa đã ban cho con chính Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được vững tin nơi ơn cứu độ của Chúa.
Các nhà lãnh đạo Trung Đông đang bù đầu tìm một giải pháp hòa bình cho miền Đất Hứa. Trên: TN 16-B68
Các nhà lãnh đạo Trung Ðông đang bù đầu tìm một giải pháp hòa bình cho miền Ðất Hứa. Trên miền đất đầy xáo trộn đó, Con Thiên Chúa đã đến thực hiện giấc mộng hòa giải và bình an cho muôn dân. Người nổi bật như một lãnh tụ thật sự. Niềm mong đợi của muôn dân đã không uổng. Nhìn đến từng đoàn người tấp nập tuốn đến, Ðức Giêsu đã làm tất cả những gì để mở ra một hướng sống cho con người.
MỘT HƯỚNG SỐNG
Thánh Marcô viết: "Ðức Giêsu bắt đầu dậy dỗ dân chúng nhiều điều" (Mc 6:34). Không biết Người đã dậy dỗ những gì ? Nhưng chắc chắn Người phải dậy dỗ điều Người đang quan tâm và dân chúng đang mong đợi. Ðiều Người đang quan tâm là "họ như bầy chiên không người chăn dắt" (Mc 6:34). Còn ai xứng đáng là người chăn chiên như Người ? Chính Người đã tự xưng: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành" (Ga 10: 11,14). Người Mục Tử chân thật phải vạch được một hướng sống cho đám đông đáng thương đó.
Hướng sống, đó là nội dung những lời dạy dỗ hôm đó. Lời dậy dỗ đó không thể thành hình từ những ồn ào của cuộc sống. Cũng không thể phát xuất từ một tâm hồn giá băng. Nhưng trong thinh lặng và với một tâm hồn vô cùng nhậy cảm trước những nhu cầu lớn lao của quần chúng, Ðức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, Người đã nhìn thấy nhu cầu sâu xa và lớn lao nhất của kiếp người. Không phải cơm áo. Cũng chẳng phải an sinh xã hội. Nhưng chính là TÌNH YÊU. Vì "THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU" (1 Ga 4:8). Tình yêu sẽ là câu trả lời cuối cùng cho mọi nhu cầu con người. Tình yêu đưa con người về nguồn sống là Thiên Chúa. Tình yêu cũng là máu huyết nuôi dưỡng và gắn bó Ba Ngôi trong một mầu nhiệm duy nhất. Tình yêu quyết định thân phận con người và nhân loại. Không một thực tại nào vừa đẹp vừa mạnh bằng tình yêu. Mạc khải về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu tóm tắt tất cả chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói tất cả những điều Ðức Giêsu dạy dỗ dân chúng hôm đó xoay quanh đề tài tình yêu.
Quả thật, "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã hiến ban Con Một"(Ga 3: 16). Nhờ tình yêu Thiên Chúa, thế gian đã tìm được con đường, sự thật và sự sống là Ðức Giêsu Kitô. Con đường ấy sẽ dẫn về Thiên Chúa và anh em. Sự thật ấy sẽ giải thoát khỏi mọi nô lệ, gông cùm của tội lỗi. Sự sống ấy chan hòa niềm vui và vô cùng sung mãn hồng ân Thiên Chúa. Tất cả đều là những nét tuyệt vời của một thủ lãnh siêu việt, đúng như lời Chúa phán: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng" (Gr 23:4). Như vậy Chúa Giêsu đến đúng lúc để thực hiện lời tiên báo.
Người mục tử thực sự phải có một trái tim nồng nàn và cái nhìn xuyên suốt. "Ðức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương" (Mc 6:34). Trái tim Người không thể nghỉ yên bao lâu đám đông còn chìm trong cảnh thương tâm vì lầm lạc, nô lệ, tội lỗi. Người biết rõ tất cả chỉ vì thiếu một khuôn mặt lãnh đạo, nghĩa là không có ai đủ khả năng vạch ra một đường hướng mới cho dân tộc và nhân loại. Người biết rất rõ nhu cầu đám đông, nên Người càng muốn hi sinh tất cả cho quần chúng. Chính Người đã nói: "Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10:14-15). Từ khi Chúa Giêsu xuất hiện, bầy chiên thực sự đã có người chăn dắt, không còn lo lạc đàn và bị lâm nguy vì sói dữ nữa. Tất cả nhờ sự hi sinh lớn lao của người chủ chiên là Ðức Giêsu.
Muốn trở thành chủ chiên như Ðức Giêsu, các Tông đồ cũng phải có một tâm hồn và cái nhìn như Ðức Giêsu. Nhưng nếu thực sự muốn thế, các ông phải biết lánh xa quần chúng. Thật là diệu kỳ. Người lãnh đạo ở một vị trí vừa gần vừa xa quần chúng mới đạt được mục đích lớn lao. Quá lánh xa không thể hiểu quần chúng. Quá gần không thể thấy được vấn đề vì những ồn ào đám đông. Bởi thế, trong khi các ông hí hửng báo cáo "cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy", thì "Người bảo các ông: 'Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút'" (Mc 6:30-31). Các ông hiểu ý nên "Thày trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng" (Mc 6:32). Thầy trò đều muốn có những giây phút thoải mái nghỉ ngơi và bồi dưỡng trước khi tiếp tục công tác. Chắc chắn trong nơi hoang vắng đó, Thày trò có thể cầu nguyện dễ dàng. Các Tông đồ cũng có thể đón nghe những mạc khải mới. Nhờ đó tâm hồn và trí óc có thể sáng suốt hơn, phục vụ đắc lực hơn.
KHUÔN MẶT DỄ THƯƠNG
Nhưng đám đông vẫn không tha. "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước các ngài" (Mc 6:33). Ðó là một hình ảnh sống động nói lên sự đói khát tinh thần của quần chúng. Họ mơ ước một vị Thiên Sai đến lãnh đạo dân tộc. Họ bị thu hút mãnh liệt vì khuôn mặt quá sức hấp dẫn của Ðức Giêsu, bất kể những nhu cầu nghỉ ngơi của Thày trò. Hai hình ảnh trái ngược nhau. Dân chúng càng ồn ào náo nức bao nhiêu, Thày trò càng muốn tìm đến nơi hoang vắng bấy nhiêu. Nhưng dân chúng đã tràn ngập cả nơi hoang vắng, phá vỡ sự yên tĩnh cần thiết của người lãnh đạo. Biết dân chúng làm thế là phá hỏng cả chương trình của Thày trò, nhưng Ðức Giêsu lại thấy được thái độ dễ thương của quần chúng. Ðó chỉ là một cách diễn tả lòng ái mộ tột độ. Một người lãnh đạo phải có cái nhìn bao dung và đi sâu vào lòng người. Có thế, Ðức Giêsu mới có đủ khả năng 'liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Như vậy, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người" (Ep 2:15). Ðây là nét nổi bật nhất của vị lãnh đạo. Lãnh đạo chỉ là khả năng qui tụ con người. Mất sức qui tụ, lãnh đạo sẽ hoàn toàn thất bại.
Không những có đủ khả năng lãnh đạo một cách tuyệt vời, Ðức Giêsu còn chứng tỏ khả năng đó một cách anh hùng khi đổ máu thực hiện việc hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Thực vậy, "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an," (Ep 2:16-17) vì "chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2:14). Như vậy, quyền lãnh đạo đã đạt tới cao điểm là cuộc hòa giải và sự bình an cho muôn dân. Còn ai xứng đáng lãnh đạo muôn dân hơn Ðức Giêsu ?
Cuộc hòa giải và sự bình an đó không dựa trên kiến thức hay năng lực vật chất. Kiến thức chỉ làm cho con người thêm rối loạn và kiêu ngạo. Không thời đại nào con người giầu kiến thức nhưng cũng có quá nhiều bế tắc như hôm nay. Chỉ có một nguồn khai thông duy nhất cho mọi bế tắc, đó là "nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha" (Ep 2:18). Khi đã thông hiệp với Chúa Cha, con người có thể vượt qua những trở ngại dễ dàng, vì Chúa Cha là nguồn mạch mọi khôn ngoan. Như thế, quyền lãnh đạo của Ðức Giêsu được củng cố trên một sức mạnh lớn lao là Thần Khí và đưa muôn dân về một cứu cánh duy nhất là Chúa Cha. Quyền lãnh đạo đã đạt tới một chiều kích vừa tự nhiên vừa siêu nhiên. Chúa có thấy được chiều kích lớn lao đó trên khuôn mặt những nhà lãnh đạo chúng ta không ?
Có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay theo hai đề tài: tách biệt và đám đông. Ðức Giê-su muốn dẫn TN 16-B69
Có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay theo hai đề tài: tách biệt và đám đông. Ðức Giê-su muốn dẫn các môn đệ đi riêng ra một nơi, còn đám đông lúc nào cũng có mặt. Theo thánh Mác-cô, hai đề tài này là những chiều kích của Nước Trời.
Tách biệt
Ðoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền sau bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Các môn đệ đã được Ðức Giê-su sai đi truyền giáo và bây giờ các ông trở về thuật lại những công việc đã làm. Các ông đã được mời gọi đến với Ðức Giê-su, và lời mời gọi này chỉ có được ý nghĩa vì cuộc ra đi liền sau đó. Hôm nay, sau chuyến đi truyền giáo trở về, các ông được mời gặp gỡ với Ðức Giê-su. Người nói với các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng." Từ ngữ này vẫn thường được sử dụng trong những trình thuật kể lại chuyện Ðức Giê-su tách riêng ra một nơi để cầu nguyện. Và theo Kinh Thánh, nơi thanh vắng hay sa mạc là nơi đặc biệt để nghe lời Thiên Chúa.
Sự tách biệt này là điều cần phải có sau thời gian hoạt động, là một nhịp thở thứ hai trước khi lại lên đường. Khoảng cách cần thiết này, thay vì là thời gian để phán xét các hoạt động, lại là lúc để các môn đệ tìm lại ý nghĩa xem ai đã cắt cử các ông đi, đồng thời có thể là lúc để tái khám phá về Chúa.
Quả vậy, sau một thời gian hoạt động, các môn đệ lại trở về sống thân mật với Thầy của mình. Ở bên Người, các ông mới hiểu được ý nghĩa cuộc sống, cũng như tìm được lý do làm cho lời giảng của mình có sức thuyết phục. Các ông trở về sống với Ðức Giê-su, không phải để nhằm thoả mãn tình cảm của mình, nhưng là để cảm nghiệm sâu xa tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Người, và cũng hiểu rằng sứ vụ truyền giáo vẫn chưa trọn vẹn. Thời gian này là thời gian để tái khám phá. Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự khám phá này qua một câu có vẻ như trái ngược nhau: "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu các ngài."
Ðám đông
Thế nhưng đám đông dân chúng đã không để cho Ðức Giê-su và các môn đệ tránh xa họ. Ngay từ những ngày đầu tiên Ðức Giê-su mới rao giảng, họ đã có thiện cảm với Người. Dù Người có trốn vào nơi thanh vắng, họ cũng tuốn đến, có khi không để cho Ðức Giê-su và các môn đệ dùng bữa (2,2.13; 3,7-9 ...). Họ là những người chờ mong Ðấng Mê-si-a, và khi gặp được Ðức Giê-su, họ hy vọng Người sẽ đáp ứng điều họ trông mong. Vì thế, Ðức Giê-su có mặt ở đâu, họ cũng có mặt ở đó, có khi còn đến nơi trước Ðức Giê-su và các môn đệ. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô đã mô tả cách ngộ nghĩnh: đám đông đi bộ vòng quanh hồ đã đến nơi nhanh hơn Ðức Giê-su và các môn đệ đi bằng thuyền. Họ là sự trông đợi có mặt trước khi người phải xuất hiện đến.
Do lòng trông đợi, đám đông này sẽ làm thành Vương quốc. Các con chiên đầy náo nức này sẽ trở thành một đoàn chiên khi nhận biết Vị Mục Tử. Ðám đông này đã lên đường, đã ra khỏi nhà của mình, đã rời xa thành phố, nên họ có thể gặp được Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.
Ðối với họ, lúc này là thời gian yên tĩnh để lắng nghe Lời Chúa, lúc này là thời gian nghỉ ngơi, ở riêng một chỗ.
Người dạy dỗ họ nhiều điều
Sau bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện Ðức Giê-su hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Ðấng Mê-si-a có thể dọn bàn ăn ngay tại nơi hoang vắng; Người cũng chẳng cần đợi đến mùa gặt: Ðấng Mê-si-a chính là người gieo hạt, người trồng nho, người chăn chiên, nói chung là người làm vườn trong vườn Ê-đen mới. Như thế, có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay như một lời tiên báo long trọng về bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác, về Bánh Hằng Sống.
Ðám đông đi theo Ðức Giê-su đang cần bánh, họ bị cơn đói hành hạ. Ðám đông không có tư cách của một dân. Nó đồng nghĩa với đám người hỗn độn, không trật tự, một thực tại đầy xảo trá và nguy hiểm. Hôm nay đám đông ấy vây quanh Ðức Giê-su, lắng nghe lời Người giảng dạy và được nuôi dưỡng, nhưng đến chiều thứ Năm Tuần Thánh, cũng đám đông này khạc nhỗ vào Ðức Giê-su và kêu la đòi đóng đinh Người vào thập giá !
Ðức Giê-su thương đám đông ấy. Thánh Mác-cô cho thấy mối xúc động của Ðức Giê-su có lý do rất sâu xa: đám đông chỉ là một tập hợp, không phải là một dân; đám đông đang lầm lạc vì không biết đường đi.
Ðám đông ấy là những con chiên không có người chăn dắt; họ lang thang trong những cánh đồng đầy chết chóc. Họ thiếu thốn mọi sự. Thiếu của ăn, nhưng điều quan trọng hơn cả là thiếu một nguyên lý thống nhất làm cho họ có thể quy tụ và hiệp thông với nhau.
Ðấng Mê-si-a là người đáp ứng những đòi hỏi này. Người sẽ cho họ của ăn, cho họ chỗ nghỉ "trên đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành". Nhưng điều quan trọng và có ý nghĩa nhất là Người làm cho họ trở thành một dân tộc, và Người sẽ là Mục Tử săn sóc họ.
Thánh Mác-cô bỏ lửng câu chuyện sau khi thuật lại thái độ ân cần của Ðức Giê-su với dân chúng: "Ðức Giê-su chạnh lòng thương ... và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều." Ðức Giê-su nói gì với dân chúng ?
Theo bối cảnh của câu chuyện, có lẽ Ðức Giê-su đã nói với họ về nỗi thống khỗ sâu xa của con người: họ chưa được quy tụ lại với nhau để sống với nhau như bạn hữu, để trở thành một dân trong đó mọi người coi nhau như anh em; nói chung lại, để thành một vương quốc theo nghĩa Kinh Thánh.
Có lẽ Ðức Giê-su cũng gợi lên cho đám đông ấy biết là Người được sai đến, không phải chỉ để làm Mục Tử coi sóc nhà Ít-ra-en, nhưng còn coi sóc toàn thể nhân loại. Người được sai đến với nhiệm vụ thực hiện điều Thiên Chúa vẫn ước mong. Tất cả hãy nên một theo hình ảnh của Ta, hãy tiến sâu hơn vào trong mối tương giao chia sẻ và hiệp thông.
Ðó cũng là ơn gọi của Hội Thánh, của mỗi người: làm cho thế giới đang bị chia rẽ trở thành một dân tộc anh em.
Lời giảng chính là sự sống
"Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
"Ðức Giê-su không ngừng dạy dỗ chúng ta. Khi người ta muốn tôn Người làm vua, đặt Người xa khỏi chúng ta, dành cho Người uy quyền và vinh quang như chúng ta quan niệm, Người đã từ chối ... và muốn dạy bảo chúng ta. "Người dạy bảo gì ?
"Người không nói về kiến thức, về những điều phải tin, về những giáo lý trong sách vở. Nhưng Người dạy bảo chúng ta về sự sống, sự sống đích thực. "Sự sống đích thực là gì ?
"Không ai có thể trả lời đầy đủ câu hỏi này, dù người ấy có hiểu nhiều biết rộng. Sự sống, Ðức Giê-su đã dạy chúng ta qua những rung động trong cuộc sống của Người, qua những lời luôn mới mẻ của Người, qua những lỗ hỗng Người không ngừng mở ra cho nhân loại. "Ðó là sự sống của Thiên Chúa, Ðấng mà Ðức Giê-su gọi là Cha với tất cả niềm thân ái. Ðức Giê-su đã tự nhận Người ngang hàng với Chúa Cha. Nhiều người sống cùng thời với Ðức Giê-su đã không thể chấp nhận những giáo huấn này của Ðức Giê-su." (theo G.Bessière)
Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận lời giảng của Ðức Giê-su, chúng ta có chấp nhận sự sống mà Ðức Giê-su muốn dạy bảo chúng ta ? Chúng ta có đáp ứng thái độ ân cần của con người ?
Vì Người yêu mến con người sống tự do, nên người ta bảo rằng Người chẳng nói gì.
Vì Người mang khuôn mặt nhân loại, nên người ta bảo rằng Người che giấu.
Vì Người quan tâm đến người nghèo, nên người ta bảo rằng Người đã chết.
Vì Người là một Thiên Chúa đầy từ tâm, nên người ta bảo rằng Người đang ngủ.
Vì Người không có mưu toan nên người ta bảo rằng Người chẳng có ích gì (theo P.Fertin)
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập ẪBản Tin SớmỮ. Nhân vật chính trong: TN 16-B70
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
***
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen!
Hôm nay, Chúa nhật XVI thường niên, bài Tìn Mừng (Mc 6, 30-34) có nội dung liên tục với bài Tin: TN 16-B71
Hôm nay, Chúa nhật XVI thường niên, bài Tìn Mừng (Mc 6, 30-34) có nội dung liên tục với bài Tin Mừng tuần trước (Mc 6, 7-13). Tuần trước, Chúa sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thực thi mệnh lệnh của Chúa, “các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Tuần này, sau thời gian thi hành sứ mạng trở về, các tông đồ rất phấn khởi vì đạt nhiều thành công rực rỡ. Những thành công ấy cũng rất lạ thường, nó vượt xa khả năng tự nhiên của các tông đồ: có thể trừ quỷ và chữa lành nhiều bệnh. Các tông đồ vui mừng tụ họp bên Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm, mọi điều các ông đã dạy”.
Một mặt đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các tông đồ, nhưng mặt khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Người nhẹ nhàng kéo các tông đồ rời khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Bởi Người biết, con đường trước mắt mà thầy trò phải dấn bước không phải là con đường bằng phẳng, sẽ không ít gập ghềnh. Đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách. Sứ mạng hôm nay dù thành công, nhưng chưa kết thúc, đúng hơn, chỉ mới mở ra. Đường còn dài đã vậy, sức lại chỉ có giới hạn. Vì thế, chưa cho phép mọi người có quyền ngủ vùi trong những thành công đầu đời tông đồ này. Thành công đầu đời chưa phải là tất cả của sự thành công.
Ngoài việc kéo các tông đồ ra khỏi cơn “say men chiến thắng”, lời động viên của Chúa: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, còn cho thấy sự quan sát rất thực tế của Chúa Giêsu. Chính lúc này đây, các học trò của Chúa cần phải được nghỉ ngơi dưỡng sức. Bởi họ đã lăn xả nhiều cho công việc. Sức lực thể lý của họ đã bị hao mòn vì đám đông, vì cảnh ồn ào, huyên náo. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, lúc này phải là một bầu không gian cô tịch, mới có thể giúp các tông đồ tỉnh táo kiểm chứng nội tâm của mình và bồi bổ dưỡng sức.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ THANH VẮNG
Thánh Kinh nhiều lần nhắc đến sự liên hệ cần thiết giữa nơi hoang vu, vắng vẻ liên quan tới ơn gọi, sứ mạng và đời sống của nhiều người. Chẳng hạn, Dân của Chúa sau khi được giải thoát khỏi cảnh nô lệ Aicập đã vào hoang địa để được thanh luyện lòng trung thành của mình suốt bốn mươi năm. Ông Môisen và ông Êlia đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 3, 1; 1V 17,3). Thánh Gioan Baotixita vào hoang địa để nhận lãnh ơn Chúa và thanh tẩy tâm hồn mình hoàn toàn hướng về Chúa trước khi rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối (Mt 3, 1tt). Chính Chúa Giêsu, khi bắt đầu sứ vụ công khai, khi tuyển chọn các tông đồ, khi bước vào cuộc tử nạn, và rất nhiều lần trong những năm công khai rao giảng Tin Mừng, đã vào nơi thanh vắng cầu nguyện…
1. Sự thanh vắng cần cho người đời
Cũng vậy, sự thanh vắng rất cần cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thế giới ta đang sống cùng, đang đồng hành với nó, cũng đồng nghĩa với việc ta đang ngụp lặn trong đại dương vô bờ của tiếng ồn. Bởi thế giới đang diễn ra không biết bao nhiêu tiếng ồn.
Ồn từ trong cuộc sống tinh thần đến ồn trong cuộc sống vật chất. Ồn từ nội tâm con người đến ồn trong mọi cách mà con người thể hiện. Ồn từ chợ búa đến ồn tận miền quê. Ồn từ trong những thinh lặng đến ồn trong từng tiếng nói, tiếng cười. Ồn trong những nếp nghĩ của người giàu có đến ồn trong sự chạy đôn, chạy đáo của người thiếu thốn. Ồn từ nét hồn nhiên, tinh nghịch của đám trẻ thơ đến ồn trong vô vàn những tất bậc của thế giới người lớn. Ồn trong niềm mừng vui của người hạnh phúc đến ồn trong đau khổ của người bất hạnh. Ồn trong tình yêu đến ồn trong sự thù hằn, ganh ghét nhau. Ồn trong những vỡ kịch công phu trên sân khấu đến ồn trong những màn kịch, dù chỉ là kịch câm, nhưng được dàn dựng hoàn hảo, đủ sức “đâm” lén đối thủ. Ồn trong cả cái mà người ta gọi là văn minh, văn hóa hay kém văn minh, văn hóa. Ồn trong mọi ngóc ngách, mọi khía cạnh, mọi giao tế, mọi nhịp sống…
Giữa một cánh rừng rậm của tiếng ồn như thế, những khoảng lặn trong cuộc đời của mỗi một người là điều hết sức quan trọng. Những khoảng lặng ấy rất cần để ta tự đối thoại với mình, tự nhận diện, khám phá chính mình trong từng hoàn cảnh, từng hướng đi của đời mình. Nếu ta sống mà lại thiếu những phút giây suy tư và lặng ngắm chính nội tâm, nhằm phản tĩnh, và kiểm tra chính mình, ta sẽ dễ đánh mất mình, dễ bị lôi cuốn vào những trào lưu, những nhộn nhịp, những thu hút giả tạo bên ngoài… cách thiếu suy nghĩ nền tảng, thiếu hẳng bóng dáng cá nhân mình…
Đành rằng cần phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân theo kiểu áp đặt, thiên kiến, lèo lái tha nhân, lèo lái hoàn cảnh theo ý riêng mình. Nhưng bóng dáng cá nhân, bao gồm tình yêu, sức sáng tạo, nét riêng làm nên sự phong phú… là điều không thể thiếu. Vì thế, nếu tự để mình vong thân, ta trở thành tội phạm, kẻ đã ăn cắp chính cuộc đời mình làm cho mình không còn là mình nữa. Biết sống thinh lặng và quay về với cõi lòng để tự nhận ra nơi mình cái gì đã tốt mà phát huy hơn, cái gì còn khuyết mà chỉnh đốn. Thinh lặng như thế, chính là sức mạnh đáng quý của một tinh thần cá nhân, để từ đó, sẽ ra đi và sống như mình là mình giữa một thế giới quá nghèo nàn về sự thinh lặng.
2. Sự thanh vắng cần cho đời Kitô hữu
Nếu những khoảng thời gian thanh vắng hoàn toàn là điều kiện cần cho đời sống con người, thì sự thanh vắng càng cần thiết hơn, càng quan trọng hơn cho đời người Kitô hữu.
