Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”. Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến”. Họ thưa Chúa Giêsu: “Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: “Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian”. Họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. - Ðó là lời Chúa.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc TN 18-B101
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana - vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: "Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội".
***
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: "Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa" (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: "Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời".
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: "Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy".
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
***
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi TN 18-B102
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: "Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!" (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?" (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a. Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b. Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
2. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về "Vị Tiên Tri" đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh" (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
3. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ xuống thuyền đi sang "bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận". Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc TN 18-B103
Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại nước mắt; có cuộc gặp gỡ mang lại hạnh phúc thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại khổ đau; có cuộc gặp gỡ mang lại hiệp nhất thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại ly tan; có cuộc gặp gỡ mang lại ngọt bùi thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại cay đắng; v.v….
Thưa quý ông bà anh chị em, đó là cuộc gặp gỡ trong thân phận con người chúng ta. Từ những cuộc gặp gỡ đó, chúng ta hướng đến một cuộc gặp gỡ cao trọng nhất, thân thương nhất. Đó là cuộc gặp gỡ mang tính thần-nhân, cuộc gặp gỡ giữa mỗi chúng ta và Đức Giêsu. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài không nói với chúng ta bằng ngôn ngữ nào khác hơn là thể hiện tình yêu qua cái chết của con Ngài. Tình yêu này được cụ thể hoá nơi phép Thánh Thể là chính thân mình Đức Kitô Giêsu.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Chalot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất của ngành điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: "Ánh sáng đô thị". Cuốn phim kể về câu chuyện tình của gã lang thang và cô gái bán hàng hoa.
Nàng là cô gái mù bán hàng hoa bên vệ đường. Ngày nào cũng có một nhà tỉ phú dừng lại mua hoa của nàng. Thế rồi, một ngày kia cũng có một gã lang thang tên là Chalot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Tưởng là người tỉ phú, nàng đem lòng yêu mến và giấc mộng đã từ đây chớm nở nối kết hai tâm hồn. Phần nàng, nàng tưởng rằng mình gặp được người mình mơ mộng bấy lâu nay. Còn chàng Chalot thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù loà cho nàng.
Chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát giam giữ. Sau thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Rồi chàng trở lại chỗ cũ để tìm lại người con gái mù loà bán hoa, nhưng nàng đã ra đi. Nhờ tiền bạc trước đây chàng gởi cho, người con gái nay đã thấy được và đang đứng bán một cửa hàng hoa rộng lớn hơn. Chàng qua lại nhiều lần nhưng không thể nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hồng rơi xuống đất, chàng vội cúi nhặt lấy. Nhưng người con gái cười như khinh bỉ chàng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng vội quay lại và khẽ hỏi: "Cô thấy được rồi sao?" Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng… Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên, gắn lên áo chàng và nghẹn ngào thốt lên: "Anh đấy sao?" Cả hai người nhận ra nhau và không bao giờ xa nhau nữa.
Kính thưa cộng đoàn, đó cũng là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ cao trọng hơn đó là phép Thánh Thể. Lời mời gọi nối kết con người và Đức Giêsu Kitô làm một:
Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35)
Đức Kitô nối kết tình yêu của mình với nhân loại bằng chính sự hiến thân cứu chuộc. Ngài trút bỏ mọi vinh hoa phú qúy, để sống kiếp phàm trần, để có dịp gặp gỡ và buồn vui với con người. Thánh Phaolô đã miêu tả: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. … (Pl 2, 5-7).
Kính thưa cộng đoàn,
Đức Giêsu Kitô đã phục sinh và Ngài đã về với Thiên Chúa Cha, thế nhưng, một cách âm thầm, Ngài vẫn ở lại trong bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để mời gọi mọi người hãy đến cùng ăn một bánh và cùng uống một chén. Một khi đã cùng ăn, cùng uống Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta lại được cùng nhau hòa quyện trong tình yêu của Ngài. Tình yêu nối kết mỗi người lại với nhau, như Đức Kitô đã được sống trong tình yêu của Chúa Cha. Thánh thể là việc tự hiến mình trong đức ái của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và cho mọi người chúng ta. Do đó, chúng ta cũng học theo gương Ngài mà trao cho nhau những hành động và cử chỉ yêu thương, điều này đòi hỏi một đức ái vững bền. Anh chị em có thể làm phúc, giúp đỡ người nghèo khó, người cô thế cô thân… với một tinh thần yêu thương, chắc hẳn anh chị em sẽ gặp được chính Đức Kitô nơi họ. Hình ảnh Đức Kitô nơi anh chị em đồng loại cũng chính là Đức Kitô trong Thánh thể, mà anh chị em rước lấy mỗi ngày - ai làm cho một trong những người bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Kitô luôn đồng hành và dẫn dắt mỗi người chúng ta đến, để chúng ta cùng gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới đầy yêu thương. Đó là nước trời mà Thiên Chúa Cha dành sẵn và đang chờ đón chúng ta.
Anh chị em có thể là một người nghèo vật chất, nhưng xin anh chị em đừng nghèo về tinh thần, nghèo tình cảm, nghèo lòng nhân đạo, nhất là nghèo tình yêu. Mọi điều Đức Kitô Giêsu ban tặng cho chúng ta được gói trọn trong hai chữ tình yêu: Này là mình Thầy hiến tế vì anh em. Tình yêu Đức Kitô làm cho chúng ta nên một, tràn ngập niềm vui và hy vọng.
Kính thưa cộng đoàn,
Thánh Gioan cho chúng ta thấy việc mặc khải Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống, cũng chính là mặc khải của hành trình nối kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa con người với Thiên Chúa, giữa niềm vui và ơn cứu độ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha và con người trong Đức Kitô. Bánh Hằng Sống diễn tả nét đặc trưng con người Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và sự hiên diện của Ngài giữa chúng ta đã đem lại một luồng sinh khí mới và nối kết mọi người trong mối giây hiệp thông.
Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha đã gởi đến cho chúng ta và Ngài là hồng ân được tặng ban qua quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài dùng bí tích Thánh Thể để công bố tình yêu của Chúa Cha và tuôn đổ Thần Khí của Ngài. Như vậy, sự hiệp thông của Ngài cũng chính là sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn tình yêu, bởi vì Đức Giêsu được dâng hiến như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại và canh tân mọi tạo vật. Do đó, khi cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để gặp gỡ Đức Kitô, nguồn mạch sự sống và tình yêu, và làm cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được biến đổi thành một hồng ân.
Cũng như cánh hồng là sợi chỉ hồng đan kết Chalot và nàng bán hàng hoa lại với nhau, thì cũng vậy, Thánh Thể là nguồn mạch Tình Yêu cũng nối kết chúng ta làm một với Đức Giêsu, tan biến chúng ta trong biển cả Tình Yêu của Ngài, và sau cùng dẫn dắt chúng ta đến hưởng nếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài trên Thiên quốc.
Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương, nối kết mọi tâm hồn chúng con lại với nhau, như cành nho được nối kết cùng thân nho, để ngày càng phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái tốt. Amen.
Cơm ăn, áo mặc, nước uống, thuốc men, nhà cửa, xe cộ, tiền tài, danh vọng… có thể giúp cho con TN 18-B104
Cơm ăn, áo mặc, nước uống, thuốc men, nhà cửa, xe cộ, tiền tài, danh vọng… có thể giúp cho con người kéo dài sự sống, được khoẻ mạnh, được sung túc... Thế nhưng, những thứ đó lại không thể đảm bảo cho con người thoát khỏi cái chết cho dẫu người ta có sở hữu nhiều của cải vật chất đến đâu đi chăng nữa. Vậy mà, biết bao người vẫn mải mê đi tìm thứ lương thực mau qua chóng mất ấy, khiến Đức Giêsu phải nhắc nhở: “Anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Lương thực đem lại phúc trường sinh ấy chính là con người của Đức Giêsu như Ngài đã khẳng định: “Chính Ngài là bánh trường sinh”.
Trong những giây phút ngắn ngủi được ở bên Chúa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được luôn ghi nhớ lời dạy của Chúa và ra công làm việc hơn nữa, để có thể gặt hái được thứ lương thực Ngài đã hứa.
SUY NIỆM:
Trong các chiến dịch tranh cử, các ứng viên thường đưa ra nhiều lời hứa, nhiều chương trình cải cách, nhiều viễn tượng tốt đẹp… cho một tương lai sáng lạn hơn để thuyết phục mọi người dồn phiếu cho mình. Tuy nhiên, biết bao nhiêu lần trong lịch sử, lời hứa đó chỉ là lời hứa suông, viễn cảnh tốt đẹp kia chỉ là “bánh vẽ”; hết nhiệm kỳ, đôi khi tình trạng lại còn tồi tệ hơn trước.
Còn trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là “Bánh Trường Sinh” và Ngài hứa rằng: “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ!”. Đức Giêsu đã không hứa suông; Ngài đã hứa điều đó sau phép lạ hoá bánh ra nhiều như một minh hoạ cho lời hứa. Lời hứa ấy được ký kết bằng bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, được hoàn tất bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một lời hứa ngàn vàng không đổi được vì được bảo chứng bằng chính mạng sống của Con Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng: Chúng ta được tạo thành nhờ Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, dù chúng ta có muốn hay không. Cơn đói khát thực sự của chúng ta là đói khát Thiên Chúa. Vì thế, mọi lương thực trần gian mau hư nát chỉ làm cho con người thèm khát thêm mà thôi. Lương thực đích thực và duy nhất của chúng ta là lương thực phát xuất từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không có gì có thể làm thoả mãn con người hoàn toàn được.
Vì vậy, Chúa Giêsu đã và đang mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài để cho chúng ta được no thoả, vì Ngài là “Bánh trường sinh”, là “Nước hằng sống”. Người không lừa dối chúng ta đâu, chỉ có chúng ta có chịu tin vào Ngài hay không mà thôi.
Vì đã hứa nên Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết để cho chúng ta được sống. Còn chúng ta đã hứa gì với Ngài? Và chúng ta đã thực hiện lời hứa ấy ra sao?
Chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để tâm sự, để chia sẻ với Chúa những vui-buồn, sướng-khổ, những thành công và những thất bại chúng ta gặp trong cuộc sống để được Ngài nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho.
Mỗi khi có thể, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn mình cho xứng hợp để rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa, để linh hồn chúng ta không còn phải đói, phải khát nữa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đức tin chúng con còn yếu đuối, xin củng cố và nâng đỡ để chúng con luôn có Ngài trong cuộc sống, để cho lời hứa của Ngài thành sự trên chúng con và giúp chúng con biết loan truyền Lời Ngài bằng chính niềm tin và cuộc sống của chúng con. Amen.
Điều không thể chối cãi là con người cần ăn uống để sống và thực phẩm để nuôi thân chính do bàn TN 18-B105
Điều không thể chối cãi là con người cần ăn uống để sống và thực phẩm để nuôi thân chính do bàn tay sinh hoạt, cộng với khối óc, nhào lặn đất cát làm ra thực phẩm nuôi thân. Ngoài việc nuôi dưỡng bảo vệ phần xác, còn một phần nữa rất quan trọng cũng cần phải nuôi dưỡng, chăm sóc bảo vệ. Tuỳ vào niềm tin cuộc sống đời sau của mỗi người mà họ đặt tên gọi cho phần quan trọng này. Kitô hữu gọi đó là linh hồn, thuộc phần tâm linh.
Thần lương là lương thực đặc biệt dùng để nuôi sống linh hồn hoặc tâm linh trong ta. Điều này rất quan trọng bởi nếu ta chăm sóc chu đáo cho phần xác và lơ là phần tâm linh ta sẽ cảm thấy cuộc đời là gánh nặng, vất vả. Kể cả trường hợp đánh mất mục đích cuộc sống trần gian. Không biết sống để làm gì, với mục đích gì. Những cảm xúc đó xuất hiện trong cuộc sống là dấu chỉ cho biết đời sống tâm linh bị lơ là, quên lãng từ đó đánh mất í nghĩa cuộc đời. Đời sống tâm linh lơ là, đời mất vui, ngày đêm luôn lo lắng. Thành công vui chốc lát; thất bại thảm sầu khôn nguôi. Giầu sang sống sợ sệt; nghèo hèn lo ngày đêm. Con người không thể sống thiếu niềm vui nên người ta thay vì củng cố đời sống tâm linh cho vững chắc để hưởng hạnh phúc, bình an thực, lại đi tìm bình an giả tạo trong các cuộc chơi. Một thời gian sau trở thành nghiện ngập. Cuối cùng bị xã hội tẩy chay, trở thành cặn bã xã hội.
Khám phá y khoa và chuyên gia ẩm thực đồng loạt lên tiếng cảnh cáo cho biết người dùng thực phẩm tốt sẽ có một cơ thể tốt, khoẻ mạnh; người dùng thực phẩm xấu hậu quả thật buồn thảm bởi sau một thời gian thực phẩm xấu tàn phá cơ thể đến độ không thể chữa trị được dẫn đến tử vong. Cảnh cáo này đúng cho cuộc sống tâm linh. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh tốt sẽ tạo cho cuộc sống dù nghèo, dù vất vả nhưng vẫn cảm thấy an vui, yên tâm sống hạnh phúc. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh xấu dù giầu sang, dù nổi tiếng, dù tài cao, dù chức trọng vẫn luôn thấy bất an, sống trong lo lắng, sợ sệt. Để lấp vào lỗ hổng lo lắng, mất an người ta tìm mọi cách mang lại bình an tạm, như thuê người bảo vệ, xây hàng rào cao, cần khoá vững chắc và ngay cả không loại bỏ giải pháp nếu phải tiêu diệt kẻ mình nghi đang cạnh tranh, giành giật điều đang có họ cũng không từ nan.
Thực phẩm tìm kiếm trong đất đai phù hợp cho cơ thể con người nhưng trở thành vô dụng không sinh ích gì cho tâm linh. Kitô hữu may mắn có thần lương do Đức Kitô ban. Ngài biết rõ tâm linh cần gì nên Ngài biến thực phẩm bình thường thành lương thực trường sinh. Không phải do đất đai; cũng không phải do con người mà chính là Đức Kitô, Đấng biến thực phẩm hay hư nát thành thần lương trường sinh cho tâm hồn. Bí Tích Thánh Thể và Lời Chúa làm công việc thánh hoá đó. Trong lời nguyện khi dâng lễ vật chúng ta nghe linh mục cầu xin
Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn vì Chúa đã dựng nên bánh/rượu này là hoa mầu của trái đất và lao công của con người. Chúng con dâng lên Chúa để trở nên của ăn/uống trường sinh cho chúng con. (Sách lễ Roma)
Lời nguyện trên cho thấy bánh rượu thường chúng ta dâng tiến, Thiên Chúa biến chúng thành thần lương nuôi dưỡng tâm linh con người. Qua việc thánh hiến và lời nguyện bánh rượu thường trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Ngoài Thiên Chúa ra không một ai có thể làm được điều đó. Ngoài thần lương này ra không thực phẩm nào trên thế gian mang lại bình an thực sự cho tâm hồn. Đời sống tâm linh không lệ thuộc vào luật thiên nhiên nên thực phẩm trong thiên nhiên không thể nuôi sống tâm linh mà phải cần đến thần lương Chúa ban.
Lời nguyện trên cũng cho biết Thiên Chúa hằng sống, luôn đồng hành với dân Chúa và tiếp tục, không ngừng sáng tạo. Qua lời cầu của linh mục, đại diện cộng đoàn, dâng lời nguyện và tiến dâng lễ vật, Thiên Chúa sáng tạo, biến đổi bánh thường thành thần lương.
Ngoài Chúa ra không người nào có khả năng làm điều kì diệu trên. Con người chỉ biết dâng lời cảm tạ, chân thành tôn kính Chúa và khiêm nhường đón nhận thần lương với tâm tình mến yêu với niềm tin sắt son vào Lời Đức Kitô truyền dậy
Người ta không chỉ sống bởi cơm bánh mà còn sống bằng Lời tử miệng Thiên Chúa phán ra – (TĐCV 17,28).
Chúa dùng manna nuôi dân trong sa mạc khô cằn biểu lộ lòng Chúa xót thương ngay cả khi con TN 18-B106
Chúa dùng manna nuôi dân trong sa mạc khô cằn biểu lộ lòng Chúa xót thương ngay cả khi con người phản bội, bất trung.
Thực thể diệu kì
Thực thể diệu kì, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có sự sống và sống dồi dào. Sa mạc khô cằn, sỏi nhiều hơn đá. Đá nhiều hơn đất. Đất xấu nhiều hơn đất tốt. Đã ít đất còn khô cằn. Loại cây nào cũng chết yểu. Cỏ dại nào cũng bơ phờ. Lưa thưa vài đám xương rồng, lá thu nhỏ thành gai.
Sa mạc
Sa mạc hình bóng chết chóc rõ nét hơn sự sống. Chết vì nắng khô, chết vì bò cạp, rắn độc. Thần chết rình rập cả ngày lẫn đêm. Chết vì thiếu nước. Chết vì ngày nóng khiến cát chuyển mình. Triệu hạt cát cùng chuyển biến thành bão cát. Sa mạc đêm lạnh se lòng đá, khiến đá rung động, rên siết, vụn tan thành cát.
Thiếu đất và nước sự sống cằn cỗi, èo ọt. Sức người có hạn, sớm muộn gì cũng thành tro bụi. Con người bất lực. Tuy nhiên, với Chúa không có chi khó, chỉ cần có đức tin. Các tông đồ có lần kinh ngạc thốt lên:
‘Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh. Mc. 4,41
Với Chúa mọi sự đều có thể. Các tổ phụ năm xưa có lẽ kinh ngạc hỏi nhau: ông này là ai mà sai khiến được cả sương khuya, gió sớm. Một lời Ngài phán ra sương mai vâng lời chở manna nuôi dân. Một lệnh truyền ban, gió vâng lệnh. Chim cút trên ngàn tự hiến thân cho bữa cơm gia đình. Đời sống sa mạc trở nên phong phú, sung túc. Thiên nhiên vâng lệnh Ngài. Chỉ có con người, lợi dụng tình Chúa yêu thương, cãi lại Đấng từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, giầu thứ tha.
Ngày lễ nghỉ
Điểm thứ hai, kiêng việc xác ngày Chúa Nhật là kiện toàn lề luật. Sách Xuất Hành ghi nhận. Chúa ban manna cho dân chúng từ Thứ Hai đến Thứ Sáu. Mọi người lớn nhỏ, tự do gom góp đủ của ăn nguyên ngày. Kẻ tham lam lấy nhiều hơn đã không được hưởng còn đắc tội. Manna vụng trộm, cất dấu ngay chiều tối hôm đó nảy sinh giòi bọ, hôi thối. Của để dành trở thành của nợ. Chúa làm chủ manna, ban cho nó sự tươi mát, tinh khiết, dài ngắn tuỳ ý Chúa. Một mình Chúa định đoạt tuổi thọ của con người, chim trời, cá biển, bông cỏ đồng nội và ngay cả cỏ dại trên ngàn. Tất cả đều vâng phục ý Chúa, ngoại trừ con người.
Ngày Thứ Bảy mọi người được phép giữ đủ manna ăn cho hai ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật. Ngoài ý Chúa nhiệm mầu ai giải thích nổi điều kì lạ. Cùng loại manna từ trời do sương mai chuyển đến nhưng từ thứ Hai đến Thứ Sáu không để dành được. Trái lại manna thu lượm ngày Thứ Bảy lại để dành cho đến hết ngày Chúa Nhật vẫn tươi mát, thơm ngon. Lí do ngày Chúa Nhật là ngày dành riêng ca tụng thờ phượng Chúa. Truyền thống tốt đẹp, cao quí lâu đời này bị kẻ coi thường luân thường, đạo lí thay đổi.
Ngày lễ nghỉ theo tập tục, truyền thống ngàn xưa dành riêng để tôn vinh Thiên Chúa bị các ‘nhân danh’ lạm dụng, ngầm mưu hại. - Nhân danh cách mạng kĩ nghệ, công nhân làm bảy ngày trong tuần. - Nhân danh thể dục, thể thao tổ chức trận đấu vào Chúa Nhật. - Nhân danh giáo dục thi cử vào Chúa Nhật, đại lễ Giáng Sinh. - Nhân danh kỉ niệm một biến cố xã hội, ngăn cản giáo dân kiện toàn lề luật nghỉ ngày hưu lễ.
Tất cả các nhân danh này nọ, ít người đủ can đảm, bạo miệng nói thẳng ra, nhưng tự thâm tâm có mục đích bài bác ngày lễ nghỉ, chủ trương phá hoại ngày dành riêng tôn thờ Thiên Chúa. Một hình thức chống phá đạo trá hình. Tất cả các nhân danh của xã hội đều chối bỏ một thực thể hiện hữu: Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống.
Bánh trường sinh
Có xã hội nào ra công, bỏ sức đi tìm thực phẩm mau hư nát mà dân chúng thực sự an cư, lạc nghiệp. Càng cố gắng đi tìm quyền cao, chức trọng. Càng ra sức tranh giành cho mình nhiều của hơn người. Xã hội càng lắm tệ đoan. Tránh khỏi cám dỗ này lại sa vào cạm bẫy khác. Vất vả tìm kiến, mệt mỏi tranh giành bệnh thời đại phát sinh. Điên loạn, trầm cảm gia tăng. Trẻ khủng hoảng cuộc đời; già bị bỏ rơi. Nghèo ham có tiền; giầu thấy tiền vô nghĩa. Sống vô vị, thiếu giá trị, mất tương lai nên số người tự huỷ ngày một nhiều. Hậu quả của
‘Chối bỏ lương thực đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho’ c.27.
Chối Chúa là bước trên con đường một chiều dẫn đến diệt vong. Chê bánh trường sinh sẽ mất sự sống trường sinh. Chê bánh ban sự sống sẽ mất sự sống. Kiêu ngạo, chối bỏ Chúa, tự nhận mình làm chủ sự sống. Bài học tổ phụ Adam - Eva học xưa nay con cháu cho vào dĩ vãng. Chúa là Đấng duy nhất làm chủ sự sống.
Chối cuộc sống đời sau nên tranh sống đời này. Tranh sống nên đè đầu cỡi cổ nhau. Bất công ra đời, công kích, phản đối, gầm gừ cấu xé nhau. Một mình làm không được thì kéo bè, chia phái. Luật tranh sống ra đời bắt đa số phục vụ thiểu số lãnh đạo. Mầm mống tự huỷ nảy sinh. Chối Chúa là đi trên con đường tự hủy. Bỏ Chúa là bỏ sự sống trường sinh. Chỉ có một điều cần để được sống an vui, trường cửu.
Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, là Đức Kitô. c.29
Để sống đời đời hãy đón nhận Bánh Trường Sinh với lòng cảm mến.
Tôi có một người bạn bị bệnh ung thư. Bà ta phải đi chữa bằng chương trình hoá trị, và chịu hậu TN 18-B107
Tôi có một người bạn bị bệnh ung thư. Bà ta phải đi chữa bằng chương trình hoá trị, và chịu hậu quả của chương trinh đó. Các bạn biết chứ, chữa bằng hoá trị rất đau đớn, làm tổn hại sức khoẻ. Nếu chúng ta không bị bệnh như thế, chắc chúng ta không biết gì về người bị ung thư. Bà bạn tôi là goá phụ. Con cái bà sống xa. Các con hằng ngày gọi điện thoại hỏi thăm mẹ. Họ thay phiên đến thăm mẹ. Nhưng họ có con cái và công việc làm ăn nên không thăm mẹ thường được. Nhưng bà bạn tôi nói với các con "đừng lo, mẹ có bà Maria".
Bà Maria là bạn lâu đời của bà ấy. Cả hai người là giáo chức hưu trí. Bà Maria đi với bà bạn khi chữa bệnh. Khi nào bà bạn đau nhiều thì bà Maria đi chợ nấu nướng cho bạn. Vì thế bà bạn tôi nói với con cái đừng lo. Con cái nói "Cám ơn Chúa, có bà Maria". Nghe như tên của bà Maria là "cám ơn Chúa", vì mỗi khi nói đến Mẹ Maria, chúng ta nói "Cám ơn Chúa có Mẹ Maria".
Rất nhiều người được sự giúp đỡ của gia đình, hay bạn bè, hay người xa lạ không biết từ đâu đến. Khi xãy ra như thế, người được giúp đỡ tỏ vẻ cảm tạ với lời cám ơn nồng hậu và đưa một chút quà nhỏ để tạ ơn người giúp đỡ. Nhưng có người trông thấy xa hơn một tầm tay giúp họ khi họ cần. Chúng ta có thể nói là những người đó "mở mắt lớn ra". Theo lời phúc âm hôm nay họ "trông thấy". Nói cách khác, họ trông thấy dấu chỉ, họ không những chỉ thấy người giúp đỡ họ nhưng họ trông thấy cả Đấng đã gởi người đến giúp họ. Bởi thế bà bạn tôi nói "Cám ơn Chúa…". Tôi chắc bạn có thể điền tên người giúp vào chỗ trống.
Phúc âm hôm nay tiếp theo câu chuyện dân chúng ăn bánh hoá nhiều mà Chúa Giêsu ban cho họ. Chúa Giêsu cho họ ăn vì họ đói. Nền tảng của phúc âm là lo lắng cho người đói và người cần được giúp đỡ. Nhưng Chúa Giêsu nhắc họ là mặc dù họ đã được ăn uống no nê, họ sẽ còn đói nữa. Các giáo chức có thể gọi điều này là "việc dạy dỗ". Chúa Giêsu thừa dịp này dạy họ nên để sức tìm của ăn bền vững hơn, không phải chỉ của ăn phần xác, mà cả của ăn thuộc đời sống thâm sâu hơn. Lẽ cố nhiên Chúa Giêsu muốn nói về chính Ngài. Chúa Giêsu là của ăn sẽ không để họ đói nữa, của ăn đó cho một đời sống mới bắt đầu từ bây giờ, và không mất mát qua thời gian. Thật ra đời sống đó sẽ nẫy nỡ thêm.
Chúa Giêsu biết chúng ta có nhu cầu thân xác và đói khát: nhất là khi trong gia đình có người lâm bệnh; hay sau khi có người thân thương qua đời; hay trong lúc kinh tế khủng hoảng; hay trong lúc chiến tranh hay sợ có chiến tranh. Nhưng Chúa Giêsu muốn nói là Ngài sẽ giúp chúng ta nhiều hơn là chỉ ngay khi chúng ta gặp khó khăn. Lẽ cố nhiên chúng ta mong mỏi người thân thương hết bệnh tật, nền kinh tế sẽ khá hơn, và hoà bình sẽ đến v.v... Nhưng, khi hoàn cảnh thay đổi khá hơn, liệu chúng ta có ít nhu cầu tìm về Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta hay không? Hoặc chúng ta có cảm thấy cần sự nuôi dưỡng của Chúa Giêsu cho sự khát khao lâu dài của chúng ta hay không? Chúa Giêsu ban cho chúng ta bánh hằng sống "bánh thật bởi trời".
Khi người ta hỏi Chúa Giêsu "chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?". Chúa Giêsu trả lời "việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đên". Họ lại nói "Ông Môsê đã cho chúng tôi bánh ăn trong lúc đói và chúng tôi có được sức đi qua sa mạc". Chúa Giêsu nói "vậy ông Môsê đã cho các ông bánh ăn, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng đã cho các ông bánh bởi trời. Các ông không nhận thấy dấu chỉ sao, chính Thiên Chúa đã cho bánh đó". Chúa Giêsu bảo họ phải mở mắt để "xem", nghĩa là hãy tin vào Ngài.
Ngay bây giờ Chúa Giêsu đang nói vói chúng ta, vì Thiên Chúa tiếp tục ban cho chúng ta "bánh bởi trời ". Bà bạn tôi nhìn thấy Thiên Chúa làm việc đó qua bà Maria. Bà ta nói Thiên Chúa đã gởi bà Maria đến "bà Maria là người Thiên Chúa gởi đến".
Đó là điều chúng ta cần suy ngẫm hôm nay phải không? Chúng ta có biết tạ ơn vì chúng ta đã được giúp đỡ trong những lúc khó khăn, và chúng ta có nhận thấy sự giúp đỡ đó là bởi Thiên Chúa hay không? Nếu chúng ta đã nhìn nhận dấu chỉ, nếu chúng ta đã "mở mắt ra" nghĩa là chúng ta biết cảm tạ những người cho chúng ta của ăn khi chúng ta cần.
Chúng ta cảm tạ Đấng đã gởi sự giúp đỡ qua một người bạn khi người nói với chúng ta "đừng lo, tôi sẽ có đó với bạn". Chúng ta cảm tạ một vị giáo chức đã để thêm thi giờ giúp chúng ta học bài thi. Chúng ta cảm tạ thầy dạy giáo lý giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa với nhãn quan mới. Chúng ta cảm tạ ông bà hay cô cậu giúp chúng ta tiền để đi học, hay giúp chúng ta tìm việc làm. Chúng ta cảm tạ một người trong giáo xứ giúp chúng ta nhìn xa hơn nhu cầu của chúng ta để nhìn thấy nhu cầu khẩn cấp của người khác. Trong sa mạc ông Môsê cho của ăn, nhủng chính Thiên Chúa là Đấng ban của ăn đó. Chúng ta có nhận dấu chỉ không? Làm sao chúng ta đáp lại lòng Thiên Chúa rộng lượng nhân từ đã cho chúng ta bánh dưới nhiều hình thức đó? Chúng ta có thể dùng lời chỉ dẫn của một tu sĩ dòng đa minh ở thế kỷ thứ 14 là Meister Eckhart. "Nếu có lời kinh duy nhất trong đời chúng ta đó là "cảm tạ" là đủ rồi".
Và đó là ý nghĩa của từ Thánh Thể "cảm tạ". Cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta "bánh hằng sống là Chúa Giêsu". Hãy nghe trong lời nguyện Thánh Thể lời "cảm tạ" hay "tạ ơn" lập lại bao nhiêu lần. Khi nào chúng ta nghe từ "tạ ơn" chúng ta có thể nhắc người khác là Thiên Chúa gởi của ăn cho chúng ta khỏi đói về phần xác và cả phần hồn. Rồi chúng ta thưa "cảm tạ" với Thiên Chúa là Đấng đã cho chúng ta "bánh ăn". Nếu lời kinh nguyện độc nhất chúng ta dâng trong đời sống chúng ta là "cảm tạ" cũng đủ rồi.
Thánh Thể, Của Ăn Bảo Dưỡng Trong Hành Trình Dương Thế
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã đọc phần mở đầu của chương 6 trong Phúc Âm thánh Gioan. Kể từ Chúa TN 18-B108
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã đọc phần mở đầu của chương 6 trong Phúc Âm thánh Gioan. Kể từ Chúa nhật này cho đến hết tháng 8 các bài phúc âm sẽ trình bày tuần tự chương này; nhờ vậy; chúng ta sẽ hiểu rõ chương 6 nhiều hơn.
Qua đó diễn tả việc Chúa Giêsu làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều giúp nuôi dưỡng số đông dân chúng theo Ngài. Sau đó đám dân chúng muốn tôn phong Ngài làm Vua nên Ngài đã lánh đi nơi khác. Nhưng đám dân chúng vẫn kiên trì bám theo Ngài qua tới bờ bên kia biển hồ ở Ca-phác-na-um. Trong phúc âm thánh Gioan hay nhắc đến việc Chúa Giêsu gặp và đối thoại với nhóm Biệt Phái hay với đám đông sau mỗi phép lạ Ngài làm. Đây là cách thánh Gioan muốn diễn đạt thêm về ý nghĩa của những “dấu chỉ” mà Chúa Giêsu đã thực hiện cho những cộng đoàn Kytô Hữu thời đó hiểu.
Trong những đối thoại này không nhằm để chúng ta biết được những gì đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Nhưng để chúng ta tin là Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài đang nói với chúng ta ngày hôm nay, cũng như Ngài đã nói với đám quần chúng theo Ngài trước kia. Khi đám dân chúng gặp được Ngài, họ đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Thật là một câu hỏi thông thường phải không? Và chúng ta cũng sẽ hỏi như vậy khi chưa biết gì về Chúa Giêsu. Nhưng trong câu chuyện này có điều đáng để ý là Chúa Giêsu không đối xử với đám người hỏi Ngài một cách bực tức và đuổi họ đi. Trái lại, Ngài đối thoại với họ. Chúng ta học hỏi được gì về cử chỉ đó của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta thực hiện việc đó với Chúa Giêsu bằng cách đối thoại với Ngài và lắng nghe lời Ngài, thì chúng ta sẽ hiểu thêm được Ngài là ai và chúng ta là ai.
Chúng ta lại tụ họp nhau trong ngày Chúa Nhật để mừng bí tích Thánh Thể. Có lẽ chúng ta vừa qua một tuần lễ rất bận bịu công việc, và không có thì giờ để nghĩ đến Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta đến đây với câu hỏi của chúng ta, và chúng ta lắng nghe lời Chúa Giêsu hỏi chúng ta. Như Ngài đã nói với đám đông quần lúc ấy: “Các ông tìm gì vậy?” Có phải hôm nay chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu vì chúng ta biết Ngài sẽ giúp chúng ta ra khỏi cảnh khó khăn của cuộc sống, hay giúp tránh chuyện bất hạnh xảy đến cho chúng ta không?
Chúng ta cầu nguyện khi gặp khó khăn, đó là sự hiển nhiên. Nhưng Chúa Giêsu có thể giúp chúng ta nhiều hơn thế nữa; vì chúng ta khao khát Thiên Chúa nhiều chăng? Hay chúng ta muốn sống đời sống Thiên Chúa, muốn hiểu biết thêm nhiều hơn nữa về Ngài?; Đó là bánh mà Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta. Khi chúng ta rước Chúa Giêsu vào lòng, là chúng ta rước chính đời sống Thiên Chúa vậy. Vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài “Thầy là đường…”. Với sự khao khát hiểu biết thêm về Thiên Chúa, chúng ta hảy dùng lời của đám quần chúng theo Chúa Giêsu “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.”
Tôi có người bạn sửa soạn một chuyến du hành dài 8 giờ bằng xe hơi. Trong lúc ông sắp xếp hành lý vào xe, có vài người trong chúng tôi hỏi “Anh đem đủ lương thực đi đường không?” Ông ta trả lời là đủ, và nếu không đủ thì ông ta sẽ ghé lại quán ăn nơi dừng xe. Nhưng thời Chúa Giêsu không có những chỗ nghỉ chân dọc đường, vì thế nếu không mang theo đủ lương thực là có thể chết đói. Bởi thế phong tục thời bấy giờ là tặng lương thực cho người lên đường đi xa.
Chúng ta tất cả đều là những lữ khách, và chưa biết quảng đường đi là bao xa. Có những đoạn nào nguy hiểm thử thách đức tin chúng ta, chúng ta có thể mệt mỏi, và lạc hướng. Chúng ta có thể có lương thực vật chất, nhưng để giữ vững đức tin theo lời Chúa gọi là một chuyện khác. Nếu chúng ta muốn theo chân Chúa Giêsu chúng ta phải có lương thực mà chỉ có Ngài mới cho chúng ta được, đó chính là thân thể Ngài. Do vậy, mỗi Chúa Nhật chúng ta hợp nhau trong phụng vụ, để lãnh nhận món ăn bởi Lời Chúa và bởi Tiệc Thánh Chúa dành cho chúng ta để làm lương thực cho cuộc hành trình dương thế chăng?
