Phúc Âm: Ga 6, 1-15: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư. Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài: TN 17B-1
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài báo với tựa đề: "Nó xảy ra bên dòng sông Kwai". Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan bên dòng sông Kwai. Dòng sông này, sau này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng tên "Bridge Over The River Kwai" (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).
Gordon bị bắt làm việc để làm một đường rầy xe lửa dài 250 miles, gọi là "Đường Rầy của Sự Chết" do người Nhật xây. Gordon đã diễn tả: "Chúng tôi làm việc từ rạng đông đến mặt trời lặn... chúng tôi lao công với đầu trần và chân không, dưới ánh nắng gắt đến 120 độ. Nhiều người lính phải lảo đảo vì những cơn bệnh sốt mà vẫn phải làm công việc của mình. Những người này khi ngã qụy thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi mặt trời lặn mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù.
Nhưng, Gordon kể rằng, kẻ thù số một không phải là người Nhật hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính là những tù nhân. Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng do sự sợ hãi quá sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ không còn tin tưởng nhau. Và để lấy một chút thiện ý của người Nhật, họ đã tố cáo nhau. Những người lính Nhật đã té ra cười khi họ nhìn thấy các tù nhân cắn xé lẫn nhau.
Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này?
Sau cùng, đã có hai người, được coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, đứng lên và cố gắng làm một việc gì. Họ có được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm cầu nguyện được phát triển từ mười hai người lên đến con số một trăm.
Qua những bài đọc và chia sẻ, họ đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa. Những khó khăn trong cuộc đời của họ cũng giống như những khó khăn mà Chúa Giêsu đã từng trải qua. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn in vào sau lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu, việc Ngài làm, điều Ngài nói, Con Người của Ngài, trở nên ý nghĩa và sống động.
Các tù nhân đã từ từ không còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa. Họ ngừng tố cáo và giết chết lẫn nhau. Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn thấy rõ. Họ bắt đầu cầu nguyện, không cho chính bản thân, cho bằng cầu nguyện cho người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn gì, nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.
Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng. Cái khác biệt giữa những tiếng vui hân hoan và những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt, chính là giữa cái chết và sống.
Câu truyện của hai người lính tiền phong đã biến đổi cả một doanh trại tù nhân mang một ý nghĩa rất đặc sắc dẫn vào bài đọc Phúc Âm hôm nay.
Cũng giống như hai người lính xung phong đã làm gì mình có thể, em bé trong bài Phúc Âm cũng đã làm điều mình có thể. Em đã dâng cho Chúa Giêsu những gì mình có và để cho Chúa Giêsu làm tất cả.
Trong hoàn cảnh của em bé, Chúa Giêsu đã biến đổi vài chiếc bánh đơn sơ của em thành rất nhiều phần ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong hoàn cảnh của hai người lính xung phong ở trên, Chúa Giêsu đã lấy danh dự và niềm tin nhỏ bé của họ để làm nên những việc lạ lùng không ai nghĩ đến.
Điều mà Chúa Giêsu đã làm cho đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay, và những gì Ngài đã làm cho những người tù nhân trong thời thế chiến, thì cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta hôm nay. Ngài muốn nuôi sống hàng triệu người đang đói khổ trên thế giới. Ngài muốn biến đổi hàng triệu người đang sống trong cảnh thù hận. Nhưng Chúa Giêsu cần đến em bé để đưa cho Ngài mấy chiếc bánh đơn sơ và những con cá cỏn con. Ngài cần có những người giống như quí vị và tôi để cho Ngài những chiếc bánh và những con cá nho nhỏ. Ngài cần chúng ta cho Ngài những tài năng, những lời cầu nguyện hằng ngày, và những hy sinh chúng ta kiếm được.
Nếu chúng ta biết dâng những điều này cho Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ lãnh nhận và chúc lành cho chúng ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn: TN 17B-2
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe, sự: TN 17B-3
1. Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe, sự thoải mái thể chất - của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không?
2. Trong một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ, không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ, thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?
3. Trong những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải quyết tận gốc những đau khổ ấy?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.
Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe.
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.
2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta
Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.
Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.
3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức
Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con theo Đức Giêsu nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.
Người ta từ muôn thuở vẫn không khỏi ngạc nhiên về phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho năm chiếc: TN 17B-4
Người ta từ muôn thuở vẫn không khỏi ngạc nhiên về phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn. Nếu không có đức tin nhân loại sẽ không bao giờ có thể hiểu nổi sự lạ lùng Chúa đã làm cho con người lúc đó, đang đói, đang khát về mọi mặt. Sự diệu kỳ của Chúa là thấy nhu cầu của dân, hiểu dân, thực tế đối với dân, Ngài làm phép lạ vì dân, chứ không phải để được khen ngợi và dương oai, tự đắc. Ngài thương dân, chạnh lòng xót thương dân vì dân chúng bơ vơ không người chăn dắt Chúa cho nhân loại hiểu rằng người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn bởi lời do Thiên Chúa phán ra.
SỰ DIỆU KỲ CỦA PHÉP LẠ BÁNH VÀ CÁ HÓA NÊN NHIỀU
Đi vào phép lạ ngày Chúa làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người ăn khi dân chúng đoàn đoàn lũ lũ theo Chúa và các môn đệ để nghe Lời Chúa giảng dậy ngày hôm ấy cách đây nhiều ngàn năm, nhân loại và nhất là những người có lòng tin không khỏi bỡ ngỡ, ngạc nhiên và hết sức ca ngợi về sự lạlùng Chúa đã thực hiện cho dân ngày hôm ấy. Cái kinh ngạc lớn nhất vẫn là chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, chỉ với một lời Chúa phán bánh và cá hóa nên vô số kể khiến mọingười ăn no nê và còn thu được hai thúng đầy vun những miếng vụn (Ga 6, 12-13). Việc bỡ ngỡ hơn nữa là qua phép lạ này Chúa mời gọi con người hãy tin vào Chúa và con người không chỉ bám chặt vào vật chất mà còn phải vươn cao lên tới lương thực nước trời.
Tôi còn nhớ trong một lớp giáo lý tân tòng cho người thiểu số, hôm ấy, tôi nói về phép lạ Chúa làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều. Tôi ca ngợi và tôn vinh sự kỳ diệu của Chúa Giêsu. Một chị thiểu số khoảng 42 tuổi, giơ tay và hỏi tôi: “Thưa Cha tại sao Chúa Giêsu lại có thể làm cho bánh và cá hóa nhiều như thế để nuôi nhiều ngàn người ăn như thế, mà Chúa lại không làm phép lạ mãi mãi để nhân loại, để con người khỏi phải đi làm ?”. Tôi thấy câu hỏi này hay và quả bà thiểu số này có suy nghĩ. Tôi trả lời bà rằng: “Chúa quyền năng vô cùng. Chúa muốn con người phải cộng tác với Chúa, chứ nếu Chúa cứ làm phép lạ nuôi dân hoài hoài thì họ sẽ làm biếng và như thế họ chẳng có công trạng gì. Nhưng Chúa vẫn nuôi dân bằng chính Mình và Máu của Ngài hằng ngày." Tất cả lớp giáo lý hôm ấy đều vỗ tay tán thưởng và ưng ý vì nếu lúc nào dân cũng ngồi mà chờ ăn, chờ sung rụng thì con người sẽ chỉ như con người máy hay như con vật không hơn không kém. Phép lạ bánh và cá để minh chứng quyền năng của Chúa Giêsu khi tông đồ Philipphê làm con tính hai trăm đồng bạc cũng không thấm vào đâu, hai trăm bạc nói lên tầm quan trọng của phép lạ(Ga 6, 7).
Thánh Gioan cũng đưa ra giải pháp: “một em nhỏ có năm chiếc bánh và hai con cá” (Ga 6, 9). Đưa ra thực tế năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để thấy vấn đề ở đây là nan giải, không thể giải quyết vì số lượng dân chúng quá đông đảo. Nhưng khi con người và nhất là các môn đệ thấy sự việc không thể giải quyết được, Chúa Giêsu đã giải quyết một cách hết sức dễ dàng và hết sức hậu hỹ, thoải mái. Điều kinh ngạc và rất thực tế rất bình thường ở đây là Chúa Giêsu không làm phép lạ từ không ra có mà Ngài đã muốn con người cộng tác vào phép lạ của Ngài. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, một khẩu phần của một em bé nào đó đã được Chúa Giêsu với tình thương tuyệt đối của Ngài đã làm cho mọi người ăn no nê, dư thừa và thoải mái ngày hôm đó.
PHÉP LẠ LÀ DẤU CHỈ TÌNH THƯƠNG VÀ DẤU CHỈ CỦA ĐỨC TIN
Điều con người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, Chúa Giêsu với tình thương của Ngài đã thực hiện cách dễ dàng khi Ngài bảo các môn đệ phân phối cho dân chúng. Phép lạ đã xẩy ra khi Chúa Giêsu nói con người làm cử chỉ chia sẻ cho nhau, một cử chỉ mà con người hay chính ngay các môn đệ cũng ngại làm vì sợ mất giờ, vì sợ mệt, sợ nhọc vv... Phép lạ đã xẩy ra khi con người tin vào quyền năng vào việc Chúa sắp thực hiện. Phép lạ bánh và cá hóa nên nhiều cũng được coi tượng trưng cho Bí Tích Thánh Thể, bí tích tình thương mà Chúa Giêsu vì yêu thương nhân loại, vì phần rỗi của mọi người, đã kê vai gánh tội cho nhân loại đến nỗi hy sinh cả mạng sống vì con người, để ban cho con người và nhân loại ơn cứu chuộc. Chúa Giêsu mời gọi con người lãnh nhận Mình và Máu của Chúa vì đó là lương thực đích thực nuôi sống con người. Sự chia sẻ là dấu chỉ của tình thương, của hiệp nhất, của cảm thông. Thánh Phaolô không chấp nhận những trục trặc, những chia rẽ trong cộng đoàn vì nó phản chứng điều Bí Tích Thánh Thể muốn trình bầy, muốn làm nổi bật. Chúa kêu mời con người chia sẻ không phải chỉ những gì dư thừa mà còn cả những nhu cầu cần thiết trong thực tế, trong đời thường như của ăn, của mặc, khả năng, trí tuệ, chất xám vv...Hiểu như thế, con người sẽ sống thật hạnh phúc vì thực hiện đúng lời Chúa mời gọi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn hiểu gì về cậu bé trong phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá?
2. Chia sẻ là gì ? Bạn cảm nghiệm thế nào về Bí Tích Thánh Thể ?
Đám đông dân chúng theo Chúa vì họ đã thấy những phép lạ Người làm. Họ say sưa nghe lời: TN 17B-5
Đám đông dân chúng theo Chúa vì họ đã thấy những phép lạ Người làm. Họ say sưa nghe lời Chúa dạy và xem việc Chúa làm đến độ quên rằng họ lại quên mang thức ăn. Chúa Giê-su biết họ không có gì ăn và xung quanh vùng lại không có quán ăn, mà cho họ về nhà thì đường lại xa. Vì thế Chúa quyết định làm phép lạ hoá năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Đọc thánh kinh ta thấy mỗi lần Chúa làm phép lạ đều do người ta xin. Lần này Chúa làm phép lạ mà không có người xin, vì Chúa quan tâm đến nhu cầu thể xác của họ. Không thấy ai trong số năm ngàn người theo Chúa kêu đói và xin ăn. Các tông đồ cũng không đề nghị giải pháp nào cho họ ăn. Câu hỏi Chúa hỏi Phi-li-phê sao mua bánh ở đâu cho họ ăn chỉ là câu hỏi giả vờ để thử ông mà thôi.
Theo lời Chúa dạy thì họ đã sống lời Chúa, họ tìm kiếm Nước Chúa trước và sự công chính của Người, cho nên Chúa đáp ứng nhu cầu thể xác của họ. Bài trích sách các Vua quyển hai kể lại việc tiên tri Ê-li-sa dùng quyền năng Chúa ban để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng. Câu chuyện thánh kinh được kể lại như sau. Trong thời nạn đói, có người đem đến cho tiên tri Ê-li-sa hai mươi ổ bánh. Mặc dù không đủ cho một trăm người ăn, vị Tiên tri vẫn cho phân phát cho dân chúng. Kết quả là khi họ đã ăn no nê, mà vẫn còn dư lại (2V 4:42-44).
Phúc âm hôm nay ghi lại việc Chúa cầm bánh, tạ ơn trước khi phân phát cho dân chúng. Bằng việc tạ ơn khi phân phát, Chúa muốn dạy ta bài học là ta cần cảm tạ khi nhận lãnh. Biết cảm tạ bao hàm cái ý nghĩa tuỳ thuộc vào Chúa. Bài học thứ hai Chúa muốn dạy ta là không nên phung phí đồ ăn thức uống. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa bảo các tông đồ thu đồ ăn còn dư lại kẻo phí phạm và họ thu được mười hai thúng đày bánh còn dư (Ga 6:13). Bài học thứ ba là Chúa muốn sửa soạn tâm trí các tông đồ để họ đón nhận Bí tích Thánh thể mà Chúa sẽ thiêt lập sau này. Chúa làm phép lạ hoá bánh nuôi dân là do lòng thương xót của Người vì dân chúng không có gì ăn. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, sâu xa hơn cái việc đáp ứng nhu cầu đói khát của ăn vật chất của dân chúng.
Thánh Gio-an nói về phép lạ này như là một dấu chỉ - cái dấu chỉ khiến cho người nghe nghĩ về một thực tại khác hơn là bánh nuôi sống thân xác mà thôi. Thánh Gio-an nhắc đến lễ Vượt qua đã gần đến. Cái bữa ăn vào ngày lễ Vượt qua Biển đỏ là cái hình bóng của bữa tiệc ly. Những lời Chúa dùng để làm phép lạ hoá bánh: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi ăn (Ga 6:11) cũng giống những lời Người dùng khi truyền phép Thánh thể trong bữa Tiệc ly: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Lc 1:19). Thánh sử Gio-an ghi lại việc Chúa nuôi dưỡng năm ngàn người ăn như là dấu hiệu Người sẽ dùng để nuôi dưỡng loài người bằng của ăn thiêng liêng là Mình Thánh Người. Như vậy phép lạ hoá bánh là dấu hiệu thích hợp để sửa soạn dân chúng nghe những lời Người giảng dạy về Bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này: Bánh mà Ta sẽ ban, chính là Mình Ta cho thế gian được sống (Ga 6:51). Cũng như Chúa dùng quyền năng hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người, Chúa còn dùng quyền năng biến bánh rượu thành Mình Máu thánh Người, để làm của ăn thiêng liêng cho loài người.
Hôm nay trong tâm tình tạ ơn, ta cùng dâng lời cảm tạ Chúa, dùng lời đáp ca trong thánh lễ để nhắc nhở cho ta về đường lối quan phòng của Chúa: Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no đủ (Tv 144:16). Người giáo hữu thời giáo hội sơ khai khi dự thánh lễ, họ mang trong tâm khảm cái tâm tình tạ ơn. Tạ ơn theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thánh lễ. Như vậy theo nguyên tự Hy lạp, thì dâng lễ có nghĩa là dâng lời tạ ơn.
Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi: TN 17B-6
Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài.
Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.
Tại sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng ? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là sự thiếu cần kiệm.
Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa, Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Nhiều khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao giờ mới trả cho hết nợ.
Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
- Tích tiểu thành đại. - Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn. - Nhiều dòng nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn. - Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Dân Ý Đại Lợi thì nói:
- Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia, đó là sự tiết kiệm.
Trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
- Sở dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm trong việc chi tiêu. Tại nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Sự tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng thân.
Có một thanh niên tới một ngân hàng xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gútt bị rơi trên đất, liền gọi lại và thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.
Để kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa thãi thì một đồng, một cắc cũng không.
Đừng tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ: TN 17B-7
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của Ấn Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy: TN 17B-8
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông Ê-li-sa đã gạt bỏ những thói tục rườm rà và nhấn mạnh rằng bánh phải được phát cho dân, mặc dù bánh ấy làm từ hoa mầu đầu vụ dành để dâng cho Thiên Chúa. Và trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu phân phát bánh cho dân, họ đã đi theo Người vào nơi hoang địa.
Lương thực là nhu cầu đầu tiên của đời sống. Không có lương thực, không thể có đời sống, kể cả một đời sống cao hơn. Cho kẻ đói ăn là mối đầu tiên của việc thương yêu phần xác con người. Vào ngày phán xét sau cùng, Đức Giêsu sẽ nói: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn” hoặc “Khi Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn”.
Khi Đức Giêsu gặp dân đang đói. Người cho họ lương thực, và khi làm thế, Người biểu lộ lòng quảng đại cao cả của Người – mọi người ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy.
Đức Giêsu cầm năm cái bánh và dâng lời tạ ơn, chúng ta cũng phải dâng lời tạ ơn khi chúng ta ăn. Trong một thế giới có hàng triệu người đang đói, chúng ta không thể coi lương thực ta dùng là chuyện đương nhiên.
Mỗi ổ bánh (có thể dùng một ổ bánh thật cho cộng đoàn nhìn thấy) cũng là cả một phép lạ như những ổ bánh Đức Giêsu đã ban cho dân. Nó được làm nên bởi bàn tay của nhiều người và bàn tay của Thiên Chúa. Điều này được diễn tả rất đẹp trong lời nguyện dâng bánh trong thánh lễ “Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của mọi loài thụ tạo. Nhờ lòng nhân hậu của Chúa chúng con có được bánh này để tiến dâng. Được làm bởi hoa màu của đất và lao công của con người, nó sẽ trở thành bánh sự sống cho chúng con”.
Thiên Chúa làm cùng một phép lạ qua thời tiết bốn mùa và thời vụ. Trong cánh đồng, Người nhân lên nhiều không phải bánh mà là những hạt ngũ cốc, đến nỗi nếu chúng ta góp phần của mình sẽ có đủ cho mọi người. Chỉ một hạt lúa mì có thể sinh ra bảy mươi hạt khác.
Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề rất khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi lo lắng bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. NHưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các vũ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Chúng ta cảm nghiệm sự quảng đại ấy mỗi lần chúng ta ngồi xuống dùng bữa và đặc biệt khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể. Kinh nghiệm của lòng quảng đại phải là kết quả của việc mở rộng tâm hồn, và ước muốn quảng đại với những người khác, những người không may mắn như chúng ta.
Một linh mục cử hành thánh lễ trong một giáo xứ ở Dublin và giảng bài Tin Mừng hôm nay, đã: TN 17B-9
Một linh mục cử hành thánh lễ trong một giáo xứ ở Dublin và giảng bài Tin Mừng hôm nay, đã cho rằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều là một phép lạ của lòng quảng đại. Và cũng dễ hiểu được tại sao.
Trước hết có lòng quảng đại lạ lùng của một cậu bé đã cho năm cái bánh và hai con cá, làm cho phép lạ có thể được thực hiện. Quà tặng ấy tuy nhỏ, nhưng đối với cậu bé là một vật to lớn bởi vì đó là tất cả những gì cậu bé có. Nhiều người muốn đóng góp cho sự sung túc của người thân, nhưng không muốn cho khi không có họ.
Rồi đến sự quảng đại lạ lùng của Đức Giêsu. Người không chỉ nuôi tất cả mọi người, nhưng Người còn cho họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý, và vẫn còn dư lại mười hai thúng đầy.
Vị linh mục rời bàn thờ vào cuối thánh lễ, lòng sung sướng vì nghĩ rằng mình đã giảng một bài giảng hay. Khi ông đang cởi áo lễ trong phòng áo thì một bà đứng tuổi đến hỏi xem có người nào đã để lại một bao mua hàng ở đó không. Bà nói bà đã mang nó vào nhà thờ, nhưng giờ đây bà không tìm thấy nó. Cậu bé giúp lễ đưa cho bà một cái bao mới: không ai để lại một cái bao nào trong phòng áo.
Linh mục đang chờ đợi bà nói một câu như sau: “Hạng người nào mà lại ăn cắp đồ của người khác trong nhà của Chúa” hoặc đại loại như thế. Nhưng bà không nói như thế. Không có một vẻ gì tức giận hay cay cú, bà nói đơn giản: “Có lẽ người ấy cần nó hơn tôi”.
“Trong bao có gì?” Linh mục hỏi.
“Hai ổ bánh mì” bà đáp.
Câu trả lời của bà làm vị linh mục thích thú. Nhưng cũng làm cho ông cảm thấy phải khiêm nhường, bởi vì ông biết rằng ở địa vị của bà, chắc là ông không quảng đại như thế. Ông cũng phải khiêm nhường vì một lý do khác. Ông đã rao giảng lòng quảng đại và người phụ nữ này đã thực hành nó. Lòng quảng đại của bà xuất phát từ tâm hồn.
Chúa nuôi dưỡng chúng ta ở đây trong bữa tiệc Thánh Thể vừa chắc chắn, vừa quảng đại như khi Người nuôi dân trong hoang địa. Người nuôi dưỡng chúng ta nhiều đến nỗi khi chúng ta ra đi, chúng ta có thể nuôi dưỡng những người khác.
Lòng quảng đại phải có vị trí trung tâm trong đời sống của mỗi Kitô hữu, và chúng ta mỗi ngày cố tìm những cơ hội để thực hành lòng quảng đại với một người khác. Không chỉ bằng việc cho tặng những đồ vật, nhưng đặc biệt hơn bằng việc cống hiến – thời gian, năng lực và sự yêu thương của chính mình.
Niềm vui là một hoa trái yêu thương của lòng quảng đại. Bạn hiếm khi gặp một người quảng đại mà xấu xa. Bạn cũng sẽ không bao giờ gặp một người keo kiệt mà hạnh phúc.
Việc đọc lời cảm ơn trước mỗi bữa ăn là một điều rất tốt. Khi mô tả phép lạ hóa bánh và cá: TN 17B-10
Việc đọc lời cảm ơn trước mỗi bữa ăn là một điều rất tốt. Khi mô tả phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, các thánh sử nói với chúng ta rằng “Đức Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn”. Chúng ta cũng phải dâng lời cảm tạ khi chúng ta ăn. Trong một thế giới mà hàng triệu người đang đói, chúng ta không nên dùng bữa mà coi đó là chuyện đương nhiên.
Một buổi tối nọ, một người đàn ông ngồi xuống cùng với gia đình trước một bàn đầy thức ăn, ông và vợ ông cúi đầu trong lúc con gái họ đọc lời cảm tạ: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con. Đặc biệt chúng con cám ơn Chúa đã cho chúng con nhiều lương thực. Amen”
Bình thường, nghi thức nhỏ này đem lại niềm vui to lớn cho người cha. Nhưng tối nay vì những lý do kỳ lạ, ông cảm thấy khó chịu. Ông nhận thức rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển và có quá nhiều lương thực, trong lúc những người sống trong thế giới thứ ba lại có quá nhiều thiếu thốn. Vừa rồi, ông có đọc trên báo rằng hàng năm có khoảng bốn mươi triệu người chết vì đói và những bệnh tật có liên quan và một phần trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Và ông tự hỏi: “Tại sao chúng ta là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều quà tặng như thế? Phải chăng chúng ta xứng đáng được nhiều lương thực hơn những người khác đêm nay sẽ đói, và thay vì cám ơn Thiên Chúa, họ sẽ vào giường với tấm lòng cay đắng?”
Ông đưa ra một câu hỏi sâu xa đầy phiền nhiễu ấy, làm ông không còn thấy ngon miệng nữa. Phải chăng việc chúng ta có lương thực để ăn có nghĩa là chúng ta được hưởng ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng điều đó có nghĩa là Người nuôi sống những con cái mà Người ưa thích và để những kẻ bất xứng phải đói? Xin Thiên Chúa giữ gìn để chúng ta không chấp nhận một quan điểm như thế. Tốt hơn, xin Người hướng dẫn để chúng ta có một nhận thức đúng về lòng nhân hậu của Người.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa trở thành một lời báng bổ nếu nó khiến cho chúng ta có những ý nghĩ như thế và nếu chúng ta cám ơn Thiên Chúa vì lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta mà không ý thức về trách nhiệm mà lòng nhân hậu ấy đòi buộc chúng ta.
Để hiểu được lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong việc Người ban ơn, chúng ta phải suy nghĩ với niềm tin rằng Thiên Chúa ban cho anh chị em của chúng ta. Vì thế không một ai được nói rằng: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã chúc lành cho con với tiền bạc và của cải”, để rồi cứ tiếp tục sống như thể chỉ có một mình ta ở thế gian. Đến một lúc nào đó, người ấy nhận ra mình đã tôn thờ ngẫu tượng là của cải và tính ích kỷ của mình. Của cải dĩ nhiên là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Người, nhưng của cải cũng là những cơ hội để phục vụ mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta.
Chúng ta không thể nhân lương thực lên nhiều như Đức Giêsu đã làm. Nhưng chúng ta cũng không bắt buộc phải làm thế. Tất cả điều chúng ta phải làm là chia sẻ lương thực hoặc tiền bạc. Đức Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như đã hỏi Philipphê:”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?”.
Trong ánh sáng đó, còn gì thích hợp hơn một lời cảm tạ trước mỗi bữa ăn? Đại khái như lời cảm tạ sau đây: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con, và đặc biệt vì lương thực dồi dào này. Xin cho chúng con biết sử dụng quà tặng của Chúa sao cho những người khác cũng biết lòng nhân hậu của Chúa và cảm tạ Chúa như chúng con”.
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê: TN 17B-11
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thãi: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành sử hầu như thường xuyên của Chúa
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi nhờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế (nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ), nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hòa thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hòa lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài có suy tính cân nhắc cẩn thận…
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc tế: TN 17B-12
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc tế”. Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và cử người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày quốc tế những người thiện nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người nuôi năm ngàn người ăn no. Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. (80.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80/o của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20/o những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: TN 17B-13
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện “Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát; ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt. 14,13-21: TN 17B-14
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt. 14,13-21; Mc. 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38;Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây? Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm:
- Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. - Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao? - Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này
- Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15) Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi. Với 5000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư ? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn ?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống thì cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
Có thể coi Lời Chúa chủ nhật 17 Thường niên Năm B là phần tiếp theo, hay nói chính xác: TN 17B-15
Có thể coi Lời Chúa chủ nhật 17 Thường niên Năm B là phần tiếp theo, hay nói chính xác hơn là phần minh họa sống động nội dung giáo huấn của Lời Chúa chủ nhật 16. Thật vậy Lời Chúa chủ nhật 16 nói về tấm lòng mục tử yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Ítraen thì Lời Chúa chủ nhật 17 hôm nay kể lại phép lạ hóa bánh ra nhiều mà Đức Giêsu đã thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu tức thời của những người Do Thái đi nghe Người giảng dậy. Ngoài ý nghĩa phụng vụ của tường thuật bánh hóa nhiều chúng ta còn có thể tìm ra được những áp dụng khác cho đời sống tâm linh của chúng ta.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Phép lạ bánh hóa nhiều thể hiện lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu: Tường thuật phép lạ làm cho bánh hóa nhiều của Tin Mừng Gioan hôm nay - cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin Mừng khác - đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Chúa không kể gian nan, không nghĩ đến việc sẽ phải tìm ra của ăn ở đâu. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Elisê trong sách các Vua quyển thứ hai (bài đọc 1), thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Elisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với ngôn sứ Elisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Người đã làm cho bánh ra nhiều, còn Elisê chỉ phân phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Elisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hăng ngàn con người bụng đang đói đã thực hiện phép lạ biến năm chiếc bánh và hai con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị ngôn sứ của Thiên Chúa.