Trong nghĩa vụ sống đức tin, nghĩa vụ thờ phượng Chúa, người Kitô hữu cần phải in vào tâm khảm mình lời của Chúa Giêsu: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” để luôn luôn tự nhắc nhở mình về những khoảng thinh lặng cần thiết. Những khoảng thinh lặng cần thiết đó, có thể là một chút thôi, có thể là năm phút, mưới phút, hay nhiều hơn tuỳ sự luyện tập dài lâu của bản thân.
Dù dài hay ngắn, chỉ một chút lặng lẽ, người tín hữu đã có thể lắng chìm trong Chúa, đã có thể đặt mình vào vòng tay của Chúa, đã có thể nhờ ánh sáng tình yêu của Chúa soi rọi mọi ngóc ngách của linh hồn, để nghe tiếng Chúa nói, để tự kiểm điểm mình, để bổ sung năng lực của lòng đạo đức có thể đã hao mòn vì những bon chen đời thường, nhờ đó người tín hữu tự thánh hóa mình và dễ dàng đón nhận ơn thánh hóa của Chúa.
Chúng ta hãy nhớ rằng, chỉ có sự thanh vắng thật sự mới có thể tạo được sự nhịp nhàng giữa nghĩa vụ tôn thờ Chúa, nghĩa vụ sống đức tin và những vất vả lao nhọc của đời thường nơi sự sống một người Kitô hữu. Bởi sự sống của người Kitô hữu là một hành trình liên tục đi từ sự hiện diện của con người vào sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi lại bước ra, đi từ sự hiện diện của Thiên Chúa vào sự hiện diện của con người. Có thể ví hai sự hiện diện này như sự nhịp nhàng của giấc ngủ và làm việc. Ta không thể làm việc được, trừ khi ta đã có thời gian nghỉ ngơi. Giấc ngủ sẽ hoàn trả lại cho ta một con người tỉnh táo, khỏe mạnh nhờ đó ta tiếp tục làm việc. Cũng vậy, không ai có thể sống đời Kitô hữu hoàn hảo, trừ khi người đó đã dành thời gian cầu nguyện và sống kết hợp với Chúa.
Bởi vậy, chúng ta hãy đi tìm Chúa như đám đông ngày xưa đã đi tìm Chúa. Mặc dù Chúa bảo các tông đồ “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Rồi tất cả cùng xuống thuyền vào nơi thanh vắng. Nhưng đám đông đã không để Chúa yên. Họ tìm đến Chúa. Chúa đáp lại lòng mong mỏi của họ. “Chúa chạnh lòng thương” họ, vì cảm nhận bằng một cái nhìn hết sức yêu thương, trìu mến: Họ bơ vơ “như bầy chiên không người chăn dắt”.
Ngày hôm nay, bắt chước đám đông đi tìm Chúa, ta bước vào cõi thinh lặng của lòng mình để gặp gỡ Chúa, để được Chúa yêu thương trìu mến. Ta phải gặp gỡ Người, vì chỉ có ở trong Người, ta mới có thể hiểu một cách thấu đáo ý nghĩa cuộc sống và tìm ra nơi cuộc sống ấy lẽ sống cho đời ta. Bởi đời người đâu chỉ có làm lụng, đâu chỉ có vui buồn, đâu chỉ có cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí…
Điều đáng buồn nhất, đau đớn nhất là những cái chết của những kẻ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Họ không hiểu được tại sao tôi phải sống? Sống để làm gì? tại sao phải đau khổ? Tại sao sống để rồi đi qua không biết bao nhiêu cái nhiêu khê của cuộc đời đến đích cuối cùng là sự chết phủ phàn đang chờ đợi?
Nói cách khác, sự nghèo đói, sự đau khổ chưa phải là động lực cuối cùng giục người ta liều mạng, tìm về cái chết cho bằng người ta chỉ sống trong cô quạnh vì dốt nát trước giá trị của sự sống. Họ chỉ thấy cuộc đời là phi lý, vô nghĩa, không đáng sống…
Chúa Kitô chính là Nguồn Sống duy nhất của đời người. Trong sự thanh vắng hoàn toàn của tâm hồn, tìm về bên Chúa, ta không chỉ nhận ra ý nghĩa của sự sống đời mình, mà còn múc lấy sức mạnh của sự sống đích thực từ Nguồn Sống quý giá này.
Nơi Nguồn Sống Kitô, ta biết rõ đích điểm của đời mình là chính Người. Người sẽ chỉ cho ta đường đi đến đích. Con đường đó là chính những hy sinh, chấp nhận của cõi đời này. Nơi Chúa Kitô, chính mẫu gương sống và Lời của Người sẽ soi rọi lên sự sống và lên cuộc đời ta. Bởi vậy, hãy để cho Chúa có cơ hội đi vào lòng ta bằng đời sống thanh vắng và cầu nguyện. Để như đám đông ngày xưa đi theo Chúa, một khi để Chúa ở lại nơi lòng mình, ta cũng sẽ được Chúa chỉ bảo cho ta như đã từng “giảng dạy họ nhiều điều”.
Lạy Chúa, đời nội tâm là chìa khóa của hạnh phúc, vì đời nội tâm mở cửa cho con được đi vào và đắm chìm trong hạnh phúc là chính Chúa. Xin cho con biết tìm những khoảng thời gian thanh vắng để được gặp Chúa, từ đó con sẽ gặp chính con người thật của con. Nhờ gặp Chúa và nhận diện chính mình, thì khi phải đối mặt cùng tiếng ồn của cuộc đời, cùng những sôi nổi của thành công, hoặc những ê chề của thất bại, con sẽ không đánh mất chính mình trong thế giới của tiếng ồn, nhưng có khả năng thánh hóa bản thân và thánh hóa chúng. Amen.
Thánh Ký Máccô ghi nhận: “Rời thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì động lòng: TN 16-B72
Thánh Ký Máccô ghi nhận: “Rời thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì động lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn, và Ngài dậy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:33).
Khác hẳn với thái độ của các Tông Đồ sau khi được Chúa trao quyền và sai đi. Trở về với thành quả gặt hái được hẳn là đã khấp khởi mừng, kể lể quên mệt nhọc, khiến Chúa Giêsu phải bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6:31).
Tại sao trong lúc các ông đang phấn khởi tường thuật về những thành quả của mình đã gặt hái được, mà Chúa Giêsu lại làm cho các ông cụt hứng? Chính Ngài đã chẳng sai các ông đi và truyền phải sinh hoa trái sao?! Nhẽ ra Chúa cũng phải vui mừng và chia sẻ với những kết quả các ông đã thu hoạch, rồi tìm đặt kế hoặch cho những bước kế tiếp; ngược lại, Ngài lại bảo các ông tìm chỗ yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Như vậy có phải là an phận, cầu nhàn không!
Làm sao Chúa lại không vui. Chính Ngài đã ban quyền hành cho các Tông Đồ và sai họ ra đi kia mà. Và làm sao Chúa không cảm thấy sung sướng khi thấy nhiều linh hồn nghe được lời Ngài và tìm đến với Ngài qua các ông.. Nhưng khi nghe Thánh Ký ghi lại, “Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì động lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn, và Ngài dậy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:33), thì ta mới thấy rằng Chúa Giêsu đã không lầm khi bảo các Tông Đồ cần nghỉ ngơi: “Các con hãy vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6:31).
NGHI NGƠI: TĨNH TÂM, TU CHỈNH
Nghỉ ngơi theo nghĩa của tu đức đem áp dụng vào trường hợp các Tông Đồ được nêu lên trong Tin Mừng hôm nay đồng nghĩa với “hồi tâm” hay “tu chỉnh”. Có nghĩa là các ông cần phải có giờ để suy nghĩ và kiểm điểm lại nội tâm của mình. Cần phải tu chỉnh lại lời ăn, tiếng nói, và tâm tư của mình cho phù hợp với những lời mình rao giảng, phù hợp với nếp sống, và sứ mạng của mình.
Không ai dám nghĩ rằng các ông đã lạm dụng quyền hành, hoặc đã không sống đúng với lời mình giảng dậy, nhưng lời Chúa sau đây cũng hé mở cho biết sự vui mừng của các ông về những thành quả đạt được không hẳn đã phản ảnh lối nhìn và lối sống của người tông đồ: “Các ngươi đừng vui mừng vì quỷ phải vâng lời các ngươi, nhưng là vì tên các ngươi đã được ghi trên trời” (Luca 10:20).
Chúa biết, những gì đang làm cho các ông say mê đến quên ăn, quên mệt nhọc chỉ là chiến thuật mà ma quỷ dùng để thử thách niềm tin, và ru ngủ sự trung thành của các ông thôi. Mừng sớm là mắc mưu của chúng. Điều này đã được chứng minh khi Ngài bị bắt, bị trao nộp, bị khổ hình và chết trên thập giá. Các Tông Đồ những người trung tín, sốt sắng nhất như Phêrô; lý sự và nghi ngờ như Tôma; sốt mến và thân thiết như Giacôbê, như Gioan cũng biến mất, cũng chạy trốn và còn chối Ngài như Phêrô nữa.
Như vậy, cái chiến thắng “đến quỷ cũng phải nghe lời” chưa phải là chiến thắng thật trong lãnh vực tâm linh. Nó không phải là điều Kitô hữu chúng ta tìm kiếm trong sinh hoạt tông đồ và trong đời sống đạo. Nhưng phải hiểu rằng, những gì mình nói, mình làm, và suy nghĩ phải phản ảnh và trung thực với niềm tin của chính mình. Bận bựu và bị choán ngợp bởi những vinh quang phù du ấy đến độ không có thời giờ để đi vào nội tâm mình, để mật thiết với Chúa là sai lầm, là thất bại, và là mắc mưu chước của ma quỷ.
NGHỈ NGƠI: CẦU NGUYỆN
Cái mâu thuẫn là giữa lúc các Tông Đồ đang nói về thành quả truyền giáo của mình, thì Thánh Ký lại ghi là Chúa Giêsu động lòng thương đám đông đến với Ngài, vì thấy họ lang thang như những con chiên không người chăn, và chính Ngài lại lên tiếng giảng dậy họ nhiều điều.
Tại sao các Tông Đồ sau chuyến truyền giáo đầu tiên vui mừng, hớn hở mà đám đông dân chúng vây quanh Chúa vẫn ở trong trạng thái “lang thang” như chiên không người chăn? Vẫn thiếu thốn cần phải được Chúa “giảng dậy nhiều điều”? Các Tông Đồ giảng dậy những gì? Quần chúng đang thiếu thốn gì? Các ông có hiểu những nhu cầu và đòi hỏi ấy không, hay các ông chỉ giảng những gì mình thích giảng, chỉ làm những gì mình thích làm, và chấp nhận những cực nhọc, vất vả vì danh vọng, và vì bị thu hút bởi quyền bính.
Tất cả những điều này, người Kitô hữu chúng ta cũng thường mắc phải khi làm việc, khi tham dự vào những hoạt động truyền giáo, những sinh hoạt tông đồ. Tìm mình, tìm danh vọng cho mình. Tìm địa vị cho mình. Và tìm được khen thưởng, ca ngợi. Nhiều khi ta vẫn tưởng những thứ đó đem lại lợi ích cho các linh hồn, đem lại lòng đạo đức và củng cố đức tin của chính mình, đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Nhưng rồi, tự bản chất, những hành động ấy chỉ qui về mình, về tự ái cá nhân, và về vinh dự riêng của chính mình. Các linh hồn được trao phó cho mình cũng vẫn lang thang như chiên không chủ chăn. Không được chỉ bảo, hướng dẫn. Vẫn đói khát lời chân lý. Vẫn phải đi tìm Chúa nơi này, nơi khác, vì không tìm đâu ra khuôn mặt của ngài.
NƠI THANH VẮNG VÀ SỰ AN TĨNH NỘI TÂM
“Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Nơi thanh vắng ấy là một nguyện đường nhỏ bé. Nơi thanh vắng ấy là một góc nhà. Nơi thanh vắng ấy là góc bếp, là phòng khách, là bàn ăn, là phòng ngủ. Nhất là góc kín của tâm hồn mình. Vì những nơi ấy là nơi mà cuộc sống người Kitô hữu hằng ngày phải giao tiếp, gặp gỡ, và đụng chạm với những “đám đông” công việc, bổn phận, và trách nhiệm. Chúng ta phải biến những nơi đó thành “NƠI THANH VẮNG TÂM LINH” để ở đó, chúng ta gặp Chúa, tâm sự với Ngài, kín múc từ nơi Ngài sức sống để đến lượt mình, nói lại, chỉ dẫn lại, và trao Chúa Giêsu cho mọi người đang ở quanh chúng ta hoặc đang tìm gặp chúng ta trong mọi môi trường sống của ơn gọi mỗi người.
Chúa Giêsu thấy dân chúng thì ..... Nội dung các bài đọc hôm nay đều đề cập đến vai trò mục tử TN 16-B73
“Chúa Giêsu thấy dân chúng thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn”. Nội dung các bài đọc hôm nay đều đề cập đến vai trò mục tử. Các mục tử mà ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc thứ nhất là những mục tử xấu. Vị Mục Tử mà thánh sử Máccô mô tả trong bài Tin Mừng là vị Mục Tử tốt, vì biết chạnh lòng trước nỗi bơ vơ của đàn chiên. Chúng ta cùng dừng lại đôi phút, nhìn ngắm cung cách của Vị Mục Tử nhân lành là Chúa Giêsu, quan sát thái độ của đám đông đi theo Ngài, hầu rút ra bài học áp dụng cho bản thân.
AddThis Sharing Buttons Share to FacebookShare to MessengerShare to Google+Share to Twitter
1. Nổ lực của đám đông và tấm lòng Mục Tử của Chúa Giêsu:
Khung cảnh của câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay xoay quanh vùng đất Galilê. Galilê là một xứ nhỏ, từ Bắc xuống Nam khoảng 80 km và từ Đông sang Tây khoảng 4 km mà thôi. Nhưng theo sử gia Josephus, trong vùng đất nhỏ bé này có tới 204 thị trấn và làng mạc, mỗi nơi trên dưới 15.000 dân. Con số rất lớn về mật độ dân số như vậy cho thấy rõ sự sầm uất nhộn nhịp của Galilê. Từ đó, chúng ta có thể suy ra rằng, hôm ấy, số người đi theo Chúa Giêsu quả là không nhỏ và công việc của Ngài bận rộn tới mức nào.
Sau một ngày tất bật với việc giảng dạy và cứu chữa, Chúa Giêsu chắc chắn rất mệt. Ngài muốn tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút nên đã bảo các tông đồ chèo thuyền qua bờ bên kia của Biển Hồ. Tuy nhiên, khi vừa đến nơi, Ngài đã nhìn thấy dân chúng đợi sẵn trên bờ. Thì ra, khi thấy Ngài và các tông đồ lên thuyền chèo đi, họ đã đoán biết. Họ liền đi vòng theo bờ hồ, vượt qua đoạn đường dài khoảng 16 km và đã đến nơi trước. Đoạn đường này không là gì đối với người đi xe gắn máy, nhưng đối với người đi bộ khi đang đói thì quả là một sự nổ lực phi thường.
Dù sao đi nữa, nếu xét theo bản tính tự nhiên của con người, có lẽ Chúa Giêsu sẽ cảm thấy rất bực bội vì bị đám đông quấy rầy liên tục. Tuy nhiên, Ngài chẳng những không cảm thấy phiền hà mà Ngài còn động lòng thương xót họ. Với trái tim nhạy cảm, Chúa Giêsu biết rằng họ đang có nhiều nhu cầu cấp thiết mà không ai có thể đáp ứng được ngoại trừ Ngài. Họ đang rất cần Ngài, giống như đàn chiên bơ vơ đang cần người chủ chăn. Chính vì vậy, vừa nhìn thấy họ, Ngài đã động lòng, trái tim Mục Tử của Ngài đã rung lên những nhịp đập yêu thương. Ngay lập tức, Ngài lại tiếp tục phục vụ họ.
2. Nhận thức và áp dụng:
Trước hết, khi ngắm nhìn cung cách phục vụ hết mình của Chúa Giêsu đối với đám đông ngày xưa, phải khiêm tốn thú nhận rằng đa số các vị Mục Tử hôm nay khó mà theo kịp Chúa. Chính vì vậy, dù có rất nhiều lý do khiến người Công Giáo thời nay ít chịu đến Nhà Thờ, nhưng trong các lý do đó, không loại trừ một lý do đang được đề cập đến, đó là bởi vì người ta chưa thực sự gặp được Chúa Giêsu qua cung cách của một số vị Mục Tử không được như lòng Chúa ước mong.
Thứ đến, nhìn vào thiện chí của đám đông đi theo Chúa Giêsu ngày xưa, phải khiêm tốn mà thú nhận rằng chúng ta vẫn còn thua xa họ. Đoạn đường chúng ta đến Nhà Thờ để gặp Chúa có lẽ không dài bằng đoạn đường mà đám đông ngày xưa tìm đến với Chúa, nhưng nhiều khi thay vì đến sớm để chờ Chúa, chúng ta lại đến trễ để cho Chúa phải đợi chờ. Phương tiện di chuyển của chúng ta bây giờ cũng hiện đại hơn nhiều so với cách thức đi bộ của đám đông ngày xưa, nhưng lắm khi chúng ta lại ngại đến với Chúa vì sợ mệt và sợ tốn thời gian.
Sau khi nhìn ngắm cung cách của Chúa Giêsu và đám đông đi theo Ngài ngày xưa, chúng ta rút ra được bài học áp dụng sau đây: Với các Mục Tử, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài thật nhiều, hãy biết cảm thông với ghánh nặng sứ vụ của các ngài, hãy cộng tác sẻ chia với các ngài trong những công việc chung. Về phía bản thân chúng ta, mỗi người hãy xin cho được ơn khao khát Chúa, nhận ra mình đang rất cần đến Chúa. Nhờ đó, chúng ta biết nhắc nhớ nhau siêng năng tìm đến với Chúa qua Thánh Lễ, qua Lời Chúa và các Bí Tích. Có như vậy, chúng ta mới mong đền đáp lại phần nào tấm lòng Mục Tử của Chúa Giêsu dành cho mỗi người chúng ta. Amen.
Chúa Nhật XV Thường Niên Năm B tuần trước, Thánh Ký Marcô trình thuật biến cố Chúa Giêsu: TN 16-B74
Chúa Nhật XV Thường Niên Năm B tuần trước, Thánh Ký Marcô trình thuật biến cố Chúa Giêsu sớm sai các tông đồ đi rao giảng từng cặp một. Bài Phúc Âm của thánh ký cho Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm B tuần này tiếp tục thuật lại cho thấy “các tông đồ trở về với Chúa Giêsu và thuật lại cho Người nghe tất cả những gì mình đã làm và đã dạy dỗ”. Ở đây, Thánh Ký Marcô, cũng như Thánh Ký Luca cùng thuật lại biến cố này (9:1-6), không cho biết thái độ của các tông đồ ra sao và thành qủa của chuyến truyền giáo tiên khởi này thế nào, như trường hợp của 72 môn đệ được Người sai đi sau đó và đã trở về hân hoan khoe với Đấng đã sai các vị đi rằng: “Thưa Thày, vì danh Thày ngay cả ma quỉ cũng phải nghe lời chúng con truyền” (Lk 10:17). Tuy nhiên, chỉ có Thánh Ký Marcô cho biết là sau khi nghe các tông đồ tường thuật như thế về chuyến truyền giáo tiên khởi của các vị, Chúa Giêsu đã khuyên các vị rằng “Các con hãy đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Căn cứ vào lời này thì dường như các tông đồ cảm thấy mệt mã và chuyến truyền giáo tiên khởi của các vị không có gì là hào hứng mấy. Thế nhưng, nếu căn cứ vào câu cuối cùng của bài Phúc Âm tuần trước thì chuyến truyền giáo này của các vị tông đồ thành công, ở chỗ: “Các vị đã khu trừ nhiều ma quỉ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Ngoài ra, ngay sau câu Chúa Giêsu thúc giục các tông đồ như vậy thì Phúc Âm liền cho biết tiếp: “dân chúng kéo đến đông đảo làm cho các vị không còn thì giờ ăn uống. Bởi thế Chúa Giêsu và các tông đồ xuống thuyền đi đến một nơi thanh vắng. Dân chúng thấy các vị bỏ đi và nhiều người biết được việc này. Dân chúng từ tất cả các tỉnh vội vàng đi bộ đến nơi trước các vị. Xuống thuyền Chúa Giêsu thấy cả một đám đông dân chúng…”. Như thế, phải chăng hiện tượng dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu nói riêng và Thày trò của Người nói chung đã cho thấy thành quả rực rỡ của chuyến truyền giáo tiên khởi của các tông đồ? Bởi vì, trước đó, Phúc Âm chu kỳ Năm B không hề thuật lại một hiện tượng nào như vậy, trái lại, Thánh Ký Marcô còn cho thấy cảnh thảm hại khi Chúa Giêsu trở về Nazarét trong bài Phúc Âm mới cách đây 2 tuần, bài Phúc Âm ngay trước khi Người sai các tông đồ đi truyền giáo. Theo diễn tiến của ba bài Phúc Âm, bài Chúa Nhật XIV hai tuần trước, bài Chúa Nhật XV tuần vừa rồi và bài Chúa Nhật XVI tuần này, người ta có cảm giác là sau khi thất bại ở quê quán của mình, nhờ việc Chúa Giêsu chẳng những đích thân đi rao giảng ở các vùng lân cận mà còn sai cả các tông đồ đi rao giảng nữa, mà dân chúng đã bắt đầu biết đến Người nên thấy Người ở đâu là tuốn đến đó, đông đảo đến nỗi làm cho Chúa Giêsu cảm thấy động lòng, như Thánh Ký Marcô cho biết ở cuối bài Phúc Âm tuần này: “Người động lòng thương họ, vì họ như chiên không người chăn; nên Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Có hai vấn đề được đặt ra ở đây là, thứ nhất, tại sao Chúa Giêsu chỉ “động lòng thương họ” sau khi Người từ thuyền lên bờ, chứ không “động lòng thương họ” khi họ tuốn đến với Người lúc đầu, lúc họ làm cho Người cũng như làm cho các tông đồ mới đi rao giảng về không có giờ ăn uống nghỉ ngơi, trái lại, thấy vậy Người và các tông đồ còn xuống thuyền bỏ đi nữa? Và thứ hai, “Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” đây là những điều gì, và tại sao Người không cho họ ăn trước rồi mới nghe Người nói sau, vì (lúc ấy chính Người và các môn đệ cũng đã cảm thấy đói) mà Người lại có ý dạy họ nhiều điều dài dòng có thể làm cho họ nản chí bởi mệt mỏi, bởi đói khát, một tình trạng làm cho họ khó tiếp thu lời Người nói, đến nỗi có thể bỏ đi theo bản năng tự nhiên “có thực mới vực được đạo”?