Chúng ta, những người đến dự thánh lễ đều là những người đói khát. Có người đói về món ăn vật chất: như người bị thất nghiệp, hay không làm đủ lương để sống và nuôi gia đình; chúng ta không đủ bảo hiểm sức khỏe để khi đau ốm; chúng ta không đủ tiền để trả tiền học v.v… Trong giáo xứ chúng ta đã làm gì để giúp những trường hợp đó? Có giáo xứ lập kho thực phẩm, nhóm bác sĩ và y tá tình nguyện, lo tìm chỗ trọ cho người vô gia cư, chỗ dạy nghề, hướng dẫn về luật pháp v.v..
Chúa Giêsu trông thấy đám đông người nên Ngài động lòng cho họ của ăn. Chắc chắn rằng Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta giúp những người đói khát về vật chất trong xã hội chúng ta. Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, giúp chúng ta trông thấy những người cần giúp đỡ trong cộng đoàn chúng ta. Bằng đôi mắt của Ngài; sẽ giúp chúng ta thấy được những đói khát của tha nhân trong xã hội, luôn cả những người ở ngoài biên giới đất nước chúng ta. Thí dụ như tổ chức “Bánh cho thế giới”, là tổ chức làm đồng hành với Chúa Giêsu được gọi là “cộng đoàn Kitô Hữu” kêu gọi những người lãnh đạo đất nước quan tâm giải quyết nạn đói trong nước và trên thế giới.
Trong khi Chúa Giêsu nói đến sự đói khát vật chất, Ngài cũng nhắc họ không những chỉ tìm của ăn vật chất mà thôi, vì với của ăn đó, con người vẫn còn đói khát nữa. Ngoài món ăn vật chất ra, chúng ta còn đói khát về phần tâm linh và tình cảm. Những ngày bấy giờ chúng ta hãy nói đến những đói khát chúng ta nhận thấy trong đời sống, và trong gia đình chúng ta. Và chúng ta hãy đưa tay ra xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta của ăn. Ngài thấy chúng ta đói khát, và Ngài không nỡ từ chối lương thực hàng ngày mà chúng ta cần đến.
Thánh Gioan diễn tả Chúa Giêsu là người làm phép lạ, nhưng Ngài cũng là người cho chúng ta bánh “muôn đời”. Chúa Giêsu là “Bánh bởi trời”, Ngài được Thiên Chúa gởi đến để dạy chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa. Dân Israel gọi ông Mô-sê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Mô-sê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc. Chúa Giêsu khuyên những người thời bấy giờ nên nhìn nhận chính Ngài là bánh mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Thiên Chúa không những đã cho của ăn trong sa mạc, nhưng ngay bây giờ Thiên Chúa tự Ngài ban cho họ của ăn. (Phúc âm Thánh Gioan là phúc âm của thì hiện tại).
Đám quần chúng hỏi Chúa Giêsu “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”. Ngài trả lời “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Tin vào Chúa Giêsu là tin Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta (Ga, 3:16). Chúng ta không đáng được hưởng tình thương yêu đó, Chúa Giêsu là dấu chứng tình thương yêu của Thiên Chúa. Đón nhận Chúa Giêsu và lời Ngài dạy là ăn bánh hằng sống, bánh “ban sự sống cho thế gian”.
Sống đời sống của Chúa Giêsu ở thế gian là điều rất khó. Chúng ta có thể bị chán nản, muốn xuôi tay, hay bị lạc hướng. Đôi khi hình như thế gian của sự chết có vẻ thắng sự sống mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta. Mỗi ngày tin tức trên trang đầu các nhật báo đủ làm cho chúng ta chán nản. Bài phúc âm hôm nay nhắc chúng ta là cuộc hành trình dương thế không ai sẽ đi một mình. Mà sẽ cùng đi với nhau, với của ăn hằng sống được Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Ẩm thực là ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, ăn uống còn là một nét TN 18-B109
Ẩm thực là ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, ăn uống còn là một nét văn hóa – gọi là văn hóa ẩm thực, và có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản nhưng cũng phức tạp, vì phức tạp nên mới phải học.
Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, người ta có thể chém giết lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau.
Kinh thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23:2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo:
Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
TỪ BÁNH VẬT CHẤT…
Trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ vất vả khổ sở nên trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16:4).
Rồi Ngài nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16:12). Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16:15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16:15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna, còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa, tiếng Hy-lạp và Latin là Man hoặc Manna].
Đó là điều lạ lùng Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4). Tác giả Thánh vịnh nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Thiên Chúa luôn chiều lòng chúng ta, dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ mong chúng ta “giác ngộ” mà nhận biết Ngài là Đức Chúa duy nhất.
Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Nhưng không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con người cũ và “chết” cho tội lỗi. Tức là phải chịu đau đớn vì tự “banh da, xẻ thịt” của mình vì lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa!
…TỚI BÁNH TRƯỜNG SINH
Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài nói toạc móng heo: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6:26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ.
Có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh? Chúng ta thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, người ta xin được nhiều ơn lắm”. Và chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Chúng ta còn giữ vững đức tin? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao? Vậy người nghèo thiệt thòi quá! Có đoàn hành hương về Thánh địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn bạc triệu. Người nghèo có mơ cũng không thấy, vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “sất bất sang bang” thì làm sao có tiền đi hành hương để “xin ơn”? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa bất công!
Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta hoạt động tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa?
Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Và chắc chắn Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc “suy bụng ta ra bụng… Chúa”.
Chúa Giêsu nói: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27). Có lẽ họ không hiểu nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Ngài trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, màchính là Cha Tôi cho quý vị ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33).
Ý Ngài hoàn toàn khác, thảo nào…! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.
Nhưng với dân Ít-ra-en lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6:34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe quá “sốc”! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin vào Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Thực sự chúng ta rất may mắn!
Thậm chí chúng ta còn may mắn hơn dân Ít-ra-en, vì họ chỉ được ăn bánh-từ-trời là man-na, còn chúng ta cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sống đời đời chứ không bị án phạt mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
SỐNG (CN XVIII TN , năm B – Ga 6:24-35)
Loanh quanh cơm, áo, gạo, tiền Ngược xuôi ngày tháng, muốn điên cái đầu Bon chen từ sáng tới chiều Tóc xanh rũ xuống phai màu thời gian Có lần Chúa nhắc nhở rằng: “Sống không chỉ bởi của ăn đời này Nhưng còn sống bởi lời Ngài Chính Thiên Chúa phán hằng ngày, người ơi! (*) Cơm giữa đời, bánh bởi trời Ngài luôn phân phối, mọi người đủ no Chuyện sinh nhai lắm nhiêu khê Nhưng con tin Chúa liệu lo đúng thời Giọt buồn chợt hóa tiếng cười Cho con biết phải dâng lời tạ ơn Man-na, lương thực luôn cần Bánh Trường Sinh vẫn cần hơn rất nhiều Diệu kỳ Thánh Thể tình yêu Hằng ngày con được Ngài trao trọn tình TRẦM THIÊN THU (*) Đnl 8:3; Mt 4:4; Lc 4:4
Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể TN 18-B110
Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể biết đó là cái gì và để làm gì. Khi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc để đến Đất Hứa, người ta cũng đã từng thắc mắc khi thấy “vật lạ” từ trời rơi xuống như mưa: “Cái gì đây?”.
Manna hoặc Mana là loại thực phẩm đặc biệt, ăn được, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương, rồi cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), nhưng manna sẽ tan biến khi nắng lên. Từ ngữ manna được đề cập 5 lần trong sách Xuất Hành (Xh 16:26-35), được đề cập 3 lần trong Kinh Koran.
Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn”. Theo Kinh Thánh, manna là “man hu”, có nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?”, hoặc Pháp ngữ là “qu'est-ce que c'est?”. Nhưng người ta cho rằng từ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng A-ram chứ không phải là tiếng Do Thái.
Trình thuật Xh 16:2-4. 12-15 cho biết: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ nói: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!”. Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Vì miếng ăn người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí không ngần ngại bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp hết! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể mất chỉ vì miếng ăn. Khốn nạn thật!
Nhà ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) nói: “Cái bụng đói không thể lắng nghe”. Và rồi, cũng chỉ vì cái bụng đói cồn cào, thằng Bờm chứ không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay, thực tế là thế đó! Danh y Anthony: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh”. Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật.
Thiên Chúa cũng rất thực tế, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên Ngài phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không”. Và Ngài cho ông Mô-sê biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
Thật vậy, vào buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây?”. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Thật hay mơ? Nếu thật như thế thì đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh để ăn. OK lắm!
Thiên Chúa thử thách chúng ta không phải vì Ngài không biết nên phải “dò sóng”, mà Ngài biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài thử thách để tôi luyện niềm Tin Cậy Mến của chúng ta mà thôi. Một khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4).
Với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, một lời tuyên phán là có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Ít-ra-en băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước (Xh 14:15-31). Manna và chim cút chỉ là “chuyện nhỏ của chuyện nhỏ” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Manna được gọi là “bánh thiên thần”, nhắc chúng ta nhớ tới Bí tích Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng, còn dân Ít-ra-en xưa không hề biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà không biết tạ ơn Chúa đấy!
Thánh Phaolô nói: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Lời khuyên dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn “nóng hổi” với chúng ta ngày nay, vì chúng ta vẫn chưa loại bỏ được sự ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo. Nói hay, muốn nhiều, làm chẳng bao nhiêu!
Chẳng oan ức gì đâu, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:20-24). Quả thật, phàm nhân chúng ta vẫn mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ. Bao Mùa Vọng, bao Mùa Chay, bao kỳ tĩnh tâm, bao lần xưng tội, bao lần quyết tâm,... Tất cả cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu! Đúng như tiền nhân ví von: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?”. Lý do thực tế và đơn giản lắm, vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon), và “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Khốn nạn thân tôi!
Thấy manna, dân Ít-ra-en lấy làm lạ, vì chưa hề thấy bao giờ, thế nên họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?”. Tương tự, khi thấy người lạ, chúng ta thường hỏi: “Ai đây?”. Và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường này. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Biết thắc mắc đúng sẽ dẫn tới sự khôn ngoan.
Một hôm, khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ cũng không có ở đó, thế là họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi gặp thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:26-27). Khi cầu nguyện, chúng ta cũng thường chỉ muốn xin là chính, nhất là muốn “xin như ý mình”, mà lại quên chúc tụng và tạ ơn! Chúng ta có đáng trách không nhỉ? Chắc chắn ngại trả lời ghê đi!
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt lành biết bao, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Và Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Thì ra họ chẳng thành tâm chi cả, mà họ chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Đúng là họ dốt mà chảnh. Và chúng ta cũng thế!
Đức Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33). Có lẽ lúc này họ đã “sáng mắt” nên họ liền xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt. Và Chúa Giêsu xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Và họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai”.
Tuy nhiên, đó là sự thật, thật hơn cả sự thật. Ngày nay, chúng ta may mắn hơn họ vì đã được hưởng di sản quý báu vô cùng: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền. Và chúng ta không phải thắc mắc như dân Ít-ra-en xưa: “Cái gì thế nhỉ?”. Vâng, chúng ta thực sự vô cùng may mắn!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thắc mắc đúng và tìm hiểu cho thấu đáo, nhờ đó mà có thể duy trì ba nhân đức đối thần trong mọi hoàn cảnh. Vâng, lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho con, để nhờ vững tin mà con có thể trông cậy nơi Ngài, và yêu mến Ngài qua tha nhân. Xin cho con được no thỏa ân tình Thiên Chúa và Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Linh, đến muôn đời. Amen.
Không ai dám nói rằng làm Kitô hữu quá dễ, chẳng có gì khó. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta mọi TN 18-B111
Không ai dám nói rằng làm Kitô hữu quá dễ, chẳng có gì khó. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta mọi thứ và cũng đòi chúng ta đáp trả mọi thứ – thời gian, tài năng, chính mình. Chúng ta được kêu gọi trở nên sứ giả của Đức Kitô, và phản ánh Thiên Chúa trong mọi động thái của chúng ta.
Nhưng trong cuộc sống thường nhật, chúng ta có đầy những trách nhiệm, bổn phận và những viẹc phải làm, chúng ta thường “mất dấu” tiếng gọi cao cả nhất.
Dưới đây là một số đề nghị về cách đến gần Thiên Chúa và sống yêu thương tha nhân. Một số điều dễ thực hiện, nhưng một số điều cần nỗ lực hơn. Nhưng tất cả đều có thể giúp bạn theo chân lý: Sống đời Kitô hữu, đó là cuộc sống của bạn – nhưng không là của riêng bạn.
1. Hãy sáng tác, nghiên cứu, vẽ, viết, hát,... và sáng tạo. Cứ thử nghiệm với sự sáng tạo ngay cả lúc bạn cảm thấy “trống rỗng”, và hãy làm nhân Danh Thiên Chúa. Tại sao? Vì bất cứ điều gì cũng được làm để dâng kính Thiên Chúa qua sự sáng tạo vô biên của Ngài. Một lý do khác là bạn có thể thấy rằng Thiên Chúa đã trao ban cho bạn những tặng phẩm mà chính bạn cũng không hề biết mình đang có.
2. Rất nhiều Kitô hữu coi nhà thờ như “điểm hẹn” hằng tuần: Cứ vào rồi ra và về nhà – đôi khi than vãn rằng nhà thờ là nơi không sống động. Nhưng các nhà thờ cũng sôi nổi như lời chúc mừng. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta là “chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô”, như vậy tất cả chúng ta đều được yêu cầu thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Hãy tìm ra “cái tài riêng” của mình để có thể phục vụ Giáo hội địa phương tốt hơn.
3. Nghiền ngẫm Lời Chúa có thể là lĩnh vực quan trọng nhất trong việc trở thành một Kitô hữu trưởng thành. Mỗi ngày hãy dành một khoảng thời gian nhỏ để đọc Kinh thánh để có thể gợi hứng và hướng dẫn người khác, chính điều đó cũng giúp bạn tập trung vào những gì quan trọng nhất.
4. Điều này không có nghĩa là bạn phải làm việc gì to tát. Chỉ cần biết các Kitô hữu tôn kính Thiên Chúa thế nào. Nhiều tôn giáo thuộc Kitô giáo có sức thu hút khá mạnh, hãy tìm hiểu cách thờ phượng của họ để có thể hiểu thêm về các Kitô hữu, nhờ đó mà bạn đánh giá đúng về họ và chính mình.
5. Không gì tốt hơn là tự nhắc mình nhớ tới các tặng phẩm của Thiên Chúa hơn là lưu ý sự ngoạn mục và hùng vĩ của các tặng phẩm đó. Hãy ra bờ biển, lên núi, vào rừng, hoặc chỉ cần vào công viên, và dành thời gian chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa, cả điều to và nhỏ. Bạn sẽ nhận thấy Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu!
6. Hãy phục vụ nhau. Hãy dạy chữ cho các trẻ em chịu thiệt thòi và bất hạnh. Hãy trao tặng cho người khác tặng phẩm quý nhất: Thời giờ của bạn. Nhờ phục vụ người khác, bạn có thể noi gương cách phục vụ của Chúa Giêsu và chuyển tải tình yêu của Ngài, chỉ cần tập sống tình nguyện phục vụ.
7. Hơn 2.000 năm qua, một số người trí thức đã xử lý các nghịch lý “gai góc” của đức tin Kitô giáo. Qua những lời của Thánh Augustinô và Thánh Thomas Aquinas, hoặc của C. S. Lewis và nhiều người khác, đều có những cách giáo dục, sự thú vị, và sự kỳ lạ.
8. Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta sống quá thoải mái và ung dung hưởng thụ. Để trở thành người như Thiên Chúa muốn, chúng ta phải luôn tìm kiếm sự thách thức mới – những dịp học hỏi đó là những bài học quan trọng mà chúng ta có thể thực hành vào lúc nào đó. Điều này không dễ, nhưng không gì hơn như vậy!
9. Một số ý tưởng, cảm xúc và hành động có thể trở nên sự hướng dẫn quan trọng trong “bước tâm linh” của bạn. Nếu nhìn lại quá khứ, bạn có thể ngạc nhiên vì chính bạn đã trưởng thành tâm linh hơn nhiều.
10. Hơn 2.000 năm rồi, Giáo hội Công giáo đã giúp một số Kitô hữu trở thành những tấm gương sáng sống động cho chúng ta. Nhiều vị đã được tôn phong hiển thánh, chân phước (á thánh), bậc đáng kính, tôi tớ Chúa. Một số các vị này, dù chính thức hay không, đều được tuyển chọn vì có đời sống anh dũng, dám quên mình hoặc xả thân vì công ích. Cuộc sống của họ có sức động viên chúng ta đấu tranh vì Chúa nhiều hơn.
11. Thánh Phaolô nói rằng “thân xác là đền thờ” – thân xác cần tập luyện để duy trì sức khỏe, linh hồn cũng vậy. Tập luyện thân xác (yoga, thiền, thể dục,…) giúp thăng tiến tinh thần, hãy tập trung vào những điều thuộc lĩnh vực tâm linh.
12. Bắt đầu với Chúa Giêsu và các Tông đồ, Kitô giáo luôn có đức tin chung, nghĩa là chúng ta cùng nhau tìm kiếm Thiên Chúa. Bằng cách chia sẻ sự hiểu biết, chúng ta xây dựng trên kiến thức của người khác – và có thể giúp đỡ nhau qua những mảng kiến thức riêng.
13. Kitô giáo mang tính cộng đoàn. Tân ước cho biết rằng các Kitô hữu đầu tiên quan ngại về bệnh tật, sự nghèo nàn và các vấn nạn của thời đó. Như vậy, chúng ta được kêu gọi quan tâm thế giới xung quanh, và nền dân chủ có nghĩa là bầu cử – bất kể nguồn gốc chính trị nào. Đó không chỉ là nhiệm vụ dân sự, mà còn là bổn phận Kitô hữu. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên chân và tay của Ngài để chúng ta có thể làm cho tình yêu Thiên Chúa được cảm nhận ở khắp mọi nơi.
14. Mỗi ngày, hãy đến với Thánh Thể, dành thời gian để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện liên lỉ. Điều này giúp chúng ta biến đổi dần dần.
15. Thiên Chúa vui thích khi chúng ta tận hưởng những tặng phẩm của Ngài. Không tặng phẩm nào quý giá bằng chính gia đình của mình. Hãy cùng nhau đồng bàn mỗi bữa ăn, không chỉ chia sẻ lương thực phần xác mà còn chia sẻ cả những món ăn tinh thần. Khi chúng ta làm cho người thân hạnh phúc, chúng ta cho họ thấy diện mạo yêu thương của Thiên Chúa, điều này thực sự quan trọng.
16. Bạn không cần phải tới Giêrusalem hoặc đi đâu xa mới có thể đánh giá đúng về Thiên Chúa. Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào chúng ta tới: Chúng ta thấy sức mạnh của Ngài trong biển cả, sự uy nghi của Ngài nơi núi rừng, tài nghệ của Ngài nơi nương đồng,... Thiên nhiên luôn mang dấu ấn của Ngài. Hãy cao rao lòng thương xót vô biên của Ngài.
17. Có thể một trong những điều khó nhất là làm Kitô hữu. Khi chúng ta bị tổn thương, điều cuối cùng chúng ta muốn là thoát khỏi đau khổ đó: Chúng ta muốn trừng phạt người đã làm chúng ta tổn thương. Nhưng khi làm vậy, chúng ta lại tự trừng phạt chính mình. Đức Kitô kêu gọi chúng ta nới lỏng nắm tay và tha thứ cho những người làm hại chúng ta. Nếu làm vậy, chúng ta không chỉ tha thứ người khác mà còn tha thứ chính mình.
18. Thiên Chúa có thể nói trong cơn động đất và bão tố, nhưng Ngài thường nói bằng tiếng nói nhỏ nhẹ. Hằng ngày hãy dành thời gian để giữ im lặng và lắng nghe Tiếng Chúa. Bạn sẽ ngạc nhiên về những gì bạn nghe được.
Một vị giảng phòng cho ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Tình yêu con người và tình yêu Thiên Chúa TN 18-B112
Một vị giảng phòng cho ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Tình yêu con người và tình yêu Thiên Chúa luôn song hành, và phân tách hai tình yêu ấy dẫn đến những vấn đề tạo ra sự xa cách cả bên trong và bên ngoài giáo hội”.
Lm Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô (Capuchin), nói rằng người ta tin sai lầm đến nỗi mà tình yêu người ta dành cho nhau và dành cho Thiên Chúa không tương xứng với tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa trao ban cho con người như thế đã góp phần tục hóa Tây phương và cả sự lệch lạc trong những người được thánh hiến.
Hai cách diễn tả tình yêu có thể được hòa giải bằng cách đặt tình yêu của Chúa Giêsu Kitô trước mọi thứ, Lm Cantalamessa nói trong lần suy niệm đầu tiên trong mùa Chay 2011 đã bày tỏ với ĐGH và các viên chức Tòa thánh.
Lm Cantalamessa, người giảng phòng cho ĐGH, đã được mời giảng và suy niệm trong những dịp đặc biệt – kể cả mùa Chay. ĐGH Biển Đức XVI đã cùng với một số tiến sĩ quan trọng của giáo hội giải thích tính đồng nhất của “hai gương mặt tình yêu: eros và agape”. Lm Cantalamessa đã nói về thông điệp “Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình yêu) năm 2006 của ĐGH Biển Đức XVI để giải thích tầm quan trọng của việc kết hợp các khái niệm được tiếng Hy Lạp xác định là eros, tình yêu giữa người nam và người nữ có thể nâng cao tình yêu lên Thiên Chúa, và từ agape, tình yêu quên mình được diễn tả rõ ràng nhất bằng sự hạ mình xuống làm người nơi Đức Kitô.
Lm Cantalamessa nói: “Sự tục hóa và nhần mạnh vào eros đã tách tình yêu nhân loại ra khỏi tình yêu Thiên Chúa trong mọi hình dạng, làm giảm tình yêu đó thành hoàn toàn ‘trần tục’, mà Thiên Chúa lại ‘yêu quá nhiều’ và thậm chí phiền toái”. Mặt khác, Tình yêu Thiên Chúa được phân biệt bởi “agape mà không eros” là phổ biến đối với một số người sống đời thánh hiến chỉ là “tình yêu lạnh nhạt”.
Lm Cantalamessa nói thêm: “Nếu tình yêu nhân loại dẫn đến các mối quan hệ và tình yêu xúc cảm đối với Thiên Chúa bị từ chối hoặc bị ngăn chặn thì hệ quả chỉ là để con người thực hiện với sự mệt mỏi vì trách nhiệm, hoặc để tìm kiếm sự đền bù có thể không phù hợp, kể cả những giai đoạn đau khổ nhất mà chúng ta đã thấy, một sự ám chỉ việc lạm dụng tình dục trẻ em của các người trong Giáo hội”.
Nguồn gốc của các động thái “lệch lạc luân lý” của một số người được thánh hiến là “khái niệm méo mó về tình yêu” (distorted and contorted concept of love). Lm Cantalamessa nói: “Nếu tình yêu trần tục giống như cơ thể không có linh hồn, kiểu sống tu này như linh hồn không có cơ thể”.
Ngài chỉ ra rằng, trong thông tri của ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Eros và agape là tình yêu hướng thượng và khiêm hạ có thể hoàn toàn không bao giờ tách rời nhau và chúng được kết hợp bằng nguồn tình yêu là Thiên Chúa”.
Việc chấp nhận tình yêu nhân loại và luyến ái được ĐGH giải thích có lợi cho những người đang yêu, kể cả các Kitô hữu trẻ đã kết hôn, bằng cách “cho thấy vẻ đẹp và sự xứng đáng của tình yêu kết hiệp”. Sứ điệp của ĐGH Biển Đức XVI là “niềm hy vọng cho thế giới”.
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ National Catholic Register)
Bài Tin Mừng hôm nay là bài Tin Mừng rất hay nhưng hơi khó cắt nghĩa. Cha đố chúng con qua bài TN 18-B113
Bài Tin Mừng hôm nay là bài Tin Mừng rất hay nhưng hơi khó cắt nghĩa.
Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nhắn gửi chúng ta điều gì?
……………………………….
Hơi khó phải không chúng con.
Đây cha cố gắng cắt nghĩa cho chúng con.
1. Trước hết chúng con hãy nhớ lại hoàn cảnh câu chuyện lúc đó đã.
Thế hoàn cảnh hôm ấy như thế nào?
Hôm ấy Chúa vừa mới làm một phép lạ lớn: Chúa biến 5 chiếc bánh và hai con cá do một em bé dâng tặng ra nhiều, nhiều đến mức độ hơn 5000 người ăn mà vẫn còn dư.
Đứng trước việc lạ lùng ấy dân chúng cảm thấy hết sức phấn khởi. Họ muốn tôn Chúa lên là vua của họ. Thế nhưng Chúa đã không muốn điều đó. Chính vì thế mà Chúa đã trốn họ, bỏ họ mà đi. Chúa đi cùng với các môn đệ của Ngài bằng thuyền mà qua bờ biển bên kia trước. Dân chúng thấy vậy. Họ cũng chẳng chịu thua. Họ lại lên thuyền và đi tìm kiếm Chúa. Họ không muốn Chúa bỏ họ. Thật vậy, họ mong được Ngài cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với thái độ đó nên khi gặp lại họ Ngài nói thẳng:"Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu không muốn nói là việc cần có bánh để ăn là xấu nhưng Chúa muốn cho người mọi người hiểu rằng: Đừng tìm Chúa với thái độ tầm thường như thế nhưng hãy đến với Chúa bằng một thái độ cao cả hơn. "Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Ðấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".(Ga 6,27).
2. Quả đúng như thế chúng con. Lương thực của trần gian thì mau hư nát lắm.
Tại sao Chúa nói như vậy?
Bởi vì lương thực của trần gian dù quí giá đến đâu đi nữa cũng không thể bảo đảm mãi mãi cho sự sống của con người được.
Ai trong chúng con có điện thoại, giơ tay cha coi!
Chúng con có bao giờ nghe thấy cái tên Steve Jobs không?
Steve Jobs là một trong những người sáng chế ra điện thoại mang nhãn hiệu Apple nổi tiếng trên thế giới. Ông là người có trong tay hơn 7 tỷ USD cổ phiếu. Khi gần chết Jobs đã để lại cho những người đang sống lời nhắn nhủ này: "Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? Đó là giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh thay cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, nhưng có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống".
Một vị hoàng đế thời trung cổ có đầy đủ giàu sang danh vọng, trong giây phút nằm liệt trên giường và biết mình sắp chết đã thều thào nói lên ước nguyện của mình như sau: “Nếu bảo tôi đem đổi tất cả tiền của danh vọng đang có, để đổi lấy thêm vài giờ sống trên trần gian này tôi cũng sẽ đổi.” Hơn ai hết, chính lúc phải kết thúc cuộc sống trên trần gian này, vị hoàng đế giàu sang kia mới hiểu rằng: Sự sống là điều quí giá nhất không gì có thể đánh đổi được.
Chúng con hay nghe câu chuyện này nữa: Câu chuyện người ta kể về Hoàng đế Charles Quint của Đế quốc Đức ngày xưa. Đây là một giai thoại như sau rất đẹp về hoàng đế:
Sau nhiều năm tận tụy hy sinh phục vụ Hoàng đế, một vị trung thần của ông ngã bệnh và đang chiến đấu với tử thần. Để tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với con người đã suốt đời trung thành với mình, Hoàng đế Charles Quint đã đích thân đến ngay bên giường bệnh của ông. Cầm tay vị trung thần, Hoàng đế nói:
- Khanh đã hết dạ phục vụ trẫm, nay trẫm xin được dịp đền đáp, khanh hãy cho trẫm biết khanh mong ước điều gì, trẫm sẽ thỏa mãn yêu cầu của khanh.
Trong hơi thở đứt đoạn, vị trung thần liền tâu:
- Thần ước ao nhận được từ tay bệ hạ một ân huệ.
Đôi mắt Hoàng đế như sáng lên, ông hỏi nhanh:
- Khanh cứ nói, ân huệ gì trẫm cũng ban cho khanh.
Kẻ hấp hối nói một cách chua xót:
- Xin bệ hạ hãy ban cho hạ thần một ngày sống nữa, chỉ một ngày thôi.
Nghe xong lời của vị trung thần, Hoàng đế Charles chỉ biết lắc đầu chán nản:
- Trẫm đã được xem là quân vương quyền thế nhất trên thế gian này, nhưng điều khanh xin hoàn toàn ở ngoài tầm tay của trẫm, chỉ Thiên Chúa mới có thể ban và bảo đảm hồng an sự sống mà thôi.
Trong tiếng thở dài, vị trung thần mới thốt lên như một lời nhắn nhủ cho chính hoàng đế:
- Thật là vô ích cho tôi, vì tôi đã điên dồ đến độ không biết dành nhiều thời gian hơn để phục vụ Chúa, mà lại hoang phí thời giờ trong việc phục vụ các vua chúa trần gian”.
Đó chúng con thấy: Ngay sự sống trần gian mà con người còn phải lệ thuộc vào Thiên Chúa thì huống chi là sự sống trường sinh mà Chúa hứa cho những ai biết tìm kiếm Chúa.
Chính vì thế mà Chúa bảo: "Các ông hãy ra công làm việc để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông" (Ga 6,27)
Thứ lương thực này là lương thực nào thì trong các bài Tin Mừng của 3 Chúa Nhật tiếp theo Chúa sẽ nói cho mọi người.
Ngày hôm nay chúng ta hãy đáp lại lời Chúa kêu gọi. Khi người Do thái hỏi Chúa "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? thì Chúa đã trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Ðấng Người đã sai đến".(Ga 6,28-29)
Hãy tin vào Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ thấy những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.
Lịch sử còn ghi: Mézeray là một sử gia danh tiếng tại làng Ri nước Pháp vào năm 1610-1689. Cả đời ông không tin có thần thánh, hơn nữa ông còn cho đạo công giáo là mê tín dị đoan. Năm 1683 lúc ốm nặng nằm trên giường bệnh, thấy mình sắp chết, ông đã nhờ người nhà mời linh mục đến dạy đạo và rửa tội cho ông. Hay tin này, các bạn thân đến khuyên bảo và can ngăn. Nhưng sử gia Mézeray đã bảo họ rằng:
- Này các bạn, như các bạn đã biết cả đời tôi không tin tưởng thần thánh. Nhưng những năm nằm trên giường bệnh chờ thần chết, tôi thấy nảy ra trong đầu óc thắc mắc này: Tại sao tôi phải chết giữa lúc tôi còn đang muốn sống? Ai bắt tôi phải chết giữa lúc tôi còn chưa muốn chết? Các bác sĩ thời danh nhất cũng không thể chữa tôi khỏi chết được? Chính các bác sĩ đã chữa cho nhiều bệnh nhân được khỏi, nhưng tới phút cuối cùng các ông cũng không thể chữa mình cho khỏi chết được. Thắc mắc này, khoa học không thể giải đáp cho tôi được, nên tôi phải tìm đạo công giáo để tin Thiên Chúa. Vậy các bạn hãy tin tôi: Mézeray lúc sắp chết đáng tin hơn Mézeray lúc khỏe mạnh.
Hãy tin Chúa! Đó là điều Chúa muốn. Phải tin thật mạnh mới thấy được những việc kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta. Amen.
Theo Chúa Giêsu, nghe Người giảng dạy, dân chúng đã được Người cho ăn no nê. Do đó, dân chúng TN 18-B114 Dalat
Theo Chúa Giêsu, nghe Người giảng dạy, dân chúng đã được Người cho ăn no nê. Do đó, dân chúng tiếp tục lên thuyền tìm kiếm Đức Giêsu vì họ đã được Người cho ăn cho uống thỏa thê.
Chúa Giêsu không trách cứ họ, vì Người đụng chạm đến tận nỗi khốn cùng của nhân loại, của con người. Cái đói, cái khát luôn là sự ám ảnh của con người. Chúa hiểu thấu họ, Ngài chạnh lòng thương xót, và hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn,đem lại sự sống đời đời.
Con người ở muôn thời ở bất cứ nơi nào, ở bất cứ nước nào, nhu cầu cơm ăn áo mặc luôn là nỗi dày vò, luôn là nỗi khát vọng nóng bỏng của họ. Dù nghèo hay giầu, con người vẫn chạy theo tiền bạc, nhu cầu vật chất. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền để làm vơi đi, dịu đi cơn khát khao, nhu cầu của thể xác. Người giầu chạy theo những thỏa mãn cao hơn, chạy theo sự hưởng thụ, tìm kiếm lợi nhuận, vật chất nhiều hơn để làm cho bản thân sung sướng xác thịt. Cuối cùng cả người nghèo cũng như người giầu đều lao vào việc làm thỏa mãn xác thịt, mà quên đi họ đang đói khát về phần linh hồn. Thực ra, con người không bao giờ cảm thấy được đầy đủ, của cải có rồi lại muốn có thêm, mọi của cải trần gian con người không bao giờ cho là đủ cả ! Thỏa mãn rồi lại khao khát thêm. Biết bao nhiêu người trên thế giới có địa vị, có của cải, có đầy đủ mọi thứ không ai sánh bằng những họ vẫn cảm thấy thiếu, vẫn đi tìm kiếm, vẫn khát khao thỏa mãn, hưởng thụ, dư dật hơn nữa. Con người giống như cái thùng không đáy ! Ngôn sứ Amos đã hiểu thấu sự thiếu thốn ấy, nên đã viết:”
Có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phai là khát nước uống mà là đói khát Lời Chúa “ ( Am 8, 11 ). Chúa Giêsu đã thấu hiểu con người. Ngài đã không để cho manna từ trời rơi xuống, hầu con người lượm lấy ăn, rồi vẫn cứ phải ăn mãi,nhưng Ngài đã ban cho họ Bánh Sự Sống, Bánh Trường Sinh, thứ nước, thứ bánh mà người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacóp đã xin Chúa Giêsu:” Chính Ta là Bánh ban sự sống.Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ “ ( Ga 6, 35 ). Vâng, con người dù có đầy đủ tất cả về tiện nghi, vật chất nhưng không bao giờ có thể khỏa lấp được đầy tất cả nếu họ không tới với Đức Kitô vì chính Ngài đã quả quyết:” Ta là Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống”. Chúa chính là cánh tay, đôi chân của con người để con người phục vụ và đi khắp nơi khắp chốn. Chúa là bạn đồng hành để tất cả con người được đi trong sự thật và ánh sáng. Bánh trường sinh và nước không hề khát là Đức Kitô, Đấng ban ơn ơn cứu độ đời đời cho loài người, cho con người.
Thật ra, trong thâm tâm của mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mới có thể thỏa mãn. Điều này sẽ mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới miễn là chúng ta chấp nhận nó.