2. Tường thuật bánh hóa nhiều mang ý nghĩa cử hành phụng vụ của Cộng đoàn kẻ tin: Đối với cộng đoàn Gioan cũng như với các cộng đoàn tín hữu tiên khởi khác, bao giờ tường thuật bánh hóa nhiều cũng mang ý nghĩa phụng vụ của cộng đoàn những kẻ tin theo Đức Giêsu Kitô. Trong tường thuật bánh hóa nhiều, bao giờ tín hữu cũng được nghe lại lời văn hay công thức của việc lập Bí tích Thánh Thể: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát hay trao cho… ”. Phép Thánh Thể cũng là một thể hiện tuyệt diệu của tình thương và quyền năng của Chúa Giêsu Kitô: biến bánh rượu thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh của tín hữu. Bánh vật chất hay bánh thiêng liêng đều là để giúp người lữ khách có đủ sức đi tiếp cuộc hành trình. Những người Do Thái được ăn bánh no nê để có thể tiếp tục đi theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Còn người tín hữu hôm nay được Thánh Thể bồi dưỡng để sống cuộc sống trần thế với sứ mạng nặng nề trên hai vai: thánh hóa chính mình và biến thế giới con người thành Vương quốc của Thiên Chúa.
3. Sự đóng góp nhỏ bé của mỗi người chúng ta vào công trình vĩ đại của Thiên Chúa: Trong câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Chúa Giêsu, mà chúng ta còn thấy gía trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu em, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng như Thiên Chúa đã làm cho man-na từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Ítraen khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé. Và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích. Trong lời giới thiệu cuốn sách NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nguyên chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh, Đức Hồng Y Bernard Law (nguyên Hồng y Giáo chủ giáo phận Boston, Hoa Kỳ) đã viết:
“Một cậu bé đã dâng lên Chúa Giêsu năm chiếc bánh và hai con cá, một tặng vật đơn sơ mà Chúa Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Còn Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, trong Lời mở đầu cuốn sách ấy đã viết:
“Cũng như cậu bé trong Phúc Am, tôi tóm tắt kinh nghiệm sống (tù đầy) của tôi trong bẩy điểm: năm chiếc bánh và hai con cá. Không đáng gì, nhưng là tất cả những gì tôi có. Phần còn lại, Chúa Giêsu sẽ liệu” (Trang 10).
Đối với Đức cố Hồng Y đáng kính đáng yêu của chúng ta thì năm chiếc bánh và hai con cá là bẩy nguyên tắc sống cũng là bẩy nguồn năng lượng siêu nhiên (1o) sống giây phút hiện tại (2o) phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa (3o) cầu nguyện (4o) yêu thương cho đến hiệp nhất (5o) chọn Chúa (6o) Phép Thánh Thể và (7o) Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên tội. Còn đối với mỗi người chúng ta? Chắc chắn chúng ta chẳng có gì nhiều để góp vào công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, nhưng không thể là không đóng góp gì hết, vì nếu thiếu phần của chúng ta thì không ai bù đắp thay thế được. Thánh Âucơtinh đã nói: “Khi Chúa muốn dựng nên con thì không cần có con, nhưng khi Chúa muốn cứu chuộc con thì Chúa cần có con” Câu nói đó có nghĩa là Thiên Chúa cần có sự đóng góp của chúng ta trong công trình cứu độ chúng ta và toàn nhân loại, không phải vì chúng ta có giá trị cho bằng vì Thiên Chúa đã muốn và sắp xếp như vậy! Chúng ta hãy lấy làm vinh dự mà quảng đại dâng lên Chúa tất cả những gì chúng ta có để Chúa toàn quyền sử dụng cho vinh danh Người và lợi ích đích thực của chính chúng ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương và quyền năng. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa muốn chúng con dự phần vào công trình cứu độ của Chúa, Chúa cũng muốn chúng con cai quản thế giới này và biến nó thành một thế giới của hòa bình và yêu thương, và Chúa còn muốn chúng con chia sẻ của cải vật chất và tinh thần với nhau, chung sức chung lòng đẩy xa nghèo đói, chiến tranh, dẹp tan bất công, áp bức để xây dựng một nền văn minh tình thương giữa loài người và giữa các dân tộc. Chúng con nguyện dâng lên Chúa thiện chí, sức khỏe, thời gian, của cải, tài năng và những nỗ lực nhỏ bé của chúng con để đóng góp vào công trình vĩ đại của Chúa. Xin Chúa hãy vui lòng đón nhận.
Trong mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa đã cho chúng ta thấy được rằng ơn gọi làm tông đồ là: TN 17B-16
Trong mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa đã cho chúng ta thấy được rằng ơn gọi làm tông đồ là một hồng ân nhưng không đến từ Thiên Chúa. Hơn nữa, khác với cách tính toán và suy nghĩ của chúng ta, các sứ giả của Thiên Chúa khi ra đi làm nhiệm vụ, thì không được mang tiền bạc, bao bị, bánh trái, kể cả không được mặc hai áo. Họ phải hoàn toàn vượt lên trên những ràng buộc của vật chất. Ra đi với hai bàn tay trắng, họ chỉ được trang bị bằng một sức mạnh duy nhất đó là tình yêu, hay nói theo cách nói của Lời Chúa trong Chúa Nhật vừa qua, các sứ giả của Chúa phải biết “động lòng thương ”, nghĩa là phải có một trái tim thật nhạy cảm, để có thể thấy được những nhu cầu, những thao thức của tha nhân, và một tình yêu thật sâu sắc, để sẵn sàng đáp ứng những thao thức đó.
Khi nghe những lời giáo huấn đó, chúng ta có cảm tưởng như là Thiên Chúa không thực tế. Những đòi hỏi của Ngài quá xa vời. Ngài không biết rõ những nhu cầu thiết thực của con người. Thế nhưng, đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy không phải như vậy. Ngài không những muốn cứu linh hồn của chúng ta, mà còn chăm lo cả thân xác chúng ta nữa. Tin Mừng hôm nay cho thấy, ngay trước khi đám đông dân chúng ngỏ lời, Đức Giêsu nhìn thấy cái đói của họ, nên Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn no nê. Như thế, Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng nhờ tình yêu, Ngài ở rất gần chúng ta.
1. Tình yêu vượt trên mọi luật lệ:
Trước hết, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu vượt trên mọi luật lệ và qui ước của con người. Điều này, không chỉ đợi đến thời Đức Giêsu, nhưng cũng đã được hé mở ngay trong thời Cựu ước. Sách Các Vua thuật lại: “Trong những ngày ấy, có một người từ Baal-Salisa mang đến dâng cho người của Thiên Chúa bánh đầu mùa, hai muơi chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Người của Thiên Chúa liền nói: “Xin dọn cho dân chúng ăn”… Đoạn người ta dọn cho dân chúng ăn mà còn dư đúng như lời Chúa phán”. Chúng ta biết rằng theo luật Do Thái, bánh đầu mùa là của lễ dâng lên Thiên Chúa (x. Lv 23, 9-19). Và theo luật, bánh này chỉ có các tư tế mới được ăn (x. Lv 23, 20). Thế nhưng, đứng trước nhu cầu của những người hiện diện lúc đó. Người của Thiên Chúa, tức là ngôn sứ Êlisê đã bảo họ dọn bánh đó cho dân chúng ăn. Điều đó, cho thấy đối với Thiên Chúa tình yêu trọng hơn của lễ và con người thì lớn hơn lề luật (x. Mt 12, 1-14).
Sự kiện ngôn sứ Êlisê làm phép lạ hoá bánh ra nhiều khiến cho 100 người được ăn no, mà vẫn còn dư, cho dù trong tay ông chỉ có 20 chiếc bánh, là một lời báo trước cho một phép lạ vĩ đại hơn mà Đức Giêsu sẽ thực hiện sau này, đó là phép lạ làm cho cả một đám đông, mà chỉ riêng số đàn ông cũng đã khoảng 5.000 người, được ăn no chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá.
2. Tình yêu vượt thắng mọi nghịch cảnh:
Phép lạ hoá bánh ra nhiều mà chúng ta vừa nghe có một tầm mức quan trọng trong toàn bộ giáo huấn của Tin Mừng, bởi vì ngoại trừ phần Thương Khó - Phục Sinh, thì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng cùng ghi lại.
Để có thể thấy hết đựơc tầm vóc của phép lạ này, có lẽ chúng ta cần nhìn qua bối cảnh lúc bấy giờ. Trước hết, về mặt địa lý, thì đây là nơi hoang vắng, nghĩa là chẳng có hàng quán nào cho ra trò, vì đó là chổ Đức Giêsu và các tông đồ định nghỉ ngơi. Đồng thời, số người hiện diện lúc đó là quá đông, vì chỉ riêng số đàn ông đã độ 5.000, và cứ nhìn vào nhà thờ chúng ta đây, nếu số đàn ông độ 5.000, thì số phụ nữ và trẻ em ít nữa cũng gấp đôi số đó. Như thế, số thính giả lúc đó có thể lên đến hơn 10.000 người. Tìm thức ăn cho một đám đông giữa một nơi hoang vắng. Đây có thể nói được là một trở ngại không thể vượt qua nổi với sức của con người.
Chính tông đồ Philipphê, khi được Đức Giêsu hỏi: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”, thì ông cũng đã thú nhận sự bất lực của mình khi trả lời cho Ngài: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Khi nói: “Hai trăm bạc bánh ”, Philipphê muốn nói rằng: cho dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày công của một người (x. Mt 20, 2); và nếu chúng ta tính theo giá trị của hôm nay là 50.000 đồng/công, thì số tiền này lên đến 10.000.000 đồng. Thế mà với một số tiền như thế “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được lòng thương xót của Đức Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy.
Như thế, Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở rất gần chúng ta. Ngài luôn quan tâm đến từng nhu cầu nhỏ nhặt nhất của từng người chúng ta. Xác tín điều đó, tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca đã thốt lên: “Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Vâng, Chúa luôn mở rộng bàn tay và thi ân để cho tất cả mọi sinh vật, trong đó có cả chúng ta được no nê, được sung mãn.
3. Chúng ta hôm nay:
Thiên Chúa đang ở rất gần và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng “mở rộng bàn tay ra và thi ân” cho chúng ta, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng “mở rộng bàn tay, cõi lòng của mình” để đón Ngài đi vào cuộc đời của chúng ta hay không mà thôi (x. Kh 3, 20). Bí tích Thánh Thể chính là một phép lạ mà Đức Giêsu đang thực hiện mỗi ngày để từng người chúng ta có được nguồn lương thực; đồng thời đó cũng là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt qua các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Thế nhưng, tôi vẫn thấy còn rất nhiều người ở giữa chúng ta, nhất là các bạn trẻ đi tham dự Thánh lễ, nhưng lại chẳng cần hiệp lễ.
Như vậy, chúng ta có khác gì một người đi tham dự một bữa tiệc, nhưng đến nơi, chúng ta chẳng chịu ăn, cứ ngồi nhìn người khác ăn, thì điều chắc chắn là sau đó, chúng ta phải mang bụng đói trở về nhà. Và nhiều lần “nhịn đói” như thế, chúng ta sẽ trở thành “suy dinh dưỡng”, và hậu quả tất yếu đối với những người “suy dinh dưỡng” là họ sẽ không đủ sức để làm bất cứ việc lành nào, và rất dễ mắc bệnh, tức là phạm tội khi bị các “vi trùng” tức là các cơn cám dỗ của ma quỷ tấn công.
Chớ gì, trong Thánh lễ này, tất cả chúng ta đều mở rộng tâm hồn mình, để sẵn sàng đón Chúa vào lòng. Và nhờ sức mạnh của Chúa nâng đỡ, khi trở về nhà, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức sống yêu thương nhau, như lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc hai, đó là: “hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái,… lấy bình an hoà thuận làm giây ràng buộc”. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa chúng ta không ở xa, nhưng rất gần. Ngài đang ở trong quý ông bà anh chị em, đang ở trong tôi, như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20a). Amen.
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh: TN 17B-17
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó ? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên: TN 17B-18
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.
Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe.
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.
2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta
Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.
Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.
3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức
Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!
Đức Giêsu thương dân chúng đã theo Người vào trong hoang địa. Người chủ động lo cho họ: TN 17B-19
Đức Giêsu thương dân chúng đã theo Người vào trong hoang địa. Người chủ động lo cho họ có bánh ăn, bằng việc xử dụng năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ của một bé trai để làm phép lạ nhân ra nhiều và phân phát cho dân được ăn no nê. Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Mô-sê Mới của thời Tân Ước. Người ban Man-na mới là Bánh và cá được nhân ra nhiều, như là hình bóng của Bánh Hằng Sống là Thân Mình Người trong Bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập sau này.
2) Chú thích:
- Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển hồ Galilê, cũng gọi là Biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của Người Do Thái (Ga 6,1-4):
+ Biển hồ Galilê: Gọi là Galilê vì biển hồ này nằm ở xứ Galilê, miền Bắc nước Pa-lét-ti-na. Cũng gọi là Biển hồ Tibêria (x. a 6,1), vì năm 26 vua Hêrôđê Antipa cho xây thành phố Tibêria ở gần Biển hồ này, rồi người ta lấy tên thành đó để gọi Biển hồ. Ngoài ra Biển hồ còn có tên là Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1)
+ Đức Giêsu sang bên kia Biển hồ: Vì muốn tránh sự ồn ào của đám đông dân chúng (x. Mt 14,13), nên Đức Giêsu tìm đến nơi hoang vắng và yên tĩnh để được nghỉ ngơi với các môn đệ (x. Mc 6,31).
+ Có đám đông dân chúng theo Người: Đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu vì hâm mộ nghe lời Người giảng và muốn được chứng kiến những phép lạ Người làm.
+ Đức Giêsu lên núi: Núi nói đây thực ra chỉ là một trong những ngọn đồi gần thành Ca-phác-na-um. Nhưng núi cũng là nơi con người gặp gỡ Đức Chúa để được Người mặc khải (x. Mc 9,2). Đức Giêsu lên núi giống như Môsê lên núi Xi-nai để nhận Lề Luật Giao Ước trong thời Xuất hành (x. Xh 24,13.15.18).
+ Và ngồi đó với các môn đệ: Ngồi là tư thế của vị Thầy (Ráp-bi) khi ban lời giáo huấn cho đồ đệ (x. Mt 13,1; 15,29).
+ Sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái: Lễ Vượt Qua là lễ kỷ niệm việc Môsê giải thoát dân Do Thái khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, để được về miền Đất Hứa là xứ Canaan (x. Xh 3,17), nơi mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Abraham và dòng dõi ông đến muôn đời (x. St 12,1; Đnl 34,4).
- Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philipphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,5-7):
+ Người hỏi ông Philipphê: Sỡ dĩ Đức Giêsu hỏi ông Philipphê vì ông là dân địa phương, quê ở Bét-sai-đa, một thành phố nằm ở phía Đông Bắc gần cửa sông Giođan trong vùng Biển Hồ Galilê này, Bét-sai-đa còn là quê hương của hai anh em Anrê và Phêrô nữa (x. Ga 1,44).
+ Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?: Câu hỏi này cho thấy Đức Giêsu là người trước hết quan tâm đến nhu cầu của đám đông dân chúng và còn tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ.
+ Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi: Thời kỳ Xuất hành, Đức Chúa đã nhiều lần thử thách sự trung thành của dân Ítraen, xem họ phản ứng thế nào khi gặp những hoàn cảnh khó khăn. Như khi bị đói ở sa mạc Xin, Đức Chúa phán rằng: “Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Lề Luật của Ta hay không” (x. Xh 16,4). Hoặc khi họ thiếu nước uống ở Rơ-phi-dim, họ đã gây với Môsê. Bấy giờ Đức Chúa truyền cho Môsê lấy gậy đập vào tảng đá, làm cho nước chảy ra thành dòng suối cho dân uống. Môsê đã đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, vì tại đó con cái Ítraen đã gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói rằng: “Có thực là Đức Chúa đang ở giữa chúng ta không ?” (x. Xh 17,1-7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi hỏi Philipphê kiếm đâu ra bánh cho đám đông ăn, Đức Giêsu chỉ muốn thử xem ông có tin vào quyền năng của Người trong hoàn cảnh khó khăn này hay không ? Còn Người thì đã có quyết định sắp phải làm gì rồi.
+ “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”: 200 đồng là một số tiền lớn, tương đương với 200 ngày công lao động của một người thợ trung bình, vì lương công nhật thời bấy giờ là một đồng (x. Mt 20,2.9).
- Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?” (Ga 6,8-9):
+ Anrê anh ông Simon Phêrô thưa với Người: Anrê có lần đã dẫn đưa em mình là Simon đến giới thiệu với Đức Giêsu (x. Ga 1,42). Lần này ông cũng phát hiện ra có một bé trai có thực phẩm và dẫn em đến giới thiệu với đức Giêsu.
+ “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá: Bánh lúa mạch là loại bánh mì rẻ tiền, làm bằng lúa mạch là thức ăn dành cho súc vật. Đây là bánh của những người thật nghèo. Cá của em nhỏ mang theo là loại cá nhỏ ướp muối. Vì thời đó người ta chưa có phương tiện bảo quản cá tươi lâu được. Cá muối là món ăn bình dân của dân chài lưới ven bờ hồ.
+ “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !”: Nói lên sự bất lực của các tông đồ trước nhu cầu lớn lao của dân chúng đang đói và cần được ăn.
- Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý:
+ Anh em cứ bảo người ta nằm xuống đi: Nằm ngả xuống hay ngồi xuống cách thoải mái là tập tục nằm nghiêng khi ăn uống của vùng Cận Đông. Theo Máccô, việc người ta ngồi thành từng nhóm một trăm hay năm mươi (Mc 6,40), không những tiện lợi cho việc phân phát bánh theo thể thức Môsê đã làm trong cuộc Xuất Hành (x. Xh 18,21.25), mà còn nói lên tinh thần hiệp thông phải có, khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể sau này (x. 1 Cr 11,18-21).
+ Chỗ ấy có nhiều cỏ: Đất có nhiều cỏ cho thấy khi ấy đang là mùa Xuân, là thời gian mừng lễ Vượt Qua của dân Do Thái. Cây cỏ xanh tươi gợi lên hình ảnh Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11). Người dẫn đàn chiên Ítraen Mới đi vào cánh đồng cỏ xanh tươi, để họ đươc ăn uống no nê và được sống cách dồi dào (x. Tv 23,1-3; Ga 10,10).
+ Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó: Trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mátthêu, Máccô, Luca), Đức Giêsu trao bánh và cá cho môn đệ để họ đi chia cho dân chúng (x. Mt 14,19; Mc 6,41; Lc 9,16). Còn trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu tự phân phát bánh đã được nhân ra nhiều cho dân chúng. Đây là những cử chỉ Người sẽ làm trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua, như Tin Mừng Mátthêu viết: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ&” (Mt 26,26). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều chính là hình bóng của Bí Tích Thánh Thể.
- Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng (Ga 6,12-13):
+ No nê: Theo Hy ngữ cổ, no nê (Chor-ta-zes-thai) chỉ việc cho súc vật ăn rơm. Khi dùng cho người thì có nghĩa là ăn no đến ngán !
+ “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”: Tại sao lại có nhiều miếng bánh thừa như vậy ? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì cho các tôi tớ phục vụ bàn ăn. Phần thừa đo gọi là pe-ah. Số bánh còn thừa là mười hai giỏ đầy do mười hai Tông Đồ thu lượm. Mỗi ông mang theo một giỏ (ko-phi-nos). Cái giỏ ở đây có hình giống cái chai được người đi đường mang theo bên mình. Sách Giu-vơ-nan (Juvenal) có đề cập đến cái giỏ và cuộn rơm của các người Do Thái du mục. Cuộn rơm là một gói cỏ khô dùng làm đệm ban đêm. Còn chiếc giỏ là vật bất ly thân khi đi đường của họ. Phần vì cá tính của người Do Thái là thích thu nhặt những gì có chút giá trị tìm thấy trên đường đi; Phần vì họ muốn đem theo phần ăn của mình để giữ trọn điều luật qui định về sự tinh sạch theo luật pháp Môsê.
- Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ; Đấng phải đến thế gian !” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình (Ga 6,14-15):
+ Hẳn ông này là vị ngôn sứ: Vị ngôn sứ nói đây đã được Môsê đề cập đến như sau: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15). Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi rằng: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ giống như ngươi, để giúp chúng. Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Đnl 18,17-18).
+ Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình: Người Do Thái đang bị người Rôma cai trị và họ khao khát trông mong Đấng Thiên Sai mau đến để làm vua của họ và sẽ cầm quân giải phóng họ khỏi đô hộ. Họ đã nhiều lần khởi nghĩa và đều bị quân Rôma đàn áp giết hại thật dã man. Đức Giêsu hiểu rõ sứ mệnh của Người không nhầm làm ông vua trần thế theo ước muốn của Người Do Thái, nên Người đã lánh lên núi gặp gỡ Thiên Chúa.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ! (Ga 6,9):
Câu chuyện: Mẹ Têrêsa Can-Quýt-Ta:
Thành phố Can-quýt-ta và nhiều thành phố khác trong toàn nước An độ, đều có rất đông những người nghèo khổ sống ngoài đầu đường góc phố. Ban ngày họ đi khắp nơi ăn xin. Một số thanh thiếu niên lại rơi vào tật nghiện hút ma túy. Chúng liên kết thành băng đảng đi cướp giựt để có tiền mua thuốc hút. Lúc đêm về, họ đến nằm ở những nơi hẻm cụt bẩn thỉu vì không có chỗ nương thân. Mỗi buổi sáng, người ta lại phát hiện được vài ba xác chết vô thừa nhận nằm tại những bãi rác hôi thối, đầy ruồi muỗi chuột bọ& Thế rồi vào một ngày kia, một người đàn bà trung niên đã đến với những người nghèo khổ bất hạnh này. Nhìn thấy những tệ nạn xã hội, những bệnh nhân sắp chết, những trẻ em bụi đời không được ai quan tâm giáo dục đã trở thành những tên du đãng đầu trộm đuôi cướp… Người đàn bà kia tự nhủ: “Ta phải làm gì cho những con người nghèo khổ đáng thương này đây ?”. Thế rồi bà đã dồn tất cả số tiền để dành được bao nhiêu năm qua để thuê một căn nhà cũ, với sàn nhà bằng gỗ. Hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận đem về những đứa trẻ mồ côi để nuôi nấng dạy dỗ. Bà dùng căn nhà cũ nát mới thuê này để làm nơi dạy học, dù còn thiếu mọi thứ đồ dùng cho việc dạy học như bàn ghế thầy giáo và học sinh, bảng đen treo tường..... Bà dùng sàn nhà thay cho bảng và viết phấn lên nền đó cho lũ trẻ học tập. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu chống lại sự dốt nát và các tệ nạn xã hội. Sự dấn thân phục vụ người nghèo khổ của bà đã được nhiều người, nhiều tổ chức nhân đạo hỗ trợ. Cho tới nay bà đã có 80 trường học được trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động, 70 bệnh viện cho người phong cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện mồ côi nuôi trẻ mồ côi vì bị cha mẹ bỏ rơi. Nhất là bà đã có tới 40 ngàn cộng tác viên trên khắp thế giới trợ giúp. Người phụ nữ đầy lòng nhân ái ấy không ai khác hơn là Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta.
Suy niệm:
+ Một cậu bé chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ đã đem đến cho Đức Giêsu để thiết đãi đám đông dân chúng và nhờ quyền năng của Chúa mà hơn 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ đã được ăn no. Đây chính là việc mà Mẹ Têrêsa đã làm: Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Người nhân lên gấp bội, vượt mọi mong ước của bà !
+ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị trong lần đến thăm Si-cót-len (Scotland) vào năm 1982 đã phát biểu với các thanh niên tại Ê-đinh-bớc (Edingburgh) như sau: “Giờ đây cha xin nhấn mạnh điều này là: Cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã trao cho Đức Giêsu toàn bộ khả năng của cậu, để Người dùng chúng mà thiết đãi đám đông 5 ngàn người được ăn no cách lạ lùng, và cuối cùng đồ ăn vẫn còn dư. Đời sống của các bạn trẻ chúng con cũng giống như thế: Nếu phải một mình đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, có lẽ các bạn trẻ chúng con sẽ thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai đen tối. Nhưng cha xin khẳng định với các bạn trẻ chúng con điều này là: “Nếu chúng con biết đặt cuộc đời của chúng con vào tay Đức Giêsu, thì Người sẽ đón nhận và chúc lành cho các con. Người sẽ biến đổi cuộc đời các con trở nên muôn phần tốt đẹp hơn, vượt mọi điều ước mong của các con”.
+ Vậy mỗi người chúng ta đang đặt trong tay Đức Giêsu bao nhiêu phần trăm khả năng và cuộc sống của chúng ta để Người xử dụng nhân lên nhiều theo ý Người muốn ? Chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay và Mẹ Têrêsa không ? Đức Giêsu hôm nay cũng đang tiếp tục nói với mỗi người chúng ta: “Ta cần tài năng và lòng quảng đại của các con. Ta cần đôi chân của các con để đến với người nghèo trong các xóm lao động nghèo hèn. Ta cần đôi tay của các con để chia sẻ và phân phát cơm bánh vật chất thuốc men cho những người đang đói khát tật bệnh. Ta cần miệng lưỡi các con để động viên và an ủi những người đau khổ tuyệt vọng. Ta cần tình thương của các con để có thể dấn thân đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng Nước Trời và ban ơn cứu độ cho hết mọi người”.
Quyết tâm: Trong những ngày này tôi quyết tâm sẽ làm việc gì cụ thể để hợp tác với Đức Giêsu trong công tác xóa đói giảm nghèo, thanh toán các tệ nạn xã hội, xây dựng một xã hội trật tự, công bằng, văn minh và đầy tình nhân ái ?
2) Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?”:
Câu chuyện: Bác ái bằng hành động hơn là lời nói suông:
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bái ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cải để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói: “Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay đi !”. Dòng Bác Ai Vinh Sơn ra đời từ hôm đó. Suy niệm:
+ Trước đám đông dân chúng đi theo, Đức Giêsu đã nhận ra họ bị đói và đang cần bánh ăn và Người đã nói lên ưu tư với Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?”. Tình yêu thương tha nhân của các tín hữu chúng ta cũng phải cụ thể và thiết thực đi vào hành động hơn là dừng lại ở sự tranh cãi suông, như thánh Giacôbê dạy: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14-17).
+ Khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn báo trước việc Người sắp làm là thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Qua bí tích này, Đức Giêsu sẽ biến bánh rượu vật chất trở nên Thịt Máu Người, trở thành Bánh Trường Sinh ban sự sống đời đời cho những ai thành tâm lãnh nhận. Sự đói khát Ơn Chúa tuy khó cảm thấy, nhưng cũng gây ra sự mệt mỏi chán nản lười biếng việc lành cho các tín hữu, giống như khi người ta bị đói khát cơm bánh vật chất thể xác vậy.