Vấn đề tại sao Chúa Giêsu chỉ “động lòng thương họ” sau khi Người từ thuyền lên bờ, chứ không “động lòng thương họ” khi họ tuốn đến với Người lúc đầu, lúc họ làm cho Người cũng như làm cho các tông đồ mới đi rao giảng về không có giờ ăn uống nghỉ ngơi, trái lại, thấy vậy Người và các tông đồ còn xuống thuyền bỏ đi nữa, là vì Người trước hết lo cho thành phần môn đệ của mình và sau nữa Người muốn thử thách dân chúng. Thật vậy, Chúa Giêsu thấy dân chúng tuôn đến với mình thì xuống thuyền với các tông đồ đi chỗ khác, như không quan tâm gì đến lòng khao khát và ngưỡng mộ của dân chúng, những gì quan yếu để Người có thể tỏ mình ra, những gì hoàn toàn phản lại với thái độ ở quê quán của Người cách đó ít lâu, những gì Người muốn thấy nơi dân chúng. Lý do trước hết là vì Người lo cho các môn đệ của Người, muốn cho họ có giờ nghỉ ngơi để lấy lại sức sống về cả tinh thần lẫn thể xác. Có thể suy đoán là trên đoạn đường thuyền trôi, các môn đệ đã có giờ ăn uống và tâm sự chia sẻ với nhau về chuyến truyền giáo tiên khởi hết sức hào hứng ấy. Lý do thứ hai có thể luận đoán về việc Chúa Giêsu bỏ đi khi thấy dân chúng tuốn đến với Người ngay lúc đầu là vì Người muốn thử lòng của họ, xem họ có thực sự khao khát muốn nghe Người nói và muốn thấy việc Người làm hay chăng. Bởi thế, khi thấy đoàn lũ dân chúng tuốn đến với mình lúc đầu, Người đã động lòng thương họ rồi, nhưng sau khi thấy họ quả thực chẳng những khao khát mà còn nhất định tìm kiếm hết sức vất vả cho đến cùng những gì họ khao khát thì Người tỏ mình ra cho họ hơn nữa, hơn những lần họ thấy Người trước đó, bằng cách “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Về vấn đề nội dung của bài giảng dài dòng này, Thánh Ký Marcô không ghi rõ là gì và như thế nào. Tuy nhiên, theo thời điểm và địa điểm, cũng như căn cứ vào bộ Phúc Âm Nhất Lãm nói chung và Phúc Âm Thánh Mathêu nói riêng thì bài giảng lần này của Người không phải là Bài Giảng Phúc Đức Trên Núi như ở Phúc Âm Thánh Mathêu (đoạn 5-7), vì sau bài giảng này Chúa Giêsu mới gọi Thánh Mathêu (9:9-13), trong khi theo Thánh Ký Marcô, Chúa Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng từng cặp một rồi. Bài giảng lần này của Người cũng không phải là bài giảng về một loạt những dụ ngôn Nước Trời như trong Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (đoạn 13), vì sau đó Thánh Ký Mathêu cho biết sự kiện Chúa Giêsu trở về Nazarét (13:54-58), một sự kiện đã xẩy ra ở Phúc Âm Thánh Marcô trước khi Người sai 12 tông đồ đi rao giảng, và loạt bài dụ ngôn Nước Trời cũng đã được chính Thánh Ký Marcô thuật lại ở đoạn trước rồi (4:1-34). Bài giảng lần này của Người cũng không phải là bài giảng về Bánh Hằng Sống như được thuật lại trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 6, vì Người chỉ giảng về Bánh Hằng Sống sau khi đã cho dân chúng ăn no nê mà thôi. Đó là lý do, sau bài Phúc Âm theo Thánh Marcô tuần này về việc Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng và giảng dạy họ nhiều điều dài dòng, từ Chúa Nhật 17 tuần tới đến hết Chúa Nhật 21 Mùa Thường Niên Năm B, tức suốt trong 5 Chúa Nhật liền, chúng ta sẽ nghe Giáo Hội cho đọc các bài Phúc Âm về Bánh Hằng Sống theo Phúc Âm Thánh Ký Gioan.
Vậy thì Chúa Giêsu đã giảng dạy đám đông dân chúng hết sức khao khát tuốn đến nghe Người đây những gì? Phải chăng Người giảng dạy họ về vai trò của một vị mục tử, vì Thánh Ký Marcô cho biết lý do thực sự làm cho Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng là “vì họ giống như chiên không chủ chăn”? Tuy nhiên, bài giảng về vai trò chủ chiên nhân lành đã được Thánh Ký Gioan thuật lại ở đoạn 10, sau đoạn 6 về Bánh Hằng Sống, đoạn trực tiếp liên quan đến bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Căn cứ vào Phúc Âm Thánh Ký Luca, thì bài Phúc Âm của Thánh Marcô Chúa Nhật XVI Thường Niên tuần này xẩy ra trước biến cố Thánh Phêrô tuyên xưng Thày là Đức Kitô (9:18-29) và biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi cao (9:28-36), cũng như trước biến cố Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng cho đợt truyền giáo thứ hai (10:1-20), vì trước ba biến cố này, Thánh Ký Luca thuật lại biến cố bánh hóa ra nhiều lần thứ nhất, lần hóa bánh nuôi 5 ngàn người cũng được Thánh Ký Marcô thuật lại ngay sau bài Phúc Âm hôm nay. Thật ra, chúng ta không thể nào biết được đích xác những gì Chúa Giêsu nói dài dòng với dân chúng trước lần hóa bánh ra nhiều đầu tiên này. Tuy nhiên, tùy theo đối tượng thính giả và trường hợp, Chúa Giêsu cũng có thể lập lại một số điều Người đã nói ở các bài giảng trước đó, như bài về các mối phúc đức, hay sau đó, như bài về vai trò mục tử. Vấn đề ở đây, trong bài Phúc Âm tuần này, theo Thánh Ký Marcô, không phải là vấn đề Chúa Giêsu nói những gì, cho bằng vấn đề Người giảng dạy nuôi dân về phần hồn trước rồi mới nuôi dân về phần xác sau, một chi tiết không hề được nhắc đến ở Phúc Âm Thánh Mathêu và Luca ngay trước biến cố bánh hóa nhiều lần thứ nhất này.
Đúng thế, bài Phúc Âm Thánh Marcô tuần này cho thấy rằng Lời Chúa đã thu hút dân chúng và làm cho dân chúng say mê là chừng nào, nghe đến quên ăn, đến không biết đói là gì. Họ đâu ngờ rằng sau đó họ sẽ được Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi họ, thế mà họ vẫn cứ nghe. Giá biết trước sẽ xẩy ra phép lạ hóa bánh ra nhiều thì còn bảo là dân chúng nghe Lời Chúa vì chờ được ăn bánh no nê. Vả lại, không biết có ai trong họ đã đề phòng mang theo lương thực hay chăng, vì họ đã vội vàng đi chặn đầu Chúa Giêsu khi thấy Người xuống thuyến bỏ đi chỗ khác (x Mk 6:33)? Chắc hẳn là không, vì khi cần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều thì trong dân chúng chỉ vỏn vẹn có 5 chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé mà thôi (6:38). Bởi vậy sự kiện dân chúng nghe Lời Chúa mà không biết mệt, biết đói, hay dù mệt, dù đói, họ vẫn nghe được Lời Chúa, không bỏ về, không tìm ăn, đã thực sự làm sáng tỏ những gì Chúa Giêsu phán với tên cám dỗ Người trong hoang địa khi hắn xúi giục Người hãy biến đá thành bánh mà ăn cho đỡ đói sau 40 ngày chay tịnh: “Người ta không nguyên sống bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4; Deut 8:3). Kinh nghiệm sống đạo thực tế cũng cho thấy rõ chân lý này, ở chỗ, một khi ăn no nê về phần xác, con người khó có thể cầu nguyện mà không buồn ngủ. Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy một chân lý nữa, một chân lý đã được Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Giảng Phúc Đức Trên Núi: “Các con trước hết hãy tìm nước Chúa và sự công chính của Người, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các con sau” (Mt 6:33). Dân chúng quả thực đã khao khát tìm nghe Lời Chúa là những gì chính yếu trước, nên họ đã được Người sau đó ban cho họ những sự khác là của ăn phần xác vậy.
Nếu tiền bạc và kinh tế không thể nào giải phóng con người, như phong trào thần học giải phóng và chủ nghĩa cộng sản cũng như duy tư bản chủ trương, trái lại, càng dồi dào về vật chất, càng văn minh về khoa học và kỹ thuật, như hiện trạng thế giới ngày nay cho thấy, con người càng bị phá sản về văn hóa và khủng hoảng đức tin thế nào, tức một khi con người càng “có thực” chẳng những không “vực được đạo” mà còn càng bỏ đạo hơn nữa, thì quả thực con người cần phải có đạo thì mới có gạo. Bằng không, nếu không có “đạo”, tức chỉ biết sống theo quyền làm người, theo đuổi tiện nghi vật chất, đua đòi thời trang v.v. thì kho “gạo” văn minh vật chất tiện nghi đầy đủ ngày nay, một lúc nào đó, chắc chắn, như thực tế đang cho thấy, bị chính bàn tay con người bao đời gặt hái thu lượm tự hủy hoại vô cùng phũ phàng thảm thương. Các Nghị Phụ Công Hội Giám Mục Âu Châu đã nhận định rất đúng về tình trạng con người văn minh hiện đại đầy đủ vật chất mà vẫn bần cùng thiếu thốn về tinh thần, một nhận định đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ghi lại trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu ở đoạn 8 và 9 như sau:
• “Trong lúc các tổ chức bác ái tiếp tục thi hành hoạt động đáng ca ngợi thì người ta vẫn nhận thấy xẩy ra tình trạng suy yếu nơi cảm thức đoàn kết, đưa đến chỗ nhiều người không thiếu gì những nhu cầu vật chất mà lại càng cảm thấy cô đơn, khiến họ thấy mình không nơi nương tựa về cảm tình và nâng đỡ”.
• “Nền văn hóa Âu Châu gây nên cái ấn tượng về việc ‘âm thầm bỏ đạo’ nơi thành phần có được tất cả mọi sự họ cần lại là thành phần sống như thể không có Thiên Chúa”.
Tại một vài nơi buôn bán như Gap, Adventure, Famous Bar, Plazza hay những trung tâm: TN 16-B75
Tại một vài nơi buôn bán như Gap, Adventure, Famous Bar, Plazza hay những trung tâm thương mại lớn trên nước Mỹ, người ta thiết lập một nhà nguyện nhỏ xinh xắn ngay trong giữa chợ để các khách hàng có phút giạo chơi mua bán, cũng có phút nhàn rỗi vào nơi tĩnh mịch, nghiêm trang này để nghĩ suy về đời sống tinh thần của mình. Nơi đó có cha giải tội, có đặt Mình Thánh chầu luân phiên 24 giờ. Đây là chỗ để lấy lại sức sống, nếu người ta không có giờ đến nhà thờ.
Tất cả những chỗ ấy đều giống như điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm: "Họ như những con chiên bơ vơ lạc lõng như kẻ không có người chăn". Tại sao chúa nói đến điều đó ? Là vì quá nhiều người đòi hỏi các môn đệ phải để giờ cầu nguyện, suy nghĩ và thực hành chứ không thể như họ bận rộn suốt ngày đến nỗi không có cả giờ ăn uống. Nói tóm lại, Chúa Giêsu nói chúng ta cần phả biết rút lui vào nơi thanh vắng để nhìn rõ cung lòng mình, đặc biệt tìm đến với Chúa đang hiện diên nơi (nhà tạm) thanh vắng.
Điều quan trọng là chúng ta cần dành ra một khoảng thời gian để gặp gỡ Chúa, để bàn hỏi với Ngài. Lạy Chúa, xin hãy làm cho nhịp tim con nhẹ nhàng, làm cho tâm trí con nên yên tĩnh. Xin hãy phục hồi lại khả năng của con, xin đừng để con trở nên đàn chiên không được Ngài hướng dẫn.
1.LỜI CHÚA: "Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều" (Mc 6,34):
2.CÂU CHUYỆN: ỨNG XỬ KHÔN NGOAN TRONG SỨ VỤ TÔNG ĐỒ
PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh: TN 16-B76
PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật sau: "Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là: "Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau: Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại có thái độ nóng nảy miễn cưỡng... với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa ... thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giơ quay trở lại nữa !".
PRI-MƠ-NĂNG tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị giám mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Băng-gan thuộc Ấn Độ như sau: Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar); sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra lạu thật đáng tiếc: Vị giám mục đã không trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký ra tiếp qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có và có thế lực ... Đảng này thề chống lại Giáo hội Công giáo, và tìm mọi cách ngăn chặn sự bành trướng của Ki-tô giáo tại nước Ấn Độ.
3.SUY NIỆM:
Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách ứng xử thiếu khôn ngoan tế nhị của người có trách nhiệm trong Giáo hội mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua ! Chính do thái độ câu nệ hình thức và quan liêu của một vị mục tử đã biến một con người đang có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm cho Hội thánh sau này. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự cứng nhắc vụ luật, thiếu cảm thông và thiếu bác ái của một vài vị mục tử, trái với thái độ dấn thân phục vụ và biết "chạnh lòng xót thương" của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Người không nặng lời trách mắng và từ chối những người tội lỗi công khai đến với mình, không ngại tiếp súc và tận tình phục vụ những người nghèo hèn đau khổ và bất hạnh. Người lắng nghe các môn đệ báo cáo công tác đã thực hiện được và sẵn sàng thay đổi dự định nghỉ ngơi để tiếp tục việc rao giảng và chữa bệnh cho nhiều người, vì "họ như bầy chiên không người chăn dắt".
a)Ấn cần phục vụ:
Đức Giêsu luôn quên mình để nghĩ đến người khác. Người rất nhạy cảm trước những nhu cầu của dân chúng và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ để giúp họ tin vào Tin mừng. Mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai có nhiệm vụ chăm sóc cộng đòan, tuy cần phải tổ chức sắp xếp sinh họat theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng phải ưu tiên cho việc loan báo Tin mừng. Tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái ... vì dễ gây bất mãn có hại cho sứ vụ loan Tin mừng.
b)Cảm thông phục vụ:
Đức Giêsu luôn tỏ ra thái độ cảm thông với nỗi đau của con người: Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (Lc 19,44), Ngừơi cảm thông với tiếng khóc của bà góa đang đưa xác con trai đi chôn tại thành Na-im và đã phục sinh người con trai mới chết cho bà (Lc 7,11-17); Người khóc thương bạn thân Lazarô mới chết bốn ngày và truyền cho anh trỗi dậy ra khỏi mồ (Ga 11,1-14)... Đức Maria cũng có thái độ cảm thông với đôi tân hôn thành Ca-na khi tiệc cưới nửa chừng hết rượu. Mẹ đã đứng ra cầu bầu xin Đức Giêsu can thiệp giúp đôi tân hôn (x. Ga 2,1-11). Thánh Phaolô cũng dạy các tín hữu phải biết cảm thông phục vụ tha nhân như sau:"Vui với người vui, khóc với người khóc"(Rm 12,15).
c)Dấn thân phục vụ:
Đức Giêsu luôn quên mình khi phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đi đến nhà ông trưởng hội đường tên Giai-rô để chữa cho con gái của ông ta sắp chết (Mc 5,21-24.35-43). Người sẵn sàng đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho đầy tớ của ông ta. Người dành tòan bộ thời giờ cho công việc rao giảng Tin mừng và chữa mọi bệnh họan tật nguyền trong dân... Thái độ hy sinh quên mình phục vụ tha nhân thật không dễ chút nào. Chỉ khi có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể dấn thân phục vụ tha nhân hết mình. Chẳng bạn các bà mẹ đang nuôi con thơ, không nề hà thức dậy nhiều lần trong đêm khi con khóc để phục vụ, sẵn sàng nằm vào chỗ ướt để nhường chỗ khô cho con, sẵn sàng thay đổi dự tính khi con bị đau ốm... Mỗi người chúng ta cần phải phục vụ tha nhân thế nào để noi gương mục tử Giêsu ?
4.THẢO LUẬN: Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các vị mục tử. Anh cho biết lý do bỏ đạo như sau:"Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chành nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về thủ tục hành chánh trong đạo !" Từ đó anh không thèm đi nhà thờ dự lễ Chúa Nhật mà đưa vợ con đến các buổi giảng Thánh kinh tại nhà thờ Tin Lành gần đó. Về sau, khi được một bà cô đạo đức khuyên bảo thì anh đã trả lời như sau: "Cháu cám ơn cô đã khuyên bảo. Nhưng từ nay xin cô đừng bao giờ nói về đạo với cháu nữa. Vì từ khi cháu bỏ được cái đạo Công Giáo này, cháu cảm thấy tâm hồn thật thoải mái bình an, giống như trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Xin cô thông cảm và cho cháu được tự do theo ý cháu muốn !".
1-Theo bạn, lý do chàng thanh niên trong câu chuyện trên nêu ra để biện minh cho việc bỏ đạo là đúng hay sai ? Tại sao ? 2- Bạn sẽ phản ứng thế nào nếu gặp phải hòan cảnh như chàng thanh niên trên để chứng tỏ bạn có một đức tin trưởng thành ?
5.NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu, hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi người tín hữu chúng con hôm nay. Ơn gọi của chúng con là phải trở nên khí cụ bình an của Chúa, là biết đi bước trước đến với tha nhân, hiểu biết cảm thông với những tâm tư nguyện vọng của họ để phục vụ với tình yêu thương như Chúa. Con muốn sống đời bác ái chia sẻ và phục vụ theo lời dạy của Chúa. Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói cơm bánh vật chất, đang khát nghe giảng Tin Mừng hầu sẵn sàng đáp ứng với hết khả năng của con. Xin giúp con luôn biết "chạnh lòng xót thương" để nên gióng Chúa từ bi bao dung nhân hậu, nhờ đó con sẽ tích cực góp phần, đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội thánh.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Người Việt nam chúng ta không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động: TN 16-B77
Người Việt nam chúng ta không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động và mối liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Ở nước Do thái thời Chúa Giêsu thì khác, hình ảnh đàn chiên và chủ chăn rất quen thuộc. Môsê và các tiên tri đã dùng hình ảnh này để tiên báo về lời hứa cứu độ, về những mục tử tốt lành Chúa sẽ ban cho dân Chúa.
Từ sau thời Vua Salomon trở đi, không được mấy ông vua vừa lòng dân, nhiều vị vua sống ích kỷ, không màng chăm lo cho đất nước và dân tộc, làm cho dân chúng thất vọng về chế độ Quân Chủ. Trong thời gian đất nước chia đôi, và nhất là thời kỳ lưu đày, bị đô hộ, dân Israel càng mong mỏi có được vị vua công minh, vị mục tử nhân lành như lời Chúa đã hứa qua Môsê và các tiên tri: Chúa sẽ cho xuất hiện một Vị Tiên Tri lớn như Môsê, một Vị Cứu Tinh đem lại hoà bình cho trăm họ. Chính Tiên tri Giêrêmia cũng nhắc lại lời hứa của Chúa cho dân nghe: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta."
Lời Chúa hứa qua miệng tiên tri Giêrêmia đã được thực hiện. Đó là chính Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Đavid. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, không phải bằng bạo lực, quyền hành kiểu thế gian nhưng bằng tình thương, lòng nhân hậu, bằng hy sinh, phục vụ hết mình vì hạnh phúc và hoà bình của nhân loại. Ngài là vị vua, là mục tử tốt lành. Ngài đến không phải để tìm lợi lộc cho chính mình nhưng tìm lợi ích cho tha nhân, cho mọi người chúng ta. Ngài là mục tử tốt lành, biết xót thương, biết sống vì người khác. Chẳng hạn, như trong bài Phúc âm hôm nay: dù Chúa Giêsu và các tông đồ đang có nhu cầu nghỉ ngơi, nhưng thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến thì không kể mệt mỏi, cực nhọc đã tiếp tục giảng dạy, ban bố ơn lành cho họ.
Đức Giêsu vì chúng ta mà chết trên thánh giá để giải gỡ chúng ta khỏi xích xiềng tội lỗi và sát nhập chúng ta vào đoàn chiên của Ngài. Vậy, để đáp lại sự lo lắng và công ơn cứu chuộc đó, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Ngài được vui. Tôi nghĩ, điều đẹp ý Ngài là:
1) Mọi người biết tuân giữ lời Chúa đã dạy. Đó là những điều rất ích lợi cho phần hồn và cả phần xác chúng ta nữa. Mọi người hãy luôn tỏ lòng yêu mến Chúa qua việc đi lễ đọc kinh mỗi ngày, ít là lo giữ ngày Chúa nhựt, thương mến và sống hoà thuận với mọi người chung quanh chúng ta vì mọi người là con cùng một Cha trên trời.
2) Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vô biên, chúng ta cũng hãy yêu Chúa hết mình mới tương ứng phần nào với tình yêu Chúa. Đó là lẽ phải mà mọi người cần thực hiện ngay trên trần gian này. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy sẵn sàng đón tiếp mọi người, nhất là những sứ giả của Chúa: như quý linh mục, tu sĩ. Và vì lòng mến Chúa, chúng ta cũng giúp đỡ những người nghèo khổ vốn không có khả năng trả ơn chúng ta để chính Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành, xin cho chúng con nhận ra tình yêu Chúa đối với chúng con và biết đáp trả cho cân xứng phần nào với tình yêu đó.
Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói" hay "Nhàn cư vi bất thiện". Đây là hai câu nói: TN 16-B78
"Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói" hay "Nhàn cư vi bất thiện". Đây là hai câu nói lên giá trị sự siêng năng làm việc. Sống là phải làm việc, làm việc không ngừng. Dầu vậy không ai trong chúng ta có thể làm việc suốt ngày suốt đêm mà không cần nghỉ ngơi. Mục đích của nghỉ ngơi là để bồi dưỡng lấy lại sức khỏe thể xác cũng như tâm hồn. Nhờ đó mà những công việc tiếp theo có thể đem lại hiệu quả cao hơn.
Sau một thời gian ra đi truyền giáo theo lệnh của Thầy Giêsu, các Tông đồ trở về vui mừng hớn hở kể lại cho Thầy nghe những gì mình đã làm và đã giảng dạy. Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." (Mc 6, 31). Chúa Giêsu muốn các ông nghỉ ngơi sau thời gian mệt mỏi ra đi truyền giáo. Có thể nói được là các ông được nghỉ trong Chúa.
Nghỉ ngơi trong Chúa, ta sẽ được bồi dưỡng đầy đủ chất bổ dưỡng. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân hiền nuôi dưỡng các con chiên của mình trong đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Người đã có lần kêu mời: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28)
Quả vậy, Người biết rõ chúng ta cần gì ngay cả trước khi chúng ta cầu xin. Điều răn thứ ba trong Mười điều răn Đức Chúa Trời dạy chúng ta giữ ngày Chúa nhật. Đồng thời, mỗi ngày chúng ta được Giáo hội dạy tuân giữ các giờ Kinh tối sáng. Cũng vậy, các Linh mục và tu sĩ hằng năm đều có thời gian tĩnh tâm mà chúng ta quen gọi là cấm phòng. Đây là những khoảng thời gian thật cần thiết và quý báu cho đời sống đức tin. Nếu biết rõ được ý nghĩa và giá trị của những khoảng thời gian này chắc hẳn chúng ta sẽ không cho đó là gánh nặng phải tuân giữ. Ngược lại chúng ta sẽ rất trân trọng.
Cuộc sống càng tiến bộ bao nhiêu thì dường như nhu cầu cần sự nghỉ ngơi của con người càng nhiều bấy nhiêu. Đáng tiếc thay có nhiều người lại lấy thời gian nghỉ ngơi này để làm hại chính mình và nhiều khi ảnh hưởng đến người khác. Những sòng bài, những nhóm ăn nhậu hay những nhóm trẻ ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Đây là những lúc họ tự hủy hoại chính bản thân mình và gây thiệt hại đến người khác. Nhất là đây là một trong những lý do khiến cho nhiều gia đình phải tan vỡ.
Là người có đức tin chúng ta hãy biết quý trọng những thời gian nghỉ ngơi trong Chúa. Cũng như chúng ta nhắc nhở nhau tìm những trò giải trí lành mạnh hầu đem lại lợi ích cho mình và tránh gây thiệt hại cho người khác.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng: làm con cái Chúa thì hạnh phúc biết: TN 16-B79
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng: làm con cái Chúa thì hạnh phúc biết bao vì luôn luôn được Chúa quan tâm săn sóc, Người để ý đến từng con chiên. Các mục tử nhà Israel không chăm lo cho chiên liền bị Chúa quở trách và Ngài đích thân chăm nom họ (Gr.23,1-6). Người là vị mục tử nhân lành che chở chiên khỏi sói dữ, trộm cướp và lo cho chiên có cỏ non, nước ngọt, bóng mát(Tv.22). Đặc biệt trong bài đọc II(Ep.2,13-18) thánh Phaolô còn cho các tín hữu Ephêsô biết rằng, họ là những con chiên bị tản mác và nay Thiên Chúa yêu thương qui tụ họ về trong một đoàn chiên, để họ được ấp yêu, được nuôi dưỡng. Và Chúa Giêsu còn cho thấy không phải Thiên Chúa chỉ chăm sóc đến chiên " thấy họ vất vưởng Người chạnh lòng thương", mà còn lo cho cả kẻ chăn chiên " các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút"
Chúa Giêsu sai 12 tông đồ đi rao giảng, các ông vui mừng trở về kể lại những thành công gặt hái được và những vất vả các ông phải chịu, thì Chúa Giêsu liền bảo các ông xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng khi thấy dân chứng nô nức tìm kiếm, thì kế hoạch nghi ngơi phải đình chỉ vì tình yêu đã thắng tất cả. Người dịu dàng nhân ái dạy dỗ họ bởi trái tim Người không thể yên nghỉ, con tim mục tử của Người thổn thức trước cảnh bơ vơ không người chăm sóc, mặc dầu Người cũng rất cảm thương các tông đồ mệt nhọc cần bầu khí yên tĩnh để thân xác nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn hầu kiểm điểm cuộc sống của mình, nhưng điều cần kíp giúp chiên khỏi chết trước đã, sau đó có thể lui vào yên tĩnh.