Xin mượn lời của một người gặp tai nạn và đã thoát khỏi tai nạn ấy để kết thúc bài chia sẻ này:” Lạy Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa làm sao, nhưng con vẫn gắng tìm. Hiện giờ con không mấy tốt lành nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận lấy con.Xin hãy nhận lấy con.Amen “. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Dân chúng tìm kiếm Chúa làm gì ? 2.Người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacóp đã xin Chúa Giêsu thứ gì ? 3.Chúa Giêsu có trách cứ dân chúng khi họ lên thuyền đi tìm Chúa hay không ? 4.Chúa đã quả quyết điều gì ? 5.Ai có thể làm thỏa mãn được con người ?
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn TN 18-B115
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn bà và con trẻ đi theo Chúa, họ đã được nghe Chúa giảng dạy, chữa lành bệnh tật, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhất là được ăn bánh và cá no nê. Một ngày kết thúc, Chúa giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Tất nhiên là họ không thấy Chúa nữa, các môn đệ Chúa cũng không, nên họ cũng xuống thuyền hướng về Capharnaum để tìm gặp Chúa. Thấy Chúa họ hết sức vui mừng và ôn tồn hỏi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" (Ga 6, 25). Câu hỏi này không làm Chúa vui, nên Chúa buôn lời phán với họ rằng: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Họ đã cất công tìm Chúa, ấy vậy khi gặp chẳng thấy Chúa an ủi vỗ về lại nhận được lời quở trách tìm Chúa vì cái bụng, thật là buồn. Chúa khuyên họ: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên nơi họ sự sống đời đời để dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì thì cũng phải nhắm tới mục tiêu tối hậu là sự sống đời đời, khiến họ khao khát thưa Chúa rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến" (Ga 6, 29).
Từ trên cung thánh nhìn xuống dưới, bên trong và bao quanh nhà thờ giờ đây cũng có một đám đông với đủ mọi tầng lớp, đàn ông, đàn bà và con trẻ, chắc số đàn ông chừng vài trăm. Nếu trong Tin Mừng, những người tìm kiếm Chúa với những thái độ khác nhau: có người tìm Chúa vì đã được ăn bánh no nê, có người thì mong gặp Chúa là Đấng làm những dấu lạ, một số người khác lăng xăng đi tìm Chúa bởi họ có kinh nghiệm về sự hiệp thông thân tình với Chúa họ thưa Chúa rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi" (Ga 6,34). Phần chúng ta, một câu hỏi được đặt ra cho chính chúng ta đang ngồi đây: Chúng ta đến đây để làm gì ? Chúng ta tin Chúa, tìm Chúa và theo Chúa vì điều gì ? Phải chăng là để được ăn bánh no nê ? Có người sẽ nói, chúng con đến tham dự Thánh lễ, đến tìm gặp Chúa chứ còn gì nữa. Phần lớn câu trả lời sẽ là như vậy. Chắc chắn Chúa Giêsu rất vui khi thấy chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm Chúa và đi theo Chúa.
Đúng, chúng ta đến đây tham dự Thánh lễ, xin ơn khỏe mạnh phần hồn, an lành phần xác, nhưng sự sống đời đời phải là mục tiêu chúng ta nhắm tới. Lời Chúa Giêsu nói với đám đông xưa kia, cũng là lời Chúa dạy chúng ta ngày hôm nay: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27).
Chúng ta vẫn làm việc không ngừng đấy thôi, nhưng lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Ra công làm việc để có nhiều của cải thăng tiến bản thân, phục vụ gia đình, góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội là điều chính đáng. Nhưng không thể làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật dẫn đến bỏ lễ Chúa nhật và lễ trọng buộc, bỏ đọc kinh tối sớm là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Hãy thực thi đức công bằng trong làm ăn, thuận mua vừa bán, đừng mùa thừa bán thiếu, đánh đổi trắng đen thu lời bất chính, có kiếm được lương thực dồi dào thì cũng hư nát và chỉ dành cho sự sống tạm bợ đời này. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực nuôi dưỡng phần linh hồn chúng ta, giúp chúng ta đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này. Thứ lương thực cao quí ấy được ban bởi Đấng Hằng Sống. Mặc dù được trao ban cách miễn phí, nhưng muốn có được Bánh Hằng Sống ấy, con người phải làm việc, mà công việc Thiên Chúa muốn con người phải làm là hãy đến và tin vào Đức Ki-tô, vì "Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ" (x. Ga 6.35).
Người Do thái hỏi Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Xem ra không có liên quan gì đến "công việc của Thiên Chúa", nhưng vẫn có liên quan vì Chúa Giêsu mời gọi họ « ra công làm việc … công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Ra công làm việc nhưng hướng đến lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, mà để có được sự sống ấy thì chúng ta phải nỗ lực tin vào Chúa Giêsu, tin đến độ lấy Chúa làm của ăn của chúng ta. Chính Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại: "Ai tin vào Người thì được sống muôn đời" ( Ga 3,15 ) ; "Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người" (Ga 20, 15). Vì thế, tin không còn là công việc, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự hiến mình làm của ăn cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Tin là "ra công làm việc… vì của ăn vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27).
Vậy, chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát là thánh ý Chúa, Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa. Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị trường tồn này.
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu rằng, đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để một ai trong chúng con lạc xa thứ lương thực cao quí này. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------------------
Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn TN 18-B116
Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều. Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Đức Giêsu đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nỗi. Đức Giêsu cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra. Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều. Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.
. “Tôi là bánh trường sinh”
Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích. Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất. Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Đâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ? Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói? Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì?
Lời tuyên bố của Đức Giêsu không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng. Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ. Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này? Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình. Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.
Đó là điều Đức Giêsu muốn đề nghị qua lời tuyên bố “Tôi là bánh trường sinh.”
. “Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin…”
Khi đám đông đến gặp Đức Giêsu, Người đã nói với họ: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Giêsu biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần. Trong thâm sâu, có lẽ Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến. Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm”.
Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.
Tin vào tôi tức là vào Đức Giêsu, người đang nói chuyện với đám đông. Đây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện. Tin Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.
Lời đề nghị của Đức Giêsu không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.
Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Đức Giêsu buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy. Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.
Cuộc đối thoại quyết liệt
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và đám đông quả là một thứ bi kịch. Đức Giêsu muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất. Các cử chỉ và lời lẽ của Đức Giêsu do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm. Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng. Một cuộc đối thoại quyết liệt.
Khởi đầu, đám đông đi tìm Đức Giêsu. Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.
Nhưng họ đi tìm ai? Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ? Sau khi được Đức Giêsu nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người. Gặp Đức Giêsu, họ đưa ra một loạt câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” – “Ông sẽ làm gì đây?” – “Ông làm được dấu lạ nào?” Và cuối cùng, như một lệnh truyền: “Xin ban cho chúng tôi…”
Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông. Họ muốn Đức Giêsu phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo. Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Đức Giêsu theo những việc Người làm.
Để đáp lại từ làm của đám đông, Đức Giêsu nói: “Tôi là”.
Họ hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”
Đức Giêsu đáp: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
– Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
– Chính tôi là bánh trường sinh. Hãy đến và hãy tin.
Đây chính là trọng tâm của bi kịch; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được. Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và “tôi làm” chỉ là một hình thức của “tôi là”?
Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình. Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rổi không sống chính sự sống của Đức Kitô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.
Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này. Người ta dễ dàng quả quyết Đức Giêsu là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình. Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Đức Kitô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.
Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Đức Giêsu muốn nói với họ. Họ chỉ mong muốn Đức Giêsu làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Đức Giêsu là bánh cho họ.
Bánh là chính Thiên Chúa
“Tôi là bánh trường sinh.”
Đây là một khẳng định quan trọng Đức Giêsu gửi đến mỗi chúng ta. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: “Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát.”
Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn; chúng ta khát không phải chỉ nước uống. Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn. Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ. Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.
Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa. Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn. Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Đức Giêsu Kitô.
Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Đức Kitô, và chỉ một mình Người.
Chúng ta phải tiến đến với Đức Kitô, chứ không phải là đi tìm bánh.
Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên:
“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến.
Chúa thực là bánh trường sinh,
là bánh từ trời xuống.”
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban cho chúng con Người Con của Chúa. Xin cho chúng con được ăn thịt và máu Người. Xin cho chúng con được hưởng tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con. Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa. Xin dạy chúng con đừng chỉ tìm sống cho riêng mình để biết mến yêu người khác, và như vậy, được bước từ cõi chết sang cõi sống. (theo F. Cromphout)
Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc con người. Phép lạ hoá bánh ra nhiều của tuần trước đã chứng TN 18-B117
Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc con người. Phép lạ hoá bánh ra nhiều của tuần trước đã chứng minh điều đó. Còn hơn thế nữa, trong bài 1 hôm nay, sách Xuất hành còn nhắc lại việc Thiên Chúa ban manna từ trời rơi xuống nuôi dân Do thái suốt quãng đường đi về Đất hứa. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu cho dân Do thái biết manna mà Thiên Chúa ban cho cha ông họ trong sa mạc chưa phải là bánh thật mà chỉ là biểu tượng cho thứ bánh mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Bánh thật ấy là bánh hằng sống. Đức Giêsu đã khẳng định rằng bánh ấy chính là Ngài , khi Ngài nói với họ:”Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Con người có nhiều khát vọng cần được thỏa mãn, mà khát vọng đầu tiên là thỏa mãn cơn đói khát của thể xác. Ngoài ra, còn những khát vọng khác của tinh thần như nhu cầu được hiểu biết, được bảo vệ, được quan tâm, được thông cảm… Nhưng nhu cầu căn bản và sâu xa nhất là tình yêu. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,16). Thiên Chúa là nguồn tình yêu, mọi tình yêu phải phát xuất từ Ngài , chỉ có Ngài mới thỏa mãn được nhu cầu ấy. Ai được yêu là được sống trong hạnh phúc, mà hạnh phúc thật và trường cửu chỉ có ở trong Thiên Chúa.
Ai muốn được trường sinh và hưởng hạnh phúc thật thì phải dùng lương thực trường sinh, mà lương thực trường sinh chính là Đức Giêsu như Ngài nói:”Ta là bánh ban sự sống”(Ga 6,35). Ta hãy tìm lương thực trương sinh ấy trong Lời Chúa và Thánh Thể. Đấy là lương thực thần linh nuôi sống con người trong cuộc hành trình đi về quê trời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 16,2-4.12-15.
Đây là trình thuật được viết sau cuộc lưu đầy nói lên những thử thách mà dân Chúa phải chịu đựng trong sa mạc. Dưới sự hướng dẫn của Maisen và Aaron, dân Do thái đã từ giã Ai cập về Đất hứa. Họ phải vượt qua sa mạc khô cằn của núi Sinai. Sa mạc cũng là nơi thử thách, mà một trong những thử thách lớn nhất đối với họ là đói, không có thức ăn.
Họ đã kêu trách ông Maisen vì đã đem họ vào sa mạc này để bị chết đói. Họ muốn trở lại Ai cập. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, Ngài cho manna từ trời rơi xuống để làm bánh và cho chim cút sà xuống để làm thức ăn trong suốt 40 năm trời trong sa mạc. Khi dân được hưởng hoa mầu nơi Đất hứa thì manna chấm dứt.
Qua phép lạ manna này, người Do thái đã biết nhìn nhận trong những hiện tượng tự nhiên sự biểu lộ lòng ân cần săn sóc của Thiên Chúa đối với họ và lương thực họ dùng hằng ngày là do Chúa ban.
+ Bài đọc 2: Ep 4,17-24.
Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô hãy từ bỏ “con người cũ” mà mặc lấy “con người mới”. Giáo huấn của Ngài dựa trên phép Thánh Tẩy, vì khi chịu phép rửa tội là chúng ta đã chết cho tội lỗi, giết bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới theo tinh thần Đức Kitô.
Ngài khuyên các tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới theo tinh thần mới và cách sống như Đức Kitô:”Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện”(Ep 4,24).
+ Bài Tin mừng: Ga 6,24-33.
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng rất hồ hởi và hy vọng. Hôm sau, họ đến với Đức Giêsu rất đông, hy vọng kiếm được của ăn ít ra cũng dồi dào như manna, xưa đã nuôi sống cha ông họ trong sa mạc suốt thời gian đi về Đất hứa.
Nhưng Đức Giêsu muốn hướng họ lên cao hơn một bước, Ngài mời họ trước hết hãy tìm kiếm lương thực không hư nát, là thứ tồn tại cho đến cuộc sống vĩnh hằng:”Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”(Ga 6,26)
Họ tưởng lương thực mà Đức Giêsu nói đây là manna ngày xưa cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Nhưng Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của họ và nói rõ ràng hơn:”Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”(Ga 6,35).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tìm lương thực trường sinh
ĐI TÌM LƯƠNG THỰC CHO CUỘC SỐNG.
Điều Đức Giêsu muốn dạy ta.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông đồ bỏ đảo Zénéâzareth trở về Capharnaum, nhưng Đức Giêsu không đi cùng thuyền với các Tông đồ vì Ngài còn lên núi cầu nguyện một mình (Ga 6,15). Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không đi trên thuyền đó, nên họ đổ xô đi tìm Ngài. Khi về tới Capharnaum gặp Chúa, họ hết sức ngạc nhiên vì gặp Ngài ở đó rồi:”Lạy Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Một câu hỏi đơn sơ, tỏ lòng tha thiết với Chúa và muốn biết Ngài đến đây bằng cách nào.
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi ấy, mà nhân cơ hội này Ngài giảng cho họ một bài về Bánh hằng sống. Bài này cốt nâng cao tư tưởng thính giả lên bên trên những lo lắng vật chất. Đức Giêsu biết rõ, dân chúng chỉ đến với Ngài sau khi được ăn bánh no nê. Và phép lạ làm cho bánh hoá nhiều làm cho người ta nghĩ rằng: đã đến thời lập lại nước Israel, đời sống sẽ phú túc. Bài này có ý cải chính ý tưởng đó.
Điều Đức Giêsu muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài sai đến, tức tin vào Ngài là Đấng vừa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho người Do thái nhận ra rằng Ngài không chỉ có thể làm cho bánh hoá nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người, mà Ngài còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên, mà còn sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người:”Chính Ta là Bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đức Giêsu là bánh trường sinh. Bánh trường sinh ban sự sống trường sinh. Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì được no thỏa tâm hồn. Nhưng sự sống trường sinh là gỉ ? – Sự sống trường sinh là nhận biết Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận. Sự sống trường sinh là sự sống của” con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Đức Kitô. Cụ thể đó là con người thực sự sống công chính và thánh thiện (bài đọc 2).
Sự đói khát triền miên của con người.
Đức Giêsu nói với họ:”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”(Ga 6,26). Đức Giêsu nói chuyện với những người nông dân vùng Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ là thế nào khi họ miệt mài làm việc để mùa thu hoạch có kết quả tốt. Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói, khát, bánh, nước…
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: nếu một người giầu có đầy đủ: gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng… nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng ? Nếu chúng ta trả lời rằng “CÓ” thì các bài đọc Kinh thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là: Trên thế giới này có hai loại đói: trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được.Nói cách khác, dầu chúng ta có giầu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bầy tỏ được.
Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiều thốn vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu, nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn.
Truyện: Hoàng đế Tần thủy Hoàng.
Tần thủy Hoàng của nước Tầu đã sống trước Chúa Giáng sinh 200 năm. Ông tự phong là “Nhất Thế”, nghĩa là vô địch nhất thế gian này, về đức độ hơn cảø Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung hoa. Tần thủy Hoàng còn muốn trường sinh trẻ mãi, nên đi tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai quần thần đi khắp nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông… Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, nămB, tr 155).
Thỏa mãn sự đói khát của con người.
Dân chúng hỏi Đức Giêsu rằng:”Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đáp lại:”Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến” Ở đây bắt đầu một mặc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu ! Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chứng hàng triệu lần từ 2000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin, đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Đức Giêsu vừa đưa ra một tuyên bố quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thực của Thiên Chúa là tin Ngài. Người Do thái nói: Hay lắm, quả thật đây là lời tuyên xưng mình là Đấng Messia, vậy ông hãy chứng minh đi…
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh 16,15). Trong Do thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng: khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được cho là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Maisen, mà Đấng Messia thì còn phải hơn thế nữa. Vị cứu tinh đầu tiên thế nào thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thể ấy.
Như vậy, dân Do thái đang thách thức Đức Giêsu hãy khiến bánh từ trời xuống để hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Họ không chịu xem số bánh cho 5000 người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ, manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Maisen đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ: manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể xác nhưng là sự sống. Đức Giêsu tuyên bố rằng sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
ĐI TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH.
Phải hướng tâm hồn lên.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người tìm đến với Ngài khi Ngài nói:”Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Gêsu biết rõ tâm tư của họ, họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước. Dĩ nhiên, việc ăn uống nuôi thể xác là một điều cần thiết, ai lại không phải ăn ? Nhưng Đức Giêsu muốn nói với họ là ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên:”Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Truyện: Napolén có đôi mắt sáng.
Một hôm, Napoléon, vị hoàng đế có một đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có một đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoléon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn:
– Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không ?
Người bạn trả lời:
– Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả.
Napoléon nói:
– Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.
Rồi Napoléon nói tiếp:
– Những người nhìn mầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen.
Lời nhận xét trên đây của Napoléon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém (Phạm văn Phượng).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng gián tiếp chê bai những người đến với Ngài không phải vì đã chứng kiến các dấu lạ mà chỉ muốn được ăn no nê. Họ chỉ biết thỏa mãn những gì thuộc thể xác, còn những gì cao hơn họ không để ý tới. Như vậy, theo như Napoléon, họ mới sống được nửa cuộc đời mà thôi.
Những khát vọng của con người.
Con người sống trên trần gian này có rất nhiều khát vọng cần được thỏa mãn. Khát vọng đầu tiên là được thoả mãn cơn đói khát thể xác. Cái ăn cái uống là những nhu cầu vật chất khẩn thiết làm cho thể xác được bảo toàn và tăng trưởng. Người Tây phương có một câu ngạn ngữ nói về nhu cầu đó:”Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi muốn nói gì thì nói. Người Việt nam chúng ta cũng có tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ:”Dĩ thực vi tiên”: cái ăn phải đứng đầu.
Ngoài những nhu cầu vật chất, người ta còn có những khát vọng tinh thần cần được thỏa mãn: nhu cầu hiểu biết, cần được tôn trọng, cần được quan tâm, cần được thông cảm…. Tuy nhiên, con người còn có một khát vọng căn bản và sâu xa nhất , đó là khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sống đời đời. Nói cách khác, đó là khát khao Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khát khao này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Chính Chúa là hạnh phúc, ai được yêu mến là sống trong hạnh phúc. Nhiều người muốn được hạnh phúc mà không biết cách tìm, họ tìm hạnh phúc ơ nơi tạo vật mà bỏ quên Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, cho nên họ đã thất bại. Thay vì tiến tới hạnh phúc, họ chỉ đạt tới những bất hạnh vì họ đã đi trệch đường.
Truyện: Kinh nghiệm của một người.
Tại Pháp, có một thương gia rất giầu, phương châm sống của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông:”Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
Khát vọng được lấp đầy.
Đức Giêsu nói:”Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian:” Ta là bánh hằng sống”. Linh hồn chúng ta phải có của ăn mới sống được, mà của ăn ấy chính là Đức Kitô:” Chính Ta là bánh ban sự sống ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói:”Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Thánh Augustinô đã thú nhận rằng:”Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn đến nỗi không gì có thể lấp đầy được, ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Ngài.
Vậy sứ điệp trong các bài Kinh thánh hôm nay gửi đến cho chúng ta như sau:Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thoả mãn. Sứ điệp này đã mang lại ý nghĩa mới cho hàng triệu người và nó cũng mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới miễn là chúng ta chấp nhận nó.
Hãy sống bằng bánh trường sinh.
Khi người Do thái nói với Chúa:”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ:”Chính Ta là Bánh trường sinh” Bánh trường sinh mà Đức Giêsu ban cho chúng ta, chính là Lời Chúa và Thánh Thể.
* Lời Chúa: Chúng ta thấy quan niệm cho rằng Lời Chúa, giới răn Chúa là thức ăn thiêng liêng bồi dưỡng cho con người, cao qúi hơn thức ăn thông thường đã có trong Cựu ước. Ví dụ tiên tri Amos đã nói:”Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lời Chúa”(Am 8,11).
Tiên tri Giêrêmia cũng khát Lời Chúa:”Khi nghe Lời của Ngài, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”(Gr 15,16).
* Thánh Thể: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rõ:”Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ… một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Ngài kết luận:”Chính ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc TN 18-B118
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai cập! Thà làm nô lệ Ai cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
Nhiều người lầm tưởng rằng khi thế giới văn minh thì tôn giáo sẽ không còn. Và khi con người đầy TN 18-B119
Nhiều người lầm tưởng rằng khi thế giới văn minh thì tôn giáo sẽ không còn. Và khi con người đầy đủ vật chất thì nhu cầu tâm linh sẽ hết. Nhưng xem ra những gì đang diễn ra trong cuộc sống lại ngược lại. Nhu cầu tâm linh nhiều hơn. Người ta tìm đến với tôn giáo nhiều hơn. Các lễ hội biểu lộ niềm tin cũng phong phú hơn. . .
Thực ra, con người và tôn giáo luôn là một. Đã có con người là có tôn giáo. Niềm tin đi chung với sự phát triển của xã hội con người. Con người không thể phủ nhận niềm tin trong sâu thẳm tâm hồn mình. Dù một thời gian dài người ta rao truyền một chủ thuyết vô thần nhưng cho tới nay những người gọi là vô thần ta vẫn thấy họ biểu lộ niềm tin của mình qua đi lễ, đi Chùa hay làm việc công đức…
Điều đáng nói là họ tìm về thần linh chỉ để cầu lợi cho bản thân. Họ mong thần linh phù hộ cho công thành danh toại, và đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Họ tìm đến thần linh như một mối lợi cho công danh sự nghiệp, cho tương lai của họ. Họ tìm đến thần linh để tìm đến nhu cầu trước mắt là cái ăn, cái mặc, là của ăn mau hư nát mà thôi.
Năm xưa, khi những người Do Thái đi tìm Chúa về lý do trần thế, Chúa Giê-su đã mời gọi họ “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. Và muốn có lương thực ấy hãy tin vào Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người. Đúng vậy, chính Chúa Giê-su đã xác quyết: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!”.
Nhưng đáng tiếc, với óc thành kiến dân Do Thái đã không tin nhận nơi Ngài. Họ vẫn loay hoay đi tìm một Đấng Messia theo ý họ, một Đấng có thể chiều lòng họ. Điều ấy đã không bao giờ xảy ra. Vì con người là thụ tạo cần phải vâng phục lời Thiên Chúa và để Ngài dẫn dắt cuộc đời con người.
Nhân loại ngày nay cũng đang loay hoay đi tìm Đấng Tạo Hóa, nhưng họ vẫn đi tìm một thần linh theo ý họ. Một thần linh mà có thể “hô mưa hóan gió” theo ý của con người, nên họ thất vọng, đánh mất niềm tin . . .
Xem ra con người ngày nay cũng chẳng khá hơn người xưa là mấy! Những người xưa đi theo Chúa năm xưa là những người “xôi thịt », chỉ mong thấy dấu lạ, được ăn no nê nhưng ít ra họ còn lui tới để nghe Chúa giảng, Chúa nói về Nước Trời.
Ngày nay, người đến nhà thờ vẫn còn đông nhưng người thực sự muốn nghe lời Chúa dạy thì rất ít. Nhất là người thường xuyên rước lễ cũng thưa dần.
Ngày nay, người ta cổ vũ đời sống thực dụng nghĩa là đắm đuối trong chuyện kiếm tiền. Vì như người ta nói “có thực mới vực được đạo !”. Nhưng đó chỉ là ngụy biện, thử hỏi ngày hôm nay có ai chết vì đói hay là chết vì no ? Chỉ thấy chết vì no mà thôi, bởi lẽ người ta ăn nhiều quá, sinh bệnh mà chết, thế nhưng họ vẫn ưu tiên cho việc tìm kiếm của ăn đời này hơn là của ăn không hư nát đời sau.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng chính Ngài là Bánh Trường Sinh có thể làm no thỏa lòng khát khao được sống đời đời. Thế nên, hãy tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và hãy sống theo tinh thần của phúc âm, nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời. Xin cho chúng ta đừng tìm Chúa vì nhu cầu vật chất mà hãy tìm Chúa để Ngài ban cho chúng ta thứ lương thực trường sinh. Xin Chúa thêm ơn để ta nhận ra chỉ có Chúa mới là lương thực trường tồn, là Bánh Trường Sinh. Amen
Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giêsu. Ngày hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở TN 18-B120
Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giêsu. Ngày hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê.” Rồi Ngài dạy họ tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
b/ Phần thứ 2
Chúa Giêsu bắt đầu giải thích cho dân về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”là gì.
– Đó là thứ của ăn đó vượt trội hơn Manna ngày xưa.
– Nghe thế dân chúng tưởng đó cũng là một thứ thức ăn vật chất – nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
CUỘC SỐNG
Vì còn mang thân xác, nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này ra còn một sự sống cao hơn, đó là sự sống thần linh. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta hôm nay: hàng ngày chúng ta thường tìm gì? Tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh.
Nếu chúng ta chỉ đi tìm những thứ hay hư nát thì hãy coi chừng. Một lúc nào đó chúng ta sẽ trắng tay!
Đây là kinh nghiệm của một người đã đạt được những thành công vang lừng trong cuộc sống. Tên anh là J. Demsey. Anh là một võ sĩ quyền anh có đẳng cấp thế giới. Chiều hôm đó anh vừa mới đoạt được chức vô địch. Nhưng rồi đêm đến anh không sao nhắm mắt được. Mãi đến 2 giờ sáng anh mới thiu thiu ngủ được một chút. Nhưng ngủ chưa được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…)
“Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”
Vâng có những thứ rất mau hư nát nhưng bên cạnh đó cũng có những thứ trường sinh.
Thánh Gioan Kim khẩu nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ có được những ước vọng cao hơn bức tường thành của thế gian để phóng tầm mắt lên đến chân trời của cõi đời đời. Sự khác biệt giữa một người chỉ biết nhìn gần và một người biết nhìn xa thật lớn lao vô cùng. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen. Bấy giờ trời đã về khuya, ngoài trời tối đen như mực. Hai người đến gần bên khung cửa sổ. Trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu cái kim, đang nhấp nháy sáng. Mắt của Nã phá Luân còn rất tinh, còn mắt bạn ông đã mờ. Ông chỉ lên trời và hỏi:
– Anh có thấy các ngôi sao đó không?
Người bạn đáp:
– Tôi không thấy.
Nã Phá Luân nói:
– Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi và anh..
Người bị buộc chặt vào thế gian thì không thể thấy được những gì ở xa. Họ mới chỉ thấy được những cái thật gần mà cái gần nhất của họ như lời thánh Phaolô nói: Đó là cái bụng. Như vậy họ mới sống có phân nửa của cuộc đời. Chỉ có những ai có tầm mắt nhìn xa, nhìn thấy cả vùng trời xa xăm, thấy được các ngôi sao, họ mới là người thật sự sống.
Sau năm 60 SC, xã hội Lamã sống trong sự sa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ người Lamã đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi. Người ta uống thuốc cho nôn mửa giữa hai bữa ăn, để lần sau ăn cho ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thường tình. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và đính nhiều châu ngọc trị giá tương đương bốn mươi ngàn Anh kim. Họ tưởng ăn như thế, mặc như thế là cuộc sống sẽ hoàn toàn được thỏa mãn. Không! Ngàn lần không. Họ vẫn còn đói, vẫn còn khát. Sự đói khát không gì thoả mãn được. Họ tiếp tục tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có một thêm những rung động mới, hương vị mới, nhưng chẳng có gì có thể làm cho họ được no thỏa.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến sự thoả mãn về phần thể xác, nên Chúa đã cho họ ăn một bữa dư dật chẳng phải trả tiền, và họ còn muốn được ăn nữa. Tầm nhìn của những người Do thái mới chỉ dừng lại ở đó.
Thế nhưng như mọi người đều thấy. Đâu phải chỉ có cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói khác. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
– Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Và thứ đói này chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng ta được no thỏa.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với viên sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: “Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao rồi. Cha Mark Link viết: “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu trốn lên núi, vì họ muốn tôn phong Chúa lên làm vua. TN 18-B121
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu trốn lên núi, vì họ muốn tôn phong Chúa lên làm vua. Thấy vậy, dân chúng đua nhau đi tìm Đức Giêsu, họ hy vọng sẽ được Ngài tiếp tục ban cho những của ăn như lần trước… Thế nhưng, lợi dụng cơ hội này Đức Giêsu cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực mau hư nát, nhưng hãy lo tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”.
Thiên Chúa tạo dựng nên con người, Ngài hiểu rõ lòng khao khát của con người là vô biên vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn.
Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó.
Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay. Như vậy, chỉ có những gì là giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao của con người mà thôi.
Vậy, tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên của con người? Tìm đâu ra thứ bánh làm no thỏa được cơn đói hạnh phúc mà con người mong mỏi tìm kiếm?.
Trang Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta loại bánh có giá trị tuyệt đối, đó là bánh đích thực, bánh ban sự sống, bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đây là bánh Thiên Chúa ban từ trời chứ trần gian không làm ra được. Tấm bánh đó là chính là Đức Giêsu Kitô.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Chúa dùng hình ảnh tấm bánh vật chất để dạy cho dân chúng biết giá trị của ăn thiêng liêng. Vậy mỗi khi chúng ta tham dự bàn Tiệc Thánh Thể, với tất cả ý thức, là cử hành mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin rằng: tấm bánh mà chúng ta rước lấy, chính là Đức Kitô, sẽ đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Thế nhưng trong thực tế, rất nhiều lần chúng ta tham dự Thánh lễ, chúng ta rước lấy Mình Thánh Chúa rồi mà dường như lòng vẫn cảm thấy không có bình an và hạnh phúc trong Chúa. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta chưa cảm nghiệm gặp được Chúa, là Đấng ban nguồn hạnh phúc.
Mỗi người hãy tự vấn lương tâm, đi tham dự Thánh lễ, tôi có gặp gỡ Chúa thật sự không? Gặp gỡ Chúa ở đâu? Tôi gặp Ngài qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể, qua vị linh mục chủ tế, qua cộng đoàn tín hữu với nhau. Vì Chúa nói: ở đâu có 2 hoặc 3 người họp nhau lại nhân danh Ta, thì có Ta ở giữa họ.
Vậy mỗi khi đến tham dự bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta được mời gọi rước lấy chính Chúa Kitô là bánh ban sự sống, Ngài sẽ làm thỏa mãn cái đói hạnh phúc trường cửu và sự sống đời đời cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh, nhân loại ngày nay còn rất nhiều tâm hồn đói khát vì họ không biết tìm đâu ra Lương Thực Hằng Sống. Xin Chúa thương ban cho chúng con tấm Bánh là chính Chúa, để chúng con không còn phải đói phải khát nữa. Amen.
Chúa nhật tuần này, chúng ta bắt đầu được nghe những bài Tin mừng về Bánh hằng sống. Chúa TN 18-B122
Chúa nhật tuần này, chúng ta bắt đầu được nghe những bài Tin mừng về Bánh hằng sống. Chúa Giêsu, người Con một của Chúa Cha chính là bánh hằng sống được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại, để những ai tin vào người thì có sự sống đời đời. Bánh là lương thực cần thiết nuôi sống con người, bánh còn là lương thực cho hành trình dài để đi đến nơi mong đợi. Bánh đã được ban tặng cho dân Israel trong hành trình sa mạc, và trở nên hình ảnh báo trước Bánh hằng sống là lương thực thần linh là Chúa Giêsu cũng là Mình máu thánh của người và Lời của người được ban cho nhân loại. Trong hành trình sa mạc để đi về đất hứa, dân Israel đã nhiều lần than trách, họ nói những lời xúc phạm và vô ơn thiếu hiểu biết với Môisen: “thà để chúng tôi chết ở Ai cập hơn là bên nồi thịt còn hơn phải chết đói ở nơi hoang địa này”. Thiên Chúa nghe những lời trách của dân chúng và Chúa ban cho họ manna và chim cút nuôi sống họ suốt hành trình sa mạc. Manna là thức ăn do Chúa ban, buổi sáng khi sương xuống quanh trại người do thái và bốc hơi để lại những mẫu bánh và dân chúng cứ lấy về để ăn. Khi thấy manna, dân chúng không biết là loại lương thực gì nên nói với nhau cái gì vậy, còn Môisen thì giải thích cho dân chúng đây là bánh Thiên Chúa ban cho anh em ăn. Manna quả là bánh Thiên Chúa ban một cách quảng đại và dư dật để nuôi dân chúng, và cũng để diễn tả lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa và tiền báo Thánh Thể sẽ được ban do bởi chính Chúa Giêsu.
Câu chuyện Tin mừng theo Phúc âm Gioan tường thuật lại việc dân chúng tìm kiếm Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, vì thế họ đoán trước và đi trước người đến Capharnaum nơi người định đến. Khi thấy dân chúng, Chúa Giêsu đã trách họ tìm kiếm người không phải vì dấu chỉ của phép lạ mà là vì họ được ăn bánh no nê. Đồng thời người cũng nhắc nhở họ hãy làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn đem lại sự sống đời đời mà Con người sẽ ban tặng cho họ. Quả thật, thấy được dấu chỉ và nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ không phải là điều dễ dàng. Trong Cựu ước, dân chúng đón nhận và dùng manna làm lương thực nhưng không hiểu ý nghĩa nên cứ tự hỏi cái gì đây. Chính Môisen phải giải thích cho họ đây là bánh Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, điều quan trọng khi đứng trước phép lạ, đó là cần đón nhận được ý nghĩa của dấu chỉ phép lạ, hay sứ điệp của dấu chỉ. Phép lạ do Chúa ban không chỉ dừng lại ở mục đích thực tiễn của những điều lạ lùng được thực hiện, mà hướng đến một ý nghĩa mới và quyết định của thời cánh chung, của sự can thiệp mạnh mẽ và quyết định của Thiên Chúa. Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu làm cũng thế, không chỉ dừng lại ở mục đích là nuôi dân chúng ăn no nê, bởi vì sau đó Chúa Giêsu không tiếp tục làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nữa, mỗi người phải tự làm việc để nuôi sống mình. Thế nhưng khi thực hiện phép lạ, Chúa Giêsu muốn đánh thức sự hiểu biết của dân chúng về ý nghĩa cánh chung, ý nghĩa rộng lớn hơn của dự định cứu độ của Thiên Chúa đối với họ để dẫn đưa họ không phải chỉ để hưởng sự sống phần xác mà là đến sự sống thần linh vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã khẳng định với những người do thái Chính người là Đấng mà họ phải tin và đón nhận, chứ không phải chỉ để tìm kiếm bánh vật chất dư dật nuôi phần xác.