Quyết tâm: Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn nhiều người bị đói khát cơm ăn, áo mặc, thuốc men..... cần được quan tâm giúp đỡ. Họ cũng đang đói khát lương thực thiêng liêng tinh thần là Lời Chúa và Thánh Thể. Vậy noi gương Đức Giêsu, tôi phải làm gì để giúp đỡ những người đang đói khát, thiếu thốn cái ăn cái mặc, các bệnh nhân đau nặng không tiền thuốc thang chữa trị, các trẻ em đường phố thất học, không ai nuối nấng dạy dỗ..... ở trong khu vực tôi đang sống ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Dù Chúa biết rõ việc mình sắp làm, nhưng Chúa vẫn hỏi Philipphê xem phải kiếm đâu ra bánh cho dân đang bị đói. Qua đó, Chúa muốn các Tông Ịồ cộng tác với Chúa trong việc phục vụ bàn ăn cho dân. Và cuối cùng Anrê đã tìm ra một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, là thức ăn của những người nghèo. Tuy nghèo, nhưng cậu bé đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Và chỉ với sự đóng góp nhỏ bé là năm chiếc bánh và hai con cá đó, Chúa đã nhân ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người được ăn no. Thực ra với quyền năng của mình, Chúa có thể làm được mọi sự không cần ai phải góp sức. Thế nhưng Chúa vẫn mời gọi, vẫn chờ đợi sự đóng góp của loài người chúng con. Dù sự đóng góp của chúng con thật ít oi tầm thường, nhưng Chúa vẫn xử dụng và làm phát sinh hiệu quả tăng gấp lên nhiều lần.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con biết quảng đại, biết mở rộng con tim để vui vẻ góp phần giải quyết những khó khăn và đau khổ của tha nhân. Phần đóng góp của con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người bất hạnh, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đói khát, một manh áo cũ cho người không có áo che thân, một lời ủi an cho người đau khổ vì sự hiểu lầm và bị đối xử bất công, một sự khoan dung tha thứ đối với những ai làm hại chúng con. Xin cho chúng con thiết tha cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi thế gian. Xin cho chúng con ý thức bổn phận của chúng con là mỗi ngày làm vui lòng ít là một người, phải làm ít là một việc thiện giúp ích tha nhân, để con trở thành khí cụ bình an của Chúa, làm cho Nước Chúa ngày một trị đến nơi các tâm hồn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Cơm bánh hàng ngày chúng con ăn rồi sau đó lại thấy đói. Lương thực làm cho chúng con được no thỏa và đạt tới sự sống đời đời chính là Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Lạy Mẹ, Ngày nay có bao nhiêu người đang khao khát nghe giảng Tin Mừng, đang cần sự cảm thông chia sẻ của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con ý thức rằng: Mỗi người chúng con phải trở nên “tấm Bánh Thánh được bẻ ra cho một Thế Giới Mới”. Xin giúp chúng con biết dùng Lời Chúa để an ủi những người thất vọng cho họ được ơn cứu độ và hy vọng hạnh phúc muôn đời. Xin cho chúng con biết noi gương các tín hữu thời Giáo Hội Sơ Khai: “Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự Lễ Nghi Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
Lạy Mẹ Maria. Trong những ngày này, xin Mẹ giúp chúng con biết siêng năng tham dự Thánh Lễ và dọn mình Rước Lễ sốt sắng, để con được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, được tham phần vào sức sống thiêng liêng của Chúa. Trong Thánh Lễ, xin cho con đón nhận dồi dào hồng ân của Chúa, để khi ra về giữa cuộc sống thường ngày, con có thể chia sẻ tình thương cứu độ của Chúa cho hết mọi người chúng con tiếp xúc.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. Trích Hiệp Sống Lời Chúa
Trong ba trích đoạn Tin Mừng tuần này, hình ảnh cá và bánh được đề cao và nổi bật. Cá xuất: TN 17B-20
Trong ba trích đoạn Tin Mừng tuần này, hình ảnh cá và bánh được đề cao và nổi bật. Cá xuất hiện trong Mátthêu qua hình ảnh chài lưới bên bờ biển. Bánh trong Luca qua hình ảnh người hàng xóm vay tạm ba chiếc bánh của người láng giềng để tiếp bạn trong trường hợp khẩn cấp. Và sau cùng là cá và bánh trong Gioan khi Chúa nuôi đoàn lũ dân chúng bằng phép lạ với hai con cá và năm chiếc bánh. Cá và bánh trong cả ba Phúc âm là những hình ảnh liên quan đến sự sống. Và qua những hình ảnh này, Chúa Giêsu cũng muốn nói với mọi người về một sự sống thiêng liêng, cao cả, và vô cùng quan trọng mà Ngài và các môn đệ Ngài đang nỗ lực rao giảng: Sự sống đời đời. Sự sống tâm hồn.
Nhưng để dân chúng lãnh hội được những mạc khải về mầu nhiệm nước trời, về sự sống đời đời, về Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, Chúa Giêsu cũng hiểu rằng, Ngài cần phải nuôi sống phần xác của họ trước đã. Hành động của Chúa mang tính chất rất tự nhiên, rất con người. Hành động này phù hợp với quan niệm và suy tư của con người, trong đó có người Việt Nam: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng câu hỏi ở đây là tại sao chỉ có hai con cá và năm chiếc bánh? Tại sao không phải là năm con cá và hai chiếc bánh? Hay đó chỉ là một sự tình cờ.
Đối với con người thì có sự tình cờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì làm gì có sự tình cờ. Do đó, hẳn là Chúa có mục đích của Ngài. Ngài muốn qua hình ảnh hai con cá và năm chiếc bánh ấy nhắc nhở các môn đệ và mọi người rằng trong tất cả hành động của mình, dù là bất cứ dưới hình thức nào, thì Chúa cũng phải có mặt, đồng hành và ở bên con người. Không những thế, Ngài mới là Đấng có toàn quyền trên mọi sự.
Hai con cá bơi lội bên nhau. Hai con cá có thể làm nên một gia đình cá. Hai con cá bơi lội bên nhau tạo nên một hình ảnh trọn vẹn, đầy đủ, và sống động. Hai con cá sóng đôi bên nhau, cũng chính là hình ảnh người tông đồ sóng bước bên Chúa, đồng hành bên Chúa, và không hành động lẻ lỏi, riêng rẽ. Khi sai các môn đệ ra đi, Ngài đã sai họ đi có đôi. Hình thức hoạt động này là do sáng kiến của Chúa và cũng do chính Ngài truyền cho các môn đệ. Nó nhắc nhớ sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời của mỗi môn đệ, cũng như sự giúp đỡ của Ngài trong các hoạt động của họ. Như hai người bạn thân đồng hành trên một hành trình xa, Ngài muốn luôn có mặt bên các môn đệ và nâng đỡ họ mỗi khi cần thiết. Người môn đệ không thể nào làm nên phép lạ, không thể nào nuôi sống hàng ngàn con người nếu không có Chúa. Chúa mới là Đấng làm nên phép lạ, còn các môn đệ chỉ là người phân phát các phép lạ.
Và tại sao lại là năm chiếc bánh. Chiếc bánh chính là lao công của con người. Là sản phẩm của trái đất. Hình ảnh lẻ loi của năm chiếc bánh cũng lại cho thấy cái khác biệt và sự quyết định vẫn là Chúa. Con người chỉ đóng góp phần mình một phần trong những nỗ lực và hoạt động. Song song với Chúa như hai con cá, và bên nhau như bốn chiếc bánh. Còn chiếc bánh thứ năm đó là ngón tay, là quyền năng, và là sức sống của chính Ngài. Ngài muốn dành quyền tối thượng, và Ngài chính là cội nguồn của mọi ân phúc.
Hình ảnh của đoàn lũ theo Chúa hôm đó, sự khó xử và cùng bí của các môn đệ trước nhu cầu vật chất và tâm linh của những người được trao phó cho họ và có mặt trong cuộc đời của họ, đã chứng tỏ rằng họ chẳng là gì cả: “Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philípphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” (Gio 6:5). Và Gioan đã ghi tiếp: “Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm” (Gio 6:6). Đúng như Chúa đã tiên đoán, Philípphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút” (Gio 6:7). Cả Anrê, em của Phêrô cũng tỏ ra hoài nghi trước khả năng nuôi sống đám đông hôm đó: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (Gio 6:9). Nhưng rồi với sức lao công của con người, và với sự cộng tác của con người, bằng hai con cá và năm chiếc bánh dân chúng hôm đó đã được ăn no nê, và “họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn, do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư” (Gio 6:13).
Hình ảnh phép lạ Gioan ghi lại hôm nay, chẳng qua là những nét vẽ thêm vào và cần thiết về bức tranh được sai đi trong đó Máccô đã phác họa. Nó giúp ta mường tượng như thấy Chúa Giêsu đang nói về sứ mạng của kẻ được sai với các môn đệ của Ngài. Nghe được Ngài đang căn nhặn các môn đệ cần phải đem theo những hành trang gì, và phải hành động như thế nào. Và hình ảnh các ông được sai đi.
Các môn đệ được sai đi, đối diện với cuộc đời và con người. Họ vào đời với sứ mạng rao truyền tin mừng cứu độ, và để minh chứng cho sự thật về Tin Mừng ấy, họ được trao cho quyền trừ tà ma, và chữa lành. Cũng như hôm nay, họ được tham dự vào quyền làm phép lạ, và trao ban ân sủng. Nhưng họ cần đến ngón tay thần linh của Thiên Chúa. Họ cần phải mang theo “cây gậy”, và không được đi một mình. Cũng như hình ảnh hai con cá sinh động và bơi lội bên nhau. Cũng như hình ảnh của sức lao công và hoa mầu ruộng đất mà con người đã chế biến thành năm chiếc bánh. Trong đó, chiếc bánh thứ năm chiếm địa vị rất quan trọng, vì nó là ngón tay của Thiên Chúa, ngón tay thực hiện phép lạ.
Hai con cá và năm chiếc bánh. Nếu cần thì Chúa chỉ dùng một con cá và một chiếc bánh cũng đủ nuôi dân chúng vậy, đâu cần đến hai con cá và năm chiếc bánh. Nhưng như vậy thì đâu còn là lao công của con người. Đâu là sự cộng tác của con người và của các môn đệ? Chúa dư lực làm phép lạ một mình như Gioan đã ghi: “Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm” (Gio 6:6). Nhưng Ngài vẫn cần thêm sự cộng tác của con người nữa. Vì Ngài muốn con người được hân hạnh đóng góp phần vào công việc thực thi các phép lạ của Ngài.
Chúa cũng có thể dùng Manna để nuôi dân chúng hôm đó, như Ngài đã nuôi tổ tiên họ trong sa mạc. Nhưng rồi, Ngài lại cần đến năm chiếc bánh. Đó là sự pha trộn của mồ hôi, của lao công con người, nhưng cũng là của hoa mầu đến từ ruộng đất. Ở đây, Chúa lại cần đến con người để biến lúa thành bánh, và đem phân phát cho nhau, còn Chúa thì “cầm bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tùy thích” (Gio 6:11). Con người đi đánh cá, phơi khô. Con người gieo giống, gặt hái, lấy lúa làm bánh. Nhưng Chúa thì tạ ơn và phân phát. Các môn đệ là những người giúp Chúa phân phát.
Ôi!. Tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người và đối với từng người. Người tạo dựng nên con người, nuôi sống con người, nhưng lại nhờ những sản phẩm do bàn tay con người làm nên để làm thành phép lạ. Ngài muốn sự cộng tác của con người đối với chương trình Cứu Độ của Ngài như hai con cá bơi lội bên nhau, như những chiếc bánh trong rổ bánh. Nhưng như chiếc bánh thứ năm trong rổ bánh của tình thương và phép lạ, Chúa muốn con người hiểu rằng Chúa mới là tất cả, cùng đích và là Đấng làm nên những phép lạ.
Điều thú vị trong bài Tin Mừng hôm nay là thánh sử Gioan đã sử dụng chữ "lên". Lần thứ nhất: TN 17B-21
Điều thú vị trong bài Tin Mừng hôm nay là thánh sử Gioan đã sử dụng chữ "lên". Lần thứ nhất thánh sử kể Đức Giêsu "lên núi giảng dạy", lần thứ hai diễn tả Đức Giêsu "ngước mắt lên nhìn đám đông dân chúng", lần thứ ba thánh sử nói "Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện".
Đức Giêsu đi lên núi giảng dạy. Đối với quan niệm của người Do Thái, núi là nơi con người có thể gần gũi và gặp gỡ Thiên Chúa. Đức Giêsu lên núi giảng dạy là lúc Ngài trao trọn việc giảng dạy dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa Cha. Đồng thời trên vị trí cao của triền núi Ngài sẽ dễ dàng nhìn bao quát thính giả, cũng như thính giả có thể nghe rõ lời giảng dạy của Ngài. Tuy nhiên có một sự mâu thuẫn: Tại sao Đức Giêsu đang ở trên núi còn dân chúng đang ở dưới triền núi mà Ngài lại phải "ngước mắt lên nhìn dân chúng"? Phải chăng dẫu rằng Đức Giêsu đang đứng trên bục giảng nhưng lòng Ngài vẫn gần gũi với người dân và luôn hoà mình vào những cảm giác của họ. Ngước mắt lên là cung cách của người đang ngồi nơi vị trí thấp, một người đang cúi xuống. Thật vậy, Đức Giêsu đã và đang cúi xuống chỗ thấp nhất của nhân loại trong tư cách của một người bạn cùng đồng hành với thân phận con người yếu đuối. Vì thế Ngài rất bén nhạy trước những nhu cầu nơi những người thân cận và luôn đi bước trước đến với họ. Tin Mừng nói rõ Ngài chỉ thử đề nghị các tông đồ cung cấp lương thực cho đám đông dân chúng vì chính Ngài đã biết việc Ngài sắp làm. Sau khi được ăn no nê, dân chúng định tôn phong Ngài lên làm vua, biết thế Ngài liền đi lên núi cầu nguyện. Lại một lần nữa Đức Giêsu tiếp tục lên núi. Đây là lần thưa ba thánh Gioan dùng chữ "đi lên".
Lược qua cách hành văn của thánh sử Gioan, chúng ta khám phá ra tâm tình hướng thượng liên lỷ trong con người nội tâm sâu xa của Chúa Giêsu. Thật vậy, Ngài đã giảng dạy Lời Hằng Sống qua tương quan kết giao mật thiết với Thiên Chúa Cha dấu ái. Cũng chính nhờ nguồn thánh sủng nhiệm mầu này, dòng suối tình yêu của Cha nhân ái tiếp tục tuôn chảy xuống nhân loại qua bí tích Thánh Thể: Đức Giêsu trở nên lương thực hằng sống nuôi ngàn muôn thế hệ. Hay nói cách khác, càng kết chặt trong tương quan với Cha, tình yêu đối với nhân loại nơi Chúa Giêsu càng sâu đậm và bén nhạy. Do đó, lúc Ngài ngước mắt lên nhìn dân chúng cũng chính là khi Đức Giêsu ngước mắt hướng nhìn lên Cha để khám phá thánh ý của Người và tận tâm thực thi. Thật tuyệt vời về một cân bằng hỗ tương giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu dành cho con người.
Nhờ thế Ngài đã đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi từng người anh em bé mọn, đã xả thân phục vụ họ trong cung cách khiêm tốn đầy tình mến yêu. Sự phục tùng này được thúc đẩy bởi lời đáp trả xin vâng hơn là tìm kiếm tư lợi cho riêng mình. Đó chính là lý do giải thích lối ứng xử Đức Giêsu đi lên núi khi dân chúng tìm Ngài. Vâng, đối với Đức Kitô:
Thiên Chúa Cha là nguồn mạch xuất phát sứ mạng cứu thế của Ngài.
Thiên Chúa Cha là trọng tâm cho quỹ đạo đời sống truyền giáo của Ngài.
Và Thiên Chúa Cha là đích điểm duy nhất trọn cuộc đời Đức Kitô quy hướng về.
Là những Kitô hữu, người mang Đức Giêsu, hiện thân của Đức Kitô giữa trần thế, cuộc sống của chúng ta cần được mô phỏng theo gương Đức Giêsu. Để dẫu đời sống của chúng ta mang nét đều đặn, nhàm chán hay đang phải đương đầu trước những thách đố, đang giằng co giữa chọn lựa của tham vọng, sở thích với tư cách người Kitô hữu, chúng ta đều đang cùng với Đức Giêsu hướng về một mục đích tối hậu bất biến là sống trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa ngay trong nếp sống thường nhật. Cùng Chúa Giêsu, chúng ta đi lên. Đi lên qua sự thông cảm người thân đang gặp hoạn nạn. Đi lên trong sự hy sinh chính tư lợi vì người bạn đồng nghiệp. Đi lên trong những phút dừng tay ngắn ngủi giữa chuỗi công việc để thầm cảm tạ Thiên Chúa về những ơn Ngài ban. Đi lên với người thân yêu trong những giờ cầu nguyện hay trong những bữa cơm đượm tình thân thương. Đi lên trong ý thức Thiên Chúa đang cùng làm, cùng học, cùng sinh hoạt bên mình. Từng phút sống của chúng ta sẽ trở thành những nấc thang đưa tâm hồn chúng ta gần Thiên Chúa tình yêu, để Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể luôn ở ngay cõi lòng chân thành của chúng ta hơn là đóng kín Ngài nơi Nhà Tạm cô quạnh.
Lạy Cha nhân ái, Vua tình yêu. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sức sống mãnh liệt nơi nguồn mạch Thánh Thể, để chúng con trở nên những tấm bánh sẵn sàng để Thiên Chúa bẻ ra phân phát cho những người anh em sống quanh chúng con. Xin dạy chúng con sống tận hiệp với Chúa qua những phút cầu nguyện chân thành, để chúng con cùng với toàn thể nhân loại luôn sống trong quỹ đạo đức ái toàn hảo như Đức Giêsu Con Chí Ái của Cha đã sống và nêu gương cho chúng con.
Chủ đề: Chỉ cần chúng ta trao cho Chúa phần nhỏ nhoi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta.
Ai cũng biết Martin Porre là đứa con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần: TN 17B-22
Ai cũng biết Martin Porre là đứa con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần dân trong xã hội, nhưng cậu có một tâm hồn rộng mở, ai xin gì cũng cho, ai nhờ vả gì cậu cũng không từ chối. Cậu có một tấm lòng quảng đại đến độ bớt xén số tiền mẹ sai đi mua đồ ăn, để giúp người nghèo khổ. Cậu đã cố gắng học nghề thầy thuốc để có dịp phục vụ đồng loại. Vì hành động quảng đại đó mà Chúa đã làm bao điều trọng đại nơi con người hèn mọn đó.
Đức cha Cassese, một vị thừa sai có tâm hồn rộng mở, đến nỗi đang làm Giám Mục Sàigòn (1957), nhân một dịp đi thăm và tiếp xúc với người thượng ở Lâm Đồng, ngài đã quyết định xin Tòa Thánh từ chức Giám Mục, để đi giúp dân nghèo thiểu số không nhà không cửa, giúp những người cùi người hủi trên cao nguyên Di Linh, Đà Lạt. Nhờ việc làm bé nhỏ của Ngài mà Chúa đã làm biết bao sự lạ lùng nơi dân tộc thiểu số.
Ngày nọ, một phụ nữ trung niên Ấn Độ đã có một tâm hồn rộng mở khi đi thăm một khu phố nghèo, sống chui rúc bẩn thỉu. Bà đã nảy ra ý định phải làm một cái gì để giúp họ. Thế rồi bà dành dụm được một số tiền vừa đủ để mua một căn nhà cũ, sửa sang cho khang trang, rồi bà đi khắp các nơi đưa về những trẻ em mồ côi nơi hè phố để dạy dỗ, để nuôi nấng. Nhà không có lấy một cái bàn, cái ghế. Bà đã cho lấy sàn nhà làm bảng viết dạy lũ trẻ. Đây là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày nay bà đã có hàng 100 trường học trang bị đầy đủ. 300 nhà phát thuộc lưu động, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc cho người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 người trên thế giới tình nguyện theo chí hướng và giúp đỡ bà. Người thiếu nữ đó không ai khác ngoài Mẹ Terêsa Calcuta.
Một điều lạ nữa ngay trước mắt mà chúng ta nhận thấy: Một Linh Mục gầy ốm, khẳng khiu, Ngài có một tâm hồn rộng mở, Ngài đã nghĩ đến cách lập Dòng bản quốc để giúp họ nên thánh. Nhờ ý nghĩ nhỏ nhoi đó, mà Chúa đã làm cho phần ít đó nên đầy dẫy những người có chí hướng nên thánh. Đó là Cha Quorum Primus, người sáng lập nên Hội Dòng Đồng Công của chúng ta.
Và không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tim Mừng ấy: Một cậu bé nọ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, người ta đã yêu cầu cậu đem đến cho Chúa để Ngài thiết đãi dân chúng. Cậu liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thiết đãi hơn 5000 người ăn no nê và còn dư được 12 thúng đầy.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Mẹ trao phó cho Chúa "công việc nhỏ mọn của Mẹ ", để Ngài thực hiện kế tiếp. Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt quá ước mơ của Mẹ. Câu chuyện của thánh Martin, của Cha Bề Trên sáng lập Dòng Đồng Công, hay của người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng như câu chuyện Phúc Âm, đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau: Nếu một mình đối đầu với những thách đố khó khăn, và lo sợ, trước viễn cảnh tương lai, thì thật là rùng rợn. Nhưng nếu: "Đặt cả cuộc đời mình vào trong tay Chúa Giêsu thì Ngài sẽ tiếp nhận, và sẽ chúc lành cho nó, sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta".
Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm: Cuộc sống và khả năng của chúng ta, để Ngài sử dụng theo thánh ý Ngài?
Nói rộng hơn, chúng ta đã dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình, như Mẹ Têrêsa, như thánh Martin, như Cha Bề Trên sáng lập, như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay cho Thiên Chúa chưa?
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, "Cha cần khả năng của anh chị em, Cha cần lòng quảng đại của anh chị em. Cha muốn anh chị em hiến cho Cha đôi bàn tay vạm vỡ, đôi chân dẻo dai. Hiến cho Cha môi miệng ngọt ngào, hiến cho Cha trí năng sắc sảo và tâm hồn quảng đại... để Cha thực hiện những điều lớn lao và cần thiết gấp bội, cho thế nhân, cho các linh hồn đang cần đến sự hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em".
Tóm lại, trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài, để Ngài thực hiện những phép lạ cả thể. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì, - chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, mọi việc làm, sự hy sinh và nguồn sinh lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng nó, để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên, vượt khỏi niềm mơ ước của chúng ta, giống như Ngài biến đổi 5 tấm bánh và 2 con cá. Đấy mới chính là lời mời gọi Chúa ngỏ với chúng ta qua bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Ignatio de Loyola yêu chuộng. "Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí nhớ, sự hiểu biết, và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con, và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa" (7/2003).
Chúa Nhật 17 Thường Niên-B / 17th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: THIÊN CHÚA NUÔI CHÚNG TA - * The Lord Feeds Us * ****
Phát cho người ta ăn: Họ ăn mà vẫn còn dư. Bánh mì được hóa nhiều, đầy đủ để cho người nghèo.: TN 17B-23
* BÀI ĐỌC 1: 2 Vua 4, 42-44 = Phát cho người ta ăn: Họ ăn mà vẫn còn dư. Bánh mì được hóa nhiều, đầy đủ để cho người nghèo./ Give it to the people to eat; there shall be some left over. The bread is multiplied to feed the poor !
* BÀI ĐỌC 2: Êphêxô 4, 1-6 = Hợp nhất trong Thánh Thần: Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại: thuận hòa, gắn bó.../ Unity in Spirit: striving to preserve the unity of the Spirit through the bond of peace.
* BÀI TIN MỪNG(Gospel): Gioan 6, 1-15 = Bánh và cá hóa nhiều: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá./ Multiplication of loaves and fish: There is a boy here who has five baley loves and two fish...
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Trong bài Tin Mừng, Ông An-rê thưa với Đức Giêsu: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu !” Cái lo của ông An-rê cũng là cái lo tự nhiên của tôi, nhưng Chúa cần tấm lòng của ông An-rê cũng là của em bé phải sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho anh em khó nghèo, rồi Chúa sẽ ra tay. Trong gia đình và xã hội hôm nay đang cần tôi làm gì? (Hành đạo)
Andrew...There is a boy here who has five barley loaves and two fish; but what good are these for so many? (Ga. 6, 9)
2/ Sau khi phân phát cho họ ăn uống no nê năm chiếc bánh và hai con cá rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lai những miếng thừa kẻo phí đi”. Họ thu được mười hai thúng đầy. Bạn thấy của cải không thiếu, chỉ tại con người không có lòng rộng rãi. Bạn đã noi gương Chúa ở những nhân đức nào? (Học đạo)
He said to His disciples: “Gather the fragments left over, so that nothing will be wasted.” (Ga. 6, 12)
3/ Trong bài đọc 1, ông Ê-li-sa bảo: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn mà vẫn còn dư.” Chúa đã nuôi sống dân đi trong sa mạc bằng bánh man-na xưa mà nay còn ban bánh sự Sống là Lời Chúa và chính mình Ngài. Tôi đã sống mầu nhiệm Thánh Thể cho tha nhân thế nào? (Thánh thiện)
Elisha insisted: “Give it to the people to eat! For thus says the Lord, “They shall eat. ..be some left over.” (2 Vua 4, 43)
4/ Phép Thánh Thể là sự hiệp nhất trong Thánh Thần mà thánh Phaolô kêu gọi là: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau,” Bấy lâu nay bạn đã hiểu thế nào là hiệp nhất trong Gia đình và Giáo xứ. Có phải là khiêm tốn, hiền từ nhẫn nại...Vì chỉ có một Chúa, một Thân mình, một Đức tin. Với cách nào bạn đang tích cực xây dựng lại Gia đình? (Sùng đạo)
Striving to preserve the unity of the Spirit through the bond of peace one body and one Spirit. ( Êph. 4, 3)
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống chia sẻ tuần này: (The Best GodỴs Word)
...CỨ PHÁT CHO NGƯỜI TA ĂN! VÌ CHÚA PHÁN: HỌ ĂN MÀ HÃY CÒN DƯ. (2Vua 43)
“Give it to the people to eat !” Says the Lord. “They shall eat and there shall be some left over.”
C.Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing / For Action )
a/ Bạn hãy chọn lấy 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm sống và chia sẻ ở phần A để thực hành trong đời sống.
b/ Tôi chia sớt giúp người nghèo tùy khả năng, không sợ thiếu như em bé có năm cái bánh và hai con cá.
D.Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và Sống cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in Action )
Tôi đọc lại một câu Kinh Thánh mình thích nhất, qua đó tôi sẽ trình bày với Chúa những ước nguyện...
Bạn lắng nghe Chúa đánh động bên trong, rồi nói lớn lên những cảm nghiệm của mình với Chúa.
Hoa thơm cỏ lạ: ĐẶC ÂN LỚN NHẤT CỦA TÔI LÀ CÓ ĐƯỢC SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ
My greatest privilege is to enjoy Christ’s presence
CHỦ ĐỀ: Chỉ cần chúng ta trao phó cho Chúa Giêsu phần ít ỏi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta.
Jay Keler có viết một quyển sách nhan đề Growing Places (Những vùng đang phát triển), trong: TN 17B-24
Jay Keler có viết một quyển sách nhan đề Growing Places (Những vùng đang phát triển), trong đó ông kể:
Một đêm nọ, ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên lề đường bay. Jay liền hỏi người ngồi bên cạnh thì anh ta trả lời: Đấy là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay đi nhận hành lý và lên xe buýt về một thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạnh, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch, ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình đi tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay, thằng bé chìa tay ra xin: Jay liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được một quãng mười bước, ông lại nghe âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầu lại nhìn thì nhận ra một thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé nọ giao cho chúng những đồng tiền xu mới xin được. Jay nói rằng suốt đêm ấy ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khó, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Ta phải làm một điều gì mới được”. thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về để dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn giấy, một chiếc ghế hoặc một cái bàn. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng một tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đấy là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà. Nó là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại. 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 mươi viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa.
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay; cậu bé nọ có 5 ổ bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền giao bánh và cá cho Chúa Giêsu để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thết đãi hơn 5000 người no nê.
Đấy cũng chính là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “Bánh và CáỴ của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà. Câu chuyện Mẹ Têrêsa, câu chuyện người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay cũng như câu chuyện Phúc Âm hôm nay đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau. Đó cũng là chủ điểm bài phát biểu của đức Giáo Chủ Jean Paul đệ nhị với các thanh niên tại Edingburg trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982. Đức Giáo chủ nói với họ: “Giờ đây tôi xin nhấn mạnh chủ điểm này: cậu bé trong Phúc Âm đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có để rồi Chúa Giêsu thết đãi đám dân 5000 người no nê một cách thật lạ lùng và đồ ăn vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các bạn sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói với các bạn điều này: “Hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như Mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, “Tôi cần tài năng các anh, tôi cần lòng quảng đại của các anh, tóm lại tôi cần các anh, cần đôi chân, đôi tay, môi miệng các anh. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân các anh để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các phố thị của các anh. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay các anh để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người vô gia cư và lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Tôi chỉ biết nhờ miệng lưỡi các anh để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã chịu đau khổ và chịu chết cho họ”
Tóm lại trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì: chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta- Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và 2 con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời Kinh nguyện rất được Thánh Ignatiô de Loyola yêu chuộng. Xin mời yên lặng hiệp ý cùng tôi:
“Lay Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy nghi sử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa.”
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. anh dừng xe lại một quán ăn và đến: TN 17B-25
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người nghe được: “Ê, Bố! ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”.
Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng đáp lại; “không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa nuôi 5 ngàn người ăn no nê với 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”& Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng gíup chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm 1976 Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia: Đề tài trong 8 ngày đại hôi là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”.
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người. Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hoà bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghỉ, cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu; Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh, tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay; “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải khuyến khích phải nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh lễ khi tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với Đại hội Thánh thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời cầu nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng: TN 17B-26
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.
Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: "Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!".
Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác, được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã hội".
Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ: "Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái". Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.
Những cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít: TN 17B-27
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là ngày Chúa nhật, nhiều toán du khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run; “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi nhìn thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có Kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc. Nên Người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có những người chỉ vì tò mò vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ tới ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảm đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thoả mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hoá nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philip về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp tiệc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
- Mille images 60 B - Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn (Ga 6,1-15) Sợi chỉ đỏ: - Bài đọc I (2 V 4,42-44): Ngôn sứ Êlisê làm cho bánh hóa ra nhiều. - Đáp ca (Tv 144): "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê". - Tin Mừng (Ga 6,1-15): Đức Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng: TN 17B-28
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân do thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân do thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân do thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ. - Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng. - Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia xẻ với anh chị em chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (2 V 4,42-44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.
2. Đáp ca (Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê".
3. Tin Mừng (Ga 6,1-15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt:
- Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân do thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.
- Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.
- Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.
- Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.
4. Bài đọc II (Êp 4,1-6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.
- Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.
- Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.
- Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy:
- Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
- Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiến cái gì cho họ ăn.
- Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
- Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa: họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia xẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả: chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.
Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.
* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa:
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi "Con có tin không ?", và sau khi làm phép lạ, Chúa nói "Đức tin của con đã cứu con".
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói "Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó".
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chĐu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ) nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc... và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận...
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị Linh mục kia đã giảng rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị Linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị Linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị Linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như "Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói". Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: "Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi". Vị Linh mục hỏi tiếp: "Thế trong túi có gì vậy ?". Bà đáp: "Chỉ có hai chiếc bánh".
Câu trả lời khiến vị Linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách: cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.
Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những người thiện nguyện
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế". Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
****
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta..... để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
****
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn"
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn".
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện "Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này".
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách ? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy ? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác ? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát ; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?"
* 6. Phải biết thế nào là đói Web
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế: ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định:
thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả ; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả ; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng.
Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi: "Ông có đồng ý những điều kiện ấy không ?". Hắn đáp "Đồng ý". Người hầu nói: "Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông".
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn: "Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý". Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói "Món cá này ngon tuyệt". Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi: "Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng". Tên nhà giàu vội vàng đáp: "Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng". Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại: "Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức". Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo "Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung". Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ: "Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả ?" Và hắn đã tự tìm được câu trả lời: Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 7. Chứng từ về chia xẻ
"Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước: Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết:
Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau: - Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
+ Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
+ Tay phải làm tay trái chẳng biết: - Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Ịược biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
2. Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
3. Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều là một phép lạ lớn, một sự kiện lịch sử đặc biệt nên cả bốn tác giả: TN 17B-29
Phép lạ hoá bánh ra nhiều là một phép lạ lớn, một sự kiện lịch sử đặc biệt nên cả bốn tác giả Sách Tin Mừng đều ghi nhận. Phép lạ này không chỉ cho chúng ta thấy quyền năng của thiên Chúa hé mở nơi Đức Giê-su Ki-tô, mà còn là một lời mời gọi mỗi người hãy quảng đại trao dâng phần cuả mình dầu là nhỏ nhoi, kém cỏi.
1. QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA
Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người đã nhiều lần tỏ lộ quyền năng của mình để cho con người nhờ đó mà tin vào Người. Quyền năng của Người có sức cứu con người khỏi quyền lực tử thần, lôi ra khỏi vùng tối tăm của mù loà, nâng lên khỏi hố sâu tội lỗi, mở miệng để ca tụng uy danh Thiên Chúa và thanh tẩy để đưa con người hoà nhập vào đời sống cộng đoàn.
Hôm nay, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Giê-su đã xoa dịu cơn đói thể xác của đám đông hơn 5.000 người. Sự kiện này là một dấu chỉ mặc khải cho chúng ta một phép lạ vĩ đại hơn, tỏ lộ quyền năng phi thường hơn khi Người ban cho nhân loại chính Mình và Máu Thánh Người trong Bí Tích Thánh Thể để làm no lòng chúng ta trên hành trình tiến về Nhà Cha trên Trời.
2. LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI
Với quyền năng vô biên, Đức Giê-su có thể biến không thành có, nhưng Người muốn chúng ta cộng tác, muốn chúng ta góp phần. Đức Giê-su mời gọi chúng ta mở rộng con tim, mở rộng đôi tay để trao ban, để dâng hiến. Những phép lạ Đức Giê-su thực hiện luôn có phần góp sức của con người: khi thì vài lu nước, lúc thì vài tấm bánh, hoặc ít ra cũng là thái độ khiêm tốn tin tưởng phó thác nơi Người.
Hôm nay Đức Giê-su cũng đưa ra lời kêu gọi chúng ta quảng đại hợp tác với Người để những điều kỳ diệu xuất hiện thường xuyên hơn trong cuộc sống. Điều mà Đức Giê-su cần nơi mỗi người chúng ta không phải là số lượng ta có mà là chính tấm lòng quảng đại của ta. Thế mà chúng ta thường quên mất. Khi chúng ta muốn Đức Giê-su giúp chúng ta điều gì thì chúng ta chỉ biết xin xỏ và chờ đợi chứ không chịu khó góp phần cố gắng của mình vào. Có lẽ chính vì vậy mà nhiều khi những lời cầu nguyện của chúng ta không mang lại kết qủa như lòng chúng ta mong ước.
3. CÂU CHUYỆN MINH HOẠ
Có một phụ nữ đến than thở với Linh Mục Giải Tội rằng: “Thưa Cha, vợ chồng con đã nhiều tháng nay không thể nói chuyện được với nhau. Bầu khí gia đình của con thật là ngột ngạt, khó thở. Con đã cầu nguyện với Chúa, Đức Mẹ và Các Thánh nhiều lần để xin cho gia đình con được hoà thuận, nhưng hình như Chúa chẳng thèm nghe lời van xin của con.” Vị Linh Mục trả lời: “Chúa nhận lời chị xin lâu lắm rồi, nhưng chị và anh nhà không chịu đón nhận đó thôi.” Dường như chị không hiểu, nên vị Linh Mục nói tiếp: “Này nhé, chút nữa khi về nhà, chị hãy chủ động đến với chồng và thử bày tỏ một cử chỉ làm hoà xem.” Về đến nhà, với tất cả can đảm, chị đến bên chồng và lí nhí: “Em... xin lỗi anh !” Như chỉ chờ có thế, người chồng vội ôm ghì lấy vợ mình và nói trong nước mắt: “Chính anh mới là người có lỗi. Xin lỗi em. Mình làm hoà nghe !”
Té ra, mảnh đất chông gai của hai tâm hồn đã được Chúa dọn sạch từ lâu, chỉ cần gieo vào đó hạt giống cảm thông là lập tức nảy mầm xanh tươi. Người vợ trong câu chuyện đã biết gieo hạt giống, người chồng tiếp tay vun xới và thế là hạt giống liền nảy mầm hoà thuận và hạnh phúc.
3. KẾT LUẬN
Thiên Chúa luôn yêu thương và sẵn sàn ban ơn cho chúng ta, sẵn sàng thực hiện cho chúng ta những điều kỳ diệu trong cuộc đời. Nhưng biết bao lần chúng ta không hưởng nhờ được ơn Chúa ban, không đón nhận được phép lạ của Người, là vì chúng ta không biết quảng đại đóng góp phần của mình, không biết cộng tác với ân huệ của Thiên Chúa.
Khi chúng ta xin Chúa cho gia đình mình được thuận hoà hạnh phúc thì chúng ta hãy dẹp bỏ hờn ghen, đố kỵ và cùng nhau nỗ lực sống yêu thương tha thứ.
Khi chúng ta xin Chúa cho gia đình chúng ta thoát cảnh nghèo, thì đồng thời chúng ta cũng phải dẹp bỏ những tệ nạn như rượu chè, cờ bạc… để biết chăm chỉ làm lụng, tiêu xài đúng mực.
Khi chúng ta xin Chúa cho chính chúng ta hoặc một ai đó trong gia đình mình được ơn hoán cải thì chính chúng ta cũng phải cộng tác bằng dẹp bỏ tính hư nết xấu, loại trừ tội lỗi, luyện tập các nhân đức.
Cuối cùng, xin mượn lời cầu nguyện sau đây để kết thúc bài chia sẻ hôm nay:
- Tôi xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói "Không". Người nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
- Tôi xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không. Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
- Tôi xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kiếm lấy.
- Tôi xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
- Tôi xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
- Tôi xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
- Tôi xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người nói: À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay.
Phép lạ bánh hóa nhiều hôm nay làm cho tất cả mọi người chứng kiến phải ngạc nhiên ngỡ ngàng: TN 17B-30
Phép lạ bánh hóa nhiều hôm nay làm cho tất cả mọi người chứng kiến phải ngạc nhiên ngỡ ngàng. Ngạc nhiên ngỡ ngàng vì tầm mức của nó quá rộng lớn. Nó không phải chỉ dành cho một người – một nhóm người – mà là cho tất cả mọi người... mà những người trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là những người bệnh tật, đau khổ... nhưng là những người khỏe mạnh.
Phép lạ này được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng cùng ghi lại. Điều đó chứng tỏ phép lạ này có một chỗ đứng thật cao và vai trò thật quan trọng trong lời giáo huấn và đời sống của Giáo Hội thời khai nguyên. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ý vài chi tiết:
Trước hết, với Gio-an chúng ta thấy Chúa Giê-su có một vai trò thật đặc biệt: Ngài hoàn toàn chủ động và hầu như độc diễn trong câu chuyện này. Nơi ba sách Tin Mừng Nhất Lãm, ta thấy các môn đệ được kêu mời hợp tác với Chúa.
- Nào là họ có sáng kiến đến xin Chúa Giê-su cho dân về để mua thức ăn ( Mt 14, 15 )
- Nào là bảo dân ngồi xuống từng nhóm 100 người ( Mc 6, 39 – 40 )
- Nào là cầm bánh đi phát cho người ta. ( Lc 9, 16 )
- Còn nơi Gio-an, chúng ta thấy Chúa hoàn toàn chủ động.
- Hơn nữa sau phép lạ, ta thấy Gio-an còn có cả một bài suy tư rất dài. Chúng ta sẽ suy niệm sau.
Như vậy chúng ta thấy được ý của Gio-an. Ông muốn cho người ta thấy một mình Chúa Giê-su làm tất cả. Các người khác chỉ đóng vai phụ và như thế Chúa Giê-su là Cứu Chúa.
Chi tiết thứ hai: Nơi Chúa làm Phép lạ. Đó là một cánh đồng vắng. Nơi mà người ta thiếu thốn đủ mọi phương tiện của cuộc sống kể cả những thứ cần thiết nhất cho sự sống con người ví dụ như là vấn đề thực phẩm.
Tin Mừng có nhắc tới việc An-rê phát hiện ra một em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng bằng ấy thì có thấm vào đâu với số người nguyên đàn ông thôi cũng lên đến 5.000. Chúa cũng đã thử tài của Phi-li-phê là người quê ở vùng này xem có thể kiếm đâu ra đủ lương thực cho cả một đoàn người đông đảo như thế không. Phi-lip-phê đã nói lên tiếng nói xem ra có vẻ tuyệt vọng của mình: Có đến 200 đồng quan = 200 ngày công = một số tiền rất lớn cũng không đủ cho mỗi người một chút. Vậy mà Chúa vẫn bình thản ra lệnh: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Chúa biết những gì Chúa sắp làm.
Chi tiết thứ 3 là thời điểm Chúa chọn để làm Phép lạ: Trước lễ Vượt Qua. Lê Vượt Qua là kỷ niệm hào hùng nhất của cả dân tộc. Lễ Vuợt Qua làm sống lại niềm tự hào của cả một dân tộc được Thiên Chúa giải phóng.
Ngày ấy con cháu Ít-ra-en làm nô lệ cho người Ai-cập. Ách nô lệ tưởng chừng như kéo dài bất tận. Nhưng Thiên Chúa đã thương. Uy quyền của Người đã quật ngã cả một Ai-cập hùng cường và đưa dân của Người vào đất hứa. Ngày ấy giữa một sa mạc khô cằn trên thì nắng, duới thì cát, chung quanh có nhiều kẻ thù. Vậy mà suốt 40 năm Chúa vẫn gìn giữ dân của Người. Ngày ấy khi dân đi qua sa mạc khô cằn không nước, không thực phẩm cũng như những thứ cần thiết cho cuộc sống. Nhiều lúc họ tưởng chừng như phải bỏ xác giữa trời làm mồi cho muông thú... Thế mà dưới sự lãnh đạo của Mô-sê, Chúa đã cho nuớc vọt ra từ tảng đá, Man-na và chim chóc cứ từ trời rơi xuống mỗi ngày làm lương thực cho dân.
Tất cả những hình ảnh đó, những người đi theo Chúa vào trong hoang địa hôm nay làm sao mà quên được. Họ vẫn còn nhớ, nhớ thật rõ. Ngày ấy trong sa mạc – Hôm nay trong đồng vắng. Ngày ấy dân bị đói, Chúa ban Man-na – Hôm nay đã ba ngày họ không có gì ăn, Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều. Bàn tay uy quyền của Người còn kỳ diệu hơn cả Mô-sê. Hay nói đúng hơn: Ngài là Mô-sê Mới. Ngài là Vua. Không còn điều gì phải nghi ngờ nữa.
Trước sự việc Chúa đã làm, Gio-an còn nhớ thật rõ cảm nghĩ của dân lúc đó và ông đã viết thật đậm câu này: “Quả thật Ngài là Đấng phải đến trong thế gian” và ông cũng không quên ghi lại một chi tiết tuy nhỏ nhưng cũng rất quan trọng này: “Họ muốn tôn Ngài lên làm Vua”. Nhưng Chúa trốn đi vì không muốn làm Vua theo kiểu họ mong chờ. Vâng, Chúa Giê-su Chúa của chúng ta là Mô-sê mới, là Vua. Ngài là Vua Mới. Ngài là Vua đã thiết lập một Dân Tộc Mới. Chúng ta là thần dân của Người.
Thử hỏi Chúa mong chờ gì ở nơi chúng ta ? Thánh Phao-lô trong thư Ep 4, 1 hôm nay trả lời cho chúng ta: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận”. Ngài kể ra một loạt những đức tính cần thiết. Phần chúng ta, xin hãy biết sống quảng đại. Quảng đại như chú bé đã dâng cho Chúa những tấm bánh và hai con cá hôm nay. Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng lên Chúa, nhưng từ lễ vật đơn thành của cậu. Chúa Giê-su đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì lịch sử đã mất đi một việc lớn lao, chói lọi.
Nói tới đây tôi nhớ đến một giai thoại lý thu. Để dạy các thiếu niên lòng quảng đại. Thánh Don Bosco có kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm Chúa Giê-su gọi Phê-rô và Gio-an lại bảo hai ông cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo hai ông mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phê-rô suy nghĩ một lúc đã rồi mới nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gio-an do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài vác nặng. Gio-an thở hổn hển, còn Phê-rô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gio-an: “Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?” Chúa Giê-su nghe hết tất cả nhưng Ngài giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Ngài muốn dạy cho Phê-rô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành... bánh mì ! Phê-rô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.
Lần khác, Chúa Giê-su cũng gọi hai môn đệ Phê-rô và Gio-an leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phê-rô liền đi tìm một tảng đá thật lớn và cồ hết sức mà vác đi. Cố gắng hết sức Phê-rô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi phép lạ Chúa Giê-su để tha hồ được Chúa khen và còn được ăn no bánh mì nữa chứ. Thế nhưng, Chúa Giê-su chỉ nói với họ: “Nào chúng ta hãy ngồi lên những viên đá chúng ta vừa mang đi theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu !” Phê-rô thấy xấu hổ, ông trách Chúa: “Thì ra Thầy đã chơi khăm con !” Nhưng Chúa Giê-su bảo ông: “Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán !”
Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán. Nếu tính toán, em đã chẳng dâng cho Chúa những gì em có. Nếu tính toán như Phi-lip-hê thì làm sao mà có được phép lạ ? Hãy bắt chước Chúa cho đi một cách quảng đại. 5.000 người không phải là một con số nhỏ. Tất cả đã được ăn no nê. Vâng tất cả, không trừ một ai.
Xem ra Chúa Giê-su cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi người chúng ta đem đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này đến chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa Giê-su bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng hiến dâng chính mình để phục vụ Chúa thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc hổ thẹn như vậy là đúng, nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa Giê-su.
“Nào cùng nắm tay, nào cùng nắm tay, cho quả tim nối kết quả tim, cho con người biết yêu con người. Nào cùng hát lên nào cùng hát lên, cho quả tim nối kết quả tim, cho con người biết yêu con người. Nào ngồi với nhau, nào ngồi với nhau...” Cứ như thế lời của bài hát vang xa, vang xa...
Tối hôm ấy, tôi tham dự ngày họp mặt và tĩnh tâm của các bạn trẻ công nhân Công Giáo của một Giáo Xứ trong Giáo Phận Phú Cường. Bằng những tràn vỗ tay, bằng những lời hát nhiệt tình, tự lúc nào, mọi người tham dự đã hòa vào không khí tươi trẻ và thánh thiện của từng lời giao cảm san sẻ cho nhau; của mỗi nghi thức tôn thờ, chúc tụng dâng lên Thiên Chúa... Có thể nói ít có lúc nào Tình Yêu – của Thiên Chúa và của con người, của mọi người dành cho nhau – được tôn vinh như những lúc thế này. Tình Yêu ấy không chỉ là một câu hát trên môi, một cái bắt tay khi vừa mới gặp, một nét mặt hân hoan, hay một nụ cười thân thiện... mà qua tất cả những biểu hiện ấy là lời của những “quả tim nối kết quả tim”.
Đúng thôi, vì chỉ có nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được giương cao, lòng thương xót của Chúa được chiếu tỏa, Thánh Giá được tôn vinh và tôn thờ, nơi ấy mới có Tình Yêu đúng nghĩa, mới làm phát sinh một cách trọn vẹn lòng thương mến nhau giữa những con người. Nói cách khác, chỉ khi nào người ta lấy Chúa Ki-tô làm trọng tâm cho cuộc sống của mình, lúc ấy người ta mới thật gần gũi, thật thắm tình.
Quà tặng chỉ đẹp, khi đó là quà tặng TÌNH YÊU. Nhưng không có quà tặng nào lớn, mãnh liệt, kiêu sa cho bằng món quà TÌNH YÊU KI-TÔ. Quà tặng Tình Yêu Ki-tô có sức thánh hóa và cứu chuộc mỗi con người. Bởi thế, khi người ta ngồi lại với nhau, chia sẻ cho nhau vui buồn sướng khổ của đời mình, nói cho nhau nghe về những trăn trở, những ưu tư của cuộc sống, tiền lương, sự học hành, gia đình..., khi làm tất cả những điều đó mà lại đặt Tình Yêu Ki-tô làm trung tâm cho sự gặp gỡ, người ta sẽ nhận ra rằng, trong cõi lòng mình dậy lên một niềm thánh thiện, niềm cảm thông, yêu thương và ấm áp. Bởi thế không lạ gì khi cùng nhau chia sẻ và cầu nguyện, từng người trong nhóm bạn trẻ công nhân ấy thấy như nước mắt của một người bỗng dưng thành nỗi xót xa của cả nhóm. Và nụ cười ai đó, sao thấm vào tim, vào gan của mọi người. Vì thế mà trong từng lời hát, lời cầu nguyện được đọc to, không phải là lời trên môi, nhưng là lời của trái tim trào ứ trên môi.
Thế đấy, một buổi tĩnh tâm cầu nguyện và chia sẻ đầy tình người. Những người công nhân trẻ chia tay mà quyến luyến. Họ hẹn sẽ lại gặp nhau để trong lòng của những người công nhân trẻ ấy được thắp lên Tình Yêu, được thắp sáng Đức Tin. Và một điều rất quan trọng là họ sẽ ra đi vào giữa cuộc đời, nơi môi trường làm việc và sinh sống để làm cho ngày càng có nhiều những quả tim nối kết những quả tim.
Từ suy tư qua một lần tham dự tĩnh tâm của một nhóm bạn trẻ tối hôm ấy, tôi lại đọc bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 thường niên B. Để đào sâu bài Tin Mừng này, các Linh Mục thường giảng về Bí Tích Thánh Thể. Đúng thôi, vì hôm nay Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng bằng bánh và cá là hành động gọi về một phép lạ cả thể khác, không bao lâu sau đó Ngài sẽ thực hiện: lấy Thánh Thể Ngài nuôi linh hồn ta. Nhưng hôm nay bạn hãy cùng tôi nhìn ngắm Tình Yêu Ki-tô hiện diện giữa đám dân chúng ngày xưa và đang hiện diện giữa tôi và bạn.
Tình Yêu mà tôi tạm gọi là Tình Yêu Ki-tô, trước hết phát xuất từ chính Chúa Ki-tô trao ban cho đoàn lũ dân chúng đông trên 5.000 người. Hoàn toàn không do sáng kiến của một vị Tông Đồ nào, cũng không hề đến từ lời yêu cầu của dân chúng, nhưng chỉ do một động lực duy nhất đó là: Vì Tình Yêu và bởi Tình Yêu, Chúa Ki-tô đã làm phép lạ nuôi dân chúng. Nói cách khác, sáng kiến của Tình Yêu đã làm nên phép lạ. Thánh Gio-an cho biết: “Chúa Giê-su ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Phi-lip-phê: Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?”
Chính lòng quảng đại của Chúa Giê-su mà phép lạ được thực hiện. Chính Chúa đã nhìn thấy nhu cầu của dân chúng. Chính Chúa đã cảm thông được cái đói của họ. Nhưng không chỉ như thế, Tình Yêu của Chúa Ki-tô ở giữa dân chúng không chỉ cho họ thực phẩm nuôi thân xác. Đúng hơn, nơi đâu có Tình Yêu Ki-tô hiện diện, nơi ấy Người sẽ ban cho họ Lời Hằng sống của Người, ban cho họ ơn cứu độ đời đời, và ban cho họ chính bản thân Người.
Cũng thế, ngày hôm nay, nếu ta chấp nhận để Chúa Ki-tô ở lại, nghĩa là chấp nhận để cho Tình Yêu Ki-tô ấy hiện diện trong ta, và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm nếm niềm bình an, lòng hoan lạc và sẽ mang lấy Tình Yêu Ki-tô ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào ta mang lấy Tình Yêu Ki-tô, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạng, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen tương... chỉ khi nào mỗi cá nhân chấp nhận mang lấy Tình Yêu Ki-tô, cộng đoàn mới có Tình Yêu Ki-tô. Chỉ khi nào cộng đoàn có Tình Yêu Ki-tô, cộng đoàn ấy mới là cộng đoàn sinh động và đầy sức sống.
Nhóm bạn trẻ công nhân mà tôi vừa nói ở trên, dù không nói ra, và cũng không gọi tên cho hình thức ngồi lại bên nhau của họ là Tình Yêu Ki-tô, nhưng nơi các bạn, đã toát lên một Sức Sống Đức Tin, một lòng mến yêu Thiên Chúa và mến yêu nhau. Cứ nhìn những giọt nước mắt và những nụ cười cảm thông, ta có thể tin điều đó.
Ước mong những cộng đoàn nhỏ, những nhóm người cùng chung nghề nghiệp hoặc khác nghề nghiệp, chung một lý tưởng hoặc khác lý tưởng... biết tìm về bên nhau như thế để cùng nhau tìm về một Tình Yêu Ki-tô lớn lao. Ước mong những cộng đoàn, những nhóm người như thế cứ nhân lên, nhân lên mãi. Ước mong những cộng đoàn lớn hơn: cộng đoàn Dòng Tu chẳng hạn, hay cộng đoàn Giáo Xứ, Giáo Phận... vốn đã được xây dựng trên Tình Yêu Ki-tô, biết vươn lên, vươn lên mãi đến Tình Yêu Ki-tô ngày càng hoàn hảo để cộng đoàn của mình bình an, niềm vui, vị tha, bao dung, tận tụy, khiêm nhường, hiền hòa và chan chứa Tình Yêu...
Ngày xưa, Chúa Ki-tô hiện diện giữa dân Chúng bằng Tình Yêu của Ngài, Ngài làm cho cộng đoàn ấy được no nê, không phải chỉ no nê cơm bánh, như điều quan trọng hơn, đó chính là từng người trong cộng đoàn ấy no nê Tình Yêu, no nê Ơn Bình An và no nê chính Lời của Thiên Chúa. Ngày nay, nếu cộng đoàn để cho Tình Yêu Ki-tô hiện diện, thì từng người trong cộng đoàn ấy cũng sẽ no nê như thế.
Nào cùng nắm tay, nào cùng nắm tay, cho quả tim nối kết quả tim, cho con người biết yêu: TN 17B-31
“Nào cùng nắm tay, nào cùng nắm tay, cho quả tim nối kết quả tim, cho con người biết yêu con người.
Nào cùng hát lên nào cùng hát lên, cho quả tim nối kết quả tim, cho con người biết yêu con người.
Nào ngồi với nhau, nào ngồi với nhau...:.
Cứ như thế lời của bài hát vang xa, vang xa.”
Tối hôm ấy, tôi tham dự ngày họp mặt và tĩnh tâm của các bạn trẻ công nhân Công Giáo của một giáo xứ trong giáo phận Phú Cường. Bằng những tràn vỗ tay, bằng những lời hát nhiệt tình, tự lúc nào, mọi người tham dự đã hòa vào không khí tươi trẻ và thánh thiện của từng lời giao cảm san sẻ cho nhau; của mỗi nghi thức tôn thờ, chúc tụng dâng lên Thiên Chúa..... Có thể nói ít có lúc nào tình yêu - của Thiên Chúa và của con người, của mọi người dành cho nhau - được tôn vinh như những lúc thế này. Tình yêu ấy không chỉ là một câu hát trên môi, một cái bắt tay khi vừa mới gặp, một nét mặt hân hoan, hay một nụ cười thân thiện& mà qua tất cả những biểu hiện ấy là lời của những “quả tim nối kết quả tim”.
Đúng thôi, vì chỉ có nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được giương cao, lòng thương xót của Chúa được chiếu tỏa, Thánh giá được tôn vinh và tôn thờ, nơi ấy mới có tình yêu đúng nghĩa, mới làm phát sinh một cách trọn vẹn lòng thương mến nhau giữa những con người. Nói cách khác, chỉ khi nào người ta lấy Chúa Kitô làm trọng tâm cho cuộc sống của mình, lúc ấy người ta mới thật gần gũi, thật thắm tình.
Quà tặng chỉ đẹp, khi đó là quà tặng TÌNH YÊU. Nhưng không có quà tặng nào lớn, mãnh liệt, kiêu sa cho bằng món quà TÌNH YÊU KITÔ. Quà tặng Tình yêu Kitô có sức thánh hóa và cứu chuộc mỗi con người. Bởi thế, khi người ta ngồi lại với nhau, chia sẻ cho nhau vui buồn sướng khổ của đời mình, nói cho nhau nghe về những trăn trở, những ưu tư của cuộc sống, tiền lương, sự học hành, gia đình&, khi làm tất cả những điều đó mà lại đặt Tình yêu Kitô làm trung tâm cho sự gặp gỡ, người ta sẽ nhận ra rằng, trong cõi lòng mình dậy lên một niềm thánh thiện, niềm cảm thông, yêu thương và ấm áp. Bởi thế không lạ gì khi cùng nhau chia sẻ và cầu nguyện, từng người trong nhóm bạn trẻ công nhân ấy thấy như nước mắt của một người bỗng dưng thành nỗi xót xa của cả nhóm. Và nụ cười ai đó, sao thấm vào tim, vào gan của mọi người. Vì thế mà trong từng lời hát, lời cầu nguyện được đọc to, không phải là lời trên môi, nhưng là lời của trái tim trào ứ trên môi.
