Phúc Âm: Ga 6, 1-15: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư. Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Thói vô cảm đang lan tràn
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc-kệ-nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những đau thương khốn khổ của người khác, không quan tâm đến lợi ích chung) là một thói xấu tai hại đang lan rộng trên quê hương đất nước chúng ta.
Báo chí gần đây nhiều lần đề cập đến lối sống ích kỷ và vô cảm của nhiều người: “Một thanh niên bị xe tải đâm nát nửa thân, nhiều người xúm lại xem rồi bỏ đi mặc nạn nhân rên la kêu cứu; khi thấy xe khách gặp nạn, người đi đường thay vì cứu giúp nạn nhân thì lại xông vào hôi của; một số nạn nhân được đưa đến bệnh viện cấp cứu thì bị bỏ cho chết vì bác sĩ yêu cầu phải có tiền mới cấp cứu… Sự thờ ơ với những nỗi đau của người khác dường như là chuyện thường ngày trong xã hội chúng ta” (trích: Vnexpress.net ngày 27/1/2011).
Châm ngôn của những người vô cảm là: “Đèn nhà ai nấy sáng”, “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, “Sống chết mặc bây”, “Mạnh ai nấy sống” ….
Thói vô cảm vô cùng tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức của xã hội, làm đất nước suy yếu và tụt hậu, làm cho con người cảm thấy bất hạnh vì thiếu vắng tình thương. Thói xấu tai hại nầy hoàn toàn trái ngược với chủ trương sống yêu thương bác ái của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Người đã hạ mình xuống thế để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống để cứu rỗi muôn người.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người: “cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22).
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc người khác. Người không dừng lại ở việc rao giảng Tin Mừng mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta quan tâm giúp ích cho người khác
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”ng Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê tham gia: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”
Thế là em bé nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Khi bụng đói cồn cào thì chẳng có gì cần hơn cơm bánh. Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.
Nhờ có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy”.
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Xây dựng xã hội lành mạnh và phát triển là điều kiện để mỗi người được hạnh phúc
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại. Trái lại, khi toàn thân khỏe mạnh an lành, thì mỗi một tế bào trong cơ thể cũng được hưởng nhờ. Vì thế, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đến trần gian hiến trọn đời mình để mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Chúa không chỉ cứu rỗi linh hồn con người mà thôi, nhưng còn nỗ lực xây dựng một thế giới lành mạnh, hạnh phúc ngay trên mặt đất bằng cách cổ võ mọi người dấn thân sống phục vụ, yêu thương.
Xin dạy chúng con xa lánh chủ nghĩa “Makeno” đang dần dần tàn phá xã hội; trái lại, biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người hiến thân đem lại phúc lợi cho anh chị em chung quanh mình.
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu đã làm một phép lạ cho hơn năm ngàn người no thỏa cơn đói của thể lý; hơn nữa, người ta còn thu lại được 12 thúng bánh dư. Phép lạ kỳ diệu ấy đã thực sự xảy ra qua bàn tay quyền năng của Thiên Chúa.
Trước hết là sự ân cần thương yêu, chăm lo cho đoàn dân của Thiên Chúa được thể hiện qua cái nhìn của Đức Giêsu, ở lúc khởi đầu của phép lạ. Thánh sử Gioan viết: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với Ngài”. Chính từ cái nhìn đó Đức Giêsu hiểu những nhu cầu cần thiết của họ, Ngài cảm thông với họ và Ngài hiểu rõ họ cần gì, họ muốn gì. Họ đã đi theo Ngài, lắng nghe Ngài. Ngài đã làm họ no thỏa nơi đời sống tinh thần qua những lời giảng dạy. Giờ là lúc Ngài chăm lo cho đời sống thể lý của họ. Chúng ta thấy lòng nhân từ và sự thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua Đức Giêsu thật sâu sắc như thế nào. Đây là lúc chúng ta nhận thức được chân lý Thiên Chúa luôn ưu ái, yêu thương, chăm sóc dân Ngài, từ vật chất lẫn tinh thần.
Có khá nhiều chi tiết thú vị trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở hai hình ảnh: việc Anrê tiến cử một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, và việc em đã quảng đại trao ban phần mình đang có để Đức Giêsu thực hiện phép lạ vĩ đại ấy. Chúng ta dừng lại để suy nghĩ thêm về sự đóng góp, dâng hiến của mình cho Thiên Chúa để Ngài tiếp tục thực hiện những phép lạ cả thể trong cuộc sống hiện tại.
Đức Giêsu biết chắc các môn đệ không có tiền để mua bánh khoản đãi toàn dân nhưng Ngài vẫn hỏi, một câu hỏi thật tế nhị: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” và với cách đặt vấn đề này, Ngài mời gọi các ông mở lòng để cộng tác với Ngài trong việc thực thi phép lạ. Các môn đệ, cụ thể là Anrê đã tiến cử cho Ngài một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá. Đức Giêsu đã đón nhận và từ đó, qua tay Ngài, chúng đã làm thỏa mãn cơn đói thể lý của đoàn dân.
5 chiếc bánh và 2 con cá thì chẳng có giá trị gì nhiều, chỉ là khẩu phần ăn cho vài người. Tuy nhiên, chính từ những chất liệu ít ỏi ấy, Đức Giêsu đã làm một việc cả thể cho toàn dân, chỉ tính riêng đàn ông thôi cũng đã là năm ngàn người. Tông đồ Anrê hay chính xác hơn là em bé đã trao cho Ngài những gì họ có. Họ đã không giữ lại cho riêng mình. Họ đã trao ban mà không một chút hoài nghi Ngài sẽ làm gì. Họ đã trao ban chỉ vì họ tin tưởng nơi Ngài, và họ biết rằng trong tay Ngài chúng sẽ hữu ích cho toàn dân.
Phép lạ đã thực sự xảy ra. Dân chúng đã được no thỏa cơn đói của thể lý và còn thu lượm được 12 thúng bánh dư. Người ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ bất ngờ này đến bất ngờ kia. Họ bắt đầu nhận ra “…hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Nói cách khác, họ có ý nói hẳn vị này mới làm chúng ta mãn nguyện về những thiếu thốn của đời sống tâm linh và thể lý, chỉ trong Ngài chúng ta mới được an lòng, no thỏa.
Phép lạ vẫn xảy ra trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể nhận ra được điều ấy bởi rõ một điều là Thiên Chúa không ngừng yêu thương nhân loại và vẫn âm thầm thực thi lòng thương xót của Ngài cho nhân loại. Phép lạ vẫn xảy nếu chúng ta biết quảng đại dâng hiến và cộng tác với Ngài trong việc thi ân giáng phúc.
Khi tôi chia sẻ quỹ thời gian của tôi qua việc phục vụ cộng đoàn và tha nhân chung quanh, tôi đang đóng góp phần sức của mình trong việc xây dựng và làm thay đổi cuộc sống sinh hoạt của cộng đoàn mà tôi thuộc về. Chúng chẳng là bao, đôi khi chỉ vài tiếng đồng hồ nhưng vô cùng hữu dụng.
Khi tôi dâng cúng những đồng tiền tiết kiệm hay hy sinh một chút ít lợi tức của riêng mình cho người nghèo; khi tôi làm những nghĩa cử bác ái yêu thương, nâng đỡ, giúp phần an ủi, xoa dịu những nỗi thống khổ của anh em chung quanh, tôi đang như em bé trong bài Tin Mừng, dâng cúng phần bánh ít ỏi của mình để Thiên Chúa làm nên những phép lạ lớn lao. Phần đóng góp, dâng cúng của tôi chẳng nhiều gì, có khi chỉ là một vài trăm bạc nhưng chắn hẳn chúng có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa và trong tay Thiên Chúa.
Khi tôi hy sinh thời gian thăm viếng những người đau ốm, những người đang gặp đau khổ, thử thách trong cuộc sống hẳn cũng có giá trị ít nhiều. Qua những lần thăm viếng ấy, tôi chia sẻ đức tin, tôi động viên, tôi khích lệ họ tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự hiện diện của tôi là dấu chứng của sự hiệp nhất, của tình huynh đệ và chắc hẳn Thiên Chúa muốn dùng sự hiện diện ấy để chúc lành và nâng đỡ họ trong đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày và chúng ta vẫn thường xin cho mình được nhiều ơn lành, bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc. Chúng ta xin cho mình và chúng ta mong đợi những sự kỳ diệu xảy ra, điều mà chúng ta vẫn hay gọi là phép lạ. Phép lạ vẫn xảy ra nếu chúng ta có lòng tin vào lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa, và nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa chứ không khoán trắng tất cả mọi sự cho Ngài, không ngồi yên một chỗ đợi chờ phép lạ xảy ra, không áp đặt Ngài chiều theo ý chúng ta.
Nếu chúng ta trao dâng cho Ngài phần đóng góp nhỏ bé của mình. Chúng có thể là thời gian, là nhiệt huyết, là tình yêu, là những hy sinh vật chất, là tài năng, là công sức thì chắc chắn từ đó Ngài sẽ làm nên những điều kỳ diệu vượt quá trí hiểu của chúng ta.
Chúng ta được mời gọi trở nên như Anrê, người đã giới thiệu cho Chúa em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá, và như em bé đã quảng đại dâng cho Chúa những gì thuộc về em. Chúng ta cũng được mời gọi dâng hiến cho Thiên Chúa thời gian, công sức, của cải vật chất và những gì thuộc về mình để Ngài tiếp tục thi ân lòng nhân từ của mình.
Thiết nghĩ đó là lời mời gọi của Đức Giêsu, của Lời Chúa mà chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Vậy hãy xin cho mình ơn quảng đại để đừng tiếc nuối gì với Chúa, để cộng tác với Chúa trong việc thi ân giáng phúc cho mọi người trong xã hội hôm nay, một xã hội vốn có quá nhiều đau khổ, có quá nhiều thiếu thốn và đói khát về tinh thần lẫn thể xác, một xã hội còn có quá nhiều sự thiếu thốn về tình thương và lòng nhân ái. Phần đóng góp của chúng ta chẳng là gì nhưng Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích tấm lòng hơn hy lễ, chính Ngài sẽ nhận lấy và làm những phép lạ sinh ích cho muôn người.
Nhìn toàn cảnh thế giới; nhân loại đang sống trong một thế giới văn minh, khoa học tiến bộ vượt bậc. Nói: TN 17B-103
Nhìn toàn cảnh thế giới; nhân loại đang sống trong một thế giới văn minh, khoa học tiến bộ vượt bậc. Nói chữ vượt bậc cho nó to, chứ tiến bộ lắm, thì đến giờ, mới chỉ tiến tới sao Hỏa. Nhưng mà, về góc độ nhân phẩm, thì thật đáng buồn, bởi trên cái hành tinh nhỏ xíu, thì hiện đang có tới 150 triệu người, hay hơn nữa, đang đói, đang thiếu ăn. Vậy Chúa đâu? Sao để cho người khổ thế?
Rất hay, bài Tin Mừng hôm nay, giúp chúng ta trả lời câu hỏi ấy. Ta lần trở về câu chuyện. Ngước mắt lên, Chúa Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng. Một đám rất đông nhưng họ đang đói. Bởi họ đã theo Chúa, suốt từ sáng tới giờ.
Lòng Chúa Giêsu chùng xuống. Ngài quay sang hỏi Philipphê: “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Ta nhận ra rằng: Chúa rất quan tâm đến cái đói của con người. Đừng ai nói rằng: Chúa không biết đến nỗi khổ của đời tôi. Hỏi Philipphê như thế, là Chúa muốn đánh động trách nhiệm nơi các tông đồ; bắt các ông phải biết ý thức về trách nhiệm trước thực tại của cuộc sống. Philipphê thưa lại: Có mua đến 200 quan tiền, cũng không đủ cho mỗi người một chút. Thế là được rồi, các tông đồ đã bắt đầu vào cuộc; dù mới chỉ là biết đặt vấn đề. Rồi các ông nhập cuộc. Hai môn đệ khác, đã kiếm được 5 chiếc bánh và 2 con cá. Một góp phần nhỏ nhoi; như muối bỏ bể; nhưng dù sao cũng đã có sự đóng góp.
Một ý tưởng rất rõ ràng: Chúa muốn, chính con người phải cố giải quyết những vấn đề của con người. Phải bắt đầu. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên, dầu chỉ ngọn đèn leo lét. Rồi Chúa bảo mọi người ngồi xuống, sau đó, Ngài truyền cho các ông đem bánh và cá phát cho mọi người. Ai thích bao nhiêu cũng chiều. Lạ chưa! Chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, vậy mà cả mấy ngàn người ăn no.
Một sự thật phải lưu ý. Chúa đã vào cuộc. Chúa muốn tất cả mọi người đều phải biết quan tâm đến những vấn đề của nhân loại, hết sức theo khả năng mình, rồi thì Chúa sẽ trợ lực. Và sự trợ lực của Chúa, lúc nào cũng dư thừa, tràn đầy. Bởi vì thực tại cho thấy: Số bánh còn dư thu lại, được 12 thúng đầy.
Câu hỏi:
1- Trong khi có hàng trăm triệu người bị đói. Bạn có hiểu tại sao, bạn lúc nào cũng được đầy no? 2- Bạn có thấy mình dính phần nào trách nhiệm, đối với những người đói khổ trong xã hội không?
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng phải trở nên dấu chỉ TN 17B-104 Luong
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian. Thế gian cần có tình yêu để tồn tại. Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đoạ đầy.
Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau. Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng. Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ. Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi. Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn. Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi. Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết. Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng. Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người. Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giê-su Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn: TN 17B-105
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn no nê. Xứ Do thái là xứ lúa mì, đến nỗi có những nhà vạn vật học cho rằng xứ Palestine là thủy tổ lúa mì. Bài đọc thứ nhất trích ở truyện Tiên tri Êlisê làm cho 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa, biến hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no nê mà lại còn dư nữa. Đó là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với con cái Người, và hứa hẹn những ngày sung túc khi Đấng muôn dân mong đợi đến.
Hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa làm cho 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, biến hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con, và còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đây là một phép lạ, một trong những phép lạ cả thể mà Chúa Giêsu đã làm. Tất cả bốn nhà Thánh Sử đều ghi lại. Các nhà chú giải vô thần tìm cách giải thích bằng những phương pháp tự nhiên nhưng lập luận của họ đều không đứng vững. Đối với Gioan, đây là một dấu chỉ, danh từ mà Gioan hay dùng và chúng ta thấy rõ Ngài muốn hướng dẫn chúng ta về Chúa Giêsu và phép Thánh Thể.
Vậy trong câu truyện, Chúa Giêsu là vai chính, là trung tâm điểm. Việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều và bài giảng sau đó, có mục đích bạch lộ con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng quyền năng và rộng rãi. Mỗi người muốn dùng bao nhiêu tùy ý. Ngày xưa dưới sự hướng dẫn của Môsê, trong cuộc lưu lạc lâu ngày lâu tháng trong sa mạc, dân chúng chỉ được nhận số manna cần dùng (Xh. 15, 4. 16-18). Trái lại, ở đây thật là thừa thãi dư dật, cũng như trong tiệc cưới Cana, để nói rằng với Chúa Giêsu thời viên mãn đã đến, Đấng Messia đã xuất hiện. Các môn đệ, vâng lời Thầy, còn “thu lượm được 12 thúng bánh vụn”. Con số 12 theo Thánh Kinh là con số ám chỉ sự đầy đủ: Gioan muốn ám chỉ rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều để dân chúng được ăn no nê, sẽ còn tiếp diễn.
Nhất là, như rượu Cana, như bánh biến hóa, không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, quần chúng đông đảo vô số kể, đó là Giáo hội qua các thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, “các thủ hạ của Đức kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (ICor. 4, 1).
Sau khi phép lạ xảy ra, “Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Ngài để tôn lên làm Vua, nên Ngài lại trốn trên núi một mình”.
Lại tái diễn ảo mộng một Đấng Messia chính trị đến để cứu vãn quốc gia! Không. Ngài đến để cứu vãn con người. Ngài là Vua, nhưng là Vua các tâm hồn. Ngài hằng kêu gọi một cuộc trở lại với Thiên Chúa. Nước Ngài là nước tự do, hòa bình và bác ái, như đã được vang vọng giữa sao trời đêm Ngài xuống thế.
Chúa là Bánh hằng sống, là của nuôi tâm hồn đau khổ nhưng “đói” Chúa. Một tù nhân cải tạo viết: “năm 1986, từ khi trại chúng tôi có một linh mục tuyên úy, hoạt động tôn giáo có đều đặn và tổ chức hơn, được xưng tội và rước Mình Thánh mỗi ngày Chúa nhật, được suy niệm bài Phúc Âm bằng… một hai câu thơ lục bát tóm gọn truyền miệng cho nhau. Mình Thánh Chúa được bỏ trong các hộp dầu cù là, rượu được đưa vào trại qua các ve dầu Nhị Thiên Đường, còn bánh lễ là các rẻo bánh. Hàng tuần cha PVL dâng Thánh lễ ban đêm một mình trong mùng ngủ, chuyển Mình Thánh trong hộp dầu cù là cho một người gần nhất và chuyển tiếp ra các đội khác trong toàn trại. Chúng tôi đã được Chúa bổ dưỡng và ban ơn sức mạnh trong những ngày sống trong đau khổ”.
“Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no nê” (Tv. 144, 16 – Đáp ca).
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1-15) đã thực hiện, không phải là một sự thách TN 17B-106
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1-15) đã thực hiện, không phải là một sự thách thức đối với Người. Vì nguyên mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Người là một phép lạ vĩ đại rồi, cũng là phép lạ duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Đó là một sự mặc khải lớn lao và là một quà tặng duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Vì ngoài Đấng cứu độ ,Thiên Chúa không còn món quà nào lớn hơn như thế nữa.
Nhưng tiếc thay! nhãn quan của loài người thì luôn đối nghịch với nhãn quan Nước Trời, để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai phải chu tất sứ mạng của Người. Đó là mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện. Vì vậy, sự xung đột giữa nhãn quan trần thế và nhãn quan Nước Trời là điều tất yếu. Bởi vì, nếu nhãn quan trần thế có cùng một điểm chung với nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa đã không dùng Thập gía để cứu độ nhân trần.
Nên chi Thiên Chúa luôn nhượng bộ trần thế, với một lý do duy nhất đó là, vì Ngài là Thiên Chúa. một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương, dù nhãn quan bất đồng.
Còn ngược lại đối với nhân thế, Thiên Chúa càng yêu thương thì họ càng phản nghịch, bởi vì họ là nhân thế. Nhân thế thì luôn luôn nhìn đời bằng nhãn quan thế trần. Nhãn quan thế trần thì không thể nhìn ra Đức Kitô Giêsu, vì thế họ không tin Người từ Thiên Chúa mà đến. Suốt cuộc đời Chúa Cứu Thế là suốt một hành trình bị "chối từ". Mặc dù Người không bị mắc lừa, không bị kích động để làm phép lạ, nhưng Khi cần thiết Người vẫn biểu hiện những dấu lạ đúng lúc, đúng nơi, đúng thời điểm. Dù vậy, họ nhiều lần chứng kiến quyền năng Thiên Chúa thể hiên nơi Người, nhưng họ cũng không tin Người là "CON THIÊN CHÚA". Bởi vì sự đối nghịch giữa trần thế và Thiên Chúa, mặc nhiên họ không dám chống lại Thiên Chúa, nhưng nhãn quan trần thế của họ không đón nhận nhãn quan thiên quốc, đó là Đấng Thiên Sai. Dù Thiên Chúa đã mặc khải chính Đấng Thiên Sai cho họ,nhưng Thiên Chúa đã mặc khải một cách phổ quát, phần còn lại khi Đấng Thiên Sai xuất hiện thì họ phải biết đón nhận Người, như nhu cầu "đói" ăn của thân xác họ. Nhưng tiếc thay! điều nầy đã không xảy ra, vì họ chỉ biết tiếp nhận nhu cầu của trần thế là lương thực phải tiêu hao. Rõ ràng họ biết mở lòng để đón nhận nhu cầu thể xác là bánh, nhưng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời là Chính Đấng Cứu Thế.
Như vậy, sự mâu thuẫn ở nơi họ là quá rõ ràng, họ đòi hỏi nơi Đấng Thiên Sai một sự nghịch lý là Người phải cung cấp lương thực thân xác cho họ. Rõ ràng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa không thể nào ban ơn cứu độ cho họ được.
Nhìn lại kẻ có nhãn quan Nước Trời là thiểu số, số ít mà thôi, chỉ có số ít đi theo Chúa Giêsu và tin Người là Đấng Thiên Sai. Những người ấy, ngay cả cùng thời với Chúa Giêsu, hay bây giờ và về sau nầy nữa, mãi mãi cũng là thiểu số. Vì "kẻ được gọi thì nhiều, mà kẻ được chọn thì ít". Như vậy kẻ được chọn là kẻ có nhãn quan Nước Trời, vì kẻ có nhãn quan Nước Trời thì họ mới đón nhận Đấng Cứu Thế và tin vào Người là "GIÊSU"! Vì Những ai không tin vào "GIÊSU" thì làm sao họ tin Người là "BÁNH HẰNG SỐNG". Nhưng chính Người đã nói: "CHÍNH TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG"( Ga 6, 35). Khi và chỉ khi, người nào có nhãn quan Nước Trời thì họ mới tin vào "Lời" của Chúa Giêsu.
Như vậy, muốn có nhãn quan Nước Trời, nhân thế phải biết mở lòng ra để đón nhận, dù là Thiên Chúa đã mặc khải, nhưng nhân thế không hợp tác với Ngài, thì ơn ích thiêng liêng là ân sũng của Thiên Chúa cũng không thể xảy ra được. Phép lạ Bánh hóa nhiều là một minh chứng cụ thể về việc nầy. TIN vào Đức Kitô, đồng thời là nhãn quan Nước trời, là một ân sủng của Thiên Chúa dành cho nhân thế, nhưng đòi hỏi sự hợp tác của nhân thế như: "năm chiếc bánh và hai con cá của em bé" trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào Chúa là chúng con đã mở lòng ra để đón nhận nhãn quan Nước trời, trong mọi, nơi mọi lúc xin ban cho chúng con biết chu toàn phận sự chứng nhân cho Chúa ở trần thế nầy. Amen.
Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh, ....... Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở , TN 17B-107
Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh, chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau, mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy, mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc. Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn, và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi. Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan, bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống. Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt. Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ. Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng. Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7). Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9). Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó. Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn. Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này. Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra. Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân. Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều. Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra. Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt. Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người. Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi. Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa. Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy. Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Suốt cuộc lữ hành của dân Do-thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã ban Manna từ trời rơi xuống để: TN 17B-108
Suốt cuộc lữ hành của dân Do-thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã ban Manna từ trời rơi xuống để dân chúng thu lượm lại làm bánh nuôi sống. Bánh trở thành dấu chỉ hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Sách Các Vua nói đến một người từ Baal-Salisa đến dâng của đầu mùa là bánh mạch nha và lúa mì. Thiên Chúa đã chúc lành cho bánh này được dư đầy và cả trăm người ăn mà còn dư.Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Thiên Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư (2 Vua 4, 43). Bánh trở thành biểu tượng của sự dâng hiến và hợp nhất. Muôn ngàn hạt lúa miến làm thành một tấm bánh.
Từ rất sớm, con người đã biết dùng khả năng để biến đổi hoa trái và hạt miến, lúa mì thành cơm bánh để nuôi thân. Con người cần có thực phẩm nuôi sống. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự trong vũ trụ để con người và súc vật có thực phẩm mà dùng. Mọi nguồn trong thiên nhiên đều có công dụng tương trợ nuôi sống lẫn nhau. Thiên Chúa không tạo dựng bất cứ loài nào một cách thừa thãi và vô dụng. Trật tự lạ lùng sinh sống trong vũ trụ là cả một sự hài hòa hỗ tương giúp muôn vật được tồn tại. Không có một loài nào bị dư thừa loại bỏ. Chỉ vì khả năng của con người còn giới hạn chưa thể khám phá ra hết những nhiệm mầu ẩn tàng nơi các sự vật chung quanh.
Chúa biến 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá ra thật nhiều để nuôi hơn 5 ngàn người. Chúa nhân bánh và cá lên gấp bội cho nhiều người được ăn thỏa thuê. Biết rằng Chúa không làm phép lạ hóa bánh thường xuyên để nuôi sống mỗi ngày. Chúa đã trao ban cho con người có thân xác khỏe mạnh, có trí khôn, có khả năng và có môi trường để lao động. Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (Stk. 2, 15). Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo với Chúa để làm cho trái đất thêm trù phú và phì nhiêu. Con người phải lao động với sức mình để nuôi thân. Chúng ta không thể ngồi đó chỉ để xin xỏ khấn vái mà phải xả thân lao động. Sau khi tổ tông trái lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ đã nhận được lời truyền:Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Stk. 3,19).
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh nuôi nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Đã có lần Chúa đã nói về sự quan phòng rằng:Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao (Mt. 6,26). Chúa Giêsu có quyền năng trên mọi tạo vật. Ngài có quyền tác tạo và biến đổi mọi sự vượt trên tiến trình tự nhiên. Mọi sự vật trong vũ trụ cần có thời gian để sinh nở, phát triển và chín mùi. Với uy quyền trong ý tưởng, lời nói và hành động, Chúa Giêsu rút bớt thời gian để có hiệu qủa ngay tức khắc. Đó là các phép lạ.
Chúng ta quan sát mọi loài từ thực vật cho đến các loài động vật, tạo hóa đã đặt để trong mỗi loài một sự truyền sinh giống nòi tùy theo nhu cầu của cuộc sống. Có những cây trổ sinh hoa trái theo mùi vị khác nhau: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát và nồng. Một cây lúa miến sinh hằng trăm hạt. Một giàn nho trổ sinh muôn ngàn trái. Một con cá lóc dẫn theo cả mấy trăm con rồng rồng. Một con cua ôm cả ngàn con. Một con nhền nhện ôm bầu trứng cả ngàn con… Các con vật sinh xôi nẩy nở gấp trăm gấp ngàn tùy theo giống loại. Theo tiến trình tự nhiên, với thời gian được ấn định, mọi loài đều có cơ hội sinh hoa kết qủa. Ngay từ thuở sơ khai, con người biết dùng khả năng mình để trồng cấy và biến đổi hạt lúa thành cơm bánh nuôi thân.
Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều hai lần. Chúa đã dùng bánh trong bữa tiệc ly để biến đổi thành Mình Thánh Chúa nuôi hồn:Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy (Mt 26, 26). Manna là bánh ban xuống bởi trời nhưng tổ tiên đã ăn và đã chết. Giờ đây Thiên Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, ai ăn sẽ được sống đời đời:Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ (Ga 6, 35). Chúa Giêsu là bánh trường sinh từ trời xuống để nuôi dưỡng hồn xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu qua sự hiện diện nhiệm mầu trong Bí Tích. Chúng ta tôn thờ, kính viếng, kết hợp và nhận lãnh Thánh Thể làm của ăn. Chúng ta trở nên một trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một, cùng chia sẻ chung một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Thánh Phaolô đã xác tín rằng: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa (Eph 4, 4-5). Trong Chúa Kitô, chúng ta không còn phân biệt nam nữ, giầu nghèo và tự do hay nô lệ. Chúng ta không chỉ thuộc về Hội này hay Hội nọ, mà chỉ có một hội, đó là Hội Thánh Chúa:Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 6).
Ngày nay, Chúa vẫn có thể tiếp tục làm các phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cần 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Ai trong chúng ta cũng có thể dâng cho Chúa chút ít tấm bánh và vài con cá nhỏ. Chúa sẽ chấp nhận, chúc tụng, tạ ơn và đem ra phân phát cho nhiều người. Mỗi năm Tổng Giáo Phận Nữu Ước đều có cuộc vận động gây quỹ cho Đức Hồng Y để giúp các nhu cầu cần thiết trong Giáo Phận. Tuy dù cuộc sống khó khăn và kinh tế đang xuống dốc, nhưng lòng quảng đại của con người không giảm. Từ những đồng xu của các bà góa nghèo tới những tấm lòng rộng lượng bao la, mỗi năm một tăng, số tiền dâng cúng năm nay 2012 của Tổng Giáo Phận đã lên tới 19 triệu 30 ngàn đôla.
Chúa sẽ nhận những lễ dâng nho nhỏ hằng ngày của mỗi người như đã nhận 5 tấm bánh và 2 con cá của một bé trai dâng cúng. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể sinh ra nhiều hoa trái bông hạt. Chỉ cần 50 xu hay một đồng đô cũng có thể nuôi sống một trẻ mồ côi, một em khuyết tật, một người phong cùi hay một cụ già neo đơn trong một ngày tại quê hương nghèo ở Việt Nam. Ai cho đi thì sẽ được ban thêm: Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi (Mt 25, 29).
Lạy Chúa, Chúa hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no thỏa. Xin cho tấm bánh được tiếp tục bẻ ra phân phát cho những người túng đói. Chúa đã ban cho chúng con lương thực hằng ngày đầy đủ, xin cho chúng con cùng biết chia sẻ những miếng bánh vụn từ bàn rớt xuống cho những người đang đói khổ. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác, xin đừng để chúng con phí phạm của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ trời rơi xuống. Bánh đó tượng TN 17B-109
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ trời rơi xuống. Bánh đó tượng trưng cho ân huệ Thiên Chúa thương dân Người. Ngài không muốn họ phải chết đói chết khát.