Khi dân chúng hỏi Chúa Giêsu: “chúng tôi phải làm gì để chu toàn công việc của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Đây là công việc của Thiên Chúa, đó là anh em tin vào người mà Thiên Chúa sai đến. Tôi là bánh ban sự sống, ai đến với tôi sẽ không hề đói, và ai tin vào tôi sẽ không hề khát bao giờ”. Những phép lạ hóa bánh ra nhiều hướng đến việc tin và đón nhận Chúa Giêsu, nơi người có sự sống đời đời. Vì thế, điều quan trọng và quyết định, đó là khởi đầu mối tương quan mật thiết và quyết định với Chúa Giêsu. Người chính là bánh sự sống, lương thực thần linh, bánh bởi trời. Người là bánh bởi trời được ban tặng cho con người và chúng ta là Thân thể của người, được mời gọi kết hợp nên một với người để đón nhận sự sống thần linh tuôn trào từ chính người, nơi Lời hằng sống mà người ban tặng, nơi Thánh Thể của người. Chúa Giêsu là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu, và chúng ta cũng được Thiên Chúa ghi dấu ấn qua bí tích rửa tội và thêm sức, và chúng ta được mời gọi kết hợp nên một với Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày với lòng khiêm tốn, nhẫn nại phục vụ và quảng đại trong mọi việc làm của mình. Chúa Giêsu là Đấng mà chúng ta tìm kiếm trong suốt cuộc đời của mình bởi người có sự sống thần linh.
Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống đời đời, chính Người đến để mời gọi, thúc đẩy con người yếu hèn của chúng ta nhận biết tầm quan trọng của đời sống thần linh. Con người chúng ta thường dừng lại ở sự sống vật chất, bị thu hút và choáng ngợp bởi những quyến rủ của sự sống trần gian đển chỗ quên mất sự cần thiết phải chuẩn bị cho sự sống đời đời. Nghịch lý của những người do thái trong câu chuyện cũng là nghịch lý của cuộc đời chúng ta và lời mời gọi nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với những người trong câu chuyện cũng là những lời nhắc nhở thúc bách đối với chúng ta. Đừng để mình bị thu hút bởi lương thực và của cải chóng qua đời tạm này, mà ngược lại phải biết nhanh nhẹn và tỉnh thức để Tin vào Chúa Giêsu và đón nhận người, chính người là bánh hằng sống. Đây cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, đừng sống như dân ngoại là những người không hiểu biết và tâm trí theo đuổi những điều phù phiếm, bởi vì chúng ta đã là những người Kitô hữu là những người được Chúa Giêsu dạy dỗ và là những người đã được học với người. Vì đã được học với Chúa Giêsu, người kitô hữu phải biết bỏ đi con người cũ với những ước muốn hư hỏng và tội lỗi để mặc lấy con người mới đầy tràn thánh thiện và chân lý.
Ngay từ thuở xa xưa con người đã có khát vọng được trường sinh bất tử. Nhiều vị vua chúa đã cho TN 18-B123
Ngay từ thuở xa xưa con người đã có khát vọng được trường sinh bất tử. Nhiều vị vua chúa đã cho những người dưới quyền vào rừng sâu hoặc lên núi cao, ra biển rộng tìm cho được những món ngon vật lạ, những phương thuốc thần dược để kéo dài tuổi xuân, hầu an hưởng thú vui trần thế với quyền lực thống trị mọi người trong lãnh thổ cuả mình. Và dù thời gian, tuổi tác có làm cho thân xác già đi thì vẫn mong muốn kéo dài tuổi thọ. Mong tìm ra được phương thuốc để không phải từ giã cõi đời. Thế nhưng tất cả đều vô vọng .
Chính tôi là bánh trường sinh.(Ga 6; 35)
Ngay từ thuở xa xưa con người đã có khát vọng được trường sinh bất tử. Nhiều vị vua chúa đã cho những người dưới quyền vào rừng sâu hoặc lên núi cao, ra biển rộng tìm cho được những món ngon vật lạ, những phương thuốc thần dược để kéo dài tuổi xuân, hầu an hưởng thú vui trần thế với quyền lực thống trị mọi người trong lãnh thổ cuả mình. Và dù thời gian, tuổi tác có làm cho thân xác già đi thì vẫn mong muốn kéo dài tuổi thọ. Mong tìm ra được phương thuốc để không phải từ giã cõi đời. Thế nhưng tất cả đều vô vọng .
Những người Do Thái mà tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại, họ thấy Chúa Giêsu đi đâu thì tìm cách theo Người để được chứng kiến những phép lạ Người làm, nhất là được Người cho ăn bánh no nê, không phải lao động vất vả như cha ông họ đã được Chúa cho Manna khi lưu lạc trong sa mạc, trên đường về Đất hứa. Biết được tâm điạ cuả họ là theo Chúa vì lợi lộc trần gian, coi Chúa như một vị thần tài để khi cần đến điều gì trong cuộc sống thì Chúa sẽ ra tay cứu giúp. Một cách “theo đạo có gạo mà ăn “ chứ không hề tin vào Chúa là đấng yêu thương mọi người, đấng hằng mong muốn cho con người được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu đã cảnh báo họ:” Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận “. Như được khai mở , những người theo Chúa ngày ấy đã thốt lên:” Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy “. Thế nhưng điều kiện để được ăn bánh ấy là TIN vào Đấng Thiên Chúa Cha sai đến, là chính Đức Giêsu Kitô, thì họ lại chẳng hề chấp nhận, dù Người nói rõ: “ Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ “
Lạy Chuá !
Cuộc đời trần gian là một cuộc tìm kiếm nước trời, nơi đó con người chúng con sẽ được hưởng cuộc sống bất diệt hoặc bị huỷ diệt tuỳ theo cách sống cuả con đối với Chuá . Con có nhận ra rằng chính Chúa là Bánh trường sinh để biết chạy đến với Người ? Con có tin vào Chúa là Đấng được sai đến, để qua Người, con nhận biết được Thiên Chúa là Cha , Ngài hằng mong muốn con đưọc nên trọn lành? Nếu con chỉ chạy đến với Chúa hầu xin Người thoả mãn cho con những nhu cầu riêng tư, mang lại cho con lợi lộc trần thế. Còn ngoài ra, xin Chúa đừng can thiệp vào cuộc đời con, Chúa đừng nhắc nhở con qua những người đang sống bên con khi con muốn tự tung tự tác, muốn sống theo ý riêng con bất chấp lời Chuá dạy . Sống như thế là con tự mình từ chối Chúa, từ chối hạnh phúc bất diệt Chúa trao ban . Xin Chúa giúp con luôn biết đón nhận và Sống Lời Chuá, đón nhận Bánh bởi trời là chính Chúa để con klhông còn phải đói và khát hồng ân Chúa . AMEN.
Vào một đêm, Nã Phá Luân nói chuyện với một người bạn. Lúc đó trời đã khuya. Những ngôi sao TN 18-B124
Vào một đêm, Nã Phá Luân nói chuyện với một người bạn. Lúc đó trời đã khuya. Những ngôi sao trên bầu trời nhỏ như những cái chấm sáng. Nã Phá Luân vẫn còn tỉnh, nhưng bạn của anh thì đã buồn ngủ nhiều. Nã Phá Luân đưa tay chỉ lên trời: “Anh có thấy những ngôi sao không?”. Người bạn đáp: “Tôi chẳng thấy gì”. Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi và anh”.
Cùng một ánh sao trên bầu trời, có người nhận ra, lại có người chẳng thấy gì. Nhưng không chỉ là một ánh sao, những vấn đề từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất cũng sẽ có không biết bao nhiêu cách nghĩ, cách hành động, hoặc có khi người ta nhận ra nhiều ý kiến, nhiều bài học, còn tôi chẳng nhận thấy gì.
Cũng vậy liên quan đến cuộc sống, đến vận mạng của đời người, liên quan đến tôn giáo, đến đức tin, đến những gì là chiều cao, hay sâu thẳm thuộc về thế giới của tâm hồn, không phải ai cũng có thể lãnh hội, hay lãnh hội cùng một cấp độ như nhau.
Vì thế càng suy nghĩ, tôi càng nhận thấy lời của thánh Gioan Kim Khẩu dù đã xưa nhưng vẫn cứ mới: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về trần thế”. Dĩ nhiên “đónh đinh” ở đây không mang nghĩa đau khổ, nhưng chỉ muốn nói tới thái độ tự chôn mình sâu thẳm trong thế giới vật chất.
Bị “đóng đinh” chặt vào trần thế, từ xưa, dân của Chúa, dẫu đã nhìn thấy rất nhiều dấu lạ do Thiên Chúa thực hiện để cứu họ, họ thừa biết Thiên Chúa quyền năng, không biết bao nhiêu lần đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng để gìn giữ, để che chở, thậm chí bênh vực họ, nhưng họ vẫn cứ là những kẻ hay quên. Quên đến mức phụ bạc cả tình thương của Chúa. Quên đến mức rất nhiều lần họ tỏ ra vong ân.
Không những dân Chúa đã tự để mình đóng đinh vào trần thế, họ còn tự đóng đinh rất chặt vào đó. Quay trở về với cuộc vượt qua vĩ đại của người Do Thái, ta sẽ nhận thấy.
Ngày ấy, Thiên Chúa nhìn thấy dân phải lầm than nô lệ Aicập, triền miên bị người Aicập xúc phạm và làm cho ô nhục. Hằng ngày không biết bao nhiêu hình khổ người Aicập giáng xuống trên họ. Vì thế, Thiên Chúa thấu nỗi đau của dân. Chúa sai ông Môisen đến cứu dân. Chính lòng yêu thương của Chúa đã giải phóng họ.
Lễ vượt qua đầu tiên ấy đã đưa họ vượt qua tình trạng nô lệ bước vào đời sống tự do. Nhưng bất cứ điều gì cũng phải có giá của nó. Trước khi vào miền đất tự do, dân cần phải được tôi luyện lòng trung thành với Chúa của mình.
Bởi đó, bốn mươi năm đằng đẳng trong sa mạc, đói, khát, thiếu thốn… đã làm cho họ không ít ngã lòng. Thay vì ghi sâu lòng biết ơn Đấng giải thoát mình, họ đã mất kiên nhẫn. Không biết bao nhiêu lần, họ phàn nàn, oán trách Chúa.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành là một bằng chứng về điều này. Họ không ngừng kêu trách ông Môisen và ông Aaron (phụ tá của ông Môisen), là những người được Chúa cắt đặt lãnh đạo họ: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vậy?".
Và còn nữa những lời trách móc tương tự như thế. Không chỉ là những lời trách móc động đến Môisen, nhưng còn động đến cả Thiên Chúa.
Để cho mình đóng đinh vào trần thế, họ không thể nhìn thấy những thực tại thiêng liêng, cụ thể là lòng thương xót của Chúa. Dính bén quá nhiều với vật chất, con người chỉ thấy cái trước mặt, coi trọng hiện tại và quyên mất mọi giá trị siêu nhiên.
Vẫn chưa hết. Tôi lại thấy trong bài Tin Mừng, thái độ đóng đinh rất chắc chắn của đám dân đi theo Chúa.
Nếu Chúa nhật lần trước, thánh Gioan biết Chúa Giêsu làm một phép lạ cả thể nuôi sống một số lượng dân chúng rất đông (chỉ tính riêng đàn ông đã có khoảng 5.000 người), thì ngay sau đó, họ muốn tôn Chúa làm vua.
Cứ tưởng, nhờ chứng kiến phép lạ, họ tin Chúa, muốn theo Chúa, muốn học nơi Chúa giáo lý mới, muốn mãi mãi thuộc về Chúa… nên đặt Chúa làm vua của lòng mình.
Không phải thế! Bài Tin Mừng hôm nay là phần nối tiếp của bài Tin Mừng tuần trước, cho thấy sự cứng rắn của Chúa Giêsu: Người nói thẳng vào thái độ bất chính của họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời…”.
Đóng đinh chính mình một cách quá chặt vào thế giới vật chất, người ta đã biến mình thành nô lệ vật chất, nô lệ những gì tầm thường và dễ đi xa mọi giá trị thánh thiêng, đi xa những giá trị làm nên ý nghĩa của đời người.
Để lòng đầy ham hố, người ta quên biết ơn Thiên Chúa, người ta cũng không đủ sáng suốt để thấy rằng, mọi điều xuất phát từ nơi Chúa Giêsu, từ lời dạy đến phép lạ của Chúa đều dẫn đến chân trời của sự thánh thiện, của đức tin, của ơn cứu rỗi, nhất là của ơn hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa, nên một với Con của Ngài là chính Chúa Giêsu.
Và khi muốn đặt Thiên Chúa làm vua chỉ để no cái bụng, người ta đã tục hóa hình ảnh Thiên Chúa của mình, nếu không muốn nói thái độ ấy đã vô tình biến Thiên Chúa thành con rối để điều khiển Ngài theo nhu cầu của mình.
Đó là bài học cho tôi và cho bạn. Bài học của sự chìm sâu trong trần thế, của thái độ đóng đinh chính mình trong cái nhìn thực dụng và đầy mưu toan tính toán…
Bạn và tôi có đức tin và luôn biết mình là con Thiên Chúa. Nhưng chỉ mới biết thôi, chưa đủ. Điều quan trọng là làm sao đi từ nhận thức ấy, đưa ta đến một cái nhìn về phía bên trong để thoát khỏi não trạng thực dụng, nhờ đó không còn thái độ dính bén của vật chất, của tiện nghi, của ma lực trần thế… Nhưng là khám phá tình yêu của Chúa, khám phá những chiều kích thâm sâu làm nên ý nghĩa của đời người, làm nên chiều kích thánh thiêng của kiếp người trần thế.
Nói thì dễ, nhưng để sống, đòi ta phải nỗ lực không chỉ rất lớn mà còn bền bỉ. Đối với Thiên Chúa, tự bản thân, để biết Ngài, để khám phá tình yêu của Ngài, khám phá những giá trị thánh thiêng mà Ngài ban cho ta, đã là một việc làm quá sức người, vậy mà bên cạnh những người thành tâm tìm về Đấng là cội nguồn của mình, có biết bao nhiêu người bịt mắt, bịt tai để khỏi nhận ra Ngài, thậm chí không những dứt khoát chối từ mà còn chủ trương và dạy người khác nhận cội nguồn của mình từ cái rất tầm thường: vật chất.
Cũng giống như câu chuyện về Nã Phá Luân và người bạn của ông: Cùng một ánh sao, nhưng ông nhìn thấy, còn bạn ông thì không. Chỉ có ai thành tâm, chỉ có ai biết trút bỏ mọi kiêu căng, không để mình đóng đinh vào thế giới tục hoá này, người ấy mới có thể đến với chân trời vĩnh cửu là chính Thiên Chúa, Cha chúng ta.
Từ thời sơ khai đến thời hiện đại, từ con vật đến con người, mỗi buổi sáng thức dậy đã phải lo tìm TN 18-B125
Từ thời sơ khai đến thời hiện đại, từ con vật đến con người, mỗi buổi sáng thức dậy đã phải lo tìm kiếm thức ăn cho mình và cho gia đình. Câu hỏi đầu tiên con người nghĩ đến trong ngày là: “hôm nay tôi sẽ làm gì, sẽ ăn gì?” Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người, vì thế việc tìm kiếm của ăn cũng là việc thường xuyên và chính yếu của con người. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay nói cho chúng ta biết phải tìm kiếm lương thực gì là cần thiết nhất và phải làm việc với tinh thần, thái độ nào là quan trọng.
Bài đọc một kể câu chuyện thời Xuất Hành: Lúc đó dân Do Thái đã được Thiên Chúa dùng cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai Cập. Trong sa mạc, cuộc sống thiếu thốn, người Do Thái đã chóng quên ơn Chúa, họ không quan tâm đến cuộc sống tự do phía trước, họ tiếc nuối miếng thịt miếng bánh thời nô lệ. Dân chúng đã quay lại trách Môsê và Thiên Chúa. Họ nói với Môsê: “Thà ông để chúng tôi chết tại Ai Cập bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê, còn hơn để chúng tôi chết trong sa mạc”. Lời trách đó cho thấy người Do Thái không nhận ra ơn giải thoát của Chúa và giá trị của cuộc sống tự do. Họ sẵn sàng cúi xuống ăn miếng thịt miếng bánh thời nô lệ hơn là được đứng thẳng, ngẩng cao đầu vì được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa. Dầu dân Do Thái tệ bạc, vô ơn, Thiên Chúa vẫn đáp ứng cho họ nhu cầu vật chất họ đang cần, Chúa sẵn sàng cho họ ăn bánh và thịt như họ đang thèm. Ngài ban Manna từ trời rơi xuống mỗi sáng và cho chim trời sà xuống mỗi chiều để dân tha hồ ăn. Ai muốn ăn bao nhiêu tùy thích. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn tìm cách để giáo dục đức tin của dân Do Thái. Qua Môsê, Thiên Chúa truyền cho dân mỗi ngày phải tự tay đi nhặt những hạt manna về làm thành bánh, bắt chim trời về làm thịt, ngày nào lấy đủ cho ngày đó, không lấy dư. Truyền lệnh như thế, để cho dân ý thức rằng Thiên Chúa chính là Đấng nuôi dân mỗi ngày. Còn dân phải tín thác và dám đặt tương lai ngày mai nơi bàn tay Chúa và cộng tác với Chúa để làm việc nuôi sống bản thân.
Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no, Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền tránh qua bên kia hồ. Đám đông dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, khi gặp Ngài họ hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giêsu không trả lời vào câu hỏi của họ, nhưng Chúa đã chỉ cho họ thấy mục đích họ đi tìm Chúa là gì: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông tin vào các dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn no”. Như thế có nghĩa là người Do Thái đi tìm Chúa chỉ vì nhu cầu vật chất, chứ không phải vì tin. Họ tìm Chúa với hy vọng Chúa sẽ cho họ ăn no mỗi ngày mà không cần phải làm việc. Đối với họ, Thiên Chúa cũng chỉ là một người thủ kho dễ dãi.
Chúa Giêsu Không muốn con người tìm Chúa chỉ vì vụ lợi vật chất, Chúa đã điều chỉnh lại mục đích của người Do Thái khi tìm Chúa. Ngài nói với họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng là lương thực mang lại phúc trường sinh”. Nói như thế, Chúa nhắc họ hai điều quan trọng, trước hết là phải ra công làm việc: Tức là phải làm việc với hết khả năng và trách nhiệm, làm việc cách kiên trì cần mẫn. Vì, kết quả và sự thành công chỉ đến với những ai kiên trì mà thôi. Làm việc trong kiên trì và cần mẫn không chỉ trong việc tìm kiếm của cải vật chất hoặc nhu cầu đời sống tự nhiên, mà ngay cả trong đời sống thiêng liêng cũng đòi phải kiên trì và cần mẫn. Chúa muốn mọi người dành ưu tiên tìm kiếm lương thực đem lại sự sống đời đời. Lương thực này chắc chắn thế gian không thể có, chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem lại sự sống đời đời mà thôi. Như thế, tìm kiếm lương thực đem lại sự sống chính là tìm kiếm chính Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến.
Kế đến, tìm kiếm Chúa Giêsu không phải là trò chơi trốn tìm may rủi, nhưng là tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Ngài. Chúa hướng dẫn chúng ta qua Lời của Chúa, Chúa dùng Giáo Hội để dạy dỗ chỉ bảo và giảng Lời Chúa cho ta. Vì thế, hãy đến với Giáo Hội để được nghe Lời Chúa. Lương thực đem lại sự sống đời đời là chính Mình và Máu Chúa Giêsu được dâng hiến cho Thiên Chúa Cha và trở nên của ăn của uống đích thực cho tâm hồn. Chính lương thực này là thứ lương thực đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu nói đến lương thực đem lại sự sống đời đời đã không hiểu. Họ không biết Chúa muốn họ làm gì. Họ hỏi Chúa: “Chúng tôi phải làm gì để thực thi điều Chúa muốn?” Chúa Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người sai đến”. Như thế, tin vào Chúa Giêsu là Đấng Chúa Cha đã sai đến chính là làm theo điều Chúa muốn. Vì Thiên Chúa muốn chúng ta tin vào Chúa Giêsu để được nuôi sống bằng Lời và bằng Thánh Thể; Tin vào Chúa Giêsu thì dù có chết cũng sẽ được sống, mà hễ ai sống mà tin vào Ngài thì không phải chết muôn đời. Chúa Giêsu cũng đã giải thích cho những người nghe: Việc ngày xưa cha ông họ được nuôi sống trong sa mạc bằng manna là do Thiên chúa ban chứ không phải do Môsê. Đến thời này, Thiên Chúa lại ban cho nhân loại một thứ lương thực đặc biệt, nuôi sống nhân loại. Bánh đó chính là Đức Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với những người Do Thái rằng: Ngài chính là bánh đem lại sự sống đời đời cho thế gian. Ai đến với Ngài thì không bao giờ bị đói. Ai tin vào Ngài không bao giờ còn khát nữa.
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu đã thực hiện lời quả quyết này khi lập Bí Tích Thánh Thể. Ngài cầm bánh và rượu trao cho các môn đệ và nói: “Đây là Mình Thầy, Đây là Máu Thầy anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lầy mà uống. Máu này là giao ước mới có sức mạnh tẩy rửa tội lỗi nhân loại. Thịt này có sức mạnh thỏa mãn mọi cơn đói khát của con người”.
Thánh Phaolô căn dặn tín hữu Êphêsô phải sống sao cho xứng đáng là những người được Thiên Chúa nuôi dưỡng và dành ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời để tìm kiếm sự sống đời đời. Đó cũng là điều tác giả muốn khuyên nhủ chúng ta: “Anh em đã học biết về Chúa Giêsu Kitô, được dạy dỗ theo tinh thần của Ngài. Vì thế, chúng ta không thể sống theo kiểu của dân ngoại, là những người chỉ biết cắm đầu vào việc tìm kiếm của cải vật chất và hưởng thụ ở trần gian. Nhưng chúng ta trong khi sống và làm việc ở trần gian, vẫn luôn dành ưu tiên cho việc tìm kiếm lương tthực đem lại sự sống đời đời”. Thánh Phaolô còn đòi chúng ta: “anh em phải cởi bỏ con người cũ, với nếp sống cũ; anh em phải để cho Thần Khí biến đổi tâm trí và con người anh em nên những con người mới”.
Cuộc sống trần thế, việc tìm kiếm cơm áo gạo tiền và việc tìm kiếm lương thực đem lại sự sống đời đời có khác nhau nhưng không loại trừ nhau. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta cần phải biết đặt bên nào làm trọng, việc nào là ưu tiên nhất trong cuộc sống. Là Kitô hữu, chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Không thể vừa thờ Thiên chúa vừa thờ tiền bạc của cải vật chất. Chúng ta cũng không thể theo Chúa, tìm kiếm Chúa chỉ vì mục đích vật chất như những người Do thái xưa, nhưng vì hạnh phúc và sự sống đời đời của mỗi chúng ta. Vì thế, tự bản thân mỗi người phải không ngừng “làm việc” kiên trì mỗi ngày để tìm kiếm Chúa, tìm lương thực đem lại sự sống đời đời cho mình. Trong cuộc sống, có nhiều khi chúng ta chỉ tìm đến Chúa khi chúng ta gặp khó khăn, vì nhu cầu vật chất. Chúng ta muốn Chúa phải giải quyết tức thời cho mình, mà không muốn mình đáp ứng những yêu cầu của Chúa. Có người tìm đến với Chúa, cầu nguyện chỉ nhắm Chúa thỏa mãn những điều trước mắt, mà không quan tâm đến việc xin Chúa ban lương thực đời đời và trợ giúp những nhu cầu thiêng liêng. Vì thế, khi không được như mong muốn, họ rơi vào chán nản buông xuôi. Nhiều người khác, đặc biệt các bạn trẻ lo tìm kiếm nghề hoặc việc làm có thu nhập cao, họ chấp nhận đánh đổi lương tâm và đời sống đạo đức cho mục tiêu vật chất đó. Nhờ Lời Chúa nhắc nhở hôm nay, xin cho mỗi người dù đang mang gánh nặng gia đình và những lo toan của bản thân, thì cũng luôn biết đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm sự sống đời đời qua việc lãnh nhận lương thực thần linh là Mình Máu Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn đời sống mình. Amen. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí – Giáo phận Xuân Lộc
Mỗi vùng, mỗi miền, mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có loại đặc sản độc đáo mang sắc thái đặc trưng TN 18-B126
Mỗi vùng, mỗi miền, mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có loại đặc sản độc đáo mang sắc thái đặc trưng, không lẫn với các sản phẩm khác, ngay cả đối với mỗi người cũng có những món khoái khẩu khác nhau. Nói về sự ăn kiêng một cách khôi hài mà thú vị, Julia Child nhận định: “Chỉ nên ăn kiêng khi bạn chờ thịt chín”. Rõ ràng là việc ăn uống quan trọng lắm – không chỉ đối với sức khỏe mà còn đối với khẩu vị. Có câu nói rất riêng của một nhân vật trong một bộ phim Bắc Việt thế này: “Không thể hoãn lại cái sự sung sướng được”. Đúng vậy!
Các món ăn được gọi chung là ẩm thực – tức là chuyện ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Thật kỳ lạ, ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, có nét văn hóa đặc thù – gọi là văn hóa ẩm thực, và còn có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản mà lại khá nhiêu khê, và cũng vì phức tạp nên mới phải học – học để biết cách hành xử hợp lý nhất.
Cách ăn uống tiết lộ tính cách con người. Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau – thậm chí có thể hành hung nhau và có thể xảy ra án mạng. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, mà người ta có thể sát hại lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau: Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Cái tôi to lớn nên sinh đủ thứ chuyện xấu xa.
Ẩm thực là vật chất nhưng cũng ảnh hưởng tinh thần và tâm linh. Chuyện ăn uống cũng có mức độ ảnh hưởng tương tự. Kinh Thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23,2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo: Miếng ăn là miếng tồi tàn – Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Vinh hay nhục có khi chỉ từ miếng ăn bé nhỏ mà thôi!
BÁNH NUÔI XÁC – MANNA
Chúng ta là hậu sinh, không hề biết loại đặc sản mà dân Israel đã từng ăn ròng rã suốt 40 năm hành trình qua hoang địa để tiến về Đất Hứa. Loại đặc sản đó như thế nào? Kinh Thánh mô tả: “Manna như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” (Ds 11,7).
Trong thời gian miệt mài di chuyển qua sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Môsê và ông Aharon. Họ vất vả khổ sở, có lẽ vì sức người có hạn, thế nên họ đã trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên NỒI THỊT và ĂN BÁNH thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải CHẾT ĐÓI cả lũ ở đây!” (Xh 16,3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận chỉ vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng, và cái bụng cứ reo hoài nên họ khó chịu. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho BÁNH TỪ TRỜI mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16,4). Có ăn là khỏe ngay, con người là thế!
Sau đó, Thiên Chúa còn nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16,12). Thích gì được nấy, thịt bánh đều có. Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại, còn buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16,15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16,15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna (tiếng Hê-brơ: מָן), còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa (tiếng Ả-rập: المَنّ و السلوى), tiếng Hy Lạp và Latinh là Man hoặc Manna].
Ôi, thật lạ lùng thay việc Thiên Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta, cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78,3-4). Thánh Vịnh gia nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến manna tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78,23-25). Thiên Chúa đại lượng và hào phóng, Ngài luôn chiều lòng chúng ta một cách hợp lý, cho dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, bướng bỉnh, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ chúng ta “giác ngộ” mà chân nhận Ngài là Đức Chúa duy nhất – tức là xác định KHÔNG HỀ CÓ BẤT CỨ THẦN LINH NÀO KHÁC.
Chắc chắn như vậy. Nếu thế thì hãy nghe Thánh Phaolô khuyên nhủ: “ĐỪNG ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4,17). Một khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24). Tuy nhiên, không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con-người-cũ và “chết” cho tội-lỗi-của-chính-mình, tức là phải chịu đau đớn vì phải “banh da, xẻ thịt” của mình để sống theo lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa. Nhưng thành tâm cố gắng và nhờ ơn Chúa, mọi thứ đều có thể, và sẽ ổn thôi.
Xác và hồn không thể tách rời. Xác khỏe thì hồn mạnh. Một tâm hồn lành mạnh ở trong một thân xác khỏe mạnh. Tinh thần yếu đuối sẽ khiến thể lý uể oải, lâu dần hóa bệnh tật. Đó là điều tất yếu, vì chúng liên quan lẫn nhau.
BÁNH DƯỠNG HỒN – THÁNH THỂ
Thân xác cần có lương thực để sống, linh hồn cũng vậy. Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6,25). Tính thẳng thắn và thật thà, Ngài nói toạc móng heo luôn: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi KHÔNG phải vì các ông đã thấy DẤU LẠ, nhưng vì các ông đã được ĂN BÁNH NO NÊ” (Ga 6,26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ. Trong chúng ta cũng có những người như vậy – nghĩa là vì chính sự ích kỷ của mình.
Vâng, sự thật vẫn thường phũ phàng như thế. Và có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Israel xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh, hay vì cái gì “khó nói” lắm? Người ta vẫn thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, xin được nhiều ơn lắm”. Và rồi chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Liệu đức tin còn được vững vàng? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao?
Nếu như vậy thì người nghèo chịu thiệt thòi quá. Họ được ít ơn hơn thì họ cũng khó vào Nước Trời hơn, nếu xét theo “nghĩa thực tế” đó! Đã từng có đoàn hành hương về Thánh Địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn kém lắm. Người nghèo có mơ cũng chẳng được, bởi vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “méo mặt” thì làm sao có dư tiền mà đi hành hương để “xin ơn” chứ? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa không công bằng. Nhưng Ngài đâu có như vậy, chỉ tại chúng ta bắt Ngài như vậy thôi!
Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta thực sự làm việc tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa hay không? Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Có điều chắc chắn là Thiên Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc cứ “suy bụng ta ra bụng… Chúa”. Thế thì “căng” thật!
Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có LƯƠNG THỰC THƯỜNG TỒN đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6,27). Có lẽ họ không hiểu hết ý Ngài nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6,28). Ngài trả lời ngay: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là TIN vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6,30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha Tôi cho quý vị ăn BÁNH BỞI TRỜI, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, BÁNH ĐEM LẠI SỰ SỐNG cho thế gian” (Ga 6,32-33). Hai loại bánh đều từ trời, nhưng manna chỉ làm cho sống phần xác, Thánh Thể mới làm cho sống phần hồn.
Ôi chao, ý Ngài hoàn toàn khác hẳn, thảo nào… ! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.
Thế nhưng đối với dân Israel lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6,34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là BÁNH TRƯỜNG SINH. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe thấy “sốc” quá! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin nơi Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Quả thật, so với dân Israel xưa thì chúng ta may mắn và diễm phúc lắm!
Thật vậy, ngày xưa dân Israel chỉ được ăn bánh-từ-trời là manna, loại đặc sản chỉ có thể nuôi sống phần xác; còn chúng ta ngày nay cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, loại đặc sản nuôi sống phần hồn, là của ăn đàng trên suốt hành trình về Thiên Quốc vĩnh hằng.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sự sống đời đời theo giao ước. Xin ban lương thực hồn xác cho những người nghèo khổ, thiếu thốn, những người chịu thủy hoạn và hỏa hoạn khắp nơi trên thế giới. Xin giữ gìn họ trung kiên trong đức tin và giúp họ cố gắng chịu đựng để đáng phần phúc mai sau. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông TN 18-B127
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một của sổ. Bất chợt, Na-pô-lê-ông chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Na-pô-lê-ông nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Na-pô-lê-ông nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Na-pô-lê-ông là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã tìm thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh nó nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: Những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ…Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên nước trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
“Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có giá trị vĩnh cữu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.
Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh Hằng Sống được ghi lại TN 18-B128
Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh Hằng Sống được ghi lại trong bối cảnh Lễ Vượt Qua. Đây là thời điểm người Do Thái ăn bánh không men để tưởng nhớ biến cố Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Chúa Giêsu đã khởi đi từ phép lạ Manna để chứng minh Người là Bánh đích thực mà Chúa Cha ban cho nhân loại. Khi nói đến Manna, bất cứ người Do Thái nào cũng liên tưởng đến những phép lạ Thiên Chúa đã làm để nuôi dưỡng tổ tiên của họ. Qua việc ban Manna và chim cút cho dân lữ hành trong sa mạc, Thiên Chúa vừa chứng tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy tình yêu thương Ngài dành cho dân riêng. Những ai theo Chúa sẽ không bị bỏ rơi, nhưng được Ngài chăm sóc phần hồn phần xác. Ngài nuôi dưỡng họ bằng Manna trong suốt hành trình về Đất Hứa. Được ban mỗi ngày, Manna là nguồn sức mạnh vừa thiêng liêng vừa phàm trần, giúp họ nhận ra sự đồng hành của Chúa. Trong cuộc tranh luận được thánh Gioan ghi lại, Chúa Giêsu đã chứng minh Người là Bánh bởi trời. Người là Manna mới Chúa Cha ban tặng cho nhân loại, giống như Manna của thời lữ hành. Tấm bánh có tên gọi Giêsu được ban không chỉ riêng cho dân tộc Do Thái, mà là cho cả thế giới. Ngày hôm nay, tấm bánh ấy là Thánh Thể, được hiến dâng mỗi ngày trên bàn thờ để trở nên lương thực thiêng liêng nuôi sống các tín hữu. Cùng với sự kiện Manna, Cựu ước cũng ghi lại sự cứng lòng của dân Do Thái. Trước sự thiếu thốn vật chất, họ đã nhanh chóng quên tình thương của Chúa thể hiện qua cuộc giải phóng ngoạn mục. Họ phàn nàn kêu trách ông Môi-sen và quy mọi trách nhiệm cho ông. Những nhu cầu vật chất đã khiến họ ước mong trở lại thời nô lệ bên Ai Cập. Chi tiết muốn quay lại Ai Cập được nhắc tới như một sự mỉa mai, bởi vì truớc đó, họ tìm mọi cách để thoát cảnh áp bức và công việc nô dịch tại đất nước này. Cám dỗ của dân Do Thái ngày xưa cũng chính là cám dỗ triền miên của con người mọi nơi mọi thời. Vì vật chất, họ sẵn sàng chối bỏ Thiên Chúa và lãng quên bao điều tốt lành Chúa đã làm trong cuộc đời. Con người cũng thường đổ lỗi cho Thiên Chúa vì những bất tiện hoặc tai ương, trong khi có nhiều tai ương do chính họ là thủ phạm. Khi dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, Chúa che chở và hướng dẫn họ bằng cột mây, cột lửa và nuôi dưỡng họ bằng Manna, nay Chúa Giêsu là Bánh bởi trời, để nên nguồn sống cho chúng ta. Thánh Thể là Bánh trường sinh. Ai ai ăn bánh này sẽ được biến đổi mỗi ngày để được thần linh hóa và được sống vĩnh cửu. Được nuôi dưỡng bởi bánh từ trời, người tín hữu mặc dù đang sống giữa trần gian đã phần nào nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Vì hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải được kết hợp với Chúa, được chiêm ngưỡng và ca tụng tình thương bao la của Ngài? Những ai lãnh nhận Bánh Thánh Thể mà còn sống trong tội lỗi, sẽ đi ngược lại với ý nghĩa của Bí tích này, vì Thánh Thể là Bí tích của sự canh tân. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em. Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật”. Nhờ năng rước lễ, người Kitô hữu được biến đổi cuộc đời. Mình Thánh Chúa sẽ tác động và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới, nên giống Chúa Kitô. Chúng ta hãy đến tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Người hiện diện trong thinh lặng để lắng nghe những nỗi lòng của chúng ta. Cũng chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể đón nhận lời giáo huấn của Người. Thánh Thể là lời mời gọi sống hiệp nhất giữa các tín hữu. Cũng như tấm bánh được làm nên bởi muôn hạt miến và chén rượu được chế từ ngàn trái nho, những ai được nuôi dưỡng bởi lương thực thiêng liêng này sẽ được liên kết nên một để cùng nhau làm nên một thân thể huyền nhiệm có Chúa Giêsu là Đầu. Người tín hữu còn được mời gọi sống màu nhiệm Thánh Thể qua những nghĩa cử sẻ chia mỗi ngày. Noi gương Chúa Giêsu hy sinh hiến mình làm của ăn của uống cho con người, chúng ta hãy dấn thân phục vụ, quan tâm đến lợi ích của những người xung quanh, hầu giúp họ tìm được hạnh phúc trong cuộc sống.