Thế đấy, một buổi tĩnh tâm cầu nguyện và chia sẻ đầy tình người. Những người công nhân trẻ chia tay mà quyến luyến. Họ hẹn sẽ lại gặp nhau để trong lòng của những người công nhân trẻ ấy được thắp lên tình yêu, được thắp sáng đức tin. Và một điều rất quan trọng là họ sẽ ra đi vào giữa đời, nơi môi trường làm việc và sinh sống để làm cho ngày càng có nhiều những quả tim nối kết những quả tim.
Từ suy tư qua một lần tham dự tĩnh tâm của một nhóm bạn trẻ tối hôm ấy, tôi lại đọc bài Tin Mừng Chúa nhật XVII thường niên năm B. Để đào sâu bài Tin Mừng này, các linh mục thường giảng về bí tích Thánh Thể. Đúng thôi, vì hôm nay Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng bằng bánh và cá là hành động gọi về một phép lạ cả thể khác, không bao lâu sau đó Người sẽ thực hiện: lấy Thánh Thể Người nuôi linh hồn ta. Nhưng hôm nay bạn hãy cùng tôi nhìn ngắm Tình yêu Kitô hiện diện giữa đám dân chúng ngày xưa và đang hiện diện giữa tôi và bạn.
Tình yêu mà tôi tạm gọi là Tình yêu Kitô, trước hết phát xuất từ chính Chúa Kitô trao ban cho đoàn lũ dân chúng đông trên 5.000 người. Hoàn toàn không do sáng kiến của một vị tông đồ nào, cũng không hề đến từ lời yêu cầu của dân chúng, nhưng chỉ do một động lực duy nhất đó là: Vì tình yêu và bởi tình yêu, Chúa Kitô đã làm phép lạ nuôi dân chúng. Nói cách khác, sáng kiến của Tình yêu đã làm nên phép lạ. Thánh Gioan cho biết: “Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: _Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?Ỵ”. Chính lòng quảng đại của Chúa Giêsu mà phép lạ được thực hiện. Chính Chúa đã nhìn thấy nhu cầu của dân chúng. Chính Chúa đã cảm thông được cái đói của họ. Nhưng không chỉ như thế, tình yêu của Chúa Kitô ở giữa dân chúng không chỉ cho họ thực phẩm nuôi thân xác. Đúng hơn, nơi đâu có Tình yêu Kitô hiện diện, nơi ấy Người sẽ ban cho họ Lời Hằng sống của Người, ban cho họ ơn cứu độ đời đời, và ban cho họ chính bản thân Người.
Cũng thế, ngày hôm nay, nếu ta chấp nhận để Chúa Kitô ở lại, nghĩa là chấp nhận để cho Tình yêu Kitô ấy hiện diện trong ta, và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm nếm niềm bình an, lòng hoan lạc và sẽ mang lấy Tình yêu Kitô ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào ta mang lấy Tình yêu Kitô, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạng, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen tương& chỉ khi nào mỗi cá nhân chấp nhận mang lấy Tình yêu Kitô, cộng đoàn mới có Tình yêu Kitô. Chỉ khi nào cộng đoàn có Tình yêu Kitô, cộng đoàn ấy mới là cộng đoàn sinh động và đầy sức sống.
Nhóm bạn trẻ công nhân mà tôi vừa nói đến bên trên, dù không nói ra, và cũng không gọi tên cho hình thức ngồi lại bên nhau của họ là Tình yêu Kitô, nhưng nơi các bạn, đã toát lên một sức sống đức tin, một lòng mến yêu Thiên Chúa và mến yêu nhau. Cứ nhìn những giọt nướ mắt và những nụ cười cảm thông, ta có thể tin điều đó.
Ước mong những cộng đoàn nhỏ, những nhóm người cùng chung nghề nghiệp hoặc khác nghề nghiệp, chung một lý tưởng hoặc khác lý tưởng& biết tìm về bên nhau như thế để cùng nhau tìm về một Tình yêu Kitô lớn lao. Ước mong những cộng đoàn, những nhóm người như thế cứ nhân lên, nhân lên mãi.
Ước mong những cộng đoàn lớn hơn: cộng đoàn dòng tu chẳng hạn, hay cộng đoàn giáo xứ, giáo phận& vốn đã được xây dựng trên Tình yêu Kitô, biết vươn lên, vương lên mãi đến Tình yêu Kitô ngày càng hoàn hảo để cộng đoàn của mình bình an, niềm vui, vị tha, bao dung, tận tụy, khiêm nhường, hiền hòa và chan chứa tình yêu& Ngày xưa, Chúa Kitô hiện diện giữa dân Chúng bằng tình yêu của Người, Người làm cho cộng đoàn ấy được no nê, không phải chỉ no nê cơm bánh, như điều quan trọng hơn, đó chính là từng người trong cộng đoàn ấy no nê Tình yêu, no nê ơn bình an và no nê chính Lời của Thiên Chúa. Ngày nay, nếu cộng đoàn để cho Tình yêu Kitô hiện diện, thì từng người trong cộng đoàn ấy cũng sẽ no nê như thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi: TN 17B-32
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Đây là phép lạ rất quen thuộc đối với độc giả các sách Tin Mừng. Vì cả 4 sách Tin Mừng đều thuật lại phép lạ này. Nhưng mỗi tác giả lại chú trọng miêu tả một chi tiết đặc thù để tạo ấn tượng riêng cho người đọc. Nhờ đó mỗi người chúng ta sẽ tìm thấy bài học cho đời sống đức tin cho mình.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh báo trước bí tích Thánh Thể. Phép lạ hóa bánh ra nhiều và bí tích Thánh Thể có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai đều xuất phát tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.Theo bản văn Tin Mừng Thánh Gioan, phép lạ này được đặt trước diễn từ về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu.
Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều xảy ra ở trên một ngọn núi. Nơi hoang vắng ấy thì làm gì có lương thực nếu người ta không mang sẵn trước. Trong khi đó dân chúng đã chịu đói mấy ngày liền để nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Chúa Giêsu biết họ đang đói nên Ngài đã đặt vấn đề với các tông đồ “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” Ngài muốn các tông đồ đề ra một biện pháp để xử lý tình trạng đói lương thực của dân chúng. Nhưng các ông đã thực sự “bó tay”. Việc các ông có thể làm là đi thu gom thực phẩm về cho Chúa. Như vậy các ông đã làm hết tâm sức của mình. Năm chiếc bánh và hai con cá là khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé được các môn đệ đem về cho Chúa. Còn nếu các ông bỏ ra 200 đồng bạc để mua lương thực thì cũng chẳng sao lo cho 5000 miệng ăn. Khi đặt ra vấn đề này, Chúa Giêsu muốn nhắc các ông phải cộng tác vào công việc của Ngài. Qua đó cho thấy: Phép lạ xảy ra có phần đóng góp của con người. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải là lúc Ngài “trổ tài” trước mắt thiên hạ. Phép lạ là giải pháp Chúa Giêsu sử dụng để thỏa mãn cơn đói lương thực của dân chúng. Vì thế, điều quan trọng không phải là con người đóng góp ít hay nhiều vào việc của Chúa mà là đóng góp với cả tâm sức. Năm chiếc bánh và hai con cá chẳng thắm vào đâu nhưng đã được Chúa biến đổi để làm no đủ hơn 5000 người. Điều này thể hiện tấm lòng của Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn trân trọng sự đóng góp của con người. Dù sự đóng góp đó là rất khiêm tốn. Có nhiều khi chúng ta thất vọng về khả năng yếu kém của mình, song Thiên Chúa bao giờ cũng tin tưởng ở con người. Bao giờ cũng vậy, phép lạ chỉ xảy ra khi con người cộng tác một cách nào đó vào chương trình của Chúa.
Năm chiếc bánh và hai con cá đã nuôi ăn no nê hơn 5000 người quả là điều kỳ diệu. Trong thánh lễ Chúa Giêsu vẫn còn thực hiện những điều kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bí tích Thánh Thể là phép lạ của Tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Bí tích Thánh Thể là lương thực đang nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cho hàng triệu Kitô hữu trên khắp thế giới. Đọc bài Tin Mừng thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều chúng ta được nhắc nhớ đến giá trị vĩnh cửu của Bí tích Thánh Thể. Đặc tính của phép lạ hóa bánh ra nhiều là sự chia sẻ và cộng tác làm việc của con người. Bí tích Thánh Thể cũng có đặc tính y như vậy. Nhiều người Kitô hữu cùng được rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Họ chia sẻ với nhau chính sự sống của Thiên Chúa. Bắt đầu từ sự chia sẻ tất cả của Đức Kitô mà mọi người cũng được mời gọi chia sẻ cho nhau. Đó là sự chia sẻ có một không hai trong nhân loại.
Rước lấy Bánh Thánh Thể chúng ta được Chúa mời gọi cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ trong đời sống. Chúa muốn người Kitô hữu khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể chúng ta cần ý thức sống một cuộc đời chia sẻ cho tha nhân. Điều tưởng chừng không thể xảy ra sẽ thường xuyên xảy ra trên thế giới nếu con người biết chia sẻ và cộng tác với nhau. Chúng ta có thể chia sẻ vật chất anh chị em nghèo túng đang cần cơm áo, đang muốn được học hành để nâng cao dân trí và còn những anh chị em đang cần sự động viên, an ủi, khuyến khích chân tình của chúng ta. Phép lạ trong đời sống chỉ xảy nhờ sự trao ban và chia sẻ của người Kitô hữu với nhau và với cả những anh chị em khác đạo.
Tuần này, đài VTV1 đang chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật: TN 17B-33 FB
Tuần này, đài VTV1 đang chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giê-su. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giê-su không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên Người đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giê-su hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giê-su bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giê-su sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dậy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hoá bánh ra nhiều, Đức Giê-su muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
Kiểm Điểm Đời Sống
1- “Bần cùng sinh đạo tặc”. Bạn nghĩ sao về câu tục ngữ ấy. Ta nên làm gì để xã hội nên tốt hơn ? 2- Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch giàu-nghèo trong xã hội. Đó có phải là bất công không ? Ta phải làm gì để giảm sự chênh lệch này ? 3- Nhều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không ? 4- Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên cuả cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hi vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham xây dựng. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Mỗi ngày chúng ta đều phải ăn uống để có sức bồi bổ cơ thể và tinh thần, không ăn uống cũng đồng: TN 17B-34
Mỗi ngày chúng ta đều phải ăn uống để có sức bồi bổ cơ thể và tinh thần, không ăn uống cũng đồng nghĩa với cái chết vậy. Chúa Giêsu là Đấng hay thương xót, Ngài chạnh lòng thương vì thấy dân chúng đói khổ khi đi theo nghe Ngài giảng dạy, với năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, Ngài đã nuôi hơn năm ngàn người ăn, một phép lạ với một ý nghĩa đặc biệt mà Chúa Giêsu đã làm để hướng dẫn chúng ta đến phép lạ vĩ đại hơn: phép lạ của bí tích Thánh Thể.
1. Lương thực phần xác.
Không ai ngồi xuống an vui tự tại khi trong bụng đói meo, không ai điềm nhiên ngồi đọc báo khi trong nhà hết gạo và con cái thì bụng đói không cơm ăn, nhưng Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ là hãy nói cho họ ngồi xuống, ngồi để nghỉ ngơi, ngồi để lấy sức, ngồi để đợi cơm ăn, một lời nói của tình thương xót, một lời nói của an ủi... Họ ngồi xuống và được ăn no nê bánh và cá.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu không hiện diện bằng thân xác để dạy dỗ và làm các phép lạ, nhưng Ngài đã trao quyền này lại cho các tông đồ và những kẻ tin vào Ngài quyền thay mặt Ngài để đem cơm ăn áo mặc đến cho tha nhân, Ngài không hiện diện bằng thể lí, nhưng Ngài hiện diện trong chính chúng ta khi chúng ta thực hành đức ái với tha nhân.
Mỗi một con người đều có một quả tim bằng thịt biết yêu thương, biết khổ đau và biết thông cảm cho nhau, quả tim này biết chạnh lòng trước những đau khổ của tha nhân và của anh chị em, quả tim này biết xót xa trước những cảnh trái ngang cuộc đời của con người, quả tim này, bởi vì nó được cấu tạo bằng thịt và máu, cho nên nhịp đập của nó càng nhanh hơn khi đứng trước những đói nghèo của người khác.
Một em bé, năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ là hình ảnh rất sống động cho đức tin của chúng ta, cho tình thương bác ái của chúng ta đối với anh chị em đang sống trong nổi bất hạnh nghèo đói. Chỉ là em bé nhưng lòng quảng đại thì rất lớn, chỉ năm chiếc bánh và hai con cá nhưng đã biến thành hơn năm ngàn khẩu phần cho hơn năm ngàn người ăn no nê.
Ngày hôm nay tinh thần quảng đại của em bé vẫn ở trong chúng ta khi chúng ta “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống”, mỗi một người trong chúng ta đều trở nên một em bé ngày xưa ấy, đem khẩu phần ăn mà mình có được chia sẻ với tha nhân, với người nghèo bất hạnh, thì phép lạ bánh hoá nhiều sẽ tái diễn ngay trong xã hội này, chỉ cần mỗi người một tấm lòng, mỗi ngừơi một chén cơm, mỗi người một đồng bạc, cả thế giới đều như thế thì không những chỉ có năm ngàn người ăn mà là cả triệu triệu người được ăn no nê. Đó không phải là phép lạ sao, đó là phép lạ của tình yêu liên đới trong Chúa Kitô, đó là phép lạ giữa tình người với nhau, và đi xa hơn nữa đó chính là Chúa Kitô hoá thân trở thành chúng ta để chăm lo cho mọi người.
2. Lương thực phần hồn.
Mỗi ngày phép lạ bánh hoá nhiều đều diễn ra trong thánh lễ, chỉ một tấm Bánh nhưng nuôi sống linh hồn cả tỉ người trên mặt đất, một phép lạ vĩ đại làm cho các thiên thần kinh ngạc và thờ lạy khi linh mục đọc lời truyền phép “Này là Mình Thầy...Này là Máu Thầy...”
Càng kinh khiếp hơn khi phép lạ này được thực hiện bởi tay người phàm, bởi tay những con người tội lỗi bất toàn, đó là các linh mục của Chúa.
Mỗi ngày chúng ta đều được ăn no nê Bánh bởi trời, bánh này là do hoa màu ruộng đất, do lao công của con người mà có, nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, nhờ quyền năng Thánh Thần đã trở nên lễ vật hiến tế lên Chúa Cha và của ăn uống nuôi sống linh hồn chúng ta. Nơi bí tích này, chúng ta được bồi dưỡng thân thể và linh hồn để chúng ta tiếp tục sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng ta là “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống”.
Ai coi thường bí tích Thánh Thể và ai không muốn tham dự Bánh Hằng Sống thì không có sức sống của Chúa Kitô trong mình, và đương nhiên họ cũng không thể nào nhìn thấy Chúa Kitô trong người anh em bất hạnh, và càng không thể trở thành người thay mặt Chúa mà ban phát cơm bánh cho tha nhân, cho người bất hạnh.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang sống trong một xã hội phồn vinh về vật chất, nhưng tinh thần Kitô giáo thì quá nghèo, cho nên chúng ta chưa thấy chạnh lòng trước những đau khổ của tha nhân, trong thánh lễ này, xin Chúa ban cho chúng ta có tâm hồn quảng đại để sống như Chúa dạy: yêu tha nhân như chính mình, để mỗi lần chúng ta tham dự tiệc thánh thiên quốc đều nhìn thấy rõ những nhu cầu của tha nhân mà giúp đỡ.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 17 thường niên tại nhà thờ Chúa Thánh Thần Ợ Taiwan. - Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Ba chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Bắt đầu từ hôm nay cho: TN 17B-35
Ba chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Bắt đầu từ hôm nay cho đến chúa nhật 21, chúng ta nghe đọc Tin mừng theo thánh Gioan, đoạn 6. Trong Phúc âm của mình, thánh Gioan chỉ thuật lại 7 phép lạ (trong số 35 phép lạ Phúc âm ghi lại). Nhưng thánh nhân không dùng từ phép lạ mà chỉ đơn giản “dấu chỉ” (signum). Gọi là “dấu chỉ”, thánh nhân có ý nói chúng có mục tiêu đặc biệt dẫn độc giả đến gần bên Chúa Giêsu, suy gẫm kỹ hơn về thân thế sự nghiệp của Ngài, nhận ra Ngài là đấng phục sinh, đầy quyền năng. Tức bẩy dấu chỉ đó là những mặc khải riêng lẻ giúp độc giả không những chứng kiến sự lạ bất thường mà còn được lôi kéo tin theo Chúa Giêsu. Qua những dấu chỉ, thánh Gioan giúp đỡ những người có lòng chân thành, tìm đến tin yêu Chúa Giêsu theo cách thức mà mỗi phép lạ mặc khải về Ngài.
Dấu chỉ hôm nay là Chúa nhân bánh lên nhiều, những tuần lễ tiếp theo là huấn từ về bánh hằng sống và sự khôn ngoan từ trời đến với nhân loại. Thánh Gioan không phải là cây viết tài tử. Ông suy tư rất nhiều trước khi đặt bút. Vì thế văn của ông cao siêu, thâm trầm, chứa đựng nhiều ẩn dụ. Mỗi ẩn dụ súc tích nhiều tầng lớp ý nghĩa: luân lý, đạo đức, thần học, phong tục, xã hội& chúng ta khó mà khám phá hết. Càng đọc chúng ta càng bị thu hút vào những ý nghĩa đó và gẫm ra được Đức Giêsu là ai? Xin nhớ về cuối Phúc âm, thánh Gioan nói rõ mục đích của cuốn sách: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20,30-31). Riêng về dấu lạ nhân bánh lên nhiều, ba Phúc âm nhất lãm cũng có trình thuật. Thường thì thánh Gioan không nhắc lại những điều các tác giả Phúc âm khác đã viết. Nhưng ở đây thánh Gioan lấy lại, bởi ngài trông thấy ở nó một ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho Phúc âm của ông. Chúng ta tập trung vào dấu lạ này để tìm ra những bí ẩn cho đời sống thiêng liêng của mình.
Sau khi Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Đám đông dân chúng đi theo Ngài. Không giống như nhất lãm, Chúa Giêsu không tỏ lộ lòng thương cảm dân chúng đói khát hay xót thương đàn chiên bơ vơ không người chăn. Ngài hỏi luôn ông Philipphê: “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” Thánh Gioan tiếp ngay: “Người nói thế là để thử ông, chứ Người biết rõ mình sắp làm gì rồi”. Phản ứng của các môn đệ rất đời thường, sau khi đã lượng định số người ăn: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Nghĩa là số người đông lắm, hai trăm quan là một số tiền lớn, bởi lương thợ thời ấy là một đồng một ngày công lao động. Thánh Anrê thực tế hơn: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.” Theo đánh giá của hai tông đồ: “Với ngần ấy người thì thấm vào đâu.” Thánh Gioan, người có mặt, nhớ lại thì số người ăn là phỏng năm ngàn, một con số khủng khiếp, vượt ngoài khả năng lo liệu của các ông. Ngày nay chúng ta cũng thường bị Thiên Chúa thử thách bằng những câu truyện tương tự và phản ứng của chúng ta thế nào? Đơn sơ, chân chất như các tông đồ? Hay nhuốm đầy giọng điệu kiêu kỳ, tự phụ?
Thực ra cuộc đời người tín hữu gặp vô vàn khó khăn thường nhật. Những nhu cầu của gia đình, bạn bè, giáo hội, thế giới, luôn đè nặng trên vai họ, đôi khi đến ngộp thở, vô phương giải quyết. Làm thế nào nuôi sống ngần ấy người nghèo khổ, đói khát? Trong khi chính mình cũng không đủ bánh ăn? Hôm nay các môn đệ và Chúa Giêsu đều phải đối mặt với một nhu cầu: Bánh cho năm ngàn người ăn. Các môn đệ lượng định khả năng hạn hẹp của mình và nhận ra sự bất lực. Họ không hề khuếch đại tình thế: “làm thế nào nuôi sống ngần ấy người?” Họ thực sự muốn có bánh ăn cho đám đông, không tính bài tảng lờ hay giả điếc làm ngơ trước nhu cầu cấp thiết của người khác, nhưng chẳng biết xoay sở ra sao, đơn giản là vấn đề vượt quá khả năng: “Ở đây có em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu?” Chúa Giêsu cũng nhìn thấy vấn đề và Ngài đã giơ vai gánh vác trách nhiệm.
Ngày nay cũng thế, nhiều khó khăn xem ra vượt quá sức lực chúng ta, nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác. Dù chúng ta cũng như các tông đồ thời xưa, cảm thấy bất lực. Tuy nhiên, người chịu trách nhiệm không phải là chúng ta, là Giáo hội mà là Chúa Giêsu. Chúng ta có biết Ngài đang dự tính chi trong đầu óc, trong chương trình của mình? Điều Ngài muốn nơi chúng ta là nỗ lực và chân thành cộng tác. Còn khả năng giải quyết khó khăn là ở nơi Ngài quan phòng! Trước mắt, chúng ta thấy bao nhiêu công việc nhiêu khê: Chiến tranh, hoà bình, thanh niên thiếu nữ mất định hướng, trẻ bụi đời, HIV/AID, xì ke, đĩ điếm, đói khổ& toàn những câu truyện vượt khỏi tầm tay nhỏ bé của mình, của Giáo hội. Chúng ta chẳng biết giải quyết ra sao? Nhưng đã từng có những tấm lòng quảng đại, hy sinh thời giờ, tiền bạc, làm việc tông đồ, góp phần với Chúa Giêsu. Họ đã thu lượm được nhiều kết quả ngoạn mục, thay đổi lòng người, thay đổi nếp sống, như mẹ Têrêsa thành Calcutta, ông Fouleraux, các nhà truyền giáo. Chúng ta không thi hành sứ vụ một mình. Có Chúa Giêsu cùng hoạt động. Cùng với chúng ta Ngài nhìn thấy khó khăn và “biết mình sắp làm gì rồi”. Chính qua các Tông đồ mà Ngài nuôi sống đám đông! Qua các tín hữu mà Ngài cải tạo thế giới!
Ngay từ đầu bài Tin mừng, thánh Gioan đã liên kết phép lạ với Lễ vượt qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ vượt qua, là đại lễ của người Do Thái.” Chi tiết này giúp hiểu sâu xa hơn về chủ ý của phép lạ. Người tín hữu khi nghe nhắc đến lễ vượt qua, là liên tưởng ngay đến bữa tiệc ly Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, trước khi Ngài chịu chết. Trong bữa ăn này Chúa ban Mình máu Ngài làm của nuôi trường sinh cho nhân loại và lập giao ước mới với chúng ta trong Thịt và Máu Ngài. Các tác giả nhất lãm mô tả phép lạ hoá bánh ra nhiều bằng ngôn ngữ Thánh thể: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Lc 14,19). Thánh Gioan ngược lại, dùng sự kiện này để khai triển một bài giáo huấn dài về việc Chúa Giêsu ban Thịt và Máu Ngài để nuôi sống loài người muôn thuở. Chúa nhật tuần tới thánh nhân sẽ mời gọi đám đông nhìn qua bánh vật chất, nhận ra Bánh hằng sống. Đám dân chúng ao ước bánh làm đầy dạ dầy trống rỗng của mình, nhưng thánh Gioan đi xa hơn, Chúa Giêsu sẽ thoả mãn cơn đói khát sâu thẳm của lòng dạ con người, đó là ước vọng sống lâu dài mãi mãi. Trong sa mạc ông Môsê cung cấp manna cho dân Do Thái từng ngày, nhưng cũng chỉ làm dịu bớt cơn đói thời gian ngắn, sau đó lại đói. Thánh Gioan qua bài Phúc âm hôm nay và các tuần kế tiếp, cho biết Chúa Giêsu sẽ mở một kỷ nguyên mới, trong đó loài người sẽ hoàn toàn mãn nguyện với của ăn bởi trời và không còn khi nào phải lo đói khát nữa. Thánh sử đã mở cho nhân loại một cánh cửa để có thể nhận thấy ý nghĩa của dấu chỉ nhân bánh.
Trên bờ hồ Tibêria, dân chúng được ăn no nê, nhưng chẳng nắm được thực chất của biến cố. Họ chứng kiến công việc lạ lùng Chúa Giêsu làm, nhưng chẳng hiểu được ý nghĩa của nó. Họ no bụng, nhưng tinh thần vẫn còn đói. Họ chưa nhận ra rằng Chúa Giêsu chính là “bánh” mà họ cần tiếp rước hàng ngày để được sống muôn thuở, và không bao giờ còn phải “đói” nữa. Thời xưa là như thế. Chúng ta ngày nay thì sao? Bánh nào làm chúng ta no bụng, thoả lòng? Bánh nuôi dưỡng chúng ta qua biển khổ trần gian, hay bánh cạn dần theo năm tháng? Bánh vĩnh cửu làm chúng ta no thoả hay bánh nhất thời chẳng khác gì bánh vẽ? Dục vọng thưởng đẩy con người tìm kiếm những thứ bánh ngắn hạn như tiền tài, danh vọng, sắc dục, tham lam. Những thứ bánh đó chẳng bao giờ thoả mãn ước vọng vĩnh cửu. Ngược lại càng chạy theo chúng, càng cảm thấy đói khát. Hôm nay ước ao, ngày mai chán ngấy. Đó là lý do nhiều gia đình tan nát, bạn bè ly tán. Các nhà thông thái thường nói rằng chúng ta ăn uống cái chi, chúng ta sẽ là cái đó. Ăn uống những của cải tạm bợ, chúng ta sẽ là người nhất thời tạm bợ chẳng bao giờ cảm thấy bằng lòng với những điều mình chiếm hữu. Chỉ có bánh vĩnh cửu bởi trời mới làm cho linh hồn được an nghỉ.
Giả dụ, một đêm không ngủ, tâm trí chúng ta ở đâu? Những con ma nào xuất hiện mà ban ngày chúng ta tránh né? Những lãnh vực hoạt động nào làm chúng ta tiêu hao năng lượng vô ích? Những lắng lo nào cần bánh thật hướng dẫn? Đúng là chúng ta cần nhiều của ăn vật chất và tinh thần để có thể tiến bước đúng đường, đúng hướng. Vậy thì chỉ có Chúa Kitô, bánh hằng sống, mới thoả mãn nhu cầu đó của nhân loại. Hơn thế nữa, Ngài còn vượt quá lòng chúng ta mong ước. Thiên hạ gọi Ngài là vị tiên tri phải đến chỉnh đốn thế gian. Đúng thật Ngài là một vị tiên tri vĩ đại, cuộc đời của Ngài là mẫu mực hết mọi người phải noi theo, để có thể trở nên tốt lành thánh thiện.