Chúng ta phải vui mừng vì được làm con chiên của Chúa, được chăm sóc dưới bàn tay nhân ái và trái tim giầu tình thương của Chúa, và Người biết chúng ta cần gì để cung cấp cho chúng ta. Mỗi người chúng ta cũng phải có trái tim nhạy cảm của Chúa, biết xúc động trước những người đau khổ của tha nhân để giúp đỡ, để an ủi và có thể hiến thân phục vụ tha nhân với trái tim tràn đầy hương vị ngọt ngào. Thế giới đang mong mỏi những bàn tay bọc nhung để xoa dịu những đớn đau của bệnh tật, những mất mát của chiến tranh và những lời khích lệ tới những tâm hồn đang thất vọng sầu khổ.
Và như các tông đồ chúng ta cũng sẵn sàng làm việc mà không thấy mỏi mệt, hay đúng hơn vì tình yêu đã làm cho các ông không muốn nghỉ ngơi. Chúng ta cũng phải có tấm lòng như thế, đừng ngại bị xáo trộn nếp sống hàng ngày của mình, sẵn sàng gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác. Chúa Giêsu bận rộn với biết bao công việc đến nỗi không có giờ để ăn uống, dự tính nghỉ ngơi một chút thì dân kéo đến và Người đã "dạy dỗ họ nhiều điều"(). Chúng ta đôi khi cũng muốn làm việc phục vụ nhưng lại chỉ muốn chút ít thôi để việc phục vụ không quấy rầy chương trình của mình, chúng ta đã chẳng thấy đang đêm cha mẹ cũng phải thức dậy để chăm sóc các con đấy sao mà có ai than phiến?
Tuy nhiên trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.
Lạy Chúa, xin tình yêu Chúa hãy nên lẽ sống và niềm vui, hi vọng cho chúng con, để khi chúng con sống gắn bó với Chúa thì chúng con cũng biết quên mình phục vụ tha nhân. Nhờ đó chúng con có thể sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu trong việc thông chia cho người khác những gì mình sống.
Viễn tượng của Giáo Hội duy nhất mà Chúa Giêsu tiên báo trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô: TN 16-B80
Viễn tượng của Giáo Hội duy nhất mà Chúa Giêsu tiên báo trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 6, 30-34 gợi cho dân Chúa nhiều suy nghĩ sâu sắc. Hình ảnh nói đến đoàn chiên không người chăn dắt là hình ảnh của Giáo Hội còn bị chia năm sẻ bảy, còn sống rải rác, tản mác thành nhiều khối. Đức Kitô đau buồn, suy tư về viễn ảnh đàn chiên trở nên một cũng là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô hôm nay.
Đức Kitô đã đến trần gian, sự hiện diện của Người nói lên tình thương bao la của Người đối với thế giới, nhân loại và con người. Chúa Giêsu đã sống giữa con người, sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã tham dự vào mọi biến cố của con người, mọi trạng huống của lịch sử con người. Nhiều người đã nhận ra Ngài, nhiều người đã tôn kính mến phục Ngài, nhưng còn biết bao người sống giữa Ngài, bên Ngài, từng tiếp xúc với Ngài, nhưng không bao giờ nhận ra Ngài. Thậm chí có người còn khinh chê, phỉ báng và mắng nhiếc Ngài. Lịch sử nhân loại kéo dài, Đức Kitô can thiệp vào lịch sử ấy với ý định cứu chuộc con người và ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Nhiều người từ chối sự có mặt của Ngài, chối bỏ bản thể của Ngài, thậm chí có người lại còn lên án Ngài và muốn giết Ngài. Chính những người sống bên cạnh Chúa, sống cùng Chúa đã lên án Chúa. Giuđa Iscariốt là một người trong mười hai môn đệ của Chúa đã bán và nộp Ngài cho quân dữ đem đi đóng đinh.
Sống với Chúa, nhưng vẫn từ chối Chúa, đó là hình ảnh của Giáo Hội bị phân ly, chia năm sẻ bảy, chưa thống nhất, chưa liên kết với nhau trong niềm tin. Cây nho đích thực chính là Chúa Giêsu. Mọi thành phần trong Giáo Hội là chi thể của Ngài. Chi thể có liên kết với thân, với đầu mới có sự duy nhất, liên kết trong một khối. Hình ảnh ấy phải là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Giêsu Kitô trong Tin Mừng Marcô 6, 30-34 đưa ta tới hình ảnh của ràn chiên. Chiên có ở trong ràn mới gợi lên sự duy nhất của nó. Nếu chiên sống rải rác, sống phân lìa sẽ chỉ nói lên tính rời rạc, tan tác của ràn chiên. Viễn ảnh này làm nổi bật tính phân lìa của Giáo hội: Một Chúa, nhưng nhiều giáo phái. Mỗi giáo phái đều nhân danh Chúa nói lên sự thật, nhưng vẫn sống xa nhau, chưa trở nên một như Đức Kitô mong muốn:"... để hết thảy chúng nên một cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta. Và thế gian tin là Cha đã sai con " ( Ga 17, 21 ). Lời nguyện cầu của Chúa Giêsu có sức mạnh nối kết mọi người trong niềm tin ( Ga 17, 20-26 ) và sẽ làm cho thế giới tin vào sứ mạng của Chúa Giêsu đối với nhân loại ( Ga 3, 17 ).
Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội của Ngài nơi trần gian này. Thoạt đầu, Ngài đã chọn mười hai môn đệ. Các môn đệ thường xuyên ở bên Chúa, nghe Ngài giáo huấn về giáo lý của Ngài. Ngài huấn luyện các môn đệ để các Ngài trở thành những kẻ đánh cá người ( Mc 1, 17 ). Vì là một tổ chức, nên Chúa đã chọn Phêrô làm đầu Giáo Hội. Ngài nói: " Ta bảo thật với con, con là Phêrô ( nghĩa là đá ) và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta" ( Mt 16, 18 ). Việc Ngài chọn
Phêrô làm đầu Giáo Hội, có nghĩa Ngài xây dựng Giáo Hội trên nền móng các tông đồ. Nhờ nền móng ấy, Giáo Hội luôn tồn tại và vững bền. Ngài còn so sánh Giáo Hội với tấm lưới thả xuống biển trong đó có lẫn cá tốt và cá xấu. Ngài cũng gọi Giáo Hội là thuở ruộng mà cỏ lùng và lúa chỉ được phân loại lúc gặt lúa. Hay, Ngài còn so sánh Giáo Hội của Ngài là đàn chiên và Ngài là chủ chiên. Việc so sánh của Chúa Giêsu về Giáo Hội với cánh đồng lúa, mạng lưới, đàn chiên là để nói lên sự duy nhất của Giáo Hội Chúa Kitô. Một sự duy nhất có đầu, có cuối: đầu là Chúa, chi thể là mọi người. Ngài thiết lập Giáo Hội như một xã hội có tổ chức hẳn hoi với mọi quyền năng Ngài ban cho các môn đệ và những người kế tục sứ vụ của các môn đệ. Chúa Giêsu nói với các môn đệ:" Những gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Những gì các con cỏi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở " ( Mt 18, 18 ). Quyền hành Chúa trao cho các môn đệ, như một đoàn thể, Ngài đã trao cách đặc biệt cho Phêrô, Người được chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Chúa ra lệnh cho Phêrô và mọi tông đồ:" Hãy đi khắp nơi, giảng dậy muôn dân, rửa tội họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; dậy họ tuân giữ mọi điều Ta truyền cho các con và này Ta hằng ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế " ( Mt 28, 18-20 ). Sự duy nhất của Giáo Hội còn được thể hiện qua việc, Chúa Giêsu nguyện cầu cho mọi người được nên một:" Xin cho họ được nên một "(Ga 17, 21 ), cũng như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người được nên một trong Giáo Hội của Chúa và xin Ba Ngôi Thiên Chúa cầu cho mọi người liên kết mật thiết trong tình thương của Thiên Chúa .
Đời sống cần có Chúa: "Họ như bầy chiên không có kẻ chăn". Sau tiên tri Amos, xuất thân: TN 16-B81
Đời sống cần có Chúa: "Họ như bầy chiên không có kẻ chăn"
Sau tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử "gầm thét" tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Gierêmia lên tiếng: "Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên".
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đày qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với Giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong Thư gởi giáo đoàn Ephêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm "cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù", chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi "Ngài không có cả thì giờ để ăn". Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như "trên một ngọn núi cao, xa vắng" (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tiberiađê (5,1); bờ biển Phêniciam (7,24-31) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (6,31). Họ vừa nghỉ ngơi vừa nhìn gương Thầy an nghỉ trong Đức Chúa Cha: "Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện ở đó" (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và các môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, "họ như bầy chiên không có kẻ chăn". Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa".
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XXIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng "trở về nguồn". Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng dạy... Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II, Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hươngở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công đồng được kết quả.
"Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi... Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, người lo bồi dưỡng" (Tv. 22,1...)
(Yêrêmia 23,1-6; Thư Êphêsô 2,13-18; Tin Mừng Marcô 6,30-34)
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. Suy Niệm:
Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm B
Yêrêmia 23,1-6; Thư Êphêsô 2,13-18; Tin Mừng Marcô 6,30-34
Ơn gọi Kitô hữu cho chúng ta được tham dự vào sứ mạng tiên tri, vương đế, tư tế của Đức Kitô: TN 16-B82
Ơn gọi Kitô hữu cho chúng ta được tham dự vào sứ mạng tiên tri, vương đế, tư tế của Đức Kitô. Muốn thi hành các sứ mạng ấy để phát huy ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta hãy bắt chước Người. Cả ba bài Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này. Chúng ta thấy Đức Kitô được loan báo trong Cựu Ước... Người đã hiện thân ở giữa chúng ta. Và ơn cứu độ Người hoàn tất đang muốn tác động mãnh liệt trong đời sống của chúng ta. Chúng ta thử tìm hiểu Người theo ba bài Kinh Thánh ấy. 1. Đức Kitô Là Vua Mục Tử
Bài sách Yêrêmia không có những tư tưởng mới lạ. Nhiều đoạn Cựu Ước khác cũng nói như vậy. Và điều này làm chứng đây là những tư tưởng tha thiết của lòng Chúa.
Người thương dân; coi như đàn chiên của Người. Muốn hiểu được lòng Người đối với dân, chúng ta hãy hiểu tâm lý của mục tử, và hơn nữa của dân du mục. Những người này không có gì cả ngoài đàn vật của họ. Nhà cửa của họ là mảnh lều, di chuyển theo yêu cầu của đàn chiên. Thế giới họ tiếp xúc cũng chỉ là các con vật họ chăn nuôi. Ngày đêm họ chỉ có một bận tâm: làm sao cho đàn vật được an lành. Đời sống của họ gắn liền với chúng đến nỗi của ăn áo mặc của họ đều do súc vật cung cấp. Sự sống của chúng là lẽ sống của họ đến nỗi vui buồn của họ tùy theo sự an lành của đàn vật.
Thiên Chúa ở với dân cũng tương tự như vậy. Người tha thiết với họ đến nỗi Người mang lấy mọi số phận của họ trong lòng Người. Người muốn cho họ được an lành. Nhưng khốn nỗi, đàn chiên của Người giờ đây không có người coi. Không phải vì thiếu mục tử, nhưng điều thật buồn là các mục tử đều xấu. Lẽ ra các đầu mục trong dân và những kẻ trị dân phải là các mục tử tốt săn sóc đàn chiên và lấy số phận đàn chiên làm của mình. Nhưng ngược lại, họ lơ là bỏ rơi chiên, không màng tưởng gì đến chúng và chỉ lo tìm lạc thú cho mình. Cùng lắm họ chỉ trở về đàn chiên mình xem con nào đã có thể ăn được để bắt đem giết đi nhậu nhẹt. Hoặc xem con nào đã có thể xén lông, để họ mang kéo đến hớt lấy lớp len đem may áo cho họ. Đàn chiên không người chăn vì thế tản mác, không biết tìm nơi có cỏ. Và khi lạc lõng như vậy, chúng bị sói bắt, và bị trộm lùa, tình cảnh thật là thê thảm.
Thiên Chúa là Đấng đầy dạ xót thương. Người không thể cầm lòng được nữa. Người sẽ truất quyền bọn mục tử xấu, sẽ lấy lại đàn chiên khỏi tay bọn đầu mục vô trách nhiệm. Người sẽ tự tay chăn lấy các chiên của Người. Tức là Người sẽ làm chỗi dậy một mầm trong tộc Đavít... Ông này đã là một vị vua mục tử. Ông được đặt lên cai trị dân khi ông còn đang đi chăn chiên. Và ông đã không bỏ mất cái gốc tốt lành này. Dân thấy ông luôn luôn nhu mì, hiền lành, đạo đức, cai trị bằng đức nghĩa chứ không bằng uy quyền. Nhờ ông và nhờ chính sách chăm sóc dân của ông mà Israel đã thống nhất thành một nhà và trở nên như một đàn chiên. Những người kế vị ông không có tâm hồn như vậy, khiến dân lại tan tác như chiên không kẻ chăn... Thiên Chúa phải chấm dứt việc trị dân của họ và phục hồi cho dân một mầm tộc Đavít...
Ai sẽ là mầm chồi này? Lịch sử cho thấy không một vị vua nào thể hiện hết Lời Chúa hứa. Thành ra các lời Yêrêmia nói hôm nay đã trở thành những lời tiên tri và đưa về Đấng Thiên sai Cứu thế. Người sẽ đến săn sóc dân nhân danh Chúa. Người có sứ mạng vương đế, nhưng không trị dân theo lối các vua chúa trần gian. Công việc của Người là tập hợp các chiên của Chúa vì chúng đang tan tác xác xơ... Rồi Người sẽ dẫn chúng đến các nội cỏ để chúng sinh đẻ thật nhiều. Và nhất là chúng sẽ không còn sống trong sợ hãi nữa vì luôn luôn có tiếng của Người gìn giữ chúng.
Người mục tử tốt nào cũng làm như vậy. Đó là gương mẫu cho mọi đầu mục dân. Đó là phận sự của mọi người có sứ mạng vương đế. Người Kitô hữu chúng ta có sứ mạng này. Chúng ta không thấy tiếng gọi của Chúa ở khắp nơi sao? Các chiên của Người đang tản mác và lạc lõng. Ai sẽ là người đưa chúng về tập họp lại nơi đồng cỏ xinh tươi để sinh sản, để béo tốt, để an lành? Nhiệm vụ đó là của chúng ta hết thảy, những người được chia sẻ sứ mạng vương đế của Đức Kitô vua mục tử. Chúng ta phải thi hành và có thể thi hành, nếu biết nhìn vào Người như gương mẫu. Bài Tin Mừng Marcô mời chúng ta làm công việc này. 2. Đức Kitô Là Thầy Nhân Ái
Hôm ấy các tông đồ đi truyền giáo về Đức Yêsu để cho họ nói họ đã làm và dạy những gì, rồi Người bảo họ hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ đi một chút đã.
Chúng ta có thể ngợi khen thái độ chăm sóc của Người. Rõ ràng Người là bậc thầy nhân ái, lắng nghe môn đệ phúc trình nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi.
Nhưng có lẽ đó không phải là điều thánh Marcô muốn chú ý trong đoạn Tin Mừng này. Nhất là như chúng ta sẽ thấy, họ đã gặp đám đông đến đón đường; và họ lại phải cùng Đức Kitô làm việc cho dân. Như vậy, ý tưởng muốn cho môn đệ được nghỉ một chútg không phải là điều trọng yếu.
Đọc kỹ đoạn văn này, chúng thấy dường như thánh Marcô muốn gắn liền các môn đệ vào với Đức Yêsu. Họ phải nên một với Người. Thế nên ở đây có lẽ là chỗ duy nhất thánh Marcô đã dùng từ ngữ "Tông đồ" để nói về các ông. Chúng ta thấy các ông họp nhau lại chung quanh Thầy mình. Và các ông báo cáo công việc đã làm, mà theo như từ ngữ thánh Marcô dùng ở đây, cũng chính là công việc mà Đức Yêsu vẫn làm. Người đã làm và đã dạy, thì Người cũng đã sai họ đi làm và dạy. Làm gì, dạy gì, thánh Marcô chẳng bao giờ xác định. Nhưng trong ý của người, Đức Yêsu cũng như các tông đồ luôn làm và dạy một cách có uy quyền, chứ không như Biệt phái và Luật sĩ. Công việc của Chúa và lời dạy của Người tự bản chất đã khác thường vì đã có uy quyền đến nỗi luôn luôn người ta phải hỏi nhau: việc gì vậy, lời nào thế, sao mà chúng có uy quyền như vậy? Có thể nói rằng người ta ngạc nhiên về hết mọi việc Người làm và mọi lời Người nói. Họ không bỡ ngỡ về chính những việc và những lời ấy, nhưng về uy quyền thoát ra từ những việc và những lời này. Chúng trở thành như dấu hiệu về quyền năng của Thiên Chúa đang muốn tỏ hiện. Nói cách khác, trước mặt dân, Đức Yêsu trở thành nên như con người có uy quyền của Thiên Chúa. Và thánh Marcô cũng muốn cho các tông đồ và cả Hội Thánh có uy quyền như vậy. Đối với người, xưa Đức Yêsu đã có uy quyền thần linh ở trước mặt dân thế nào, thì ngày nay Hội Thánh và các tông đồ cũng có sứ mạng như vậy.
Thế nên Hội Thánh và các tông đồ phải chia sẻ thân phận của Đức Yêsu. Trong sách Tin Mừng Marcô luôn luôn sau mỗi khi tiếp xúc với dân chúng, Người lại rút lui vào yên lặng không phải để cầu nguyện hay nghỉ ngơi cho bằng để phủ nhận sự phấn khởi của quần chúng cứ muốn lôi Người vào quan niệm đầy trần tục về Đấng Thiên Sai và vai trò cứu thế của Người. Họ muốn một vị cứu tinh làm thỏa mãn tâm tư tham lam của họ. Và đó là con đường hy vọng. Đức Yêsu không bao giờ ưng thuận. Và Người bảo các tông đồ của Người phải lui xa, chứ việc rút lui vào nơi hoang vắng để nghỉ ngơi không phải là việc Người muốn khuyên bảo đâu. Ngược lại thì có.
Thật vậy, các tông đồ chưa kịp trốn người ta ở đầu này thì đã gặp quần chúng đón mình ở đầu kia. Thánh Marcô chọn nơi sa mạc làm địa điểm của cuộc gặp gỡ này. Người muốn cho chúng ta thấy Đức Yêsu đứng giữa dân nơi sa mạc. Hình ảnh này không gợi lại khuôn mặt của Môsê đã tập họp con cái Israel lại nơi hoang vu để biến họ nên dân của Chúa sao? Chính Đức Yêsu đã cảm nghĩ như vậy. Người thấy dân như các chiên tản mác... Người xót dạ chạnh thương. Lòng Người bây giờ là lòng của Thiên Chúa như đoạn sách Xuất hành chương 34, 6-7 đã mô tả.
Khi ấy Thiên Chúa thấy dân tội lỗi... Người thương họ hết sức, nên ban luật pháp để quay đầu họ lại. Họ trở nên dân riêng của Người và Người chăm sóc họ. Hôm nay Đức Yêsu cũng làm như thế. Người chạnh lòng thương xót họ. Người đứng ra làm mục tử, kêu gọi các chiên quay đầu trở về đàn. Và vì thế Người đã dạy dỗ dân. Vì sao Người không làm ngay phép lạ bánh hóa ra nhiều để cứu sống họ như Người đã làm, mà lại còn bắt những con người nhọc mệt đó nghe dạy dỗ trước đã? Sách Tin Mừng Yoan sẽ viết như vậy. Đức Yêsu ban bánh cho dân ăn rồi mới khai triển ý nghĩa của việc Người làm. Ở đây Marcô nói rằng Đức Yêsu đã bắt đầu dạy dỗ dân rồi sau mới ban bánh cho họ. Và Người đã dạy dỗ họ nhiều điều, tức là cũng phải khá lâu... Marcô có ẩn ý gì không khi kể như vậy?
Thiết tưởng như đã nói, ở đây Marcô không có ưu tư trước hết là bày tỏ lòng thương xót của Đức Yêsu, nhưng là giới thiệu Người như mục tử của Chúa Cha gửi đến. Quần chúng phải thấy uy quyền của Người trước đã, tức là phải cảm thấy Người bởi Thiên Chúa mà đến. Thế mà trong sách Marcô, người ta đã bắt đầu nhận ra điều đó ngay từ hôm đầu tiên gặp Người ở hội đường Capharnaum. Hôm đó Người đã giảng dạy với uy quyền. Từ đó, Marcô luôn luôn coi việc dạy dỗ của Người như là một cách biểu lộ thần tính của Người.
Đàng khác, công việc đầu tiên của Người mục tử đối với chiên lạc là gì, nếu không phải là kêu nó trở về? Tiếng của mục tử rất quan trọng. Lời giảng của Hội Thánh rất thiết yếu cho việc tập họp dân Chúa.
Hơn nữa khi nói rằng Đức Yêsu đã dạy dỗ dân chúng nhiều điều trước khi ban bánh cho họ, thánh Marcô hẳn cũng đã có ý trung thành với cơ cấu tổ chức phụng vụ trong Hội Thánh. Dân Chúa họp nhau lại trước hết để nghe Lời Chúa dạy dỗ rồi mới bẻ bánh tạ ơn.
Ở đây, Marcô còn muốn gợi lên ý tưởng Đức Yêsu là Môsê mới ở với dân trong sa mạc. Như Môsê cũ đã dùng lời nói và luật pháp quy tụ dân thì Đức Yêsu cũng thành lập dân mới bằng lời dạy dỗ của Người. Ngay đến Manna mà Môsê xin được cho dân ơ nơi sa mạc về sau cũng được đánh giá tương đương với lời từ miệng Thiên Chúa phán ra. Tức là nó chỉ có giá trị vì là tạo vật do Lời Chúa tạo dựng, chứ chất nuôi dưỡng của nó đâu có gì đáng tâng bốc!
Như vậy, thánh Marcô thật rất có lý khi khiến chúng ta chú ý vào việc Đức Yêsu dạy dỗ dân chúng trong sa mạc. Người là Môsê mới đến cứu dân. Người là vị mục tử mà Thiên Chúa hứa sẽ sai đến. Người đang thực hiện các lời tiên tri bằng cách dạy dỗ với uy quyền. Chính Lời của Người sẽ tập họp các chiên tản mác của Chúa lại và nuôi dưỡng chúng, để chúng sinh sản, tức là có đời sống kết quả phong phú, ở trong đồng cỏ của Người là Hội Thánh.