Một gia đình đang lái xe trên đường thì con cóc nhảy ngang qua. Ông chồng thắng xe kip thời TN 18-B129
Một gia đình đang lái xe trên đường thì con cóc nhảy ngang qua. Ông chồng thắng xe kip thời, bước xuống, mang con cóc đặt qua vệ đường.
Con cóc bỗng nói:
– Cám ơn ông đã cứu mạng. Tôi sẽ cho gia đình ông một điều ước!
Người đàn ông nói:
– Vậy hãy làm cho con chó của tôi thắng cuộc đua hôm nay?
Ông ta gọi con chó ra, và khi thấy nó chỉ có ba chân, con cóc nói:
– Khó quá… Hay ông xin điều khác đi!
Lúc đó bà vợ trong xe bước ra và nói:
– Vậy hãy làm cho tôi thắng cuộc thi hoa hậu năm nay được không?
Cóc nhìn bà vợ rồi quay lại nói với ông chồng:
– Ông… cho tôi xem lại con chó. Xem ra con chó thắng dễ hơn là bà nhà thắng cuộc thi hoa hậu!
Xem ra cuộc đời là một cuộc đua. Đua tìm danh vọng. Đua tìm tiền tài. Đua tìm lạc thú. Con người ra công tìm kiếm thường là danh lợi thú trần gian. Nhu cầu của con người cần có là vật chất, là tiền tài. Họ mải mê tìm kiếm và tôn thờ của cải. Họ hy sinh mạng sống để được nó. Ngay cả khi đến với Chúa, con người xem ra cũng chỉ cầu xin cho có tiền, có địa vị . . . Xem ra chẳng mấy ai thấy được nhu cầu thiết yếu đời người là tìm kiếm của ăn không hư nát là đời sau.
Thực vậy, nhu cầu của con người ngày nay không phải là tâm linh mà là vật chất. Con ngươi gắn bó với thực tại trần gian này hơn là thực tại Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc, nhu cầu vật chất chẳng bao giờ cho đủ. Lòng tham của con người chẳng khi nào dừng. Con người không bao giờ cảm thấy mình đủ với của cải vật chất. Lòng tham khiến con người cứ như con kiến miệt mài tích lũy mà chẳng cần biết có cần dùng tới hay không?
Thật phí phạm nếu chỉ tích lũy mà chẳng có nhu cầu sử dụng! Thật dại dột khi tích lũy một cái mà chẳng có giá trị bền vững! Thật là “dã tràng xe cát biển Đông” nếu tích lũy của phù dù mong manh chóng tàn!
Là người Ky-tô hữu Chúa mời gọi chúng ta hãy gia công tìm kiếm của ăn không hư nát. Đừng uổng phí thời gian tích lũy của phù vân. Hãy sống cho giá trí Tin Mừng. Hãy tìm kiếm giá trị vĩnh cửu. Đó là sứ điệp mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta.
Có lẽ nhiều người sẽ bảo không tích lũy của cải trần gian lấy gì mà sống? Điều Chúa muốn nói không phải là đừng làm giầu của cải vật chất mà là dù mình làm bất cứ việc gì hãy đặt giá trị Tin Mừng lên trên. Người giầu vẫn vào Nước Trời khi họ làm giầu theo ánh sáng Tin mừng. Người giầu đôi khi còn dễ vào Nước Trời khi họ biết sử dụng của cải trần gian để xây dựng ngôi nhà Nước trời bằng việc lành phúc đức cho những anh em nghèo khó. Đây cũng là cách chúng ta tích lũy kho tàng trên trời. Đây chính là phương thế chúng ta đang sống gia công làm việc để có lương thực không hư nát.
Quả thực, tiền bạc sẽ qua đi, nhưng công đức của chúng ta sẽ theo ta vào đời sau. Của cải này sẽ trả lại cho thế gian nhưng việc lành phúc đức của chúng ta sẽ giúp chúng ta có sự sống trường sinh.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống quảng đại và hiến thân hầu xây dựng cho mình một ngôi nhà thiên quốc. Xin Chúa giúp chúng ta đừng quá đặt nặng vật chất mà cản lối tiến chúng ta về quê trời. Amen
Con người chúng ta có 3 phần: thể xác, tinh thần và tâm linh hay linh hồn, và cần những nhu cầu TN 18-B130
Con người chúng ta có 3 phần: thể xác, tinh thần và tâm linh hay linh hồn, và cần những nhu cầu căn bản cần thiết. Nhu cầu căn bản thứ nhất cho thể xác là thức ăn và nước uống. Nhu cầu thứ nhì cho tinh thần là tình yêu, sự thương mến và tình cảm qua các mối liên hệ gia đình, bạn bè, thân thuộc hay đoàn thể. Nhu cầu căn bản cần thiết thứ ba cho tâm linh, cho linh hồn là thức ăn tinh thần, Lời Chúa và Thánh Thể.
Chúng ta biết của ăn, thực phẩm và vật chất cho thân xác luôn là một miếng mồi rất dễ cám dỗ của ma quỉ. Muốn có thức ăn và vật chất, phải cần tiền, vì vậy, ma quỉ dùng mọi cạm bẫy, phương cách để dụ dỗ con người có nhiều tiền, nhưng nhiều khi bất an trong đời sống, gia đình mất hạnh phúc và hòa thuận, gây chia rẽ, ganh ghét và tranh chấp trong cộng đoàn, và làm cho nhiều người mất đức tin. Vì thức ăn, thế giới nhân loại chém giết nhau, và gây nên những tranh chấp, hận thù và khổ đau. Ma quỉ cũng đã từng dùng thức ăn để cám dỗ Chúa Giê-su, khi Ngài cầu nguyện, ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, và Chúa đã trả lời “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”
Các bài Kinh thánh hôm nay muốn dạy chúng ta, những Ki-tô hữu, biết phân biệt rõ ràng hai thứ thức ăn cho cuộc sống mau hư nát và thức ăn cho sự sống vĩnh cửu, cũng như giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa về những nhu cầu thiết yếu này trong đời sống, và nhất là ai là người cung cấp những nhu cầu đó cho chúng ta.
Bài đọc 1 trích sách Xuất hành tường thuật cho chúng ta biết tình cảnh thiếu thốn thức ăn cho thân xác của dân Chúa trong sa mạc, trên con đường về Đất hứa, và lòng nhân từ của Thiên Chúa đã ban man na để nuôi sống họ. Chúa muốn họ tin vào Chúa, tin vào lòng yêu thương và sự quan phòng của Ngài trong hành trình, cho nên Chúa cho họ có thể ăn uống thỏa thuê, nhưng không được tích trữ, chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó, nếu tham lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau.
Trong bài đọc 2 và trong các bài khác, Thánh Phaolô phân biệt và cho chúng ta thấy chủ đích và hai đường lối sống của dân ngoại và của những tín hữu, tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Thứ nhất là dân ngoại, họ sống theo lối sống phù phiếm, và chỉ biết dùng hết mọi khía cạnh cuộc sống để kiếm tiền, để có của ăn và hưởng thụ cho thân xác sẽ ra hư nát. Ngược lại, các Ki-tô hữu, ngoài thân xác, còn có tinh thần và linh hồn, cho nên phải sống theo Thánh Thần hướng dẫn, và sống theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có tình yêu thương hợp nhất, liên kết trong “Thân Thể Chúa Ki-tô”, và được ăn lương thực tinh thần, được nuôi sống bằng sự chân thật, bằng chân lý của Chúa, để sống công chính, thánh thiện. Vì yêu thương, thánh Phao-lô đã khuyên nhủ mọi tín hữu hãy từ bỏ nếp sống cũ, và trở về với đời sống chân chính theo hình ảnh của Chúa Giê-su.
Trong bài Tin mừng tuần trước, Chúa Giêsu đã hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo người, và sau đó họ muốn tôn Người lên làm vua, nhưng Chúa đã tìm cách trốn lánh đi. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta ngạc nhiên nghe đám đông thách thức Chúa thực hiện một dấu lạ gì để họ có thể tin vào Người. Trước đây, họ tin và muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng bây giờ, họ tỏ ra một thái độ thật khác lạ với Chúa. Thật khó tưởng tượng và hiểu được đám đông dân chúng. Chúng ta nhận thấy họ tìm kiếm Chúa theo ý muốn của họ, chứ không phải theo ý Chúa. Họ theo và tìm đến Chúa vì vật chất, vì thức ăn cho thể xác, và qua cái nhìn của trần thế, vì vậy Chúa đã phải thốt lên “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.” Hay nói một cách khác, họ muốn tìm đến với Chúa để có những bữa ăn miễn phí. Họ muốn tôn Chúa làm vua để giải phóng họ khỏi cảnh xâm lăng, nô lệ của ngoại bang. Nhưng Chúa cố gắng nâng sự suy nghĩ của họ lên cao hơn, để họ có thể nhìn thấy ý nghĩa, giá trị của đời sống tâm linh, vì vậy, Chúa cho họ biết phép lạ nuôi sống họ bằng bánh và cá là chính dấu chỉ Chúa muốn nuôi sống đời sống tâm linh của họ bằng bánh hằng sống, là chính Người, bởi Thiên Chúa từ trời ban xuống cho sự sống vĩnh cửu đời sau của họ. Nhưng Chúa cho chúng ta biết họ đã không nhìn thấy ý nghĩa dấu chỉ Người đã làm, ngoài bữa ăn miễn phí.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cũng không nên quá nặng nề và khó khăn với họ, vì thật ra và nếu chúng ta thành thật, nhiều khi chúng ta đến với Chúa là để có những bữa ăn miễn phí, hay tìm những phép lạ cho cuộc sống hiện tại. Nhiều khi, chúng ta tìm đến Chúa không phải để vững tin vào Chúa hơn, để yêu mến Chúa hơn, để nghe và sống Lời Chúa dạy, và để có một sự liên hệ mật thiết với Chúa.
Hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, Chúa nói “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống.” Chúng ta biết để có thức ăn nuôi thân xác, quần áo mặc, nhà cửa để có chỗ trú thân hay xe cộ là phương tiện di chuyển chúng ta phải làm việc. Thế nhưng, có phải Chúa muốn chúng ta không cần phải làm việc, chỉ ngồi xem TV hay cầu nguyện là có mọi sự miễn phí không? Thưa: Đó không phải ý hay điều Chúa muốn nói. Chúng ta thấy Chúa cũng phải di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác và phải làm việc như dạy dỗ, làm phép lạ, như chúng ta. Ở đây, Chúa muốn dạy chúng ta nhìn xa hơn cuộc sống ở đời này, đến cuộc sống vĩnh cửu đời sau, và tìm kiếm những nhu cầu cần thiết cho linh hồn, là chính Chúa.
Tất cả mọi người chúng ta cần đến những nhu cầu cần thiết cho phần xác, tinh thần và linh hồn. Và chúng ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và rất quảng đại với chúng ta, cho nên, Ngài ban cho chúng ta đời này nhiều ơn lành hồn xác đầy đủ. Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin ngoài cuộc sống đời này, còn có sự sống vĩnh cửu đời sau. Chúa kêu gọi chúng ta đừng quên chú ý và chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, tin vào Chúa và sự quan phòng của Người. Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan, để chúng ta biết phân biệt thức ăn mau hư nát, và thức ăn vĩnh cửu. Chúng ta hãy thật lòng tìm đến Chúa, để Chúa ban cho chúng ta Lời Chúa, là ánh sáng dẫn dắt chúng ta trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế, và ban cho chúng ta Bánh Bởi Trời, là chính Chúa và là Thánh Thể, để chúng ta có sự bình an và sức mạnh, cũng như có can đảm sống Lời Chúa dạy.
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được trường sinh bất tử, kéo dài tuổi thọ TN 18-B131
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được trường sinh bất tử, kéo dài tuổi thọ. Con người dường như luôn bị dằn vặt, trăn trở khi phải đối diện với sự tàn tạ, suy thoái của thân xác. Vì thế, họ tìm kiếm linh dược để kéo dài sự sống của mình. Khao khát này được thể hiện qua việc chăm lo cho khẩu phần ăn mỗi ngày được đầy đủ và nâng cao chất lượng, tìm kiếm các đồ ăn bổ dưỡng để tẩm bổ cho cơ thể mình. Tuy nhiên, những thứ mà người ta cho là bổ, là tăng lực, thì có khi lại là thứ đem bệnh tật đến cho con người và khiến họ mau chết hơn. Người ta thường quên rằng, thân xác con người không thể cưỡng lại quy luật của vật chất. Điều quan trọng không phải là sống thọ hay không thọ, mà là sống như thế nào, sống với mục đích gì, điều đó nó mới làm nên giá trị, chất lượng cuộc sống và làm nên sự bất tử cho con người.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập bằng cánh tay hùng mạnh. Ngài dẫn họ 40 năm rong ruổi trong sa mạc, che chở họ bởi bao phép lạ lẫy lừng. Dầu vậy, họ vẫn không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Họ tỏ ra vô ơn bội bạc, trách móc Thiên Chúa và Môsê : Tại sao ông lại đưa chúng tôi và sa mạc để chúng tôi phải chết đói, chết thèm thế này ? Họ tiếc nuối quá khứ, thèm khát miếng thịt, miếng bánh đến độ muốn quay trở về kiếp sống nô lệ. Thiên Chúa biết rõ sự vô ơn và thay lòng đổi dạ của họ, song Ngài vẫn đáp ứng những điều họ thèm khát. Thiên Chúa hứa sẽ cho họ bánh và thịt không chỉ ăn một hai ngày mà ăn trường kỳ, ăn dư thừa. Để thực hiện lời hứa này, Thiên Chúa đã cho mưa manna xuống, dân chúng mỗi sáng chỉ việc nhặt về xay thành bột, nướng thành bánh để ăn. Ngài cũng cho họ ăn thịt dư thừa như thế trong suốt 40 năm.
Hình ảnh manna từ trời rơi xuống là hình ảnh phép lạ báo trước và phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng là một hình ảnh báo trước một phép lạ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện sau này. Tin Mừng thuật lại : Sau khi được ăn bánh no nê bởi phép lạ, thì dân chúng đã kéo nhau đi tìm Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu biết họ đi tìm Ngài là để có của ăn. Nhưng Chúa Giêsu không muốn dùng của ăn vật chất để thu hút và lôi kéo đám đông. Sứ mạng của Ngài không phải là thực hiện những vấn đề liên quan đến nghèo đói của xã hội, mà Chúa Giêsu dùng phép lạ hóa bánh để đưa dân chúng đến một thực tại cao hơn, xa hơn. Việc giải quyết một bữa ăn cho hơn năm ngàn người chỉ là dịp để Chúa hướng họ đến một thứ lương thực khác, lương thực sẽ giải quyết cái đói của con người trên bình diện tâm hồn hơn là bình diện vật chất.
Theo Chúa không phải để thỏa mãn cho cái bụng, cũng không để tìm kiếm sự giàu sang vật chất. Vì thế, Chúa Giêsu cảnh tỉnh đám đông rằng : Phải ra công làm việc để tìm kiếm lương thực trường tồn, lương thực đem lại phúc trường sinh, đó chính là mục đích quan trọng nhất của cuộc đời con người. Lương thực ở trần gian rồi sẽ vơi cạn, chỉ có thể nuôi sống thể xác, còn lương thực mà Đức Kitô ban tặng là lương thực nuôi sống cả linh hồn và là bảo đảm cho hạnh phúc Nước Trời. Đó là thứ lương thực mà mọi người phải ưu tiên tìm kiếm. Lương thực ấy là chính Thánh Thể, là Mình Máu Chúa Kitô. Những ai tìm kiếm, đón nhận Ngài, hay nói đúng hơn ai ăn Ngài thì sẽ được Ngài thông truyền sự sống trường sinh và được thỏa mãn mọi cơn đói khát trong tâm hồn và thể xác.
Chúng tôi phải làm gì để có được thứ bánh ấy ? Đó là câu hỏi của những người Do Thái khi nghe nói về thứ lương thực đem đến trường sinh bất tử. Chúa Giêsu đã trả lời cách rõ ràng và dứt khoát : Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Tin và đón nhận Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để có thể lãnh nhận được sự trường sinh bất tử. Tin vào Đức Giêsu không chỉ là thuộc lòng một số điểm giáo lý, cũng không phải là một cái tên Kitô hữu bên ngoài, cũng không chỉ là thực hành một số việc đạo đức, mà là phải chấp nhận để cho Ngài chi phối đời sống, sống dưới sự hướng dẫn của Ngài, dám bước vào con đường Ngài chỉ dạy, dám làm bạn với Ngài, làm môn đệ của Ngài.Nói như thánh Phaolô : Tin vào Đức Giêsu là phải chấp nhận sống một con người mới, một suy nghĩ mới, một cuộc đời mới. Đừng ăn ở như người dân ngoại, họ tìm kiếm những của phù phiếm đời này, mà hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và mang lấy một con người mới, con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Thưa cộng đoàn, mỗi người hãy dừng lại để đặt cho mình câu hỏi : Tôi đang tìm kiếm điều gì ? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau. Nhiều người đang lao đi tìm kiếm mà không biết mình tìm gì, không biết mình sống để làm gì. Nhiều người dư thừa của cải vất chất, nhưng vẫn cảm thấy thiếu thốn. Sự bận rộn, thiếu thốn ấy là dấu chỉ cho thấy một sự thiếu thốn sâu thẳm, đó là thiếu bình an, hạnh phúc, nhất là thiếu Chúa trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay cảnh báo các bậc làm cha mẹ đang vất vả tìm kiếm lương thực cơm bánh cho gia đình. Hãy tìm kiếm lương thực đem đến hạnh phúc và sự sống đời đời cho mình và gia đình. Đừng lấy lý do bận rộn để từ chối việc lãnh nhận Bánh Thánh Thể là lương thực bảo đảm cho hạnh phúc đích thực. Đừng để gia đình mình dư thừa cơm bánh vật chất, tiền của, nhưng lại thiếu thốn tình yêu, hạnh phúc, và nhất là thiếu vắng sự hiện diện của Chúa trong gia đình.
Mỗi người cần nhìn lại cuộc sống của mình và của gia đình để can đảm điều chỉnh, cùng nhau mang lấy con người mới, nếp sống mới của Đức Kitô. Hãy cởi bỏ những gian tham, lừa dối, tham lam để biết ưu tiên tìm kiếm Đức Giêsu và lương thực của Ngài. Hãy để cho Ngài chi phối và biến đổi từ trong suy nghĩ, chọn lựa và cách sống của mình. Hãy dọn những bữa ăn Lời Chúa mỗi ngày cho gia đình trong các giờ kinh, giờ cầu nguyện, nhất là hãy cùng nhau đến lãnh nhận Bánh Thánh Thể mỗi ngày. Chúa sẽ đem đến cho gia đình hạnh phúc và sự sống của Chúa.
Lối sống thực dụng, hưởng thụ, tiêu thụ ngày nay đang ảnh hưởng trên các bạn trẻ. Họ cho rằng : Có thực mới vực được đạo. Lý luận này vừa mang tính thực dụng vừa cho thấy sự chọn lựa của giới trẻ ngày nay. Nhiều bạn đang ưu tiên tìm kiếm cho mình nhiều thứ như : việc học hành, thành công, tiền bạc, đẳng cấp, bạn bè hơn là quan tâm đến đời sống đạo và hạnh phúc đời đời. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy biết xếp lại thứ tự ưu tiên của cuộc đời, dám đặt Chúa vào vị trí ưu tiên số một. Hãy để cho Ngài đáp ứng sự khao khát tìm kiếm của mình. Các bạn đừng ngại đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, đừng ngại lãnh nhận Thánh Thể của Ngài cách thường xuyên, vì Ngài không bao giờ làm phiền chúng ta. Trái lại, Ngài sẽ đem đến cho chúng ta hạnh phúc và giúp chúng ta thành công trong những ước nguyện và khao khát chính đáng của chúng ta.
Xin Chúa giúp cho mỗi người luôn biết ưu tiên tìm kiếm lương thực là Lời Chúa và Thánh Thể của Ngài, là lương thực mang lại sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng ta. Amen.
Trẻ trồng na, già trồng chuối, câu tục ngữ ấy nói lên một thực tế : tuổi trẻ hay tuổi già đều có TN 18-B132
Trẻ trồng na, già trồng chuối, câu tục ngữ ấy nói lên một thực tế : tuổi trẻ hay tuổi già đều có cơ hội làm việc, và làm việc còn có tính hệ thống khoa học nữa. Người Việt vốn cần cù chăm chỉ, được đúc kết, được cụ thể hóa qua câu ca dao : có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần cho ta; tằm có lứa, ruộng có mùa, chăm làm trời sẽ đền bù có khi. Những người thành đạt hôm nay, có thể họ đã chịu tác động từ hai yếu tố gia đình và xã hội, tuy nhiên, giá trị của công danh sự nghiệp không thể không nói tới sự tận lực chăm chỉ làm việc của mỗi cá nhân.
Cùng đích mà người đời hướng tới đâu phải là có việc làm ổn định, không phải là đồng lương nhiều hay ít, đúng hơn phải là làm gì để đạt tới hạnh phúc thật. Việc đám đông dân chúng tìm Đức Giêsu xưa kia không hề dễ dàng, khi gặp ở bên kia biển hồ, đám đông ấy lại chẳng xác định được là họ tìm gặp ông Giêsu để làm gì, họ ngớ ngẩn hỏi : “thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Các chuyên gia tâm lý khi phân tích tình trạng một người cất bước đi mà không biết mình đi đâu, hẳn sẽ kết luận, đó là người mắc “tâm bệnh”.
“Hãy ra công làm việc”, một sứ điệp còn vang vọng mãi : không phải chỉ đơn thuần là con người ra công làm việc để có tiền có quyền; nhưng còn là thỏa mãn sự đói khát sâu thẳm trong tâm hồn. Cơn đói khát tâm linh luôn làm cho ta dại khờ trước thế gian, chính vì tác động yêu thương của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng xưa đã biết hỏi : “chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn” ? “Hãy ra công làm việc” cũng là “tín hiệu” nhắc nhớ dù trẻ khỏe hay cao niên già lão, chúng ta vẫn là người có ích cho gia đình xã hội, một khi biết làm việc theo thánh ý Chúa.
Xưa nay gì cũng vậy, con người dễ lầm tưởng tôi no thỏa trong hạnh phúc ở đời này là do công khó của tôi, đúng là nhầm lẫn nên nếu gặp Đức Giêsu, người ta cũng chỉ muốn được xem dấu lạ mà thôi. Nếu suy xét, chúng ta sẽ thấy cơn khát tiền, khát tình, khát công danh địa vị, vẫn làm con người đau khổ, bị tổn thương, vì quên mất tình Chúa đang ở giữa chúng ta, vì tính bất toàn mà ta bị sập bẫy bởi những quyến rũ thế gian.
Người xưa có câu : thất bại là mẹ thành công, gặp Chúa Giêsu rồi mà tâm hồn chưa phấn khởi vui mừng, hãy kiễn nhẫn tìm gặp nữa. Ăn uống no say, thành công rực rỡ, mà tâm hồn vẫn trống rỗng, hãy rút kinh nghiệm : tôi đang ra công tốn sức làm việc vì của ăn nào ? tôi đang túng thiếu, đói khát của ăn vật chất hay tinh thần ? Hàng ngày biết bao điều khó hiểu làm tâm trí ta mệt mỏi, đừng ngại đến gặp Chúa Giêsu, Ngài chính là Thầy dạy, đủ tình yêu thương thỏa lấp những trống vắng, như Ngài đã nói : “việc Thiên Chúa muốn các ông làm là hãy tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Người Do-thái xưa kia lầm tưởng Man-na mà tổ tiên họ ăn chỉ xảy ra trong quá khứ, không còn liên hệ gì tới của ăn trong tương lai nữa. Đám đông đã sai lầm khi nghĩ Đức Giêsu sẽ tiếp tục hóa bánh cho họ được ăn no, hoặc Đức Giêsu sẽ làm một số dấu lạ, để mọi người xem cho vui mắt. Trước đoàn người thiếu định hướng ấy, Đức Giêsu đã cảnh báo họ : “các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến muôn đời…..”. Làm công việc của Thiên Chúa là nhận biết Đức Giêsu là Đấng được ban cho nhân loại, Đức Giêsu chính là Bánh ban sự sống, dấu lạ về Bánh nuôi linh hồn không phải để xem cho vui mắt.
Con người hôm nay có nhiều nét giống đám đông ngày xưa, ngại đủ thứ, nhưng lại thích lung tung. Người nghèo dễ bị hút vào công việc : làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ, với hy vọng thoát cảnh đói khổ vật chất. Người giàu tiền lắm của lại bị “hút hồn” với bao tiện nghi hiện đại, phải chạy đua với những công nghệ mới, để không bị mang tiếng là “hai lúa”. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, mục đích sống bị chi phối, cơn đói khát tâm linh sẽ bủa vây giăng mắc. Do đó, hãy ra công làm việc, và hãy làm việc của Thiên Chúa, lúc nào cũng là điệp khúc cần thiết cho mọi đối tượng.
Ngày hôm nay, người ta biết chủ trương làm giầu cả vật chất lẫn tinh thần, biết sử dụng kỹ năng để có vẻ đẹp nội dung lẫn hình thức; nhưng làm việc của Thiên Chúa, sống yêu thương như Chúa muốn, tin Đức Giêsu là Bánh trường sinh, vẫn là khó khăn ! Người xưa lý luận rằng : đói thì đầu gối phải bò, nếu suy xét, bằng khả năng của mình, chúng ta sẽ vừa bò, vừa chạy cũng chưa chắc đã đủ no, đủ hạnh phúc ! Chăm làm việc để có thành quả tốt, biết lời nói chân thành, sẽ có sức thuyết phục hơn vẫn là ý tưởng số một. Và sẽ là chân lý vẹn toàn khi đến gặp Chúa Giêsu, cậy nhờ Ngài, mọi người sẽ tiến tới cùng đích của hạnh phúc, vì đã biết ra công làm việc của Thiên Chúa, vì sự sống đời đời là có thật như lời Chúa phán truyền. Amen.
Lạy Thầy, Thầy đến bao giờ? Đám đông tìm Chúa, bơ vơ lạc loài. Chúa rằng nhớ bánh đoái hoài, TN 18-B133
Lạy Thầy, Thầy đến bao giờ? Đám đông tìm Chúa, bơ vơ lạc loài. Chúa rằng nhớ bánh đoái hoài, Không vì dấu lạ, bề ngoài xác thân. Khuyên răn tìm kiếm điều cần, Của ăn tồn tại, lương thần Chúa ban. Quí hơn của cải trần gian, Man-na sẽ chết, bánh ban bởi trời. Thần lương là bánh tuyệt vời, Ai ăn sẽ sống, muôn đời phúc ân. Chính Cha ban bánh thiên thần, Từ trời ban xuống, nuôi dân sống đời. Bánh ban sự sống ngàn đời, Chính là thịt máu, nuôi người thế gian. Chúa ban phúc lộc tràn lan, Vững tin vào Chúa, thiên nhan rạng ngời.
Dân chúng thưởng thức thỏa thuê bánh và cá do Chúa tặng ban. Hôm nay họ lại đến với Chúa tìm của ăn nuôi xác. Chúa hiểu ý họ và Chúa đã dẫn họ đi tìm của ăn nuôi hồn. Chúa nhắc lại như xưa trong sa mạc, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng họ bằng Manna và chim cút. Nay Chúa muốn ban cho họ của ăn hằng sống. Chúa Giêsu nói: Chính Ta là bánh sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói.
Chúa Giêsu từ từ mặc khải cho dân khao khát thần lương nuôi hồn hơn là cứ mải mê đi tìm của ăn vật chất hay hư nát. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là dấu chỉ của ăn thiêng liêng mà Chúa cũng sẽ ban dồi dào. Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, đó chính là Thịt và Máu của Chúa.
Khi Chúa nói về bánh ban sự sống là chính Thịt Máu Chúa, nhiều người chưa thể lãnh hội được ý nghĩa. Ngay cả một số môn đệ cũng không thể chấp nhận, một số muốn bỏ đi và phát biểu rằng lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúng ta không thể hiểu được, nếu không có tình yêu.
Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể như thần lương vĩnh cửu. Bánh được trao ban dưới hình bánh và rượu. Qua lời truyền phép bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúa đã dùng công thức rất đơn giản để biến đổi bản thể của bánh rượu. Đây chính là mầu nhiệm đứuc tin. Đây là món qùa vô giá Chúa đã để lại cho Giáo Hội. Gia sản của Giáo Hội chính là Chúa Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Chúa ngự trong Thánh Thể. Chúng ta tin Chúa ẩn thân nơi tấm bánh nhỏ. Mỗi lần chúng ta rước Chúa vào lòng là mỗi lần chúng ta được dưỡng nuôi bằng bánh trường sinh. Những người không có niềm tin thì không thể hiểu được ý nghĩa của sự hiến tế và Bí Tích Thánh Thể. Đây chính là Bí Tích tình yêu. Thử hỏi có ai táo bạo đến nỗi lấy thịt máu mình nuôi dưỡng người khác.
Chúa Giêsu đã hiến tế mình trên thập giá làm của lễ và dùng cách thế tuyệt hảo nhất để ở lại với chúng ta qua Thánh Thể. Đây chính là nguồn yêu thương chan chứa của sự dâng hiến. Chúa hiến dâng chính mình làm của ăn đưa dẫn chúng ta tới nguồn sống bất diệt. Chúa mời gọi chúng ta tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh. Chúa sẽ ban dư tràn của ăn nuôi hồn.
Vì sự sống, chúng ta luôn cố gắng suy nghĩ đi tìm cho mình một chức vị nào đó trong xã hội TN 18-B134
Vì sự sống, chúng ta luôn cố gắng suy nghĩ đi tìm cho mình một chức vị nào đó trong xã hội hay đi tìm một thứ gì đó để được sống lâu hơn. Chúng ta thường chúc ông bà “sống lâu trăm tuổi”, đó cũng là ước mong của tất cả mọi người.
Mong ước vẫn là mong ước. Điều gì đến vẫn cứ đến. Không ai không phải đi qua cái chết. Vì quê hương chúng ta không phải nơi trần gian mà chính ở quê trời. Vậy làm sao chúng ta được hưởng sự sống ở Nước Trời. Xưa kia, Chúa Giê-su đã nói với dân chúng khi họ theo Ngài rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn no nê.”(Ga 6,26). Về phương diện cuộc sống, có ăn mới sống được. Nên sau khi chứng kiến Chúa Giê-su làm phép lạ cho họ ăn no nê và còn dư, khiến họ không ngần ngại đi theo Ngài. Họ mới biết đến sự sống nơi thân xác mà thôi hay họ chưa biết hoặc không rõ về sự sống trường sinh trong tâm hồn. Bởi đó khi nghe những lời Chúa Giê-su nói, họ tò mò, muốn được có lương thực ấy nên đã hỏi Chúa Giê-su: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.” . Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”(Ga 6, 28-29). Tin là điều kiện để làm mọi việc Thiên Chúa muốn. Có tin thì họ mới dốc hết sức lực, tình yêu vào việc họ làm. Họ phải tin những gì? Họ cần phải tin Người đang nói chuyện với họ là Đấng Thiên Chúa sai đến; chính Người là bánh Trường Sinh. Nhưng liệu họ có muốn ăn bánh trường sinh khi Chúa Giê-su nói: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh.”. Đó là một thử thách mà họ cần có lòng khao khát, tin tưởng vào Thiên Chúa và tin có sự sống trường sinh.
Có bộ phim mà các trẻ em rất thích xem, đó là phim “Tôn Ngộ Không”. Bộ phim nói về Đường Tăng đi lấy Kinh. Ông đã gặp rất nhiều khó khăn trên đường cùng muôn vàn yêu quái và yêu tinh. Họ tin là chỉ cần ăn thịt Đường Tăng sẽ được sống muôn đời. Nên họ không ngừng dùng mọi thử đoạn để bắt ông. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta vẫn đi tìm một cái gì đó để duy trì sự sống. Sự sống ấy chỉ nơi thân xác. Ít mấy ai đi tìm sự sống cho linh hồn, sự sống vĩnh cửu. Vì chúng ta yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào sự sống thân xác hơn như vui chơi, hưởng thụ,…
Nhưng rồi thân xác chúng ta cũng đi vào dĩ vãng, còn linh hồn đi đâu? Với Đức tin, linh hồn chúng ta sẽ vào Nước Trời. Vậy làm gì để sau khi chết linh hồn được vào sự sống Nước Trời? Chúa Giê-su đã trả lời dân chúng rằng: “Ta là Bánh Trường Sinh”. Đó cũng là câu trả lời cho chúng ta ngày hôm nay. Để cho chúng ta được hưởng sự sống ấy. Chúa Giê-su đã truyền cho các Tông Đồ và được Giáo Hội không ngừng thực hiện mỗi ngày trong Thánh Lễ. Mỗi chúng ta đang được mời gọi “hãy đến mà ăn”. Đó là lương thực sẽ nuôi nấng, gìn giữ linh hồn chúng ta mỗi ngày. Để khi Chúa đến, chúng ta được phúc về Nước Trời cùng với Ngài.
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một xã hội đầy vẻ đẹp và nhiều điều mới lạ. Chúng con đang bị cuốn hút vào đó, khiến chúng con không thấy giá trị khi tham dự Thánh Lễ, đặc biệt là khi rước Mình Máu Ngài. Xin Chúa hãy đánh thức và đưa chúng con về bên Chúa. Vì chỉ có Chúa mới giải thoát được chúng con. Amen.
Ngày 31/7/1997, trên trang nhất của hai tờ báo lớn ở Chicago, Chicago Tribune và Sun Times, đăng TN 18-B135
Ngày 31/7/1997, trên trang nhất của hai tờ báo lớn ở Chicago, Chicago Tribune và Sun Times, đăng tin, hình ảnh, và cuộc đời của bà cụ Gladys Holm. Bà qua đời vào tháng 6/1996, thọ 86 tuổi, đã để lại một di chúc trao tặng 18 triệu đô la cho bệnh viện Nhi Đồng Children’s Memorial. Với cuộc sống giản dị, tấm lòng yêu thương các em nhi đồng, và quan trọng hơn hết là viễn tượng hướng về tương lai nhân loại của bà cụ là bài học quý giá cho hậu thế.
Bà sống rất bình dân trong một căn nhà nhỏ, chỉ có 2 phòng ngủ ở Evanston, một thị xã nhỏ phía bắc Chicago. Hàng xóm láng giềng không ai biết rằng họ đang sống với một bà cụ triệu phú. Bà thích ở nhà có hàng xóm láng giềng để cảm thấy gần gũi, ấm cúng như đang ở trong gia đình hơn là cư ngụ ở những biệt thự sang trọng, giàu có dọc theo bờ hồ Michigan với cuộc sống trưởng giả dành cho các triệu phú. Khi còn trẻ bà làm việc cho công ty cung cấp dụng cụ y khoa của Mỹ, “The American Hospital Supply Corp.” Tất cả số tiền bà kiếm được trong 42 năm làm việc đã được đầu tư vào thị trường chứng khoán (stock). Với sự phát triển mau chóng, công ty đã trở thành một trong những hãng sản xuất những sản phẩm về sức khoẻ và y dược lớn nhất thế giới.
Bà là người con duy nhất trong gia đình, lúc qua đời, tất cả thân nhân họ hàng không ai còn sống cả! Tuy cuộc sống có vẻ đơn độc bà không cảm thấy cô đơn chút nào, vì trái tim luôn chứa đầy tình thương mến dành cho các trẻ em ở bệnh viện Nhi Đồng Children’s Memorial. Khi về già, với chứng bệnh phong thấp, bà phải di chuyển bằng xe lăn, nhưng bà vẫn thường xuyên có mặt ở bệnh viện để thăm viếng, phát quà, và đồ chơi cho các em, ngay cả cho các em tới thăm viếng người bệnh, vì bà không muốn một em nào bị bỏ rơi. Trong nhà bà luôn luôn có sẵn khoảng từ 200 tới 300 con gấu Teddy để phát cho các em. Năm 1991, bà bác sĩ Constantine Mavroudis, trưởng khoa phẫu thuật về tim của bệnh viện Nhi Đồng, cùng với luật sư và bạn bè đã đến thăm bà tại tư thất, đã kể lại câu chuyện như sau:
Bà bác sĩ đã trao tặng bà cụ ít sách và phim ảnh tài liệu liên quan đến việc giải phẫu tim cho các em. Hôm đó, tại phòng khách, bà vừa rót nước mời khách, vừa hỏi bác sĩ: “Bà có cần gì không?” “Có, tôi đang cần 50 ngàn đô la, để tài trợ cho chương trình nghiên cứu giải phẫu tim cho các em,” bác sĩ trả lời. “Được! Bà sẽ có ngay! Nếu cần thêm nữa thì cho tôi biết!” Bà cụ hứa hẹn.
Bà đã đóng góp 18 triệu đô la vào để nghiên cứu về vai trò của gen, thay thế các bộ phận trong cơ thể con người, và săn sóc các trẻ em sơ sinh bị nhiễm bệnh AIDS. Bà Gladys Holm đã sử dụng tất cả những gì bà có, không những tiền bạc, mà còn chính tình yêu và sự sống của bà để bảo vệ và xây dựng nguồn mạch sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Bà đã dùng của cải trần gian để đi tìm gia tài không thể hư hoại trên trời (1Pr 1: 4-5).
Bài Phúc Âm hôm nay, Ga 6:24-35, nối tiếp câu chuyện Chúa Giêsu nuôi một đám đông 5000 người ngày hôm trước. Sau việc Chúa hóa bánh ra nhiều, dân chúng được ăn uống no nê và muốn phong Chúa Giêsu làm vua, nên Ngài phải tránh họ đi nơi khác. Họ bèn đi tìm kiếm Ngài. Chúa nhìn thấy động lực thúc đẩy quần chúng tìm kiếm Ngài vì “đã được ăn bánh no nê”, vì được thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tạm bợ ở đời, nên Ngài đã dạy họ: “Đừng làm việc vì lương thực mau hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6:27). Chúa Giêsu đã có một viễn tượng khác với cái nhìn thiển cận của con người.
Trong bộ Barclay’s Daily Study Series, William Barclay đã chú giải như sau: “Con người, như Chrysostom đã nói, bị đóng đinh vào những sự vật của đời sống này. Ở đây, những con mắt của người ta chưa bao giờ được cất nhắc ra khỏi các thành vách của thế giới này để tới những sự đời đời ở bên kia.” Xưa kia, Napoleon và một người bạn đang nói chuyện với nhau về cuộc đời. Bên ngoài trời tối thui, họ đi bộ đến bên cửa sổ và nhìn ra bên ngoài. Trông bầu trời ở rất xa, có những vì sao nhỏ li ti. Napoleon rất sáng mắt, trong khi người bạn lại cận thị. Napoleon chỉ tay lên bầu trời và hỏi: “Anh có nhìn thấy những ngôi sao này không?” Người bạn lắc đầu: “Không! Tôi không thấy chúng.” Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.” Con người bị cột vào quả đất đang sống với một nửa đời. Con người với một viễn tượng, trông vào chân trời và nhìn thấy những ngôi sao, mới thực sự là đang sống.
Chúa Giêsu đề cập đến sự đói khát đời sống tinh thần của con người mà chỉ một mình Ngài mới làm thỏa mãn được khát vọng này. Đôi khi đó là sự đói khát chân lý mà con người chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu Kitô: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Là sự sống vĩnh cửu mà Ngài đã hứa ban: “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và sống một cách dồi dào” (Ga 10:10). Có khi là chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta: “Không ai có tình yêu thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
Thomas Long kể về cuộc đời của một thầy Rabbi đã chết tại Anh Quốc. Khi còn bé, cậu và gia đình bị bắt giam trong trại tù của Nazi, Đức Quốc Xã, chờ ngày hành quyết. Trong trại những tù nhân chỉ được phân phát đủ lương thực để sống qua ngày – một ít hạt ngũ cốc, một chút bánh thiu, một ít mỡ lợn mỗi tuần. Mặc dù ở trong hoàn cảnh khó khăn, gia đình của cậu bé vẫn giữ luật của ngày Sabát. Họ vẫn tìm cách biến chế, làm nên một cây đèn cầy và một ít lương thực mỗi tuần. Rồi họ đọc lời kinh nguyện và công bố phúc lành của ngày Sabát. Tuy nhiên, vào một tuần nọ, họ không còn đèn cầy nữa. Bóng đêm đã đến, sắp bước sang ngày Sabát, cha của cậu bé đã lấy một ít mỡ heo quý giá và đổ xung quanh một sợi giây. Ánh sáng đã được đốt lên thay cho đèn cầy, và ông bắt đầu hướng dẫn gia đình cầu nguyện và xin ơn chúc lành của ngày Sabát. Thấy vậy, cậu bé nổi cơn giận dữ. Khi những lời cầu nguyện chấm dứt, cậu bèn chất vấn cha mình rằng: “Tại sao cha lại làm như vậy? Tại sao lại phí phạm mỡ heo để làm đèn cầy trong khi chúng ta chỉ còn một chút lương thực duy nhất?” Cha cậu từ tốn trả lời: “Hỡi con, không có lương thực chúng ta vẫn còn có thể sống sót được vài ngày. Nhưng không có hy vọng, chúng ta sẽ không thể nào sống được thêm một giờ.”
Sách Giáo Lý Công Giáo số 2835 đề cập đến những sự đói khát của con người như sau: Các Kitô hữu phải tận lực lo “loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”. Có nạn đói trên mặt đất này, “không phải đói cơm bánh và khát nước, nhưng là đói khát nghe Lời Thiên Chúa” (Am 8:11). Bởi vậy ý nghĩa đặc biệt Kitô giáo của lời cầu xin ban lương thực hằng ngày liên quan đến Bánh của Sự Sống, đó là Lời Chúa ta đón nhận trong niềm tin, và Mình Thánh Chúa Kitô ta lãnh nhận trong Thánh Lễ.
Trong bài Phúc Âm, người Do Thái cũng hỏi Chúa Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Chúa Giêsu đã trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). “Tin vào Đấng Người đã sai đến” có nghĩa là nhận ra rằng chúng ta thuộc về Ngài, và Ngài là cha của chúng ta. Đó là đáp trả lại tình yêu của Ngài bằng chính tình yêu sâu xa của chúng ta dành cho Ngài (GLCG # 26). Tin có nghĩa “là sự gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa” (GLCG #150).
Thiên Chúa là tình yêu. Do đó, trong đời sống chúng ta phải yêu thương, phục vụ và tha thứ cho tha nhân để đáp lại tình yêu và tha thứ của Thiên Chúa đối với ta. Thiên Chúa là sự thánh thiện. Do đó chúng ta phải trở nên thánh, công chính, đạo đức như lời Chúa Giêsu đã nói: “Hãy trở nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Thiên Chúa là sự khôn ngoan. Do đó, trong cuộc sống chúng ta phải luôn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa và hoàn toàn phó thác trong sự khôn ngoan nhiệm mầu của Người đã quan phòng cho chúng ta.
Ngày xưa, có hai người ăn xin hằng ngày vẫn đến xin bánh tại cổng triều đình của vua. Mỗi ngày vua cho họ một ổ bánh mì. Người ăn xin thứ nhất lấy lòng vua bằng cách luôn cám ơn lòng quảng đại của vua. Còn người ăn xin thứ hai luôn cám ơn Thiên Chúa đã ban cho vua sự giàu có để làm việc bác ái. Những lời cám ơn của người thứ hai làm nhà vua đau lòng. Do đó, vua quyết định dạy cho ông ta một bài học. Vua ra lệnh nướng hai cái bánh y hệt như nhau, nhưng trong một cái bánh có giấu những hạt kim cương quý giá bên trong. Rồi vua bảo người làm bánh cho người ăn xin thứ nhất ổ bánh có giấu những viên kim cương đó.
Ngày hôm sau, người làm bánh ra cổng và trao cho hai người ăn xin hai ổ bánh. Ông hết sức chú tâm để tránh khỏi lầm lẫn vì sợ vua giận dữ nếu có sai lầm xẩy ra. Khi người ăn xin thứ nhất nhận ổ bánh nặng nề, ông ta kết luận ngay rằng ổ bánh này nướng chưa được chín, bên trong bột còn sống nên cầm rất nặng tay, và năn nỉ người ăn xin thứ hai đổi cho ông ta. Người ăn xin thứ hai rất tốt bụng, lúc nào cũng muốn giúp đỡ bạn nên đồng ý đổi. Thế rồi họ chia tay nhau ra về. Khi người ăn xin thứ hai khám phá thấy bên trong ổ bánh những hạt kim cương quý giá. Ông tạ ơn Thiên Chúa vì phúc lộc của Ngài đã ban cho, đồng thời cũng biết ơn Ngài vì từ nay trở đi ông không phải đi xin bánh ăn nữa.
Sáng hôm sau nhà vua rất đỗi ngạc nhiên khi thấy chỉ có người ăn xin thứ nhất xin bánh ở cổng triều đình. Vua truyền lệnh gọi người nướng bánh đến và hỏi: “Ngươi có làm gì lầm lẫn ở hai ổ bánh mà ta đã ra lệnh cho ngươi không?” “Tâu Hoàng Thượng,” người nướng bánh trả lời, “Hạ thần đã làm đúng như lệnh truyền của Hoàng Thượng.” Rồi nhà vua quay sang người ăn xin và hỏi: “Nhà ngươi đã làm gì với ổ bánh ta cho ngươi ngày hôm qua?” Người ăn xin thứ nhất trả lời: “Nó nặng quá, nên con nghĩ rằng bánh nướng chưa được chín. Do đó con đã đổi nó cho người bạn ăn xin của con để lấy cái bánh của anh ta!”
Sau đó nhà vua đã hiểu rằng tất cả của cải mình có thực sự đều đến từ Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho một người nghèo khó trở nên giàu có và một người đang giàu có hóa ra nghèo nàn. Dù là vua chăng nữa cũng không thể nào thay đổi được ý Trời!
Sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa chỉ qua Đức Giêsu Kitô. Ngài đã hứa giúp chúng ta: “Chính Ta là bánh hằng sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6:35). Ngài đã ban cho chúng ta sự sống Ngài dưới hình thức của bánh từ trời. Dĩ nhiên bánh từ trời này là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa Giêsu chúng ta đón nhận. Chính sự sống này sẽ mang lại cho chúng ta sự can đảm và sức mạnh, niềm tin cậy mến, và ân sủng để trung kiên cho đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất và bắt đầu sự sống đời đời trên thiên quốc.
Hiện nay, Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước trên thế giới đã chú ý tới những loại thực phẩm sạch, mà TN 18-B136
Hiện nay, Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước trên thế giới đã chú ý tới những loại thực phẩm sạch, mà người ta gọi là Organic food. Đây là loại thực phẩm không dùng chất hóa học. Có những loại rau organic, trứng organic, thậm chí cả đường cũng organic. Thế rồi có những tiệm ăn chỉ phục vụ thực phẩm Organic.
Ngay tại Việt Nam, bên cạnh những thực phẩm chết người, nhập từ Trung Quốc, cũng thấy có những thực phẩm Organic như rau sạch. Nhà vườn quảng cáo loại rau sạch này được cấy ở trong những nhà kiếng, không có bụi bậm, không dùng phân hoá học, ăn không bị đau bụng. Nếu có đau thì người ta bảo là vì bạn ăn thịt thà, cá mú toàn là những thứ được nuôi bằng cám, trộn chất hoá học, hay bị ô nhiễm môi trường.
Ngày nay, thiên hạ cố đi tìm cho được những thực phẩm sạch để bảo toàn sức khoẻ.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc người Do Thái đi tìm Chúa, tìm thức ăn đặc biệt qua phép lạ Chúa Giêsu làm từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Sau bữa tiệc này, dân chúng vẫn còn sôi nổi, đi kiếm tìm người đã ban cho họ của ăn đó. Chúa Kitô nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”.Và có lẽ đúng như vậy, vì người ta hy vọng sẽ được ăn những bữa ăn tương tự.
Thực phẩm là nỗi lo âu của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là mối lo của hằng tỉ người trên thế giới hiện đang sống trong những tình cảnh khó khăn. Có những thống kê, ước tính hằng nhiều triệu người trên thế giới đi ngủ đêm mà bụng bị đói.
Đức Kitô không chê trách họ vì chuyện ăn uống này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ có thân xác, mà còn có hồn thiêng. Ngài căn dặn họ hãy “tìm những thực phẩm không hư nát, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.”
Khi nói với dân chúng tìm những của ăn không hư nát, Chúa Kitô muốn nói lên rằng đời sống con người không chỉ lẩn quẩn trong thế giới vật chất, như của ăn, của uống, như ngủ nghỉ, vui chơi. Vì nếu chỉ có thế thì con người không khác chi một con vật, chúng cũng có bản năng tìm kiếm những thứ đó. Đời sống con người phải được nâng lên đến với Chúa, Đấng luôn chia sẻ những gì là tốt đẹp cho con người. Tuần trước Ngài làm phép lạ cho bánh hoá nhiều cho dân chúng ăn no nê. Tuần này, Ngài ban cho họ bánh bởi trời là bánh đích thực, không như Man-na từ trời rơi xuống để dân chúng phải đi lượm hằng ngày.
Đón nhận của ăn từ môi miệng Chúa Kitô mệnh danh là: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”, cũng đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta có cho tha nhân.
Chia sẻ đó là điều chúng ta luôn được kêu mời thực hành trong đời sống. Cậu bé trong bài Tin Mừng tuần trước cũng đã biết chia sẻ những gì mình có cho Chúa, để Chúa làm nên phép lạ. Sự chia sẻ đầu tiên đó, cuốn theo cả một dây chuyền chia sẻ. Các tông đồ đón nhận sự chia sẻ của em bé, lại mang lại cho Chúa. Rồi sự chia sẻ tiếp tục, khi Chúa Kitô, sau khi đọc lời tạ ơn, lại chia sẻ cho các môn đệ, và các môn đệ lại chia sẻ cho dân chúng. Nhưng làm sao các tông đồ, với 12 vị có thể chia sẻ cho mấy ngàn người, nếu không có sự tiếp tay của dân chúng, người này chuyền tới người khác, người khác chuyền tới người kia. Và kết cục, là nhờ sự chia sẻ, mọi người được ăn no nê.
Nhưng sự chia sẻ đó chưa hết. Chúa Kitô kêu mời các Tông Đồ thu lại những mảnh bánh vụn còn lại. Một lần nữa, mọi người lại chia sẻ phần dư thừa của mình cho các tông đồ, và kết quả là được 12 thúng bánh vụn còn lại.
Mỗi ngày Chúa Nhật, tham dự Thánh Lễ, Chúng ta được đón nhận Mình Máu Thánh Chúa vào trong tâm hồn. Chúng ta được đón nhận ơn phúc bình an của Chúa hứa mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Lời linh mục đọc sau kinh Lạy Cha: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban sự bình an của Thầy cho các con” và lời chúc bình an vào lúc kết Lễ, phải là lời phấn khích chúng ta hãy chia sẻ sự bình an của mình cho tha nhân. Đây chính là lời mời gọi nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống.
Thực tế, cuộc sống thường nhật của chúng ta, cũng như tha nhân có biết bao nhiêu là những khó khăn, thử thách, chúng ta hãy chia sẻ những gì mình có để nâng đỡ tha nhân, như hy sinh thời giờ, sức lực, tài năng, của cải vật chất để giúp đỡ tha nhân. Vì chính Mình Thánh Chúa Kitô cũng đã phải bẻ ra để phân phát cho mọi người tham dự. Sự chia sẻ này sẽ làm cho chúng ta được giầu có hơn, làm cho trái tim chúng ta được mở rộng, và làm cho cuộc sống chúng ta được giầu có thêm lên.
Xin Đức Mẹ, sau khi mang thai Chúa Kitô, đã mau mắn quảng đại chia sẻ Chúa Kitô cho tha nhân, cho gia đình Giacaria, cho các mục đồng, cho ba vua, và cho nhân loại khi đứng dưới chân thập giá, giúp chúng ta cũng biết chia sẻ đời sống mình cho tha nhân như vậy.
Chủ đề Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bánh. Dân Do Thái 40 năm lưu lạc trong sa mạc đã được TN 18-B137
Chủ đề Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bánh. Dân Do Thái 40 năm lưu lạc trong sa mạc đã được Thiên Chúa nuôi sống bằng bánh Manna. Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn quan tâm tới những nhu cầu của con người: ban bánh, ban thịt cho dân Do Thái (Bài đọc 1). Đức Chúa phán với Môsê: “Này, Ta sẽ làm bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn… vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt”.
Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn trong hoang địa khi họ đói bụng. Từ bánh nuôi phần xác, Đức Giêsu hướng dân chúng về một của ăn thiêng, đó là bánh thiêng, bánh hằng sống nuôi hồn, tức là Thánh Thể của Ngài.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã phân biệt bánh Manna với bánh hằng sống:
– Manna do Thiên Chúa ban qua trung gian Môsê, không phải là bánh đích thực từ trời ban xuống.
– Bánh hằng sống là bánh của Thiên Chúa “Từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”.
– Bánh hằng sống ban sự sống cho thế gian, sự sống đời đời không như Manna ăn rồi lại đói, rồi cũng phải chết. Còn bánh của Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho mọi người “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
– Chính Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ngài tự hiến trong Thánh Thể mới có khả năng thỏa mãn mọi khát vọng của những người tìm đến và tin vào Ngài. Đức Giêsu đã khẳng định:
“Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói. Ai tin vào Tôi , chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35).
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu và các tông đồ trở về Capharnaum. Dân chúng đi tìm Chúa Giêsu không phải vì tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, nhưng là vì được ăn bánh no nê và trong thâm tâm họ muốn Đức Giêsu làm vua để nhờ Người mà được hạnh phúc ở đời này. Họ không tin Người, nhưng vì bánh Người ban cho: vụ lợi! Chính Chúa Giêsu đã nói: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi được ăn bánh no nê”. Người khuyên họ nên tìm kiếm của ăn tồn tại không hư nát mà Người sắn sàng ban cho họ và cho những ai tin vào Người. Đó là bánh ban sự sống, là chính Đức Giêsu.
Điều kiện để được bánh của Thiên Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô, là đến với Ngài. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm thỏa mãn khát vọng cho những ai tin vào Người: “Ai đến với Ta, sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. Từ bánh nuôi thể xác, Đức Giêsu hướng chúng ta đến của ăn nuôi sống linh hồn là chính Đức Giêsu. Điều này sẽ được thực hiên khi Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong ngày thứ năm Tuần Thánh.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta nhận ra giá trị và ý nghĩa khác nhau về bánh, của ăn phần xác và của ăn phần hồn để chúng ta biết ra công làm việc, vì của ăn phần hồn hơn của ăn phần xác. Điều này đòi hỏi người tín hữu tin vào Chúa, yêu mến Chúa và đến với Ngài.
Người Do Thái xưa cũng như người thời đại hôm nay, họ mải mê với công việc trần gian, tìm kiếm của ăn vất chất, hưởng thụ mà quên đi những của ăn tinh thần, của ăn đem lại sự sống đời đời. Họ đến với Chúa vì được ăn no nê, vì vụ lợi. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “ra công làm việc” để có sự sống đời đời, và làm công việc của Thiên Chúa: “Tin vào Đức Giêsu” nghĩa là đi theo, tin nhận và sống như Người. Cũng vậy, để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa… mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện”.
Trong xã hội hôm nay, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng, đầy tội ác, trụy lạc, hưởng thụ, tục hóa. Con người hôm nay không quan tâm tới đời sống đạo đức, chỉ lo kiếm được nhiều tiền bằng bất cứ phương tiện nào. Người Kitô hữu phải nêu gương đời sống lương thiện, công chính, loại bỏ những gì là bất chính, tội lỗi hầu phục hồi nền đạo đức cho thế hệ hôm nay. Đó là sứ mạng của chúng ta.
Báo cáo về Tình trạng An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới được thực hiện tháng 7-2020 TN 18-B138
Báo cáo về Tình trạng An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới được thực hiện tháng 7-2020, ước tính có khoảng 690 triệu người rơi vào tình trạng thiếu ăn trong năm 2019 – tăng thêm 10 triệu người so với năm 2018 và thêm gần 60 triệu người trong vòng 5 năm. Với đại dịch Covid-19, tình hình thiếu đói lương thực còn nghiêm trọng hơn, nhất là ở những quốc gia châu Phi và châu Á. Lương thực là một trong những nỗi lo căn bản của con người. Nó cũng là nguyên nhân gây xung đột ở nhiều cấp độ: thế giới, quốc gia, vùng miền và cá nhân.
Cùng với nạn đói lương thực, con người cũng đang trải qua những nạn đói khác. Đó là đói khát Chân lý và Tình thương. Con người hiện hữu trên trần gian luôn mong muốn tìm về cội nguồn của mình. Con người cũng luôn mong muốn được yêu thương. Những nhu cầu về bánh ăn, mặc dù rất cần thiết để tồn tại, không làm cho con người thoả mãn trọn vẹn. Cùng với nhu cầu về cơm bánh, con người còn có như cầu tìm về Chân Lý. Đức Giêsu đến trần gian để khẳng định với chúng ta: điều mà nhân loại đang tìm kiếm, đó là Chúa Cha, là Thượng Đế, là Ông Trời, là Tạo Hoá. Chính bản thân Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người dẫn chúng ta đến gặp Chúa Cha, là Cha chung của gia đình nhân loại và là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Được gặp gỡ Chúa, con người sẽ thoả mãn những ước vọng thâm sâu của mình.
Tác giả sách Xuất hành kể lại một sự kiện trong hành trình sa mạc của người Do Thái để về Đất Hứa. Trước những nhu cầu cấp thiết của họ, Thiên Chúa đã làm mưa manna và cho chim cút bay đến, làm lương thực và thực phẩm cho dân. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa và tình yêu thương của Ngài, trong bốn mươi năm hành trình sa mạc, dân Do Thái không cày cấy, không canh tác và trồng tỉa mà vẫn có đủ lương thực và thực phẩm để nuôi sống phần xác. Qua đó, Chúa thể hiện lòng trung tín với dân mà Ngài đã dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Nếu Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng và tình thương của Ngài trong lịch sử qua hành động cung cấp manna và chim cút, thì nay, Ngài lại tiếp tục thực hiện những điều lạ lùng qua Chúa Giêsu Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, có liên quan đến đề tài Bánh. Sau khi Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, những người Do Thái chỉ nhìn phép lạ ấy với cái nhìn trần tục, họ mong nhận được bánh mỗi ngày để khỏi phải lao động. Chúa Giêsu muốn nói với họ về Bánh Trường Sinh mà Người ban tặng cho thế gian. Bánh ấy không đơn thuần là vật chất, mà là chính Thịt và Máu Người. Bánh này là lương thực thiêng liêng để nuôi sống con người, biến đổi làm cho họ được trở nên thần linh. Nhờ ăn bánh này mà con người được chia sẻ sự sống của Đấng Tối cao. Khi nhắc lại sự kiện manna trong Cựu Ước, Chúa Giêsu nối kết quá khứ với hiện tại, như hành động có tính liên tục của Thiên Chúa, mặc dù ở bình diện và cấp độ khác. Thiên Chúa, Đấng đã nuôi dưỡng tổ tiên người Do Thái trong sa mạc bằng manna, giờ đây tiếp nối hành động yêu thương ấy qua chính Con Một của Ngài. Thiên Chúa, Đấng ban manna thời ông Môisen và Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu là một. Cuộc tranh luận với người Do Thái trong Tin Mừng Thánh Gioan (chương 6) cũng là mạc khải từng bước giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. “Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Đây vừa là lời khích lệ, vừa là lời hứa cho những ai thành tâm đón nhận lương thực thiêng liêng trong đức tin chân thành và tâm tình yêu mến.
Con người hôm nay không chỉ đói lương thực, nhưng còn đói khát kiến thức, văn hóa, và nhất là đói khát tình thương. Điều nghịch lý là trong khi của cải càng ngày càng phong phú, kỹ nghệ máy móc càng ngày càng tinh vi, thì tình người càng ngày càng nghèo đi. Sự nghèo về tình người dẫn đến nghèo về cơm bánh, vì khi người ta sống ích kỷ thì không có sự chia sẻ giúp đỡ nhau. Giáo Hội luôn kêu mời và cổ võ những hoạt động thiết thực nhằm giải phóng con người khỏi đói nghèo, dốt nát và hận thù. Sống màu nhiệm Thánh Thể cách đích thực là cảm thông chia sẻ với người nghèo đói, để họ được sống theo đúng phẩm giá con người và phẩm giá của con Thiên Chúa. Qua Giáo Hội và qua mỗi Kitô hữu, Thiên Chúa vẫn đang đến cứu giúp những người nghèo khó bất hạnh, để nâng đỡ họ và giúp họ vững bước trong đường đời.
Như dân Do Thái xưa trong hành trình sa mạc, chúng ta đang sống trong cuộc lữ hành trần gian. Cuộc sống đan xen những vui buồn, và đầy những gian nan trắc trở. Giữa những buồn vui trắc trở ấy, chúng ta cần được Chúa dưỡng nuôi thêm sức. Bánh trường sinh mà Chúa Giêsu đã hứa, chính là bản thân Người, tự hiến để nên của ăn của uống thiêng liêng cho chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, một khi lãnh nhận của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Chúa, cuộc đời của chúng ta phải được biến đổi: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. Con người mới mà Thánh Phaolô nói tới, chính là con người được thần linh hóa nhờ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, nhờ vậy, chúng ta nên một với Người và hình ảnh của Người tỏa sáng nơi cuộc đời chúng ta.
Mỗi khi dâng thánh lễ và rước Thánh Thể, chúng ta được đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu. Thịt Máu Chúa trở nên máu thịt của chúng ta để nuôi dưỡng và biến đổi chúng ta nên giống như Người. Đó là tác động kỳ diệu của Thánh Thể nơi cuộc đời người tín hữu. Đây là Bí tích của Đức tin. Chỉ có Đức tin mới giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện nhiệm màu. Vâng, Đức Giêsu hiện diện trong Thánh Thể để ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, như lời Người đã hứa.
Như trên đã nói, số người nghèo đói trên thế giới hiện nay có nguy cơ tăng thêm. Tuy vậy, một trong những nguyên nhân dẫn tới sự nghèo đói là do phân phối tài sản không đồng đều. Nếu con người bớt ích kỷ, nếu người giàu biết chia sẻ cho người nghèo, nếu những quốc gia phát triển văn minh biết quan tâm đến các dân tộc còn lạc hậu và nghèo nàn, thì nạn đói sẽ bị xoá sạch và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nói đến chuyện thế giới thì xa xôi, mỗi chúng ta, hôm nay và ở địa vị cụ thể mình đang sống, hãy làm một điều gì có thể để nâng đỡ những người nghèo khó xung quanh, đang có nhu cầu cấp thiết trong đời sống. Trong thời gian dịch Covid-19, chúng ta được chứng kiến tấm lòng quảng đại của người dân Việt: những bữa cơm miễn phí, những dịch vụ “không đồng” là những chia sẻ tuyệt vời, bất kể nhân danh tôn giáo nào, cũng là những hành động nhân văn đầy tình người. Đối với người tín hữu, những nghĩa cử bác ái với tha nhân là những chứng từ sống động cho thấy chúng ta là con cái của Cha trên trời. Chúng ta hãy cầu nguyện với Thánh Augustinô:
Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là Tình Yêu tràn đầy và là sự ý thức chắc chắn của con. Với Lời của Chúa, Chúa đã gặp gỡ trái tim con và con trở thành người yêu của Chúa. Nhưng cũng như bầu trời, trái đất và tất cả những gì chất đầy nơi chúng, tất cả đều nói với con rằng, con cần phải yêu mến Chúa.
Ít lâu, sau khi được ăn bánh và cá no nê trong hoang mạc, dân chúng đi tìm Đức Giêsu, vì họ TN 18-B139
Ít lâu, sau khi được ăn bánh và cá no nê trong hoang mạc, dân chúng đi tìm Đức Giêsu, vì họ nhận thấy Người đáp ứng được nhu cầu thể lý căn bản của họ. Họ muốn Người tiếp tục cho họ ăn. Xem ra họ quá thực dụng và chỉ quan tâm đến nhu cầu ăn uống cho thể xác!
Nhưng Đức Giêsu mời gọi họ “vượt lên trên”: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27). Người quan tâm đến nhu cầu tâm linh hơn: Đói khát Tình yêu, Công chính, và Sự Sống vĩnh cửu:
- Khi con người không được yêu thương tôn trọng, không được chấp nhận như chính bản thân họ, họ sẽ sống lẻ loi, cô đơn và cả tuyệt vọng, Tình yêu đích thực sẽ chữa lành họ;
- Khi con người ngụp lặn, chìm sâu trong tội lỗi, Ân sủng và ơn tha thứ của Thiên Chúa sẽ phục hồi và dẫn họ đến sự công chính;
- Khi tâm hồn con người khao khát Thiên Chúa, Lời Đức Giêsu “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” sẽ an ủi họ, và chính Người sẽ thỏa mãn cơn đói khát tâm linh này, đồng thời dẫn họ đến sự sống vĩnh cửu.
Chuyện kể rằng: Từ ngày vợ qua đời, người chồng khốn khổ sống đau buồn, suy sụp. Hàng ngày, ông đến nghĩa trang, ngồi hàng giờ bên mộ người quá cố, nói chuyện với bà như một người còn đang sống…Các bạn hữu thường an ủi, khích lệ ông quên đi tất cả để làm lại từ đầu, và nhất là không cần thiết đến nghĩa trang mỗi ngày như thế. Sau một thời gian không đến mộ vợ, ông cảm thấy trống vắng, thiếu thốn.., và rồi mọi sự trở lại như cũ vì ông nói: “Bà ấy là Bánh của tôi”. Hẳn là ông không thể tiếp tục sống thiếu thứ bánh tâm linh này? Hẳn là người vợ là thành phần thiết yếu, quan trọng, không thể thay thế được của ông?!
Thiên Chúa đã tạo dựng con người để sống hạnh phúc mãi mãi với Người. Nhưng quỷ dữ đã lôi kéo, gây tai họa, làm con người đánh mất hạnh phúc này. Đức Giêsu đến trong trần gian để chuộc lại hạnh phúc này cho con người, với điều kiện: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”: Tin Bánh Trường sinh là chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, đem lại sự sống cho thế gian.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Xin cho sức mạnh Chúa tung hoành trong chúng con, và chúng con sẽ mạnh dạn tiến công, nhận sứ mạng Chúa trao là đổi mới trái đất này. Chúa ngự trong cuộc sống chúng con, và ban cho cuộc sống chúng con có ý nghĩa đích thực hơn.
Lương thực là sản phẩm được thu hoạch từ các loại cây chủ yếu dùng làm thực phẩm. Do đó TN 18-B140
Lương thực là sản phẩm được thu hoạch từ các loại cây chủ yếu dùng làm thực phẩm. Do đó, thực phẩm là tất cả những thứ con người (hoặc động vật) có thể ăn hoặc uống để hấp thụ dinh dưỡng – gọi chung là ẩm thực. Bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam – đất nước nông nghiệp – là lúa, bắp, sắn, và khoai lang. Bánh mì không là thực phẩm chính của dân Việt nhưng là thực phẩm chính của người Tây phương, vả lại nó được làm từ lúa mì, lúa mạch, lúa miến,…
Nhưng trớ trêu thay, có quan chức ở Việt Nam lại cho rằng bánh mì và bắp không phải là lương thực hay thực phẩm. Ai cũng biết chữ “thực” nghĩa là ăn, lương thực và thực phẩm là những thứ ăn được, có thể nuôi sống con người, nhất là trong lúc dịch bệnh thế này. Nếu đồ ăn đó không là lương thực hay thực phẩm thì là cái gì?
Ngày xưa có “đặc sản” Manna hoặc Mana, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương. Nhưng nó sẽ cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), và sẽ tan biến khi nắng lên.
Từ ngữ manna được sách Xuất Hành đề cập 5 lần, (Xh 16:26-35) và được Kinh Koran đề cập 3 lần. Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn.” Theo Kinh Thánh, manna là “man hu,” nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?” hoặc Pháp ngữ là “qu'est-ce que c'est?” Nhưng cũng có người cho rằng chữ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng Aram chứ không phải là tiếng Do Thái. Đó là chuyên môn, chúng ta chỉ cần hiểu manna là đặc sản duy nhất Chúa cho dân ăn suốt 40 năm khi tiến về Đất Hứa. Thế thôi!
Chúng ta được biết qua trình thuật Xh 16:2-4, 12-15 thế này: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Môsê và ông Aharon: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây.” Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Với bản năng sinh tồn, người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí còn liều bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể cắt đứt. Có miếng ăn vinh, có miếng ăn nhục!
Thi sĩ ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) thẳng thắn: “Cái bụng đói không thể lắng nghe.” Khi bụng đói cồn cào, thằng Bờm không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay được. Thực tế vậy thôi! Danh y Anthony xác định: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh.” Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật. Sức khỏe tinh thần cũng ảnh hưởng lẫn nhau – hồn an, xác mạnh.
Thực sự Thiên Chúa thực tế hơn người ta tưởng. Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên phán với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.” Ngài cũng cho biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” Ngài trừng trị nhưng Ngài “xót xa” lắm. Chúng ta có thể cảm nhận qua tình cha mẹ đối với con cái: Con đau một, cha mẹ xót mười.
Thiên Chúa hứa gì thì làm ngay. Chiều hôm đó, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây.” Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn.” Sự thật chứ không là chiêm bao. Đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh hiên thần để no thỏa. Thật tuyệt vời!
Không phải là Thiên Chúa không biết nên mới “dò sóng” và thử thách chúng ta. Ngài thấu suốt mọi sự, biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài muốn dùng sự thử thách để tôi luyện chúng ta. Đại dịch cúm Tàu đang hoành hành, nhưng nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và thân phận mỏng manh của chúng ta. Khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm.” (Tv 78:3-4)
Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Thiên Chúa. Ngài tuyên phán một lời thì liền có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Israel băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước. (Xh 14:15-31) Manna và chim cút cũng chỉ là “hạt bụi trong hạt cát” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến manna tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực.” (Tv 78:23-25) Manna được gọi là “bánh thiên thần,” nhắc chúng ta nhớ tới Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng mà dân xưa không được biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà lại không biết tạ ơn Thiên Chúa sao?
Lời khuyên Thánh Phaolô dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn đầy tính thời sự đối với chúng ta ngày nay: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.” (Ep 4:17) Quả thật, chúng ta vẫn chưa bỏ được thói ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo: Nói hay, muốn nhiều, mà làm chẳng bao nhiêu. Đòi lấy, chứ không muốn cho.
Sự thật thì hay mất lòng và thường phũ phàng lắm. Thánh Phaolô cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4:20-24) Con người chúng ta mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ.
Thật vậy, đã bao Mùa Vọng, Mùa Chay, tĩnh tâm, xưng tội, quyết tâm,... cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu. Rất chí lý với cách ví von của tiền nhân: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ hoàn cốt khỉ.” Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?” Lý do thực tế và đơn giản lắm, bởi vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” (Đại đế Napoléon) Đặc biệt là đối lập: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7:19) Thật khốn nạn cho chính tôi!
Dân Israel rất ngạc nhiên khi thấy manna. Chưa hề thấy bao giờ. Và họ hỏi nhau: “Cái gì vậy?” Tương tự, khi thấy người lạ, người ta thường hỏi: “Ai đây?” Còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Thắc mắc đúng đắn sẽ dẫn tới sự khôn ngoan. Thắc mắc vì ham lạ sẽ bất lợi, thậm chí là tác hại.
Ngày xưa, dân chúng không thấy Chúa Giêsu và các môn đệ, họ đi tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25) Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.” (Ga 6:26) Rất “sốc” nhưng không oan chút nào. Và Ngài khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga 6:27)
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng khác. Những lúc cầu nguyện, chúng ta thường chỉ muốn XIN là chính, nhất là muốn “xin như ý mình,” muốn XIN thì phải ĐƯỢC, gọi là xin-cho, nhưng khi được rồi lại quên tạ ơn Ngài. Rất phũ phàng!
Sau khi dân chúng nghe Chúa Giêsu nói vậy thì hỏi ngay: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28) Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Chúa Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.” (Ga 6:30-31) Thì ra họ không thành tâm, chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Chúng ta cũng vậy thôi.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên và thẳng thắn: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” (Ga 6:32-33) Có lẽ lúc này họ mới “sáng mắt” nên vội xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt, biết phục thiện. Chúa Giêsu nói: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35) Nghe vậy thì họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai.” Bướng bỉnh tột đỉnh!
Sự thật đích thực thì mãi mãi là sự thật, trường tồn và bất biến. Chúng ta may mắn hơn dân xưa vì được thừa hưởng di sản vô giá: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền, đức tin duy nhất, đặc biệt nhất là Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Thomas More (luật sư, triết gia, chính khách, 1478-1535, Anh quốc) chia sẻ: “Nếu tôi xao lãng, việc hiệp lễ sẽ giúp tôi tịnh tâm trở lại. Nếu hằng ngày có những dịp xảy đến xúi giục tôi xúc phạm đến Thiên Chúa, tôi sẽ tự trang bị cho cuộc chiến mỗi ngày bằng việc lãnh nhận Thánh Thể. Nếu tôi đặc biệt cần đến ánh sáng và sự khôn ngoan để thực thi các phận sự nặng nề của tôi, tôi sẽ đến bên Đấng Cứu Độ, mong tìm được lời khuyên và ánh sáng của Người.”
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin ban những ơn cần thiết để chúng con đủ sức biến đổi theo ý Ngài, cụ thể là trải nghiệm hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch thế này. Xin cho chúng con được no thỏa Thánh Ân và Thánh Thể, và cho chúng con được hưởng sự sống đời đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúng ta đang chứng kiến cảnh con người trên thế giới giành giật sự sống trước cái chết do đại TN 18-B141
Chúng ta đang chứng kiến cảnh con người trên thế giới giành giật sự sống trước cái chết do đại dịch Covid gây ra.
Cộng đoàn con cái Israel trước cái đói thể lý. Đói không có gì ăn thì sẽ chết. Họ sợ chết chết, nên họ kêu trách Môsê và Aaron: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói?” (Xh 16,2-4)
Dân chúng thời Chúa Giêsu, vì cái bụng, hay cụ thể hơn họ cũng sợ chết đói nên đi tìm bánh để ăn chứ không tìm Đấng Cứu Thế. Chính Chúa Giêsu nói : “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26).
Từ cái bụng rỗng không có gì, tức đói thể xác, Thiên Chúa đã cho “cho bánh từ trời rơi xuống như mưa”, nhưng cũng để thử coi dân có tuân giữ lề luật của chúa hay không (x. Xh 16…..). Từ của ăn phần xác, Chúa Giêsu khơi dậy sự khao khát của ăn đích thực cho sự sống đời đời nơi lòng họ. Tìm kiếm bánh để ăn no nên thật cần thiết, nhưng vun trồng mối quan hệ với Chúa Giêsu, củng cố niềm tin vào Người, Ðấng là bánh sự sống, đã đến để giải cơn đói chân lý, cơn đói công bình, tình yêu còn quan trọng và cần hơn thế nữa. Để có được thì ngay hôm nay phải ra công làm việc, việc đó chính là: “Tin vào Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến” (Ga 6,29).
Con người đã, đang và sẽ làm mọi cách để có được sự sống đời đời bằng nỗ lực của chính mình. Nhưng dù y họ có tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, hứa hẹn tăng tuổi thọ cho con người, thì những nỗ lực đó không mang lại sự sống đời đời. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta sự sống đời đời, vì Chúa là “Sự Sống”. Chúa hứa sẽ “tiêu diệt sự chết đến muôn đời” và ban sự sống vĩnh cửu cho những ai trung thành với Chúa (x. Is 25,8; 1 Ga 2,25). Tất cả những ai vâng lời Thiên Chúa đều có cơ hội sống đời đời, “nhưng bất cứ nơi dân tộc nào, ai kính sợ Người và làm lành thì đều được Người vui lòng chiếu nhận” (x. Cv 10,34, 35). Câu hỏi: Làm sao để được sống đời đời là vấn nạn con người ở mọi nơi mọi thời đặt ra. Thánh Gioan cho ta câu trả lời: “Kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (x. 1 Ga 2,17).
Đọc Tin Mừng Ga 6,24-35, chúng ta thấy của ăn để sống đời tạm này cần phải kiếm tìm thế nào, thì của ăn cho sự sống đời đời càng phải ra công tìm kiếm hơn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu” (Ga 6,26-27). Chính Chúa Giêsu là bánh sự sống thật (x. Ga 6,35), Người đến xoa dịu không chỉ cơn đói thể xác nhưng cả cơn đói của linh hồn khi ban lương thực thiêng liêng có thể thỏa mãn cơn đói sâu thẳm nhất. Vì vậy Người mời gọi đám đông đừng tìm kiếm lương thực hư nát, nhưng hãy tìm thứ lương thực tồn tại cho sự sống vĩnh cửu (x. Ga 6,27). Ðó là lương thực mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta mỗi ngày: Lời của Người, Mình Người, Máu Người.
Sự khao khát và tò mò nổi lên trong họ, khiến họ thưa rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga 6,..).
Quả thật, tin vào Chúa Giêsu và làm theo ý Chúa là chìa khóa để có đượ sự sống đời đời. “Tin” vào Ðấng Chúa Cha sai đến; nghĩa là niềm tin vào Chúa Giêsu giúp chúng ta thực hiện những việc làm của Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho mình tham dự vào mối tương quan tình yêu và tin tưởng với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có thể thực hiện những việc tốt lành tỏa hương thơm của Tin mừng, vì thiện ích và nhu cầu của anh chị em.
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Sự sống đời đời tức là: chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Sách Công vụ Tông đồ khẳng định: “Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác nữa. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được cứu thoát” (Cv 4,12).
Có phải chỉ cần tin Chúa Giêsu là chúng ta sẽ được cứu không?
Chúng ta phải tin Chúa Giêsu để được cứu, nhưng tin thôi thì chưa đủ (x. Cv 16,30, 31). Vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Nên tin phải đi đôi với thực và vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa (x. Lc 6,46; 1 Ga 2.17). Trước khi giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đã ban truyền những lễ luật mà dân phải tuân giữ. Có tin thì mới tuân giữ, còn khi họ hồ nghi thì họ vi phạm thánh chỉ của Chúa. Có lúc Thiên Chúa “thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không”. Chúa Giêsu từng nói: “Không phải người nào nói “Lạy Chúa” thì sẽ được cứu nhưng chỉ ai “làm theo ý muốn của Thiên Chúa” (x. Mt 7,21). Trung thành với niềm tin cũng thật cần thiết như Chúa Giêsu nói: “Ai bền chí chịu đựng cho đến cuối cùng thì sẽ được cứu” (Mt 24,13. Chúa Giêsu cứu những người trung thành bằng cách hiến mạng sống mình làm giá chuộc (x. Mt 20,28). Vì Người là “Đấng Cứu Độ thế gian” (1 Ga 4,14).
Trong bối cảnh gian truân tư bề của những ngày ôn dịch, hôm 23-7, Ông Lâm Minh Thành, chủ tịch TN 18-B142
Trong bối cảnh gian truân tư bề của những ngày ôn dịch, hôm 23-7, Ông Lâm Minh Thành, chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nói những câu được nhiều người khen tặng và bình luận: “Đi chợ mua đồ ăn, thức uống, đi chợ nào, mua cái gì là quyền của dân. Một bó rau, một mớ hành cũng phải để cho dân chở đi bán”; "Việc đi chợ nào, mua cái gì, mua bao nhiêu là quyền của người dân. Họ phải ăn, uống mới sống được. Đâu phải chợ nào cũng giống chợ nào. Có chợ ở phường này, xã này bán thứ này, chỗ khác bán thứ khác, cho nên không được cứng nhắc khi áp dụng, mà phải linh động, phải hiểu nhu cầu thực tế của người dân. Ở vùng sâu, vùng xa, người ta đất ít, trồng ít được 1 bó rau, mớ hành cũng phải để cho dân chở đi bán, để ở nhà 2, 3 ngày rau cải hư hỏng hết. Người có nông sản bán được thì người mua mới có để mà mua. Mình chống dịch chặt chẽ, nhưng không được ngăn sông cấm chợ"…
Ông Thành được khen là: con người công vụ gần Dân, hiểu Dân và làm việc vì Dân…Từ khi "gà chưa biết gáy" đến...bi giờ, mới nghe được một vị lãnh đạo có lời nói đứng về phía Dân…Trong lúc này, lãnh đạo nào mà sống gần Dân, hiểu Dân, cống hiến vì Dân, thì họ là Thánh trong lòng Dân…
Bài trích sách Xuất hành ngày Chúa nhật hôm nay nói về Môsê một nhà lãnh đạo vì Dân, yêu thương Dân.
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ.
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về "Vị Tiên Tri" đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh" (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Ga 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
Môsê là một tấm gương lãnh đạo vì dân, mẫu gương người lãnh đạo là tôi tớ của dân. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ lúc còn rất nhỏ. Sau này, ông xác tín, lãnh trách nhiệm dẫn dắt Dân Chúa ra khỏi Ai Cập, vào miền Ðất Hứa. Cuộc đời của ông là gương mẫu cho những nhà lãnh đạo chân chính, thiện chí, phục vụ vì Dân vì Nước. Ông tu thân và thường xuyên gặp gỡ, đàm đạo với Thiên Chúa. Ông trình bày với Ngài về tình trạng của dân và xin ơn tha thứ. Rồi ông đón nhận Thánh Ý Ngài, cụ thể là Mười Giới răn, ghi khắc vào bia đá, truyền đạt lại cho dân. Dân chỉ tin người lãnh đạo, khi người lãnh đạo gặp Thiên Chúa và truyền đạt cho họ ý của Ngài.
Chúa Giêsu, người lãnh đạo đem lại cho dân sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận". Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”. Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời, sứ vụ và cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời.
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể. Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương. mục lục
Chuyện xảy ra tại thành phố Lanciano, nước Ý. Khoảng năm 750, một linh mục dòng thánh Basilio TN 18-B143
Chuyện xảy ra tại thành phố Lanciano, nước Ý. Khoảng năm 750, một linh mục dòng thánh Basilio cử hành thánh lễ tại nhà thờ GX Saint Legonzano. Đang khi dâng lễ, cha cứ thắc mắc và hoài nghi về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Thế nên, lúc đọc lời truyền phép bánh và rượu, một sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục ấy: bánh trở nên miếng thịt sống và rượu trở nên máu tươi, rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ.
Cho đến hôm nay, phép lạ ấy đã trải qua trên 1300 năm: đầu tháng 11/2015, khi có dịp đi tour cùng nhóm 68 giáo dân Hành Trình Đức Tin đến tham quan nhà thờ này, tôi thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu được đặt trong mặt nhật quý giá. Riêng năm cục máu thì có màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính, trưng bày trên nơi trang trọng của nhà thờ Lanciano.
Một chuyện lạ khác cũng xảy ra khoảng năm trăm năm sau đó: năm 1263, một linh mục đi từ Prague, Tiệp Khắc hành hương tới Roma để xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài đang lung lay về ơn gọi. Trên đường đi, cha ghé ngang một thị xã cách Roma 70 miles về phía Bắc. Ở đó, khi dâng lễ đến phần truyền phép, cha nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh tự nhiên trở nên Thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu ấy chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ.
Liên tiếp trong nhiều trường hợp khác nữa, phép lạ Mình Máu Thánh vẫn không ngớt xảy ra tại nhiều nơi khác nhau. Thiên Chúa muốn tỏ hiện cho ta thấy: Đức Giêsu Kitô chính là Bánh Thánh Thể, bánh trường sinh, bánh nuôi dưỡng chúng ta khi chúng ta ăn Thịt của Người trong bí tích Thánh Thể.
* Khi ăn bánh thông thường, chúng ta tiêu hóa và đồng hóa bánh, còn khi chúng ta ăn bánh trường sinh (là Mình Thánh Chúa Kitô) thì chính bánh này đồng hóa chúng ta.
* Nơi Bánh Thánh Thể, Chúa Kitô biến đổi chúng ta, ban cho chúng ta sự sống của Người và kết hợp chúng ta vào đời sống của Người. “Kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống” (Ga 6:57).
Quả thật: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra cho muôn người. Ai đến với Chúa sẽ không hề đói & ai tin vào Chúa, chẳng khát bao giờ (Ga 6:35). Bánh Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn chúng ta, lương thực thần linh, thần lương cứu độ. Bánh ấy là bánh đích thực, bánh đem sự sống cho thế gian.
Ta cùng suy niệm:
1. Tấm bánh duy trì sự sống. 2. Tấm bánh thánh ban sức sống lạ thường. 3. Tin kính, tôn thờ, say mê Bánh Thánh Thể Chúa.
A. Tấm bánh duy trì sự sống.
Tháng 12/1987, một trận động đất kinh khủng đã xảy ra tại xứ Armênia. Trong số hàng ngàn nạn nhân bị vùi lấp dưới đống gạch, người ta tìm ra được hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Giữa đống gạch ngổn ngang, con gái bà bổng khát nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra, tình mẫu tử thôi thúc bà rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. “Lúc ấy tôi biết thế nào tôi sẽ phải chết nhưng tôi muốn con tôi được sống”, người mẹ tâm sự sau đó. Cuối cùng, đứa bé đỡ khát nhờ máu người mẹ và nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cấp cứu.
* Giọt Máu người mẹ, chính là tấm bánh duy trì sự sống cho em bé được kéo dài theo thời gian.
Tìm trong Kinh Thánh, ta cũng thấy khá nhiều lần con người đã vui sống nhờ được tiếp tế Bánh.
1. Trời nóng nực, Abraham ngồi ngoài cửa lều tại cụm sồi Mam-rê. Bất chợt ba người của Chúa đến ghé thăm, ông vội vã cùng bà Sara lấy ba thúng tinh bột mà nhồi làm bánh (St 18:6) giúp các khách quý được no lòng chắc dạ, trước khi tiếp tục đi xa.
2. Đi lang thang trong sa mạc lâu ngày, dân Israel kêu than đói lả: Thiên Chúa đã cho mưa manna bánh từ trời xuống, giúp dân có khẩu phần ăn mỗi ngày duy trì sự sống nơi hoang địa (Xh 16).
3. Trên đường lẩn trốn hoàng hậu I-de-ven truy bắt, tiên tri Êlia chạy vất vả đến nơi cây kim tước. Một thiên sứ mang bánh và nước đến giúp ông (I V 19:5-7) được ăn no, đi đến núi Khô-rép.
4. Giữa thời hạn hán suối cạn khô, bà góa và con trai bà vùng Sarepta gặp cơn đói lả. Nhờ chia sẻ lương thực cho tiên tri Êlia, hũ bột nhà bà không vơi và vò dầu gia đình cũng không cạn: bà may mắn có dư dả nhiên vật liệu để tiếp tục làm bánh ăn (I V 17:7-16) kéo dài sự sống.
5. Nhà Vua chiêu đãi tiệc cưới cho hoàng tử: cỗ bàn thật to, bò tơ và thú béo đã hạ rồi (Mt 22:4), đủ lương thực tươi tốt cho thực khách dùng dư dả, lan tỏa niềm vui lai rai. 6. Dân chúng đi nghe Chúa giảng, quên chuẩn bị dự trữ lương thực đi đường. Chạnh lòng thương xót, Chúa cho 5 bánh và 2 cá hóa ra nhiều (Ga 6:1-15) giúp họ ăn no nê sống dồi dào.
Ta còn nhớ câu chuyện Mẹ Têrêsa Calcutta mang 10 kg gạo cứu trợ cho một gia đình đang túng thiếu. Nhận được lương thực cứu tế ấy, bà chủ nhà vội vào nhà san sẻ 5 kg gạo mang sang gia đình bên cạnh cũng đang túng thiếu như gia đình bà. Trong khốn khổ, họ đã biết nhớ đến nhau, giúp nhau phần lương thực cứu đói để duy trì sự sống qua ngày.
Tấm bánh thánh ban sức sống lạ thường.
Tại một nhà thờ ở Torino (Ý Đại Lợi) người ta thấy có người đàn ông sáng nào cũng sốt sắng đi dự lễ. Ông là một công nhân thợ dệt, luôn giữ thói quen đi dâng lễ và rước lễ mỗi ngày trước khi đến sở làm. Được biết xưa kia, ông là người ưa say xỉn lai rai, tật xấu ấy khiến ông bị tàn tạ sức khỏe, tiêu tan tài sản, gia đình tan tác. Ông nghe lời cha xứ răn bảo “muốn từ bỏ được tính xấu ấy, phải năng đi rước Chúa”. Về nhà, ông đã thực hành lời dạy khôn ngoan ấy và giờ đây, ông đã thấy mình khác hẳn.
* Bánh Thánh Thể, bánh ban sự sống linh hồn, đã cải hóa cuộc sống đời thường ông công nhân.
Với niềm tin Công Giáo, kitô hữu tin thật Đức Giêsu Kitô có hiện diện thực sự trong Bánh Thánh Thể. Và chính Chúa đã thực hiện nhiều việc lạ cả thể giúp gia tăng và củng cố đức tin cho người đón nhận Mình Thánh Chúa. Đời sống họ bổng lạ thường khi có Thánh Thể Chúa ngự vào tâm hồn thanh sạch.
Năm 1868, Louis Lateau, một cô gái người Bỉ yếu ớt, được Chúa ban phúc in Năm Dấu Thánh trên người. Suốt bảy năm trường sau đó, cô không ăn uống gì thêm ngoài việc lãnh nhận Mình Thánh Chúa mỗi ngày. => Cô sống lâu dài nhờ ăn Bánh Thánh Thể.
Khoảng thế kỷ XIII, bọn lính hung dữ đến tấn công thành phố Assisi, đe dọa mạng sống các nữ tu dòng kín Clara. Nhiều chị em hoảng sợ, dọn mình rước Thánh Thể, phó thác mọi sự trong Chúa. Lúc ấy, dù đang ốm nặng, Chị Thánh Clara quỳ trước cổng đan viện, tay nâng cao Mặt Nhật MTC, khấn nguyện “Lạy Chúa! Xin hãy giữ gìn các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi”. Bổng dưng sau đó, họ như nghe có tiếng trả lời: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ”. =>Quân lính đi đến nơi, thấy hiện tượng ấy, tự nhiên chúng vô cùng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn.
Cô Floripes de Jesus, quen gọi là Lola sinh năm 1913 tại Brazil. Năm 16 tuổi, bất ngờ chị bị té từ cây cao xuống, khiến Lola liệt nửa người. Từ hôm đó trở đi, toàn thân cô bổng nhiên thay đổi không cảm thấy đói, khát hay buồn ngủ nữa. Mỗi ngày Lola tự nuôi bản thân mình chỉ với một Bánh Thánh. Cô sống nhờ Thánh Thể Chúa suốt nhiều năm cho đến tháng 4/1999 mới qua đời.
Chị Marthe Robin người Pháp chào đời năm 1902. Vừa được 2 tuổi chị đau yếu liên miên cho đến năm 28 tuổi bị tê liệt toàn thân phải nằm liệt giường. Không thể ăn được gì, các bác sĩ cố gắng ép chị uống nước nhưng nước lại trào ra trên mũi. Cuối cùng, chỉ còn một lương thực duy nhất mà chị có thể tiếp nhận được là Thánh Thể Chúa từ năm 1930. Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và sau đó chị nhận được Năm Dấu Thánh trên người. Thánh Thể Chúa là của ăn nuôi sống chị cho đến khi chị qua đời năm 1981, việc ấy kéo dài 51 năm.
Rõ ràng các chứng nhân kể trên được vinh phúc sống an hòa lâu dài tháng ngày nhờ Thánh Thể Chúa, bánh ban sự sống. Kinh nghiệm về bí tích Thánh Thể giúp họ cam chịu hy sinh với bệnh tật, sẵn lòng “dâng những đau khổ trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện và lòng mến”. Càng đắm chìm trong suy niệm về cuộc Khổ Nạn của Chúa, họ càng mong “tận hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Chúa”. Quả thật, Chúa chính là niềm vui, là lẽ sống, là hạnh phúc tột cùng trong cuộc đời họ.
C. Tin kính, tôn thờ, say mê Bánh Thánh Thể Chúa.
Jacques Loew là người phu khuân vác ở bến tàu Thụy Sĩ. Thấy nhiều người Công Giáo trong đó có cả những bậc vị vọng: bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học.. tin “một Thiên Chúa” ở trong tấm bánh nhỏ, anh nảy ý định thử tìm hiểu xem điều mà họ tin có thật chăng? Anh tìm đến một đan viện, cùng nói rõ mục đích của mình với Cha Tu Viện Trưởng. Ngài đồng ý cho phép anh được vào quan sát những người đang dự thánh lễ trong nhà nguyện. Họ đứng, quỳ nghiêm trang, đi lên đi xuống nhận Mình Thánh cách sốt sắng. Anh liền vào gặp Cha Bề Trên nêu thắc mắc về phép Thánh Thể. Anh thấy có nhiều anh chị em trước đó gặp ở ngoài đường thì dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, họ lại gần gũi với nhau như “con cái chung một Cha trên trời”. Jacques Loew đã “nhận ra Chúa lúc bẻ bánh” và quyết tâm đi tu làm linh mục. Sau đó, Cha hoạt động rất tốt trong phong trào linh mục thợ ở Âu Châu.
* Sự tìm hiểu chân thành đã thúc đẩy một đảng viên của đảng Lao Động Thụy Sĩ tin vào Bí tích Thánh Thể, khiến anh say mê lý tưởng LM “tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa ở trần gian”.
Niềm tin “có Chúa Giêsu ngự trong Phép Mình Thánh” thôi thúc đông đảo kitô hữu khắp nơi thể hiện lòng Tin Kính, Tôn Thờ, Say Mê Bánh Thánh Thể Chúa cách miên trường.
Carlo Acutis, một thiếu niên Italy, tin kính tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể rất đặc biệt. Được rước lễ lần đầu xong, cậu không bỏ lễ ngày nào, lần hạt Mân Côi và chầu Thánh Thể sốt sắng. Có biệt tài về điện toán, Carlo gầy dựng một trang web sưu tầm tất cả phép lạ Thánh Thể khắp thế giới. Cậu cho biết, thật hạnh phúc vì đã cố gắng sống không làm mất lòng Chúa, không phí phạm thời gian trong ngày và luôn tìm cách kết hợp với Chúa. Giáo Hội đã phong Chân Phước.
Giuliano Eymard là một cậu bé có lòng say mê Thánh Thể từ thuở nhỏ. Lúc 5 tuổi, người chị đi tìm em khắp nơi thì nhìn thấy bé đang ở trong nhà thờ, đứng trên cầu thang sau bàn thờ, ghé tai sát vào Nhà Chầu, mong được nghe Chúa nói rõ hơn. Ngày Rước lễ lần đầu, Eymard đã xin ơn trở thành linh mục. Làm cha xứ, ngài thường tổ chức các cuộc rước kiệu Thánh Thể long trọng. Năm 1856, Cha lập dòng Thánh Thể, dâng hiến cả cuộc đời để tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể.
Một biến cố xảy ra ngày Chúa Nhật 27/6/2021 vừa qua, tại thành phố Beloit, bang Wisconsin. Trên đường đi về nhà, một cô gái có lòng say mê Thánh Thể ghé ngang nhà thờ GX Thánh Gioan Tẩy Giả để viếng Chúa. Bất ngờ cô nhìn thấy khói do ai đó mới đốt cháy, liền chạy ra khỏi nhà thờ, tri hô to cho người khác đến tiếp cứu. Những cư dân lân cận vội mang nhiều bình chữa cháy đến dập tắt ngọn lửa trước khi sở cứu hỏa đến. Tạ ơn Chúa, nhà thờ bị thiệt hại nhẹ.
Lời Chúa hôm nay: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có của ăn thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6:27). Lương thực Chúa muốn nói ở đây là gì? Xin thưa: chính là Thánh Thể Chúa, Đức Giêsu Kitô trở thành Bánh nuôi sống các tín hữu, khi họ có lòng tin vào Ngài.
Vì vậy, khi đến viếng Thánh Thể Chúa nơi nhà Chầu trong các thánh đường Công Giáo, ta hãy:
* Tin kính thực sự: “Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đang ngự thật trong hình Bánh nơi Nhà Chầu”.
* Tôn thờ cung kính: cúi mình thờ lạy, tâm sự với Chúa, lặng lẽ lắng nghe, nâng cao lòng mến…
* Say mê sốt sắng: chiêm ngắm và phó thác, khát khao rước Chúa thiêng liêng, xin Chúa ở cùng.
Lời Nguyện kết thúc.
Lạy Chúa là Đấng toàn năng và nhân ái! Xưa trong hoang địa, Chúa đã ban cho dân Do Thái một thức ăn rơi từ trời xuống, đó là bánh manna. Nay trên dương thế, Chúa cũng ban cho nhân loại một quà tặng từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài là Bánh Thánh Thể, bánh trường sinh, bánh đem lại cho chúng con sự sống đời đời. Xin giúp mỗi kitô hữu chúng con luôn nâng cao lòng tin để Tin Nhận và Tôn Thờ Chúa mỗi ngày. AMEN.
Có câu nói rằng: “Thiên Chúa chỉ cần một ngày để đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập; nhưng Ngài TN 18-B144
Có câu nói rằng: “Thiên Chúa chỉ cần một ngày để đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập; nhưng Ngài lại dùng đến bốn mươi năm để đưa sinh hoạt, văn hoá, và lối sống của người Ai Cập ra khỏi người Do Thái.” Ý nghĩa của câu nói trên là đoạn đường về đất hứa tuy ngắn, nhưng Thiên Chúa cần bốn mươi năm để thanh luyện và giáo dục họ thoát khỏi các tập tục, lề thói mà họ đã bị nhiễm bên Ai Cập mà trở về với đặc tính dân riêng của Thiên Chúa và nhận ra sự chăm sóc của Ngài. Chúng ta cũng thế, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi và hiện diện với chúng ta trong mọi tình huống của cuộc sống để giáo dục và giúp chúng ta nhận ra Chúa là Tình Yêu, là của ăn nuôi sống con người.
Hôm nay trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nhận ra tính hờn dỗi và hay kêu trách của dân Do Thái. Cái gì cũng muốn. Họ chỉ muốn Thiên Chúa làm theo ý của họ. Khi còn bị làm nô dịch bên Ai Cập thì cầu xin Thiên Chúa giải thoát họ, đến khi đối diện với cơn đói khát trong sa mạc thì lại kêu trách, chẳng thà chết no bên nồi thịt tại xứ Ai Cập còn hơn là chết đói ở nơi hoang vu này.
Tâm tình đó dường như cũng xuất hiện trong bài Tin Mừng hôm nay. Sau khi được chứng kiến dấu lạ Chúa làm và bụng được no nê, đám đông bèn đi tìm Người. Khi tìm thấy Người và nghe qua cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và họ, chúng ta mới thấy rõ lý do thầm kín bên trong cuộc săn tìm này. Họ tìm Chúa không phải để ca tụng vinh quang và quyền năng của Thiên Chúa qua việc Người vừa làm. Họ tìm Người vì nhu cầu được thỏa mãn, vì bụng được no nê. Họ chỉ dán mắt vào của ăn vật chất cần cho thân xác, cho nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua dấu lạ Bánh hóa nhiều mà chúng ta mới nghe tuần trước. Thiên Chúa đã ban bánh cho họ để nuôi dưỡng thân xác thể lý của họ, nhưng nhu cầu của thân xác không phải là tất cả những gì họ và chúng ta cần quan tâm; còn một điều cao quí hơn, đó chính là tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua từng biến cố của cuộc sống.
Phần Đức Giê-su, tuy Người đã chạnh lòng, tâm hồn Người rối bời trước cảnh tất bật, lang thang trong cuộc tìm kiếm người chăn chiên của đám đông. Nhưng, không vì thế mà Người chiều theo các yêu cầu vật chất của họ. Người có thể làm thêm vài phép lạ ‘bánh hoá nhiều’ khiến họ khỏi đói. Rồi sau này họ sẽ ra sao! Bánh ăn rồi sẽ phải đói. Nuôi ăn một vài bữa chứ ai nuôi cả đời. Vì thế, Đức Giê-su muốn dậy họ nhớ rằng thay vì tìm bánh nuôi ăn tạm thời thì hãy nỗ lực tìm bánh hằng sống, đó chính là Đức Giê-su. Người đến để thực hiện ý định của Cha Người. Ý của Cha Người là qua Đức Giê-su, Thiên Chúa muốn họ tìm những gì sâu xa và trường tồn hơn. Người nói: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Thưa anh chị em,
Như thế, điều duy nhất mà Đức Giê-su muốn là chúng ta hãy tin vào Người. Tin ở đây không chỉ tóm gọn như một nhân đức hay là chấp nhận một số tín điều nào đó trong Hội Thánh. Nhưng niềm tin cần được thể hiện bằng công việc mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm.
Tin Đức Giê-su là Đấng nuôi sống chúng ta. Tin vào Lời Người phán hôm nay rằng ‘ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!’ Vì chính Người là Bánh trường sinh, là nguồn sống cho chúng ta đến với nhau. Muốn đến với nhau thì chúng ta cần đến với Chúa truớc. Đến với Chúa là một hành động của niềm tin. Tin rằng Chúa ở trong ta. Tin rằng việc siêng năng đón nhận ‘Mình Thánh Chúa’ không làm cho mình thánh thiện hơn, mà là trở nên giống Chúa, nên một với Chúa. Nên một với Chúa không phải để cho mình trọn hảo, nhưng đó là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta đến với nhau như là anh chị em một nhà, cùng chia sẻ một niềm tin, cùng đến và trao cho nhau một lòng mến. Có như thế, chúng ta mới đủ can đảm và dũng mạnh chia sẻ cuộc đời mình cho nhau.
Nhưng, nhìn vào thực tế và với lòng can đảm chúng ta phải nhận định rằng đã có bao nhiêu người sống đúng lời mời gọi của Chúa hôm nay! Đến với Chúa qua việc siêng năng đón nhận ‘Mình Thánh Chúa’ thì nhiều, nhưng mấy ai trong chúng ta đã để cho ‘Bánh’ mà chúng ta lĩnh nhận biến đổi chúng ta giống Chúa Ki-tô, để trở thành của lễ hiến dâng cho Thiên Chúa và san sẻ cuộc đời cho nhau và cho thế giới; hay là chúng ta lại hành xử giống như người Do Thái, chỉ biết đến với Người nhằm thỏa mãn nhu cầu riêng của mình. Thậm chí, có một số người lập ra các bảng thông kê, những bó hoa thiêng ghi lại bao nhiêu lần họ đã rước lễ để báo cáo thành tích và cùng tôn vinh nhau. Như vậy, liệu chúng ta có khác người Do Thái cùng thời với Đức Giê-su hay không?
Tuy nhiên, không vì các hiện tượng tiêu cực đó mà chúng ta quên đi các giá trị cao siêu mà Mình Thánh Chúa đã đem lại cho chúng ta. Tôi vô cùng ngưỡng mộ và kính phục thái độ của một số người khi đón nhận Thánh Thể Chúa. Chúng ta không cần biết họ là ai? Quá khứ họ ra sao? Nhưng chỉ nhìn thái độ cung kính với lòng mến yêu khi đón nhận, chúng ta cũng nhận ra sức mạnh của Đức Ki-tô trong tấm bánh đã tác động và ảnh hưởng trong cuộc sống họ ra sao.
Đó là chưa kể đến một số trường hơp ngoại lệ mà tôi nghe đuợc trong các trại cải tạo. Cho dù vẫn biết rằng việc cử hành và đón nhận Thánh Thể Chúa sẽ đem lại thêm nhiều nguy hiểm cho anh chị em đang bị giam cầm tại các nơi đó. Nhưng nếu họ không nhận ra đó là nguồn sống đích thật thì mấy ai trong anh chị em có đủ can đảm để làm những việc liều lĩnh như thế. Tôi luôn dành cho họ lòng mến yêu và cảm phục.
Thật vậy, cùng với họ, chúng ta tin Đức Giê-su, Đấng không chỉ làm ra bánh nuôi chúng ta, nhưng chính Người là của ăn đích thật, không chỉ bẻ ra một lần mà từng giây từng phút đã trở thành mảnh vụn nuôi sống và hoà tan vào trong cuộc sống của những người môn đệ, những kẻ đặt trọn niềm tin và cuộc sống vào tay Người cho tha nhân.
Khi xưa, Đức Giê-su đã dùng cả cuộc đời để chỉ dâng một Thánh Lễ! Hôm nay, từng giây từng phút trong lòng Hội Thánh đang có hiến lễ được dâng. Vì vậy, anh chị em hãy tin rằng, trong từng hơi thở sống động của Hội Thánh, hoà chung với mọi diễn biến xẩy ra trong vũ trụ này, ngay cả sự bấp bênh mà chúng ta đang phải đối diện trong thời đại dịch, Đức Giệ-su đang dùng và biến chúng ta thành những miếng bánh, do chính Người bẻ ra, để nuôi sống nhau, đặc biệt cho những ai tin Người là Bánh trường sinh, là Đấng ban sự sống. Amen. mục lục
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của TN 18-B145
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự... Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới. Đức Giêsu không trách họ về chuyện này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua. Đức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu. Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua. Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ. Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa. Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác. Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi. Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ. Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương. Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống. Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai, nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó... Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa. Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Đức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên. Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
"Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn"
"Xin ông cho tôi thứ nước ấy" (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần. Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu! Nếu bạn khao khát Tuyệt Đối thì chỉ Tuyệt Đối mới làm bạn no thỏa. Tuyệt Đối đã hiện diện nơi Đức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn, và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi nói đến thức ăn tinh thần, người ta nghĩ ngay đến báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, phim ảnh, video. Bạn đánh giá thế nào về các món ăn tinh thần này? Bạn thích hình thức giải trí nào hơn cả?
Bạn có những khát vọng về mặt vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy mình được mãn nguyện chút nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Những lúc con cảm thấy đói, xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn. Khi con khát, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống. Khi con lạnh lẽo, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi. Khi con bị xúc phạm, xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an. Khi thập giá của con trở nên nặng nề, xin ban cho con thập giá của một người khác để cùng chia sẻ. Khi con túng nghèo, xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn. Khi con không có thời giờ, xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát. Khi con nản chí, xin gởi đến cho con một người cần khích lệ. Khi con chỉ biết nghĩ đến mình, xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
Trong cuộc sống, vẫn thường thấy những phát ngôn gây sốc của một số người đẹp có lối sống TN 18-B146
Trong cuộc sống, vẫn thường thấy những phát ngôn gây sốc của một số người đẹp có lối sống theo kiểu để nổi tiếng bất chấp tai tiếng; làm bồ nhí các đại gia, phá hủy hạnh phúc gia đình người khác, bất chấp luân lý- đạo đức… Khi có người phản đối, họ liền có những phất biểu chống chế thể hiện tầm thấp dưới trung bình của nhận thức (đại loại như câu ‘không quen đại gia gặm đất mà ăn à’)… Với những chân dài có lối sống buông thả kiểu này, nhiều người chỉ bữu môi: “chân dài mà óc ngắn”
Vì ‘óc ngắn’ nên nhiều người chỉ biết cái trước mắt; vì óc ngắn nên để có cuộc sống nhung lụa, nổi tiếng họ sẵn sàng làm tất cả, bất chấp đạo lý, trà đạp lương tâm… Đồng tiền không phải là tất cả, điều ai cũng biết, nhưng với họ sẵn sàng làm tất cả để có tiền.
Và đâu đó trong chúng ta, kể cả 1 bộ phận không nhỏ trong giới trẻ với lối sống bề ngoài, hình thức, hời hợt, cảm tính… chúng ta vẫn thể hiện lối sống theo kiểu ‘óc ngắn’…
Điều này càng thấy rõ: vì của ăn tạm bợ vật chất- tiền tài danh vọng ta sẵn sàng thờ ơ của ăn đích thực đảm bảo sự sống đời đời; để cho của cải trần thế lóa mắt và quên đời sau.
Bài Tin Mừng hôm nay, cho ta thấy rõ phần nào ‘óc ngắn’ của người Do Thái xưa mà trong đó vẫn tồn tại trong chúng ta đến tận hôm nay.
Sau khi được Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá, dân chúng ăn một bữa no nê, thỏa thích và có ý định tôn Chúa làm vua. Biết ý họ, Chúa Giêsu lánh đi nơi khác.
Họ muốn bầu Chúa Giêsu làm vua, hoàn toàn mang tính vật chất, tính toán theo thói thế gian. Giêsu mà làm vua sẽ chẳng còn lao động vất vả kiếm ăn, chẳng còn đói khổ, chẳng còn lo lắng bệnh tật bởi Người chữa được hết… bởi thế, khi thấy Chúa lánh đi, họ tiếp tục đi tìm Chúa, đoán Chúa đi hướng nào để đón đầu Chúa.
Khi gặp được Chúa, làm ra vẻ quan tâm, yêu thương Chúa Giêsu, hỏi một câu ‘giả nai’: Thưa thầy, thầy đến đây lúc nào vậy?.
Thấy rõ tâm địa của họ, Chúa Giêsu nói thẳng xem ra hơi khó nghe: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”,
Sau đó, Chúa hướng lòng họ cần tìm Lương thực cao quý hơn, lương thực không hư nát, không mất mát, lương thực đem lại sự sống đời đời. Ngài nói: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận."
Một dạng sống theo kiểu óc “ngắn khác”, có đầy thiện chí song lại thiếu ý chí, thiếu quết tâm dứt bỏ tội lỗi vì thói quen xấu đã trở nên nặng nề; không biết bỏ ý mình để sống theo ý Chúa. Có thể nói, đây là kiểu sống hai mang, đu giây, kiểu nửa nạc nữa mỡ… nói như Chúa Giêsu không thể chấp nhận ‘kiểu làm tôi hai chủ’, vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền bạc, xem ra ‘tôi tiền’ năng hơn ‘tôi Chúa’
Lối sống của chàng thanh niên giầu có, đạo đức người Do Thái ngày nào đến xin Chúa chỉ dạy làm gì để có sự sống đời đời- cuộc sống thiện hảo, nhưng khi nghe Chúa đề nghị cách triệt để là bán hết gia tài cho người nghèo rồi đến theo Ngài và sẽ được kho tàng Nước Trời thì anh bỏ cuộc vì anh thuộc loại giàu có. Anh lưỡng lự vì làm tôi hai chủ...
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái xin Chúa cho của ăn đích thực song khi nghe của ăn đấy chính là Thịt- Máu Người, do bảo thủ thành kiến, do không chịu bỏ kiểu suy nghĩ ‘óc ngắn’ họ thấy chướng tai, phản đối, bỏ Chúa, kể cả những môn đệ theo Chúa. Dưới góc nhìn này, sống ích kỷ, không biết bỏ mình, bỏ ý riêng mình... cũng thuộc loại 'óc ngắn'. Đói với Chúa Giêsu, 'Môn đệ đích thực là biết bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa' cũng là cách để ta thoát sống 'óc ngắn'.
Sống ‘óc ngắn’ còn thể hiện rõ qua việc bất chấp Lời Chúa dẫu đã được Người cảnh cáo.
Chẳng hạn: ‘Được lời lãi cả thế gian mà mất phần Linh hồn thì được ích gì’, nay vì ‘óc ngắn’ chỉ thấy và cần cái trước mắt họ sẵn sàng đánh đổi phần Linh hồn, cả sự sống đời đời để được cái quyền lợi- danh vọng trần thế.
Như vậy, tầm nhìn của ‘óc ngắn' đạt đến mức chỉ biết cái trần gian- ‘duy trần gian’, loại bỏ Thiên Chúa, nguy hiểm chẳng khác nào đã bỏ một chân xuống miệng hỏa ngục. Ở góc độ này, ‘duy vật- vô thần’ cũng một dạng ‘óc ngắn nguy hiểm đến ơn Cứu độ.
Ở đây tôi muốn nói và nhấn mạnh ‘duy vật- vô thần' thực tiễn. Thực tế, nhiều người nói mình có Đạo, xưng mình là Kitô hữu song thực tiễn để có đời sống ăn sung mặc sướng họ gạt Chúa qua bên, bất chấp lương tri, chà đạp đạo lý; trái lại không ít người 'hạt giống đỏ; của chủ nghĩa duy vật- vô thần nhưng thực tế họ có niềm tin thưởng phạt đời sau nên 'gắng làm người tử tế;[1]
Minh họa: Tại hầm mộ trong tầng hầm nhà thờ Westminster nổi tiếng thế giới ở Luân Đôn, có một tấm bia mộ nổi tiếng thế giới, trên đó khắc ghi tâm nguyện người chết:
'Khi tôi còn trẻ, còn tự do, trí tưởng tượng của tôi không bị giới hạn, tôi đã mơ thay đổi thế giới.
Khi tôi đã lớn hơn, khôn ngoan hơn, tôi phát hiện ra tôi sẽ không thay đổi được thế giới, vì vậy tôi rút ngắn ước mơ của mình lại và quyết định chỉ thay đổi đất nước của tôi.
Nhưng nó cũng như vậy, dường như là không thể thay đổi được. Khi tôi bước vào những năm cuối đời, trong một cố gắng cuối cùng, tôi quyết định chỉ thay đổi gia đình tôi, những người gần nhất với tôi.
Nhưng than ôi, điều này cũng là không thể. Và bây giờ, khi nằm trên giường, lúc sắp lìa đời, tôi chợt nhận ra: Nếu như tôi bắt đầu thay đổi bản thân mình trước, lấy mình làm tấm gương thì có thể thay đổi được gia đình mình, với sự giúp đỡ, động viên của gia đình mình, tôi có thể làm điều gì đó thay đổi đất nước và biết đâu đấy, tôi thậm chí có thể làm thay đổi thế giới!” Mơ mộng, sống xa thực tế cũng là dạng khác của ‘óc ngắn’.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở thành Tấm Bánh nuôi dưỡng chúng con, đảm bảo cho chúng con hạnh phúc Nước Trời. Khi chúng con xa Chúa, bỏ Chúa, khi chúng con sống thiếu Chúa là lúc rơi vào kiểu sống thực dụng, óc ngắn, nguy hiểm có thể mất luôn sự sống đời đời.
Nhờ lời bầu cử của các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin cho chúng con, nhất là Giới trẻ ngày càng biết trân quý, khám phá Tin Mừng nơi kho tàng Bí tích Tình yêu là Thánh Thể nhờ vậy chúng còn biết gắn bó của cải trần gian với thực tại trên trời. Amen.
“Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?” (Ga 6,30).
Vâng, Chỉ có tác giả Gio-an dùng “dấu lạ”, các tác giả khác dùng là phép lạ. Phép lạ là gì? TN 18-B147
Vâng, Chỉ có tác giả Gio-an dùng “dấu lạ”, các tác giả khác dùng là phép lạ. Phép lạ là gì? Dấu lạ là gì? Phép lạ là điều xảy ra cách lạ thường và ngoài quy luật tự nhiên. Ví dụ, tuần vừa rồi Chúa làm phép lạ 5 chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều bánh. Còn dấu lạ là hành động lạ thường vượt trên tự nhiên và hành động là dấu chỉ để noi theo nên gọi là dấu lạ. Dấu lạ là thực tại khả giác chúng ta tiếp nhận bằng giác quan đồng thời chuyển tải nội dung tư tưởng mà ta không nhìn thấy bằng mắt thường. Ví dụ cái bắt tay chỉ đến tình thân ái, cái cúi đầu chỉ đến lòng kính trọng, tôn kính… Vậy làm thế nào chúng ta đón nhận dấu lạ Thiên Chúa gởi đến cho mình trong cuộc sống hôm nay?
Việt Nam muốn biết và hiểu được người nước ngoài thì phải học ngoại ngữ, mà ngôn ngữ là một hệ thống dấu chỉ giúp hiểu tâm tình và tư tưởng của con người. Vì thế, muốn đọc được dấu chỉ của Thiên Chúa, chúng ta phải hiểu được ngôn ngữ của Thiên Chúa, qua đó mình nghe tiếng Ngài và sứ điệp Ngài gởi cho ta. Học một sinh ngữ cần phải tiếp cận, ví dụ học tiếng Anh, chúng ta phải học từ vừng, phải thao luyện nghe, nói, đọc viết miệt mài…thì mới nói và hiểu thông thạo. Như thế, để tiếp cận ngôn ngữ của Thiên Chúa, chúng ta phải đọc, học Thánh Kinh và cầu nguyện để quen với tâm tư, tư duy của Thiên Chúa và đọc ra những dấu lạ Chúa làm qua dòng lịch sử cứu độ. Chúng là những dấu chỉ đưa ta về với Thiên Chúa nguồn cội yêu thương, hạnh phúc và bình an.
Nhân ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót một chứng nhân kể rằng: “Con là Đỗ Minh Triệu sinh năm 1968, bị mắc chứng loạn dưỡng cơ quái ác làm teo cơ bắp từ năm 10 tuổi, tê liệt hầu như toàn thân, chỉ cử động được các ngón tay. Anh được mẹ chăm sóc, thay quần áo, tắm rửa, gội đầu, đút cơm… như bé sơ sinh. Nhiều lần phần thì bệnh hành hạ đau đớn vô cùng, phần thì thương mẹ khi nhìn mẹ tóc bạc da mồi ngày đêm vất vả lo cho con. Anh định tự tử vì muốn mẹ đừng thấy anh sống tật nguyền đau đớn, hình hài chẳng khác bộ xương cách trí… Nhưng nhìn thấy hành động yêu thương và nhớ lại lời mẹ nói với anh: “Con là lẽ sống của mẹ, cả đời mẹ được chăm sóc con như một em bé, mẹ rất hạnh phúc. Con cần can đảm sống để đối diện, thi gan, thử thách với bệnh tật. Con hãy nói với Chúa: Lạy Chúa, này con đây. Con đến để thực thi Ý Chúa!”, anh không tự tử nữa và làm theo lời mẹ bảo. Và được ơn Chúa, nhờ công ơn mẹ mà anh được bình phục hoàn toàn cho tới nay 40 tuổi. Anh nói đây là một dấu lạ, một sự tỏ rõ quyền năng của Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho con người qua người mẹ.
Vâng, tình yêu là yếu tố làm nên phép mầu cho mẹ con anh Triệu. Cũng thế, dấu lạ Chúa ban man-na và chim cút cho dân Ít-ra-en như dấu chỉ tình thương xót Chúa dành cho con người. Ngài yêu thương chăm sóc con người từng miếng ăn, cơm bánh. Đỉnh cao của hành động yêu thương của Thiên Chúa là dấu lạ Chúa Giêsu là tấm bánh trường sinh. Ai đến với Chúa, không hề đói, ai tin vào Ngài sẽ chẳng khát bao giờ. Qủa vậy, Chúa Giêsu tấm bánh cho mọi người được sống muôn đời là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúa Giêsu là tấm bánh trường sinh là dấu lạ gọi niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh và tấm bánh ấy chính Chúa Giêsu, bánh đích thực, bánh đem sự sống cho thế gian. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định rằng: “Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”.
Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương vì bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người. Cho nên, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phaolô II nói rằng xã hội hôm nay tuy là văn minh nhưng thiếu tình thương, cho nên tuy văn minh thật nhưng văn minh sự chết. Hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Lương thực trường tồn đó chính là Bánh Tình thương là chính Chúa Giêsu, Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại.
Và để đón lấy Chúa Giêsu, Bánh trường sinh làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế, khi chúng ta đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” qua mỗi Thánh lễ, chúng ta được đưa vào quỹ đạo yêu thương. Vì vậy, mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương. Tóm lại, Bánh tình thương là dấu lạ Chúa Giêsu làm cho chúng ta nên trong tình thương của Chúa. Vậy, tình thương dấu chỉ lớn nhất Chúa muốn chúng ta hôm nay hãy đọc ra, đón nhận và sẵn sàng chia sẻ cho gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội được ấm no, an bình và hạnh phúc thật sự. Cho nên, trong bài giảng nhân “Thánh Lễ Cầu Cho Việc Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc” tại nước Ecuador, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta phúc âm hóa không bằng các lời lẽ đao to búa lớn hay những quan niệm phức tạp, mà bằng “niềm vui Tin Mừng”, là niềm vui “tràn ngập cõi lòng và đời sống của tất cả những ai biết gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì những người biết chấp nhận ơn cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống vắng và cô đơn nội tâm”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay trong khuôn khổ của Năm Phúc Âm hóa giáo xứ và cộng đoàn, xin cho mỗi người chúng ta biết chia sẻ tình thương cho nhau qua việc phục vụ, thăm viếng, an ủi, hy sinh và tha thứ cho nhau. Đó chính là những việc làm và dấu chỉ cụ thể để Chúa và Phúc âm của Ngài được hiện hữu nơi môi trường giáo xứ hay cộng đoàn chúng ta vì chưng “Ubi caritas est, Deus ibi est”, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.
Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác TN 18-B148
Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác. Những thứ bánh này ăn rồi lại đói, đói lại cần phải ăn. Nhưng con người chúng ta không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta phải đặt trong bối cảnh của nó. Ðó là thời kỳ Ðức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế?
Thưa vì lợi lộc vật chất: Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại. Hơn nữa, Ngài lại vừa mới làm một phép lạ bánh hóa nhiều. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Chúa đã làm cho năm ngàn người ăn no. Chắc là họ nhủ thầm: giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Nhưng sáng hôm sau gặp lại họ, Ðức Giêsu nói thẳng với họ: "các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no". Rồi Ðức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói "các ngươi hãy tìm của ăn không hư nát".
Có câu chuyện kể rằng: Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức "Cô Dâu Do Thái".
Sau khi ngắm xong, Van Gogh thố lộ: "Tôi thà giảm thọ mười năm để được ngồi hai tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi".
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết đói. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là con người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn rất nhiều thứ đói như Flor McCarthy đã kể ra như sau:
- Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ, ai cũng muốn có người khác trọng.
- Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
- Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
- Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
- Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng, nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
- Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc và một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
- Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu, đó là đói sự sống đời đời. Và cơn đói này chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn chúng ta như Người đã nói: “Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian: "Ta là bánh hằng sống”.
Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác. Những thứ bánh này ăn rồi lại đói, đói lại cần phải ăn. Nhưng con người chúng ta không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Thân xác có của ăn của thân xác, linh hồn có của ăn của linh hồn. Của ăn của linh hồn chính là Bánh Hằng Sống, Bánh chính Chúa Giêsu ban tặng, Thứ Bánh chúng ta ăn vào sẽ không còn đói nữa như Chúa Giêsu đã nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa như thánh Augustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con được dựng nên cho Chúa, và tâm hồn con cứ lo âu khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”. Vâng, Không gì có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta ngoại trừ Thiên Chúa.
Vậy sứ điệp trong các bài Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta: tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể làm thoả mãn khi Người nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đó chính là bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta hôm nay. Amen.
Sau khi dân chúng được ăn no, họ hào hứng muốn tôn Ngài làm vua, Chúa Giêsu lánh mặt, sang TN 18-B149
Sau khi dân chúng được ăn no, họ hào hứng muốn tôn Ngài làm vua, Chúa Giêsu lánh mặt, sang bờ bên kia biển hồ. Dân chúng lại đi tìm Ngài. Cuộc tìm kiếm này không ngoài lý do họ được ăn no mà không tốn kém. Chúa Giêsu nói cho họ biết như thế: “Các ông tìm tôi, không phải đã thấy dấu lạ, nhưng chỉ vì được ăn no”. Dấu lạ họ đã thấy rồi, nhưng họ không nhận ra. Dấu lạ chính là một bằng chứng của một cái gì vượt xa miếng bánh vật chất. Nhưng giờ đây họ vẫn chưa hiểu. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua vì họ nghĩ rằng nếu Ngài là vua, Ngài có thể bảo đảm cho họ một cuộc sống ấm no, không còn phải chật vật đói khổ. Chúa Giêsu kiên nhẫn dẫn họ đi từng bước đến thực tại thiêng liêng. Ngài hướng họ đến từ miếng bánh no lòng đến một thứ “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Ai cũng như ai. Chúng ta cũng nghĩ đến cơm áo trước mọi vấn đề khác. Chân trời chúng ta nhỏ hẹp. Chúng ta không khác dân Do Thái lúc bấy giờ bao nhiêu.
Cơm ăn áo mặc là điều cần thiết, nhưng không chỉ có bao nhiêu đó: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh” mà thôi. Con người vẫn khát vọng một cái gì cao cả hơn: khát vọng được hạnh phúc, khát vọng công bằng, yêu thương, được nhìn nhận…Hơn thế nữa, con người cần vĩnh cửu. Những gì tạm bợ không làm họ thỏa mãn. Chúng ta được tạo nên cho tuyệt đối. Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Niềm vui và Hy Vọng đã nói rất rõ về điều này.
Những người sống nếp sống duy vật, dù họ giàu sang đến cỡ nào, dù họ cười nói hả hê, dù họ hưởng thụ tất cả những gì thế giới vật chất có thể mang cho họ, nhưng tâm hồn họ vẫn trống rỗng. Cuộc sống, một ngày nào đó sẽ cho họ thấy rằng họ vẫn khát khao một sự sung mãn lâu bền mà họ có thể tự tạo ra được. Càng hưởng thụ nhiều, con người càng khao khát nhiều.
Chúa Giêsu hướng đám dân về một thứ lương thực khác, không bằng lòng với thứ lương thực vật chất. Ngài đánh tan mơ mộng của họ là muốn ăn no mà không phải cực nhọc. Ngài cho họ thấy rằng no bụng hôm nay chưa đủ, vì ngày mai cũng sẽ đói. Cuộc đời này, nếu chỉ ăn rồi nghỉ ngơi rong chơi vui đùa thì đó chỉ là một giấc mơ mà thôi. Chúa bảo họ: “Hãy ra công làm việc” mới có được lương thực thường tồn... Và Ngài nhấn mạnh: thứ lương thực đó, duy có Con Người mới có thể ban, Con Người chính là “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu và xác nhận”.
Đối với đám dân này, những lời khẳng định như thế không thể gây một sự chú ý nào. Con Người là ai?
Chúa Giêsu mở cho họ con đường vào tương lai, mời gọi họ đi xa hơn, không dừng lại nơi của ăn vật chất. Những lời Ngài nói gây thắc mắc và họ đã chất vấn Ngài: “Chúng tôi phải làm gì?”
Họ đã bắt đầu nhận định ra một cái gì mà họ chỉ mập mờ nghĩ đến. Chúa Giêsu hình như đang chờ đợi họ ở ngã ba đường. Ngài nói rõ hơn, từng bước mở mắt họ ra để nhìn vào một chân trời mới: “Hãy tin vào Đấng Chúa Cha sai đến”.
Có lẽ họ đã bắt đầu hiểu Ngài muốn ám chỉ Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến. Cuộc đối thoại càng ngày càng gay gắt hơn. Đám đông càng ngày càng thắc mắc hơn: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?”
Không còn úp mở gì nữa, họ đang đi vào một cuộc khám phá mới. Họ đòi bằng chứng để tin. Họ đòi dấu lạ. Việc hóa bánh ra nhiều để nuôi họ vẫn chưa làm cho họ thỏa mãn. Họ nhắc đến ông Môsê, thần tượng của họ. Môsê đã làm những việc cả thể, còn ông? Ông làm được gì nào? Họ nhắc đến manna mà tổ tiên họ được ăn trong sa mạc. Họ cho đó là bánh bởi trời, do ông Môsê ban cho.
Đây là dịp tốt để họ thấy bánh bởi trời đích thực là gì và ai là Đấng ban cho họ bánh đó. Chúa Giêsu chờ đợi giây phút này.
Ngài nói: “Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời…” chứ không phải Môsê. Ngài khẳng định Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng họ có hiểu không? Họ chỉ nghĩ đến bánh họ thường dùng: “Xin cho chúng tôi thứ bánh đó”.
Chúng ta nhớ đến câu chuyện bên bờ giếng Giacob, người phụ nữ Samaria cũng thế: “Xin Ngài cho tôi thứ nước Hằng sống ấy để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước”.
Chúng ta cần nghe lời tiên tri Isaia: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được”.
Hãy tìm Chúa không thôi, vì Ngài luôn ở phía trước. Ngài vẫn có mặt nhưng chúng ta vẫn phải tìm Ngài luôn, vì chúng ta không nắm bắt Ngài trong tay. Ngài vẫn là chân trời đang rộng mở trước mắt chúng ta, mời gọi chúng ta lần theo ánh sáng của Ngài. Bên kia những thực tại trần gian, Ngài vẫn dọn sẵn cho chúng ta bàn tiệc của Ngài, niềm vui của Ngài vẫn trào tràn cho tất cả những ai dám đi tìm Ngài. Ngài mới là Bánh bởi trời mang lại cho chúng ta sự sống mà cái chết không ngăn chặn được.
Bánh Trường Sinh này không phải là của Ngài mà là của Cha trên trời. Ngài mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha, Đấng ban cho chúng ta mọi ơn lành: “Chính Cha Tôi cho các ông ăn bánh bởi trời.
Đây là một mạc khải quan trọng. Chúa Cha ban cho chúng ta mọi ơn lành, nhưng ân huệ lớn lao nhất chính là Người Con Một, “Đấng Ngài đã xác nhận và sai đến”, và Chúa Giêsu chính là Bánh đích thực.
Ngài đòi hỏi chúng ta đến với Ngài, tin vào Ngài, chúng ta mới không còn đói khát. Chính Ngài mới thỏa mãn cơn đói của chúng ta. Chúng ta tìm đâu ra hạnh phúc? Manna trần thế có thể thỏa mãn chúng ta trong khoảnh khắc, nhưng không thể đem lại một hạnh phúc lâu bền. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại; vì Chúa là Tình Yêu.
Con người là một hữu thể luôn đói khát. Thánh Âutinh nói: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con TN 18-B150
Con người là một hữu thể luôn đói khát. Thánh Âutinh nói: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Đói cơm bánh và đói hạnh phúc và đói cả tình yêu.
Cơn đói vật chất vẫn là nỗi khốn cùng của nhiều người hiện nay trên thế giới. Nhưng cơn đói hạnh phúc là nỗi khổ của mọi người không trừ ai. Cơn đói hạnh phúc cồn cào đến nỗi con người hôm nay dùng hết mọi khả năng và phương tiện để thỏa mãn. Người ta tạo ra đủ mọi thứ trò giải trí tiêu khiển, đủ mọi cách để hưởng thụ, mong rằng sẽ được thỏa mãn, nhưng hình như càng tìm kiếm càng thất vọng. Một tác giả nào đó đã nói: “Con người luôn thất vọng”. Mọi cố gắng để tìm hạnh phúc đều thất bại. Những trò chơi, những thú tiêu khiển chỉ làm họ khao khát hơn vì không có gì có thể thỏa mãn con người.
Chúa Giêsu, hơn ai hết đã biết rõ cơn đói của con người. Ngài đến trong trần gian là để mang lại cho con người điều mà họ không thể tìm được. Chỉ có Ngài mới làm no thỏa con người.
Ngài cho năm ngàn người ăn no trong sa mạc. Dân chúng chạy tìm Ngài. Lúc nầy Chúa mới cho họ thấy rằng, dù ăn no họ vẫn còn đói. Bánh vật chất chỉ thỏa mãn một lúc nào, vẫn không là chính yếu vì “con người không chỉ sống bằng cơm bánh”. Cần tìm một thứ bánh không hư nát mà có thể mang lại sự sống trường sinh.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với dân chúng cho chúng ta thấy Chúa đưa tầm nhìn của dân chúng, từ những thực tại vật chất đến những thực tại siêu nhiên. Đó là phương pháp Chúa dùng để giúp con người thấy được điều mà con mắt trần tục không thể thấy. Vì con người luôn xem vật chất là chính yếu và không thấy được những nhu cầu tâm linh.
Với người phụ nữ Samari, Chúa đã dùng hình ảnh của dòng nước vật chất để dần dần hướng dẫn chị đến thứ nước Trường Sinh. Ở đây cũng thế, Chúa dùng những tấm bánh vật chất để giúp họ khám phá ra một thứ bánh mang lại sự sống thường tồn.
Dân chúng nghe nói đến bánh thường tồn mang lại sự sống. Họ bắt đầu hiểu nhưng chưa rõ. Họ thắc mắc: “Phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”
Chúa đang chờ đợi câu hỏi nầy. Họ bắt đầu hiểu được cái gì còn bí ẩn chưa rõ rệt. Nhưng họ cũng còn nghi vấn có nên tin ông nầy không? Họ so sánh Chúa với ông Môsê: “Vậy ông làm gì hơn ông Môsê đã cho tổ tiên ăn bánh bởi trời”. Đây chính là lúc Chúa cho họ thấy rằng “Cha tôi là Đấng đã cho tổ tiên ăn Manna chứ không phải ông Môsê”. Đây chính là dịp để Chúa mạc khải cho họ biết khuôn mặt thật của Ngài. Nhưng vì quá chú trọng đến bánh, họ nghe mà không hiểu. Không ai dám nói câu nói động trời như thế. Sau nầy, trong một cuộc tranh luận, người Do thái đã lấy đá định ném Ngài vì họ nói Ngài phạm thượng khi gọi Thiên Chúa là Cha của mình.
Mạc khải thứ hai cũng quan trọng khi Ngài nói rõ: “Chính tôi là Bánh Trường sinh, Bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Làm sao dân chúng có thể hiểu được những lời tuyên bố lạ lùng như thế ? Vì thế họ nói: “Xin cho chúng tôi ăn mãi thứ bánh đó”.
Con người vật chất là như thế. Họ chỉ mong no bụng, chỉ trông chờ vào may mắn. Ngài biết rõ những gì trong con người, những nhu cầu, những tham lam của họ. Ngài nhẫn nại tôn trọng sức nặng của vật chất đang đè nặng trên họ. Ngài cho họ ăn no trước khi hướng họ về thứ bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho toàn thể nhân loại cho đến tận thế. Ngài không đốt giai đoạn. Ngài giúp họ từng bước vươn lên đến đỉnh cao Ngài muốn.
Cuối cùng Ngài tuyên bố một cách rõ ràng: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Không có gì rõ rệt hơn. Ngài tỏ bày cho họ thấy khuôn mặt thật của Ngài là Con của Cha trên trời và là Bánh trường sinh. Ngài cũng nhắc lại chữ tin. Ở trên, Ngài bảo họ phải tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, ở đây Ngài nói rõ không úp mở: “Ai tin vào tôi”.
Chỉ có Ngài thôi.Phải tin vào Ngài. Nhưng tin là gì? Ngài xem đó là một công việc: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Tin là một công việc quan trọng hơn mọi công việc khác.
Tin là một công việc và là một công việc quan trọng. Tin vào một người khác, vào Đấng Chúa Cha sai đến, tức là chuyển hướng tư tưởng và hành động chúng ta theo một chiều hướng khác, theo chiều hướng của Thiên Chúa. Tin chính là nhường chỗ cho Đấng Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.
Chúng ta hãy xem lại niềm tin của chúng ta. Chúng ta nói tin, nhưng có đúng như thế không? Chúng ta có cảm thấy rằng tôi không còn là trung tâm của mọi sự nữa mà chính Chúa Kitô mới là trung tâm của mọi hoạt động của chúng ta không ? Thánh Phaolô đã kinh nghiệm điều đó. Ngài cảm thấy Chúa Kitô chính là nội dung của cuộc sống : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta tưởng rằng đó là một lý tưởng xa vời chỉ có các đấng thánh mới có thể có những kinh nghiệm như thế. Không, đó là thực tại tự nhiên của kitô hữu. Mỗi kitô hữu phải sống làm một với Chúa như thế. “Sống đối với tôi là Chúa Giêsu Kitô”. Tin là mất hút trong Chúa, là chìm sâu trong Chúa. Nhưng chúng ta sẽ được bù lại bằng một hồng ân cao quí hơn, đó là Chúa Kitô sẽ sống trong ta vì Ngài muốn trở thành bánh cho chúng ta ăn: “Chính tôi là bánh trường sinh”. Và như thế, đức tin sẽ trở thành tình yêu. Yêu nhau là sống cho nhau, là nên một với nhau. Có cách nào nên một tuyệt diệu hơn khi Chúa cho chúng ta ăn lấy Chúa? Đây chính là khuôn mặt đáng yêu của Chúa chúng ta. Ngài chính là Tình Yêu. Tất cả đều nằm trong mấy từ đó.
Vì thế, giữ đạo không là một gánh nặng buồn chán mà là hạnh phúc triền miên. Đó là hạnh phúc của những kẻ tin. Các thánh đã tin, vì thế xuyên qua mọi đau khổ thử thách, các ngài vẫn thanh thản yên vui, vì các ngài biết đã tin vào ai. Tại sao chúng ta không cảm thấy hạnh phúc vì đã tin vào Chúa ? Chỉ vì chúng ta chỉ tin hời hợt.
Tôn thờ là một hôn ước. Trong Kinh Thánh, Chúa đã dùng hình ảnh của tình yêu để diễn tả mối liên hệ giữa Chúa và dân Chúa. Nơi các tiên tri chúng ta đọc thấy những lời hẹn ước đầy yêu thương của Chúa: “Từ muôn thuở Ta đã thương ngươi, “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta đã dành cho ngươi lòng xót thương”, “Vì mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương nên lòng Ta bồi hồi thổn thức. Ta thương nó, thương nó thật nhiều”.
Tình yêu Chúa đối với chúng ta được thể hiện qua một tấm bánh từ trời ban xuống là chính Ngài: “Chính tôi là bánh trường sinh”. Chúng ta có tin như thế không? “Ai đến với tôi không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”. Ngài là tất cả, vì Ngài là Con Thiên Chúa đến để ban cho chúng ta của ăn trường sinh. Đến với Ngài, tin vào Ngài, ăn lấy Ngài, chúng ta mới no đầy. Chúng ta vẫn thường ăn lấy Ngài, nhưng sao chúng ta vẫn chưa no đầy? Phải chăng vì chúng ta chỉ ăn mà không sống với Ngài? Phải chăng chúng ta chỉ biết làm theo một thủ tục? Những lần chúng ta ăn lấy Chúa, chúng ta có cảm thấy tình thương của Ngài tràn ngập chúng ta không? Và chúng ta có sống thực sự với Ngài không? Chúng ta có thực sự yêu Ngài như Ngài đã yêu chúng ta không? Bằng chứng của tình yêu chúng ta là gì? Là cho đi không tính toán? Là phục vụ khiêm tốn hằng ngày cho mọi người quanh ta? Ngài trở thành bánh cho chúng ta, chúng ta có thành bánh cho mọi người anh em không? Chúng ta chỉ yêu Ngài khi chúng ta dám sống yêu thương thực sự vì mãi mãi Chúa là Yêu Thương.