Hôm nay và mãi mãi Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc cuộc đời chúng ta. Ngài không bỏ rơi con người. Ngài chăm sóc chúng ta từng chi tiết nhỏ mọn như một người mẹ hiền thương con và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu chính là hiện thân tình thương ấy của Thiên Chúa Cha.
Các bản văn Kinh Thánh CN 17 TN đều thuật lại việc Thiên Chúa chăm sóc son người một cách cụ thể liên quan đến miếng cơm manh áo. Bài đọc 1 sách các vua quyển thứ 2 kể lại việc hồi ấy có nạn đói lớn trong miền, người ta đem biếu ông Êlisa người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông bảo ‘phát cho người ta ăn’. Nhưng tiểu đồng hỏi ông: ‘Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?’ Ông bảo: ‘Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán (x. 2 V 4,42-44). “Chúa thương rộng mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thoả thuê” (Tv 144). Bài Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều từ phần đóng góp phần ăn của một cháu bé so với đám đông mấy ngàn người cũng chẳng thấm vào đâu; nhưng kết quả diễn ra thật lạ lùng.
Trước khi cho chúng ta ăn no phần xác Chúa phải cho ăn phần hồn. Họ phải hy sinh vất vả theo Chúa để nghe Lời Chúa trước đã rồi Chúa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn. Chúa biết 'có thực mới vực được đạo'. Chúa bồi dưỡng, cứu độ con người cả hồn lẫn xác; chăm lo cả cuộc sống chúng ta.
Đám đông dân chúng, một khối người khổng lồ vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Chúa đã nuôi họ bằng Lời hằng sống. Chúa còn muốn nuôi họ bằng lương thực vật chất nữa. Chúa biết kinh nghiệm khi đói khát, người ta dễ cáu gắt, khó chịu, bực bội; thậm chí vì miếng ăn có thể chém giết nhau. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy nên không nỡ để đám đông sau khi nghe Chúa giảng dạy lâu giờ mà phải ra về khi bụng còn đói. Rất có thể họ sẽ phê bình, chỉ trích, nổi cáu, đả đảo Chúa vì đói quá thì sao!
Nhưng cũng không phải là ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Đám đông dân chúng và các môn đệ đâu có biết sau đó Chúa làm phép lạ cho họ ăn no nê. Họ chỉ biết theo Chúa để nghe giảng thôi. Mà ở địa bàn lúc bấy giờ là nơi hoang vắng cũng chẳng có quán ăn nào.
Phép lạ có được là nhờ sự quảng đại của một em bé đã dám bỏ phần ăn của mình là 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,1-15). Phép lạ đòi hỏi có sự cộng tác, chia sẻ. Phép lạ đòi có sự quảng đại, hy sinh. Chúng ta luôn có đủ khả năng để giúp đỡ người khác cách này cách nọ. Đừng sợ mình cho đi ít quá hay không có gì để cho. Chỉ cần vài miếng ăn của đứa bé thế là có một phép lạ vĩ đại mà chúng ta không tin sao?
Thời đại chúng ta, vấn đề ăn uống có lẽ ít còn là chuyện ăn cho no, vì thóc gạo lương thực không đến nỗi thiếu thốn như ngày xưa, nên phải tìm kiếm ăn sao cho ngon. Vì thế, có nhiều nghệ thuật ăn uống, mỹ thuật trình bày món ăn sao cho hấp dẫn nữa. Ấy thế mà lại thiếu trầm trọng bữa ăn mang tính huynh đệ, bác ái thực sự. Thành thử ra, ngay cả khi không đói khát, người ta vẫn tranh giành nhau từng miếng ăn nhỏ nhen, bất chấp tương quan anh chị em, cha mẹ con cái... Thực tế trong con người chúng ta vẫn có khuynh hướng xấu ấy. Hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để dạy chúng ta về sự chia sẻ trong tình liên đới. Bằng chứng là một em bé đã dám bỏ ra 5 chiếc bánh và 2 con cá của mình để đưa cho Chúa phân phát cho đám đông là một điều hơi lạ, vì đối với trẻ em, chuyện này là hơi khó. Chúa Giêsu đã biến từ một sở hữu cá nhân, sự tham lam ích kỷ của con người thành sự chia sẻ, cho đi và hưởng dùng cho cả cộng đồng, tập thể lớn.
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này rất phong phú, dồi dào tài nguyên khoáng sản không những nuôi sống mấy tỉ người mà nuôi sống cả muôn loài muôn thú nữa. Chỉ cần người ta đừng lãng phí, đừng ích kỷ, tham lam độc ác; nhưng biết cộng tác, chia sẻ thì ai cũng sẽ được hưởng cao lương mỹ vị. Chẳng hạn như Mẹ Têrêxa hằng ngày nuôi 9.000 người nghèo ở Calcutta. Nhưng một nghiên cứu có tính quốc tế cho biết: mỗi 1 giờ đồng hồ có khoảng 1.500 trẻ em chết vì đói khát, bệnh tật; nửa triệu dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch; 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng vẫn đói meo!
Thế giới vẫn còn nghèo đói, lạc hậu, dốt nát do chiến tranh và các tệ nạn xã hội. Đức Giêsu luôn cần những con người cộng tác để trẻ em được dạy dỗ, người nghèo được nuôi nấng, người ốm đau được chăm sóc. Vì thế, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho phép lạ, nếu chúng ta biết chia sẻ điều mình có với Chúa như là của cải, sức khoẻ, tài năng, thời giờ, tình yêu, địa vị, quyền hành. Chúa sẽ biến thành kết quả khôn lường. Một ông giám đốc, một nhà khoa học, một thầy giáo, một diễn viên, một linh mục, tu sĩ hay giáo dân có thể giúp ích, nuôi sống bao nhiêu người. Một chương trình nghệ thuật hay quảng cáo thu được rất nhiều tiền do sự đóng góp của nhiều người, sau đó người ta có thể dành cho những mục tiêu cao đẹp, chính đáng nào đó chẳng hạn. Như giúp người nghèo đói, bệnh tật. Chúng ta hãy cộng tác với những tổ chức từ thiện bác ái trong đạo ngoài đời để làm nên những phép lạ hằng ngày. Với niềm xác tín rằng “nếu chúng ta dâng cho Chúa một tia lửa Chúa sẽ biến thành ngọn lửa. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một sợi dây Chúa sẽ biến nó thành cây đàn. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một giọt nước Chúa sẽ biến nó thành một dòng suối...”.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 5 chiếc bánh và 2 con cá là con số tuợng trưng cho 7 bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là nguồn lương thực Chúa nuôi dưỡng chúng ta mãi cho đến ngày tận thế, không bao giờ cạn kiệt. Chúa chăm lo cho chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa và các bí tích của Chúa hướng dẫn và nuôi sống chúng ta, chắc chắn sẽ có những phép lạ thường xuyên xảy ra.
Cử chỉ Chúa làm khi hoá bánh ra nhiều cũng giống như cử chỉ khi Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Rõ ràng Chúa Giêsu là tấm bánh như chính Ngài đã nói “Ta là bánh hằng sống”, đã dám bẻ cuộc đời mình ra cho nhân loại chia nhau ăn để họ được sống muôn đời. Quả thật, nhân loại sẽ còn đói khát Chúa Giêsu mãi. Đói khát Lời Ngài, Thịt Máu Ngài. Hôm nay Chúa vẫn đang cần những con người cộng tác trao ban Lời Ngài, bẻ bánh trao cho nhân loại để họ hết đói khát. Những người cộng tác không ai khác là các môn đệ, là Kitô hữu chúng ta, hãy hiến thân để phục vụ anh chị em đồng loại đang đói khát vật chất, tinh thần, đức tin. Chúng ta hãy cho họ ăn để họ được sống dồi dào cả hồn lẫn xác như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta TN 17B-110
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta. Tình yêu ấy bao trùm toàn thể vũ trụ này. Không một thụ tạo nào có thể sống và tồn tại nếu không nằm trong quỹ đạo yêu thương của Ngài. Là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, nên khi đến trần gian, trong những ngày tháng công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy một cách cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, nhằm đáp ứng nhu cầu khát khao chân lý của dân chúng, Chúa sẵn sàng dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi khi thấy đám đông đi theo mãi mê nghe Chúa giảng dạy mà quên cả ăn, khiến Ngài không đành lòng để họ ra về giữa cơn đói cồn cào. Nên Chúa đã hỏi: “Philipphê, ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Câu hỏi làm toát lên một sự quan tâm, lo lắng được xuất phát từ tình yêu chân thành. Dù rằng, chính Tông đồ Philipphê, khi được hỏi đã thú nhận sự bất lực của mình khi trả lời Chúa Giêsu: “Đến hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Khi nói “hai trăm bạc bánh”, Philipphê muốn nói rằng cho dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày của một người Do Thái lúc bấy giờ hoặc tính theo giá trị của hôm nay là 100.000 đồng/công, số tiền này lên đến 20 triệu đồng, thì “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được tình yêu, lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy. Điều con người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, thì Chúa Giêsu với tình thương Ngài đã thực hiện cách dễ dàng. Nhưng chúng ta cũng lập tức nhận ra rằng Chúa đã thực hiện phép lạ không phải từ số không, nhưng từ chất liệu của con người, đó là bánh và cá. Chúa Giêsu không dùng lời quyền năng để biến từ không ra có, mà phép lạ được khởi đi từ một khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé. Vậy là đã quá rõ Chúa muốn qua phép lạ hôm nay nói với mọi người chúng ta rằng: Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương của Thiên Chúa cho con người gấp bội. Cũng như sự quảng đại của em bé đã làm cho nhiều người được no nê, những đóng góp của biết bao người thiện chí, dù là ít ỏi, giới hạn, chẳng đáng là bao nhưng thực hiện với lòng yêu thương, sẽ khiến Thiên Chúa làm cho sự quảng đại này được nhân lên, nhân lên mãi trong cuộc sống.
Thế nên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem, chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng để Ngài sử dụng theo như ý Ngài muốn? Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm xưa. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì - chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng vượt lên trên mọi niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé trong Tin Mừng. Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng, và thói đời thường cho rằng “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nhưng cậu bé sau khi đã quảng đại, sẵn sàng trao khẩu phần ăn của mình cho Chúa, em không chỉ được ăn no nê, mà còn nhận lại được niềm sung sướng khi thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại niềm vui bất ngờ cho biết bao người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn giàu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được toả lan rộng rãi khắp nơi. Amen.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã được tất cả các thánh sử đều ghi lại, nhưng tường thuật của Gioan nhắm TN 17B-111
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã được tất cả các thánh sử đều ghi lại, nhưng tường thuật của Gioan nhắm đến một hướng khác.
Đây là một phép lạ do chính Chúa Giêsu khởi xướng từ đầu đến cuối. Chúa thấy đoàn lũ dân chúng theo Ngài, Ngài muốn cho họ ăn một bữa, chứ không phải vì thấy họ đã đi theo Ngài suốt ngày. Đây không phải là do nhu cầu, mà chỉ do ý muốn của Chúa mà thôi.
Thánh Gioan ghi rõ: phép lạ này được thực hiện ở vùng đất Galilê, là môi trường rao giảng thường xuyên của Chúa, là nơi Ngài đã làm một phép lạ tương tự là hóa nước lã thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Cana. Hai phép lạ có những nét tương đồng và chứng tỏ sự sung mãn tràn trề của Ngài. Ngài đến để mang cho loài người sự sung mãn của Thiên Chúa.
Ở tiệc cưới Cana, thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê và bày tỏ vinh quang Người. Các môn đệ đã tin vào Người”.
Lần này, Chúa Giêsu cũng làm một phép lạ tương tự cho cả một đám đông trên năm ngàn người. Để thực hiện ý định của Ngài, Chúa Giêsu đưa đám dân lên núi, nơi vùng đất đủ rộng để quy tụ đám dân đông như thế. Nhưng Gioan không phải ngẫu nhiên nói đến vùng núi tiện lợi để quy tụ dân chúng mà thôi, ngài muốn nhắc lại biến cố thời xa xưa, thời ông Môsê dẫn đoàn dân vào sa mạc, ở đó, xa tất cả sự huyên náo của thị thành, chỉ có Chúa và đám đông thôi. Đó là môi trường lý tưởng để gặp gỡ như Chúa nói qua tiên tri Hôsê: “Này Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc, ở đó Ta sẽ rót vào tai nó những lời ngọt ngào yêu thương”.
Chúng ta cũng nhớ đến bài giảng trên núi. Chúa công bố Hiến Chương Nước Trời là tám mối phúc thật, trong cùng một khung cảnh như thế. Việc quy tụ dân chúng trên núi không chỉ là một chi tiết địa dư mà là hình ảnh của Đấng Cứu Độ, quy tụ dân Ngài. Đối với Gioan, mọi chi tiết đều mang một ý nghĩa.
Trước khi thực hiện ý định của Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn có sự tham gia của các môn đệ. Ngài hỏi Philipphê: “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” Đây cũng là cách trêu chọc xem Philipphê phản ứng cách nào, vì Ngài đã biết Ngài sẽ làm gì. Trước câu hỏi bất ngờ của Chúa, Philipphê ngỡ ngàng. Anrê cũng góp ý: “Ở đây có mộtem bé bán bánh mì có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá hấp”. Nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu!
Gioan nói rõ: “Chúa muốn thử Philipphê” nhưng cũng muốn cho các ông thấy sự nhỏ bé và bất lực của con người. Đứng trước một đám đông như thế, con người không thể làm gì, nhưng Thiên Chúa có thể. Chúa Giêsu mua hết mấy chiếc bánh và cá của em bé và làm những cử chỉ khiến các ông ngỡ ngàng. Ngài cầm bánh, dâng lời chúc tụng và phân phát cho mọi người. Những cử chỉ này chỉ là những cử chỉ thông thường của một người chủ gia đình trong bữa ăn, nhưng ở đây nó mang một tầm vóc khác. Thánh Gioan không tường thuật việc lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, như các thánh sử khác, ngài chỉ báo trước biến cố quan trọng này nơi đây.
Đám dân lành được ăn một bữa no nê. Nếu chúng ta ở trong đám dân đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Chắc hẳn chúng ta sẽ vui mừng vì được ăn thoải mái, không cực nhọc và cũng không tốn tiền. Chúng ta nghĩ sao về người đã cho chúng ta ăn no?
Sau khi mọi người ăn no, Chúa bảo các môn đệ gom những mảnh bánh vụn lại kẻo phí đi.Chúa tiếc những miến bánh còn dư hay sao? Với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã cho năm ngàn người ăn no, không lẽ Ngài tiếc những miếng bánh vụn? Ngài muốn nói đến một điều gì quan trọng hơn. Ngài muốn nói đến một thứ bánh không thể bị bỏ phí mà sau này Ngài sẽ ban cho, không chỉ cho năm ngàn người mà cho toàn thể nhân loại, một thứ bánh không hư nát mang lại sự sống đời đời, là chính thịt máu Ngài.
Người ta đã gom các mảnh bánh vụn lại được mười hai thúng đầy. Con số mười hai là con số tròn của người Do Thái, nghĩa là nhiều lắm, là toàn thể. Ngài muốn cho mọi người thấy sự sung mãn tuyệt diệu của Ngài và đây cũng mang một ý nghĩa tượng trưng khác. Gom lại những mảnh bánh vụn có thể hiểu là gom tất cả các dân tộc vào trong dân mới là dân Thiên Chúa. Đó là công việc mà Ngài trao cho các môn đệ. Giáo hội đang làm công việc này suốt bao nhiêu thế kỷ và cho đến tận thế.
Trong tường thuật ngắn gọn này, Gioan đã nhắc đến nhiều yếu tố Cựu Ước: như nhắc đến manna trong sa mạc trong thời Môsê. Hai mươi chiếc bánh thời tiên tri Êlisa mà bài đọc thứ nhất đã nhắc đến. Cả trăm người ăn mà vẫn còn dư. Ở đây năm ngàn người ăn năm cái bánh mà vẫn còn dư. Bãi cỏ xanh để người ta ngồi ăn thoải mái làm chúng ta nhớ đến lời thánh vịnh 23: “Chúa đưa tôi vào đồng cỏ xanh tươi…” Nhắc đến những biến cố Cựu Ước để làm gì? Phải chăng là để chúng ta thấy rằng chương trình của Thiên Chúa đã sắp sẵn từ lâu và vẫn tiếp tục. Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện những gì đã được tiên báo từ lâu. Chúng ta đang nằm trong chương trình dài hạn đó và mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng, một vai trò. Chúng ta có biết không?
Chúng ta phải mang sự sung mãn tràn trề của ơn Chúa cho mọi người. Chúng ta lãnh nhận nhưng không, phải cho đi nhưng không. Cho đi như ánh sáng, vô điều kiện: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Cho đi rồi gom lại kẻo phí đi. Gom lại để chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” Chúa Giêsu đến để gom lại tất cả thành một.
Phép lạ này đã làm cho đám dân vui mừng nhưng đã kết thúc như một thất bại: đám dân chúng đã hiểu lầm về con người của ông Giêsu, người đã cho họ ăn một bữa no nê. Họ nghĩ rằng ông này là một vị ngôn sứ phải đến như sách Thánh đã nói. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Họ không thể hiểu xa hơn.
Biết như thế, Chúa Giêsu lánh mặt và lên núi một mình. Ngài là Đấng Cứu Độ, nhưng không là một nhà giải phóng trần thế như dân đang mong đợi. Ngài đến mang sự sống cho thế gian nhưng không phải sự sống sung túc mà một sự sống dồi dào hơn, sung mãn hơn. Ngài biết sự mong manh của tính bộc phát của đám đông. Hôm nay hoan hô, ngày mai đòi đóng đinh trên thập giá. Ngài lên núi một mình để gặp Cha Ngài, suy tính đến những giai đoạn sắp tới.
Đây chỉ là khúc nhạc dạo đầu của một bản nhạc giao hưởng bất tận mà Chúa Giêsu là nhạc trưởng tài ba đã khởi xướng. Ngài tỏ lộ khuôn mặt quyền năng và đầy yêu thương của Ngài cho mọi người.
Xưa kia Ngài dùng năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi năm ngàn người trong sa mạc, hôm nay và mỗi ngày, trên bàn thờ hiến tế, qua tay các linh mục, Ngài lấy chính thịt máu Ngài nuôi mọi tâm hồn khao khát và nhờ đó, chúng ta lãnh nhận được sự sống muôn đời. Ngài mới là Bánh Trường Sinh, không hư hoại, là sự sống thật. Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ được no thỏa. Ngài mang lại cho chúng ta sức mạnh để lướt thắng mọi khó khăn trên đời và đạt tới hạnh phúc muôn đời. Chỉ cần tin và đến với Ngài trong một tâm tình thành thật. Ngài là Tình Yêu trọn vẹn. Ngài cho đi mà không bao giờ lấy lại. Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ không còn thèm khát những bữa tiệc mong manh, chán buồn của trần gian. Ăn lấy Ngài chúng ta học được bài học cho đi vô điều kiện và hạnh phúc của chúng ta sẽ mãi mãi là cho đi như Ngài.
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá làm lương thực nuôi, TN 17B-112
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá làm lương thực nuôi, chỉ với số lượng đàn ông thôi, đã có đến 5.000 người, người ta hay chú ý đến: sự động lòng yêu thương của Chúa Giêsu, nên ban lương thực cho đám đông đang đói; hay lời của thánh Anrê giới thiệu một em bé có trong tay bánh và cá; hay sự cộng tác của con người khi trao bánh và cá để Chúa làm phép lạ; hay Chúa đưa các môn đi vào mối bận tâm của Chúa khi hỏi: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”…
Nhưng ít có ai nói đến chính sự tự hiến mình của năm chiếc bánh và của hai con cá để, nhờ chúng mà phép lạ diễn ra. Đành rằng, sự hiến dâng, cũng chính là sự hy sinh của em bé đã góp phần làm nên phép lạ. Nhưng chính bánh và cá mới thực là chất thể của phép lạ. Bánh và cá (chứ không phải bản thân em bé) mới thực sự làm cho phép lạ nên hiện thực.
Trong quyển “Năm chiếc bánh và hai con cá” (xuất bản năm 1998), Đức cố Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận đã không nhìn phép lạ của Chúa Giêsu nuôi hơn 5.000 người ăn chỉ là phép lạ của quá khứ. Bằng tất cả nỗ lực thánh hoá mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… xảy ra trong đời mình, Đức Hồng y nhìn thấy phép lạ của Chúa trên chính cuộc đời và trong chính sự sống, trong từng nhịp thở của bản thân mình. Bằng tất cả sự hiến dâng mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… Đức Hồng y đã biến mình thành một thứ “bánh” và “cá” trong tay Chúa. Và cũng vì thế, Đức Hồng y nhìn thấy cuộc đời mình là một cuộc đời phép lạ. Bằng cách thánh hiến mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh…, Đức Hồng y đã nhận ra sự cao cả trong tình yêu của Chúa khôn xiết: vừa lạ lùng bởi không thể hiểu nổi, nhưng cũng quá đỗi thân quen bởi nó chạm đến chính mình; vừa nhiệm mầu bởi biết rằng nó đến từ Chúa, nhưng cũng gần gũi quá đỗi bởi cũng cảm nhận nó là chính mình… Đức Hồng y đã thấy Chúa thăng hoa đời mình chẳng khác gì “năm chiếc bánh và hai con cá” trong tay Chúa năm xưa: rất ít nhưng lại hoá nên rất nhiều.
Vì sao nhìn lại chính mình, Đức Hồng y lại có thể thấy phép lạ của Chúa? Bởi Đức Hồng y đã hoàn toàn đặt mình trong tay Chúa: ngài chính là tặng phẩm chính mình dâng lên Chúa, tặng phẩm chính mình dành cho Chúa. Đối với người được tặng quà, một khi đã có tặng phẩm trong tay mình, người chủ của món quà ấy sẽ thể hiện ý mình, thể hiện cách sử dụng của mình trên món quà. Nếu cuộc đời, sự sống và tình yêu của Đức Hồng y đã là của Chúa Giêsu, đã là quà tặng dành cho Chúa Giêsu, đã thuộc về Chúa Giêsu, đã nằm trong bàn tay Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu có quyền có mọi sáng kiến trên tặng phẩm ấy. Và sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện nơi tặng phẩm của chính Người, một tặng phẩm mang tên Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đó là:
- Tất cả ân ban ôm trọn cuộc đời Đức Hồng y.
- Tất cả tình thương kỳ diệu, tình thương vừa nhiệm mầu, nhưng cũng vừa cụ thể mà Đức Hồng y cảm nghiệm trên tất cả mọi thử thách, dẫu những thử thách ấy rát buốt nhất, thương đau nhất trong suốt đời mình.
- Tất cả niềm hy vọng sáng chói vọt lên giữa cảnh đời đen bạc, giữa những hận thù, những tăm tối và ác độc nhất của lòng người…
- Tất cả niềm tin vào Đấng đã khởi sự tốt đẹp, thì Người sẽ hoàn tất tốt đẹp giữa cái vô lý cực độ của một tù nhân không bản án, hay những năm tháng lưu vong, hay chính nỗi niềm xót xa vô hạn về sự vắng mặt của mình trong vai trò là mục tử giữa đàn chiên mà mình được trao phó.
- Tất cả lòng tha thứ, không gợn một chút oán hận nào trong trái tim của một con người chất chứa đầy tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi. Nhất là những tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi đó không phải vì chính mình, mà vì trách nhiệm, vì đoàn chiên, vì lòng yêu mến cả những người đang ngày đêm thù hằn và cư xử độc ác với mình.
- Tất cả sự chiến thắng trên chính hoàn cảnh. Dẫu đó là hoàn cảnh bế tắt nhất, mất hy vọng nhất, để sống cách tuyệt hảo phút hiện tại mà Chúa ban và nỗ lực làm việc không mệt mỏi, không để cho sự bị giam cầm có thể giam cầm tâm trí, giam cầm nhiệt huyết, giam cầm ý chí. Nhưng luôn vươn tới, luôn biến mình thành người tự do để hoàn thành cách xuất sắc nhất giây phút hiện tại mà Chúa ban.
- Tất cả hồng ân của hy tế thập giá trong từng thánh lễ. Nhất là những thánh lễ được cử hành với ba giọt rượu và một giọt nước, cùng với Mình Thánh Chúa là những chiếc bánh lễ được xé nhỏ nằm gọn trong chiếc túi nylon nhỏ xíu. Những hy tế hằng ngày được hiến dâng ấy đã tạo nên sức mạnh vô song để cây thập giá đời mình tháp nhập vào thánh giá Chúa Kitô tuyệt đẹp.
- Tất cả niềm hoan hỉ lớn lao khi Mình Thánh Chúa được kiệu khắp nơi giam cầm, trên chính ngực áo của những con người tưởng chừng mất tự do, và những giờ Thánh trong đêm tối tĩnh mịch để cùng nhau nhận lãnh Phép Lành Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên người bạn sớt chia nỗi nhục nhằn của những con người đau khổ. Ôi, niềm vui Chúa ban sao quá thiêng liêng nhưng lại ấm áp cách lạ thường! Hồng Ân Thánh Thể làm nên nghị lực quật cường nơi những con người tưởng chừng đã bị tiêu diệt tận cùng.
- Tất cả niềm bình an lớn lao trong những giây phút chìm đắm cầu nguyện. Không phải bằng lời, nhưng bằng đời cầu nguyện. Cầu nguyện giữa những hoang mang trong thương đau, lẫn niềm vui trong trách nhiệm mà Hội Thánh đặt lên vai mình. Đó là sáng kiến ngoạn mục mà Chúa Giêsu tạo nên trong lòng một con người. Con người đó là con người của niềm hy vọng và bình an.
- Tất cả sự khải hoàn của một tâm hồn rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi mọi lúc. Nhất là những lúc đưa được những anh em đồng đạo và đang đồng phận khổ đau với mình thoát khỏi tình trạng đức tin nguội lạnh; hay những lúc rửa tội lén lút cho những anh em lương dân để họ trở về với Chúa Kitô; hoặc hoán cải lòng những anh em đối nghịch với mình, những anh em canh gác mình, những anh em nghi ngờ mình… để họ nhận biết Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô, luôn tha thứ cho tất cả mọi người, tha thứ cho cả những kẻ bách hại mình.
- Tất cả lòng yêu mến đối với Đức Trinh Nữ cách tuyệt diệu. Với một tràng chuỗi Mân Côi trong túi, để lên đường vác thánh giá trong chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Người Con của Đức Mẹ đã trở thành dáng đứng kiêu sa và tấm gương soi chiếu trên tất cả Hội Thánh, để giữa những cùng khốn nhất, những người con của Hội Thánh cũng hãy biết để Đức Mẹ đứng cạnh mình, như xưa Đức Mẹ đã từng đứng cạnh Thánh Giá Chúa Giêsu trong giờ Người lâm tử.
- Tất cả tình yêu thông hiệp với Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là tấm lòng canh cánh nặng trĩu với sứ mạng giám mục mà đoàn chiên đang trông chờ giữa thời buổi khó khăn gay gắt. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ cho Đức Thánh Cha. Đó là niềm ý thức không bao giờ phai: mình là Giám mục của Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là sự sốt sắng cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng các nhạc phẩm của Hội Thánh. Đó là những cử hành thánh lễ theo ý hướng của Hội Thánh…
Nhiều lắm những sáng kiến mà Chúa đã tạo nên nơi tặng phẩm của Người. Chắc chúng ta không thể kể hết trong một vài con chữ. Tuy nhiên, bấy nhiêu cũng đủ để chứng minh rằng, chỉ cần chúng ta hiến dâng chính mình như “con cá”, như “tấm bánh” trong tay Chúa Giêsu, để nên tặng phẩm của Người, thì Người sẽ có những sáng kiến độc đáo, những sáng kiến có một không hai trên chính cuộc đời của ta, đến mức ta không thể hiểu hết, không thể ngờ nổi…
Hiến dâng Chúa đời mình như những chiếc bánh, như những chú cá năm xưa, Đức Hồng y đã nằm gọn trong tay Chúa, để Chúa bẻ mình ra phân phát, trao ban cho con người, cho nhân loại mọi thời, mọi nơi.
Cuộc “bẻ mình” nào mà không đau đớn, không để lại những dấu tích của thánh giá?! Chúa Giêsu tự hiến chính mình, Người trở thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người, thì cuộc hiến tế chính mình để thành tấm bánh bẻ ra, cũng đã đòi Chúa Giêsu phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận nát tan, chấp nhận mọi đớn đau, chấp nhận cả cái chết đầy tủi nhục. “Hai chữ ‘thập giá’ đã gợi lên, cho mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Thế mà, Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn "thập giá” để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của trần gian. Mặc dù "vô tội” (Mt 27,4), là "người công chính” (1 Pr 3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi” (Hà Minh Thảo, Kính nhớ Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Radio Veritas Asia, Philippines).