Đức Yêsu đã dùng sứ mạng tiên tri để thi hành sứ mạng vương đế. Hội Thánh và các tông đồ cũng phải làm như vậy. Và hết thảy chúng ta khi sống ơn gọi tiên tri cũng sẽ thi hành sứ mạng vương đế là kéo mọi người về hợp nhất trong một gia đình có Thiên Chúa là Cha. Đang khi ấy chúng ta cũng sẽ thi hành sứ mạng tư tế vì như sẽ thấy trong bài thư Phaolô ở nơi Đức Yêsu cả ba sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế không hề rời nhau khiến chúng ta luôn có thể sống ba sứ mạng ấy một trật. 3. Đức Kitô Là Tư Tế Của Dân Mới
Thánh tông đồ đang nói với người Êphêsô. Trước đây họ là dân ngoại, bị người Dothái gọi bằng tên "không cắt bì", không những không được hưởng những lời hứa thiêng liêng, mà họ còn bị kỳ thị ngay trong các quyền lợi hữu hình. Họ không được vào trong chu vi đền thờ dành cho người Dothái. Giữa hai hạng người có một hàng rào thật sự, khiến dân ngoại luôn luôn phải đứng xa bàn thờ. Hàng rào chia rẽ này dần dần đã trở thành một bức tường oán thù giữa Dothái và dân ngoại. Hố chia rẽ thật là sâu, mặc dù cả hai đều là con Chúa, vì cả hai cùng chung một Đấng tạo thành.
Đức Yêsu đã được Thiên Chúa sai đến để tập họp tất cả nhân loại làm một. Người phải hủy bỏ bức tường ô nhục chia rẽ kia đi. Bằng cách nào, nếu không phải bằng cách bãi bỏ luật pháp với các chỉ thị và lệnh truyền? Chính những cái này đã làm cho Dothái nên một dân riêng rẽ. Ngay hàng rào phân cách dân ngoại nơi Đền thờ cũng do luật pháp này tạo nên. Đức Yêsu phải hủy bỏ luật pháp đã chống lại Người. Nó kết án và đóng đinh Người vào thập giá. Nhưng sự phục sinh của Người đã chứng tỏ luật pháp phải chịu thua. Đức Yêsu đã chiến thắng luật pháp bằng mầu nhiệm thánh giá. Máu Người đổ ra trên thánh giá đã làm sụp đổ bức tường phân cách do luật pháp dựng nên. Thân thể Người ở trên thánh giá đã kéo hai bên Dothái và dân ngoại lên với Thiên Chúa Cha khiến họ cùng nhận ra mình là anh em. Người ban bình an cho kẻ trước đây ở xa bàn thờ cũng như cho kẻ ở gần. Nhân loại được hợp nhất nên một nhờ lễ tế của Người. Và như vậy khi thi hành sứ mạng tư tế, Đức Yêsu đã hoàn thành hai sứ mạng tiên tri và vương đế.
Chúng ta giờ đây được mời tham dự lễ tế của Người. Đây là lễ tạ ơn và hiệp nhất. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì lòng chạnh thương vô bờ bến của Người đã hợp nhất chúng ta lại trong Đức Yêsu. Chúng ta phải cảm thấy đau xót khi thật sự chúng ta chưa cùng nên một. Loài người và chính chúng ta hãy còn như một đàn chiên tản mác. Đức Yêsu đã đến hiến thân để hiệp nhất chúng ta lại. Nhưng tại sao chưa có kết quả? Phải chăng không do việc chúng ta mỗi người cứ đi theo dục vọng của mình mà chưa nghe theo tiếng gọi của Người nói qua sứ mạng tiên tri ở trong Hội Thánh? Chắc chắn cũng tại vì khuynh hướng thống trị ở nơi chúng ta hãy còn quá mạnh, chưa chịu khuất phục trước sứ mạng vương đế của ơn gọi Kitô hữu phải làm cho mọi sức mạnh vâng phục Đức Kitô. Tựu trung chúng ta vẫn chưa hy tế con người cũ của chúng ta đủ để tham dự hoàn toàn vào sứ mạng tư tế của Người. Ước gì thánh lễ hôm nay sau khi hiệp nhất chúng ta trong hy tế của Đức Kitô sẽ ban cho mọi người được nhiều khả năng thi hành Lời Chúa trong đời sống hầu đàn chiên của Chúa mỗi ngày càng thêm duy nhất dưới sự chăm lo của vị mục tử nhân ái là Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Các tông đồ sau cuộc hành trình truyền giáo mà Chúa sai đi. Hôm nay trở về với một số: TN 16-B83
Các tông đồ sau cuộc hành trình truyền giáo mà Chúa sai đi. Hôm nay trở về với một số thành công, các tông đồ trở về vui mừng thuật lại cho Chúa Giêsu những kết quả, những gì các tông đồ đã làm và đã dạy. Chúa Giêsu luôn cảm thông và quan tâm tới các tông đồ. Bởi vì, sự quân bình thân xác và tâm hồn là cần thiết.Do đó, Chúa hiểu giờ đây các tông đồ cần gì, muốn gì. Nên, Ngài muốn các tông đồ nghỉ ngơi để thân xác được giãn xả. Các ngài cần một chút riêng tư để tâm hồn nhẹ nhàng, thoải mái, và để Chúa Giêsu và các tông đồ có thời giờ tâm sự, hàn huyên…
Chúa bảo các tông đồ:” chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút “ ( Mc 6, 31 ). Nghe lời Chúa, các tông đồ đã ra đi với Chúa Giêsu và lên một chiếc thuyền và vào nơi hoang địa. Đúng, sự thinh lặng, nghỉ ngơi và lắng đọng tâm hồn là điều cần thiết cho các tông đồ sau những ngày vất vả với công việc giảng dạy. Sự sâu lắng tâm hồn là điều cần thiết nhất để các tông đồ nhìn lại mình, những lại những công việc mình đã làm và những lời mình đã dạy dỗ. Quan tâm đến đời sống thiêng liêng của các tông đồ, Chúa Giêsu cũng muốn lưu ý mỗi người chúng ta sự huyên náo, ồn ào của cuộc sống hằng ngày sẽ làm con người mệt mỏi, sẽ làm con người quên đi điều thiết yếu là nghỉ ngơi bởi vì thế giới có quá nhiều tiếng động, tiếng ồn ào do các nhà máy, do công ăn việc làm tất bật, do xe cộ lưu thông không ngớt. Con người vẫn cần mỗi ngày một chút, một vài phút để dưỡng sức, để nghỉ ngơi để lắng sâu tâm hồn hầu nghe được tiếng Chúa mởi gọi. Đức Hồng Y Etchegaray đã viết một câu chí lý:” Người ta dễ dàng nghe tiếng cây đổ, nhưng có hằng triệu triệu hạt đang tí tách muốn ngoi đầu lên mặt đất chúng ta không dễ nghe thấy “. Thế giới với những kỹ thuật cao, với văn minh vượt bậc, tiếng ồn ào không còn chỗ cho yên lặng. Các tông đồ xưa cũng có thể bị cuốn hút vào biết bao công việc, nếu Chúa không đánh thức các ngài, chắc chắn các ngài vì mải mê việc làm, vì ham mê chiến thắng, thành công sẽ khó tìm giờ để lắng đọng, để giãn xả tâm hồn thể xác. Chúa nói các tông đồ phải xuống thuyền mà nghỉ ngơi, phải ra đi nơi khác, ra đi khỏi môi trường mình đang sống…
Chúa Giêsu và các tông đồ đã xuống thuyền. Nhưng dân chúng vì quá mến mộ Chúa và các tông đồ. Dân chúng còn đang muốn nghe lời Chúa giảng dạy và xin Chúa an ủi, chữa lành. Do đó, họ đã đoán trước nơi Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ đến, sẽ cập bến. Nên, họ đã đến nơi trước các ngài. Chúa Giêsu thật sững sờ, ngạc nhiên khi thấy đám đông. Chúa Giêsu trông thấy họ thì chạnh lòng thương. Chúa biết họ đang cần Ngài và Ngài yêu thương họ. Tin Mừng viết:” Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”( Mc 6, 34 ). Chúa thương đám đông vì họ vất vưởng, bơ vơ không người hướng dẫn, không ai chăm sóc. Nhu của cá nhân nghỉ ngơi giờ này nhường chỗ cho nhu cầu của đám đông. Đám đông đang cần lắng nghe lời của Chúa. Và Chúa bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều ( Mc 6, 34 ). Đức Giêsu có trái tim mục tử, trái tim thật nhân hậu, dịu hiền. Trái tim luôn biết chạnh thương những kẻ khó nghèo, những kẻ bơ vơ, neo đơn, thấp cổ bé họng. Chúa đến để chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Chúa giảng dạy, Chúa dạy dỗ đám đông nhưng đồng thời Chúa cũng dạy họ và cùng họ cầu nguyện.
Các tông đồ đi vào nơi vắng vẻ không có nghĩa để các ngài chơi, nghỉ ngơi nhưng đó cũng là cơ hội quí báu nhất để các ngài cầu nguyện chung với nhau và cầu nguyện riêng tư với Thiên Chúa Cha. Các tông đồ cầu nguyện, Chúa Giêsu cũng cầu nguyện. Cầu nguyện để lắng đọng tâm hồn, để trò chuyện thân mật với Chúa Cha và để cầu xin Chúa Cha ban thêm can đảm, sức mạnh để tiếp tục hướng dẫn dân chúa. Vâng, khi nào cảm thấy gánh nặng đè xuống đôi vai, chúng ta phải biết cầu nguyện cùng Chúa. Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta.
Thánh Vịnh 22 sẽ giúp mỗi người chúng ta hiểu rõ lòng nhân hậu của Chúa như thế nào:” Chúa là mục tử tôi, tôi nào thiếu thốn chi. Ngài hướng dẫn tôi qua đường chính nẻo ngay vì danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn sức nặng nề, tôi cũng không nao núng. Vì Chúa bước đi cạnh tôi. Ngài củng cố và tăng sức mạnh cho tôi. Khi đời đôi ngã bóng xế chiều như mặt trời khuất bóng, Ngài sẽ dẫn tôi vào nhà của Ngài, để tôi được sống với Ngài mãi mãi muôn đời “.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có con tim nhạy cảm như Chúa để chúng con luôn biết quan tâm giúp đỡ những người khó nghèo. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao con người lại thích ồn ào hơn thích yên lặng ? 2.Các tông đồ sau cuộc truyền giáo đã về kể cho Chúa Giêsu những gì ? 3.Một ngày ông Bà Cô Bác Anh Chị Em đã dành cho Chúa bao nhiêu thời giờ ? 4.Nghỉ ngơi có cần thiết không ? 5.Tại sao Chúa Giêsu lại bảo các tông đồ xuống thuyền mà đi nơi khác ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 6:30-34)
Nhìn vào việc Chúa Giê-su đào tạo các tông đồ, chúng ta học được không biết bao nhiêu điều hay: TN 16-B84
Nhìn vào việc Chúa Giê-su đào tạo các tông đồ, chúng ta học được không biết bao nhiêu điều hay và thực tế. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày hai tình huống đặc trưng của hoạt động tông đồ và đòi hỏi người tông đồ phải biết thích nghi. Trước hết là Chúa Giê-su mời gọi “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, và thứ đến, Chúa “thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”.
Lòng nhiệt thành tông đồ là cần thiết. Nhưng khi lòng nhiệt thành đi quá mức độ thì không còn là điều tốt nữa; nó có thể đưa người tông đồ tới thái độ quá khích, cuồng tín và nhất là dễ làm cho họ kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Có lẽ nhận thấy nguy hiểm ấy đang nhen nhúm nơi Nhóm Mười Hai sau một chuyến truyền giáo hăng say và thành công, Chúa Giê-su đã tế nhị nhắc khéo các ông hãy “nghỉ ngơi một chút”. Nghỉ ngơi đang khi làm việc tông đồ không phải là lãng phí thời gian, nhưng là để bồi dưỡng thể lực cũng như thiêng liêng. Thánh sử Mác-cô đã giải thích tại sao Chúa bảo các môn đệ phải nghỉ ngơi: “Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”. Cho nên các ông cần ăn uống thư giãn, cần ở lại bên Đấng kêu gọi người ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mát-thêu 11:28).
Nhưng có lẽ các tông đồ vừa nghỉ ngơi được một chút, tình huống lại thay đổi khi dân chúng lũ lượt theo đường bộ đến ngay tại nơi thanh vắng trước khi các ngài tới. Thế là nhu cầu việc tông đồ lại xoay chuyển sang phía dân chúng là “bầy chiên không người chăn dắt”. Họ cũng cần được bồi dưỡng bằng lời giảng của Chúa và của ăn phần xác nữa. Chúa Giê-su đã nêu gương cho các tông đồ trong tình huống này. Người “chạnh lòng thương” dân chúng nên “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Chúa Giê-su đã chọn ưu tiên phục vụ cho dân chúng thay vì cùng với các tông đồ nghỉ ngơi.
Hăng say làm việc tông đồ là một chuyện, nhưng vì những ưu tiên và vì những lợi ích lớn hơn, kẻ làm việc tông đồ phải biết ứng dụng tinh thần tông đồ vào đúng tình huống và có một chọn lựa thích đáng với hoàn cảnh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tất cả chúng ta đều được mời gọi và khuyến khích hăng hái tham gia việc tông đồ ngay tại hoàn cảnh sống của mình. Những người thờ ơ với việc tông đồ cần xét lại thái độ là điều dĩ nhiên. Nhưng những người hăng say cũng cần học hỏi nơi Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay.
Không thiếu những anh chị em giáo dân thật đáng khen vì họ luôn có mặt trong mọi công tác tông đồ của giáo xứ hay cả giáo phận nữa. Nhưng cũng không thiếu những phàn nàn về họ, nhất là từ những người thân trong gia đình. Lời phàn nàn thường là: việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Quá hăng say với việc tông đồ rồi quên đi bổn phận gia đình là mất thăng bằng đời sống! Có khi việc tông đồ trở thành cái bệ để người tông đồ đứng trên cao mà coi thường người khác! Có khi việc tông đồ quá bận rộn nên họ không có giờ hay không thích dạy dỗ con cái, do đó thiếu tình yêu cha mẹ thì chúng đi tìm tình yêu không đúng chỗ hoặc lao vào những sa đọa; thế là xảy ra cảnh cha mẹ là thánh, còn con cái là ma quỷ! Công Đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta rằng việc truyền giáo phải bắt đầu từ giáo hội tại gia.
Đời sống của người làm việc tông đồ luôn hài hòa và quân bình. Hài hòa giữa những bổn phận riêng mình với những bổn phận đối với Giáo Hội và xã hội. Quân bình và liên đới giữa đời sống hoạt động và đời sống thiêng liêng. Cầu nguyện để có sức mạnh và khôn ngoan làm việc tông đồ. Đổi lại, làm việc tông đồ để nhận ra mình chỉ là dụng cụ Chúa dùng và mình biết hoàn toàn nương tựa vào Chúa để làm vinh danh Người. Qua cầu nguyện và chiêm ngưỡng Chúa Giê-su, vị Tông Đồ Tiên khởi được Chúa Cha sai đến trần gian, chắc chắn chúng ta học được những bài học tuyệt vời khi theo Người lên đường thi hành sứ mệnh.
Mc 6:30-34: 30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât: TN 16-B85
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
Thư Ê-phê-xô khai triển chủ đề Mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Mầu nhiệm Giáo Hội đã được nói: TN 16-B86
Thư Ê-phê-xô khai triển chủ đề Mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Mầu nhiệm Giáo Hội đã được nói đến trong thư Cô-lô-xê. Sự hiện diện và vai trò của Giáo Hội Chúa Ki-tô nằm trong kế hoạch yêu thương nhiệm mầu của Thiên Chúa. Giáo Hội có mặt để xóa đi ngăn cách giữa Do-thái và Dân ngoại, mở rộng ơn cứu độ cho mọi người theo tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa. Sau khi giới thiệu tổng luận về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa (Ep 1), thánh Phao-lô bắt đầu đi vào chi tiết, quảng diễn mối giao hòa giữa Do-thái và Dân ngoại được thể hiện trong Đức Ki-tô. Trước hết, chúng ta sẽ căn cứ vào tình huống của tín hữu Ê-phê-xô để theo dõi tư tưởng của ngài. Tiếp đến là suy nghĩ về bản chất và hiệu quả của việc giao hòa giữa Do-thái và Dân ngoại, nói khác đi, là về bản chất của Giáo Hội.
a) Từ kinh nghiệm của một cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Dân ngoại
Thánh Phao-lô bắt đầu đề tài về Giáo Hội với kinh nghiệm Ê-phê-xô. Ê-phê-xô tượng trưng cho mọi người không thuộc về dân tộc Do-thái. Theo mạch văn từ đầu chương 2 trở đi, Phao-lô nhắc nhớ tín hữu Ê-phê-xô về lối sống cũ của họ. Xưa kia họ là những người “đã chết vì những sa ngã và tội lỗi” (2:1). Ngoài ra, vì họ thuộc “giới không cắt bì” nên không được hưởng quyền công dân của Ít-ra-en và các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa (2:11-12). Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng giàu tình thương và lòng thương xót đã cho cả người Do-thái lẫn Dân ngoại được cùng sống với Đức Ki-tô. Như vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã làm cho Dân ngoại được đổi mới.
Sau khi mô tả tình trạng đáng thương của những người “không có Đức Ki-tô, không có niềm hy vọng,” thánh Phao-lô giải thích tình trạng đổi mới trong Đức Ki-tô. Trước hết, Đức Ki-tô phá bỏ bức tường ngăn cách người Dân ngoại với người Ít-ra-en, để trong Đức Ki-tô cả hai làm thành con người mới và một dân mới. Bức tường ngăn cách ấy là Lề Luật Mô-sê, tựa như một ngăn cản xã hội tách biệt Dân ngoại với Do-thái và không cho phép người Do-thái chia sẻ gì với Dân ngoại. Nhưng khi chết trên thập giá, Đức Ki-tô đã chấm dứt Lề Luật ấy và làm cho Do-thái lẫn Dân ngoại trở nên một trong thân xác Người. Máu là nguyên lý sự sống. Bởi đó từ nay, để làm con Thiên Chúa người ta không nhất thiết phải có dòng máu của tổ phụ Áp-ra-ham nữa, nhưng là mang dòng máu Đức Ki-tô đã đổ ra trên thập giá.
b) Việc giao hòa Do-thái với Dân ngoại đem lại những gì?
Khi giao hòa Do-thái với Dân ngoại, hoặc thiết lập một Dân mới tức là Giáo Hội, Đức Ki-tô đã làm gì cho nhân loại, đó là những suy tư tiếp theo của thánh Phao-lô. Cái chết trên thập giá của Đức Ki-tô đã đem lại bình an cho nhân loại. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến sự chết A-đam đã di lại cho nhân loại khi ông ăn trái cấm trong vườn Địa đàng. Cây biết lành biết dữ trong vườn Địa đàng đã sinh trái độc hại là sự chết, thì trái lại, cây thập giá của Đức Ki-tô là A-đam Mới đã đem lại sự sống cho loài người. A-đam cũ đã làm mất đi sự bình an và chuốc lấy vất vả lo âu, còn A-đam Mới đã phục hồi sự bình an, bình an trong tương quan giữa con người với con người và giữa con người với Thiên Chúa.
* Bình an giữa con người với con người: Qua việc liên kết dân Do-thái với Dân ngoại, Đức Ki-tô đã phá bỏ đi bức tường ngăn cách đôi bên là sự thù ghét. Lý do tại sao sự thù ghét ấy tồn tại có thể là do Lề Luật Mô-sê. Lề Luật quy định những giới hạn khiến dân Do-thái không thể vượt qua để đến với Dân ngoại, thí dụ không thể yêu thương kẻ thù (x. Mt 5:43-48), hoặc ngược lại. Đức Ki-tô đến để kiện toàn và thay thế cho Lề Luật (Mt 5:17). Cho nên từ nay, trong Lề Luật mới hoặc Luật Tin Mừng, Do-thái và Dân ngoại không còn là kẻ thù nữa, nhưng là anh chị em con cùng một Cha trên trời. Liên kết giữa Do-thái và Dân ngoại tượng trưng cho liên kết giữa con người với con người mọi nơi. Trong Đức Ki-tô, những ngăn cách do chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa đều bị xóa bỏ. “Vậy không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3:11).
* Bình an giữa con người với Thiên Chúa: Nếu máu của Đức Ki-tô đổ ra trên thập giá đã xóa đi mọi ranh giới ngăn cách con người với con người, thì cũng máu ấy sẽ hòa giải tất cả nhân loại với Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người trở thành thù địch của Thiên Chúa. Nhưng nhờ máu Đức Ki-tô, tội lỗi của con người được tha thứ và con người lại được phục hồi ân nghĩa với Thiên Chúa. Ân nghĩa ngày xưa ấy được mô tả như mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Sách Sáng thế (3:8) nhắc tới việc Thiên Chúa “đi dạo trong vườn lúc gió thổi” để đến gặp gỡ con người. Nhưng sau khi đã phạm tội, con người “nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn” thì vội vàng lẩn trốn Người, vì họ đã thành thù địch của Người rồi. Giờ đây trên thập giá, Đức Ki-tô đã lấy máu mình để “tiêu diệt sự thù ghét” của loài người đối với Thiên Chúa.
Chung quy cũng chỉ là sự thù ghét đã làm mất đi bình an. Chính vì thế, qua Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch yêu thương để tiêu diệt sự thù ghét và đem lại bình an và hòa giải cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta được hòa bình với anh chị em và hòa giải với Thiên Chúa, “chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:18). Một lần nữa, thánh Phao-lô lại nhắc đến một công trình có hoạt động liên hợp của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mục đích tối hậu của công trình này là giúp cho toàn thể nhân loại được trở về hiệp nhất với Tình Yêu vĩnh cửu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Qua những trình bày của thánh Phao-lô trong đoạn thư trên, tôi có những ý nghĩ mới mẻ nào về Giáo Hội? Những suy tư ấy giúp tôi nhận ra vẻ đẹp của Giáo Hội và thêm lòng yêu mến Giáo Hội như thế nào?
Máu Thánh Đức Ki-tô thường ít khi được đề cập đến. Vậy Máu Chúa từ nay đối với tôi có ý nghĩa gì? Trong kinh “Lạy hồn Chúa Ki-tô” có câu “Lạy Máu Thánh Chúa Ki-tô, xin làm cho con say mến Chúa.” Tôi hiểu ý nghĩa lời kinh thế nào?
Tôi có cầu nguyện cho Giáo Hội không? Tôi phải làm gì để tập cầu nguyện hằng ngày cho Giáo Hội?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, cùng hát bài “Xin hiệp nhất chúng con...”, hoặc đọc kinh nguyện sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)
Tin Mừng Chúa Nhật 16 hôm nay, Chúa Kitô nói tới nhu cầu nghỉ ngơi. Lời Chúa Kitô: "Các con hãy: TN 16-B87
Tin Mừng Chúa Nhật 16 hôm nay, Chúa Kitô nói tới nhu cầu nghỉ ngơi. Lời Chúa Kitô: "Các con hãy lui ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút". Điều khuyên rất thích hợp với thời điểm mùa hè này. Nhiều nơi thời tiết nóng bức lên tới cả trăm độ F thì việc nghỉ ngơi, ra biển, hay tới những chỗ mát mẻ là điều cần thiết.
Theo các nghiên cứu y học thì nhịp sống nghỉ ngơi rất cần thiết cho công việc làm hằng ngày. Sau khi nghỉ ngơi chúng ta có thể tiếp tục làm việc lại một cách đều đặn, vì trong lúc nghỉ ngơi thân xác chúng ta có thời gian thư dãn, phục hồi lại những năng lượng đã mất. Số năng lượng tái tạo mới này sẽ bổ sung cho nhịp độ làm việc kế tiếp. Nếu không có sự nghỉ ngơi, con người sẽ không thể nào tiếp tục làm việc một cách tích cực và hiệu quả được. Hy vọng sau những ngày nghỉ ngơi dài, ngắn, chúng ta vui tươi trở lại làm việc với tinh thần mới.
Đức Thánh Cha Bênêđict XVI vào những ngày hè này cũng rời Vatican để bắt đầu kỳ nghỉ hè kéo dài 2 tuần tại những vùng Bắc Ý, nơi cao, khí hậu mát mẻ. Chân Phước Giáo Hoàng John Paul II cũng rất hay lui tới vùng Bắc Ý qua các kỳ nghỉ hè trước đây. Và vì khí hậu Roma vào tháng 7 và tháng 8 rất nóng, nên tiếp theo sau thời gian nghỉ hè này các Đức Giáo Hoàng thường sẽ trở về cung điện mùa hè Castel Gandolfoi, cách Rome 18,5 dặm về phía Nam, để ở đó cho đến cuối tháng 09.