Nhưng để có không gian cho Ngài, chúng ta phải bỏ trống cõi lòng mình, gạt đi tính kiêu ngạo, trì chiết và nuôi sống bằng lòng nhân ái. Gạt đi tính lãnh đạm và nuôi sống bằng lòng thương cảm, gạt đi ích kỷ cô đơn và nuôi sống bằng hợp đoàn và lòng rộng rãi. Cái tôi của chúng ta phải bị bỏ cho chết đói, thì tinh thần mới có thể mở rộng, bành chướng theo cuộc đời Chúa cứu thế. Hôm nay trước bàn thờ Thánh Thể, chúng ta là đám đông đói khát. Nhưng chúng ta đến đây không phải vì của ăn chóng qua, mà vì lương thực vĩnh hằng. Chúa Giêsu chính là lương thực đó. Để kết thúc bài suy niệm, tôi xin kể lại câu truyện nhỏ của cha John k. Bergland: Có một đạo sĩ nằm ngủ dưới bóng cây to ở ngoại ô thành phố. Một người đàn ông chạy vội đến đánh thức vị đạo sĩ: “Hòn đá, hòn đá, ngài làm ơn cho xin hòn đá”. Vị đạo sĩ ngạc nhiên hỏi: “Hòn đá nào?” “Hòn đá mà thiên sứ hiện ra trong giấc mơ bảo tôi hãy tìm khách hành hương ngủ ngoài thành phố đang giữ trong túi, ông ta sẽ cho và tôi sẽ giầu có mãi mãi”. Vị đạo sĩ nhớ ra viên kim cương mà ông nhặt được trên đường đi, viên kim cương to bằng nắm tay, tuyệt đẹp. Ông móc túi lấy nó ra đưa cho người đàn ông. “Đây xin biếu, nếu ông muốn lấy”. Người đàn ông vồ lấy viên kim cương, biến mất. Đêm ấy hắn không thể chợp mắt. Chưa tảng sáng hắn đã chạy vội đến gọi đạo sĩ: “Kho tàng, kho tàng, xin ông cho tôi cái kho tàng mà vì nó ông không thèm viên ngọc quí này.” Vị đạo sĩ ngẩn người, lúc sau gẫm ra: “Đức Giêsu Kitô, ngoài ra ta chẳng còn kho tàng nào khác!” Amen.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều được cả bốn quyển Tin mừng tường thuật. Nhưng bài tường thuật của Ga: TN 17B-36
Phép lạ hóa bánh ra nhiều được cả bốn quyển Tin mừng tường thuật. Nhưng bài tường thuật của Ga có những chi tiết riêng biệt như sau:
- Xác định rõ nơi xảy ra là phía đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “dân chúng theo Ngài đông lắm”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.
- Nhưng Ga còn ghi thêm “vì thấy các dấu lạ Ngài làm”, chứng tỏ dân theo Ngài vì lòng vụ lợi chứ không phải do đức tin thật.
- Trong các Tin mừng nhất lãm, các môn đệ nói cho Chúa Giêsu biết dân chúng đói bụng. Còn trong Ga, chính Chúa Giêsu hỏi các môn đệ làm sao có bánh cho dân ăn.
- Trong nhất lãm, Chúa Giêsu bảo các môn đệ phân phát bánh và con cái cho dân ăn.
- Khác biệt quan trọnh nhất là Ga coi phép lạ này là dấu chỉ giúp người ta hiểu về mầu nhiệm bản thân Chúa Giêsu: Ngài chính là bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.
B...nẩy mầm.
1. “Philipphê nói: hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”: trước sứ mạng Chúa giao, ai cũng thấy rằng mình không đủ khả năng. Không bao giờ chúng ta ngang tầm để có thể đáp ứnmg ý muốn của Chúa. Nhưng, cũng như Philipphê và các môn đệ xưa, chúng ta cứ bắt đầu, rồi Chúa sẽ tiếp tay cho đến hoàn thành. Thực ra, Chúa không đòi ta làm điều ta không thể, Ngài chỉ muốn chúng ta để Ngài hành động trong và qua chúng ta.
2. Đám đông dân chúng này vẫn còn đói khát: đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men, và sâu xa hơn, họ còn đói khát lẽ sống, đói khát khác chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.
3. Một lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, trong tay chúng con, Chúa là bánh
Trong tay chúng con, Chúa là sự sống
Xin hãy mở rộng tay chúng con, để ban bánh cho người khác
4. “ Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con con cái, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu”
Hồi nhỏ, mỗi khi nghe đoạn Tin mừng này tôi thường hỏi: nếu em bé kia cứ khư khư giữ lấy phần thức ăn ít ỏi của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chợt tôi nghe như có tiếng đáp lại: “Điều ta muốn là tấm lòng quảng đại của con”
Từ đó trở đi tôi mới thực sự cảm nhận được rằng: nếu tôi trao ban mà còn so đo tính toán thiệt hơn, nếu tôi không trao ban với tất cả tấm lòng quảng đại của mình, thì hành vi kia thật là vô nghĩa.
Em bé trong Tin mừng Luca hôm nay lại một lần nữa nhắc nhở tôi nhìn lại bản thân và cách trao ban cho người anh em khác.
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại. (Epphata)
Có những lúc Chúa Giêsu muốn lánh xa khỏi đám đông. Ngài bị căng thẳng liên tục nên cần: TN 17B-37
Có những lúc Chúa Giêsu muốn lánh xa khỏi đám đông. Ngài bị căng thẳng liên tục nên cần nghỉ ngơi. Hơn nữa, dôi lúc Ngài cần ở riêng với các môn đệ để hướng dẫn họ hiểu biết sâu nhiệm hơn về chính Ngài. Ngài cũng cần có thời giờ để cầu nguyện. Trong cơ hôi đặc biệt này, trước nhất là lánh xa trước khi xảy ra va trạm với các nhà cầm quyền, vì thời điểm của cuộc xung đột cuối cùng vẫn chưa đến.
Chúa Giêsu xuống thuyền và ra đi. Từ Cá-phác-na-um qua bên bờ biển Galilê chừng bốn dặm. đân chúng đã chứng kiến những điều lạ lùng Ngài làm, nên họ vội vã chạy dọc theo bờ hồ vòng qua mé bên kia, vì rất đễ cho họ thấy hướng thuyền Chúa đi. Sông Giođan chảy vào mạn bắc biển hồ Galilê. Cách đó hai dặm về phía thượng lưu, có chỗ cạn, gần chỗ cạn này có một làng gaọi là Bết-sai-đa Giuđia , để phân biệt với làng Bết-sai-đa khác ở Galilê, và Chúa Giêsu đang nhắm đi đến địa điểm ấy (Lu Ca 9,10). Gần Bết-sai-đa Giuđia có một cánh đồng nhỏ cạnh bờ biển lúc nào cũng có cỏ xanh, tên là Enbatigia. Đó là nơi phép lạ này xảy ra.
Thoạt tiên Chúa Giêsu đi lên ngọn đồi phía sau cánh đồng và ngồi với các môn đệ. Đám đông bắt đầu xuất hiện; họ đi thật nhanh, vượt chín dặm đường vòng lên phía trên biển hồ, qua chỗ sông cạn mới đến nơi. Tháng Gioan cho biết lúc ấy đã gần Lễ Vượt Qua, nên trên các nẻo đường chắc có đông người hơn bình thường. Có thể nhiều người đang theo co đường ấy lên thành Giê-ru-sa-lem. Nhiều khách hành hương từ Galilê đi lên phía bắc, vượt chỗ sông cạn, qua Pêrê đi xuống phía nam, rồi trở lại bên này sông GioĐan gần Giêricô để đến Giê-ru-sa-lem . Con đường đó dài hơn nhưng tránh được vùng đất của dân Samari mà họ rất ghét. Dường như đám dông này càng ngày càng đông thêm, do số khách hành hương đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua.
Khi thấy đoàn dân đông đảo ấy, Chúa Giêsu động lòng thương xót. Họ đang đói và mệt. Phải cho họ ăn. Ngài quay sanh Philipphê là điều tự nhiên vì quê ông ở Bêtsaiđa (Gioan 1,14); ông biết rõ địa phương này. Ngài hỏi ông có thể đi tìm thức ăn ở đâu. Câu trả lời của Philipphê đầy thất vọng. Ông bảo, cho dù có tìm được thức ăn đi chăng nữa cũng phải tốn hơn hai trăm đồng mới đủ cho đám đông đó mỗi người một ít. Một đồng là tiền lương tiêu chuẩn một ngày của một người công nhân. Theo tíng toán của Philipphê phải có hơn sáu tháng lương của một công nhân mới dám nghĩ đên chuyện cho một đám đông như thế mỗi người một chút.
Bấy giờ, Anrê xuất hiện. Ong đã phát hiện được một cậu bé có năm ổ bánh kiều mạch với hai con cá nhỏ. Chắc cậu bé đi chơi và mang theo các thứ đó để ăn trưa; rồi như một trẻ nhỏ, câu bị lôi cuốn nhập theo đám đông. Như thường lệ Anrê vẫn đưa người khác đến với Chúa.
Thức ăn cậu bé mang theo chẳng bao nhiêu. Bánh kiều mạch là loại bánh mì rẻ tiền nhất và bị coi khinh. Trong kinh Mishnah có một lễ vật mà người đàn ba phạm tội ngoại tình phải dâng. Dĩ nhiên người đó phải dâng lễ chuộc tội. Thêm vào đó là lễ chay gồm bột, rượu và dầu trộn lẫn với nhau. Thông thường bột dùng là bột lúa mì, nhưng theo luật qui cho trường hợp dâng lễ vì tội ngoại tình, thì bột có thể là bột lúa mạch, vì lúa mạch là thức ăn của xúc vật. Bánh kiều mạch là bánh của người thật nghèo. Còn cá chắc cũng chẳng lớn hơn cá nục. Cá muối xứ Galilê vốn nổi tiếng khắp Lamã. Vào thời đó, cá tươi là xa xỉ phẩm, ít có, vì không có phương tiện vận chuyển đi xa và khó bảo quản tươi được. Những loại cá nhỏ như cá nục thì nhiều vô kể trong biển hồ Galilê. Người ta đánh bắt, sau đó đem muối. Cậu bé cũng có cá muối nhỏ để nuốt cho trôi khẩu phần bánh kiều mạch khô khan.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho đám đông ngồi xuống, Ngài cầm lấy bánh và cá rồi chúc phúc cho. Khi hànhđộng như thế Ngài đã làm như một người cha trong gia đình. Lời tạ ơn mà ngàu dâng lên là câu thông thường vẫn được người Do Thái sử dụng trong mỗi nhà: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con tạ ơn Ngài, Đấng đã khiến đất sinh ra bánh”. Đám đông được no nê, ngay đến từ ngữ no nê (chortazesthai) cũng rất gợi ý. Theo nguyên văn Hylạp cổ, chữ đó chỉ việc chung thủy xúc vật ăn rơm, và khi dùng cho người thì nó có nghĩa là ăn no nê đến ngán.
Khi dân chúng ăn no nê rồi, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thu nhặt những mẩu bánh vụn cò thừa. Tại sao lại có các mẩu bánh vụn? Theo phong tục Do Thái, khi ăn uống người ta có thói quen để lại chút gì đó cho người tôi tớ. Phần thừa đó được gọi là Peah, chắc chắn đám đông đó đã để lạ phần thườn lệ cho số người phục vụ họ trong bữa ăn.
Số thức ăn còn thừa người ta đã lượm được mười hai giỏ đầy. Chắc mỗi môn đệ đều có một giỏ (Kophinos). Cái giỏ ở đây có hình dáng giống cái chai. Người Do Thái luôn đen theo cái giỏ này khi đi đường. sách Juvennal nói về “ người Do Thái với cái giỏ và cuộn rơm’ (gói cỏ khô dùng để làm đệm nằm, vì rất nhiều người Do Thái sống đời du mục). Người Do Thái với chiếc giỏ bất ly thân là hình ảnh rất đặc trưng. Một mặt vì cá tính hay thu nhặt, mặt khác để họ đem theo khẩu phần của mình để giữ đúng luật Do Thái về vấn đề tinh sạch và không tinh sạch. Với các thức ăn còn thừa, mỗi môn đệ đều nhặt đầy giỏa của mình. Thế là cả đám đông đã được ăn no, dư dật.
Chúng ta có thể xem phép lạ này là một việc có thật, xảy ra đúng như Chúa Giêsu đã làm cho bánh và cá của em bé tăng lên cho hơn năm ngàn người ăn còn dư đến hai mươi giỏ. Khi nhì thấy đám đông đến cùng mình Chúa Giêsu đặt vấn đề thức ăn với Philipphê. Khi kể lại biến cố này, Mác Cô ghi: “Chúa động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không có người chăn”. Ngài dạy dỗ, lo cho thức ăn tâm linh xong, lại truyền cho các môn đệ “chính các ngươi phải lo cho họ ăn” để qua cơn đói. Lòng trắc ẩn sâu xa trong Chúa Giêsu không thể chối từ hay lơ là một nhu cầu thể chất và tâm linh lớn lao của đòn dân lúc bấy giờ. Do đó phép lạ này xảy ra như dân chúng đã chứng kiến.
Tuy nhiên cũng có người đặt câu hỏi? Tại sao Chúa Giêsu từ chối hóa bánh từ đá trong lúc ma quỷ cám dỗ trong hoang điạ. Thật ra Chúa Giêsu làm phép lạ để bày tỏ vinh hiển và quyền năng của Thiên Chúa, và đáp ứng nhu cầu đích thực của một người hay một đoàn dânc chú không vì một nhu cầu cá nhân. Chúa không ích kỉ để chỉ thấy lợi riêng cho Ngài đang bị đói sau bốn mươi ngày không ăn. Đây là điều mỗi chúng ta cần bén nhạy để nhìn rõ vấn đề, khi làm bất cứ công tác hay một chương trình gì:
Công tác đó có tôn cao làm rạng danh Chúa hay không?
Nhằm thoả đáp nhu cầu lớn lao của công việc nhà Chúa, của đoàn dân hay chỉ vì lợi ích riêng của cá nhân, đoàn thể mình?
Cũng cần lưu ý đến một số nhân vậy mà thiếu họ thì phép lạ này không thể xảy ra:
Anrê:
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói: “để coi tôi có thể làm được gì, và phần còn lại tôi trao cho Chúa Giêsu làm”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Chúa Giêsu, và bởi việc đem cậu bé đó lại mà phép lạ đã xảy ra. Chúng ta không thể biết được sẽ có gì xảy ra khi đem một người nào đó đến với Chúa Giêsu …Nếu Cha mẹ nuôi dưỡng con cái mình trong sự nhận biết, yêu thương, kính sợ Thiên Chúa, biết đâu một ngày nào đó đứa con sẽ có thể làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa và loài người. Khi một giáo lý viên đem một em bé đến với Chúa Giêsu, không ai biết được là một ngày kia, em bé ấy sẽ làm được việt gì cho Chúa Giêsu và Hội thánh.
Cậu bé:
Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng lên Chúa, nhưng từ lễ vật đơn thành của cậu. Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì lịch sử đã mất đi một việc lớn lao, chói lọi.
Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi chúng ta đem đến cho nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này đến chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa Giêsu bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng hiến dâng chính mình để phục vụ Chúa thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc hổ thẹn như vậy là đúng, nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa Giêsu.
Tin Mừng thánh Gioan ở phần I (2,1-12,50) cho thấy những dấu chỉ, khởi sự với những cái mới: TN 17B-38
Tin Mừng thánh Gioan ở phần I (2,1-12,50) cho thấy những dấu chỉ, khởi sự với những cái mới (2,1-4,42), như rượu mới tại Cana, đền thờ mới tại Giêrusalem, cuộc sinh lại trong nước và Thánh Thần, suối nước vọt tới sự sống đời đời. Kế đến chính Đức Giêsu được cho thấy là Đấng có lời ban sự sống đời đời (4,43-5,47), chính Người là bánh ban sự sống (6,1-71).
Chương 6 của Tin Mừng Gioan chia ra làm 4 phần: (1) phép lạ hoá bánh ra nhiều; (2) phép lạ đi trên nước; (3) bài giảng về bánh ban sự sống và (4) phản ứng của các môn đệ.
Hoá bánh ra nhiều để nuôi dân
Về phép lạ hoá bánh ra nhiều (6,1-15) trước hết độc giả được đặt trước bối cảnh Đức Giêsu có đông đảo dân chúng đi theo vì họ chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ ốm đau. Độc giả được chuẩn bị trước dấu lạ quan trọng sẽ xảy ra. Sự kiện Đức Giêsu lên núi và ngồi với các môn đệ gợi ý về một biến cố có ý nghĩa quan trọng thần học. Núi là nơi Đức Giêsu giảng bài giảng về các mối phúc (Mt 5,1), là nơi Người thiết lập Nhóm Mười Hai (Mc 3,13), cũng là nơi Người hiện ra sau phục sinh để sai các môn đệ đi đến với muôn dân (Mt 28,16). Lễ Vượt Qua của người Do Thái còn là lễ ăn bánh không men, báo hiệu về phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng kể: Máccô kể hai lần (6,31-44; 8,1-10); Mátthêu hai lần (14,13-21; 15,32-38); Luca một lần (9,10-17). Trong phép lạ này Đức Giêsu làm những cử chỉ gợi ý về những cử chỉ như thấy trong thánh lễ, đó là: Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó (Ga 6,11). Các câu 12-13 cũng nhắc nhở về thánh lễ, đặc biệt vì trình thuật phép lạ này không nói tới cá mà chỉ nói đến bánh dư thừa.
Phản ứng của dân chúng khi nói "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian" (c.14) gợi ý về vị ngôn sứ giống như Môsẽ sẽ đến trong ngày sau hết (Đệ Nhị Luật 18,15.18). Đức Giêsu đã hoá bánh ra nhiều để nuôi dân; Môsê cũng từng thực hiện việc đó nơi hoang địa xưa.
Huấn luyện các môn đệ trong việc thương người.
Điều đáng lưu ý là các môn đệ tham gia việc nuôi dân. Đức Giêsu không xuất hiện một mình trước phép lạ: "Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ" (c.3). Từ số môn đệ ngồi bên Người, Đức Giêsu gợi ý để ông Philipphê nói lên nhu cầu lớn lao về của ăn chính Người sẽ đáp ứng: "Có mua đến hai trăm đồng bạcbánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (c.7). Cũng lời gợi ý của Đức Giêsu là "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (c.5), khiến một môn đệ khác là ông Anrê, cung cấp cho Đức Giêsu số lượng nhỏ nhoi về bánh và cá là số lượng mà Người sẽ nhân lên cho ra nhiều để năm ngàn người ăn no. Ngoài ra, tất cả các môn đệ đều tham gia việc tổ chức cho dân nằm ngả mình xuống trong tư thế sẵn sàng đón nhận của ăn. Việc trực tiếp nhận lấy số lượng bánh và cá được nhân lên từ tay Đức Giêsu, để các môn đệ phân phát cho dân (các sách Tin Mừng Nhất Lãm nói rõ tính cách trung gian của các môn đệ) và việc thu gom những miếng thừa từ năm chiếc bánh lúa mạch, cộng lại thành mười hai thúng.
Vậy trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan, cho thấy môn đệ là những người giúp làm sáng tỏ ý định của Đức Giêsu muốn nuôi dân. Các ông là những người cung cấp cho Đức Giêsu số lượng của ăn theo khả năng hiện có về phía con người. Các ông cũng là những tác viên giúp đặt người ta trong tư thế sẵn sàng đón nhận ơn phép lạ, đồng thời là những người giúp làm nổi bật sự dồi dào của ơn đó (thu gom những miếng bánh thừa thành mười hai thúng).
Chúa an bài để luôn có người tới giúp khi cần
Nói tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay cho thấy không những một Đức Giêsu tỏ lòng thương dân, Người còn huy động các môn đệ tham gia việc thương người do Người lãnh đạo. Và đó chính là cách Đức Giêsu huấn luyện các môn đệ để các ông không chỉ thương người nơi đầu môi chót lưỡi như thư 1 Gioan 3,16-18 dạy: "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm."
Về điều này một người chia sẻ như sau về việc thương người:
"Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước: - Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết:
Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau: - Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
+ Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ong Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
+ Tay phải làm tay trái chẳng biết: - Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về cách Đức Giêsu huy động các môn đệ tham gia việc thương người do Chúa lãnh đạo, như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy?
2. Bạn tâm đắc được gì qua lời chia sẻ về những người giúp đỡ gia đình chị Tuyết? Riêng thư 1Ga 3,16-18 có giúp gợi ý bạn điều gì? Nhất là với câu "Nếu ai có của thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm."
Chúa Giêsu khi xuống thế, Người không phải chỉ giảng dạy mà còn minh chứng sứ mệnh thiên sai: TN 17B-39
Chúa Giêsu khi xuống thế, Người không phải chỉ giảng dạy mà còn minh chứng sứ mệnh thiên sai của Người bằng việc làm, bằng cả cuộc sống của Người. Cứng đầu, bướng bỉnh như dân Do thái, mà rốt cùng cũng phải bảo nhau: "Chưa ai nói được như ông này ! " Và họ kháo láo trong thán phục: "Ông là một tiên tri cả... Ông là Môisen hay Êlia xuất hiện", rồi họ kết luận: "Thật Ngài là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian " ( Yn 6,14 )
Chúa Giêsu là Đấng phải đến, ý lực này thúc đẩy chúng ta suốt đời tìm hiểu Ngài và làm cho mọi người biết Ngài là ai.
Chúa Giêsu là ai ? Không thể trong một vài trang giấy hay một vài khắc đồng hồ diễn tả hết được bức chân dung của Chúa. Đời sống của Chúa bề ngoài rất ngắn ngủi: Sinh ra ở Bêlem, một thị xã nhỏ bé thuộc sứ Giuđa, sống qua tuổi trẻ tại Nazareth, một làng nhỏ ở Galilê, xuất thân giảng đạo vào lúc 30 tuổi, làm những việc lạ lùng chưa từng thấy. Rồi, lúc ai nấy ngóng trông Người sẽ lập quốc, xưng vương, thì Người lại bị bắt, bị đánh, bị kết án, bị đóng trên thập giá dưới thời Phôngxiô Philatô trấn thủ xứ Giuđa. Đời Ngài vỏn vẹn chỉ có thế.
Nhưng, Napoléon, sau khi chinh phục gần toàn cỏi Âu châu, thất bại ở Waterloo, sống trong cảnh đày ải ở đảo Sainte-Hélène, đã viết những dòng hồi ký: "Thật là một sự kiện lạ lùng. Sau mười tám thế kỷ, Đức Giêsu Kitô vẫn còn được yêu mến. Không ai giàu có lừng danh đến đâu mà được người đời mến yêu lâu hơn chuỗi ngày sống của họ. Ngày nay có ai còn yêu César hay A lịch sơn nữa không ? Các vị ấy không còn được yêu mến nữa. Chỉ có một mình Ngài, Đức Giêsu Kitô ".
Renan, một người vô thần cũng phải thú nhận: "Hỡi Đức Kitô, Người còn sống động hơn xưa ngàn lần, Người được yêu mến ngay từ ngày Người chết còn hơn lúc Người sống nơi dương gian. Người đã trở nên hòn đá móng cho nhân loại, đến nỗi xóa bỏ tên Người khỏi thế gian này, thì nhân loại sẽ lung lay tận gốc".
Lần dở Kinh thánh, đọc những đoạn hướng về Người sẽ đến, ta thấy đó không phải là một ước vọng lờ mờ, mà là một lời hứa được tuần tự và cụ thể thực hiện. Ngay từ lúc nguyên tổ bất trung, Chúa đã tỏ lòng yêu thương tha thứ của Ngài: "Ta sẽ đặt một mối thù giữa mày và người nữ, giữa dòng dõi mày và dòng dõi người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mày" (Kn 3,15). Từ miệng các tiên tri, lòng mong chờ vị cứu tinh tha thiết đã được diễn đạt thành lời: "Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa vị cứu tinh" (Is. 45,8). Hình ảnh của vị cứu tinh mỗi ngày đậm nét trong dân Do thái. Bị trăm ngàn thử thách, gian lao,dân Do thái vẫn vui lòng mong đợi và họ bảo nhau: "Hỡi những kẻ nhát đảm, đừng sợ, can đảm lên vì Thiên Chúa đến... Người đến để giải phóng chúng ta" (Is. 35,4). Thấm thía vì tủi nhục, vì thất bại, vì nô lệ, họ vẫn tiếp tục tha thiết nguyện cầu: "Lạy Chúa, con trông cậy vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn. Ước gì kẻ thù địch con không chê cười con được, và không ai tin tưởng ở Chúa mà phải thất vọng" ( Tv. 24,1-3).
Và Người đã đến, "chúng tôi đã thấy ánh sao của Người và chúng tôi đến thờ lạy Người " (Mt. 2,2). Nhưng ngay từ đầu Người đã lâm cảnh giá rét lầm than Một họa sĩ làm chủ những bức tranh của mình, người làm vưòn chiêm ngắm hoa trái mình trồng, người chủ nhà được người nhà kính trọng, còn Người, Đấng tạo thành vũ trụ và con người, lại lâm cảnh phủ phàng: "Người ở trong thế gian và thế gian nhờ Người mà có, mà thế gian lại không biết Người, Người đến trong nhà Người mà người nhà đã không đón nhận Người " (Yn 1,10-11).
Vừa sinh ra đã phải bôn tẩu sang Ai cập, sống tha hương cho đến lúc bạo chúa chết. Về Nazareth Ngài sống trong cảnh thanh bần nghèo khó, học nghề thợ mộc của cha nuôi. Cuộc sống chỉ được tóm gọn trong mấy câu: "Người càng lớn càng khôn ngoan và đạo đức trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người" (Lc.2,52).
Thế rồi một ngày kia Người từ giã gia đình, lên đường làm nghĩa vụ. Cuộc sống của Người đổi hẳn: người ta thấy Người luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa mà Người gọi là Cha. Người thu thập một số môn đệ từ hàng ngũ những người lao động, dân chài, ít học, chất phác. Người dạy dỗ cho người ta biết Tin mừng cứu rỗi là tin một Thiên Chúa toàn năng, tạo thành vạn vật tràn đầy tình yêu thương. Người rộng lòng tha thứ cho những ai biết ăn năn thống hối và nghiêm khắc quở trách những ai manh tâm sống trong cuộc đời tội lụy. Người đem hạnh phúc an bình cho mọi người, hứa Nước Trời cho những ai kiên trì trong thử thách; yêu thương trẻ con và ôm chúng vào lòng. Chỉ một lời Người phán ra đã sưởi ấm bao tâm hồn giá lạnh: kẻ què được đi, đui được thấy, phong được sạch, chết được sống lại. Dân chúng say mê nghe Người đến quên ăn, quên ngủ. Họ quên bánh hằng ngày để bám sát lấy Người nghe Lời hằng sống. Họ kinh ngạc, thán phục và bảo nhau: "Người là Đấng Tiên tri phải đến".
Tuy nhiên, trong những giờ phút tâm sự thân mật với các môn đệ, Người nói lui, nói tới về cái chết gần kề và thê thảm của Người: "Ta sẽ bị nộp trong tay kẻ dữ", "Ta sẽ bị treo lên". Mặc dầu Người có hứa: "Ngày thứ ba Ta sẽ sống lại". Các môn đệ không khỏi cảm thấy thất vọng hoang mang. Họ tìm cách ngăn chặn. Thế rồi Người nói Người phải chết. Lạ lùng thay, "Đấng cải tử hoàn sinh" như Người lại phải chết ? Biết trước phải chết trong cảnh nhục nhã ê chề, nhưng Người không lùi bước. Tối hôm đó Người giã từ môn đệ, cương quyết nói: "Giờ đã đến, chúng ta hãy ra đi". Đi đâu ? Đi để địch thù bắt, sỉ vả, đánh đòn, kết án, đóng đinh.
Tại sao Người phải lãnh cái chết ô nhuc như vậy ? Vì yêu nhân loại lỗi lầm, cả gan phạm tội đến Trời, vô phương cầu cứu, chỉ có Trời tha mới được, nên Chúa, chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, đã phải chết. Không những cái chết của Người hoá giải với Chúa Cha mà còn thông ban hạnh phúc trường sinh bất diệt.
Ngày nay, tượng Thánh giá ngự trị khắp nơi kêu gọi chúng ta nhớ đến tình yêu cao cả, tình yêu cảm thông, tình yêu trong đau khổ, tình yêu cam lòng chịu mọi đoạn trường, để đạt đến sung mãn là được Phục sinh, đắm chìm trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Người đã ra đi và không quên căn dặn: "Các con hãy rao giảng tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Đó là những nét chấm phá bức chân dung Chúa dựa trên Kinh Thánh. Nhưng sứ điệp Người truyền lại, là cả một Lời hằng sống, linh hoạt, đang tiếp tục biến đổi truyền đạt và canh tân lòng người. Ngay cả những người ngoài Kitô giáo hay nghịch đạo cũng phải công nhận Đức Giêsu, Đấng phải đến.
Thượng viện Roma đã nhận được bức thư của Lentulus Publius, dưới triều Cesare Augusto, nguyên văn như sau: "Giờ này tại Yuda, có một người đạo hạnh lạ thường; thân hình cao lớn, đều đặn, dáng điệu hiền lành, khả kính; làn tóc đượm một màu sắc không thể sánh ví được, rẽ làm hai ngay từ đỉnh đầu như thói người Nazareth, thả xuống từng lọn và tung toé trên đôi vai một cách yêu kiều. Người có một vầng trán rộng và đều đặn. Đôi má ửng hồng khả ái. Mũi và miệng cân đối lạ thường. Râu dày và cùng màu với tóc dài đến phía dưới cằm một ít thì rẽ làm hai. Mắt Người sáng trong và đầy yên tĩnh. Trong lúc nói năng hoạt đông, Người làm mọi sự một cách thanh nhã và trang trọng. Người khiển trách một cách uy quyền, khuyến khích một cách nhẹ nhàng.Không khi nào thấy Người cười, nhưng thường thấy Người khóc. Người rất ôn hoà, rất khiêm tốn, rất khôn ngoan. Sau cùng, Người là con người trổi bật hơn cả các con cái loài người bởi vẻ đẹp cao cả của Người và những nét hoàn thiện siêu việt".
Chưa hết, chúng ta hãy cố đọc những dòng sau đây do Papini, một người Ý, từng là một chiến sĩ vô thần đã phá hoại đạo Công giáo không ít, nhưng sau đã hiểu biết Chúa Giêsu và đã viết: "Yuđa đã không bán Chúa chỉ với ba mươi đồng bạc và đã không hôn Chúa chỉ với một lần. Không biết bao biệt phái từ hai mươi thế kỷ nay đã kêu to: "Chúng tôi không cần ông Giêsu, hãy giết ông đi". Không biết bao nhiêu lần chúng tôi đã làm chảy máu lưng Chúa vì tiền, vì chức, vì tư lợi. Biết bao lần chúng tôi đã đóng đinh Chúa bởi ước muốn, bởi tư tưởng, hành động...Hỡi Đức Kitô, chúng tôi đã xua đuổi Người xa chúng tôi, vì Người quá trong sạch.. Chúng tôi đã quay mặt khỏi Người vì Người quá thánh thiện; chúng tôi kết án Người và đóng đinh Người vì Người đã lên án cuộc sống tôi lụy của chúng tôi. Và giờ đây, đang lúc chúng tôi lê thân trên vũng bùn xấu xa hôi hám, chúng tôi cảm thấy bị dày vò vì mơ tưởng đến Người, đến chỉ một mình Người. Chúng tôi thiếu có một điều, đó là Người. Kẻ đói, họ tưởng họ đói cơm bánh hay sao ? Không, họ đói chính Người. Kẻ khát, họ tưởng họ khát nước chăng ? Không, họ khát chính Người. Kẻ tìm kiếm sắc đẹp trên thế gian không biết rằng họ đang tìm Người là sắc đẹp muôn đời. Kẻ tìm kiếm chân lý thở than đeo đuổi Người vì Người là chân lý bất diệt. Kẻ mong mỏi an bình và ngóng chờ Người, vì Người là Đấng duy nhất có thể ban an nghỉ cho những tâm hồn thao thức. Trời đất, thịnh suy, vui buồn, cười khóc, tất cả kêu lên Người, hỡi Đức Giêsu khả ái. Xin Người hãy đến Bêlem, linh hồn chúng tôi đang chờ đợi. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến." Những dòng trên đây là một tiếng kêu cấp bách, một S.O.S của vô số người trong nhân loại. Thế thì tại sao quanh chúng ta vẫn còn bao nhiêu người chưa chịu nhận lấy sứ điệp cứu rỗi của Chúa, thậm chí có người hăng say chống đối Chúa Giêsu ? Cụ già Simeon nhìn ngắm trẻ Giêsu vừa mới lọt lòng mẹ được tám ngày, đã thấy tất cả dĩ vãng, hiện tại và tương lai mà ông đã tuyên bố: "Trẻ này sẽ là duyên cớ vấp phạm cho nhiều người, nhưng cũng là đà cho những người khác vươn dậy. Người sẽ là dấu của sự xung đột" (Lc 11,34).
Quả thế, nghe tin Người sinh ra, các đạo sĩ vội vượt đường xa đến thờ lạy, lúc ấy Herode gần đó lại sợ mất ngai vàng, tìm cách giết Người. Lúc các thiên thần hát an bình cho người dưới thế, thì lại hàng trăm con trẻ bị sát hại ở Belem. Người đời luôn bất đồng ý kiến với nhau về Lời Người. Kẻ tin, kẻ chống, kẻ theo, kẻ nghịch. Theo cho đến chết, nghịch cho đến sát hại không gớm tay. Người ta sẽ chọn Người hay chống lại Người, hạnh phúc hay đau khổ vì Người. Đó là định luật tất yếu của việc dung hoà giữa ân sủng và tự do.
Nhưng một vấn nạn khác được nêu lên: người thời đại ngày nay có thật sự cần Người không ? Con người ngày nay xem ra muốn vứt bỏ Chúa Kitô vì cho rằng Người không ích gì cho những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật. Cơn lốc vô tín ngưỡng, vô thần đang hoành hành và tập trung mọi nổ lực để xoá mờ hình ảnh của Đức Kitô nơi các tâm hồn. Đổ máu đã một thời là phương pháp để xoá tên Đức Kitô trong nhân loại. Nhưng hiệu quả ngược lại lòng mong ước của các bạo chúa. Ngày nay người ta không thường đổ máu, mà phát minh những phương pháp tinh vi hơn. Như dèm pha, nói xấu, vu khống, chụp mũ, ly gián, phân sáp, đe doạ, khủng bố, gây hoảng hốt...Người ta tìm cách loại hình ảnh của Chúa Giêsu ra khỏi các tâm hồn bé thơ qua một nền giáo dục mệnh danh là giáo dục tôn trọng tự do kẻ khác. Thiên Chúa đã bị loại dần ra khỏi nhà trường, gia đình, xã hội. Thái độ lãnh đạm, thờ ơ với tôn giáo, tín ngưỡng làm cho những đầu óc non nớt nghĩ rằng tôn giáo là sản phẩm của dị đoan, mê tín. Nhưng con người đã lầm, đã đánh mất chân tính của mình khi tách mình khỏi Chúa Giêsu, Đấng phải đến, Đấng là tất cả cho mọi người. Từ ngày Người đến, Người đã đặt nhân loại trước ngã hai đường. Với Người hay chống lại Người. Với Người là chân lý, là ánh sáng, là tự do, là trật tự, là an bình, là tin tưởng, là hạnh phúc. Xa Người là ích kỷ, là dục vọng, là tàn ác, là nô lệ, là tội lụy, là khổ nhục.
Nhân loại ở bất cứ thời đại nào cũng phải cần Người, vì con người muốn giải thoát những khổ đau của cuộc đời và không tìm đâu ra sự giải thoát hữu hiệu, nếu không tìm đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một ý nghĩa mới của đau khổ. Người đã từng chịu đau khổ. Sinh ra trong cảnh hang lừa giá rét, bị thù ghét từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc trút hơi thở lìa đời. Người phải sống trong lao nhọc vất vả, trải qua nghìn nỗi gian truân, bị khinh chê, bị phản đối, bỏ vạ, cáo gian, giết chóc. Trên mặt Người đã in hình những cái tát nảy lửa, trên lưng Người đã chằng chịt những làn roi ác nghiệt, đôi tay Người có lằn dây trói buộc và lúc chết, cả thân xác Người máu me lem luốt cho đến nỗi kẻ qua đường phải ái ngại rùng mình: "Đây là người hay là một con sâu đất ?"
Đối với Người không phải chỉ chấp nhận đau khổ một cách tiêu cực mà phải cố gắng khắc phục. Tâm hồn Người rung động trước đau khổ của người khác. Người rùng mình và khóc trước mộ Lazaro, cảm thông sâu xa với bà goá thành Naim mất đứa con một và đã có lần tâm sự: "Ta xót thương dân này...Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng ta".
Từ ngày Người đến trong lịch sử nhân loại, khổ đau mang một ý nghĩa mới, khổ đau nên nguồn vui tươi sáng cho người đàn bà mang nặng đẻ đau. Đau khổ hứa hẹn ngày mai phong phú của hạt giống chôn vùi trong lòng đất. Đau khổ là bảo chứng cho tình yêu thương, đau khổ càng nhiều, tình yêu thương càng mãnh liệt và không có tình yêu nào lớn lao cho bằng thí mạng sống cho người mình yêu. Với Đức Kitô, người ta không còn cho những kẻ bệnh tật, nghèo khó, bị bách hại là khốn nạn. Nhưng trái lại, Người đã tuyên bố: "Phúc cho những ai nghèo khó. Phúc cho những kẻ bị bắt, hành hạ, giết hại...vì hạnh phúc lớn lao của các con được dành trên trời".
Khi ghi lại bức chân dung Chúa Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn rằng chúng ta có nhiều điểm rất tương đồng với Người. Người tuy là Thiên Chúa, nhưng Người rất gần gũi chúng ta. Người đã đi bước đầu và đã kết thúc bước cuối cùng trên con đường rao truyền sứ điệp cứu rỗi và yêu thương. Bổn phận chúng ta là dấn bước theo Người. Làm sao ghi đậm nét đời Người nơi chúng ta để những ai nhìn chúng ta sống, sinh hoạt, nói năng, người ta sẽ gặp thấy chính Chúa Giêsu đang sống, đang hoạt động, đang nói năng qua trung gian con người của chúng ta.
Chúng ta hãy trở thành con đường để Chúa Giêsu đến với mọi người, hãy trở thành con đường để mọi người đến với Chúa Giêsu. Con đường để cho Chúa và mọi người sử dụng, con đường mọi người đi qua hằng ngày và mọi người quên đi khi đạt đến đích điểm.
Anh chị em thân mến,
Đám dân đông đảo đến cùng Đức Giêsu để có của ăn: là biểu tượng cho những ai đói khát về phần thiêng liêng - qua đức tin - muốn đến cùng Đức Giêsu để xin Người thoa dịu cơn đói. Xác tín rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta tấm bánh trường sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1) "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người". - Chúng ta sốt sắng cầu xin Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê và xin cho mọi người biết khát khao tìm kiếm sự sống thần linh nơi Đức Kitô, Đấng cứu chuộc trần gian.
2) "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá". - Xin cho các tín hữu luôn ý thức rằng cái làm no nê thỏa mãn lòng người không phải là số lượng sản vật tích lũy mà mỗi người chiếm hữu cho riêng mình, nhưng là ban phát chia xẻ các sản vật ấy cho tha nhân trong tình hiệp thông bác ái.
3) "Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình". - Xin cho nhân loại ngày nay đang quay cuồng chạy theo của ăn vật chất, cũng biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Thiên Chúa và truy nhận Người là cùng đích đời mình.
4) "Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái". - Xin cho tình bác ái huynh đệ, hiệp nhất yêu thương luôn chan hòa tâm hồn chúng ta, để chúng ta có thể chia xẻ tình người cho tha nhân.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Ngay từ buổi sáng tạo, Chúa đã trao ban sự sống cho nhân loại và không ngừng săn sóc yêu thương mọi loài thọ sinh. Xin Chúa ban thêm Thần Khí tốt lành để hướng dẫn chúng con trên đường ngay nẻo chính, và cho chúng con biết noi theo lòng nhân hậu Chúa mà chia xẻ cho nhau tấm bánh của tình bác ái huynh đệ vô biên và chân thành. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (2 V 4:42-44; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15)
Đứng trước nhu cầu cấp thiết của con người, Thiên Chúa là Đấng quan phòng không thể làm ngơ, TN 17B-40
Đứng trước nhu cầu cấp thiết của con người, Thiên Chúa là Đấng quan phòng không thể làm ngơ, nhưng Người biểu lộ lòng thương xót. Trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa quy tụ chúng ta vào trong Giáo Hội để đưa chúng ta tới sự sống đời đời (Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước). Nhưng hôm nay, Lời Chúa còn nói với chúng ta về một Thiên Chúa chăm sóc cho cả những nhu cầu thể xác của chúng ta nữa. Bài đọc 1 và bài Tin Mừng đã tường thuật hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, một trong thời ngôn sứ Ê-li-sa và một đã được Chúa Giê-su làm để nuôi khoảng năm ngàn người đã đi theo Chúa và nghe Người giảng dạy. Tuy nhiên việc hóa bánh ra nhiều không chỉ khiến người ta kinh ngạc, mà còn mời gọi người ta nhận ra đằng sau những phép lạ ấy một chân lý tuyệt vời: Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Trước hết, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu quan phòng của Người trong một nạn đói xảy ra tại Ghin-gan. Ngôn sứ Ê-li-sa, môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a, vừa từ Su-nêm về Ghin-gan thì tại đây xảy ra nạn đói. Dân chúng không biết tìm đâu ra lương thực. Rồi bỗng nhiên có người đem biếu ông Ê-li-sa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và một ít cốm đựng trong bị. Dù vậy, ngần ấy bánh cũng không thể giúp hằng trăm người tránh được cơn đói. Khi con người bất lực, Thiên Chúa sẽ can thiệp. Tin vào lời Đức Chúa phán, ngôn sứ Ê-li-sa bảo tiểu đồng cứ phân phát bánh cho dân chúng. Phép lạ đã xảy ra: dân chúng đã ăn, mà bánh vẫn còn dư! Câu chuyện đơn giản vậy thôi, nhưng lại chứa đựng nhiều câu hỏi và mang ý nghĩa phong phú. Tại sao bỗng dưng lại có người từ Ba-an Sa-li-sa đem bánh đến biếu ngôn sứ Ê-li-sa? Làm sao Ê-li-sa có thể tin vào lời Thiên Chúa phán “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”? Có phải chính vì lòng tin ấy mà Thiên Chúa đã làm phép lạ không? Nhưng có lẽ câu hỏi cốt yếu nhất phải là: “Phép lạ bánh hóa nhiều này đã nói lên điều gì về Thiên Chúa?” Đúng vậy, qua ngôn sứ Ê-li-sa và đức tin của ông, Thiên Chúa đã cảm động trước tình trạng của con người đang khốn khổ vì nạn đói. Cho nên Thiên Chúa đã động lòng thương xót và cứu giúp họ. Chắc chắn Thiên Chúa muốn người ta nhận biết lòng thương xót và sự quan phòng của Người qua việc cứu giúp này. Người ta nhận ra sự quan phòng của Chúa qua sự kiện có người đem bánh đầu mùa đến biếu ngôn sứ Ê-li-sa và qua việc dân chúng đã ăn mà vẫn còn dư. Rồi bánh còn dư cũng là dấu chỉ nói lên tính phong phú của tình yêu Thiên Chúa, tình Người thương ta bền vững muôn đời!
Phép lạ bánh hóa nhiều thời ngôn sứ Ê-li-sa là hình bóng báo trước phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều. Tuy nhiên phép lạ lần này không còn được thực hiện do một người là ngôn sứ, mà do chính Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô để biểu lộ tình yêu của Người. Chúng ta hãy nhìn kỹ và lắng nghe những cử chỉ và lời nói của Chúa Giê-su để hiểu được phần nào trái tim của Người. Trước hết, Chúa Giê-su “ngước mắt lên, nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình”. Chúa không chỉ “nhìn thấy” sự đông đảo bề ngoài, nhưng cả sự đông đảo nội tâm nữa. Dân chúng đến với Chúa, không chỉ là những người đang đói khát thể xác, nhưng với bao nhiêu mối âu lo, đau khổ, tổn thương, thậm chí cả những dày vò do tội lỗi nữa. Với con mắt của Thiên Chúa “nhìn thấu tâm can”, Chúa Giê-su không giữ lòng cảm thương ấy cho riêng mình, nhưng Người muốn chia sẻ với các tông đồ. Vì thế Chúa hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Nói vậy, không phải là Chúa nhờ các tông đồ giải quyết khó khăn của dân chúng, mà Người chỉ muốn các ông cũng hãy có cùng một trái tim như Người khi đứng trước sự khốn khổ của người khác thôi. Chúng ta cũng đừng bỏ qua cử chỉ khi Chúa “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó”. Tại sao Chúa lại “trịnh trọng” như vậy? Chắc chắn khi làm phép lạ này, Chúa không làm với tâm trạng “bố thí”, nhưng với cung cách yêu thương. Cho là điều quan trọng, nhưng cách cho còn quan trọng hơn! Chúa trân trọng khi biểu lộ tình yêu đối với chúng ta, bởi vì không món quà nào quý giá hơn chính tình yêu. Chúa Giê-su cầm lấy bánh tựa như nâng món quà tình yêu trao tặng chúng ta. Người dâng lời tạ ơn Chúa Cha vì chính Chúa Cha luôn yêu thương nhân loại vô điều kiện. Ngay cả khi Chúa Giê-su bảo các tông đồ hãy “thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”, Người cũng cho chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa quý giá đến nỗi chúng ta không được để nó phí đi!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Qua những phép lạ hóa bánh ra nhiều, chúng ta hiểu được sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa. Nhưng chúng ta phải chia sẻ thế nào với anh chị em sự phong phú ấy? Thì đây, trong bài đọc 2, thánh Phao-lô cho chúng ta một bí quyết. Ngài viết: “Anh em hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em”. Rồi ngài giải thích ngay ơn gọi ấy là gì: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau”. Đơn giản quá! Nhưng cách ăn ở đó tóm lại chỉ là biểu lộ lòng yêu thương anh chị em. Chúng ta đã được Chúa yêu thương cả phần xác lẫn linh hồn, thì đến lượt chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em và chăm sóc cho họ cả phần xác lẫn linh hồn nữa!
Trong đoạn thư này thánh Phaolô khuyên các tín hũu Êphêsô, và cũng là khuyên chính chúng ta: TN 17B-41
Trong đoạn thư này thánh Phaolô khuyên các tín hũu Êphêsô, và cũng là khuyên chính chúng ta: "Anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn gọi mà anh em đã lãnh nhận". Vậy ơn gọi đó là ơn gọi nào ?
ƠN GỌI LÀM CON THIÊN CHÚA
Thiên Chúa chẳng những ban sự sống thân xác để chúng ta có mặt trong cuộc sống này, nhưng Ngài còn chọn chúng ta làm con, cho được hiệp thông sự sống siêu nhiên, thông ban chính sự sống thần linh của Ngài, giống như thân cây nho thông truyền nhựa sống cho ngành nho. Bởi thế khi nói: “Người Kitô hữu sống bởi Thiên Chúa thì không phải là một kiểu nói bóng, nhưng là khẳng định một chân lý. Tất cả cuộc đời tín hữu dựa trên chân lý đó.
Từ ơn gọi làm con Thiên Chúa nẩy sinh một đòi hỏi thiết yếu là phải sống thánh thiện. Đã là con Thiên Chúa thì không thế không nên giống Thiên Chúa, nghĩa là hướng tới sự toàn thiện tối đa như Thiên Chúa chờ đợi. Người Kitô hữu theo đuổi sự thánh thiện hết mình. Không cố gắng theo đuổi như vậy thì kể như không còn là Kitô hữu nữa. Đòi hỏi này đã được Chúa Giêsu nhắc lại trong lời mời gọi: "Các con hãy nên toàn thiện như Cha các con là Đấng toàn thiện.”
ƠN GỌI LÀM DÂN THIÊN CHÚA
Mỗi người chúng ta được gọi làm con Thiên Chúa, còn toàn thế chúng ta được chọn làm dân của Ngài. Người Kitô hữu không phải là người đi tìm Thiên Chúa đơn độc một mình. Đức tin Kitô giáo không phải chỉ là chuyện nêng tư của từng người với Thiên Chúa. Chúng ta là Dân Thiên Chúa. Thiên Chúa qui tụ con cái Ngài thành một Dân: một Dân thánh được tuyển chọn, yêu thương, cứa chuộc, dẫn dắt và tràn đầy hồng ân. Dân đó chính là nơi mà Nước Thiên Chúa được thành hình, lớn lên và lan rộng ra khắp thế giới loài người. Dân đó chính là "mầm cứu độ" Thiên Chúa đã gieo vào lòng thế giới.
Bởi thế dân đó được trao một sứ mệnh cần được thi hành bằng mọi giá. Sứ mệnh đó là làm chứng cho Thiên Chúa, cho lòng yêu thương của Ngài, cho niềm hy vọng Ngài khơi lên cho thế giới này. Thế giới này cần được biết mình được Thiên Chúa yêu thương và mở rộng tay cứn vớt. Mỗi Kitô hữu và toàn thế Dân Kitô giáo phải làm chứng cho điều đó. Dân Kitô giáo là Dân chứng nhân. Đó là ơn gọi của hết thảy chúng ta.
SỐNG NHU' VÀ SỐNG BỞI CHÚA KITÔ
Chính Chúa Kitô làm chúng ta nên con Thiên Chúa và tập họp ta nên Dân Thiên Chúa. Nói theo thánh Phaolô, các tín hữu hợp với Chúa Kitô thành một Thân thế. Ngài là Đầu, còn chúng ta là chi thế của Ngài. Ngài là ngưồn sống mới. Tử nơi Ngài, sự sống của Thiên Chúa tuôn tràn đển hết thảy chúng ta. Ai ở trong Ngài thì có sự sống thật.
Ngài còn là khuôn mẫu để chúng ta phỏng theo. Muốn đạt tới sự thánh thiện, muốn đóng đúng vai trò chứng nhân không có cách nào khác là theo gương Chúa Giêsu, sống như
Ngài đã sống, thế hiện tạinh thần của Ngài trong đời sống mỗi ngày. Chính theo nghĩa đó mà thánh Phaolô bảo hãy đồng hóa mình với Chúa Kitô, lấy sự sống của Chúa Kitô làm sự sống của chính mình: “Sự sống của tôi chính là Đức Kitô”.
Trở lại câu hỏi ban đầu: ơn gọi của chúng ta là ơn gọi nào ? Có thể tóm tắt như sau: ơn gọi của chúng ta là
- làm con Thiên Chúa (vì thế phải cố gắng sống thánh thiện) - làm Dân Thiên Chúa (vì thế có trách nhìệm làm chứng cho Ngài giữa đời). - trở thành chi thế của Chúa Kitô (vì thế lý tưởng mà người Kitô hữu luôn phải theo đuổi là sống trong Chúa Kitô và sống như Ngài).
Dân chúng náo nức đi theo Chúa Giêsu. Điều này không có gì khó hiểu. Họ náo nức vì thấy Ngài: TN 17B-42
Dân chúng náo nức đi theo Chúa Giêsu. Điều này không có gì khó hiểu. Họ náo nức vì thấy Ngài làm nhiều dấu lạ, chữa lành nhiều bệnh nhân, nhất là Ngài vừa làm một việc rất lạ và bất ngờ ngay trước mắt họ. Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ mà cho nhiều ngàn người ăn no, lại còn thừa mười hai thúng đầy.
Được chứng kiến quyền năng và lòng quảng đại của Chúa, đám đông muốn tôn Ngài làm vua.
THÁI ĐỘ DÈ DẶT CỦA CHÚA GIÊSU
Đối với lòng náo nức đó Chúa Giêsu vẫn tỏ ra dè dặt. Ngài khước từ ý muốn suy tôn làm vua của họ bằng cách lánh mặt đi vì Ngài biết rõ lòng người, thấu rõ tâm lý quần chúng.
Quần chúng thường hay thay đổi thái độ và thay đổi rất nhanh. Họ không kiên định, dễ bị lôi cuốn, lúc nóng lúc lạnh có thể đang trắng bỗng đổi đen. Điều này đã thật sự xảy ra với đám đông Do Thái. Trong số những người muốn suy tôn Chúa Giêsu làm vua sau khi được ăn bánh no nê hẳn không thiếu những người sau này sẽ hò hét xin tha Baraba và giết Giêsu.
Hơn nữa dân chúng chỉ náo nức vì của ăn trần thế, nuôi xác thôi. Còn đón nhận của ăn thiêng liêng, lời hằng sống, những đòi hỏi tâm linh thì rất ít ai sẵn lòng. Điều này cũng đã xảy ra thật cho những người đã được chứng kiến dấu l Chúa Giêsu làm. Họ rất phấn khởi với bữa ăn ngoài trời trên bãi cỏ với bánh và cá dư thứa. Nhưng đến khi Chúa Giêsu muốn từ bánh trần thế hướng họ tới Bánh hằng sống, từ Manna trong sa mạc tới Mình Máu Ngài thì họ dẫy nẩy.
ĐỪNG THEO CHÚA VÌ CÁ VÀ BÁNH
Người Do Thái sai lầm ở chỗ nào? Họ có một cái nhìn sai lạc về tôn giáo, một cái nhìn hoàn toàn thực dụng. Họ nghĩ tôn giáo phải là cái gì có lợi, mang lại những lợi ích vật chất thực tiễn, ngay trước mắt, ngay trong đời hiện tại. Họ không hiểu rằng tôn giáo không bao giờ nhằm chủ đích vụ lợi. Tôn giáo không nhằm bảo đảm sự thịnh vượng vật chất, giúp làm ăn thành công, miễn trừ khỏi bệnh tật, tai họa. Không phải cứ theo Chúa, ngoan đạo là đương nhiên Chúa cho làm ăn khá hơn người khác, luôn được mạnh khỏe, tránh được mọi khó khăn. Nếu trông chờ những điều đó thì sớm muộn thế nào cũng sẽ thất vọng. Chúa Giêsu đã không bao giờ hứa những điều đó. Trái lại Ngài luôn đòi hỏi cố gắng, phấn đấu hy sinh, và còn báo trước nhiều thập giá.
Vậy chúng ta đi theo Chúa để làm gì ? Vì chủ đích hoàn toàn không vụ lợi, mặc dầu rất có lợi. Chúng ta đi theo Chúa vì chính Chúa, nhưng đồng thời Chúa cũng cho lại rất nhiều lợi ích tâm linh. Đi theo Chúa thì chúng ta:
Tìm thấy chân lý mà chúng ta không thế tự mình tìm thấy và cũng chẳng có ai có thể mách bảo chúng ta. vươn tới đỉnh cao của sự thánh thiện, ti đó sẽ gặp Thiên Chúa là Cha của mình và sẽ được trở nên giống Ngài.
Được bắt đầu thông hiệp sự sống thần linh với Thiên Chúa tử hôm nay và sau này sẽ đạt tới sự sống vĩnh cửu, là cõi phúc, là quê hương thật muôn thuở của mình.
Đó là hạnh phúc thật, là lẽ sống của chúng ta, là chủ đích của tôn giáo, là những giá trị tuyệt đối mà người tín hữu phải theo đuổi không ngừng với bất cứ giá nào. Mọi cái khác, dầu ngay trước mắt khẩn thiết đến đâu, vẫn chỉ là tương đối và phụ thuộc.
Tuy nhiên chúng ta cũng đừng sợ bị thiệt thòi. Dầu chúng ta đi theo Chúa không phải vì bánh và cá, những ai đã quyết tâm đi theo Ngài tận tình, bất vụ lợi thì Ngài cũng sẽ không bao giờ để cho bị thiệt thòi, nhưng sẽ đến bù tương xứng.
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán: - Ta thương dân này. Qua Phúc: TN 17B-43
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
- Ta thương dân này.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.
Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác.
Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.
Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
- Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống.
Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn:
- Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình.
Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.
Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn: TN 17B-44
Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan thuật lại.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa. Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.
Một chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.
Phép lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18: 15-18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng ta hơn.
Lạy Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Bánh Hằng Sống là lời Chúa và Mình Máu Chúa.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là: TN 17B-45
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác. Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ này, bởi vì đây là phép: TN 17B-46
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ này, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về việc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Đức Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng cho TM IV, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Đức Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Tuy nhiên, nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn của Gioan khác với bản văn Nhất Lãm ở nhiều điểm. Điểm khác biệt đầu tiên và chính yếu nằm nơi cách giải thích câu truyện (xem bài diễn từ của Gioan, từ c. 26). Sự cố xảy ra được TM IV xác định bằng những chi tiết chính xác hơn: “bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria” (c. 1); “có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (c. 2; x. 2,23: tương đương với Mc 6,31-33; Mt 14,13-14 và 15,30-31); đám đông không có đức tin chân thật (sau 2,23 cũng như về cuối truyện ch. 6); khái niệm “dấu lạ” (c. 14) để gọi “phép lạ” đặc biệt của TM IV, với ý nghĩa là “đặc tính hiện tượng bên ngoài cần vượt quá để nắm được ý nghĩa đích thực” (dân chúng chỉ quan tâm tới chuyện lạ lùng thôi: x. cc. 14-15.26).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (6,1-4);
2) Dấu lạ bánh hóa nhiều (6,5-13);
3) Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (6,14-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lên núi (3): Quả núi này không có trên bản đồ, nhưng được dùng thường xuyên trong Kinh Thánh và các Tin Mừng (x. Mc 9,2; Mt 5,1; 15,29; 28,16) như là khung cảnh cho một mạc khải.
- và ngồi đó (3): Đây là tư thế của Đấng cai trị và giảng dạy.
- thu lại (12): Đây không phải chỉ là “nhặt lại” (như trong Mc 6,43 và các bản văn song song) mà là “quy tụ” (synagein) các miếng vụn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1-4)
Các chi tiết tác giả cung cấp khiến ta có cảm tưởng đây là một bài tường thuật chính xác. Tuy nhiên, chúng ta đã gặp ngay các yếu tố mang tính biểu tượng: quả núi như là nơi mạc khải; Đức Giêsu ngồi, tức ở trong tư thế thầy dạy. Ngoài ra, chi tiết “lễ Vượt Qua” vừa kín đáo gợi đến cái chết của Đức Giêsu (là lúc Đức Giêsu ban mình Người làm bánh đích thực ban sự sống), vừa gợi lại việc ra khỏi Ai-cập và phép lạ manna. Điều này không phải là gán ghép, vì tác giả TM IV thích tháp các mạc khải của Đức Giêsu vào trong khung các đại lễ như Vượt Qua, Lều, Cung hiến. Đức Giêsu vừa hoàn tất vừa vượt quá tất cả những gì nhắm tới và loan báo các đại lễ của Ít-ra-en.
* Dấu lạ bánh hóa nhiều (5-13)
Trong các TMNL, chính các tông đồ lưu ý Đức Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Đức Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6). Trong các TMNL, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Đức Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5). Rồi trong một lời nói riêng tiêu biểu của TM IV (c. 6), tác giả giải thích rằng Đức Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử (peirazô) Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Đức Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về YHWH ban manna cho dân Người ăn trong thời Xuất Hành (x. Ga 6,25-40). Sách Đnl giải thích các biến cố Xuất Hành vừa như là dấu chỉ vừa như là những thử thách (x. Đnl 4,34; 7,19; 29,2; so sánh với 8,16; 13,4; x. Xh 16,4; 15,25; 20,20). Theo cùng một cách như thế, tác giả tuy rõ ràng thấy việc nuôi đám đông là một dấu chỉ (sêmeion, Ga 6,26.30), ở đây lại công bố rằng việc này cũng là một thử thách.
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Đức Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng nhắm cho thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” (paidarion) và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” gửi ta đến 2 V 4,42-44: Êlisa hóa bánh ra nhiều); “cá nhỏ” (opsaria) nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các TMNL, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Đức Giêsu phân phát (c. 11). Đây là cách tác giả TM IV tập trung chú ý vào Đức Giêsu[1]. So sánh với các TMNL, chúng ta thấy rõ điểm này. Trong khi các TMNL quan tâm đến Nước Thiên Chúa và lời rao giảng của Thầy chí thánh, TM IV lại chủ yếu nhắm đến “con người” Đức Giêsu, và điều này đã xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của TM: chỉ nói qua về phép rửa, nhưng nói rõ Đức Giêsu là ai (Ga 1,29-34); nhân tiện nói đến các môn đệ đầu tiên, thì nói cho biết Đức Giêsu là ai và Người có thể cống hiến điều gì (1,35-51); và khi nói về các điều kiện để trở thành môn đệ, thì ngài nêu bật tình yêu đối với Đức Kitô (phải đi tìm Đức Kitô, phải khao khát Người).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Đức Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng. Quả thật tác giả TM IV không kể lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, nhưng cả ngài lẫn nguồn của ngài không thể không biết đến biến cố này. Động từ “phân phát” (diadidonai) có thể đã được vay mượn từ nghi thức Thánh Thể. Công thức “tạ ơn” (eucharistein: c. 11) cũng thế. Cuối cùng, cc. 12-13 có chứa hai yếu tố độc đáo là động từ “thu lại” (synagein) và danh từ “các miếng thừa” (klasmata) thuộc về nghi thức Thánh Thể và ta thấy có trong sách Didakhê (9,4). Còn công thức “kẻo phí đi” (c. 12b) khiến ta nghĩ tới sự cẩn thận của Hội Thánh khi thu lại các mẩu Mình thánh Chúa.
Khi dùng động từ “thu lại” theo nghĩa “quy tụ” (khác với Mc 6,43 và các bản song song dùng động từ “nhặt lại”), hẳn tác giả TM IV muốn nhắc đến Bí tích Thánh Thể có mục đích tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Ở đây chúng ta thấy TM IV muốn gợi lại phép lạ manna trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng manna cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Đức Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Ít-ra-en. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Đức Giêsu, như từ chặng đường đến đích điểm.
* Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (14-15)
Người Do-thái vẫn chờ đợi là vào thời đại thiên sai, phép lạ manna được tái diễn. Do đó, khi Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15). Chi tiết này hoàn toàn có thể mang tính lịch sử. Tại Paléttina vào thời ấy, do niềm hy vọng vào Đấng Mêsia, thường xuyên xảy ra những cuộc nổi loạn về chính trị, những cuộc bạo loạn thường xuyên bị người Rôma đàn áp tàn bạo. Đức Giêsu muốn tránh thứ hiểu lầm này.
Tuy nhiên, tác giả TM IV ghi lại sự cố này không chỉ vì quan tâm đến lịch sử, nhưng còn muốn nêu bật tính phù phiếm của lòng nhiệt thành của đám đông. Lẽ ra bánh vật chất phải giúp họ hiểu Đức Kitô là ai. Họ không thấy phép lạ là một “dấu chỉ” chứng thực Đức Giêsu là Đấng Mêsia chân chính, nhưng là một xác nhận định kiến sai lầm của họ về Đấng Mêsia. Họ chỉ quan tâm đến bánh, chứ không quan tâm đến Đấng Mêsia ban bánh. Họ đã “đọc” dấu chỉ theo lược đồ riêng của họ, nên không nắm được ý nghĩa đích thật của dấu chỉ. Do đó, Đức Giêsu lánh mặt. Người muốn cho dân chúng hiểu rằng tư cách Mêsia của Người thuộc về một bình diện khác. Tuy nhiên, vị Thiên Chúa đi trốn sự chờ đợi của loài người đó lại có mặt ngay để giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi (x. 6,12.21).
+ Kết luận
Dấu chỉ giới thiệu Đấng Mêsia không phải chỉ có phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng là toàn bộ các sự kiện: phép lạ, niềm hứng khởi của đám đông và việc Đức Giêsu đi trốn. Muốn hiểu Đức Giêsu là ai, phải hiểu được sự tương phản giữa ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách hiểu của đám đông và ý nghĩa theo cách hiểu của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Con số những người theo Đức Giêsu đạt tới đỉnh cao với việc làm cho bánh hóa nhiều: khoảng năm ngàn người đàn ông. Nhưng sau Bài giảng về bánh ban sự sống từ trời xuống, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai (6,67). Chính Đức Giêsu hướng dẫn một tiến trình làm sáng tỏ. Người khẳng định rõ ràng những gì Người phải làm, chứ không làm một vài chuyện thỏa hiệp tùy theo sự chờ đợi của dân chúng. Tiêu chuẩn Người theo không phải là con số các kẻ đi theo Người, nhưng là sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó. Nếu chúng ta đặt nơi Người những chờ đợi sai lầm, chúng ta sẽ thất vọng về Người. Nếu ngược lại, chúng ta lắng nghe Người và đón nhận các ân huệ Người ban, Người sẽ đưa chúng ta đến sự sống viên mãn.
2. Mọi sự bắt đầu nơi Đức Giêsu. Không ai yêu cầu Người cung cấp lương thực cho đám đông ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn cho người ta thấy như vậy: Người tự mình mà đến, không cần lệnh hoặc lời cầu xin, theo trách nhiệm Chúa Cha giao. Người hành động theo sáng kiến riêng, phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Người quyết định cho đám đông ăn; Người truyền lệnh và các môn đệ mời dân chúng ngồi xuống. Bánh thì chưa có, thế mà người ta đã phải ngồi xuống, có thứ tự và gần nhau, để được phục vụ, như trong một bữa tiệc. Kế đó Đức Giêsu đã cư xử như một người cha gia đình khi bắt đầu bữa ăn: cầm lấy bánh, đọc lời kinh chúc tụng, tạ ơn, rồi phân phát bánh. Từ số tài nguyên nghèo nàn, Người cho đám đông ăn no nê. Sau đó, Người ra lệnh cho các môn đệ thu gom các mẩu thừa. Mỗi việc đều được Người bố trí và quyết định và đều diễn tả sứ mạng của Người.
3. Đức Giêsu đã chứng tỏ khả năng giúp đỡ của Người là một khả năng không giới hạn: không chỉ có thể phục vụ các cá nhân hay các nhóm nhỏ, mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của một một đoàn người rất đông. Không một trở ngại nào có thể giới hạn quyền lực của Người. Phần Người, Người có thể quy tụ tất cả mọi người lại quanh Người và cho mọi người được no thỏa; Người không loại trừ một ai, Người có đủ cho mọi người. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra cho loài người là: họ có biết trân trọng và muốn chấp nhận những gì Người sẵn sàng ban cho không?
4. Đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua. Bởi vì Người đã xử sự một cách uy quyền và tự khả năng riêng, Người không chấp nhận để cho người ta áp đặt cho Người một vai trò trong đó họ có thể trục lợi theo ý riêng của họ. Các việc quyền lực Người thực hiện càng to lớn, các hiểu lầm của dân chúng càng trầm trọng. Đức Giêsu tránh khỏi đám đông. Trong Bài giảng về bánh hằng sống, Người sẽ giải thích dấu lạ bánh hóa nhiều. Rõ ràng chúng ta không được quy định cho Người điều Người phải ban cho chúng ta. Chúng ta không được cư xử y như thể chúng ta biết rõ hơn Người điều gì tốt cho chúng ta. Đứng trước Đức Giêsu, Đấng uy quyền và tốt lành đến thế, chúng ta chỉ có thể bày tỏ hai thái độ, là cởi mở và tin tưởng.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình: TN 17B-47
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.
Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa?
Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của chúng ta.
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều: TN 17B-48
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30-43. Các Phúc âm Nhất lãm – nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.
Đàng khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.
Biến cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ gặp sau này.
Bài tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:
1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ, không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6, 41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.
Đó là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.
Chúng ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?
2) Niềm tin vâng phục phải được sống thực sự.
Tình trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.
Chúa Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ, ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm, họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?
Đạo diễn John Houston đã làm một bộ phim tựa đề “Promenade avec l’amour et la mort”: TN 17B-49
Đạo diễn John Houston đã làm một bộ phim tựa đề “Promenade avec l’amour et la mort” ( Dạo chơi với tình yêu và cái chết ), mà thủ vai chính là con gái của ông, Angelica Houston và Yussaf Dayan, con trai của tướng độc nhãn Do Thái Moshe Dayan. Bộ phim tái diễn “La Jacquerie”, cuộc nổi dậy lịch sử của hàng trăm nông dân Pháp vùng Beauvaisis vào ngày 21 tháng 5 năm 1358 chống lại đám quý tộc và lãnh chúa, là những đám người bóc lột họ, song lại hèn nhát đầu hàng quân Anh, để mặc nhà vua Jean II le Bon bị bắt làm tù binh và dẫn về giam ở Luân Đôn. Nông dân lầm than, nhất là sau thảm họa dịch hạch trước đó mười năm đã cướp đi sinh mạng của một phần lớn dân chúng các quốc gia Tây Phương.
Cuộc nổi dậy lan nhanh khắp vùng châu thổ Paris, nhưng đã bị đàn áp dã man chỉ một tháng sau. Câu chuyện lịch sử có kết thúc bi thảm này, khác với câu chuyện mà chúng ta được tường thuật lại trong đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó mưu đồ của đám đông hỗn tạp định xúm lại tôn vinh Chúa Giê-su làm vua, đã bị chính Người dẹp bỏ ngay. Nhưng điều mà chúng ta muốn tập trung chú ý, lại ở một điểm khác, mà ngày xưa Chúa Giê-su rất quan tâm và ngày nay nhiều quốc gia, nhiều giới chính trị cũng để ý khai thác từ nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Đó là tuổi thơ, với khẩu hiệu thật kêu, thật đẹp được nêu ra: TRẺ EM HÔM NAY, THẾ GIỚI NGÀY MAI.
Theo báo cáo mới nhất, ở Việt Nam ( và nhiều quốc gia đang phát triển ) trên thế giới, hai phần ba dân số sinh ra sau 1975, nghĩa là còn rất trẻ và trong đó một phần ba là các trẻ em dưới 12 tuổi. Không chỉ Nhà Nước, mà chính Giáo Hội Việt Nam cũng đang nhức đầu với vô số vấn nạn đặt ra: Giáo dục, nghề nghiệp, gia đình, luyến ái, hôn nhân, Nhà Thờ ngày càng vắng bóng giới trẻ, bị cuốn vào guồng máy công nghiệp, v.v... mà nhiều vấn đề gần như vượt mọi tầm kiểm soát, như tình dục, sống thử, nạo phá thai; khi mà ở một đất nước vốn nặng truyền thống như Việt Nam, lại đứng đầu thế giới về nạo phá thai với trên hai triệu “ca” mỗi năm, trong đó một số rất lớn còn ở tuổi vị thành niên; khi mà tuổi quan hệ tình dục lần đầu thấp hơn cả những quốc gia Bắc Âu xưa nay nổi tiếng là buông lỏng vấn đề tình dục; khi mà người ta đem những chuyện sinh dục, sinh lý vào chương trình giáo dục ở cả mười hai lớp phổ thông; khi mà tờ rơi, tờ bướm về an toàn tình dục và cách sử dụng các loại ngừa tránh thai, cách loại bỏ bào thai ngoài ý muốn, lại được công khai và hớn hở đem học tập, phân phối cho cả con nít còn bú mẹ !
Một hình ảnh được chính báo chí Trung Quốc ghi lại, khiến ai nhìn cũng quặn đau, song chẳng mấy ai ngạc nhiên: một cặp vợ chồng trung niên ở Trung Quốc đang quì trước một tiệm Internet van vái đứa con trai để nó chịu ngừng chơi games mà về nhà. Đó là hậu quả tất yếu của một chính sách sai lầm và của một sự giáo dục sai lạc khi Nhà Nước chỉ cho sinh một con và gia đình phải tìm mọi cách để có quý tử, mà họ cưng như trứng, hứng như hoa. Đứa con trở thành Ông Trời con ! Cha mẹ trở thành nô lệ ! Không một Nhà Nước, đảng phái hay đoàn thể nào dám nghĩ đủ sức cai quản giáo dục loại người “thế giới tương lai” này ! Thế giới sẽ là của chúng, nhất là ở một đất nước chiếm một phần tư dân số thế giới: Thế giới rồi sẽ ra sao với những “ôn dịch” mất dạy, ích kỷ, kiêu căng vô lối và hưởng thụ này ?
Một hình ảnh trái ngược: Ngày nay, tại các thành phố lớn ở Việt Nam, các trẻ lang thang cơ nhỡ trở thành một gánh nặng xã hội và ở lắm nơi, là một cái nạn: Trước hết nó ảnh hưởng đến uy tín của các thứ ban “Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em” từ trung ương đến địa phương, làm sai lệch chỉ tiêu “xoá đói giảm nghèo” của các tỉnh thành; rất phản cảm khi người ngoại quốc nhìn vào và đánh giá; chưa kể nạn chèo kéo, móc túi, cướp giật du khách. Nhưng giải quyết theo cách cung cấp cho một ít vốn liếng, rồi trả về địa phương, xem ra chỉ là việc “bắt ếch bỏ dĩa”, rất không thực tế: về quê vừa mất tự do, vừa thiếu thốn, ít trò giải trí, ít thứ để mặc sức ăn uống hút xách khi có được ít tiền trong túi, v.v... tất cả đã mau chóng trả những đứa trẻ về lại thành phố ! Nhưng có một điều mà nhiều người trưởng thành phải học hỏi nơi chúng: Vì tự lập, chúng luôn phải biết tiết kiệm, “tích cốc phòng cơ”.
Em bé trong bài Tin Mừng hôm nay hẳn cũng biết phòng xa, không như những người lớn: Nhiều người mãi mê nghe giảng, mà quên việc không có gì bỏ bụng: Rồi chẳng bao lâu sẽ phải đối đầu với thực tế ! Nhiều người suy tính chi li, cho rằng chẳng lẽ Chúa Giê-su ăn, mà để họ phải nhịn đói: Không phải Đức Tin, mà chỉ là lười biếng ỷ lại. Nhưng một điều gần như chắc chắn: Nếu bánh và cá ở trong tay một người lớn, hẳn đã có một cuộc thương lượng công phu và phải sòng phẳng “tiền trao cháo múc” thì Chúa Giê-su mới có cái để làm phép lạ. Các môn đệ không có nhiều tiền để mua bánh cho ngần ấy người, song chắc chắn sẽ có đủ tiền mua lại cá và bánh với giá bị đẩy lên trời ! Đói, đầu gối phải bò, mà bài toán khó hôm nay được giải dễ dàng mau chóng, là nhờ bánh và cá thuộc về một em bé. Ở các em bé, không có sự khôn ngoan lọc lõi “hắt nước theo mưa”. Trẻ nhỏ lớn lên cũng sẽ không chi li cân đong đo đếm, nếu được dạy dỗ sống bác ái và quảng đại.
Năm nay là NĂM GIA ĐÌNH. Những ngày đầu tháng bảy này, Đức Thánh Cha đã đến ở Valencia, Tây Ban Nha, để tham dự Đại Hội về Gia Đình. Đã có quá nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ, tờ bướm, tham luận, bài viết, sách viết về Gia Đình và tuổi thơ, nhưng người ta không chỉ “vạch đường cho hươu chạy” ( dù tự thanh minh và ngụy trang dưới đủ hình thức ), mà cuộc sống đầy gương xấu của người lớn, của các bậc phụ huynh, của những nhà giáo dục, đã làm tuổi trẻ và tuổi thơ mất lòng tin và khi những gương sống gần gũi nhất ấy chỉ còn để lại trong tâm trí tuổi trẻ và tuổi thơ sự thất vọng, nghi ngờ, thì cái “thế giới ngày mai” là chúng, cũng như cái “thế giới ngày mai” do chúng làm chủ, sẽ như thế nào ?
Người còn tỉnh táo, chỉ tưởng tượng sơ qua, đã thấy đáng bi quan. Phải ngay thẳng mà nói: Giáo Hội Công Giáo đang rất lúng túng và điều có thể làm, là gần như phó mặc cho gia đình, bằng những lời động viên, trút trách nhiệm có khi rất ít kín đáo, song gia đình Công Giáo lại chẳng được trang bị những gì cần thiết tối thiểu, để đương đầu với những “đợt sóng” tấn công tới tấp của các phương tiện truyền thông đại chúng, của phim ảnh dơ bẩn và sai lạc, trong khi con cái trải qua phần lớn thời gian trong ngày tiếp xúc với vố số “món ăn” tinh thần mà đa phần là độc hại.
Nước chảy về chỗ trũng: Sự kém hiểu biết về các kỹ thuật mới vốn phát triển nhanh đến chóng mặt, đã khiến các bậc phụ huynh sớm đầu hàng, buông xuôi và không ít trường hợp còn bị con cái thuyết phục.
Bài ca Chúa muốn chúng con hát hôm nay ở cung bậc cao nhất, là tiếng kêu khẩn thiết: Đừng nghĩ đến chuyện trả lại môi trường trong sạch cho tuổi trẻ và tuổi thơ, vì đó là chuyện không tưởng, bởi hoả ngục và các thế lực đen tối đang vui mừng trước những bãi lầy nhớp nhơ và tội ác chúng đã tạo ra được một cách thành công, dựa vào khoa học kỹ thuật một phần, mà phần lớn là do sự buông lơi, mất cảnh giác của những người hữu trách, trong đó có Giáo Hội, có các tin hữu, Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân. Bãi lầy chỉ có mỗi ngày mỗi nhơ nhớp hơn, đen tối hơn, dày đặc hơn dưới bàn tay đạo diễn xấu xa quỷ quyệt của Satan.
Bài ca hôm nay, chính là Chúa dạy chúng con phải cải hoá lòng mình, nên như trẻ thơ để hiểu trẻ thơ, nên như trẻ thơ để lôi kéo trẻ thơ, nghĩa là chiến đấu chống lại gian dối, dâm tà, ích kỷ hưởng thụ.
Bao lâu tuổi trẻ và tuổi thơ còn biết quảng đại hiến cho Chúa “những con cá và những chiếc bánh” chúng có, để giúp người khác, thì bấy lâu Chúa Giê-su vẫn làm phép lạ cho nhiều người không phải đói khát linh hồn và tuổi thơ tuổi trẻ sẽ chẳng hư đi. Bài tình ca của “tuổi trẻ hôm nay, thế giới ngày mai”, là sự mau mắn nhiệt thành sống bác ái.
Vì thế, Giáo Hội, các bậc phụ huynh, những người lớn, hãy dạy và hãy làm gương cho tuổi trẻ và tuổi thơ biết nghĩ về người khác, biết giúp đỡ người khác, biết hy sinh vì tha nhân. Tóm lại, phải lấy tích cực để chống lại tiêu cực, lấy yêu thương chiến thắng hận thù, lấy hy sinh chiến đấu và chiến thắng xác thịt và tư dục.
Cuốn sách “Tê-rê-xa, biểu tượng của tình thương”, kể rằng: Lần kia Mẹ Tê-rê-xa đi thăm một: TN 17B-50
Cuốn sách “Tê-rê-xa, biểu tượng của tình thương”, kể rằng: Lần kia Mẹ Tê-rê-xa đi thăm một gia đình Ấn Giáo đã bị nhịn đói nhiều ngày. Mẹ mang theo ít gạo cho gia đình ấy. Không chút lưỡng lự, người phụ nữ trong gia đình ấy đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nửa cho gia đình Hồi giáo bên cạnh. Mẹ Tê-rê-xa hỏi người phụ nữ kia: Bà còn lại được bao nhiêu ? Liệu có đủ cho gia đình bà không ? Người phụ nữ trả lời: Nhưng họ cũng đã bị nhịn đói nhiều ngày rồi.
Chúng ta thấy đấy: Trong cảnh cùng quẫn, nhiều khi, lòng chạnh thương của con người vẫn toả sáng bằng những hành động hy sinh, chia sẻ cao thượng, khiến ngay người có trái tim vàng như Mẹ Tê-rê-xa cũng phải kinh ngạc. Hơn ai hết Chúa Giê-su là người có lòng chạnh thương con người. Tin mừng cho thấy thấy khi chứng kiến người ta đói khát, Chúa đã bàn với ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” Ông Phi-líp-phê thưa với Chúa Giê-su rằng: “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
Giữa lúc hầu hết các môn đệ dường như không biết xoay sở cách nào thì An-rê đã biết và đã thưa với Chúa rằng: “Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng ngần ấy người thì thấm vào đâu ?” Em bé đã trao cho Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Chúa chỉ cần thế và Chúa bắt đầu làm phần còn lại. Chúa bảo các môn đệ cho người ta nằm ngả xuống trên cỏ. Rồi Chúa cầm lấy bánh và cá dâng lời tạ ơn và phân phát cho họ. Họ ăn no nê. Số còn thừa là 12 thúng đầy.
Hôm nay, Chúa cũng vẫn đang bàn hỏi với chúng ta và đang muốn chúng ta cộng tác cùng Chúa để làm cho tha nhân được no nê, mãn nguyện. Vì thực trạng xung quanh chúng ta cho thấy còn quá nhiều người đói khổ.
Trước nhất là đói khát vật chất. Trên thế giới người giàu vẫn ít hơn người nghèo. Trên thế giới, hơn 80% của cải vật chất đang nằm trong tay gần 20% người giầu có. Đất nước chúng ta vẫn là một nước nghèo. Thu nhập bình quân đầu người vẫn ở hạng thấp nhất thế giới. Xung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người vẫn đói ăn, thiếu mặc.
Tiếp theo là cái đói khát tình cảm. Cái đói này phổ biến hơn là đói cơm bánh. Cái đói này không từ ai. Bất luận giầu nghèo, sang hèn, giỏi dốt.
Bao nhiêu người vợ người mẹ đang cần một lời cám ơn. Bao nhiêu người cha người chồng đang cần một cử chỉ yêu thương. Bao nhiêu người con đang cần được chăm sóc, khuyến khích. Bao nhiêu bàn bè đang cần một nụ cười thông cảm, một cái nhìn trìu mến. Bao nhiêu và biết bao nhiêu ? Chúng ta đang héo hắt từng ngày vì cuộc đời thiếu tình thương và thừa bạo lực.
Sau hết là cái đói khát tâm linh. Tết năm 2005, chúng tôi đi thăm Sơn La, thuộc Giáo Phận Hưng Hoá. Trong khi chúng tôi ngồi uống nước ở một nhà ven đường, một thanh niên xông ra giữa nhà và nói với chúng tôi rằng: “Xin các cha ban cho chúng con một thánh lễ. Bao nhiêu năm rồi ở đây không có lễ. Chúng con khát lắm rồi. Lưỡi chúng con nứt nẻ như đồi núi khô hạn lâu năm rồi. Chỉ cần một Thánh Lễ thôi. Một Thánh Lễ như một giọt nước làm cho chúng con mát lưỡi”. Anh vừa nói, vừa ngửa cổ, há miệng, chỉ tay vào lưỡi, khiến chúng tôi hôm ấy không ai xót xa và cảm động. Biết bao nhiêu con người thời nay, như những con người hiện diện trong nhà kia, đang khắc khoải tìm kiếm và xây dựng cho mình một đời sống tâm linh mà không được hướng dẫn ?
Chúng ta ai cũng có một cái gì đấy có thể chia sẻ được. Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho. Hình như Mẹ Tê-rê-xa nói vậy. Đồng thời, chúng ta ai cũng thiếu thốn một cái gì đấy. Chúng ta cần đến nhau. Trời muốn chúng ta xoá đói giảm nghèo cho nhau. Bây giờ chúng ta có no đủ hay không là tuỳ chúng ta. Chúa dựng nên con nguời không cần hỏi ý kiến con người. Nhưng cứu độ con người thì cần sự cộng tác của con người. Thánh Âu-tinh nói vậy. Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.
Thành sự tại nhân nhé ! Thành hay không là ở người đấy thôi ! Chúng ta được hạnh phúc hay không một phần rất lớn là tuỳ chúng ta có biết quan tâm đến nhau hay không; có biết hợp tác với nhau và với Chúa để chia sẻ cho người nhau hay không. Chúng ta không thể làm mọi sự. Nhưng chúng ta hãy làm những gì có thể trong tầm tay.
Chúa không muốn chúng ta tính toán như ông Phi-líp-phê. Vì như thế là chối khéo trách nhiệm bác ái của mình. Chúa muốn chúng ta có sự quan tâm đến người khác và thương cảm họ như An-rê. Chúa muốn chúng ta quảng đại như chú bé có 5 chiếc bánh và hai con cá kia. Chúa muốn chúng ta quan tâm đến những người xung quanh và hãy cùng Chúa làm những gì có thể. Người thân cận ta có khi chẳng cần gì nhiều đâu. Có thể chỉ cần một ít thôi. Một cái nhìn thông cảm. Một nụ cười khuyến khích. Một lời khen tặng. Một cành hoa. Một lá thư. Một cuộc điên thoại. Một món quà. Một chuyến viếng thăm. Một lời cầu nguyện. Một chút vật chất, tình cảm và tâm linh. Một chút thôi cũng đủ mát lòng. Có khi đủ cứu mạng người và dẫn người bước vào một đời sống mới. Tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn. Amen.