Làm tặng phẩm cho Chúa để tuỳ nghi Chúa sử dụng, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận biến mình trở thành “tấm bánh”, thành “con cá” mang lại sự hữu ích cho sáng danh Chúa và mở rộng Nước Trời. Sự “bẻ mình” trong tay Chúa của Đức Hồng y đã giúp Đức Hồng y cả một đời làm giám mục, bước theo Chúa đến mức vẹn toàn, đến trọn con đường thập giá. Con đường thập giá đó chính là một đời với một dòng họ quyền quý, nhưng sau đó đã vội tan tác. Con đường thập giá đó cũng là một định mệnh nghiệt ngã đã đưa Đức Hồng y qua mọi thăng - trầm, được - mất, sống - chết, bình an - tủi nhục, hạnh phúc - cô đơn, hy vọng - đau khổ, sức khoẻ - bệnh tật…
Chính tặng phẩm là hiến tế đời mình mà Đức Hồng y dâng lên Chúa như 5 chiếc bánh và 2 con cá trong tay Chúa, đã thổi bùng lên một linh đạo mà tất cả chúng ta đều có thể bước theo, có thể noi gương. Vậy chúng ta cũng hãy bắt chước mà sống theo linh đạo của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: hiến tế đời mình qua từng ngày sống, thành tặng phẩm dâng lên Chúa, để tuỳ sáng kiến mà Chúa muốn thực hiện đúng theo thánh ý của Người trên chính cuộc đời và sự sống của ta. Tặng phẩm như những chiếc bánh, những con cá trong tay Chúa:
- Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi dẽ thực hành ngay, không chần chừ.
- Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo. Ví thế, điều quan trọng trong đời ta là vâng theo Thánh ý Chúa. Ta cần tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Chúa muốn ta tìm chính Chúa chứ không phải tìm việc của Chúa.
- Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại một niềm bình an vô song, sẽ bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
- Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là một việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa sẽ là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa sẽ tăng lực để ta đạp dưới chân mình mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể Chúa là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.
- Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, chúng ta yêu thương không phân biệt bất cứ người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, chúng ta tha thứ cho cả những địch thù, cả những kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người. Chúng ta cầu nguyện cho cả những người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người. Chúng ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống của đồng loại quanh mình… Tình yêu sẽ là sợi dây siết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu sẽ biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu sẽ mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời này đáng sống, đáng phục vụ.
- Con cá thứ nhất: Mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ đã từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa trong cuộc đời. Hạnh phúc và đau khổ đan xen suốt cuộc đời Đức Mẹ từ khi Người được Chúa Chọn làm mẹ của Chúa, trải dài trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Mầu nhiệm Ẩn Dật, Mầu nhiệm Công Khai, Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui - buồn - sướng - khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ cùng đồng hành, cùng sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
- Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị trong đời tôi. Chỉ có Chúa và chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi có tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa. Bạn thân mến, Với hình ảnh “5 chiếc bánh và 2 con cá” trong trình thuật Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta cùng nhau bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta như đã làm cho “5 chiếc bánh và 2 con cá” sinh lợi ích cho chính Chúa, cho Hội Thánh của Chúa, cho linh hồn mỗi người chúng ta và cho cả vũ trụ này. Con người chúng ta - bánh và cá mới: tặng phẩm mới đáng yêu trong tay Chúa!!
Hôm ấy, người ta theo Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng dạy. Trong số gần 5.000 người đàn ông kia, không TN 17B-113
Hôm ấy, người ta theo Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng dạy. Trong số gần 5.000 người đàn ông kia, không ai dám biết là có được mấy người không có ý chờ đợi một dấu lạ. Hẳn là, chỉ có Chúa Giêsu biết rõ tâm ý của từng người. Và Ngài biết mình phải làm gì để mạc khải về Nước Thiên Chúa.
Việc Ngài làm rõ ràng có một trình tự đã sắp sẵn:
- Nhận thấy đoàn người kia đang đói - Bảo các môn đệ phải lo cho họ ăn - Mời họ ngồi xuống như ngồi vào bàn tiệc - Thức ăn thết đãi chiều nay là thức ăn của một em nhỏ, mà lòng không nhỏ mọn.
Và như thế, qua phép lạ bánh hóa ra nhiều, Chúa đã mạc khải Nước Thiên Chúa như một bữa tiệc thết đãi cho toàn dân bằng thức ăn của người bé mọn nhất, không ai khác, chính Ngài.
Hình ảnh em bé ấy, con người bé nhỏ ấy, con người đơn sơ hiền lành ấy, con người không hề biết tính toán mưu lợi cho riêng mình ấy, con người sẵn sàng cho đi ấy… là hình ảnh của chính Con Chiên Thiên Chúa.
Năm chiếc bánh và hai con cá của em bé ngày ấy, đã là dấu chỉ biểu trưng cho một cuộc hiến tế không chỉ trên thập giá, mà còn ngày trên bàn thờ, nơi Bí Tích Thánh Thể mến yêu: Thịt Máu Đức Giêsu đã trở nên thức ăn, nên bánh và cá, trong bữa tiệc Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, trên hành trình về Nước Thiên Chúa vĩnh cửu.
Từng chi tiết trong toàn cảnh chiều nay, mạc khải toàn bộ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa Cha: Ngài nhìn thấy nhân loại đang đói, Ngài bảo Con Một Ngài phải lo cho nhân loại ăn, Ngài bảo Con Một Ngài phải mời mọi người vào bàn tiệc, và Ngài bảo chính Con Một Ngài phải trở nên lương thực cho nhân loại.
Nếu cả 5.000 người cùng dùng chung một loại thức ăn là bánh và cá, thì cả nhân loại này cũng chỉ dùng một loại lương thực trường sinh chính là Đức Giêsu…
Có cả một kho tàng mầu nhiệm cứu rỗi để chúng ta gẫm suy qua phép lạ bánh hóa ra nhiều.
Thiết tưởng, nên chú ý cách riêng đến em bé trong biến cố này, trong lúc mọi người đang đói.
Nếu là một người lớn, hoặc là người nghĩ mình đã khôn lớn, thì hẳn sẽ làm thinh mà giấu cất phần ăn nhỏ bé kia, hoặc sẽ lẳng lặng tìm một bụi chuối hay một góc khuất mà chui vào đó ăn một mình… không dám sẻ chia !
Nói đến cái đói, thì có thể nói, người Việt Nam dễ hiểu hơn ai cả, vì họ đã từng đói trong những nạn đói, mùa đói, năm đói, tháng đói. Có cái đói do thiếu, do hụt. Có cái đói do không dám sẻ chia. Thiếu vì hạn hán mất mùa, thiên tai lũ lụt, mùa màng mất trắng. Thiếu, do nhà mình không có lấy một công ruộng, làm thuê mướn mua gạo ký qua ngày, ngày không có tiền thì dĩ nhiên thiếu gạo, ngày có gạo thì lại thiếu tiền. Cuộc sống bấp bênh trôi nổi. Hụt, do mùa năm trước kém, ăn không giáp hạt đến mùa năm nay. Hụt, do cái nợ bán lúa non để đến khi lúa nhà mình già, lúa nhà mình chín, lúa nên hạt vàng phơi phong khô khén thì lại đem đổ vào lẫm của người ta mà trả nợ. Hụt, do mình chủ ruộng bỗng dưng trở thành kẻ làm thuê cho Nhà Nước, bởi vì ruộng nhà mình đã được quốc hữu hóa trọng thể, mùa lên thì phải xếp hàng mua từng ký gạo ẩm mốc hôi ê. Ôi, những kỷ niệm đau thương về chuyện đói.
Không ít gia đình đã từng vượt qua những nạn đói, mùa đói, năm đói, tháng đói bằng cách người lớn bỗng trở thành trẻ nhỏ, trẻ nhỏ bỗng trở thành người lớn, cha mẹ nhường phần ăn cho con nhỏ, còn cha mẹ thì ráng mà chịu cho qua ngày. Đáng thán phục những chuyện đói trên đường vượt biển: những phần ăn còn lại nhỏ xíu được ưu tiên dành cho người kiệt sức nhất trên ghe. Đáng ca tụng, ghi nhớ, và tạ ơn Chúa biết bao, khi nhắc đến những ngày đói sau 1975 của những cộng đoàn tín hữu, vì họ đã chia cho nhau từng hạt muối, củ khoai, mà nuôi nhau qua ngày. Thì ra, hình ảnh em bé ngày xưa ấy, vẫn còn luôn sống động thời nay.
Những tưởng, sau bốn mươi năm, hình ảnh em bé sống động ấy, sẽ mỗi ngày sống động hơn, ai dè, khó tìm ra quá, không tìm ra em bé ấy nữa trong một xã hội được huấn luyện vô cảm nhiều hơn là chạnh lòng thương.
Chuyện dĩ nhiên là nếu không có cái gì để ăn, thì chết đói. Nhưng không dễ gì ai chịu chết ngay. Chuyện thường tình là trước khi chết thì người ta sinh ra hỗn loạn, giành giựt nhau… chém giết lẫn nhau, tranh thủ sống… tự nhiên như luật sinh tồn, ai chết mặc ai miễn là ta sống. Có khác gì đó là hậu quả của sự vắng bóng em bé, vắng bóng chút chạnh lòng trong một toàn thể vô cảm.
Vâng, rõ ràng là...
Không thể nào tìm cho ra em bé ấy, em bé của ngày xưa ấy, nơi bãi chính trường của toàn là những người lớn. Bãi chính trường đương bát nháo, hỗn độn, vì những người lớn đang đói khát cái quyền lực, đến nỗi giành giựt với nhau từng miếng ăn, từng chỗ ngồi, từng mối lợi; đến nỗi phải cãi vã, hạ nhục nhau, bài xích nhau, bêu xấu nhau những chuyện riêng kín vô liêm sỉ; đến nỗi có thể cắn xé nhau, thanh trừng nhau, loại trừ nhau cách tinh vi mà tàn nhẫn nhất; đến nỗi không còn chút tình đồng loại, đồng hương, đồng khói, đồng bào, và cả đồng chí nữa. Giá mà có em bé ngày xưa ấy trong đám ông to bà lớn kia, hẳn em bé sẽ nói với họ rằng: “Tôi có năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ”, xin nhường cho tất cả chúng ta, thì hẳn là quý vị ấy sẽ hiểu ra thế nào là phép lạ của sự nhường và nhịn.
Không thể nào tìm cho ra em bé ấy nơi chốn thương trường cũng của toàn những người lớn. Ai cũng đang đói khát giàu sang, tiền bạc phú quý, phương tiện không biết đến khi nào mới cảm thấy no đủ. Không dễ gì người ta dừng lại cuộc đua lợi nhuận, khi trong tay xoành xoạch một mớ vốn liếng vô hồn. Họ sẵn sàng để cho những đồng tiền ấy đi ra với mục đích thu tích về cho mình những đồng tiền to hơn, giá trị hơn vào kho lẫm của họ, bất kể cách nào, miến là mau lợi nhuận, siêu lợi nhuận nhất. Chốn thương trường cũng đang vì cái đói mà mưu toan, lọc lừa nhau, và cũng có cả chuyện thanh toán nhau cách lịch sự nhẹ nhàng nhất. Giá mà có em bé ngày xưa ấy trong đám ông to bà lớn kia, hẳn em bé sẽ nói với họ rằng: “Tôi có năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ... Chẳng mua bán gì đâu, ai đói thì cứ ăn”, hẳn quý thương gia kia trước hết sẽ bĩu môi mà khinh bỉ rằng có thấm vào đâu cho sức ăn của chúng tôi, nhưng rồi sẽ nghiêng mình khâm phục vì chỉ chừng ấy mà cả ngàn người ăn hoài không hết.
Không thể nào tìm cho ra em bé ấy nơi tình trường bi đát của toàn là những người lớn, yêu theo kiểu theo kiểu người lớn giả dối, điêu ngoa, không có chút tình nào thành thật. Họ mãi mãi đói một chút tình, bởi vì, chút tình phàm tục kia đã không bao giờ làm cho họ thỏa mãn. Không thỏa mãn là còn đang đói khát tình, và cơn đói khát tình phàm tục ấy đã khiến người ta có thể thực hiện bất kỳ hành động vô nhân nào, miến là họ được thỏa mãn ! Ly dị, ly thân, phá thai từ trong trứng nước… tất cả đều bởi nguyên nhân vắng bóng em bé của ngày bánh hóa ra nhiều…
Xin mời bạn hãy nối dài suy tư về việc “không tìm ra em bé ấy” trong biết bao chuyện đói ngày hôm nay, để chúng ta sẽ cùng gặp nhau ở một điểm chung kết: bao lâu xã hội, con người, gia đình và cá nhân hôm nay còn loại trừ sự hiện diện của Đức Giêsu “khiêm nhường và hiền lành”, còn loại trừ giáo lý Đức Giêsu trở nên bé nhỏ, còn loại trừ Đức Giêsu biết chạnh lòng thương và dám chia sẻ đời mình cho mọi người…. thì bấy lâu, còn đói khát, còn bát nháo…
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tình của em bé ngày xưa ấy, mặc lấy trái tim “hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Giêsu, để dám sẻ chia cho mọi người tất cả những gì là cần thiết cho cuộc sống hôm nay và vĩnh cửu. Amen.
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, TN 17B-114
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác... Hôm nay xin được chia sẽ về bài học Tiết Kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều, được bốn Thánh chép Tin Mừng ghi lại cả trong bốn bản văn ( Mt 14, 13-21; Mc 6, 31-34; Lc 9, 10-17; Ga 6, 1-13 ). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều ( Mt 15, 32-38; Mc 8, 1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba Thánh Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” ( Mt 14, 20; Mc 6, 43; Lc 9, 17 ). Riêng Thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em ( hãy đi ) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” ( Ga 6, 1-12 ). “Họ liền đi thu những miếng thừa… và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” ( Mt 15, 37; Mc 8, 8 ).
Năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư ? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi” ?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” ( Mt 15, 32 ).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả, người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” ( ĐHV 814 ); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” ( ĐHV 816 ); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn được ? Tự nhiên có ai lên cung trăng được ? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” ( ĐHV 817 ).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là quy luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu:Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta. Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình. Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đắt tiền, trang bị cho mình điện thoại di động đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện… rất bình thường, nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào, số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài ), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con ( dù đúng cấp, đúng lớp của chúng ). Nhìn lại bìa thì thấy là của Bộ Giáo Dục và năm xuất bản, mới cách đó một hai năm mà thôi !
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước ?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4, mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu… rồi quyển cho giáo viên… tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không ?
“Năm nào, đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào, tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa… lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quý vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quý giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quý vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần, thanh niên có; đâu khó, có thanh niên. Thế nhưng, quý vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà-phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa, thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố, quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện ( Nguồn: dunglac.org ).
La Fontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè, chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về, gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó, dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Ý thức về tiết kiệm ( một hình thức của sống nghèo ) nói chung, còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được, nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền, nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung, không ai khóc, của chung, không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức ( như được phản ánh trên báo Tuổi Trẻ ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và… trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta, cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng ( giấy sang, in hai ba màu… ) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công Giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm, nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục ( muốn ăn lắm, nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh bị người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống… ). Tây phương thì khác. Họ giàu, nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống, chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món, càng sang, cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân Linh Mục, dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay, việc truyền chức Linh Mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không ? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng”… ! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống – Dòng Tu, Giáo Xứ, Địa Phận – thì người Giáo Dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân Linh Mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ, và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không ? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng Giáo Sĩ đối với Giáo Dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. ( Nguồn: nguoitinhuu.com ).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu. Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó, sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không sa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị, sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói phải ngồi ngoài cổng, còn bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh chị em của mình.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, còn các công viên và các bãi biển thì đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen ( Mana ).
Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con TN 17B-115
Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy ?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói !” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.
Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em ! Hãy đem thứ này về cho các em !” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.
Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đôla từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.
Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. ( Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu ).
Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.
Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương
Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều" ( Mc 6, 34 ). Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.
Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm
Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm" ( Ga 6, 5 ). Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi” ( Mc 6, 35-37 ).
Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai Thánh ghi chép Tin Mừng có khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.
Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại
“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" ( Ga 6, 9 ). Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.
Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu" ( Hs 6, 6 ). Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” ( Mt 9, 13 ).
“Kitô giáo là cho đi”. Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta” ( Mẹ Têrêsa Calcutta ).
Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” ( Ga 6, 11 ). Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai ( x. Mc 8, 1-10 ). Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta” ( Tv 103, 8-10 ).
Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể sau này. Các Tông Đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.
Chiếc bánh thứ năm: Công bình
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” ( Mt 5, 45 ).
Con cá thứ nhất: Thanh bần
Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.
“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng” ( Đường Hy Vọng, số 412 ).
Con cá thứ hai: Thiên Quốc
“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình" ( Ga 6, 15 ). Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.
Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" ( Ga 6, 26 ). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng, “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần” ( Rm 14, 17 ).
“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con” ( Đường Hy Vọng, số 824 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.
Nhu cầu vật chất cơm ăn áo mặc có lẽ là nhu cầu lớn nhất của con người, vì chưng đó là điều kiện tiên TN 17B-161
Nhu cầu vật chất cơm ăn áo mặc có lẽ là nhu cầu lớn nhất của con người, vì chưng đó là điều kiện tiên quyết khiến họ có thể tồn tại và phát triển mỗi ngày. Tuy đến thế gian, không vì mục đích lo cho con người cơm ăn áo mặc, nhưng Đức Giêsu vẫn hằng luôn quan tâm đến nhu cầu thiết yếu ấy của họ. Vì Ngài là một con người hoàn toàn theo bản tính nhân loại. Ngài dư hiểu những nhu cầu cần thiết ấy trong cuộc sống. Cả ngày giảng dạy dân chúng niềm tin, Đức Giêsu vẫn không quên lưu tâm đến nhu cầu vật chất của họ: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” ( Ga 6, 5 ).
Đức Giêsu biết mình sắp làm phép lạ để báo trước mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này, nhưng Ngài vẫn muốn có sự cộng tác của các môn đệ. Trước sư bất lực của các ông: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc cũng không đủ cho mỗi người một chút” ( Ga 6, 7 ). Dân chúng phải là đông rất đông cho nên mới cần đến lượng lương thực lớn như vậy. Thế mà chỉ vỏn vẹn có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá Đức Giêsu sai các môn đệ cho mọi người nằm ngả xuống. Ngài “Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho những người ngồi đó” ( Ga 6, 11 ).
Phép lạ luôn mang đến những điều kỳ diệu mà không ai có thể ngờ đến, không ai có thể làm được. Các tông đồ dường như bó tay, bỏ cuộc trước nhu cầu lớn lao của đám đông. Các ông đã hoàn toàn bất lực trước nhu cầu thực tế của họ. Chỉ một mình Đức Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể làm nên phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống dân chúng đông đảo trong cơn đói khát, cấp bách như vậy.
Phép lạ bằng của ăn vật chất chính là để báo trước của ăn linh hồn là Thánh Thể mà sau này Ngài sẽ thiết lập bằng chính Thịt Máu Ngài. Với nguồi lương thực bằng cá và bánh kia là những của ăn nay còn mai mất, ăn rồi sẽ lại cần ăn tiếp, và của ăn đấy chẳng thể cho họ no thỏa mãi. Nhưng của ăn Thánh Thể sẽ giúp cho con người có sự sống đời đời, họ sẽ không còn phải đói và khát nữa.
Ngày mỗi ngày qua đi, con người vẫn cứ phải miệt mài bôn ba vật lộn với cuộc sống để có được cơm ăn áo mặc. Con người phải lao động để tìm ra của ăn và Thiên Chúa đã cho họ khả năng đó. Vì miếng cơm manh áo mà nhân loại sẵn sàng chém giết sát hại lẫn nhau thay vì hy sinh chia sẻ cho nhau. Cái của ăn vật chất ấy cho dẫu quý giá và cần thiết thế nào cũng chỉ là của ăn vật chất có giá trị tạm bợ, còn của ăn tinh thần là chính Mình Máu Thánh Chúa, chính Lời Chúa mới là nguồn lương thực cần kíp quan trọng nhất giúp họ có sự sống trường sinh vĩnh cửu.
Được của ăn vật chất đã là quý giá, được của ăn linh hồn bất tử lại càng cao trọng hơn đến chừng nào. Vậy mà đau đớn thay, con người chỉ mải miết đi tìm cho mình của ăn vật chất. Họ bon chen, họ miệt mài, họ bôn ba, vật lộn ngày đêm với cuộc sống để có được của ăn nuôi sống phần xác. Thế nhưng không biết được mấy ai dám đánh đổi tất cả để có được của ăn nuôi sống phần hồn, chính là của ăn cho mình sự sống vĩnh cửu qua việc dâng Thánh Lễ, qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, qua việc loan báo Tin Mừng…
Lạy Chúa, con cứ vẫn hay lo buồn trước nhu cầu cơm ăn áo mặc, vì nó là phần thiết yếu giúp con tồn tại. Vì quá nô lệ vào nó đôi lúc con quên đi nguồn lương thực còn quan trọng cần thiết cho con hơn đến dường nào. Đó chính là nguồn lương thực cho con sự sống vĩnh cửu sau này.
Xin giúp con hiểu rằng của ăn vật chất cần thiết thật đấy nhưng dù sao cũng vẫn chỉ là tạm bợ. Dù đói nghèo thiếu thốn nó cũng không thể khiến con sống mãi, nhưng chỉ cần thiếu khát lương thực Lời Chúa, Thánh Thể Chúa, thì con sẽ bất hạnh đời đời.
Xin giúp con biết tín thác trọn vẹn vào Chúa, tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Ngài, để trong khi miệt mài lao động kiếm sống, con cũng biết miệt mài nuôi sống linh hồn mình bằng thần lương mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con. Nếu không hy vọng mình sẽ có được phép lạ bằng vật chất thì chí ít con cũng biết kỳ vọng Thiên Chúa sẽ làm phép lạ nuôi sống hồn con.
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được TN 17B-117
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gate, tỷ phú người Mỹ gốc Do Thái, người chuyên bán phần mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la. Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế ?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn" ( 2V 4, 42 ). Đầy tớ của người trả lời: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao ?" ( 2V 4, 43 ). Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Êlisê ra lệnh: "Cứ dọn cho dân chúng ăn " ( 2V 4, 44 ). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: "Cứ bảo người ta ngồi xuống"… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" ( Ga 6, 10-12 ).
Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ, đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu "Chạnh lòng thương" đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng: "Cứ dọn cho dân chúng ăn !" ( 2V 4, 42 )
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên Chúa tiếp tục yêu cầu chúng ta: "Cứ dọn cho dân chúng ăn !" ( 2V 4, 42 ) Chúa Giêsu không chấp nhận sự thoái thác khi nói: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao ?" ( 2V 4, 43 ) hay: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" (Ga 6, 9 ).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh ? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" ( Ga 6, 9 ). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm ( x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015 ).
Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. "Người cầm lấy cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" ( Ga 6, 11 ). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người: phục hồi sự sống, sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu ! Hết thảy mọi người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau.
Trong một lá thư Mục Vụ Mùa Chay của Đức cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ngài viết: "Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta". 5 chiếc bánh và hai con cá ấy là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người…" Ngài viết tiếp: "vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều, nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương..."
Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước.
Mở đầu trang Tin Mừng hôm nay, ta không lạ gì với đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu. Thánh TN 17B-118 VinhLong
Mở đầu trang Tin Mừng hôm nay, ta không lạ gì với đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu. Thánh Gioan cho ta biết: "Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật". (Ga 6, 2).
Cũng dễ hiểu cái đám đông đi theo Chúa vì họ đã thấy được phép lạ Người làm. Thế nhưng, đoạn cuối cuộc đời Chúa Giêsu, ta thấy đám dân đó bạc vô cùng.
Phàm con người là như vậy, cứ hễ thấy có cái gì là bu lại xem và tôn vinh nhưng sau đó không đáp ứng được nhu cầu, yêu cầu, đòi hỏi của họ là con người lại quay lưng lại với người mình đã từng gắn bó, từng mang ơn, từng đội ơn. Đó là tâm lý hết sức bình thường của con người.
Còn nhớ tiểu phẩm hết sức hài hước của anh chàng Dưa Leo. Anh chàng Dưa Leo có cái biệt tài là anh diễn hài độc thoại. Đơn giản để lấy nụ cười của người khác bằng câu chuyện vui là có ai nào đó đứng trên cầu Calmette bảo "cứu cứu cứu" là chắc chắn có đám đông xuất hiện và kẹt xe.
Chúa Giêsu không ra giữa cầu Calmette để thu hút dân chúng. Chúa Giêsu đã thu hút đám đông bằng Lời của Ngài cũng như những dấu lạ kèm theo Lời đó. Chúa muốn nói cho dân chúng biết rằng Ngài đến trong trần gian này như "một Đấng uy quyền" chứ không phải như một người bình thường.
Đấng uy quyền này đã được các ngôn sứ loan báo từ thời Cựu Ước. Ngay cả như Gioan Tẩy Giả cũng đã nói về Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong thế gian. Thế nhưng trong thực tế bao nhiêu người đã tin vào Con Người được Thiên Chúa gửi đến trần gian này.
Vở kịch về cuộc đời của Chúa Giêsu càng về cuối càng xem ra hấp dẫn. Và, có lẽ hấp dẫn nhất vẫn là cái đám đông dân chúng mà từ nọ nay đi theo Chúa.
Đoạn cuối Tin Mừng ngày hôm nay ta nhìn cái đám đông dân chúng đó rất hay ! Thánh Gioan ghi lại: "Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!"
Rõ ràng ! Lời của đám đông đó còn đó. Thế nhưng, đi xa hơn một bước nữa, ta có cái nhìn như thế nào về đám đông này. Giản đơn nhất, ta chịu khó mở ít trang Thánh Kinh nữa ta sẽ thấy được lòng dạ hay bộ mặt thật của cái đám đông này.
Cũng với cái đám đông này, trên con đường thương khó họ đã trở mặt hoàn toàn.
Biết lòng dạ của họ nên rồi Chúa Giêsu lại lánh ra một bên khi thấy họ muốn tôn mình làm vua. Tôn thì cũng được thôi nhưng cũng chỉ là miệng lưỡi thế gian mà trong khi đó Chúa lại quá biết rõ tâm tính của họ: "Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa Ta".
Thật vậy, nếu như lòng dân mà yêu Chúa thật sự thì họ đâu có hành xử theo cái kiểu mà ta thấy cách đây vài tuần trong trang Tin Mừng khi kể lại việc Chúa Giêsu về lại quê nhà ! Và nếu như yêu Chúa thật lòng, tôn vinh Chúa làm vua thật lòng thì đâu có nỡ lòng nào can tâm lại hô to "đóng đinh nó, đóng đinh nó vào thập giá".
Khi đọc trang Tin Mừng này, bản thân tôi nhìn thấy thấp thoáng hình bóng của ta trong cái đám đông ngày xưa đó. Đơn giản là nhiều lần nhiều lúc ta đi theo Chúa xem ra cũng mãnh liệt lắm, xem ra cũng nhiệt tình lắm nhưng ta chỉ đến với Chúa theo kiểu "xôi thịt", theo kiểu chỉ đi tìm cái lợi.
Cũng nhiều lần ta cũng đã tìm cách để tôn vinh Chúa bởi chứng kiến dấu lạ Chúa làm cho tôi nhưng rồi cũng bao nhiêu lần ta đã tìm cách loại trừ Chúa ra khỏi đời ta đó.
Nói với Chúa, nói về Chúa thì hơi xa, chỉ nhìn lại cung cách ta sống với anh chị em đồng loại ta sẽ thấy rõ khuôn mặt của ta hơn. Ta cũng đã bao nhiêu lần tôn vinh, tâng bốc, nịnh bợ, a dua những ai làm lợi cho ta và rồi sau đó ta ngoảnh mặt quay lưng với họ.
Có người đùa với những người sống theo cung cách "vắt chanh bỏ vỏ", "ăn cháo đái bát" như thế là chơi game khó, là chơi môn thể thao khó. Môn đó, người ta vẫn thường đùa với nhau là "qua cầu rút ván".
Nhiều lần nhiều lúc nhìn lại cuộc đời, ta cảm thấy buồn cười vì biết bao nhiêu người đã đi qua đời ta, khi ta thành công, khi ta có điều kiện để chia sẻ thì quá nhiều người đến với ta. Khi ta thấy bại, khi tuổi về chiều có mấy ai còn nhớ đến ta hay nghĩ đến ta. Tất cả đều ta đi, chỉ còn mình ta ở lại cô đơn lặng lẽ.
Khi còn tiền còn bạc mà nhớ đến nhau là lẽ thường, ta cần đến và ở lại với nhau khi chẳng còn gì, khi chỉ còn 2 bàn tay trắng khi đó ta mới quân bình trong lối nghĩ và cách sống.
Khi ta mất quân bình trong nhân cách, trong nhân bản thì ta sẽ hành xử như thế với anh chị em đồng loại và với Chúa. Khi ta chỉ biết mình ta chứ không có cảm thức về anh chị em đồng loại cũng như không biết quan tâm đến người khác ta sẽ hành xử như thế.
Hình ảnh của đám đông dân chúng hôm nay cũng là hình ảnh nhắc nhớ về cách sống của chúng ta với Chúa cũng như anh chị em đồng loại. Đừng chỉ vì vài miếng ăn, đừng chỉ vì cái lợi về vật chất mà tung hô tán thưởng nhau và sau khi "còn tiền còn bạc còn ân nghĩa, hết tiền hết bạc hết thầy tôi" như người ta thường nói.
Ngày hôm nay, khi nhìn đám đông dân chúng chỉ tôn vinh Chúa bằng môi bằng miệng ta lại nhắc nhớ ta. Ta có đến với Chúa để đi tìm những mối lợi xem ra là vặt vãnh, là cỏn con hay không ? Ta đến với Chúa ta tìm gì ? Ta tìm ơn cứu độ hay ta chỉ đi tìm vài dấu lạ thỏa mãn tính tò mò cũng như lòng tham của ta.