Nghỉ ngơi là điều được nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh, như trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Ngôn sứ Giêrêmia nói: "Ta sẽ qui tụ phần còn lại của chiên Ta... và Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên, và tăng thêm" (Giêr. 23). Và trong bài Đáp Ca, Ngài sẽ: "dẫn tới dòng nước, chốn nghỉ ngơi, Người dẫn tôi đi, để làm sống lại tinh thần bải hoải." (T V. 22).
Những lời này qui chiếu về Chúa Kitô, Ngài cẩn thận chú ý đến từng thành phần trong nhân loại. Trong bài Tin Mừng, Chúa Kitô lo lắng cho các môn đệ, vì họ mệt nhọc sau sứ mệnh tông đồ, rong ruổi từ những làng mạc tới những thành lân cận. Ngài nói: "Các con hãy đến chỗ thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Vì nhiều khi các tông đồ bận rộn, không có thời giờ để ăn uống nữa.
Cuộc đời chúng ta cũng giống như cuộc đời các tông đồ là phụng sự Chúa Kitô, phục vụ gia đình và xã hội. Trong khi phục vụ, nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và rất cần tới sự nghỉ ngơi. Kinh nghiệm bản thân, khi cuộc sống bận rộn, mệt nhọc, chúng ta ít kiên nhẫn, hay sinh ra bẳn gắt, nóng nảy, ảnh hưởng không tốt đến những phẩm chất những việc tốt lành và có khi ngay cả công việc tông đồ. Rồi từ đó biết đâu chúng ta lại có những phản ứng tiêu cực xẩy đến cho vợ chồng, con cái, đến những người thân, và cả những bạn bè.
Trong những bận bịu của cuộc sống, con người cần sự nghỉ ngơi, vì theo lời Thánh Grêgoriô Naziana: "Sợi dây không thể căng mãi và người bắn cung cần phải nới lỏng hai đầu cung, nếu muốn sau này lại giương lên bắn nữa". Thánh Augustinô thì cho rằng Thiên Chúa muốn chúng ta càng làm việc thì càng phải ở trong tình trạng thể lý tốt, vì Chúa chờ đợi nhiều ở nơi chúng ta. Ngài nói: "Hỡi anh em, hãy coi Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào, vì khi ta nghỉ ngơi, thật là Thiên Chúa nghỉ ngơi".
Mong ước rằng tuy sự nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết, chúng ta cũng hãy biết thánh hoá những sự nghỉ ngơi và giải trí này. Trong sự thanh vắng, nghỉ ngơi của tâm hồn và thân xác, mỗi người cũng hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria để Mẹ dạy chúng ta yêu thích sự yên lặng và cầu nguyện.
Có một chứng bệnh ngày nay người ta nhắc đến khá nhiều, đó là “bệnh vô cảm”. Bệnh này đông: TN 16-B88
Có một chứng bệnh ngày nay người ta nhắc đến khá nhiều, đó là “bệnh vô cảm”. Bệnh này đông tây y đều bó tay, không thể chữa lành. Bệnh vô cảm đang lây lan từ trong nhà ra ngoài phố, từ thành thị đến thôn quê, từ giữa những người xa lạ đến những người thân trong gia đình. Nạn nhân của bệnh vô cảm thì nhiều vô kể: những em bé lang thang, những người già bất hạnh, những gia đình ly tán… Các phương tiện thông tin nhan nhản những hậu quả của căn bệnh này. Bệnh này vừa gây tai hại cho người về tinh thần vật chất, vừa làm xói mòn lòng tin giữa con người với nhau. Trong xã hội của nền kinh tế thị trường, người ta có nguy cơ biến mọi sự thành hàng hóa và lợi nhuận là mục đích hàng đầu. Trái tim con người trở nên chai đá trước nỗi đau của đồng loại. Vì tiền người ta có thể làm mọi sự, kể cả chém giết, cướp bóc và làm cho huynh đệ tương tàn.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hậu quả tai hại trên đây, đó là sự lãng quên Thiên Chúa, coi thường tiếng nói của lương tâm. Thực vậy, khi không tin vào Chúa, thì chẳng có gì ngăn cản người ta làm điều thất đức. Khi không tôn trọng lương tâm thì chẳng có gì giữ họ khỏi những việc làm xấu xa. Thiên Chúa là trọng tài phân định việc tốt việc xấu. Lương tâm là tòa án được thiết lập để nhắc bảo đâu là điều chính nẻo ngay. Nhờ tin có Chúa mà con người tìm đường hướng đi cho cuộc sống. Nhờ lắng nghe lương tâm mà con người nhận ra những chuẩn mực của cuộc đời. Lãng quên Thiên Chúa sẽ làm cho con người mất lý tưởng. Phủ nhận lương tâm sẽ làm luân lý băng hoại suy đồi.
Trước một đám đông đang đói khát chân lý, Đức Giê-su đã “chạnh lòng thương”, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Sứ mạng của Đức Giê-su là đem cho nhận loại tình thương của Thiên Chúa. Giáo huấn của Người nhằm giúp cho con người tìm được chân lý vĩnh cửu, đồng thời tìm được ý nghĩa trong cuộc sống hiện tại.
Không chỉ đem cho con người tình thương của Thiên Chúa, Đức Giê-su còn giáo huấn và mời gọi con người hãy thực thi tình mến đối với nhau. Chúng ta có thể chữa được căn bệnh vô cảm, nếu biết noi gương Đức Giê-su, để có một trái tim nhân hậu và quan tâm để ý đến những người xung quanh mình. Thực vậy, Đấng Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta - đã cảm thông an ủi những người đau khổ và giúp họ lấy lại nghị lực và niềm tin. Tình liên đới với anh chị em là một trong đặc tính căn bản của Ki-tô giáo, vì qua đó, người tín hữu thể hiện hình ảnh của Thiên Chúa, “Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Chính Đức Giê-su đã đến để liên kết muôn dân nên một..Ai cũng được có thể được đón nhận Tin Mừng Người rao giảng. Không còn sự phân biệt giữa các dân tộc hay nền văn hóa, mà hết thảy đều trở nên một thân thể duy nhất (x Bài đọc II).
Khi có cái nhìn như cái nhìn “chạnh lòng thương” của Chúa Giê-su, chúng ta sẵn sàng nâng đỡ những anh chị em của mình, nhất là những người yếu đuối và bất hạnh. Sống trong cuộc đời, mỗi người cũng cần có trách nhiệm đối với nhau và đối với công ích xã hội. Nhiều người tín hữu rất dửng dưng với những phong trào do xã hội khởi xướng nhằm làm đẹp quê hương, giúp bài trừ những tệ nạn, thăng tiến con người và xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh. Những đóng góp tuy nhỏ nhưng nhiều người góp lại sẽ trở thành việc lớn. Xây dựng trái đất này cho tốt đẹp và nhân ái hơn, cũng chính là thực thi giáo huấn của Chúa Giê-su trong Tin Mừng. Trong cuộc sống hôm nay, biết bao người đang khao khát đón nhận Lời Chúa làm lẽ sống và lương thực thiêng liêng. Nhân loại thời nào cũng giống như đàn chiên không có người chăn, cần có người hướng dẫn và giúp họ khỏi lạc đường. Lời Chúa hôm nay cũng ngỏ với các mục tử trong Giáo Hội, là những người lãnh trách nhiệm hướng dẫn các cộng đoàn đức tin. Mối quan tâm hàng đầu của các mục tử phải là tận tâm phục vụ cộng đoàn được trao phó, làm cho đời sống đức tin được nẩy nở và phát triển. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử trong Giáo Hội và những người có trách nhiệm trong hệ thống lãnh đạo dân sự, để mọi người đều biết lo lắng cho công ích chung. Khi chuyên cần lắng nghe và thực hành Lời Chúa, mỗi tín hữu chúng ta cũng đang cộng tác với sứ mạng của các mục tử, góp phần quản trị Giáo Hội địa phương và làm cho tình liên đới được triển nở nơi mọi người. “Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ, như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa là: hoàn toàn hiến dâng, hoàn toàn tương quan, hoàn toàn yêu thương” (Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận ĐHV 606). Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa Giêsu phải đối diện cùng một lúc sự hiểu sai của các môn đệ thân tín nhất và sự bơ vơ vất: TN 16-B89
Chúa Giêsu phải đối diện cùng một lúc sự hiểu sai của các môn đệ thân tín nhất và sự bơ vơ vất vưởng của đám đông dân chúng.
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 6,30-34) trình thuật phản ứng của Đức Giêsu sau khi Nhóm Mười Hai trở về và kể lại cho Người những gì họ đã thực hiện.
“Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy” (c.30). Như chúng ta đã đọc trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu sai đi từng hai người một (6,7). Bây giờ họ trở về sau khi đã kết thúc các hoạt động của mình. Họ kể lại cho Đức Giêsu biết về tất cả những gì họ đã làm, và có lẽ là kể rất sôi nổi, không bỏ sót chút gì. Những điều họ kể, về căn bản, đã được trình bày trong 6,12-13: họ đã rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối, họ đã trừ quỷ và họ đã xức dầu chữa lành những người bị bệnh. Chắc chắn là với những hoạt động như thế, họ đã khơi lên trong lòng người dân Do Thái niềm hy vọng phục hưng quốc gia và dân tộc Do Thái. Nhưng tất cả những hoạt động đó đều không đúng với lệnh truyền của Đức Giêsu dành cho họ trong thời điểm này khi sai họ đi.
Bên cạnh đó, c.30 còn nói đến một hoạt động khác nữa của các thành viên Nhóm Mười Hai: họ giảng dạy. Đức Giêsu chưa hề sai họ đi giảng dạy. Trong Mc, giảng dạy là trình bày sứ điệp bằng cách lấy cảm hứng và xuất phát từ Cựu Ước. Hoạt động này rất khác với việc công bố sứ điệp. Đức Giêsu không hề trao phó cho ai công việc giảng dạy. Chính bản thân Người cũng chỉ thực hiện việc này khi đối diện với cử tọa toàn người Do Thái và suy nghĩ theo não trạng Do Thái (1,21b; 2,13; 4,1; 6,2; 9,31...). Với những cử tọa có những người không dựa theo Do Thái giáo, Người chỉ “nói” chứ không “giảng dạy” (x. 8,34; 9,35tt...). Khi tác giả Mc nói rằng Nhóm Mười Hai trình bày cho Đức Giêsu “mọi điều các ông đã dạy” (c.30) thì có nghĩa là họ đã giới hạn hoạt động của mình chỉ trong phạm vi Do Thái, tức là không hoàn toàn đúng với chỉ thị của Đức Giêsu. Thay vì tiếp xúc với mọi hạng người, không phân biệt, thì họ lại đã chỉ quanh quẩn trong thế giới Do Thái và củng cố niềm hy vọng Do Thái về việc phục hưng dân tộc.
“Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút" (c.31a). Đức Giêsu đã lắng nghe các ông kể lại mọi sự. Người không khen ngợi các ông lời nào, cũng không đưa ra bất cứ sự chuẩn nhận nào đối với những gì các ông đã thực hiện, thậm chí còn chẳng nói gì đến việc các ông đã thay đổi công việc, không làm như Người đã truyền. Nhưng lập tức, Người bảo các ông lánh riêng ra một nơi thanh vắng, tức là Người muốn ở riêng với các ông mà thôi.
Hoạt động mà các thành viên Nhóm Mười Hai vừa thực hiện, như chúng ta vừa nói, đã chỉ giới hạn trong thế giới Do Thái, và do đó, đã bóp méo sứ điệp cứu độ của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Điều đó chứng tỏ họ còn rất xa lạ với Đức Giêsu và chương trình của Người. Người đã sai họ đi, trong lần sai đi thứ nhất vừa rồi, là với hy vọng họ sẽ làm mới sự dấn thân đi theo Người. Nhưng họ đã không hiểu đúng ý Người. Bây giờ, Người muốn tìm đến một nơi thanh vắng để nói riêng với họ, khi chỉ có thầy trò với nhau. “Nơi thanh vắng”, tức là “hoang địa”, không chỉ có ý nghĩa chỉ về một nơi chốn địa dư, mà còn có nghĩa bóng, ám chỉ một sự cắt đứt khỏi những giá trị đang chi phối xã hội Do Thái. Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ của Người đến “nơi thanh vắng” đó nữa, chứ không chỉ là một nơi chốn theo nghĩa địa dư.
“Nghỉ ngơi” (anapauô) không chỉ có nghĩa là một trạng thái tạm ngừng một vài hoạt động để sức khỏe được phục hồi. Hạn từ “sự nghỉ ngơi” được sử dụng trong Is 14,3 (LXX) để nói về sự giải thoát của Thiên Chúa khỏi ách nô lệ Babylon. Tương tự như trong 7,32 và 8,23, ở đây tác giả Mc ám chỉ một bản văn ngôn sứ nói về sự giải thoát khỏi ách nô lệ để cho thấy một tính chất quan trọng của hành động mà Đức Giêsu đang muốn thực hiện cho các môn đệ: Người muốn giải thoát họ khỏi sự kềm tỏa của những lý tưởng Do Thái đang đè nặng trong tâm trí và hoạt động của họ.
“Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa” (c.31b). Tình cảnh của các môn đệ lúc này, quả thực, là khá đặc biệt. Rất nhiều kẻ lui tới tiếp xúc với nhóm và biểu tỏ sự đồng ý với những gì các ông đã dạy và đã làm. Điều đáng ghi nhận là đám đông không tìm Đức Giêsu nữa. Họ tiếp xúc với nhóm các môn đệ, tất nhiên là nhóm có Đức Giêsu được hình dung và trình bày như là vị thủ lãnh đứng đầu. “Kẻ lui người tới” không phải để gặp Đức Giêsu, cũng không đến vì Đức Giêsu như tác giả Mc đã cố ý nhấn mạnh trong những dịp trước đây (1,32; 1,45; 3,7; 4,1; 5,21).
Đám đông kéo đến quá đông khiến cho các môn đệ chẳng có thời giờ ăn uống. Tình cảnh tương tự như ở 3,20. Sự ăn uống được nói đến ở đây rõ ràng ám chỉ sự “ăn bánh” được nói đến trong 3,20. Trong cách nói của các rabbi Do Thái, “bánh” nói đây chính là Luật và “ăn bánh” có nghĩa là được thấm nhuần Lề Luật của Thiên Chúa. Trong trường hợp của Nhóm Mười Hai, điều họ cần phải được thấm nhuần là sứ điệp của Đức Giêsu. Tuy nhiên, kẻ lui người tới quá đông đã không cho phép điều đó xảy ra. Theo nghĩa này, chúng ta càng hiểu rõ hơn tại sao Đức Giêsu muốn các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, để chỉ có các ông ở riêng với Người mà thôi.
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu đề nghị các môn đệ lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng. Và đề nghị này đã được các ông chấp nhận. “Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (c.32). Việc lặp lại hai yếu tố “nơi thanh vắng” và “riêng ra” cho thấy chủ đề được nhấn mạnh ở trình thuật này là gì: “nơi thanh vắng” là nơi tách biệt khỏi những ảnh hưởng của các giá trị Do Thái, và “riêng ra” có ý nhắc đến sự chưa thấu hiểu của các môn đệ như trong trường hợp 4,34. Như vậy, trong ý định của Đức Giêsu, việc thầy trò lánh riêng ra một nơi hoang vắng này là để Người có thể điều chỉnh sự chưa hiểu đúng của các môn đệ, trong khung cảnh tách biệt khỏi xã hội Do Thái và đám rất đông kẻ lui người tới.
“Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài” (c.33). Trong cái nhìn của đám đông, Đức Giêsu và các môn đệ làm thành một nhóm, không có sự phân biệt giữa các ngài với nhau. Đám đông muốn được gặp các ngài. Vì thế, họ kéo nhau theo đường bộ mà chạy đến nơi. Họ “cùng nhau chạy bộ”, và là “từ khắp các thành”. Sự kiện này chứng tỏ họ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi một mối quan tâm và ý tưởng chung. Đáng chú ý là họ đến từ các thành, tức là họ không phải dân cư của các “làng”, nơi Đức Giêsu đã giảng dạy (6,6b), mà là cư dân của các trung tâm quan trọng, nơi có các hội đường Do Thái. Rõ ràng đám đông này là đại diện cho tất cả những người Do Thái sống dưới ảnh hưởng của đạo lý chính thức của Do Thái giáo, đang khi Đức Giêsu đã trở thành người bị từ khước trong hội đường của “vùng đất của Người” như chúng ta đã suy niệm trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật XIV Thường Niên trước đây.
“Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34). Đám đông dân chúng kéo đến đã làm gián đoạn việc thực hiện ý định của Đức Giêsu khi Người đề nghị các ông lánh riêng ra một nơi thanh vắng. Mặc dù vậy, Người vẫn ưu ái dành cho đám đông ấy một tình yêu thương rất đặc biệt.
Cần chú ý một chi tiết: đám đông chờ đợi cả nhóm, tức là bao gồm cả Đức Giêsu lẫn các môn đệ, nhưng tác giả Mc lại tách riêng Đức Giêsu khỏi các môn đệ, và vào lúc này, ông để cho các môn đệ biến mất khỏi sân khấu.
Đức Giêsu chú ý đến sự hiện diện của đám đông dân chúng và tình trạng thực tế của họ. Và Người chạnh lòng thương họ. Đây cũng là tâm tình của Người trước tình cảnh của người phong cùi trong 1,40-42. Trong Cựu Ước, lòng chạnh thương là tâm tình của Thiên Chúa đứng trước sự khốn khổ nhân loại. Đức Giêsu chạnh thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, không biết phải đi đâu, không có ai hướng dẫn và bảo vệ. Như chúng ta đã nói trên kia, đám đông này đến từ các thành, tức là từ những nơi có hội đường và được hưởng sự hướng dẫn của thiết chế Do Thái. Thế mà tình cảnh của họ lại là tình cảnh của đàn chiên không người chăn dắt. Điều này chứng tỏ các nhà lãnh đạo Do Thái không phải là những mục tử đích thực. Đây là lần đầu tiên trong Mc Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò mục tử của Israel. Từ trước đến nay Người mới chỉ đảm nhận vai trò ngôn sứ (x. 6,4).
“Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”, tức là Người bắt đầu nói với họ về Nước Thiên Chúa, xuất phát từ những chỉ dẫn của Cựu Ước. Tác giả Mc đã không nói gì về nội dung Đức Giêsu giảng dạy ở đây, nhưng từ sự song song giữa 6,34 với 4,2 chúng ta có thể hiểu là Người nói với họ nhiều điều về Nước Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về một khía cạnh đặc biệt trong tình cảnh của Đức Giêsu: Người phải đối diện cùng một lúc sự hiểu sai của các môn đệ thân tín nhất và sự bơ vơ vất vưởng của đám đông dân chúng. Mỗi nhóm có vấn đề riêng của họ, nhưng đối với cả hai nhóm, Đức Giêsu đều chạnh thương, tất nhiên là theo những cách thức khác nhau. Nổi bật trong dung mạo của Đức Giêsu được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay là tình yêu nhân hậu vô cùng của Người.
Trong thực tế của cuộc sống và sứ vụ hiện nay của Hội Thánh, chúng ta vẫn thường xuyên phải đối diện với cùng một tình cảnh như những gì được trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay. Và Đức Giêsu cũng vẫn đang chạnh thương tất cả chúng ta bằng tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, như Người đã từng chạnh thương Nhóm Mười Hai và đám đông trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa suy niệm...
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy: TN 16-B90
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
1. Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa. Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị. Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần. Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
3. Thinh lặng để sống nội tâm
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.
Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá. Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Nếu có dịp về vùng quê nhìn những con sông lạch vào những mùa mưa bão, chúng ta sẽ thấy: TN 16-B91
Nếu có dịp về vùng quê nhìn những con sông lạch vào những mùa mưa bão, chúng ta sẽ thấy dòng nước mang đầy phù sa màu đất đỏ và trở nên dục bẩn. Nhưng rồi một khi mưa bão qua đi, dòng nước chảy chậm lại và các thứ bùn, bẩn cũng từ từ lắng xuống thì làn nước sẽ trong xanh trở lại. Những quan sát sự diễn biến trong thiên nhiên như thế có thể áp dụng vào cuộc sống tâm sinh lý của con người chúng ta.
Thật thế, nếu thân thể của chúng ta cứ ngày này sang ngày nọ luôn phải vất vả, cố sức, chúng ta sẽ trở nên mệt mỏi và nếu cứ tiếp tục như thế mãi, sẽ có ngày thân thể chúng ta trở nên đuối sức và lâm bệnh. Cũng vậy, nếu tinh thần chúng ta luôn phải gồng mình để chống chọi với đủ thứ thử thách, luôn bị căng thẳng, thì sớm muộn cũng sẽ bị suy yếu và kiệt lực, trí khôn hết minh mẫn.
Vì thế, cũng như nước trong dòng sông sau những trận mưa bão lại lắng đọng mọi bùn đất và dơ bẩn, cuộc sống, cơ thể và tinh thần con người sau những lam lũ vất vả cũng cần phải có thời gian nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Cái nhịp điệu: Lao động và nghỉ ngơi; căng thẳng và thư giản luôn phải được luân phiên thay đổi trong cuộc sống hằng ngày của con người.
Trong tin mừng hôm nay, có lẽ Chúa Giêsu muốn phê chuẩn và khẳng định cái nhịp sống đó của con người. Phải, sau chặng đường dài thi hành sứ vụ của các môn sinh, không hành trang tiền bạc, chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy đường xa và con tim đầy ắp niềm vui của hành trình loan báo tin mừng, các ông đã trở về với Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm, mọi điều các ông đã dạy”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy nếp nhăn của mệt mỏi, rã rời ẩn bên dưới lớp hào quang của niềm vui ngày sum họp. Cho nên, một mặt, đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các tông đồ, nhưng mặt khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài nhẹ nhàng kéo các tông đồ rời khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sở dĩ như thế là vì Chúa sợ các môn đệ của mình nhiễm cái thói hám danh, thích khoe khoang, phô trương, quyền lực, vì Chúa muốn những thành công ấy trở nên một khởi điểm tốt đẹp cho chặng đường tiếp theo, chứ không làm các ông tự mãn rồi rơi vào ảo tưởng. Khi bảo các môn đệ lui vào nơi thanh vắng để ngơi nghỉ, Ngài muốn các ông có một điểm tựa, một chặng dừng cần thiết để có thể vươn lên cao hơn và tiến xa hơn nữa trong hành trình sứ vụ. Bởi con đường trước mắt mà thầy trò phải dấn bước không phải là con đường bằng phẳng, mà đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách. Sứ mạng hôm nay dù thành công, nhưng chưa kết thúc, đúng hơn, chỉ mới mở ra. Đường còn dài đã vậy, sức lại chỉ có giới hạn. Vì thế, chưa cho phép mọi người có quyền ngủ vùi trong những thành công đầu đời tông đồ này. Thành công đầu đời chưa phải là tất cả của sự thành công. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, lúc này phải là một bầu khí không gian cô tịch, mới có thể giúp các tông đồ tỉnh táo kiểm chứng nội tâm của mình và bồi bổ dưỡng sức.
Thế nên, điều Chúa nói với các tông đồ ngày xưa, cũng là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chúng ta biết quý trọng cuộc sống và những khoảnh khắc cần thiết để trút bỏ những mệt mỏi lo toan, sống cho xứng với phẩm giá của mình. Bởi những tranh đua chụp giật vẫn thường kéo con người vào lối sống ích kỷ, hẹp hòi và những vất vả lo toan thường làm cho lòng người nên tầm thường nhỏ bé. Ngài mời gọi chúng ta biết dừng lại sau mỗi chặng đường như chặng dừng để định hướng cho cuộc đời. Dừng lại để xác định cái được, cái mất, cái chính yếu và cái tùy phụ. Dừng lại để vươn tới những giá trị cao cả, vun quén cho hạnh phúc gia đình, một điều thật quý giá nhưng mỏng manh vẫn thường bị đánh mất, bị cuốn trôi theo dòng chảy cuộc sống. Bởi thói tham công tiếc việc có thể biến người cha người mẹ trong nhà thành những cỗ máy làm ra tiền, vật chất sung túc nhưng con cái ngơ ngác, bơ vơ vì thiếu điểm tựa vững chắc của người cha, thiếu vòng tay ấm áp của tình mẹ. Và dòng xoáy tham vọng vẫn có thể biến tình anh em bạn bè thành hận thù, đố kỵ. Ngài mời gọi chúng ta đặt mình vào bàn tay Thiên Chúa, phó thác tất cả cho thánh ý Ngài. Bởi cuộc sống lúc nào cũng có khó khăn, nhưng niềm tin giúp con người có thể khơi dậy những tiềm năng đang còn ẩn kín.
Chớ gì, lắng nghe lời Chúa hôm nay mỗi người chúng ta dù hoàn cảnh, công việc có khác nhau, tuy nhiên hãy cố dành thời gian đi vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa, sống phó thác cho sự quan phòng đầy khôn ngoan và quyền năng của Chúa, để nhìn lại cuộc sống và để có sức mạnh mà tiếp tục đương đầu với những thách đố của cuộc sống hiện tại.
Chớ gì mỗi người chúng ta, dù bận rộn vì kế mưu sinh, nhưng đừng quên tìm những khoảng thời gian thanh vắng để được gặp Chúa, để tự kiểm điểm mình, để bổ sung năng lực của lòng đạo đức có thể đã hao mòn vì những bon chen đời thường, nhờ đó khi phải đối mặt với tiếng ồn của cuộc đời, với những sôi nổi của thành công, hoặc những ê chề của thất bại, ta sẽ không đánh mất chính mình, trái lại có khả năng tự thánh hóa mình và dễ dàng đón nhận ơn thánh hóa của Chúa. Có như thế, tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, đời sống chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng nhất là, chúng ta sẽ có được sức mạnh hoàn tất hành trình dương thế để thẳng tiến về quê trời. Amen.
Bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật hôm nay thuật chuyện các Tông Đồ tụ họp chung quanh Chúa: TN 16-B92
Bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật hôm nay thuật chuyện các Tông Đồ tụ họp chung quanh Chúa Giêsu, kể cho Chúa biết mọi việc họ đã làm, mọi điều họ đã dạy. Sau khi nghe các Tông đồ nói, Chúa Giêsu khuyên họ hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Sau đó, Chúa Giêsu và các Tông đồ đi xuống thuyền, đến một nơi thanh vắng (x. Mc 6,30-32).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niêm về Giá Trị của sự Thanh Vắng, của sự Thinh lặng.
Chúa Giêsu yêu thích sự thinh lặng
Thinh lặng là điểm nổi bật nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu Cứu Thế.
Con Thiên Chúa giáng trần, Ngôi Lời Nhập Thể, xuống thế làm người trong một đêm khuya thanh vắng. Thiên thần báo tin, nhưng chỉ có một số ít người chăn chiên sống ngoài đồng và đang thức đêm canh giữ đàn vật, thì lắng nghe được trong thinh lặng, còn hầu hết mọi người trong thị trấn Bêlem đều ngủ say: “Sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
Ba mươi năm trời ở Nadarét, Chúa Giêsu sống thinh lặng. Tin Mừng chỉ để lại một lời của Chúa nhắc tới sứ mạng chính yếu của Đấng Cứu Thế: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49).
Khi khởi đầu ba năm ra truyền đạo, việc đầu tiên của Chúa Giêsu là để cho Chúa Thánh Thần đẩy vào hoang địa thanh vắng để ăn chay, cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, chiến đấu với ma quỷ: “Thánh Thần đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúa ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
Trong đời sống truyền đạo ba năm, Chúa Giêsu luôn tìm dịp để sống thinh lặng: ban ngày, giảng dạy; ban đêm, còn thức khuya để cầu nguyện trong thinh lặng: “Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12), để rồi ban sáng, còn thức dậy thật sớm, đi vào nơi thanh vắng để cầu nguyện: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35).
Chúa Giêsu khuyên mọi người yêu thích sự thinh lặng.
Chúa Giêsu khuyên các Tông đồ yêu thích sự thinh lặng, vì thế, Chúa cùng các Tông đồ đi tìm nơi thanh vắng như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúa bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." …Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6, 31-32).
Chúa Giêsu khuyên hãy cầu nguyện trong phòng vắng lặng, trong nơi kín đáo, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh ” (Mt 6,6 ).
Chúa Giêsu muốn Nhà Thờ là Nhà của Cha Ngài, phải là nhà thinh lặng để cầu nguyện và để được lắng nghe Lời Chúa: “Chúa Giêsu vào Đền Thờ, bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!" (Lc 19,45-46).
Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không dùng những quảng cáo rùm beng. Chúa xa lánh những sự náo nhiệt rầm rộ bên ngoài: “Tiếng đồn về Chúa Giêsu ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Chúa và để được Chúa chữa bệnh, nhưng Chúa lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Lc 5,15-16).
Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu yêu chuộng những hạng người bình dân vì tâm hồn họ đơn sơ, không tự ái, không để cho những lo lắng vật chất nổi lên rộn ràng trong lòng mình. Nhiều lần, Chúa dùng dụ ngôn để giảng dạy họ vì dụ ngôn thích hợp với những tâm hồn đơn sơ, biết thinh lặng: “Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Chúa không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn” (Mc 4,33-34).
Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu sống kín đáo, tế nhị. Chúa chỉ cần sự kiện nói lên là đủ. Vì thế, khi làm xong phép lạ, Chúa không muốn kẻ thụ ơn lớn tiếng cao rao, nhưng yêu cầu họ kín đáo, không nói ra cho ai biết: “Bấy giờ Chúa sờ vào mắt hai người mù họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy."Mắt họ liền mở ra. Chúa nghiêm giọng bảo họ: "Coi chừng, đừng cho ai biết!" (Mt 9,29-30).
Khi ma quỷ lên tiếng, Chúa Giêsu bắt chúng im ngay vì Chúa biết ma quỷ là cha của sự rộn ràng láo khoét: “Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên: "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Chúa Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (Mc 1,23-26).
Đến như sóng biển và bão táp ồn ào nổi lên, khi cần, Chúa Giêsu cũng bắt chúng phải thinh lặng: “Chúa Giêsu thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ” (Mc 4,39).
Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không những sống thinh lặng, yêu thích thinh lặng, dạy thinh lặng, mà Chúa còn dùng sự thinh lặng như một phương thế hữu hiệu để hoạt động tông đồ. Khi thấy dân chúng rộn ràng, rầm rộ, muốn tôn Chúa lên làm vua, Chúa lặng lẽ lánh xa họ ngay: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" Nhưng Chúa Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,14-15). Khi thấy dân chúng ồn ào, thối thúc lên án người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu thinh lặng để đem lòng từ bi thương xót vô biên của Thiên Chúa đến cho người tội lỗi, và người đàn bà tội lỗi nầy cũng thinh lặng, nên nhờ vậy mà cô hiểu được lòng Chúa xót thương vô bờ đối với cô: “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Chúa ngẩng đầu lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Chúa Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay, đừng phạm tội nữa!" (Ga 8,9-11).
Trong hồi Thương Khó và Tử Nạn, Chúa Giêsu đã sống thinh lặng một cách lạ lùng: chịu nhiều nỗi khốn khổ sĩ nhục, bị hành hạ tra tấn ác nghiệt, thân xác tan nát vì roi đòn, tâm hồn ê chề trong buồn tủi đớn đau, bị điệu đi một cách nhục nhã từ tòa án nầy đến tòa án khác, nhận lấy biết bao nhiêu lời mĩa mai ác độc, vu khống trắng trợn, trong khi Thượng tế Caipha hống hách chất vấn, tổng trấn Philatô coi mình có quyền trên hết, vua Erode lấy khẩu cung một cách khinh dể, dân chúng gào thét dữ dội, tố cáo đủ tội, nhưng Chúa Giêsu vẫn thinh lặng: “Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Chúa Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó? " Nhưng Chúa Giêsu vẫn làm thinh” (M6 26,62-63).
Anh Chị Em thân mến,
Thế gian muốn sự rộn ràng và ghét sự thinh lặng vì thinh lặng, tựu trung, là Chúa, là chân lý, là sự tốt, là sự thiện. Thinh lặng làm cho chúng ta dễ gặp Chúa vì Chúa không ở trong sự rộn ràng. Thinh lặng giúp chúng ta sống đạo đức vì trong thinh lặng, tính xấu và khuyết điểm của chúng ta sẽ bị phát giác và được chừa bỏ, tính tốt sẽ được chúng ta yêu thích và tập luyện.
Sự thinh lặng bên trong và bên ngoài là điều rất cần thiết cho đời sống Đức Tin của chúng ta. Chúng ta hãy yêu thích sự thinh lặng bên ngoài và luôn cố gắng tạo cho mình một tâm hồn thinh lặng bên trong để được gặp Chúa, để yêu mến Chúa, để sống đẹp lòng Chúa vì Chúa không ở trong sự rộn ràng. Amen.
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên: TN 16-B93
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần học chính của Giêrêmia cũng như các tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah, Yahweh Thiên Chúa đã hủy phá thành quách do bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar. Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt bốn mươi năm tao loạn của cộng đồng ở Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những khốn khó và khổ đau với dân chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng và hy vọng vào sự giải cứu trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và nói thật khi phải đụng chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán, “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đoàn chiên Ta.”(Giêr. 23,1).
Lời tiên tri Giêrêmia giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Nếu không được sai đi, không ai tự mình lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành (Ds 1, 47-50). Tiếp theo là các vị tư tế được chọn lựa trong dân để phục vụ. Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành thánh thiện cần được huấn luyện trau dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa như vua Saulê, Đavid, Solômon và những vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân chứng tin mừng cả về trí, đức và dục. Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã được thừa hưởng gia sản giáo dục rất phong phú. Để trở thành một linh mục, ít nhất các ứng viên cũng phải trải qua nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương trình Trung Học phổ thông, các ứng sinh phải có bằng cử nhân Triết học hoặc nếu có cử nhân về các môn học khác, thì cần các tín chỉ hai năm về Triết học. Phải trải qua bốn năm thần học với bằng cử nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA) cộng với các kinh nghiệm từng trải trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện tại các Giáo Xứ, Trường Học hay Bệnh Viện… Các linh mục Dòng còn cần thời gian dài hơn trong sự huấn luyện cả về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng hơn hết là các ứng sinh linh mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật thiết với Chúa Giêsu linh mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh mục và tu sĩ đều qui về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài sai về các Cộng đoàn, Giáo Xứ hoặc sinh hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết căn bản về Giáo Hội và các môn thần học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như nhau, nhưng mỗi người có những khả năng chuyên môn và cách hành xử khác nhau. Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và bề trên về công việc mục vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu toàn.
Lý tưởng thì rất cao trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành. Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị rơi vào những tham, sân, si hoặc lười biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa vào những cạm bẫy nghiện ngập như bài bạc, rượu chè, trụy lạc và tham lam của cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh mục sống đức độ, thánh thiện và phục vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa, nhưng không đáp ứng thỏa mãn những đòi hỏi của giáo dân nên gây ra nhiều hệ lụy. Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo lề luật của Giáo Hội mà bị coi là khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi theo chính dòng truyền thống của Giáo Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé cái lầm.
Thường thì mục tử nào cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức tạp khó lường. Những thị phi và họa phước của con người có thể gây những phiền hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết rằng nếp sống chung luôn là một sự thách đố. Người ta nói: Trăm người trăm ý. Ý kiến của ai cũng hay và cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích hợp. Chính những sự khác biệt và mâu thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết lắng nghe để giúp khai thông những bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy học theo gương của thánh Phaolô tông đồ sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô đã tự khoe mình: Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi (2 Cor 12, 9). Linh mục như những bình sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào tình thương và ân sủng của Chúa để thắng vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút."(Mc 6, 31). Mỗi mục tử hãy dùng thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời sống dâng hiến của chính mình. Ý thức trong mọi suy tư, lời nói, hành động, trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên giống người này hay người nọ, nhưng hãy chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường tò mò tìm hiểu những thế giới bên ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu con người bên trong của mình. Tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng ta được thư giãn để kết hợp với Chúa trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy đua với công việc thường ngày nhưng luôn nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp ứng thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống trong mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi phải biết nói ‘không’ khi những đòi hỏi không cần thiết. Người ta thường nói rằng cả nể cho nên sự dở dang là thế. Người mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt. Lạy Chúa Giêsu là linh mục thượng phẩm. Chúa là chủ chiên tốt lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con.
Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn: TN 16-B94
“Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa”(Giê. 23,1)… “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Thiên Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia đó là làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải và chuyện sẽ đến rồi sẽ đến là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác. Cái hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên nên Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4).
Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Một người có thể nói là duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Tôi là mục tử tốt lành” (Ga 10,14), là Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự nhận không phải liều lĩnh hay khoa trương nhưng có đủ căn cứ khả tín bằng chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đấy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên; là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa nhật XVI TN B này, Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về chân dung vị mục tử ấy. Đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.
1. Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bênh băng huyết đã mười hai năm; đó là người bại tay trong một Hội đường nhân ngày hưu lễ; đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, vị trưởng Hội đường. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài sau chuyến đi truyền giáo vất vả. Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm xuông nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc coi thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.
2. Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ rèn luyện môn sinh về mặt tâm linh mà còn lắng lo cho họ cả phần thể xác.“Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Một lời dạy khuyên vừa thân tình vừa thiết thực. Các tông đồ cần phải lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Chúa Giêsu đích thực là vị Mục tử tốt lành.
3. Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Ngươì hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34). Đã từng có đó nhiều mục tử nhân danh nhu cầu xem ra chính đáng và hợp lý của mình để rồi thoái thác trách vụ đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đàn chiên, chẳng hạn chuyện giải tội, xức dầu bệnh nhân… Quả thật, rất nhiều khi và có những chuyện chúng ta khó có thể cân nhắc và lượng giá theo tính hợp lý, nhưng cần theo tiêu chí của con tim, của tấm lòng.
Dù ở đâu và dù ở thời kỳ nào, người ta cũng mong mỏi và khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta phải tích cực cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa lại muốn thánh ý của Người được thể hiện qua hoạt con người, vốn là loài đã được vinh dự trao phó trách vụ cộng tác vào chương trình sáng tạo của Người. Nhổ sạch cỏ dại cũng là một điều kiện để cho lúa tốt tươi và sinh nhiều bông hạt. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, dù là chính đáng trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.
Việc loại bỏ thì vừa dễ lại vừa khó. Chỉ nguyên việc không cần đến mục tử gian ác là ta đã loại bỏ cách mặc nhiên rồi. Thế nhưng hành vi loại bỏ vẫn còn đó sự nhẫn tâm mà với tâm lý Á đông thì thường không nỡ và còn sợ mang tai, mang tiếng. Bà con người dân Việt chúng ta rất sợ mang tiếng chống cha chống cụ lắm, vì sợ Chúa phạt làm gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy xây dựng những mục tử tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của ta. Phương thế xây dựng thì đủ kiểu đủ cách. Làm cách nào cũng được miễn là trong đức ái. Nếu giả như vẫn tồn tại trong cộng đoàn chúng ta những mục tử bị Chúa nguyền rủa là những mục tử gian ác thì dĩ nhiên là do lỗi của các ngài, nhưng phần trách nhiệm của cộng đoàn là vẫn có đó. Trách nhiệm thì khó thấy nhưng hậu quả là nhãn tiền và chính đàn chiên là những người đang gánh hậu quả xấu.
Để kết thúc những dòng chia sẻ này, xin được mở rộng ngoại trương của phạm trù mục tử. Là cha mẹ, ông bà, là giáo lý viên, là giáo chức, là thành viên Hội Đồng giáo xứ…chúng ta cũng là những mục tử với những con chiên Chúa đang giao phó trong trách nhiệm của mình. Hãy xem xét tình trạng của đàn chiên mình chăm sóc để một cách nào đó biết được cái chất mục tử của chúng ta là tốt lành hay gian ác.
Theo báo cáo của Tổ chức Cứu Trẻ Em Hoa Kỳ (Organization Of American Aid For Children): TN 16-B95
Theo báo cáo của Tổ chức Cứu Trẻ Em Hoa Kỳ (Organization Of American Aid For Children) tại hội thảo “Hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn cho thanh thiếu niên đường phố”, được tổ chức ngày 25/11/2011 tại Sài Gòn, ước tính tại VN hiện có hơn 16,000 trẻ em đang sinh sống và làm việc trên đường phố ở các đô thị trong cả nước, trong đó có hơn 11,000 em tập trung tại khu vực Sài Gòn.
Đa số trẻ em đường phố nằm trong khoảng từ 5 đến 16 tuổi. Khác những em thuộc về các gia đình dân lao động hay dân nhập cư quá nghèo khó, sống chui rúc ở những xóm ổ chuột hay gầm cầu, công viên, nhà bỏ hoang ở các khu giải tỏa…, loại trẻ em thật sự bụi đời, lang thang thì lựa chọn cuộc sống thường xuyên trên đường phố, tự bươn chải kiếm sống và hoàn toàn không có sự chăm sóc và bảo vệ dù ít ỏi của gia đình.
Thực trạng xã hội Việt Nam có rất nhiều hoàn cảnh đáng thương. Bởi đa số là dân nghèo. Con số người nghèo lên tới hơn 20 triệu người. Người nghèo thuộc mọi thành phần. Người nghèo có mặt ở khắp nơi. Đáng thương nhất là người già và trẻ em. Ngày nay người ta nói: không chỉ trẻ em đi bụi mà người già cũng đi bụi. Họ là những người bơ vơ đang lạc lõng giữa dòng chảy cuộc đời. Họ chơi vơi trên dòng đời mà không tìm được một nơi để bám víu. Họ bị bỏi rơi không chỉ trong xã hội mà ngay trong gia đình của mình. Không ai chạnh lòng thương họ. Không ai nâng đỡ, chia sẻ với những đói nghèo, bất hạnh của họ.
Là người ky-tô hữu có bao giờ chúng ta đã chạnh lòng thương những mảnh đời bơ vơ đang ở chung quanh chúng ta? Có bao giờ chúng ta đã sẵn lòng đưa tay để cứu vớt anh em hay chúng ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Hàng năm xã hội báo cáo bỏ hàng ngàn tỉ đồng để giúp người nghèo. Hàng năm, Giáo hội vẫn tổng kết hàng tỉ đồng cho người nghèo? Còn chúng ta? Chúng ta tổng kết được bao nhiêu nghĩa cử cho người nghèo, cho người cùng khốn quanh ta? Có bao giờ chúng ta đã thi ân cho những kẻ cùng khốn ngay trước mắt chúng ta hay chưa? Chúng ta đã làm gì để xoa dịu nỗi đau cho những mảnh đời bất hạnh đang đứng bên cạnh cuộc đời chúng ta?
Chúa Giê-su khi nhìn thấy đoàn người thiếu thốn, Ngài đã chạnh lòng thương. Ngài mời gọi họ hãy đến để Ngài làm vơi đi những ưu sầu. “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”. Ngài đã mời gọi các môn sinh hãy cùng với Ngài làm vơi đi nỗi thống khổ của anh em qua việc thu gom từng cái bánh, từng con cá để Ngài làm phép lạ hoá bánh dư tràn cho hàng ngàn người đang đói khổ lầm than. Dù rằng các tông đang hăng say kể về những thành công của mình, về những bài giảng hiển hách, những công việc lớn lao đã làm cho muôn dân. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan yếu là có nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh đang hiện diện trước mặt để có thể chạnh lòng thương xót họ hay không? Chúa cũng muốn nghĩ ngơi. Chúa cũng muốn dành ít phút cho bản thân mình. Nhưng Ngài đã không đành lòng khi nhìn thấy đoàn dân đang lầm than. Ngài đã tiếp tục dấn thân phục vụ cho họ.
Ở bên cuôc đời chúng ta vẫn có những người đang thiếu một nụ cười của chúng ta dành cho họ. Họ đang cần một bàn tay nhân ái, một cái nhìn cảm thông của chúng ta. Họ đang cần một lời thân ái, một lời yêu thương để xoa dịu nỗi đau trong họ. Đáng tiếc, nhiều lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ!
Ước gì đời ky-tô chúng ta biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen
Khát mong của Chúa Giêsu là: ”Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: TN 16-B96
Khát mong của Chúa Giêsu là: ”Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19). Khát mong tình yêu bỏng cháy của Ngài khi thấy đám đông bơ vơ lạc lõng không có người dẫn dắt. Dù phải ngược xuôi từ đồng bằng xuống biển hồ, không còn thời gian để ăn uống, ngủ nghỉ. Đức Giêsu vẫn không bỏ rơi những người đi theo Ngài:”Vừa ra Ngài đã thấy dân chúng đông đảo, và Ngài chạnh lòng thương xót họ, vì họ như cừu chiên không có người chăn giữ, và Ngài lên tiếng giảng dạy cho họ nhiều điều”(Mc 6, 34).
Cũng đã có lần Ngài bày tỏ ước nguyện bỏng cháy từ con tim mình cho các môn sinh, với một lòng cháy bỏng lửa mến yêu nung nấu tâm hồn:”Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy bùng cháy lên”(Lc 12,49). Có lẽ cũng phần nào hiểu được trái tim và cõi lòng của Thầy Giêsu, nên các môn đệ cũng đã ra đi để thực thi sứ mạng của mình. Trong ngữ cảnh của Tin Mừng hôm nay, sau khi giảng dạy, chữa lành nhiều người bệnh. Thầy trò xuống thuyền và ra đi để tìm nơi thanh vắng cầu nguyện và nghỉ ngơi. Thế nhưng họ không thể yên được khi dân chúng từ các làng mạc đổ xô đến tìm Chúa Giêsu. Trước những nổ lực tìm kiếm của đám đông, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác với Ngài để loan báo Tin mừng. Trái tim của vị Mục Tử Giêsu thật bao la và nồng cháy. Ngài chẳng giữ lại gì làm của riêng mình. Đời Ngài như một ngọn nến sáng, cháy mãi đến vô tận. Khắc khỏai trong tâm hồn của Ngài là làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha và tất cả là anh em với nhau. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên khí cụ tình yêu của Ngài:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14). Chạnh lòng thương xót con người, tấm lòng vàng của Chúa Giêsu muôn đời vẫn mãi như những ngọn lửa chiếu soi tâm hồn những ai đi theo Chúa. Con người và nhân lọai ngày hôm nay vẫn mang trong mình một nỗi thao thức tìm gặp Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân từ và hay xót thương. Cũng như dân chúng ngày xưa, họ đem đến cho Chúa những người ốm đau, bệnh tật và xin Ngài chữa lành, thì hôm nay vẫn thế, họ cũng mang đến cho Ngài những cuộc đời đáng thương, những thân phận bị bỏ rơi và xin Ngài cứu giúp.
Lạy Chúa Giêsu, con là mục tử mà sao không có tâm hồn như Chúa! thấy đám đông chạy đến, Chúa tìm mọi cách để giúp họ. Còn con, thấy bất lực khi xung quanh con có quá nhiều nhu cầu cần đến, mà con thì chỉ có đôi bàn tay trắng, không có gì để đáp ứng cho anh em đồng lọai. Chúa tiếp khách liên lỉ suốt cả ngày đêm, còn con có quy định gìơ giấc hẳn hoi. Chúa thương xót họ, con thì yêu thương có chọn lựa kỹ càng. Chúa lăn xả và hết mình với con người, con thì ngại khổ, ngại khó và ngại lắm gian nan. Chúa ơi xin giúp con trở nên mục tử nhân từ, hiến mạng sống mình để phục vụ anh em đồng lọai.
(30) Các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.
(31) Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32) Vậy, Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
2. Ý chính:
Đức Giê-su là một mục tử tốt lành. Người đã bảo các môn đệ đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi: TN 16-B97
Đức Giê-su là một mục tử tốt lành. Người đã bảo các môn đệ đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi sau những ngày truyền giáo vất vả. Nhưng khi thuyền cập bến, thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến muốn được nghe giảng Tin Mừng thì Người lại “chạnh lòng xót thương” nên không nghỉ ngơi nữa để tiếp tục phục vụ họ.