Chúa đến trần gian này để mang ơn cứu độ, để đem ơn cứu độ đến cho trần gian, cho chúng ta chứ không phải đến để làm vài ba cái chuyện làm thỏa mãn con người xác thịt của ta. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ta đi tìm Chúa vì ơn cứu độ chứ không phải vì những thứ hay hư nát. Và, xin cho ta tôn vinh Chúa là vua thật của đời ta.
Xin Chúa cho ta đừng có bạc với Chúa cũng như đừng có bạc với anh chị em đồng loại như đám đông dân chúng ngày xưa đã từng theo Chúa và cũng đã từng bạc với Chúa.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra lòng nhân từ của Chúa.Bởi vì, Chúa không chỉ là TN 17B-119 Dalat
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra lòng nhân từ của Chúa.Bởi vì, Chúa không chỉ là một người chỉ sống trên cao, sống trên mây trên gió, không thực tế…nhưng trên hết Ngài rất hiểu rõ con người, quan tâm đến con người, gần gũi với mọi người. Ngài không chỉ có nói nhưng Ngài đã chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ, làm cho người chết sống lại và quan tâm đến cả sự sống vật chất của con người. Tin Mừng của thánh Gioan 6, 1-15 và hai bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu rõ tình thương của Chúa đối với đám đông…
Khi Chúa kết nạp các tông đồ để các ngài được ở bên Chúa, học hỏi những điều tốt đẹp nơi Chúa, chứng kiến Chúa làm phép lạ, xua trừ ma quỷ,chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, làm cho người chết sống lại vv…,các tông đồ đã nhận ra lòng yêu thương, nhân từ của Chúa. Các ngài đã cảm nhận được nỗi thống khổ của Chúa: cái khát bên bờ giếng, sự thiếu thốn không gối tựa đầu, không nhà không cửa, cái lạnh lẽo của những đêm ngủ ngoài trời. Chúa hiểu rõ con người có xác có hồn. Cái đói của con người, cái khát của con người cũng là cái khát, cái đói Chúa đã cảm nghiệm…Do đó, Chúa chạnh lòng xót thương khi thấy đám đông dân chúng kiên trì đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy…Chúa thấu hiểu sự vui mừng của đám đông, nhưng bụng họ đang đói.Ngài không an tâm, Chúa muốn tặng ban, khoản đãi đám đông bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, bữa ăn tràn đầy niềm vui, bữa ăn ngồi trên thảm cỏ xanh, bữa ăn tập thể, bữa ăn ngoài trời. Chúa gợi ý cho các tông đồ:” Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” ( Ga 6, 5 ). Chúa làm cho các tông đồ phải suy nghĩ và giúp họ nhận ra sự bất lực của họ. Chúa muốn các tông đồ cộng tác với Chúa. Thực tế, Chúa muốn thử các ông thôi, chứ Chúa đã biết mình sắp làm gì rồi ? ( Ga 6, 6 ). Con người bất lực, Chúa tỏ uy quyền và vinh quang của Người ! Chỉ với năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, Chúa tỏ quyền năng của Người để nuôi sống nhiều ngàn người ăn no nê, mà còn thu được mười hai thúng miếng thừa…Thật lạ lùng, thật kỳ diệu ! Chúa đã làm phép lạ để nuôi sống đám đông gồm đàn ông, đàn bà và con nít: đám đông này có thể lên đến hơn chục ngàn người.
Vâng, ngày nay trên thế giới, còn nhiều đám đông vẫn đang đói: đói thể xác, đói tinh thần. Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Phi vẫn còn hạn chế rất nhiều về lương thực, vật chất. Tài nguyên thiên nhiên phân phối không đồng đều. Tuy nhiên, vẫn có những tấm lòng quảng đại, vẫn có những tấm lòng vàng, biết chia cơm xẻ áo…biết hy sinh, xả kỷ. Nhiều nước lớn vẫn giúp lương thực cho các nước nghèo vv…Nhiều nhóm thiện nguyện đã bắt tay vào cuộc. Tất cả dù chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nhiều tấm lòng quảng đại đã bắt tay cứu giúp và như một phép lạ, nhiều người đã được cứu vớt vv…Tất cả những việc giúp thăng tiến con người, giúp con người có miếng cơm, manh áo, no bụng, ấm lòng, đều hướng con người đến giá trị thiêng liêng.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Ngài luôn muốn con người có cơm ăn áo mặc. Ngài ban cho con người trái đất với những tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhưng tại sao vẫn còn có người đói nghèo ? Chúa không bao giờ muốn bần cùng hóa con người. Chúa không bao giờ bất công với con người. Sở dĩ có sự bất công là do lòng con người, là do con người không dám chia sẻ, không dám cho người khác, không muốn giúp đỡ người khác dù là của dư thừa của mình. Chúng ta phải luôn có tấm lòng xót thương như Chúa:” Anh em hãy cho họ ăn “. Hãy quảng đại, hãy hy sinh, cho đi hơn là nhận lãnh. Hãy trở nên những Phanxicô khó khăn, hãy trở nên những Têrêsa Calcutta, những bác sĩ không biên giới vv…
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới để chúng con biết quảng đại, hy sinh, biết chia sẻ hơn là lãnh nhận, xin cho chúng con một tấm lòng như Chúa, luôn biết chạnh thương mọi người. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá là của ai ? 2.Tại sao Chúa lại cần sự cộng tác của con người ? 3.Phép lạ này xẩy ra ở đâu ? 4.Đám đông theo Chúa để làm gì ? 5.Chúa nói với các tông đồ điều gì ?
Hiểu theo ý nghĩa phép lạ nói chung, mọi phép lạ Chúa Giê-su làm đều dành cho mọi người chúng ta TN 17B-120
Hiểu theo ý nghĩa phép lạ nói chung, mọi phép lạ Chúa Giê-su làm đều dành cho mọi người chúng ta, vì sứ mệnh chữa lành của Chúa là cho kẻ câm được nói, kẻ què được đi, kẻ mù được thấy… Chúa chữa lành không những bệnh tật phần xác, mà cả những đau yếu thiêng liêng nữa. Tuy nhiên, với bối cảnh đặc biệt và ý nghĩa của phép lạ hôm nay, việc Chúa Giê-su khiến cho bánh và cá hóa nhiều làm lương thực nuôi dân chúng liên hệ đến sự sống còn của chúng ta, sự sống đời này và nhất là sự sống đời sau.
Trước hết, thánh sử Gio-an cho chúng ta một bối cảnh khá quan trọng, là “Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm”. Phải, đám dân chúng được thấy những phép lạ chữa lành Chúa làm cho người khác, nhưng chính họ lại không nghĩ tới một phép lạ cần thiết cho sự sống còn của mình! Dù vậy, họ không cần phải kêu xin Chúa, bởi ngay cả trước khi họ cầu xin, chính Người đã “ngước mắt lên, nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình” thì chạnh lòng thương vì họ đang đói. Là Thiên Chúa, Người biết chúng ta cần gì và Người biết “mình sắp làm gì rồi”. Cả một đám đông dân chúng đang đói. Chúa Giê-su hỏi ông Phi-líp-phê một câu hỏi không thể trả lời chỉ là để nói lên một chân lý: sự sống của chúng ta, dù thể chất hay thiêng liêng, đều hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Theo tính toán của ông Phi-líp-phê, hai trăm quan tiền của loài người dùng để mua bánh cho dân chúng cũng không đủ. Thế mà chỉ có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá khô được Chúa Giê-su cầm lấy, dâng lời tạ ơn, thì lại giúp cho mọi người no nê và còn thu lại những miếng thừa được mười hai thúng! Cho nên nếu Chúa “rút hơi thở là chúng (ta) sẽ chết ngay”, và trong bài giảng tiếp theo phép lạ, Người khẳng định: “Ai không ăn thịt tôi và uống máu tôi, sẽ không được sống đời đời”.
Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến tình yêu quan phòng của Chúa Cha. Người dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho sự sống đời này, nhưng trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời. Hôm nay, sau khi làm phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều, Chúa Giê-su cũng lại nhấn mạnh đến sự sống được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Người, tức là sự sống Người muốn chia sẻ với chúng ta qua Lời Chúa và Thánh Thể. Sự sống thiêng liêng của chúng ta được dưỡng nuôi và phát triển là nhờ “ăn” Mình và “uống” Máu Chúa, nói khác đi là kết hợp hoàn toàn với Người, để nhờ sự kết hợp ấy chúng ta được “đồng hình đồng dạng” với Chúa Ki-tô. Phép lạ bánh và cá hóa nhiều luôn nhắc nhở chúng ta về nhu cầu quan trọng nhất của chúng ta là lương thực thiêng liêng. Sự sống thiêng liêng của chúng ta đang khi sống tạm trên trần gian này chuẩn bị cho một cuộc sống vĩnh cửu với Chúa ở đời sau. Được hạnh phúc đời đời bên Chúa là mục đích của mọi người chúng ta, cho nên chúng ta mới có thể nói phép lạ bánh và cá hóa nhiều là phép lạ dành cho mọi người. Giống như dân Do-thái đã ăn bánh và cá để có thể tiếp tục đi theo Chúa và nghe Người giảng dạy, chúng ta hết thảy được mời gọi đến lãnh nhận Mình Máu Chúa để có thể tiếp tục hành trình đức tin của chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều, dân Do-thái muốn “bắt Chúa Giê-su đem đi mà tôn làm vua”, nhưng Chúa lánh mặt và lên núi cầu nguyện. Rõ ràng ở đây Chúa muốn quan tâm đến đời sống thiêng liêng của chúng ta, chứ không muốn làm một ông vua trần gian đem lại cơm no áo ấm cho con dân của mình. Người muốn làm Đấng Chăn Chiên nhân lành, luôn ngước mắt lên để nhận ra những nhu cầu thiêng liêng của chúng ta. Hạnh phúc đời sau là điều Chúa mong mỏi hết thảy chúng ta đạt được. Vì thế Người tiếp tục phép lạ bánh hóa nhiều trong Thánh lễ và mời gọi chúng ta hãy đến lãnh nhận Bánh hằng sống.
Vậy chúng ta hãy cảm tạ lòng yêu thương của Chúa Giê-su đã lo lắng chăm sóc chúng ta như Người đã chăm sóc cho dân chúng đi theo Người! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một TN 17B-121
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa” ở đó, Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta, bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ bánh hóa nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lét-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su nuôi đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
Thời kỳ đói kém:
“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố nầy không phải là chuyện hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lét-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-on này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hoặc “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa danh nơi biến cố xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.
Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ không giữ riêng cho mình, nhưng liền chia sẻ ngay quà biếu này với những người túng thiếu và quà tặng nầy sẽ hóa nhiều. Qua tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bài tường thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch.
-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
-Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng nầy, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
-Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “Bánh Trường Sinh”: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời mở đầu thư rất tổng quát: “Kính gởi các thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô”, khiến nhiều nhà chú giải nghĩ rằng bức thư nầy không chỉ viết riêng cho cộng đoàn Ê-phê-xô, nhưng nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
“Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
Ơn gọi làm người Ki tô hữu:
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại; hãy lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
Lời tuyên xưng đức tin:
Đoạn, trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.
Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng Lời Hằng Sống của Ngài, và tiếp đó bằng phép lạ “hóa bánh ra nhiều”. Cả hai đều báo trước “bàn tiệc Thánh Thể”.
Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dỡ của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
Như vậy, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
Nơi chốn:
Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký thuật lại; thêm nữa, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái, và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Quả thật, phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, Ngài không chỉ chăm lo dân Do thái mà cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài tường thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê”. Trong bài tường thuật trước, Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, đoạn Ngài trở về miền Ga-li-lê, sau đó, Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng từ đâu mà Ngài đến đây? Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-xai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ hồ: “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của phép lạ hóa bánh ra nhiều, vân vân.
Thời điểm:
“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái”. Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Ngài trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, ở đó một phép lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, bàn tiệc Thánh Thể.
Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông nầy để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê. Nhờ Tin Mừng Gioan chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một con người rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối tương quan thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều nầy, vấn nạn Đức Giê-su đặt ra cho ông: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một thực trạng: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất để giải quyết vấn đề.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ để thử ông. Ngài muốn ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phí-líp-phê tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền công của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, ông Phí-líp-phê nhận ra rằng về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách như vậy.
Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:
Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lét-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô gợi ra điều nầy. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:
Không ai có thể phủ nhận rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là hóa nhiều thân thể vinh quang của Đức Ki-tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
Phản ứng của dân chúng:
Phấn khởi trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”. Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng nầy của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô, chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ hóa bánh ra nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều” (Mc 6: 52).
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi hồn xác. TN 17B-122
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi hồn xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói:”Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Phép lạ của tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 cũng nói lên điều đó. Phép lạ làm cho bánh hoá nhiều trong bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyền năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của đoàn dân chúng đi theo Ngài cả ngày. Ngài ban cho họ lương thực phần xác nhưng cũng ban cho họ luơng thực phần hồn là những lời dạy dỗ của Ngài và nhắc nhở họ hãy tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta nhiều điều. Ngài kêu gọi chúng ta hãy cộng tác với Ngài trong việc phục vụ con người. Tuy việc cộng tác của chúng ta chỉ nhỏ nhoi như 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng với ngần ấy vật liệu rất nhỏ mọn, Ngài làm nên một phép lạ lớn lao: nuôi sống 5000 người đàn ông ăn no nê, còn thu lượm được 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Ngài còn dạy chúng ta phải biết chia sẻ cho nhau những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban, chúng ta đừng giữ lấy cho riêng mình. Sau cùng, Đức Giêsu khuyên chúng ta phải chú trọng đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn là Lời Chúa và phép Thánh Thể. Nhu cầu thiêng liêng phải vượt lên trên nhu cầu vật chất:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2V 4,42-44.
Trích đoạn sách Các Vua trùng hợp với bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lúc ấy tại Israel xẩy ra nạn đói, tiên tri Êlisê làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hoá ra nhiều cho 100 người ăn no nê mà vẫn còn dư. Phép lạ này minh chứng cho lòng tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, Đấng ban phát của ăn cho mọi người. Bánh ăn vẫn còn dư nói lên lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa, đồng thời cũng nói lên tính cách dư dật của bữa ăn “thời cuối cùng” dành cho những người nghèo của Thiên Chúa (Is 65,13).
+ Bài đọc 2: Ep 4,1-6.
Đọc những dòng này, chúng ta có thể đoán được các tín hữu ở Êphêsô đang chia rẽ nhau. Tuy đang ngồi trong tù, thánh Phaolô rất băn khoăn lo lắng cho họ nên đã viết thư khuyên họ hãy sống hoà thuận hiệp nhất với nhau, hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Theo Ngài, phương cách chữa trị sự chia rẽ đó là sống bác ái đối với nhau, chịu đựng lẫn nhau trong sự khiêm tốn, nhẫn nại và hiền hoà.
Sự hiệp nhất mà thánh Phaolô muốn họ xây dựng đã có sẵn, đó là sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại. Hay nói chính xác hơn, đó là sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp nhất chỉ tồn tại trong sự đa dạng triệt để của các Ngôi Vị.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,1-15.
Chạnh lòng thương đoàn dân đã theo Ngài tự bên kia Biển hồ Tibériade, Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá cho 5000 người đàn ông ăn no, còn dư lại 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Đây là phép lạ duy nhất được bốn tác giả sách Tin mừng thuật lại. Trong trình thuật này, thánh Gioan không chú ý đến biến cố cho bằng nói lên ý nghĩa của nó. Phép lạ này gợi lên hình ảnh Manna trong sa mạc, một thứ bánh vật chất mau hư nát, còn thứ bánh mà Đức Giêsu ban cho là một thứ manna mới ban sự sống trường sinh. Có nhiều chi tiết trong phép lạ này báo trước về phép Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ lập. Quả vậy, vài ngày sau phép lạ này, trong bài giảng thuyết về bánh sự sống, Ngài tuyên bố là Ngài sẽ ban thịt mình cho người ta ăn và máu Ngài cho người ta uống:”Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Các con hãy cho họ ăn.
PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU.
Đức Giêsu làm phép lạ.
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một chút sau cuộc truyền giáo đã thấm mệt, đồng thời Thầy trò trao đổi với nhau về công việc vừa qua, nhưng không thể được vì dân chúng kéo đến quá đông, khiến các Ngài không có thời giờ ăn uống. Đức Giêsu muốn đem các ông đến nơi thanh vắng để Thầy trò nghỉ ngơi và chỉ dẫn thêm cho các ông.
Nhưng vừa đến nơi thì dân chúng đã đến trước. Ngài chạnh lòng thương họ, bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ họ. Mà vì đây là nơi rừng vắng, nên dân chúng không tìm được thức ăn. Ngài thương họ đang đói khát nên làm phép lạ cho bánh hóa nhiều. Phép lạ này được kể trong thánh Marcô song Phụng vụ hôm nay mượn ở thánh Gioan.
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành.. Đám môn đệ giờ đây cũng mệt nhoài không hơn gì họ. Thế mà Đức Giêsu lại bảo các Tông đồ hãy cho họ ăn. Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn, giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông , không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn.
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
Sứ điệp Đức Giêsu gửi đến cho ta.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn mà Đức Giêsu muốn gửi cho chúng ta qua phép lạ này.
a) Tiên báo phép Thánh Thể.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi 5000 người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các” cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
b) Tình thương và quyền năng của Đức Giêsu.
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều của Tin mừng Gioan hôm nay – cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin mừng khác – đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay, thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Êlisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với tiên tri Êlisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng:”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Vietcatholic)
c) Tin vào Chúa quan phòng.
Theo sách Sáng thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý. Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn đdịa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng, phải làm việc cực nhọc mới có của ăn, nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn.
Vì thế, ta thấy tư tưởng này được viết trong sách Kinh Thư mà các dân tộc Đông phương vẫn tin tưởng:”Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc”: Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban cho. Thánh vịnh cũng có câu:”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”(Tv 144,16).
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa . Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì chỉ trong năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt.
BÀI HỌC CHÚA DẠY CHÚNG TA.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều có mục đích thoả mãn cơn đói khát vật chất của đám dân chúng đi theo Chúa cả một ngày đàng, nhưng còn hơn thế nữa, phép lạ này còn đem lại cho chúng ta nhiều bài học thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
Cộng tác vào công trình của Chúa.
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh, nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc . Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu:”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”.
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết:”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Truyện: Mẹ Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng:”Ta phải làm điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng. …
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước ( Theo M. Link).
Cộng tác bằng việc làm cụ thể.
Lòng thương cảm là một tình cảm tốt. Nhưng thương cảm suông thì chưa có giá trị, chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng thương cảm nhiều khi trở thành hình thức hay giả dối, như người ta thường nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương, Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
Lòng cảm thương ấy cũng có, nhưng số người ra tay hành động vì lòng thương cảm lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu phương tiện. Các Tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói:”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu, và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Truyện: Thánh Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp mọt số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
Phải tiết kiệm những của Chúa ban.
Đức Giêsu đã nói:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận : Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban khi Ngài nói:”Tất cả là hồng ân”. Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy. Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các võ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy (Flor MacCarthy).
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú qúi. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào việc với niềm tin: dù chi với “năm chiếc bánh và 2 con cá”, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Ngài sẽ biến đổi khuôn mặt thế giới nên nhân bản hơn, Ngài sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tốt tươi hơn.
Phải tìm của ăn thiêng liêng.
Khi ma qủi đến cám dỗ Đức Giêsu đang chay tịnh trong bốn mươi ngày, Ngài đã trả lời cho hắn:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4). Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng.
Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần , nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất. Tuy người ta chê người lười biếng không chịu làm việc, nhưng cũng nói lên rằng: ăn ngon ngủ kỹ cũng chưa đủ mà còn phải có nhu cầu giải trí nữa:
Ăn no rồi lại nằm quèo,
Thấy giục trống chèo, bế bụng đi chơi.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển. Linh hồn có một nguồn lương thực dồi dào và không bao giờ cạn kiệt, đó là Lời Chúa và Thánh Thể:
– Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Lc 4,4).
– Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,54-55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh lễ Misa. Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ , Chúa ban cho chúng ta được dồi dào sự sống trong hai nguồn sống ấy.
Thánh lễ được chia ra hai phần:
– Phụng vụ lời Chúa: Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời:”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống”(Ga 6,63).
– Phụng vụ Thánh Thể: Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta . Chúa thiết tha mời gọi:”Các con hãy nhận lấy mà ăn… Các con hãy nhận lấy mà uống”(Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).
Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Igatiô Loyola yêu chuộng:
“Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa”(M. Link).
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải TN 17B-123
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.
Cái đói trong phận người
Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.
Khi mang thân phận làm người, Đức Giêsu cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn: Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.
Sự cộng tác của con người.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giêsu, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.
Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giêsu đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn ‘Confessio’, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.
Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giêsu và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide-toi, le ciel t’aidera).
Chúa cũng đã nói với Phaolô: “Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh và cá lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.
Chúng con hãy cho họ ăn.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở: “Ta khát”. Đức Giêsu ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
Kết luận: Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng: “Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.
Người ta nói rằng: cuộc đời ngắn lắm. Hãy trao cho nhau tình yêu khi có thể. Hãy sống trọn tình TN 17B-124
Người ta nói rằng: cuộc đời ngắn lắm. Hãy trao cho nhau tình yêu khi có thể. Hãy sống trọn tình yêu thương với tha nhân. Đừng để thời gian trôi qua mới nuối tiếc vì mình đã không sống tròn hai chữ yêu thương.
Có người nghĩ rằng tôi còn nghèo, còn phải bòn nhặt từng đồng lấy đâu ra của cải để cho tha nhân. Có người thì bảo rằng: tôi quá bận rộn với việc mưu sinh lấy đâu ra thời giờ dành cho tha nhân. Con người thường loay hoay cho bản thân nên bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân.
Thực ra trong tình yêu thương đâu cần làm những chuyện vĩ đại. Một nụ cười nhân ái. Một cái bắt tay thân ái. Một ánh mắt nhìn cảm thông là chúng ta cũng đang cho nhau tình yêu. Nếu có tình yêu thì người ta luôn vun quén từng nghĩa cử, từng khoảnh khắc để bày tỏ tình yêu. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được Nước Trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Nhưng đáng tiếc vẫn còn đó biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giê-su Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen
Phúc Âm đọc trong lễ Chúa Nhật năm B thường trích từ thánh Marcô. Tuần này và bốn Chúa Nhật TN 17B-125
Phúc Âm đọc trong lễ Chúa Nhật năm B thường trích từ thánh Marcô. Tuần này và bốn Chúa Nhật kế tiếp có sự thay đổi đột ngột. Chúng ta nghe đọc Phúc Âm thánh Gioan, chương sáu, nói về Đức Kitô, Đấng ban Bánh Hằng Sống, là chính Máu và Thịt Ngài làm của ăn nuôi linh hồn ta. Bánh Hằng Sống vì Đức Kitô phán
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời Gn 6,51
Chỉ có hai con cá và năm cái bánh, Đức Kitô làm phép lạ, dư bánh nuôi năm ngàn người. Phép lạ nuôi đám đông còn huyền diệu hơn, trường cửu hơn, khi Ngài dùng chính Mình và Máu Thánh Ngài để nuôi muôn dân. Không phải một lần mà nhiều lần, vô tận. Mình, Máu Chúa ban không giới hạn thời gian, kéo dài từ đời nọ đến đời kia, thế hệ này sang thế hệ nọ. Vô tận. Bao lâu còn người kêu cầu Danh Thánh dâng lễ tế; bấy lâu còn Mình Máu Thánh.
Tất cả vì yêu
Đức Kitô ban bánh hằng sống vì Ngài yêu ta. Tình yêu Ngài không chỉ giới hạn riêng cho linh hồn. Tình yêu Ngài thể hiện tài tình qua các phép lạ chữa lành bệnh thân xác. Ngài diễn tả tình yêu cao vời bằng nhiều cách, vượt thời gian, không gian. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm, lời giảng cũng như phép lạ đều phục vụ một mục đích duy nhất. Diễn tả tình Chúa yêu ta.
Đức Kitô xuống thế nhận thân phận làm người, chung sống với nhân loại. Sống gần kề con người. Ngài đến để cảm thông nỗi đau khổ, vất vả của con người và mở đường dẫn con người về cùng Chúa Cha, Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng.
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Gn 14,6
Là con người, Đức Kitô trải qua vui buồn, sướng, khổ như chúng ta. Qua kinh nghiệm bản thân, Ngài an ủi kẻ sầu khổ, hạnh phúc cho kẻ bất an, hy vọng cho người tuyệt vọng. Kẻ mù mừng vui thấy ánh sáng, vẻ đẹp thiên nhiên của Đấng Hóa công. Ngài chữa lành mọi ốm đau, bệnh tật. Người điếc reo hò chân nhảy điệu nhạc vui. Kẻ câm cất tiếng hát vang lời cảm tạ. Người què vất nạng xó bếp, chân bước đều, đồng hành cùng mọi người. Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa cao vời, vượt trên trí hiểu biết con người. Khôn ngoan, trí óc tưởng tượng không nổi, nói chi đến giải thích, phân tích. Để tạm hiểu tình yêu Chúa, có một cách duy nhất: dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Ngoài cách này ra, không còn cách nào khác.
Tình yêu cao vời
Ngoài cách diễn tả tình yêu gần gũi, bình thường như chữa bệnh, và các dấu lạ. Đức Kitô còn diễn tả tình yêu Chúa một cách lạ thường. Ngài cho người chết sống lại. Ban ơn tha tội cho những ai thống hối. Bênh vực kẻ nghèo hèn. Ngài xin Chúa Cha coi sóc và thánh hiến kẻ tin vào Ngài. Xin Chúa Cha tha cho kẻ phản bội, giết Ngài. Ban ơn tha thứ cho kẻ trộm ăn năn, thống hối. Vì yêu ta Đức Kitô hi sinh chết thay cho ta đuợc sống. Thánh Phaolô nói chết thay cho người công chính đã hiếm, Chúa chết thay cho kẻ tội lỗi, còn ban Bí Tích nâng đỡ, ban ân sủng, sức mạnh giúp người đó an tâm trở về.
Cao vời khôn ví
Ngoài trí tưởng tượng của ta. Tình Chúa cao vời khôn ví. Chúa lập phép Thánh Thể, hiện diện trong hình bánh nhỏ, trong giọt rượu nho, trong lời kinh, để gần người yêu.
Tình Ngài bất biến
Ngoài mối tình gia đình. Chúng ta yêu nhau có điều kiện, hoặc là hợp tính nết, cùng lứa tuổi, chung sở thích, gặp nhau do cách nói chuyện, thân thiết vì cùng kiến thức. Tình Chúa yêu ta không thay đổi theo thời gian. Trước sau luôn như một. Từ muôn thuở Chúa đã yêu ta bằng mối tình yêu không biên giới. Vì yêu mà chúng ta có mặt trên đời. Vì yêu Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Vì yêu Chúa không chọn người đẹp; chê người xấu. Chúa đón nhận và mong mỏi ngự vào mọi tấm lòng. Dù tấm lòng đó luôn thay đổi lúc trắng, lúc đen. Khi trung thành, lúc bất trung. Khi thương mến, lúc giận hờn. Khi sốt sắng đón chào, lúc khác lại xua đuổi. Lúc đuổi Ngài lúc đuổi anh chị em Kitô hữu tôn thờ Ngài. Đức Kitô đón nhận mọi tâm hồn khi tâm hồn đó có dấu chỉ thống hối. Tất cả vì Chúa yêu ta.
Phép lạ bánh ít hoá nhiều, con người xịa của, ăn dư vất đầy sân cỏ. Các môn đệ thu được mười hai thúng đầy. Ngày nay, trong một số trường hợp, người ta vẫn đối xử với Chúa như miếng bánh rơi sân cỏ năm xưa. Đón nhận Mình Máu Thánh một cách ơ hờ, thiếu chuẩn bị, thất kính. Chúa không chấp, vẫn một mực yêu thương. Nếu có thất kính là bất kính với người đồng đạo hơn là bất kính với Chúa. Tự hào
Con người tự hào vì biết vẽ chân dung để nhớ lại người thân quá cố. Tài giỏi hơn nữa là chế tạo máy chụp chân dung người thân, lộng kiếng treo trong phòng. Tân tiến hơn là quay hình ảnh sống động các sinh hoạt của từng người, trong các biến cố cuộc sống. Tất cả đều là những hình ảnh không cảm giác, không sự sống. Tương lai còn chế tạo những gì chưa ai rõ. Điều rõ ràng, chắc chắn là trước khi con người biết vẽ, chế tạo máy chụp hình lưu niệm và máy quay phim hình ảnh di chuyển. Thiên Chúa, ngay lúc khởi nguyên, đã đi trước con người hàng triệu thế kỉ. Ngài sáng chế ra hình ảnh sống động, biết cảm xúc, biết yêu thương. Đó là sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Chúa tạo dựng ta theo hình ảnh Chúa để qua ta Chúa nhìn thấy chính Chúa.
Xin ban ơn giúp con nhìn ra chân dung Chúa nơi mọi người.
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc-kệ-nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những TN 17B-126
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc-kệ-nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những đau thương khốn khổ của người khác, không quan tâm đến lợi ích chung) là một thói xấu tai hại đang lan rộng trên quê hương đất nước chúng ta.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm và tham lam, người sản xuất thực phẩm độc hại chỉ cần biết thu lãi thật nhiều cho mình mà không thiết gì đến sức khoẻ người tiêu dùng.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm, tham lam… nhiều người sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng hoặc độc hại để hốt tiền, bất chấp sinh mạng và sự thiệt hại lớn lao của người khác.
Thói vô cảm cực kỳ tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức, làm đất nước suy yếu, gây thiệt thòi, mất mát đau thương cho nhiều người… Thói xấu tai hại nầy hoàn toàn trái ngược với chủ trương sống yêu thương phục vụ của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Ngài đã hạ mình xuống thế để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống để cứu rỗi muôn người.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Lc 7, 22).
Qua Tin mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc người khác. Ngài không dừng lại ở việc rao giảng Tin mừng mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta quan tâm giúp ích cho người khác
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là trách nhiệm chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Ngài ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê tham gia: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! “
Thế là em bé nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Ngài đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Khi bụng đói cồn cào thì chẳng có gì cần hơn cơm bánh. Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.
Nhờ có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy.”
Thế rồi, điều tuyệt vời là đang khi mỗi người chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả 5.000 người ăn không hết còn dư lại cả 12 thúng đầy!
Xây dựng xã hội lành mạnh và phát triển là điều kiện tiên quyết để mỗi người được hạnh phúc
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại. Trái lại, khi toàn thân khỏe mạnh thì mỗi một tế bào trong cơ thể cũng được hưởng nhờ. Vì thế, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình… là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đến trần gian hiến trọn đời mình để mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Chúa không chỉ cứu rỗi linh hồn con người mà thôi, nhưng còn nỗ lực xây dựng một thế giới lành mạnh, hạnh phúc ngay trên mặt đất bằng cách cổ võ mọi người dấn thân phục vụ, yêu thương.
Xin dạy chúng con xa lánh thói vô cảm đang dần dần tàn phá xã hội; trái lại, biết noi gương Chúa Giê-su hiến thân đem lại phúc lợi cho anh chị em chung quanh mình.
Thánh Augustinô đã kể lại câu chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống tại Milanô TN 17B-127
Thánh Augustinô đã kể lại câu chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống tại Milanô, nước Ý như sau:
Ngày kia, một người nghèo lượm được cái ví trong đó có 200 đồng tiền vàng. Vì là người ngay thẳng, ông muốn trả cái ví cho người đã đánh rơi, nhưng không biết tìm đâu ra chủ cái ví tiền. Ông ta liền viết một tấm bảng treo trước cửa nhà, mời ai mất ví đến nhận lại. Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến xin nhận lại của đánh rơi.
Sau khi tra hỏi kỹ lưỡng, người nghèo kia trả lại cái ví cho chủ nó. Người mất ví cám ơn rối rít và ngỏ ý tặng cho người nghèo kia 20 đồng vàng, tức 1/10 số tiền trong ví. Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món tiền ấy. Người mất ví liền xin ông ta nhận 10 đồng, nhưng ông cũng không nhận. Cuối cùng, người mất ví nài nỉ ông ta nhận cho 5 đồng, người nghèo kia vẫn một mực từ chối.
Khổ tâm vì không thể biểu lộ lòng biết ơn của mình, người mất của ném cái ví xuống đất và nói: “Bởi vì ông không chịu nhận đồng nào, nên tôi tuyên bố: tôi không hề mất chiếc ví này”.
Nghe thế, người nghèo kia đành nhận món quà, nhưng ngay lập tức, ông đem số tiền chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông.
Quả là một câu chuyện thật đẹp về tấm lòng quảng đại ! Cả hai nhân vật trong câu chuyện đều không chịu thua lòng quảng đại của nhau. Lòng quảng đại luôn làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và đáng sống. Tuy nhiên, với bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, lòng quảng đại còn góp phần làm nên cả một phép lạ ! Vì thế, ta có thể gọi “phép lạ hóa bánh ra nhiều” chính là phép lạ của lòng quảng đại.
Những tấm lòng quảng đại
Trước hết, đó là tấm lòng quảng đại của Chúa Giêsu: Ngài đã chạnh lòng thương xót đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không có chủ chăn. Chúa đã nhìn thấy sự đói khát của họ. Không những họ đói khát tinh thần, tức đói khát lời Chúa, nhưng họ còn đói khát thể lý, tức đói khát cơm bánh.
Với cái đói tinh thần của dân chúng, Chúa Giêsu đã ban cho họ lời Hằng Sống. Và với tấm lòng quảng đại thật sâu sắc, Chúa còn nhận ra họ đang lê bước trong cái đói của thể xác. Cái đói tâm linh là rất quan trọng, nhưng cái đói thể xác cũng quan trọng không kém, vì “có thực mới vực được đạo”.
Vì thế, Chúa Giêsu đã thể hiện lòng quảng đại trước sự bất lực của các môn đệ và mọi người. Như tông đồ Philipphê đã thưa với Chúa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”. Với quyền năng, Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, sau đó còn dư 12 thúng đầy bánh vụn. Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này không phải do dân chúng cầu xin hay bởi các môn đệ đề nghị, nhưng hoàn toàn do lòng quảng đại của Ngài.
Thứ đến, ta kể đến tấm lòng quảng đại của cậu bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Có người cho rằng cậu là một em bé bán hàng rong. Nhưng có người lại cho rằng: cậu bé đã cố gắng đi theo Chúa để nghe lời Chúa và 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ kia chính là phần ăn cậu mang theo. Nhưng dù là ai, cậu bé cũng đã quảng đại dâng cho Chúa tất cả những gì quý nhất lúc đó để Chúa thực hiện phép lạ. Dĩ nhiên, lúc ấy có thể nhiều người khác cũng có phần ăn của mình như thế, nhưng họ đã hẹp hòi giấu đi để hưởng dùng một mình. Đó chính là nguyên nhân gây nên thảm cảnh nghèo đói của nhân loại hiện nay. Thế giới đang cần những trái tim tuy nhỏ bé nhưng đầy quảng đại như trái tim của cậu bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người
Có người cho rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều trong sách Tin Mừng không có thật. Sở dĩ có hiện tượng mọi người có đủ bánh và cá ăn no nê hôm ấy vì có tác động tâm lý từ việc làm của cậu bé. Cậu bé đã quảng đại chia sẻ phần ăn của mình cho người bên cạnh. Hành động ấy đã thúc đẩy những người khác cũng lấy phần ăn của mình mà chia cho người khác. Vì vậy mọi người có đủ bánh và cá để ăn, thậm chí còn dư thừa nữa.
Nhưng đó là lập luận của những người chỉ đề cao ý nghĩa của sự chia sẻ cách thực dụng. Thật ra, mọi người lúc ấy đều nhận ra sự thiếu thốn và đói khát của dân chúng khi đi theo Chúa. Hơn nữa, cả bốn Tin Mừng đều thuật lại phép lạ này với nhiều chi tiết.
Tuy là phép lạ thật sự, nhưng phép lạ ấy không phải được Chúa làm từ không mà có. Phép lạ ấy được Chúa thực hiện với sự cộng tác của con người. Dĩ nhiên, Chúa có thể làm phép lạ từ không nên có. Nhưng Chúa muốn có phần đóng góp của con người. Năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Chính phần đóng góp nhỏ nhoi đó đã làm nên phép lạ kỳ diệu.
Chúa Giêsu cũng có thể thực hiện phép lạ một mình, không cần sự giúp đỡ của người khác. Nhưng Chúa lại nhờ bàn tay cộng tác của các môn đệ để phân phát bánh và cá cho dân chúng, rồi dân chúng lại truyền tay cho nhau. Ngài muốn con người cộng tác với Ngài và với nhau để làm nên phép lạ lớn lao đó. Được cộng tác với Thiên Chúa chính là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho con người. Nhất là Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong công trình cứu rỗi của mỗi người. Như lời thánh Augustinô: “Khi tạo dựng chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Khi Chúa Giêsu nhìn thấy đám đông dân chúng đến với Ngài trong cơn đói khát, Ngài đã thốt lên: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?”. Có lẽ đó cũng là một vấn nạn lớn lao được đặt ra cho chúng ta hôm nay khi chúng ta đang đối diện với một thực trạng xã hội hiện thời: vẫn còn nhiều người nghèo đói trên thế giới. Đói cơm bánh, đói văn hóa, đói tình thương, đói nhân phẩm con người,… Tất cả đang chờ đợi một phép lạ và phép lạ thì chờ đợi lòng quảng đại của chúng ta.
Ngày xưa, ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ để 20 chiếc bánh lúa mạch hóa ra nhiều cho 100 người ăn no nê (Bài đọc I). Nhưng sau đó, con người vẫn đói. Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no nê. Nhưng sau đó, mọi người vẫn đói. Ngày hôm nay, trên bàn thờ mỗi ngày, phép lạ lớn lao vẫn tái diễn khi Chúa bẻ tấm bánh đời mình để trao hiến cho nhân loại. Với lương thực thần linh là chính Thánh Thể Ngài, nhân loại sẽ no thỏa mãi mãi, không còn đói khát nữa. Chúng ta cũng được mời gọi để cũng biết bẻ tấm bánh đời mình chia sẻ cho tha nhân. Càng được bẻ ra, tấm bánh tình yêu càng được nhân lên thật nhiều cho mọi người.
Năm 1999, giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân, không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. Số tiền thưởng của họ là 980.000 đôla cũng được dành cho những người bất hạnh trên toàn trái đất.
Phép lạ “bánh hóa nhiều” chỉ có thể tiếp diễn và kéo dài trong thế giới nếu vẫn còn có những trái tim “không biên giới” như thế. Ta hãy xin Chúa ban cho con người biết chia sẻ cho nhau những tấm bánh cuộc đời, để tình yêu thương được nhân rộng khắp nơi.
Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng TN 17B-128
Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.”(Ga 6,11)
Phép lạ bánh hóa nhiều hôm nay làm cho tất cả mọi người chứng kiến phải ngạc nhiên ngỡ ngàng. Ngạc nhiên ngỡ ngàng vì tầm mức của nó quá rộng lớn. Nó không phải chỉ dành cho một người – một nhóm người – mà là cho tất cả mọi người…mà những người trong bài Tin mừng hôm nay không phải là những người bệnh tật, đau khổ…nhưng là những người khỏe mạnh.
Phép lạ này được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đây là Phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Điều đó chứng tỏ Phép lạ này có một chỗ đứng thật cao và vai trò thật quan trọng trong Lời giáo huấn và đời sống của Giáo Hội thời khai nguyên. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ý vài chi tiết:
Với Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu có một vai trò thật đặc biệt: Ngài hoàn toàn chủ động và hầu như độc diễn trong câu chuyện này.
Nơi ba Tin Mừng khác ta thấy các môn đệ được kêu mời hợp tác với Chúa.
– Nào là họ có sáng kiến đến xin Chúa Giêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15) – Nào là bảo dân ngồi xuống từng nhóm 100 người (Mc 6,39-40) – Nào là cầm bánh đi phát cho người ta. (Lc 9,16) – Còn nơi Gioan, chúng ta thấy Chúa hoàn toàn chủ động. – Hơn nữa sau Phép lạ ta thấy Gioan còn có cả một bài suy tư rất dài. Chúng ta sẽ suy niệm vào những tuần sau.
Như vậy chúng ta thấy được ý của Gioan. Ông muốn cho người ta thấy một mình Chúa Giêsu làm tất cả. Các người khác chỉ đóng vai phụ và như thế Chúa Giêsu là Cứu Chúa.
Chi tiết thứ hai: Nơi Chúa làm Phép lạ. Đó là một cánh đồng vắng, nơi thiếu thốn đủ mọi phương tiện của cuộc sống kể cả những thứ cần thiết như thực phẩm chẳng hạn.
Tin mừng có nhắc tới việc Andrê phát hiện ra một em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng bằng ấy thì có thấm vào đâu với số người nguyên đàn ông thôi cũng lên đến 5000.
Chúa cũng đã thử tài của Philiphê là người quê ở vùng này xem ông có thể kiếm đâu ra đủ lương thực cho cả một đoàn người đông đảo như thế không. Philipphê đã nói lên tiếng nói xem ra có vẻ tuyệt vọng của mình: “Có đến 200 đồng quan = 200 ngày công = một số tiền rất lớn cũng không đủ cho mỗi người một chút.
Vậy mà Chúa vẫn bình thản ra lệnh: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Chúa biết những gì Chúa sắp làm.
Chi tiết 3 là thời điểm Chúa chọn để làm Phép lạ: Trước lễ Vượt qua.
Lê Vượt qua là kỷ niệm hào hùng nhất của cả dân tộc. Lễ vuợt qua làm sống lại niềm tự hào của cả một dân tộc được Thiên Chúa giải phóng.
– Ngày ấy con cháu Israel làm nô lệ cho người Ai Cập. Ách nô lệ tưởng chừng như kéo dài bất tận. Nhưng Thiên Chúa đã thương. Uy quyền của Người đã quật ngã cả một Ai cập hùng cường và đưa dân của Người vào đất hứa.
– Ngày ấy giữa một sa mạc khô cằn trên thì nắng, duới thì cát, chung quanh có nhiều kẻ thù. Vậy mà suốt 40 năm Chúa vẫn gìn giữ dân của Người.
– Ngày ấy khi dân đi qua sa mạc khô cằn không nước, không thực phẩm cũng như những thứ cần thiết cho cuộc sống. Nhiều lúc họ tưởng chừng như phải bỏ xác giữa trời làm mồi cho muông thú. Thế mà dưới sự lãnh đạo của Moise, Chúa đã cho nuớc vọt ra từ tảng đá, Manna và chim chóc cứ từ trời rơi xuống mỗi ngày làm lương thực cho dân.
Tất cả những hình ảnh như thế làm cho những người đi theo Chúa vào trong hoang địa hôm nay làm sao mà quên được. Họ vẫn còn nhớ, nhớ thật rõ.
Ngày ấy trong sa mạc – Hôm nay trong đồng vắng.
Ngày ấy dân bị đói, Chúa ban Manna – Hôm nay đã ba ngày họ không có gì ăn, Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều. Bàn tay uy quyền của Người còn kỳ diệu hơn cả Moise. Hay nói đúng hơn: Ngài là Moise mới. Ngài là Vua. Không còn điều gì phải nghi ngờ nữa.
Trước sự việc Chúa đã làm, Gioan còn nhớ thật rõ cảm nghĩ của dân lúc đó và ông đã viết thật đậm câu này: “Quả thật Ngài là Đấng phải đến trong thế gian” và ông cũng không quên ghi lại một chi tiết tuy nhỏ nhưng cũng rất quan trọng này: “Họ muốn tôn Ngài lên làm Vua”.
Nhưng Chúa trốn đi vì không muốn làm Vua theo kiểu họ mong chờ.
Vâng kính thưa anh chị em. Chúa Giêsu Chúa của chúng ta là Moise mới, là Vua. Ngài là Vua mới. Ngài là Vua đã thiết lập một dân tộc mới. Chúng ta là thần dân của Người.
BÀI HỌC.
Thử hỏi Chúa mong chờ gì nơi chúng ta?
Lời Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô 4,1 hôm nay trả lời cho chúng ta: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận”. Ngài kể ra một loạt những đức tính cần thiết.
Phần tôi: Hãy biết sống quảng đại. Quảng đại như chú bé đã dâng cho Chúa những tấm bánh và hai con cá hôm nay.
Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng lên Chúa, nhưng từ lễ vật đơn thành của cậu. Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì lịch sử có lẽ đã mất đi một phép lạ lớn lao, chói lọi.
Nói tới đây tôi nhớ đến một câu chuyện.
Để dạy các thiếu niên lòng quảng đại. Thánh Don Boscô đã kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Ngài.
Dọc đường Ngài bảo hai ông mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc đã rồi mới nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài vác nặng. Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:
– Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?
Chúa Giêsu nghe hết tất cả nhưng Ngài giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Ngài muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì.
Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.
Lần khác, Chúa Giêsu cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi phép lạ Chúa Giêsu sẽ làm để thưởng ông. Thế nhưng, Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
– Nào chúng ta hãy ngồi lên những viên đá chúng ta vừa mang đi theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!
Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:
– Thì ra Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:
– Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Nếu tính toán, em đã chẳng dâng cho Chúa những gì em có.
Nếu tính toán như Philiphê thì làm sao mà có được phép lạ?
Hãy bắt chước Chúa cho đi một cách quảng đại. Hơn 5000 người không phải là một con số nhỏ. Tất cả đã được ăn no nê. Vâng tất cả, không trừ một ai.
Xem ra Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi người chúng ta đem đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này đến chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa Giêsu bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng hiến dâng chính mình để phục vụ Chúa thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc hổ thẹn như vậy là đúng, nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa Giêsu!
Hãy biết dâng hiến, chúng ta sẽ thấy những việc lạ lùng Chúa làm cho chúng ta. Amen.
Hôm nay, chúng ta có thể chiêm ngắm tình yêu nhân loại và tình yêu siêu nhiên được hình thành TN 17B-129
Hôm nay, chúng ta có thể chiêm ngắm tình yêu nhân loại và tình yêu siêu nhiên được hình thành bên trong chúng ta như thế nào, để chúng ta có một trái tim vừa yêu mến Thiên Chúa vừa yêu thương tha nhân.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để sống một mình, mà là để sống với, sống cùng, và sống cho người khác. Ngài không muốn chúng ta sống trong cô độc, khép kín, nhưng là mở lòng ra với Thiên Chúa, với anh chị em mình. Nghĩa là sống tình liên đới với nhau, trong tương quan hài hòa giữa ta với Chúa và vạn vật.
Bé trai trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay là một mẫu người điển hình cần phải có trong thời đại chúng ta. Em có “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6,9), đối với Anrê thì chẳng thấm vào đâu, nhưng là tất cả những gì em đang có, em có là do cha mẹ hoặc người khác cho em.
“Cứ bảo người ta ngồi xuống”, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Người mắt lên thì nhìn thấy đám đông, một đám đông đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ và bảo ban. Năm chiếc bánh với hai con cá của một bé trai trước nhu cầu của một đám đông, chỉ tính nguyên số đàn ông thôi cũng chừng năm ngàn người rồi thật là ít ỏi. Chúa không chê cái số ít ấy, điều quan trọng là đóng góp phần mình. Tình yêu không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Chúa cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng để làm phép bánh và cá như chúng ta thấy, sự sẻ chia của em bé dù ít cũng trở thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy mà. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bao lâu con người còn nhìn đến nhau, bấy lâu bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên. Những tấm bánh yêu thương. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dồi dào.
Nhiều người cho rằng thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ hay lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người nên giảm dân số. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Ngài cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8). Nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Ý thức về điều căn bản này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương. Hãy thương yêu và tương trợ lẫn nhau, vì tình thương là căn tính, là bản chất của con người. Hãy loại bỏ sự đố kỵ, hận thù, chia rẽ và những nguyên nhân làm hại đến tình thương như: bất công, kỳ thị, độc đoán, tham quyền, ích kỷ, kiêu căng, giả dối và các tội ác. Hãy sống đúng với sự thật về căn tính của mình và giúp mọi người sống đúng với căn tính đó: con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa là sự thật và là tình thương.
Nếu chúng ta sẵn sàng đặt những gì mình có vào tay Thiên Chúa thì như thế đã là đủ bởi vì trong thế giới sẽ có thêm một chút tình thương, an bình, công lý, và trên hết là niềm vui. Ðiều cần thiết là niềm vui trong thế giới! Thiên Chúa đủ khả năng để nhân lên từ những bé nhỏ của chúng ta.
Lạy Mẹ của lòng nhân ái, xin trợ giúp chúng con làm việc này. Amen
Trong cuộc đời công khai, Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng như Đấng có uy quyền và kèm theo các TN 17B-130
Trong cuộc đời công khai, Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ. Một trong những phép lạ mà Tin mừng hôm nay đề cập đến đó là hóa bánh ra nhiều. Qua phép lạ này, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?.
Chúa dạy về lòng thương xót
Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái kêu xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó, Thiên Chúa chạnh lòng xót thương, Ngài ban Man-na dưỡng nuôi họ 40 năm trường.
Trên hành trình rao giảng Tin mừng, dân chúng tin theo Chúa đông lắm, nhìn thấy họ như đàn chiên không người chăn dắt, Chúa chạnh lòng thương xót nên dạy dỗ họ nhiều điều. Và vì thương xót, nên Ngài hóa bánh ra nhiều cho họ ăn uống no nê.
Ngày qua ngày, Thiên Chúa vẫn chạnh lòng thương xót và thi ân giáng phúc để con người sống an vui và hạnh phúc. Vấn đề ở chỗ là chúng ta có nhận ra dấu chỉ tình thương của Chúa hay không?. Để rồi chúng ta cũng biết sống thể hiện lòng thương xót đó đối với những người chung quanh.
Nhìn vào thế giới hôm nay, con người quá ư là văn minh tiến bộ không ngừng. Thế nhưng, có những người trái tim lại nhỏ bé hơn, lòng con người hẹp hỏi ích kỷ hơn, chỉ lo vun đắp cho mình hơn lo cho người khác. Vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Đó là nền văn minh của sự chết “.
Theo ngân hàng thế giới cho biết, hiện nay có trên một tỉ ba trăm triệu người đang đứng ở ngưởng cửa nghèo đói cùng cực. Tám trăm bốn mươi triệu người đi ngủ đêm với bụng đói. Và hơn năm mươi ngàn người chết đói, chết khát, chưa kể chết vì phá thai, bệnh tật, tai nạn, chiến tranh…
Mặc dầu thế giới văn minh như thế, nhưng vẫn còn rất nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này, tài nguyên thiên nhiên dư đầy, không thể nào con người phải thiếu thốn. Ấy thế mà tại sao vẫn còn tình trạng thiếu thốn đói khát như vậy? Thưa bởi vì con người thiếu tình thương xót với nhau.
Mỗi năm những nước giàu đổ xuống biển biết bao nhiêu tấn lương thực, do thừa mứa, do quá đát, cho cá cho tôm ăn, mà không viện trợ cho những đất nước nghèo.
Rồi hơn 80% của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, trong túi áo của những nhà tỉ phú, những ông to mặt lớn, đã lợi dụng chức quyền của mình.
Người ta bỏ ra hàng bao nhiêu tiền của để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng người ta lại sẵn sàng giết chết những đứa con vô tội nằm trong dạ mẹ.
Người ta bỏ bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền của đi du lịch nước này nước nọ chơi được; nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ bước sang nhà bên cạnh, để thăm một bệnh nhân đang cần một lời kinh hay một lời an ủi trong giờ sau hết.
Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta chết vì đói lòng thương xót, người ta đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay con người rất cần tấm bánh yêu thương, tấm bánh cảm thông, tấm bánh tình người liên đới.
Chúa cần con người cộng tác
Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, Ngài chỉ phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Chúa cần con người cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vụng về của chúng ta.
Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh của chúng ta nữa.
Cụ thể như hôm nay, nhờ năm chiếc bánh và hai con cá do lòng quảng đại cộng góp của cậu bé, mà Chúa đã làm phép lạ cho bánh ra nhiều, để bao nhiêu ngàn người được ăn dư thừa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần dâng Thánh lễ đông đảo thế này, chẳng khác nào đám đông dân Do thái năm xưa, Chúa Giêsu tiếp tục chạnh lòng thương xót. Vì khi cử hành Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục tự hiến mình, tự bẻ đời mình ra để nuôi sống chúng ta.
Ước gì, noi gương Chúa, chúng ta cũng biết thể hiện lòng thương xót, biết chia sẻ cho nhau lời cảm thông, tha thứ và sống quan tâm đến nhau. Đồng thời chúng ta cộng tác với ơn Chúa theo khả năng của mình, để rồi biến đời mình thành những tấm bánh yêu thương được bẻ ra, chia sẻ cho tha nhân, tuy đơn sơ nhỏ bé, nhưng với lòng tin yêu và con tim rộng mở, Chúa sẽ làm phép lạ, để thế giới này bớt đi cảnh đói nghèo vật chất và đói khát tình thương. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi ghi nhận hai thái độ để chúng ta suy nghĩ, đó là thái độ của các tông TN 17B-131
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi ghi nhận hai thái độ để chúng ta suy nghĩ, đó là thái độ của các tông đồ và thái độ của dân chúng.
Thực vậy, Chúa Giêsu thương xót dân chúng vì đã ba ngày trời họ đi theo Ngài mà không có lấy một hột cơm bỏ vào bụng. Ngài biết mình sẽ giải quyết như thế nào. Có ông đề nghị: Thôi hãy giải tán mỗi người mỗi đường để họ tự lo lấy. Có ông đưa ra một giải pháp không thể thực hiện được: dẫu có đến 200 đồng bạc cũng không mua đủ thức ăn. Có ông đưa ra giải pháp tưởng như vô lý: ở đây chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá làm sao nuôi đủ đám đông. Các tông đồ của Chúa Giêsu đã thực thi bác ái như thế đấy. Phải chăng vì các ông không có tình yêu nên không làm phép lạ được.
Còn chúng ta, những tông đồ của Chúa trong ngày hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ gì? Chắc chắn chúng ta không có hũ gạo như tiên tri Elia, phân phát hoài mà không hết. Chúng ta cũng chẳng có túi tiền không bao giờ cạn. Nhưng có lẽ vì không có tình yêu nên không làm được phép lạ nào cả. Một lời nói, một cử chỉ cũng có thể hoá nên phép lạ để người khác được ấm bụng, được an lòng.
Còn đối với đám đông dân chúng theo Chúa Giêsu, họ đang đói bụng, đang dao động, đang băn khoăn, đang lo âu, thế mà Chúa Giêsu lại bảo họ: Các con hãy ngồi xuống. Như thế, Ngài đòi hỏi dân chúng một điều khó khăn nhất, đắt giá nhất, đó là điều họ không muốn làm là phải ngồi xuống. Vì bao lâu họ còn đứng, còn đi lại được, họ còn có cơ may hy vọng kiếm chút gì để ăn. Một vài người, bằng hành vi phó thác đã bắt chước làm theo. Họ ngồi xuống tức là họ đã từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng để cùng nhau làm một hành vi đức tin và đức mến. Chính vì họ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tình yêu, cho bánh hoá ra nhiều để nuôi sống họ giữa chốn hoang vu.
Có tình yêu mới phát sinh ra phép lạ. Bánh được chuyền tay nhau. Phép lạ đã xảy ra và mọi người được ăn no nê.
Quan đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy em nhỏ mà Philipphê giới thiệu đã nhường cho Chúa TN 17B-132
Quan đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy em nhỏ mà Philipphê giới thiệu đã nhường cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cái, để rồi từ chút lương thực khiêm tốn này, Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống một đám đông cả ngàn người nơi hoang địa. Chúng ta ca ngợi thái độ của em nhỏ vì đó là thái độ chia sẻ, thắm tình bác ái và yêu thương, bởi vì nếu em nhỏ ấy vì ích kỷ, bo bo gữ lấy khẩu phẩn của mình, thì chưa chắc là phép lạ đã xảy ra.
Từ ý tưởng này, chúng ta đi vào bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nói bí tích Thánh Thể chính là bí tích của sự chia sẻ, chính là bí tích của tình bác ái yêu thương. Thực vậy, khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy. Như vậy khi lên rước lễ, chúng ta cùng chia sẻ một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã viết: Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và trở nên một thân thể Đức Kitô.
Tinh thần chia sẻ và yêu thương này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn qua nghi thức bẻ bánh, tức là bí tích Thánh Thể của những thế kỷ đầu. Thời ấy mỗi khi đi tham dự Thánh lễ, người ta đem theo bánh rượu và lương thực. Một phần được dùng để cử hành nghi thức, một phần được dùng để nuôi sống những người phục vụ bàn thờ, còn một phần được dùng để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo. Rồi trong đời sống, người ta gom góp mọi sự làm của chung và phân phối cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của mình.
Mặc dù hình thức ấy ngày nay không còn nữa, nhưng tinh thần chia sẻ và yêu thương vẫn còn là điều chúng ta phải thực hiện mỗi khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy không phải chỉ được biểu lộ trong nhà thờ, khi chúng ta lên rước lễ, khi chúng ta chia sẻ Mình Thánh Đức Kitô, mà còn phải được biểu lộ trong đời sống bằng những hành động nhường cơm sẻ áo, kích lệ và nâng đỡ những người chung quanh, cho dù sự chia sẻ và nâng đỡ ấy chỉ là nhỏ bé như tục ngữ đã bảo: Miếng khi đói bằng gói khi no. Lá lành đùm lá rách. Vậy chúng ta đã thực hiện cái tinh thần ấy như thế nào.
Nhiều khi ở trong nhà thờ chúng ta rất đạo đức và sốt sắng, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta không chịu chia sẻ và giúp đỡ người khác, trái lại còn bóc lột, hà hiếp người khác bằng những hành động gian tham và bất công, bằng những cách đối xử tệ bạc và hận thù. Bởi đó, từ hình ảnh em nhỏ dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cái, chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã thực hiện được tinh thần chia sẻ và yêu thương mà bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta hay chưa?
Trận động đất kinh hoàng 8.9 Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo TN 17B-133
Trận động đất kinh hoàng 8.9 Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo sau là những cơn sóng thần đã quét đi những làng ven biển. Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9 tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, chờ phát chẩn. Em mất cả cha lẫn mẹ và em trong thiên tai.
Thấy em co ro áo thun, quần đùi, anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em. Vô tình làm rơi gói lương khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói."
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn ngay. Nào ngờ em ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ". Câu chuyện cảm động của cháu bé Nhật Bản 9 tuổi, gợi lại hình ảnh chú bé trong Tin Mừng, có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá khô, sẵn sàng hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, có ba thái độ khác nhau trước yêu cầu của Chúa Giêsu, muốn cho dân chúng được ăn.
1. Thái độ thoái thác
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"… Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút." (Ga 6, 5, 7)
Tông đồ Philipphê chân thành thưa với Chúa như vậy, không có gì sai trái, mà trái lại còn quá chính xác, rất thực tế, rất thuyết phục. Nhưng vô tình biểu lộ một thái độ có vẻ như buông xuôi, tránh né, thoái thác trách nhiệm với cộng đoàn. Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa: “Mua bánh ở đâu?” thì ông đáp lại bằng một câu phủ định khá tiêu cực. Một cách từ chối mệnh lệnh rất khéo léo.
2. Thái độ hoài nghi
Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 8-9).
Tông đồ Anrê có vẻ tích cực hơn, gần gũi hơn với cộng đoàn, mới phát hiện một em bé có mang theo 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tuy ông cũng thành thật, cũng suy luận rất thực tế, nhưng lại bộc lộ thái độ có vẻ hoài nghi, thiếu tin cậy vào quyền năng Chúa. Ông cũng không chịu giải quyết thấu đáo đề nghị của Chúa. Mặc dù thừa hiểu Chúa muốn gì, nhưng cũng như Tông đồ Philipphê, ông đã chọn cách đối đáp bằng một câu khẳng định ẩn ý nghi hoặc.
3. Thái độ dâng hiến.
Tương tự cậu bé Nhật Bản nói trên, em bé trai ở đây có thái độ rất hồn nhiên, nhân hậu, phó dâng và tín thác hoàn toàn. Em bé đã mau mắn dâng hiến món quà mọn của mình cho Chúa. Dù em nghèo, chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu để làm của ăn đi đường, em vẫn chân thành dâng lên Chúa tất cả, không mảy may tính toán, giữ lại chút nào cho riêng mình. Chính từ tấm lòng trong sáng, phó thác, tin cậy, nhân từ, cùng tinh thần hợp tác chặt chẽ này, Chúa Giêsu đã vui vẻ đón nhận bánh và cá, để đáp ứng lại gấp vạn lần.
“Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì nó cũng giao cho cha mẹ. Con hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.” (ĐHV, số 731)
Trong tâm tình đó, Đức Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã dâng lên Chúa món quà nhỏ mọn, 13 năm ngục tù, với tự truyện vắn tắt “Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá,” chan hòa tình yêu và hy vọng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn trẻ thơ, luôn phó thác trông cậy vào Chúa, không so đo hơn thiệt, không tránh né tránh nhiệm, để con tìm thấy Chúa trong mọi người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con sống đơn sơ, hồn nhiên, biết dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, dù nhỏ mọn, bất xứng, để được Chúa thánh hóa cuộc đời. Amen.
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài TN 17B-134
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng - tôi vẫn thườnng tự hỏi - chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp-bi Giêsu có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gioan đặt ra như sau: - Đức Giêsu tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giêsu đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giêsu rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki-tô Giêsu – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.
Thế còn đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm, Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô - bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki-tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).
Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?
Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. Amen.
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có , .....Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong TN 17B-135
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng TN 17B-136
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng nhiều và nếu có người phụ giúp gánh nặng sẽ giảm bớt nhiều nhưng nhiệm vụ của người quản tiệc vẫn đòi hỏi nhiều tính toán, chuẩn bị, nhờ đúng người, đúng việc.
Đám đông lắng nghe Đức Kitô hầu như cả ngày, thích thú đến độ không cần ăn uống. Các môn đệ xin Ngài giải tán đám đông để họ đi tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi vì ngày đã gần tàn. Đức Kitô đáp các anh hãy lo cho họ ăn. Các ông la hoảng, tìm đâu ra của ăn nuôi năm ngàn người ở nơi quạnh hưu này, hàng quán thì không có, mà nếu có thì đào đâu ra tiền mua thức ăn. Một trong số các vị mạnh dạn thưa. Em bé kia có dăm cái bánh và hai con cá nhưng bằng đó thì thấm vào đâu cho số người khổng lồ này? Các môn đệ theo Thầy đã lâu nhưng vẫn không thể tưởng tượng, chưa nói đến hiểu, quyền phép Thiên Chúa. Các ông không biết Chúa có thể hoá ít ra nhiều bằng một lời nguyện cùng Chúa Cha. Các ông không biết Chúa chọn kẻ bé nhỏ nhất, hèn mọn nhất là em bé với hộp đồ ăn trưa để nuôi năm ngàn người lớn ăn no, số bánh dư, vất vương vãi trên cỏ thu lại thành nhiều thúng đầy. Không phải các môn đệ làm sự lạ cả thể mà chính Đức Kitô. Cũng không phải vì lời cầu xin của các ông mà Đức Kitô làm phép lạ mà chính là do tình thương mến Đức Kitô dành cho đám đông. Khi nghe Đức Kitô bảo các ông hãy nuôi đám đông, các ông sửng sốt đến ngạc nhiên tự hỏi không biết mình có nghe sai không? Nhưng khi nghe Đức Kitô bảo hãy nói với dân chúng ngồi xuống từng đám năm mươi lúc đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Các môn đệ vâng lời Đức Kitô nhưng không hiểu việc Thầy làm. Dù không hiểu nhưng vẫn vâng lời đó là điều Kitô cần suy gẫm khi cuộc sống gặp gian nan, khi đức tin gặp hoàn cảnh khó xử bởi việc Chúa làm không thể hiểu, ngoài mức hiểu của con người nhưng ai vâng lời sẽ kinh ngạc trước những việc Chúa làm. Họ sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ trầm trồ này đến trầm trồ nọ vì sức mạnh tình thương cao cả Chúa.
Giảng cho năm ngàn người nơi bãi biển mà không cần khí cụ khuyếch đại âm thanh, khi tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió hú vù vù bên tai, Đức Kitô có thể làm cho mọi người nghe và hiểu điều Ngài muốn nói, yêu mến lời Ngài giảng dậy là một phép lạ. Họ nghe đến quên thời gian, quên ngay cả đói khát, quên đau lưng, chồn chân, mỏi gối. Tất cả những điều đó là những phép lạ phụ, tuy nhỏ nhưng rất thực tế dẫn đến phép lạ vĩ đại cuối ngày. Phép lạ cả thể là dùng bữa ăn trưa của em nhỏ nuôi năm ngàn người lớn. Phép lạ cuối ngày dẫn chúng ta liên tưởng đến bữa Tiệc Li Đức Kitô dùng với các môn đệ và trong bữa tiệc này Chúa lập Bí Tích ngày nay chúng ta hiểu là Bí TíchThánh Thể. Với quyền năng cao vời Chúa hoá ít bánh ra nhiều bằng một lời cảm tạ Chúa Cha. Kitô hữu không nên và cũng không cần thắc mắc sự việc Chúa làm, làm sao sau khi truyền phép bánh thường trở thành Thịt Máu Đức Kitô. Nếu có thắc mắc thì nên đặt câu hỏi làm thế nào để cám ơn tình thương Chúa cho được. Có lẽ cách hữu hiệu nhất, thích hợp nhất và làm đẹp lòng Chúa nhất để đáp lại tình thương Chúa là với lòng chân thành, yêu mến chúng ta hãy chia sớt trong khả năng mỗi người để Chúa biến những vật chất giới hạn của ta thành tình yêu vô biên của Chúa cho tha nhân. Đó là cách thực hành tinh thần bác ái Kitô, thực hành tinh thần người quản lí tốt lành trong Giáo Hội Chúa.
Tin Mừng chủ nhật tuần qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu chạnh lòng thương đến dân chúng, vì họ TN 17B-137
Tin Mừng chủ nhật tuần qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu chạnh lòng thương đến dân chúng, vì họ giống như đàn chiên bơ vơ không có người chăn dắt, còn Lời Chúa hôm nay chúng ta lại được nhìn thấy Chúa Giêsu thương đến đoàn người đang đói ăn, khi họ đi theo Ngài. Điều đó cho thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ cho người ta ăn của ăn tinh thần mà còn là thức ăn của thể xác.
Trong khung cảnh buổi chiều tàn hoang vắng, khi mọi người đã mệt mỏi và đói khát, Chúa Giêsu quan tâm đến nhu cầu của họ, vì họ cần được ăn. Ngài hỏi ông Philipphê có gì cho họ ăn không. Ngài thừa biết việc gì sẽ xảy ra khi nhìn thấy đoàn người đang đói. Và sau đó phép lạ đã xảy ra, Ngài hoá bánh ra cho khoảng 5.000 người đàn ông ăn no nê, còn dư lại 12 thúng đầy, không tính trẻ con và đàn bà, từ 2 con cá và 5 chiếc bánh của một cậu bé. Chúa Giêsu thết đãi một bữa tiệc lớn cho đoàn người đông đảo trong ngày hôm đó.
Từ biến cố vĩ đại này, chúng ta rút ra được điều gì cho đời sống đức tin hôm nay khi nghĩ đến sự chêch lệch giữa người giàu và kẻ nghèo vẫn đang diễn ra trong thế giới này. Có hàng triệu người không có miếng ăn, chết vì nghèo đói, bệnh tật; có kẻ lại quá dư thừa hoang phí. Phải chăng phép lạ hoá bánh không còn nữa cho những người đang đói ăn! Đây cũng là vấn nạn mà con người thường đặt ra và tìm câu trả lời.
Vào một ngày mùa đông, một người đàn ông đi ngang qua cây cầu, ông ta nhìn thấy một em bé đang ngồi xin ăn, nó đang bị cảm lạnh vì rét và cần được có cái gì đó ăn cho đỡ đói. Khi nhìn thấy cậu bé đáng thương này, ông ta đã tức giận và hỏi Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm cái gì đó cho đứa bé này? Và Chúa trả lời: Ta đã làm nhiều điều cho cậu bé này, con không thấy sao? Người đàn ông ấy ngạc nhiên nói rằng ông ta không thấy Chúa làm gì cho nó cả. Chúa nói: Ta đã dẫn con đến với đứa bé này, nhưng con vẫn làm ngơ.
Trở lại với Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, chúng ta lại thấy phép lạ được xảy ra khởi đi từ 5 chiếc của một cậu bé. Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, thì bánh đã hoá ra nhiều. Như vậy, bánh được hoá ra nhiều là có nhờ sự cộng tác của bàn tay con người. Điều đó cho ta thấy rằng, Chúa cần cộng tác và chia sẻ của con người. Mỗi khi linh mục dâng lễ vật lên Thiên Chúa, ngài đọc: “Lạy Chúa là Chúa Tể trời đất, chúc tụng đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người…”. Rồi các tông đồ đem đi và phân phát cho dân chúng ăn và còn dư lại 12 thúng đầy.
Theo Kinh Thánh, con số 12 là biểu tượng của 12 chi tộc Itrael, 12 vị Tông đồ và đồng thời nó cũng ám chỉ đến tất cả mọi người chúng ta. Như vậy, ơn thánh của Chúa không chỉ dành cho các dân tộc, cho đám đông đi theo Ngài, mà là cho tất cả chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu không trực tiếp ban phép lạ hoá bánh bằng của ăn vật chất, nhưng Ngài vẫn ban phát cho chúng ta của ăn thiêng liêng bằng chính Thịt và Máu của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh thể và là dấu tích tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người.
Lạy Chúa, khi gặp đau khổ, hoạn nạn, thử thách, chúng con thường rơi vào tâm trạng của kẻ phẫn nộ, than van, oán trách…, và cũng giống như người đàn ông kia nhìn thấy đứa bé cần cái ăn, cần áo ấm, cần một chút lòng hảo tâm, ông ta lại bảo Chúa không làm gì cho đứa bé. Và chúng con cũng làm như vậy, chúng con không biết tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân. Chúng con vẫn thờ ơ, lạnh lùng và khép kín khi nhìn những người đau khổ, kẻo đói ăn đang sống chung quanh. Chúng con có đôi mắt để nhìn, nhưng không thấy; có đôi tai để nghe, nhưng đã bị điếc; có đôi tay để làm, nhưng đã bị tê liệt; có trái tim để yêu thương và chạnh lòng, nhưng đã bị chai sạn và khô cứng.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta tù đày các người đã viếng thăm…”.
Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp quốc cho biết:“Mỗi ngày có khoảng 400 triệu người đi ngủ TN 17B-138
Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp quốc cho biết:
“Mỗi ngày có khoảng 400 triệu người đi ngủ với bụng đói, và 15 ngàn người chết vì đói khát.”
Thế giới văn minh với khoa học kỹ thuật tân tiến này vẫn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải đang nằm trong tay 20% người giàu có.
Thế giới nghèo đói không phải vì thiếu tài nguyên, nhưng vì tài nguyên bị cất giấu trong túi những người ích kỷ, những kẻ tham lam!...
***
Tin mừng hôm nay nói đến cả 5000 người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em chẳng có gì ăn. Nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em nhỏ, làm sao Chúa nhân thêm đủ nuôi sống họ mà còn dư? Phải chăng em nhỏ này có lòng rộng lượng hơn người lớn. Một tâm hồn đơn sơ không nghĩ riêng mình, chẳng ích kỷ tham lam, hy sinh đóng góp cho Chúa vào việc nuôi sống con người, mặc dầu chỉ đóng góp một phần nhỏ nhoi thôi.
“Chúng con hãy lo cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ, và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta phải hoàn thành trách nhiệm, không thể chạy trốn, không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho người khác. Phải biết đóng góp những gì mình có với Chúa, để Người nhân lên thêm nuôi sống đồng bào đồng loại.
Thánh Gioan hôm nay mô tả phép lạ của Chúa Giêsu giống như việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly: “Người cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn…” Bí tích Thánh thể được gọi là “Bữa tiệc bẻ bánh, là bữa tiệc chia sẽ tình thương”. Chúa Giêsu thông ban tình thương của Người cho chúng ta, để chúng ta bẻ chia cho anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo đói tình thương, nghèo đói cơm bánh xung quanh chúng ta. (Theo “Lẽ sống”, 2).
2. Vương quốc của ta đã suy đồi
Một vị vua đang cai trị vương quốc của mình. Một hôm vua rảnh rỗi nên nói với các quan cận thần:
- Hôm nay ta rảnh rỗi, ta muốn thử lòng dân xem họ quảng đại hay ích kỷ thế nào. Ta sẽ cải trang thành người ăn mày nghèo khổ đi khắp nơi. Ai có lòng quảng đại, ta sẽ thưởng bội hậu.
Thế là nhà vua cải trang đi khắp nơi, nhưng không ai chú ý trợ giúp. Buồn bã trở về cung điện, nhà vua tâm sự với các quan:
- Vương quốc ta đã đến lúc suy đồi, vì thần dân đối xử với nhau tệ bạc quá, không biết thương yêu giúp đỡ nhau. Ai có tiền thì trọng vọng, kẻ không tiền bị khinh rẻ bỏ bê!...
***
Nếu Chúa Giêsu đến thăm viếng chúng ta trong dung mạo một người bần cùng nghèo khổ, chúng ta có tiếp đón Người không?
Là môn đệ Chúa, chúng ta biết rõ Lời Người đã mạc khải cho chúng ta; Người đồng hóa với anh chị em nghèo đói đau khổ xung quanh chúng ta: “Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống… Bấy giờ các người công chính thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những an hem bé nhỏ nhất của Ta là các con đã làm cho chính Ta” (Mt.25,35-40).
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, để cho dân chúng đói khát ăn no. Đó là dấu chỉ người cần nhờ chúng ta cộng tác với Người, để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em nghèo đói bất hạnh. Người không đòi hỏi chúng ta phải làm những công việc to lớn, nhưng chỉ những điều nhỏ bé đơn sơ, như 5 chiếc bánh và 2 con cá, như một nụ cười, một lời thông cảm, một miếng khi đói… (Theo “Ánh sáng thế gian”).
3. Bánh và cá
Trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”, tác giả Jay Kesler kể:
Đêm nọ ông từ máy bay đang bước xuống một phi trường ở Ấn độ. Ông thấy nhiều người nằm ngủ dọc theo đường bay, hỏi ra ông mới biết họ là những người vô gia cư. Đi được một lúc, ông nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại, ông thấy một chú bé cụt chân đang đi tới với hai cái nạng. Nó chìa tay ra trước mặt. Ông liên cho nó số tiền lẻ còn trong túi rồi đi đến khách sạn. Đi khoảng mười bước, ông lại nghe có tiếng động kỳ lạ khác. Ông quay nhìn lại thì thấy một đám trẻ ăn mày khác đang đánh thằng bé lúc nãy bằng những chiếc nạng của nó. Chúng bắt thằng bé phải giao số tiền xin được cho chúng… Và suốt đêm đó ông không sao ngủ được vì thảm cảnh đó!
Nhưng rồi một ngày nọ có một người nữ trung niên đến với đám trẻ nghèo khổ hung dữ đó. Bà dồn hết tiền bạc của bà thuê một căn nhà cũ để dạy dỗ chúng. Và hiện nay bà đã có 80 trường trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc kẻ hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên giúp đỡ bà lo cho người nghèo đói bệnh tật trên khắp thế giới. Người nữ đó không ai khác hơn là mẹ Têrêsa Calcutta.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại một chú bé dâng cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, để Người thực hiện việc Người muốn làm: cả 5000 người ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “bánh và cá” của bà, để Người nhân lên gấp bội.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại mình và tự vấn: chúng ta đã đặt vào tay Chúa được gì? Bao nhiêu? Để Người nhân lên giúp đỡ anh chị em nghèo đói bất hạnh xung quanh chúng ta. Chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như em bé trong Tin mừng hôm nay chưa?
Chúa Giêsu luôn cần đôi tay, đôi chân, môi miệng chúng ta. Người cần nhờ đôi chân chúng ta để đến với những kẻ nghèo đói bệnh tật, Người cần đôi tay chúng ta để trao ban cho họ: Người cần nhờ môi miệng chúng ta để nói cho họ biết tình thương vô cùng của Người. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Nhà truyền giáo ăn mày
“Hàng giám mục chúng tôi không xấu hổ khi phải ngửa tay xin anh chị em giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo. Đức Giêsu, Thầy của chúng ta đã từng mượn thuyền của ông Simon để ngồi giảng, mượn con lừa ở Bếtphagê để vào thành Giêrusalem, căn nhà của bà Maria để làm phòng Tiệc ly. Và cuối cùng đã được an táng trong ngôi mộ của một người bạn” (Đức Giáo hoàng Phaolô VI).
Kế hoạch hành khất để phát triển công tác truyền giáo tại Năm Căn đang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay đến một ông giám đốc ở đầu đường P. Sáng nay mình đi thẳng tới đó. Trước mắt mình là một tòa nhà nhiều tầng, ông giám đốc đang đứng nói chuyện với ai đó ở một góc sân. Ông cao lớn và lực lưỡng. Cả con người của ông toát ra uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông, nhưng biết rất nhiều về ông, qua bạn bè của ông. Mình đon đả đón chào:
- Chào ông bảy.
- Cha có chuyện gì thế?
- Con đi truyền giáo ở Năm Căn thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ.
- Cha muốn tôi giúp cái gì.
Giáo điểm của chúng ta chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có xuồng để di chuyển. vậy ông Bảy giúp chúng con một cái máy Kohler 7.
Ông giám đốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn mình thì đứng trơ ra đó. Hụt hẫng!…
***
Thế là nhà truyền giáo lủi thủi về nhà viết thư tâm sự với thầy cũ của mình: Thầy kính mến,
Hôm nay noi gương Đức Phao lô VI, con hiên ngang chìa tay xin tiền bố thí để làm công tác truyền giáo. Nhưng con bị “nhún vai” một cách tàn nhẫn. Chính vì thế mà con nhớ lời Thầy đã dạy chúng con, khi chúng con còn mài đũng quần trên ghế Chủng viện. Thầy dạy rằng: “Các giáo xứ giàu phải chia tài nguyên cho các giáo xứ nghèo. Nhưng trong thực tế người giàu ít khi nào chịu mở hầu bao. Người giàu luôn luôn từ chối một cách khéo léo rằng; “Sông to thì gió cả”, nghĩa là kẻ giàu thì có trăm công nghìn việc phải làm…
Đúng thế, cái ông giám đốc của tòa nhà đồ sộ kia đang có trăm công nghìn việc phải làm. Việc của ông là những việc lớn. Cái máy Kohler nhỏ mọn của giáo điểm truyền giáo chỉ làm rày chuyện lớn của ông. (Trích “Nhật ký truyền giáo”).
5. Đây là cậu học sinh dễ thương
Một thương gia Mỹ, kể lại:
Lúc nhỏ tôi học rất kém, đội sổ mãi đến khi vào trung học.
Ngày nọ nhân một lớp học nhảy, cô giáo tôi có mời người chị đến tham dự. Vừa bước vào phòng nhảy, cô giáo dẫn người chị đi thẳng đến chỗ tôi, đặt tay trên vai tôi giới thiệu:
- Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất.
Cô đã không nói: “Đây là cậu học sinh dở nhất lớp…”, mà cô lại bảo: “Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất”. Lời đó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Từ đó tôi đạt được nhiều thành tích khả quan: tốt nghiệp cao học, làm giáo sư, và nay đang phát đạt trong lãnh vực kinh doanh. Tất cả đều nhờ cô giáo đó. Cô cho tôi biết tôi là người có giá trị, tôi cũng có thể trao ban cho người khác cái gì đó, chẳng hạn một nụ cười dễ thương…
***
Trong cái nhìn đức tin, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất vô nhị. Vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay đần độn cũng bình đẳng trong phẩm giá con người. Và giá trị đích thực của con người không hệ tại những gì họ có mà ở những gì họ trao ban. Chân lý này đã được Chúa Giêsu minh chứng trong toàn bộ cuộc sống của Người, mà cao điểm là cái chết của Người trên khổ giá vì phần rỗi nhân loại.
Đặc biệt Người đã trao ban lương thực cho những kẻ theo Người trong Tin mừng hôm nay. Và lương thực nuôi phần xác này tiên báo lương thực thiêng liêng Người sẽ trao ban, đó là Người lấy Thịt Máu Thánh Người làm của ăn nuôi linh hồn con cái Người.
Câu chuyện của cậu học sinh trên đây còn minh họa tuyệt vời cho phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều. Nhờ một lời khen đơn sơ mà cậu học sinh dở nhất lớp đã thành tài. Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa cho cả mấy ngàn người ăn no nê và còn dư. Như thế, nhờ một trao ban nhỏ bé, Chúa nhân lên gấp bội.
Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có cái gì đó để trao ban. Và với ơn Chúa, trao ban nhỏ bé của chúng ta sẽ có giá trị vô cùng, sẽ nhân lên to lớn, sẽ đem lại niềm an vui hạnh phúc cho đồng loại.
CHÚA LÀM PHÉP LẠ HOÁ BÁNH RA NHIỀU ĐỂ NUÔI DÂN ĐÓI KHỔ
Trình thuật tin mừng theo thánh Gioan, kể lại việc Chúa làm dấu lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân TN 17B-139
Trình thuật tin mừng theo thánh Gioan, kể lại việc Chúa làm dấu lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Khởi đầu, tác giả miêu tả toàn cảnh trên bãi biển miền Ga-li-lê-a. Ở đó có rất đông dân chúng từ các làng mạc và các vùng phụ cận đi theo Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Trong khi nghe Chúa nói, họ không cảm thấy mệt mỏi và đói khát, họ không nghĩ đến việc thiếu lương thực và không thể mua khi chung quanh không có làng mạc.
Với tấm lòng của người mục tử nhân lành, Người đã quan tâm đến nhu cầu vật chất của những người đang nghe Người giảng đây, bởi Người đã từng trải qua cái đói khi ở trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng. Người muốn cho họ ăn. Vì thế, Người quay lại hỏi ông Phi-líp-phê: “chúng ta có thể mua bánh ở đâu cho họ ăn đây?” (Ga 6,5) Điều Ngài muốn các môn đệ cùng chia sẻ nỗi bận tâm và ưu tư của Ngài.
Có lẽ, đây là bài toán khó đối với các môn đệ, trong khi họ ở cách xa làng mạc. Qua đó, giúp các ông nhận ra giới của con người như cách ông Phi-líp-phê trả lời Đức Giêsu: “thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7).
Ngay lúc con người bất lực là lúc Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của Người. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, người đã nuôi sống hơn 5000 người. Qua dấu lạ này, Người muốn nhắn giử thông điệp tình yêu đến mỗi người chúng ta, và ẩn sâu trong đó, Chúa mời gọi con người cùng cộng tác, cùng cho đi, cùng chia sẻ những gì mình đang có.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể, ngày hôm nay, chúng con đang sống trong thế giới mà con người không chỉ đói khát lương thực nhưng còn đói khát tinh thần. Cái đói đã làm cho bao người đánh mất chính mình, vì thế họ đã bán rẻ lương tâm để có cái ăn, cái mặc.
Họ quay quắt với cái đói ăn, đói thuốc men để chữa bệnh, đói nước sạch để dùng và đói cả một bầu khí trong lành để nghỉ ngơi. Tất cả đều diễn ra trước mắt con, con đã làm ngơ và coi như không thấy. Con đã khoanh tay, khi gặp một người anh em vấp ngã bên đường cần con nâng đỡ, và con đã …
Chúa đã cho chúng con thấy tấm lòng quảng đại của Người. Nhưng đôi khi chúng con trách Người tại sao đã tạo ra nghèo khổ, và có lẽ chúng con nên tự trách mình, bởi bất công đang nằm ngay nơi lòng mình, vì thế, xã hội còn nhiều người nghèo đói, bất công… do chúng con không dám chia sẻ những của cải dư thừa. Con biết, Người không cần chúng con chia sẻ cho mọi người những gì vượt quá khả năng, nhưng chỉ những gì chúng con có. Và có thể thế giới này sẽ khác, nếu chúng con dám chạy đến chia sẻ cho người anh em những gì chúng con có?
Lạy Chúa! xin cho con nhận thức rằng, khi con có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà để che đầu và một nơi nghỉ qua đêm là con đã giàu có hơn 75% thế giới.
Khi con có dư thừa vật chất, của cải để chia sẻ với mọi người là con thuộc 8% những người giàu nhất thế giới.
Khi con chưa phải trải qua nguy hiểm của chiến tranh, cô đơn của tù tội hay vật vã của đói khát là con hạnh phúc hơn 500 triệu người trên thế giới.[1]
Và lạy Chúa, xin cho con nhận thức được tất cả những gì chúng con có là do hồng ân Chúa thương ban, chứ không phải do tài năng và công trạng của mình. Vì vậy, chúng con phải mau mắn chia sẻ với mọi người để thế giới bớt nghèo đói và đau khổ. Amen.
Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…”. Đó là một trong những điều thiết TN 17B-140
“Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…”. Đó là một trong những điều thiết yếu trong lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4).
Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Điều đó cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết và cơ bản nhất để con người khả dĩ duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường. Trong bốn thứ cần học khi vào đời, ăn uống là thứ cần phải học đầu tiên: Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Ăn uống cũng được chú ý khi người ta có “văn hóa ẩm thực”. Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt, như con dao hai lưỡi vậy. Miếng ăn thực sự cần thiết nhưng cũng có thể là vinh hoặc nhục: “Người trí quý cái sức, kẻ dại quý cái ăn”. Ăn không lượng thì hại sức khỏe, ngủ không cân thì hại trí tuệ. Tục ngữ có câu: “Ăn được, ngủ được là tiên; không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo!”. Ăn để có sức khỏe, có sức khỏe thì an tâm sống: “Sức khỏe là vàng”.
Chúa Giêsu cũng rất thực tế. Ngài chăm lo những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, tại nhà ông Si-môn Cùi ở Bêtania, khi có một phụ nữ xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm cam tùng hảo hạng, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người đời khinh miệt, nhìn bằng nửa con mắt, bị xa lánh vì sợ “hãm tài”. Vả lại, đáng quan ngại là vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống rất bình thường mà lại quan trọng. Thật vậy, chuyện ăn uống còn liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Trình thuật 2 V 4:42-44 đề cập chuyện ăn uống. Đó là chuyện về “nồi cháo độc”. Đã đói meo mà lại gặp loại chao này thì… chết sớm! Kinh Thánh cho biết: Khi ông Ê-li-sa trở về Ghin-gan, nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ. Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại thì hái trái dưa đắng ấy đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!”. Thế là họ không thể ăn được nữa. Nhưng ông Ê-li-sa bảo cứ đem bột đến cho ông. Ông bỏ bột vào và bảo múc ra cho mọi người ăn. Lạ thay, trong nồi không còn chất độc nữa. Phép lạ nhãn tiền!
Tiếp theo là “phép lạ hoá bánh ra nhiều”. Kinh Thánh kể rằng có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa. Đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa bảo đem phát cho người ta ăn. Tiểu đồng nói chỉ có chừng nấy thì không thể đủ cho cả trăm người ăn được. Nhưng ông bảo cứ phát cho người ta ăn, vì Đức Chúa đã phán: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Tiểu đồng vâng lời đem phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, đúng như lời Đức Chúa đã tuyên phán. Lại một phép lạ nhãn tiền nữa. Kỳ diệu quá!
Đối với Thiên Chúa, “không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37), Ngài có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu ông Áp-ra-ham kia mà (Mt 3:9). Vâng, với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Tác giả Thánh Vịnh đã tin nhận như vậy nên đã dâng lời xưng tụng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11).
Thiên Chúa biết rõ phàm nhân cần có cái ăn để duy trì sự sống, thế nên Ngài luôn tạo cơ hội làm việc để con người mưu sinh. Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, chắc chắn như vậy. Với kinh nghiệm sống, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:15-18). Thiên Chúa chẳng chấp lách gì đối với những cái đầu nhỏ mọn, thiển cận và nông cạn của phàm nhân chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta biết khiêm nhường và chân thành cầu xin thì mọi sự đều đâu vào đó. Mà có làm vậy cũng chỉ lợi ích cho chúng ta mà thôi, chứ điều đó cũng chẳng thêm gì cho Ngài.
Với kinh nghiệm đầy mình, nhưng là kinh nghiệm “xương máu”, Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4:1-2). Những lời lẽ rất chân thành, nhưng NGHE là một chuyện, BIẾT là một chuyện, LÀM lại là chuyện khác. Những khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!
Thánh Phaolô động viên thêm: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:3-6). Những cái “một” rất kỳ diệu, đòi buộc chúng ta phải NÊN MỘT, vì thế mà không thể ba bè, năm nhóm hoặc bảy phe, không thể tiêu cực như chúng ta vẫn có “xu hướng” ngay trong các gia đình, các hội đoàn, các cộng đoàn, các giáo xứ,… Chắc chắn kiểu phe nhóm như vậy là đối lập với Thiên Chúa! Tại sao? Vì chúng ta cùng ĂN MỘT TẤM BÁNH – Thánh Thể của Đức Kitô.
Trình thuật Ga 6:1-15 nói về phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Đức Giêsu đã làm (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17). Trong phép lạ này có sự hiệp nhất: Đủ loại người đồng tâm nhất trí tụ họp nhau theo Chúa để cùng NÊN MỘT và được nghe lời khôn ngoan của Ngài. Thế nên Ngài thương họ lắm, thương biết sao cho vừa! Địa danh là bên Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Hôm đó có đông đảo dân chúng đi theo Chúa Giêsu, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho những kẻ đau ốm. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Thời gian đó sắp đến lễ Vượt Qua, đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Ngài nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài không bất ngờ mà Ngài thấy thương họ. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Ngài nói thế là để thử ông, chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi.
Nghe vậy, ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Các ông vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi! Phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh cho họ ăn sao? Tiền đâu mà mua chứ!”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phụ nữ tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), nhưng lại gấp nhiều lần số tiền ông Giuđa đã bán Thầy trong đêm định mệnh năm xưa: Ba mươi đồng (Mt 26:15).
Lúc đó, không biết ông Phêrô nhanh tay lẹ mắt thế nào mà ông liền thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”. Đức Giêsu cười: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chả biết Thầy tính mần chi, nhưng các ông cũng vâng lời Thầy, bảo người ta ngồi xuống cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Tính cả phụ nữ và trẻ em có thể lên tới cả chục ngàn người.
Mọi người đã yên vị, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệthu lại những miếng thừa kẻo phí. Chúa Giêsu rất tiết kiệm, không hề lãng phí, điều này nhắc chúng ta phải biết quý miếng ăn, biết nghĩ đến những người đang đói khổ.
Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Phần dư còn nhiều hơn phần gốc. Quá đỗi kỳ diệu! Thế nên mọi người rỉ tai nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”. Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Lại một bài học đắt giá nữa: Đừng coi trọng danh vọng, đừng tự tôn, đừng thấy người ta khen mà tưởng mình “ngon” hơn hoặc tài giỏi hơn người khác. Quan nhất thời, dân vạn đại. Tất cả sẽ qua đi, ngay cả những gì mình sở hữu cũng không thuộc về mình. Cuộc đời cũng chỉ còn lại tình yêu thương nhờ biết thương xót, ba nhân đức đối thần cũng “cô đọng” chỉ còn Đức Mến (Đức Ái) mà thôi.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta biết rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Biết chăm lo cho mình thì cũng phải biết chăm lo cho người khác: Yêu người như yêu mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”. Thể lý yếu đuối có thể ảnh hưởng tinh thần, trí tuệ và tâm linh. Thể xác cần ăn uống để sống khỏe mạnh thì linh hồn cũng cần nuôi dưỡng để sinh tồn.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng kiếp làm người, đồng thời họ có thể an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
THỎA THUÊ
(CN XVII TN-B – Tv 145:15-18; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15)
Muôn loài ngước mắt trông lên
Chúa thương lo liệu cho ăn đúng giờ
Khi Ngài rộng lượng ban cho
Mọi sinh vật được thoả thuê muôn vàn
Lối đường Thiên Chúa chí nhân
Mọi việc Người làm đầy ắp yêu thương
Những ai đau khổ đoạn trường
Chúa luôn gần gũi đỡ nâng đêm ngày
Kiên tâm cầu khẩn Chúa hoài
Ngài không nỡ để lạc loài mãi đâu
Hãy luôn khiêm tốn trước, sau
Hiền từ, nhẫn nại, thương yêu hết lòng
Quyết tâm chịu đựng, chờ mong
Sẽ được no lòng, thỏa khát tâm linh
Hằng ngày có Bánh Ân Tình
Thánh Thể tốt lành, đừng có quên ăn!
Chúa Giêsu vẫn ân cần
Muốn cho ai cũng được luôn no lòng
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.Tất cả những lời nói TN 17B-141
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.Tất cả những lời nói, cử chỉ, thái độ và những phép lạ của Ngài nói lên quyền năng và lòng nhân từ thương xót của Ngài đối với nhân loại, đối với chúng ta. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự cộng tác của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ để nuôi năm ngàn người ăn no và nhiều người khác nữa khi họ đi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy…Chúa đãi họ một bữa ăn thật bất ngờ ngờ, giản dị. Bữa ăn ngoài trời, bữa ăn tập thể tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay viết:” Thấy đám đông Chúa chạnh lòng thương “. Chúa đến trần gian để đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho nhân loại, cho con người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời, Ngài sống nghèo, sống cho người nghèo. Ngài nhạy cảm và đụng tới những nỗi đau của con người. Ngài chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ và đem lại cho con người ơn cứu độ cả hồn lẫn xác. Đi rao giảng, Ngài không làm công việc cứu thế một mình, Ngài đã mời gọi các môn đệ đi theo Ngài. Ngài chính là mẫu gương sáng ngời của các môn đệ khi dạy các môn đệ:” Rao giảng sự sám hối. Giới thiệu Nước Thiên Chúa. Xua trừ ma quỷ và chữa bệnh hoạn tật nguyền. Chúa Giêsu quan tâm tới con người phần hồn cũng như phần xác. Nên, thấy dân chúng từng đoàn người theo Chúa và các môn đệ để nghe Ngài giảng dạy. Chúa không muốn để họ đói, họ khát. Nên, Ngài đã đặt các môn đệ vào nỗi bận tâm của Ngài. Chúa cần sự đóng góp của con người. Chúa cần một Anrê giới thiệu một em bé. Ngài cần em bé trai dâng tặng Ngài bữa ăn trưa với năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài truyền lệnh cho các môn đệ sắp xếp, ổn định chỗ ngồi cho dân chúng. Và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều…Thật sự với một vài cái bánh và hai con cá, một số lương thực chẳng thấm vào đâu đối với số dân đông đảo như thế, nhưng nó lại là món quà thật cao quý của sự chia sẻ.
Thực tế, trên thế giới ngày nay, cái đói cái khát vẫn luôn là nỗi ám ảnh của con người. Biết bao người trên trái đất này đang gặp cảnh đói nghèo. Biết bao người trên thế giới không đủ cơm ăn áo mặc. Tài nguyên thiên nhiên của nhiều nước nằm trong tay của những người giầu thiểu số. Lương thực không được phân bổ đồng đều, có những người ăn không hết phải vứt lương thực đi, nhưng có những người không được ăn no, bữa có bữa không. Vậy cái đói, cái mặc vẫn còn quay quắt trên thân xác của nhiều con người. Có biết bao người có tấm lòng vàng, tấm lòng nhân từ, đã xót xa trước những cảnh tượng đau thương đó, và họ đã bắt tay vào công việc với niềm tin, với sự hy vọng sẽ phần nào làm vơi đi nỗi khổ đau của con người, của nhân loại dù chỉ với:” năm chiếc bánh và hai con cá “. Thiên Chúa sẽ biến đổi, sẽ làm cho con người được đầy no ân phúc.Ngài sẽ làm cho thế giới đẹp hơn, ấm áp hơn, con người hơn và bộ mặt trái đất trở nên sáng hơn, tươi hơn. Do đó, muôn thời thế giới luôn cần có những Kitô hữu,dám sống triệt để Tin Mừng, luôn sẵn sàng giơ tay ra để giúp đỡ những người nghèo, những người bơ vơ vất vưởng, những kẻ cô thân cô thế, thấp cổ bé họng trong xã hội vv…Thế giới này luôn cần có những Phanxicô khó nghèo, những Đa Minh, những Anphongsô, những Têrêsa Calcutta vv…để những người nghèo, những người đau khổ, những người bị thử thách nhận được sự nâng đỡ, ủi an…
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ như Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Chúa mời gọi chúng ta dâng cho Ngài thời giờ, khả năng, vật chất, của cái vv…để với sự cộng tác của chúng ta, Chúa sẽ làm những tặng vật chúng ta trao cho Ngài hóa ra nhiều như năm chiếc bánh và hai con cá, để sẻ chia cho nhiều người trên thế giới, trong xã hội cần được chia sẻ vv…Đứng trước những nỗi khổ đau và nghèo nàn, đói khát của nhiều người. Biết bao người nghĩ rằng mình chẳng có gì để sẻ chia, nhưng thực tế nếu con người biết cho đi thì những cái mình tưởng không ích lợi, không cần thiết sẽ làm cho nhiều người được bớt đói và như thế là đủ cho họ,
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhạy cảm, luôn biết quan tâm đến nỗi khó nhọc, đau khổ của người khác.Xin giúp chúng con có tấm lòng như Chúa để chúng con biết cho đi và sẻ chia cho người khác những gì chúng con tưởng răng không cần thiết, nhưng chính sự cho đi là niềm vui và là sự cần thiết cho những người đang cần chúng con chia sẻ.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Thấy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu thế nào ? 2.Chúa Giêsu làm phép lạ nhưng Người nơi chúng ta điều gì ? 3.Năm chiếc banh và hai con cá giúp Chúa ra sao ? 4.Đứng trước cơn đói, cơn khát của tha nhân chúng ta phải làm gì ? 5.Cho đi có cần thiết không ? Tại sao ?
Mẹ Têrêxa Caculta kể lại câu chuyện đầy cảm kích như thế này: Một lần kia có một người đàn ông TN 17B-142
Mẹ Têrêxa Caculta kể lại câu chuyện đầy cảm kích như thế này: Một lần kia có một người đàn ông đến tìm tôi và nói: “Thưa Mẹ, có một gia đình Ấn Giáo, 8 đứa con, đã nhịn ăn mấy ngày rồi. Xin Mẹ cho họ một cái gì đi”. Tôi liền lấy ít gạo rồi theo ông đến thăm gia đình ấy. Khi tới nơi, tôi thấy rõ hình ảnh cơn đói hằn trên những khuôn mặt trẻ thơ gầy guộc. Tôi trao gạo cho bà mẹ. Bà chia số gạo tôi mang tới thành hai phần, và đi ra ngoài. Khi trở về, tôi bèn hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Chị đáp: “Họ cũng đói lắm”. Họ đây là một gia đình Hồi giáo hàng xóm bên kia đường, và cũng đông con như nhà chị. Điều làm tôi cảm động hơn cả không phải là việc chị đem cho gạo, mà chuyện chị ta biết họ đang đói. Vì biết thế, nên chị mới muốn chia sẻ phần gạo của mình. Đẹp đẽ thay! Tình yêu ấy cụ thể biết bao!”
Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã nói: “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Thật vậy, người phụ nữ trong câu chuyện trên đây đã có một tấm lòng. Chị đã có một tấm lòng tốt. Chị đã “thấy họ đang đói”. Từ đó, Chị đã “chia đôi phần gạo” và đem đến cho gia đình nhà hàng xóm. Tấm lòng tốt là động lực phát xuất việc làm tốt.
Tấm lòng tốt của người phụ nữ phần nào diễn tả tấm lòng của Chúa Giêsu. Tin mừng kể lại nhiều lần Chúa động lòng thương trước những hoàn cảnh khó khăn của con người. Chúa chạnh lòng thương trước đám tang của con trai bà goá thành Naim (Lc 7, 11-17). Chúa khóc trước cái chết của ông Lazarô (Ga 11,35). Chúa đã làm nhiều phép lạ chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền. Người què đi được. Người điếc nghe được. Người mù nhìn thấy. Kẻ câm nói được. Tất cả phát xuất từ tấm lòng tốt của Chúa Giêsu.
Hôm nay, tấm lòng tốt đó được thể hiện qua việc Chúa nhận thấy đám đông dân chúng đang đói. Chúa không đành lòng để đám đông ra về trong tình trạng đói khát. Ngài nhận thấy Ngài cần có trách nhiệm đối với họ. Ngài hỏi các tông đồ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”(Ga 6,5). Câu hỏi vừa cho thấy tấm lòng tốt của Chúa. Đồng thời, với câu hỏi này, Chúa muốn gợi mở “tấm lòng tốt” nơi các tông đồ. Con người thường có thái độ lẫn trốn trước hoàn cảnh khó khăn của người khác. Các tông đồ cũng vậy, muốn giải tán đám đông chứ không muốn tìm giải pháp để giúp họ. Nhưng qua câu hỏi của Chúa Giêsu, các tông đồ bắt đầu có “tấm lòng tốt”. Các ông đi tìm giải pháp. Giải pháp của Philiphê: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”(Ga 6,7). Giải pháp của Anrê: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”(Ga 6,9).
Đối với khả năng của con người, cả hai giải pháp các tông đồ đưa ra không giải quyết được vấn đề. Năm chiếc bánh và hai con cá không là gì so với đám đông dân chúng. Nhưng dẫu sao Chúa Giêsu đã giúp các tông đồ đi từ “số không” đến “có một tấm lòng”. Từ đó các ông “tìm giải pháp” và đi đến “hành động cụ thể” là tìm ra năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa có thể từ không mà làm nên phép lạ giống như từ không Chúa dựng nên trời đất muôn loài muôn vật. Nhưng ở đây, năm chiếc bánh và hai con cá là điều kiện cần thiết để Chúa làm nên phép lạ. Phép lạ này nói lên quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu nhưng đồng thời cũng đề cao vai trò cộng tác của con người.
Để có một “tấm lòng thương xót”, mọi người chúng ta cần phải hỏi chính mình đã làm gì để cộng tác với Chúa? Đã làm gì để chia sẻ và cảm thông với sự thiếu thốn và đau khổ của tha nhân?
Đối với việc thương xác, chúng ta được mời gọi: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết (x. Kinh thương người có mười bốn mối).
Là người công giáo, chúng ta đã thuộc lòng lời kinh đó. Nhưng chúng ta đã áp dụng lời kinh đó như thế nào vào cuộc sống của chúng ta? Vợ chồng có thực hiện lời thề hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối: yêu thương và giúp đỡ nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ không? Cha mẹ có quan tâm nuôi nấng con cái không? Con cái có quan tâm đến sự thiếu thốn của cha mẹ già yếu nghèo khổ không? Xung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người có những hoàn cảnh đặc biệt: nghèo khó, bệnh tật, ốm đau. Chúng ta đã làm gì để giúp họ?
Thời gian qua, nhiều người đã ghi danh vào hội Caritas giáo xứ. Điều đó nói lên tấm lòng của anh chị em. Những đồng tiền ít ỏi của anh chị em góp vào, hằng năm hội Caritas đã làm được nhiều việc bác ái như: thăm viếng các bệnh nhân, những người tàn tật, giúp đỡ những người thiếu thốn, nghèo đói.
Thỉnh thoảng các thành viên trong gia đình Thánh Tâm quyên góp quần áo, một ít tiền từ các nhà hảo tâm để đi lên miền núi, miền dân tộc giúp đỡ cho những người nghèo…Đó là những việc làm đáng trân trọng.
Nhưng yêu thương không dừng lại ở việc “thương xác” mà phải yêu thương cả phần hồn. Chính Chúa Giêsu trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Ngài đã rao giảng tin mừng cho họ. Chúa gặp gỡ những người tội lỗi và kêu gọi họ hoán cải như trường hợp của ông Giakêu, ông Lêvi, người phụ nữ ngoại tình. Chúa kể nhiều dụ ngôn để nói lên tấm lòng mục tử của Ngài như: dụ ngôn người cha nhân hậu, người đàn bà đánh mất đồng bạc, người chăn chiên bỏ lại chín mươi chín con để đi tìm con chiên lạc. Chúa còn lập các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để nuôi sống linh hồn chúng ta. Trước khi về trời, Chúa chọn các tông đồ và trao quyền cho các ông (và các Đấng kế vị) tiếp tục công việc của Ngài cho đến tận thế.
Chúng ta cũng được mời gọi thương linh hồn bằng bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết (x. kinh thương người có mười bốn mối).
Chúng ta đã làm gì để thực hiện lời dạy trên? Có lấy lời lành mà khuyên người khác không? Có khuyên bảo, giúp kẻ có tội ăn năn trở lại không? Có sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm mất lòng ta không? Có dùng lời nói việc làm để giúp cho người khác nhận biết Chúa không?
Trong thời gian qua, Giáo xứ chúng ta đón nhận một số anh chị em dự tòng, họ được rửa tội và gia nhập Giáo Hội. Thành quả này nhờ sự năng nổ của các thành viên hội Lêgiô. Bắt đầu bằng việc đi thăm viếng giúp đỡ những người già, những người đau yếu, từ sự chăm sóc phần xác, các thành viên đã giúp họ tin nhận biết Chúa và từ đó họ xin trở lại đạo. Các thành viên của hội còn khuyên nhủ những người bỏ xưng tội lâu năm biết ăn năn trở về với Chúa. Cách đây mấy tháng, các thành viên hội Lêgiô dẫn đến cho tôi một người đã bỏ xưng tội rước lễ 12 năm. Tôi giúp anh nhớ lại những điều cơ bản về giáo lý nhất là về bí tích giải tội giúp anh giao hoà với Chúa. Sau thời gian đó, anh sống đạo rất tốt. Được biết, các thành viên hội Lêgiô đã thay phiên nhau đến nhà để đọc kinh, cầu nguyện, khuyên bảo anh một thời gian dài trước đó.
Có một gia đình rối đạo khác. Anh là người công giáo. Chị là người lương. Hai anh chị đi làm ăn gặp nhau và quyết định sống chung tới nay đã 9 năm. Anh chị đã có chung với nhau 4 đứa con. Vì mặc cảm nên họ ở xa người có đạo. Các thành viên của gia đình Thánh Tâm đã phát hiện và khuyên bảo họ trong một thời gian dài. Nay anh chấp nhận đến gặp Cha xứ. Sau khi hướng dẫn và giúp anh chị các thủ tục cần thiết, cả gia đình họ được lãnh nhận các bí tích gia nhập đạo.
Qua một vài ví dụ trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự cộng tác. Nhưng trên hết và trước hết là “cần một tấm lòng”. Sống trong một xã hội đầy vô cảm như hôm nay, xin Chúa cho tất cả mỗi người chúng ta có “một tấm lòng”. Tấm lòng của người phụ nữ trong câu chuyện trên đây. Tấm lòng thương xót của Chúa Giêsu. Để chúng ta biết yêu thương mọi người, yêu thương cả phần hồn lẫn phần xác, nhất là những người nghèo khó, bệnh tật, ốm đau, già cả. Để chúng ta biết cộng tác với Chúa với Giáo hội làm cho môi trường chúng ta sống bớt đi nỗi cô đơn và chan hoà tình yêu thương nhau. Amen.
Báo cáo của tổ chức vận động chống đói nghèo quốc tế Oxfam có tiêu đề "Nền kinh tế của 99%" TN 17B-143
Báo cáo của tổ chức vận động chống đói nghèo quốc tế Oxfam có tiêu đề "Nền kinh tế của 99%", được đưa ra trước thời điểm khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) từ 17-20/1, theo đó, tổng tài sản của 3,6 tỷ người nghèo nhất thế giới chỉ tương đương với tổng giá trị tài sản ròng của 8 người gồm 6 công dân Mỹ, một doanh nhân Tây Ban Nha và một doanh nhân đến từ Mexico. Trong số này có những tỷ phú như Bill Gates - nhà sáng lập Tập đoàn công nghệ danh tiếng Microsoft, Mark Zuckerberg - ông chủ trang mạng xã hội "đình đám" Facebook và Jeff Bezos, nhà sáng lập trang bán hàng trực tuyến Amazon. Ước tính, giá trị tài sản của nhóm người giàu nhất này tăng trung bình 11% mỗi năm kể từ 2009.
Cũng theo cách tính toán mới, con số của năm là 43 người giàu nhất và 3,6 tỷ người (50% dân số thế giới).
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có sự bất bình đẳng và chênh lệch giầu nghèo quá lớn như vậy? Có phải vì con người ích kỷ, hẹp hòi không biết chia sẻ cho nhau không, hay thay vì chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men giúp con người đỡ khổ, thì lại tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang?
Thật nguy hiểm, khi con người ngày càng giầu về vật chất, nhưng lại nghèo về tinh thần như: đạo lý, công bằng, tình thương, sự thật, tình liên đới và trách nhiệm, kéo theo sự đói nghèo tổng thể. Phải khẳng định rằng, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Người cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8), nên con người tự bản chất là tình thương. Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn" (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Êlisê ra lệnh: "Cứ dọn cho dân chúng ăn " (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: "Cứ bảo người ta ngồi xuống"… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn… ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 10-12).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Nhìn thấy đám đông, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Đây là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Đức Giêsu không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được ủi an, dạy dỗ và bảo ban.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Triệu chứng thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, không ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công mà không thấy phẫn nộ ; thấy điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm.
Chúa muốn loại bỏ sự vô cảm nơi các môn đệ, Người phán: "Cứ bảo họ ngồi xuống". Ngồi xuống để làm gì, phải chuẩn bị đồ ăn cho họ thôi, một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải truyền tới bàn tay.
Đồng cảm là góp phần mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô, năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán như thế, không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: "một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt tay vào. Đồng cảm không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Đồng cảm là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Quả thật, có lòng thương cảm người khác là một điều tốt, nhưng chưa đủ, cần phải có hành động thực sự nữa. Chúa Giêsu đã làm và dạy chúng ta như thế. Thử nghĩ, trước nỗi đau và túng cực của tha nhân, ta có thái độ thế nào? Ngoảnh mặt làm ngơ hay bưng tai giả vờ làm điếc, không thể chấp nhận được. Chúa không đòi chúng ta làm những việc to lớn, nhưng đòi chúng ta biết chia sẻ những gì trong tầm tay của chúng ta, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Ngạn ngữ phương tây có nói: Giúp người thì trời giúp cho. Việt Nam ta cũng thường nói: ở xởi nởi thì trời cởi cho, ở xẻn xo thì trời co tay lại.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Những người già bị bỏ rơi cô đơn, người này đói vì tôi vô tâm hay đã ăn quá nhiều, người kia rách vì tôi đã mê mải chạy theo mốt. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của chúng ta. Ý thức về sứ mạng này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả, những người cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương.
Lạy Đức Maria, Đấng chỉ bảo đàng lành, xin cầu cho chúng con. Amen.
Nơi nào cũng có người đang chết vì đói. Về Việt Nam, vì đi du lịch ở những khu du lịch sang trọng TN 17B-144
Nơi nào cũng có người đang chết vì đói.
Về Việt Nam, vì đi du lịch ở những khu du lịch sang trọng, nghỉ ở khách sạn 3 sao, 5 sao, 5, 7 tầng cao ngất, ăn ở nhà hàng đắt tiền đủ món ngon vật lạ, tiêu khiển ở những khu giải trí lắm trò lãng phí nên bạn phải thấy cảnh ăn chơi thừa mứa của các quan lại, đại gia, của những tay dốt đặc cán mai học làm sang nhờ những đồng tiền kiếm được mà không đổi lấy chút mồ hôi nước mắt. Họ ăn quá no, uống quá say, nhưng thực ra, họ đang đói: đói một niềm tin, đói một lý tưởng, đói một ý nghĩa cuộc đời.
Nếu về Việt Nam, bạn chịu khó bước xuống khỏi mấy tầng khách sạn kia, chịu khó len vào con hẻm nhỏ, chịu khó ra phía sau những mặt tiền vĩ đại, chịu khó cúi mình chui qua những góc phố chật chội tanh hôi, chui vào những “ổ chuột sài gòn”… hoặc xa hơn một tí, bạn hãy ra khỏi Sàigòn, ra khỏi các thành phố, để về những hóc núi tối tăm xa xôi, bạn sẽ thấy còn biết bao người đang đói từng bữa cơm trắng, đói từng con cá tươi, đói cả gói mì tôm chưa đầy năm ngàn đồng, đói cái quần tấm áo, đói một viên thuốc, đói vệ sinh, đói những nhu cầu căn bản nhất của con người.
Còn có cả những cái đói trí thức, đói công lý, đói tinh thần, đói tình thương đang hiện diện khắp nơi.
Càng lúc càng có nhiều người trẻ đói tình thương của cha của mẹ.
Giới trẻ đang đói một quan tâm đúng mức về tình trạng nguội đức tin và buông thả đời sống luân lý.
Các gia đình đang đói một chuẩn mực đơn hôn, vĩnh hôn, hạnh phúc, đói một chuẩn mực của giáo hội thu nhỏ.
Giáo dân đang đói những gương lành hy sinh cho chính đạo, đói gương sáng đạo đức, đói thông tin quan trọng về hiện tình giáo hội trong nước.
Những người đau khổ vì tội lỗi công khai đang đói một ánh mắt chạnh lòng thương cảm.
Những người bị áp bức đang đói tiếng trống kêu oan, người tù tội đang đói mối thương người “thăm viếng kẻ tù rạc”.
Con Cuông đang đói một lời cầu nguyện, chia sẻ, động viên, và bênh vực cho những người bảo vệ đức tin, công lý, tự do trước thế lực gian tà xem thường Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa.
…. Đói khắp nơi!
Chúa không để chúng ta đói
Là ông chủ tốt bụng, là người Cha nhân lành, Thiên Chúa không muốn con người chúng ta chết vì đói, cũng không để chúng ta chết đói. Ngài ban cho chúng ta trí khôn để biết kiếm cái ăn, và ban cho trái tim để biết chia sẻ cái ăn cho người khác. Chỉ tiếc là, chúng ta biết tận dụng khả năng của trí khôn để kiếm ra cái ăn cho mình nhưng không có trái tim chạnh lòng thương người chia sẻ cái ăn cho người nên mới xảy ra là, “kẻ ăn không hết, người làm không ra”. Người nghèo đói cái ăn, người giàu đói lòng nhân ái. Cả hai đều đói.
Tin Mừng hôm nay giới thiệu một Đức Giêsu có lòng nhân ái trước cái đói phần xác của con người và giới thiệu một người có lòng nhân ái giống Chúa Giêsu, không ai khác, đó là một em bé, có năm chiếc bánh be bé và hai con cá nho nhỏ.
Vâng Tin Mừng thuật lại rằng: Chúa Giêsu để ý đến đoàn người theo Ngài đang đói, và Ngài muốn kiếm cho họ cái ăn: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?". Chúa Giêsu không hỏi phải tốn bao nhiêu tiền lo cho người ta ăn nhưng Ngài hỏi “mua ở đâu”. Vậy mà, Philipphê muốn tránh né chuyện lo ăn cho người ta bằng cách trả lời:"Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Còn ông Anre, đã không đi mua, lại còn tính toán chi li đến chuyện đòi chia phần nhỏ của em bé cho ngàn người ăn trong khi chưa biết em bé có bằng lòng không.
Chuyện kỳ diệu đã xảy ra là em bé bằng lòng trao 5 chiếc bánh và hai con cá cho các ông.
Năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, là khẩu phần vừa đủ cho một em bé. Em đã sẵn sàng cho đi phần nuôi sống mình.
Nếu 5 chiếc bánh và hai con cá ấy của một người lớn, người có đầy kinh nghiệm về cuộc sinh tồn, chắc gì, người ấy đã sẻ chia?
Em bé nầy giống Chúa Giêsu vì có lòng nhân ái, sẵn sàng cho đi chính sự sống của mình. Và phép lạ của lòng nhân ái đã xảy ra. Mọi người ăn no.
Chúa muốn chúng ta nuôi nhau
Chúa muốn chúng ta nuôi sống nhau bằng lòng nhân ái, bằng trái tim biết chạnh lòng thương. Nhưng lòng nhân ái, và trái tim chạnh thương chỉ có nơi những tâm hồn bé nhỏ, biết tín thác hoàn toàn vào Chúa.
Giá trị của việc cho đi ở chỗ cho đi chính nhu cầu của mình. Những đồng tiền bác ái không phải là những đồng tiền dư thừa, nhưng chính là đồng tiền nuôi sống gia đình. Chia sẻ chính đồng tiền nuôi sống mình, chứ không phải chia sẻ đồng tiền dư thừa, cất để.
Năm chiếc bánh be bé của em bé, hai con cá nho nhỏ của em nhỏ làm tôi liên tưởng đến miếng cơm manh áo của chúng ta trong những ngày cùng cực sau 1975. Người có tiền xếp hàng mua từng mét vải, từng cân gạo, từng ký cá. Có người không tiền đứng ngoài hàng ngó người trong hàng mà đứt từng đoạn ruột khi nghĩ đến đám nhỏ nhà mình sẽ không có gì để ăn để sống trong những ngày sắp tới. Chờ người trong hàng bước ra với đôi cân gạo mới dám tỏ bày: “Chị cho em mượn một lon gạo. Một lon thôi, thằng út thèm cháo mấy hôm rồi”. Chị kia lấy tay vóc mấy vóc gạo thiu hẫm: “Chị cầm đỡ đi, nhà tôi chín người, cũng đang đói”.
Thương ơi những ngày gian khổ ấy, và cũng chính từ những gian khổ ấy, mới rõ ra rằng “việc nhỏ” của “tấm lòng lớn” là việc của Hy Tế.
Có vài “nhóm bác ái công giáo” ở Sài Gòn không thường đi du lịch, nhưng lại rất thường có những chuyến đi thăm các họ đạo xa xôi ở miền Tây sông nước, ở miền Trung cao nguyên hay mạn ngược miền sơn cước phía bắc. Tôi nể phục họ vì họ đến để “xem nơi người ở và ở lại với người”, ăn uống với người, sinh hoạt với người, hiểu người, yêu mến người và cuối cùng là tìm đủ mọi cách để chia sẻ cho người những điều kiện sống tương đối hơn.
Có lần họ đến thăm một vài Giáo Xứ gần nơi tôi sống, rồi về kể cho nhau nghe: Về thăm xóm rẫy của anh H, và dự thánh lễ tại nhà thờ một giáo họ, mình để ý có mấy người đi lễ mang những chiếc áo dài không sang trọng lắm, nhưng đủ đàng hoàng xinh đẹp mà chính tay mình đã xin về, giặt ủi, xếp vào bao và giao cho anh H. Ôi, mình thật hạnh phúc, thật sung sướng vì đã góp một chút công vào phép lạ của tình thương Thiên Chúa.
Quả thực, nếu có những sẻ chia phát xuất từ trái tim nhân ái, chắc hẳn sẽ không còn quá nhiều cảnh khổ đau, chết chóc vì đói.
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi chúng ta biết tín thác vào Chúa, và biết sẻ chia sự sống cho nhau. Sự sống ấy, không chỉ là cái ăn, cái mặc mà còn là tình thương, lòng thông cảm, mà còn là gióng lên tiếng trống kêu oan, rập ràng tiếng kinh nguyện cầu cho công lý, ý hợp tâm đầu bảo vệ Đức Tin công giáo, tiếp sức cho người chiến đấu cho công lý, cho tự do…
Hình ảnh em bé với “ năm tấm bánh bé hai con cá nhỏ” có thể làm động lòng chúng ta. Thiết tưởng, bao lâu chúng ta còn muốn làm người lớn với bao toan tính, tránh né, an vị yên thân, thì bấy lâu vẫn còn khó lòng mà biết sẻ chia cho đời tấm bánh hay con cá vốn đã dư thừa, cất để.
Nguyện xin Chúa cho chúng con lòng đơn sơ khiêm nhượng tín thác như bé thơ để dám tin rằng ai đành mất sự sống mình thì được sống muôn đời. Amen.
Hôm nay, chúng ta nghe thánh Gioan tường thuật một phép lạ của Ngài, gây ngạc nhiên và bỡ ngỡ cho các môn đệ và cho cả đám dân theo Ngài.
Đây không chỉ là một tường thuật về một phép lạ mà là vẽ lên một nét đặc trưng của Chúa Giêsu. Ngài hóa bánh ra nhiều để cho dân chúng ăn.
Các thánh sử khác cho rằng, Ngài thấy dân chúng đang đói không có gì ăn, Ngài mới hóa bánh ra nuôi họ. Ở đây, Gioan không nói gì về nhu cầu của dân mà chỉ nói đến một hành động do chính Ngài muốn. Ngài muốn cho dân ăn một bữa no nê.
Trước khi hóa bánh ra nhiều, Ngài hỏi ý Philipphê để xem ông phản ứng ra sao. Đúng như Ngài đoán, Philipphê bối rối: làm sao có thể nuôi một số người đông đảo như thế trong vùng hoang vắng này. Có tiền cũng không tài nào mua bánh đâu cho đủ. Ngài đặt ông trước một sự thật mà khả năng ông không thể đáp ứng và ông phải thú nhận sự bất lực của mình. Chúng ta cũng thế thôi. Nếu không có Chúa, chúng ta làm được gì? Có lẽ chúng ta có thể xây nhà, phát triển kinh tế… nhưng bao nhiêu đó có là gì? Những công trình của loài người chỉ là vết chân chim trên bãi cát dài, nước biển sẽ bôi xóa tất cả. Những công trình thế kỷ của loài người đều tàn tạ theo ngày tháng. Nhưng kim tử tháp Ai Cập, dù tồn tại hàng nghìn năm cũng chỉ còn là những vết tích phai mờ của một quá khứ vẻ vang mà thôi. Chúng ta có tài giỏi đến đâu, phương tiện của chúng ta dồi dào đến đâu cũng không thể tồn tại. Một cuộc động đất có thể phá hủy toàn bộ những công trình của nhiều thế kỷ. Khả năng của chúng ta mong manh như thế. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được những gì Ngài muốn: “Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể được”.
Chúng ta làm được gì trước bạo lực đang bao trùm thế giới? Chúng ta làm được gì trước làn sóng gian ác đang tràn ngập thế giới? Trước nạn đói đang hoành hành trên nhiều miền thế giới? Chỉ có Chúa mới có thể giải cứu con người, mới đem lại bình an và hạnh phúc cho con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta cùng cộng tác với Ngài. Hãy đem đến cho Ngài năm chiếc bánh và hai con cá của chúng ta. Chúa sẽ dùng nó để làm công việc của Ngài. Ngài muốn chúng ta góp phần của mình để mang lại cho tha nhân nguồn sống hạnh phúc.
Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Chúng ta nhớ câu chuyện ở đám cưới tại Cana. Chúa đã cho nhà đám một món quà hết sức quí báu là hơn sáu trăm lít rượu ngon hảo hạng. Chúa cho chúng ta thấy, Ngài là sự sung mãn vô biên. Ngài không hẹp hòi như chúng ta. Ngài cũng không bất lực như chúng ta. Muốn làm được việc gì tồn tại, chỉ cần một điều kiện tiên quyết: tin. Ở Cana, Đức Mẹ đã tin. Niềm tin là một bảo đảm không thể thiếu vì: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.
Thánh Gioan, khi tường thuật phép lạ này, ngài dùng những từ quen thuộc với chúng ta: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, phân phát cho những người ngồi đó… Nhưng cử chỉ này báo trước một việc mà Ngài sẽ làm sau này trước khi chịu khổ nạn. Ở đây chưa đến lúc chúng ta nói đến việc đó. Chúng ta chỉ chú ý đến khuôn mặt lạ lùng của Ngài thôi.
Sau khi dân chúng ăn no, Chúa Giêsu bảo các môn đệ gom lại những mảnh vụn còn dư, và họ đã gom lại được mười hai thúng đầy. Đây không phải là một việc cần thiết vì gom lại làm gì khi mọi người đã ăn no và rồi đây họ sẽ tản mát? Đây cũng không phải để tiết kiệm vì không còn ai ăn nữa. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho thấy sự dồi dào của hồng ân. Thiên Chúa không tiếc ơn lành của Ngài. Ngài trao ban nhiều hơn chúng ta cần. Con số mười hai của dân Do Thái là con số tượng trưng cho sự tròn đầy. Ngài muốn chứng tỏ sự quảng đại của Thiên Chúa.
Tin mừng Ga 6: 1-15: Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mà mua TN 17B-146
Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn, đây là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngòai tầm tay của các môn đệ, đây cũng là điều hợp lý. Tất cả đều hợp lý, nhưng lại không được Chúa chấp nhận.
Chúa muốn các môn đệ phải nhận lấy trách nhiệm. Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Nhưng ở đây chúng con vỏn vẹn chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Vậy thì đem lại đây cho Thầy. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải đóng góp phần của mình. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải bắt đầu…và một phép lạ đã xảy ra.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xác nhận rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm một phép lạ.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng sự đóng góp có thể là thời gian, sức khỏe, tiền bạc cho tha nhân, cho những người cần đến chúng ta.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là bớt đi một chút nóng giận, một chút ghen tương , một chút hận thù.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút khiêm nhường, bớt đi những kiêu căng, tự mãn, những phách lối trong cuộc sống gia đình và xã hội.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút kiên nhẫn, biết chờ đợi giờ của Chúa.
Một điều chắc chắn là ai trong chúng ta cũng mong muốn những phép lạ, bởi vì phép lạ luôn làm chúng ta ngạc nhiên, phép lạ luôn làm chúng ta phấn khởi, phép lạ luôn mang lại cho chúng ta những niềm vui.
Vậy tại sao chúng ta không chuẩn bị để mỗi ngày phép lạ đến với gia đình chúng ta? Chắc chắn những phép lạ liên tục sẽ xảy ra trong gia đình chúng ta, trong xứ đạo chúng ta và trên quê hương chúng ta. Nếu trong gia đình, người cha biết đóng góp của mình. Nếu trong gia đình, người mẹ biết đóng góp phần của mình. Nếu trong gia đình, người con biết đóng góp phần của mình. Đó là những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ với năm chiếc bánh và hai con cá Chúa đã cho năm ngàn người ăn no.
Có câu chuyện kể rằng:
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối. Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người. Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc trở về đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như sau:"Ngươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi hãy ở lại đây và xin Chúa cho ngươi thêm lòng khiêm nhường…"
Được lời của sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững vàng rằng mỗi một giây phút qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông, để rồi qua ông Thiên Chúa thực hiện những phép lạ cho những người khác. Amen.
ĐÃ YÊU THÌ ĐỪNG QUÁ TÍNH TOÁN, HÃY LÀM NGAY NHỮNG GÌ TRONG TẦM TAY
Tình cảnh nhân loại từ xưa đến nay nhìn chung thật hiếm có thời kỳ lâu dài được sống trong an TN 17B-147
Tình cảnh nhân loại từ xưa đến nay nhìn chung thật hiếm có thời kỳ lâu dài được sống trong an bình hạnh phúc. Con người càng phát triển thì nhu cầu càng cao và càng thêm nhiều. Kiếm được một lúc nào đó nhân loại trên trái đất này thoả mãn được nguyên chỉ các nhu cầu sinh tồn căn bản như ăn uống mà thôi thì cũng là khó thấy. Ngay cả đến hôm nay khi mà nền khoa học công nghệ phát triển phải nói là rất cao thì vẫn còn đó hằng trăm triệu người ở Á châu, đặc biệt ở Châu lục đen đang phải chịu cảnh thiếu thốn lương thực. Có thể nói ngày nay, người ta chết vì đói thì ít những chết vì thiếu ăn hay thiếu dinh dưỡng thì dường như không thống kê được. Bên cạnh những thiên tai, thì nhân hoạ vẫn đang rình rập con người mọi lúc mọi nơi. Nào là lũ lụt, sóng thần, nào là động đất, hạn hán, nào là khủng bố, chiến tranh…Khói lữa súng đạn đang lan tràn đó đây là một minh chứng. Chuyện khích bác, doạ dẫm nhau bằng vũ khí hạt nhân cũng vẫn chưa ngừng. Nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên đã từng cảnh báo nhiều nước lân bang rằng nếu bị tấn công phủ đầu thì sẽ xảy ra chiến tranh huỷ diệt tức là sẽ có chuyện sử dụng vũ khí hạt nhân. Tai ương, hoạn nạn như đang rình rập chúng ta từng ngày. Người nghèo khổ luôn có đó quanh ta. Cảnh khổ đau như là chuyện cơm bữa của các chương trình thời sự trên truyền hình.
Bài đọc thứ nhất trích sách các Vua tường thuật một nạn đói đang xảy ra tại xứ Ghingan. Đã là nạn đói thì số người khốn khổ là con số rất lớn. Quý ông bà lớn tuổi dân Việt hẳn có kinh nghiệm nào đó về nạn đói năm 1945 (Ất Dậu) trên quên hương đất nước chúng ta. Dù sinh sau đẻ muộn nhưng qua các tài liệu ghi chép, kẻ hậu sinh cũng hình dung được phần nào cái cảnh người chết dọc đường như rạ, đến nỗi ngay cái chuyện đào hố để chôn cũng lắm vất vả. Rồi đến chuyện phải ăn thịt đồng loại để sống cũng khiến thế hệ hôm nay dù khó tưởng tượng nhưng vẫn là sự thật.
Trước bao cảnh khổ ấy của đồng loại, chúng ta, Kitô hữu, những người theo đạo của tình yêu, của bác ái, ai ai cũng có thể động lòng xót thương. Thế nhưng, chúng ta cũng rất có thể có thái độ như người hầu của tiên tri Êlisêu “ Có được chỉ hai mươi chiếc bánh lúa mạch làm sao có thể phát cho cả trăm người ăn đây”, hay như Philipphê: “ Có mua hai trăm bạc bánh (khoảng trên dưới mười triệu đồng Việt Nam) cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ngài Philipphê tính toán quả không sai. Với năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ thì muời triệu tiền cũng bánh chẳng thấm vào đâu. Các Tin mừng nhất Lãm còn cho ta hay rằng có tông đồ lại hiến kế kiểu phủi tay: Thôi, ta giải tán để họ vào làng mà mua thức ăn (x.Mt 14,15; Mc 6,36; Lc 9,12). Một diệu kế rất mang tính kinh tế. Tuy nhiên, đằng sau nó vẫn là một tấm lòng đầy tính toán và dĩ nhiên nó bộc lộ sự hẹp hòi của con tim.
“Phát cho họ ăn đi”. Elisêu khẳng khái với người hầu cách không do dự. Còn Chúa Giêsu thì dứt khoát: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Đã yêu thì đừng tính toán. Đã yêu thì hãy làm ngay những gì trong tầm tay của mình. Tình yêu không hệ tại ở số lượng. Chúng ta vốn quen với câu chuyện bà goá nghèo trong Tin Mừng. Dù với hai xu nhỏ nhưng hơn cả trăm triệu đồng của những người giàu có, khi họ chỉ trao dâng cái phần thừa thải của mình, còn bà thì thực hiện nghĩa cử yêu thương bằng cả sự sống còn của mình (x. Lc 21,1-4; Mc 12,41-44).
Quả thật, rất nhiều lần trước cảnh tình khốn khổ của tha nhân, chúng ta viện cớ là làm không xuể, làm như muối bỏ biển, nên đã thoái thác nghĩa vụ yêu thương như lời Chúa chỉ dạy. Ma quỷ có thừa xảo kế tinh ranh. Chúng đâu có cám dỗ chúng ta không thương yêu tha nhân, nhưng lại gieo vào tâm trí chúng ta sự tính toán về kết quả. Ai lại không mong việc làm của mình có kết quả, nhất là những việc tốt, những nghĩa cử yêu thương? Khi cám dỗ ta về viễn cảnh không như ý, đó là dù ta có cố sức đến bao nhiêu cũng chẳng giải quyết được sự gì, thì ma quỷ đã thành công nhiều lần, khi khiến chúng ta chần chừ, ngần ngại dấn thân. Và từ sự ngần ngại, lần lữa chúng ta đã nhiều lần bỏ qua nhiều dịp để sống yêu thương.
Là Thiên Chúa, với quyền năng cao cả, Chúa Giêsu có thể làm từ không ra có. Ngài có thể cho bánh từ trời xuống nuôi dân, hoặc biến sỏi đá thành cơm bánh. Thế nhưng, Chúa lại muốn cần đến năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ của một em bé lúc bấy giờ để rồi giáng phúc thi ân cho cả gần mười ngàn người hôm ấy. Khi nhận lấy phần cá, bánh nhỏ bé ấy không phải Chúa cần bao nhiêu phần trăm phần góp của chúng ta cho bằng sự dấn thân của ta trong tình yêu. Khi nhận lấy năm chiếc bánh và hai con cá từ tay em bé, Chúa Giêsu minh định với chúng rằng đã yêu thì đừng quá tính toán.
“Ăn - cho, buôn - so”. Đã có tính toán, so đo thì thật khó sống yêu thương. Đợi cho đầy đủ các tiện nghi rồi mới phục vụ thì không còn là phục vụ. Đợi cho đầy đủ tiền, có cơ sở vật chất hay đủ phương tiện rồi mới sống quảng đại với đàn chiên thì chưa phải là mục tử. Đợi cho dư dã rồi mới làm việc bác ái yêu thương thì còn gì là yêu thương bác ái. Dù rằng cần biết sống khôn ngoan và thận trọng, nhưng đã yêu thì phải chấp nhận “liều”một cách nào đó. “Một con én không làm nên mùa xuân”. Đây là một lời nhận định thiết thực, cũng có thể là một lời khuyên khôn ngoan, nhưng rất có thể là một chước cám dỗ tinh tế của thần dữ. Xin đừng quên rằng sẽ chẳng bao giờ có mùa xuân nếu không có từng con chim én nhỏ.
Người nghèo luôn ở bên ta. Cảnh khốn khổ của đồng loại vẫn nhan nhãn trước mắt chúng ta. Nguyên nhân của sự nghèo đói, cảnh khốn cùng hiện nay chủ yếu là do bạo quyền, nạn bất công, sự gian dối. Lời mời gọi yêu thương, dấn thân chia sẻ đang tha thiết ngõ với chúng ta: “Chúng tôi rất cần tình yêu của bạn, của ông bà, anh chị…”. Đã yêu, xin đừng quá tính toán. Hãy làm những gì có thể trong tầm tay, ngay hôm nay. Với cả con tim, với sự dấn thân hết mình thì một nghĩa cử yêu thương dù nhỏ bé, bình thường cũng có thể gặt hái kết quả phi thường và to lớn. Một chân lý ngàn đời: Đấng là Tình Yêu và cũng là Đấng mà không có sự gì là không thể, luôn đồng hành với người biết yêu thương cách không tính toán.
Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia) đã cùng nhà nước kiềm chế lạm TN 17B-148
"Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia) đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương... để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaysia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng".
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: "Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là "sống chết mặc bây, tao no trước đã". Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang."
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì mọi người và cho mọi người: "cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: "Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: "sống chết mặc bây, tao no trước đã." Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giêsu.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy".
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, "ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý."
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, "hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình" (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giêsu muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
Khi đối diện khó khăn, thử thách, trở ngại, chúng ta thường làm gì?Có biết bao khó khăn về cơm TN 17B-149
Khi đối diện khó khăn, thử thách, trở ngại, chúng ta thường làm gì?
Có biết bao khó khăn về cơm bánh gạo tiền, khó khăn về sức khỏe, về tìm cảm khiến chúng ta cảm thấy bế tắt, chúng ta sẽ làm gì?
Hôm nay tôi muốn chia sẻ quý vị một phương pháp có thể thoát khỏi mọi khó khăn, trở ngại ấy chính là trao vào tay Chúa những khó khăn ấy. Ngài có đủ quyền năng để giúp chúng ta vượt qua. Và cũng chỉ một mình Ngài là đủ quyền năng mà thôi.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều đều được 4 phúc âm ghi lại. Ở đây chúng ta thấy Chúa Giê-su phải đối diện với rất nhiều khó khăn. Khó khăn với một đoàn lũ rất đông người theo Chúa. Khó khăn vì đang ở nơi heo hút rừng vắng. Khó khăn vì đã chiều về rồi làm sao kịp xoay sở. Thế nhưng, Chúa vẫn bình tĩnh hỏi Philp : « Ta mua đâu bánh cho họ ăn ». Chúa cũng nhắc các tông đồ rằng các ông đang phải đối diện với một chướng ngại, một khó khăn, làm sao các ông vượt qua?
Philp bảo 200 đồng không mua nổi, hơn nữa đây lại là nơi hoang vắng.
Nhưng Chúa bảo hãy bắt đầu, phải bắt đầu còn hoàn tất để Chúa lo.
Anre đã vui mừng bắt đầu bằng 5 chiếc bánh và hai con cá.
Một ổ bánh mì chẳng thấm vào đâu so với hơn 5000 người.
Thế mà khi bánh và cá trao vào tay Chúa thì mọi sự đã trở nên dễ dàng đủ cho hơn 5000 người ăn và có thể là 15.000 người ăn vì còn trẻ con và đàn bà.
Qua đây cho chúng ta thấy, dầu có khó khăn mấy chẳng nữa, dầu có bế tắc nhưng với Chúa thì không bế tắc. Ngài sẽ có cách giúp chúng ta vượt qua.
Vậy, khi chúng ta đối diện với những người Chúa gửi tới bất đắc dĩ khiến chúng ta cảm thấy làm sao lo cho họ đủ. Như phải đón nhận đứa con Chúa gửi tới vì bể kế hoạch, hay phải chăm lo cha mẹ già, bệnh tật. Chúng ta cảm thấy gánh nặng. Hãy đón nhận. Hãy trao vào tay Chúa nỗ lực của mình để Chúa hoàn tất như khi xưa Anre đã trao cho Chúa 5 cái bánh và hai con cá.
Thử hỏi nếu Chúa gửi đến chúng ta những người cha mẹ già nua, những người chồng vợ bệnh tật. Chúng ta thường băn khoăn làm sao đây khi mà mình còn phải bươn trải kiếm ăn làm sao chăm sóc những người này. Đây là những khó khăn vượt khả năng chúng ta nhưng không vượt khả năng Chúa. Hãy tín thác vào Chúa. Quyền năng Chúa có thể làm được. Chúng ta hãy nói với Chúa. Chúa ơi, điều này vượt khả năng con. Chúa hãy làm thay con. Chắc chắn quyền năng Chúa sẽ thực hiện.
Khi chúng ta đối diện với cái thiếu thốn về tiền bạc. Như Philp đã nêu khó khăn cho Chúa. Nhưng phép lạ đã diễn ra không cần tiền mà bánh vẫn phát đủ cho 5000 người ăn.
Thế nên, khi chúng ta gặp những bệnh tật, những rủi ro, những bất trắc và cả những khó khăn. Chúng ta đừng sợ là mình không vượt qua được. Chúng ta có một nhà tài trợ rất giầu có và cũng rất quyền năng. Đó chính là Thiên Chúa, Ngài sẽ làm mọi sự cho chúng ta. Đừng quên Ngài trong cuộc đời chúng ta. Đừng đánh mất Ngài kẻo chúng ta sẽ mất tất cả. Thiên Chúa của chúng ta có thừa quyền năng để giúp chúng ta vượt qua thử thách. Đừng sợ khó khăn. Đừng sợ gian nan. Thiên Chúa sẽ làm mọi sự để hỗ trợ chúng ta miễn là chúng ta chạy đến với Chúa kêu cầu Chúa, thì chắc chắn chúng ta sẽ được toại nguyện.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy tin vào quyền năng Chúa. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
-----------------------------
TN 17B-150: Phép lạ hoá bánh tiên báo Bí Tích Thánh Thể
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Ðám đông dân chúng theo Ðức Giêsu vì họ thấy những phép lạ Người làm, chữa người đau yếu TN 17B-150
Ðám đông dân chúng theo Ðức Giêsu vì họ thấy những phép lạ Người làm, chữa người đau yếu bệnh tật. Họ say mê nghe lời Người giảng dạy và xem việc Người làm đến độ quên rằng trời đã xế chiều và lại quên mang thức ăn.
Biết họ không có gì ăn, mà cho họ về nhà thì đường xá lại xa xôi cách trở. Vì thế Ðức Giêsu quyết định làm phép lạ hoá năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Ðọc Thánh kinh, ta thấy mỗi lần Chúa làm phép lạ đều do người ta xin. Lần này Ðức Giêsu làm phép lạ mà không có người xin, vì Người quan tâm đến nhu cầu thể xác của họ. Không thấy ai trong số năm ngàn người theo Chúa kêu đói và xin ăn. Các tông đồ cũng không đề nghị giải pháp nào cho họ ăn. Câu hỏi Ðức Giêsu hỏi Philiphê sao mua bánh ở đâu cho họ ăn có thể chỉ là câu hỏi giả vờ để thử các tông đồ mà thôi.
Bài trích sách các Vua quyển hai kể lại việc ngôn sứ Ê-li-sa dùng quyền năng Chúa ban để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Câu chuyện Thánh kinh được kể lại như sau. Trong thời nạn đói, có người đem đến cho ngôn sứ Ê-li-sa hai mươi ổ bánh. Mặc dù không đủ cho một trăm người ăn, vị ngôn sứ vẫn phân phát cho dân chúng. Kết quả là khi họ đã ăn no nê, mà vẫn còn dư lại (2V 4:42-44).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu cầm bánh, tạ ơn trước khi phân phát cho dân chúng. Bằng việc tạ ơn trước khi phân phát, Chúa muốn dạy ta bài học về việc cảm tạ khi nhận lãnh. Biết cảm tạ bao hàm ý nghĩa tuỳ thuộc vào Chúa. Bài học thứ hai Chúa muốn dạy ta là không nên phung phí đồ ăn thức uống. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa bảo các tông đồ thu đồ ăn còn dư lại kẻo phí phạm và họ thu được mười hai thúng đầy bánh còn dư (Ga 6:13). Bài học thứ ba là Chúa muốn sửa soạn tâm trí các tông đồ để họ đón nhận Bí tích Thánh thể mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Chúa làm phép lạ hoá bánh nuôi dân là do lòng thương xót của Người vì dân chúng không có gì ăn. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, sâu xa hơn việc đáp ứng nhu cầu đói khát của ăn vật chất của dân chúng.
Thánh Gioan nhắc đến lễ Vượt qua gần đến sau phép lạ hoá bánh. Bữa ăn vào ngày lễ Vượt Qua là hình bóng của bữa Tiệc ly. Ngay trước lễ Vượt Qua mà Ðức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì khi Người lập Bí tích Thánh Thể vào dịp lễ Vượt Qua, phải khiến các tông đồ nhớ lại và liên tưởng đến phép lạ hoá bánh. Phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan đã được Phúc âm nhất lãm thuật lại (Mt 14:13:21; Mc 6:33-44; Lc 9:10-17).
Thường thì thánh sử Gioan không thuật lại phép lạ đã được các thánh sử ghi chép rồi. Còn khi thuật lại cùng phép lạ, thánh sử Gioan thường đưa vào câu chuyện một ý nghĩa sâu xa đặc biệt. Và trong chu kì phụng vụ năm B mùa thường niên, lẽ thường thì Giáo hội dùng Phúc âm thánh Mác-cô. Thánh sử Mác-cô cũng ghi lại phép lạ hoá bánh. Tuy nhiên phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan lại được dùng hôm nay vì được coi là câu chuyện nhập đề cho Bí tích Thánh thể vì hầu hết nội dung của phần còn lại trong chương sáu đều nói về bánh hằng sống là Bí tích Thánh thể cho bốn Chúa nhật kế tiếp. Nhắc đến bữa ăn Vượt Qua, thánh Gioan muốn sửa soạn đưa độc giả đến một thực tại mà Ðức Giêsu sẽ thực hiện sau này trong bữa Tiệc Li là việc thiết lập Bí tích Thánh thể. Và đó là ý tứ mà thánh sử Gioan muốn gửi gắm trong câu chuyện Phúc âm về phép lạ hoá bánh.
Những lời Chúa dùng để làm phép lạ hoá bánh: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi ăn (Ga 6:11) cũng giống những lời Chúa dùng khi truyền phép Thánh thể trong bữa Tiệc ly: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Lc 1:19). Thánh sử Gioan ghi lại việc Chúa nuôi dưỡng năm ngàn người ăn như là dấu chỉ về quyền năng mà Người sẽ dùng để nuôi dưỡng loài người bằng của ăn thiêng liêng là Mình Thánh Người. Như vậy phép lạ hoá bánh là dấu chỉ thích hợp để sửa soạn dân chúng nghe những lời Người giảng dạy về Bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này: Bánh mà Ta sẽ ban, chính là Mình Ta cho thế gian được sống (Ga 6:51). Cũng như Chúa dùng quyền năng hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người, Chúa cũng dùng quyền năng biến bánh rượu thành Mình Máu thánh Người, để làm của ăn thiêng liêng cho loài người. Vậy thì trong tâm tình tạ ơn, ta cùng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, dùng lời đáp ca trong thánh lễ để nhắc nhở ta về đường lối quan phòng của Chúa: Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no đủ (Tv 144:16). Người tín hữu thời giáo hội sơ khai khi dâng thánh lễ, họ mang trong tâm khảm tâm tình tạ ơn. Tạ ơn theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thánh lễ. Như vậy theo nguyên tự Hy lạp, thì dâng lễ có nghĩa là dâng lời tạ ơn.
Lời nguyện xin cho người đói khát được no thoả:
Lậy Thiên Chúa toàn năng, thiện hảo! Con xin tạ ơn Chúa cho của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa cho mưa xuống trên những miền đất khô cằn để người dân có thể trồng cấy đồ ăn thức uống. Và xin cho những người đói khát được no thoả. Xin tha thứ những lần con coi là ngẫu nhiên, những của Chúa ban, lại còn tỏ ra vô ơn bội bạc. Và xin cho con cảm nghiệm được sự đói khát về của ăn thiêng liêng: lời Chúa và Mình thánh Chúa. Amen.