3. Chú thích:
- C 30-31:
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su và kể lại cho người biết mọi việc: Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã họp lại quanh Thầy để báo cáo công tác rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12), hành động trừ quỉ và xức dầu chữa bệnh nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).
Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Lời này cho thấy Đức Giê-su cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian thư giãn để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống: Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã đi theo Mô-sê trong hoang địa Xi-nai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo vừa qua của các Tông đồ: Các ông đã làm cho người ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và khao khát đi tìm Người để được ơn cứu độ.
- C 32-33:
Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng: Đức Giê-su muốn cho các Tông Đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được hồi phục sức khỏe thể xác tâm hồn.
Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài: Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán các ngài sẽ đến miền Bét-sai-da và Giu-li-a cách đó chừng 10 cây số. Họ không ngại đường xa, đi bộ ven bờ hồ và đến nơi trước các ngài. Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời Thánh Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).
- C 34:
Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương: “Chạnh lòng thương” hay “Động lòng trắc ẩn”, là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại các phép lạ Đức Giêsu làm do động lòng thương” như: Chữa hai người mù tại Giê-ri-cô (x. Mt 20,34), phục sinh con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,13), chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh vì bị quỷ ám (x. Mc 9,22).
Vì họ giống như đoàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt: Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người đầu mục là các tư tế và các kinh sư, lẽ ra phải dạy dỗ dân thì lại lười biếng và chỉ lo tìm kiếm tư lợi như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên thì các ngươi lại không lo chăn dắt: Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy toán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,1-6).
Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Đức Giêsu đặt nặng sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời, nên khi cần, Người sẵn sàng vượt qua chương trình nghỉ ngơi đã định trước. Tin Mừng Lu-ca viết: “Đức Giê-su tiếp đón họ, nói về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9,11).
4. Câu hỏi:
Các Tông Đồ đi truyền giáo về đã họp lại báo cáo những gì với Đức Giêsu?
Câu nào cho thấy Đức Giêsu luôn nghĩ đến người khác, nghĩ đến nỗi vất vả của các Tông Đồ khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời?
Kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông Đồ là gì?
Đức Giêsu muốn cho các Môn đệ vào nơi thánh vắng để làm gì?
Dân chúng biểu lộ lòng yêu mến Đức Giêsu và hâm mộ nghe lời Người giảng qua hành động nào?
Chạnh lòng thương nghĩa là gì? Tin Mừng ghi nhận Đức Giêsu làm gì khi “chạnh lòng thương” dân chúng?
Tin Mừng dùng hình ảnh nào để diễn tả sự đáng thương của dân chúng lúc đó? Ngôn sứ Êdêkien tuyên sấm Lời Thiên Chúa quở trách các mục tử Israen như thế nào ?
Đức Giêsu đã làm gì để đáp ứng nhu cầu của dân chúng?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời chúa: “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34):
2. Câu chuyện: Ứng xử khôn ngoan trong sứ vụ Tông Đồ
PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật sau: “Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là: “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau: Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại có thái độ nóng nảy miễn cưỡng… với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa … thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giơ quay trở lại nữa !”.
PRI-MƠ-NĂNG tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị giám mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Băng-gan thuộc Ấn Độ như sau: Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar); sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra lạu thật đáng tiếc: Vị giám mục đã không trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký ra tiếp qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có và có thế lực … Đảng này thề chống lại Giáo hội Công giáo, và tìm mọi cách ngăn chặn sự bành trướng của Ki-tô giáo tại nước Ấn Độ.
3. Suy niệm:
Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách ứng xử thiếu khôn ngoan tế nhị của người có trách nhiệm trong Giáo hội mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua ! Chính do thái độ câu nệ hình thức và quan liêu của một vị mục tử đã biến một con người đang có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm cho Hội thánh sau này. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự cứng nhắc vụ luật, thiếu cảm thông và thiếu bác ái của một vài vị mục tử, trái với thái độ dấn thân phục vụ và biết “chạnh lòng xót thương” của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Người không nặng lời trách mắng và từ chối những người tội lỗi công khai đến với mình, không ngại tiếp súc và tận tình phục vụ những người nghèo hèn đau khổ và bất hạnh. Người lắng nghe các môn đệ báo cáo công tác đã thực hiện được và sẵn sàng thay đổi dự định nghỉ ngơi để tiếp tục việc rao giảng và chữa bệnh cho nhiều người, vì “họ như bầy chiên không người chăn dắt”.
a. Ân cần phục vụ:
Đức Giêsu luôn quên mình để nghĩ đến người khác. Người rất nhạy cảm trước những nhu cầu của dân chúng và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ để giúp họ tin vào Tin mừng. Mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai có nhiệm vụ chăm sóc cộng đòan, tuy cần phải tổ chức sắp xếp sinh họat theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng phải ưu tiên cho việc loan báo Tin mừng. Tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái … vì dễ gây bất mãn có hại cho sứ vụ loan Tin mừng.
b. Cảm thông phục vụ:
Đức Giêsu luôn tỏ ra thái độ cảm thông với nỗi đau của con người: Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (Lc 19,44), Ngừơi cảm thông với tiếng khóc của bà góa đang đưa xác con trai đi chôn tại thành Na-im và đã phục sinh người con trai mới chết cho bà (Lc 7,11-17); Người khóc thương bạn thân Lazarô mới chết bốn ngày và truyền cho anh trỗi dậy ra khỏi mồ (Ga 11,1-14)… Đức Maria cũng có thái độ cảm thông với đôi tân hôn thành Ca-na khi tiệc cưới nửa chừng hết rượu. Mẹ đã đứng ra cầu bầu xin Đức Giêsu can thiệp giúp đôi tân hôn (x. Ga 2,1-11). Thánh Phaolô cũng dạy các tín hữu phải biết cảm thông phục vụ tha nhân như sau:”Vui với người vui, khóc với người khóc”(Rm 12,15).
c. Dấn thân phục vụ:
Đức Giêsu luôn quên mình khi phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đi đến nhà ông trưởng hội đường tên Giai-rô để chữa cho con gái của ông ta sắp chết (Mc 5,21-24.35-43). Người sẵn sàng đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho đầy tớ của ông ta. Người dành tòan bộ thời giờ cho công việc rao giảng Tin mừng và chữa mọi bệnh họan tật nguyền trong dân… Thái độ hy sinh quên mình phục vụ tha nhân thật không dễ chút nào. Chỉ khi có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể dấn thân phục vụ tha nhân hết mình. Chẳng bạn các bà mẹ đang nuôi con thơ, không nề hà thức dậy nhiều lần trong đêm khi con khóc để phục vụ, sẵn sàng nằm vào chỗ ướt để nhường chỗ khô cho con, sẵn sàng thay đổi dự tính khi con bị đau ốm… Mỗi người chúng ta cần phải phục vụ tha nhân thế nào để noi gương mục tử Giêsu?
4. Thảo luận:
........
5. Nguyện cầu
Lạy Chúa Giêsu, Hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi người tín hữu chúng con hôm nay. Ơn gọi của chúng con là phải trở nên khí cụ bình an của Chúa, là biết đi bước trước đến với tha nhân, hiểu biết cảm thông với những tâm tư nguyện vọng của họ để phục vụ với tình yêu thương như Chúa. Con muốn sống đời bác ái chia sẻ và phục vụ theo lời dạy của Chúa.
Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói cơm bánh vật chất, đang khát nghe giảng Tin Mừng hầu sẵn sàng đáp ứng với hết khả năng của con.
Xin giúp con luôn biết “chạnh lòng xót thương” để nên gióng Chúa từ bi bao dung nhân hậu, nhờ đó con sẽ tích cực góp phần, đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội thánh.
X. Hiệp cùng mẹ Maria. -Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Đức Giêsu trong thân phận con người, vẫn là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhạy cảm trước: TN 16-B98 Truyện
Đức Giêsu trong thân phận con người, vẫn là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của con người. Ngài là vị Mục tử nhân lành hằng săn sóc đến mọi con chiên. Bài Tin mừng hôm nay minh họa cho chúng ta thấy lòng nhân ái của vị mục tử này.
Ngài quan tâm đến hết mọi người: các Tông đồ cũng như dân chúng. Ngài hằng quan tâm đến những nhu cầu của con người, dù chỉ là những người vô danh tiểu tốt hay nhỏ bé tầm thường nhất. Ngài đã không nỡ làm ngơ hay dửng dưng trước những nỗi khổ của con người, cho dầu họ là ai. Ta có thể tóm gọn đường hướng mục vụ của Vị Mục tử này là “Tất cả vì con người”. Vì thế, Ngài không sợ bị họ quấy rầy, sẵn sàng đón tiếp và thỏa mãn những nhu cầu của họ.
Ngoài ra, Đức Giêsu cũng khích lệ các Tông đồ hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau cuộc truyền giáo đầy vất vả khó nhọc. Nhưng nghỉ ngơi tĩnh dưỡng không có nghĩa là không làm gì mà nghỉ ngơi là xem lại công việc mình đã làm để điều chỉnh cho đúng hướng; đồng thời cũng là để lấy sức cho những công việc tiếp theo. Như vậy, theo ý Đức Giêsu, thinh lặng nghỉ ngơi rất cần thiết cho đời sống tu trì, cho việc truyền giáo cũng như cho mọi hoạt động khác.
I. MỐI QUAN TÂM CỦA ĐỨC GIÊSU.
Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi), có nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Như vậy chắc hẳn Marcô muốn đánh dấu một quan hệ mới của họ với Đức Giêsu. Chúa nhật vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm...
1. Đức Giêsu quan tâm đến các Tông đồ.
Marcô tóm lược tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là hoạt động của Đức Giêsu: những hành vi thương xót, giảng dạy. Ngài và các Tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc. Đức Giêsu lắng nghe các ông với sự chú ý đầy tình âu yếm và khích lệ họ. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông , nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo:”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Chúng ta phải công nhận Đức Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể làm việc được. Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.
Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông đồ “Để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.
Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông:”Các con hãy nghỉ ngơi một chút”chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.
2. Đức Giêsu quan tâm đến dân chúng.
Đức Giêsu muốn cùng các Tông đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại cuốc bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương họ, quên cả ý muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho mình và cho các Tông đồ. Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Sở dĩ Đức Giêsu coi họ như đàn chiên không có người chăn vì trong Cựu ước, những người có bổn phận phải dạy dỗ dân chúng là những vị thuộc hàng tư tế, những vị tiến sĩ luật, song các ông đã biếng nhác sao lãng bổn phận, vì phần đông chỉ lo tìm tư lợi.
Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh đượm khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ, một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn. Để thay vì Thầy trò quay lưng lại tìm đường khác trốn chạy thì Ngài và các Tông đồ lại bước lên bờ tiếp xúc với họ và Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Ở đây Marcô chỉ nói trống “Ngài dạy họ nhiều điều” mà không xác định Ngài đã dạy gì. Nhưng Luca có ghi rõ (Lc 9,10-11): Ngài đón tiếp họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy” nhiều điều này”đã chứng thực lòng thương xót của Thiên Chúa.
II. MỐI QUAN TÂM CỦA CHÚNG TA.
1. Quan tâm đến hết mọi người.
Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “Trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều. Để tỏ lòng biết thương người, chúng ta hãy làm một số việc sau đây:
a. Sẵn sàng bị quấy rầy.
Bài Tin mừng diễn tả: chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được. Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa, họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống.. Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã phản ứng ra sao ? Không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc đdộng vì thương yêu họ. Những bậc thầy chính thức không có thời giờ dành cho dân thường, nhưng Đức Giêsu dành thời giờ cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Ngài.
Truyện: Sẵn sàng bị quấy rầy.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư:
Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế ?
Ông giáo sư trả lời:
Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.
Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.
Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được ? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn độ, đã viết trong tập tự thuật của ông:”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người. Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình”. Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa.
Truyện: Không chịu tiếp khách.
Ông Premanand tiếp tục kể lại một câu chuyện mà đáng lẽ ra có thể đã làm thay đổi toàn thể chiều hướng truyền đạo tại Bangal: Người ta ghi lại rằng Giám mục đầu tiên của thủ đô Ấn độ đã không chịu gặp Pandit Vidyasagar của Bangal cách chính thức. Ông Pandit được phái đi làm người phát ngôn cho cộng đồng Ấn độ giáo ở Calcutta để thiết lập quan hệ thân hữu với vị giám mục và với Giáo Hội Kitô.
Ông là người sáng lập trường cao đẳng Ấn độ giáo ở Calcutta, là nhà cải cách xãõ hội, một tác giả, và nhà giáo dục có tiếng, đã trở về bất mãn vì không gặp được vị giám mục. Ông thành lập một đảng mạnh gồm toàn những người giầu có và trí thức ở Calcutta để chống đối giám mục và Giáo hội, ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo...
Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ; họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.
b. Sự săn sóc chu đáo.
Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông. Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người.
Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin mừng.
Truyện: Cần được viếng thăm.
Chân phước Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế ? Chị điều dưỡng đáp:”Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến”! Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).
c. Sự thông cảm hợp thời.
Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi, một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.
Đọc trong Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,44), khóc thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem chàng đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Ga 11,1-14). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).
Thánh Phaolô tông đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô: Giáo hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, thánh Tông đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau:”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,14).
Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình. Quan niệm này được diễn tả ra qua những câu ca dao tục ngữ:
- Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ. - Chị ngã em nâng. - Lá lành đùm lá rách. - Máu chảy ruột mềm. - Không ai khen đám cưới, ai nỡ cười đám ma.
Tuy nhiên, trong việc thông cảm với nhau phải biết lựa lời nói cho thích hợp với hoàn cảnh kẻo làm phật lòng người ta. Nói đúng ra, đấy là một lối thông cảm trái mùa.
Truyện: Thông cảm trái mùa.
Hai người đàn bà đi trong xe hỏa nói chuyện với nhau. Bà mặc áo đen kể lể với người bạn về những sự khổ cực trong gia đình mình: nào là làm ăn thua thiệt, con cái bướng bỉnh... nhất là mình mới mất người chồng thân yêu, làm cho đời trở nên buồn tẻ, cô đơn.
Bà mặc áo vàng ngồi bên tỏ vẻ thông cảm với người đàn bà đau khổ kia đã nói: Tôi cũng rất buồn vì tôi mới mất một con chó Vện, con chó này khôn lắm, nó biết canh nhà cẩn thận, tôi đi đâu nó cũng tìm đến được, thật là con chó đánh hơi rất tài tình. Nay nó chết, tôi buồn quá... Như vậy hai chị em mình cùng chia sẻ nỗi buồn với nhau !!!
2. Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Ngài lại quan tâm đến con người hơn là công việc, nên Ngài khuyên các ông:”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Đức Giêsu khích lệ các ông đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh, chắc chắn vượt xa hơn cảnh huống cụ thể của đời thường. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong”.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời:”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi”.
P. Doncoeur đã quả quyết:”Không một vĩ nhân nào đã thành công mà khong đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.
Ernest Hello cũng quả quyết:”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động”.
Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông:”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng”.
Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó. Và nó rất cần thiết cho đời sống tu trì cũng như đời sống hoạt động, đặc biệt cho các nhà truyền giáo.
Đức Giêsu không nghĩ đến mình, Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối trọng tình thương của Ngài. Mỗi người chúng ta có đời sống riêng tư, được sắp xếp theo ngăn nắp, hợp lý, chúng ta có quyền bảo vệ sự quân bình ấy, nhưng nếu có đôi lúc phải hy sinh cái lợi ích riêng tư ấy vì hạnh phúc của người khác, chúng ta hãy coi đó là một nhiệm vụ.
Xin cho con một quả tim như Chúa, Biết cảm rung trước những nỗi đớn hèn, Những bất toàn, những bất hạnh của anh em. Để con không nỡ quay lưng tìm đường trốn chạy. Xin cho con một trái tim nhân ái, Biết chạnh lòng thương cảm trước tha nhân. Dầu khi con muốn tìm chút an nhàn, Muốn được hưởng chút niềm vui chính đáng. Xin cho con đừng bao giờ than vãn, Khi bị quấy rầy, đeo đuổi với nỉ non. Bởi bao lâu mà đau khổ vẫn còn, Thì tình Chúa vẫn dạt dào trong Chúa, Cùng rung lên nhịp điệu của Thánh Linh. Cho con dám dấn thân vì Chúa quên mình, Bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.
Như chúng ta đã biết dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn nuôi, nên hình ảnh mục tử: TN 16-B99
Như chúng ta đã biết dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn nuôi, nên hình ảnh mục tử, người chăn dắt đoàn chiên, là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi. Đavít ngày xưa, khi còn là một em bé chăn chiên, đã được Samuel xức dầu đặt làm vua. Sau này, trên ngai vàng, Đavít đã hướng dẫn dân Chúa tới một thời đại hoàng kim. Các ngôn sứ đã dùng hình ảnh mục tử, không phải để chỉ các vua mà còn ám chỉ chính Thiên Chúa, Ngài sẽ đích thân chăn dắt dân Ngài.
Lời tiên báo của các tiên tri đã được Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Ngài, bởi vì Ngài chính là vị mục tử nhân lành. Thái độ nhân lành ấy đã được biểu lộ qua việc ân cần chăm sóc mà đoạn Tin Mừng ngắn ngủi sáng nay đã ghi lại.
Trước hết là đối với các môn đệ đang mệt mỏi vì những cuộc hành trình truyền bá Phúc Âm, Ngài đã khuyên các ông hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút. Tiếp đến là đối với đám đông đang đói lời giảng dạy cũng như đang khát sự dẫn dắt, Phúc Âm đã ghi lại: Nhìn thấy họ, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã làm phép lạ để họ được ăn no giữa chốn hoang vắng. Không một trang Phuc Âm nào, mà chúng ta không thấy được những hành động bác ái yêu thương Chúa Giêsu đã thực hiện, nào là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết được sống lại, tất cả những hành động này chỉ nhằm một mục đích duy nhất là xoa dịu mọi nỗi đớn đau của con người. Hơn thế nữa, Ngài còn dành một tình cảm đặc biệt cho những kẻ tội lỗi. Ngài đối xứ với họ như mục tử đối xử với những con chiên lạc. Ngài đã lên đường tìm kiếm họ, và nhất là Ngài đã tha thứ cho họ. Cái ước vọng duy nhất của Ngài, đó là cuối cùng chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Cũng trong ước vọng duy nhất này mà Ngài đã chấp nhận chịu chết để đoàn chiên, là tất cả chúng ta được sống.
Từ hình ảnh người mục tử chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên chúng ta chưa phải là những mục tử của Chúa, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể tham dự chúc vụ mục tử này nhờ bí tích Rửa Tội, hay nói một cách khác, cái tinh thần mục tử chính là cái tinh thần mà mỗi người chúng ta phải sống, phải thực hiện trong cuộc đời của mình. Vậy tinh thần mục tử là gì?
Xin thưa đó là tinh thần phục vụ. Đúng thế, người làm vua hay người làm mục tử theo tinh thần của Chúa, không phải là để cai trị dân hay đánh đập những con chiên của mình, nhưng là để an ủi khích lệ, giúp đỡ và phục vụ họ như lời Ngài đã phán: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ phục vụ cho mọi người. Chính Ngài cũng đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho mọi người.
Từ đó chúng ta đi đến một kết luận đó là: Sống tinh thần mục tử đó là sống tinh thần phục vụ, dấn thân để giúp đỡ anh em theo mẫu gương của Chúa Giêsu.
Hầu hết mọi người đều nhận thấy rằng có một sự quân bình trong đời sống là cần thiết. Một người: TN 16-B100
Hầu hết mọi người đều nhận thấy rằng có một sự quân bình trong đời sống là cần thiết. Một người hướng ngoại yêu thích xuất hiện nơi công chúng cũng cần có thời gian sống cô độc và thinh lặng. Một người hướng nội biết giá trị của những khoảnh khắc cô độc, thỉnh thoảng cũng nên được phấn khích bởi một đám đông tưng bừng vui vẻ.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta một mẫu gương về sự quân bình cần thiết cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúa Giêsu có thói quen đi tới hội đường vào những ngày Sabát, Người đã tham dự phụng vụ nơi Đền Thờ Giêrusalem trong những thời gian được chỉ định. Ngài cũng sẵn sàng ra đi và trải qua suốt đêm trong cầu nguyện với Cha Ngài trên trời.
Phúc Âm ngày hôm nay hé mở cho chúng ta thấy những tông đồ trở lại với Chúa Giêsu sau hành trình truyền giáo mà Ngài đã gởi họ từng hai người một. Đó là thời gian giúp cho họ rao giảng cho mọi người và cầu nguyện với mọi người. Chúa Giêsu nói với họ: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Họ đã ra đi với Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền và vào nơi hoang địa. Chúa Giêsu hiểu sự cần thiết của việc quân bình trong đời sống cho các môn đồ của Ngài.
Chúa Giêsu cũng muốn cả chúng ta nữa duy trì sự quân bình. Ngày xưa trong đời sống thiêng liêng của chúng ta là cùng nhau cử hành phụng vụ. Tham dự cách năng nổ và ý thức trong phụng vụ thánh, đặc biệt là trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật là nguồn mạch không gì có thể thay thế được, để chúng ta có thể đạt được một tinh thần Kitô giáo thật sự. Cả chúng ta nữa, cũng phải có thời gian để đến một nơi thanh vắng mà cầu nguyện một mình với Chúa Giêsu trong thinh lặng và hồi tâm. Chúng ta cần có những cơ hội để cầu nguyện theo cách của mình và cho những chủ ý của chính chúng ta. Cả hai, cầu nguyện chung và riêng là một phần đời sống của người Công giáo chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc phụng vụ hoặc những hình thức cầu nguyện riêng tư. Như thế, chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc cầu nguyện tư trong đời sống riêng của mình.
Đôi khi một số người đã kinh nghiệm với hình thức phụng vụ, phàn nàn rằng họ không thể cầu nguyện trong Thánh Lễ được nhiều hơn. Những gì mà họ muốn nói là hình thức trong suốt Thánh Lễ, điều đó đã được diễn ra trong tiếng Latinh và họ hầu như hoàn toàn im lặng, họ có thể cầu nguyện theo cách của họ và cho những nhu cầu của họ. Bây giờ họ được kêu gọi trở lại như một gia đình, một cộng đoàn. Họ và tất cả chúng ta phải biết rằng thi hành bổn phận Kitô giáo có liên quan ít nhiều đến việc thờ phượng ngày Chúa Nhật, ngay cả trong những lãnh vực cầu nguyện. Bên ngoài những nghi thức phụng vụ, chúng ta cũng cần có thời gian để cầu nguyện theo cách riêng của mình, để làm viên mãn nhu cầu tôn giáo cá nhân của chúng ta, chúng ta có thể đến với phụng vụ một cách sẵn sàng và nồng nhiệt, kết hợp với anh chị em thiêng liêng trong gia đình thờ phượng Thiên Chúa Cha của chúng ta. Những người nhiệt tâm với việc canh tân phụng vụ, họ đã tìm thấy trong việc thờ phượng công một kinh nghiệm hướng thuợng và thoả mãn, phải nhận biết rằng họ cần có thời gian cho việc sùng kính cá nhân và riêng tư nữa. Phải giữ sự quân bình đó là điều quan trọng, sùng kính riêng tư sẽ không bình thường, nếu coi thường đặc tính thờ phượng công xuyên qua việc đọc lớn tiếng hoặc là cầu nguyện chung. Nhu cầu thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm, đó cũng là ý nghĩa của đời sống và nơi chốn chúng ta phải có trong đời sống của chúng ta. Một sự chiêm niệm về giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu, diễn tả mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không muốn Thánh Lễ phải trở nên im lặng, là một sự sùng kính cá nhân, hoặc chúng ta cũng không xoay trở những diễn tả tôn giáo riêng tư trở thành những mẫu cầu nguyện chung của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta sự quan trọng của việc quân bình trong cầu nguyện, Ngài đã cho chúng ta một gương mẫu. Nỗ lực và thời gian chúng ta đặt vào cả hai, chúng ta cần có nỗ lực và thời gian để chú trọng đến cả hai phụng vụ chung và cầu nguyện riêng theo cách của chúng ta đáp trả lại gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu.