Phúc Âm: Mc 6, 30-34: “Họ như đàn chiên không người chăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Hình ảnh người mục tử nói gì với chúng ta về sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa dành cho chúng ta? Mục tử là một trong những nghề cổ xưa nhất trong nước Israel, thậm chí trước cả nông nghiệp, bởi lẽ Dân được tuyển chọn đã hành trình từ nơi này đến nơi khác, sống trong những tấm lều, dẫn dắt đàn chiên từ đồng cỏ này đến đồng cỏ kia. Việc coi sóc chiên không phải là một nghề dễ dàng. Nó đòi hỏi kỹ năng và lòng can đảm lớn lao. Chiên thường sống theo đàn lớn, hàng ngàn hay thậm chí cả mười ngàn con. Đàn chiên sống quanh năm trong vùng đất trống. Việc coi chừng chúng đòi hỏi sự chú ý và quan tâm đặc biệt.
Chiên lạc phải được đưa về kẻo chúng chết
Con chiên lạc đàn được người mục tử tìm kiếm và mang về đàn. Vì các con linh cẩu, chó rừng, chó sói, và thậm chí gấu rất thường ăn chiên, nên các mục tử phải chiến đấu với những con thú dữ và nguy hiểm này. Thật vậy, người mục tử phải liều mình trong việc bảo vệ đàn chiên của mình. Họ thay phiên nhau canh gác đàn chiên lúc đêm tối để ngăn ngừa bất kỳ kẻ tấn công nào. Chiên và mục tử luôn gắn bó với nhau. Cuộc đời của họ rất mật thiết với nhau đến nỗi mỗi một con chiên, thậm chí khi bị lẫn với đàn khác, có thể nhận ra tiếng của người mục tử của chúng và lập tức quay về khi được gọi tên.
Chính Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta như người mục tử nhân lành
Cựu ước thường nói về Thiên Chúa như người Mục tử của dân Israel. Chúa là Đấng chăn giữ tôi, tôi còn thiếu thốn chi (Tv 23,1). Lạy Mục tử nhà Israel, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! (Tv 80,1). Chúng ta là dân Người, là đàn chiên Người dẫn dắt (Tv 100,3). Đấng Mêsia cũng là hình ảnh của người Mục tử dân TC: Người sẽ chăn dắt đàn chiên như người mục tử, Người sẽ tập trung cả đàn dưới cánh tay (Is 40,11).
Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Mt 18,12; Lc 15,4; Ga 10). Khi Người nhìn thấy đám đông cần sự bảo vệ và che chở, Người đã động lòng trắc ẩn cho họ. Tình yêu của Người là tình yêu cá vị dành cho mỗi một người chạy đến với Người khi cần thiết.
Đức Giêsu là Mục tử và người Bảo vệ linh hồn chúng ta
Thánh Phêrô tông đồ gọi Ðức Giêsu là người Mục tử và người Bảo vệ linh hồn chúng ta (1Pr 2,25). Bạn có biết sự bình an và an toàn của cuộc sống hoàn toàn tùng phục Ðức Giêsu, người Mục tử nhân lành không? Trong con người của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra sự quan tâm và kiên nhẫn không ngừng của tình yêu Thiên Chúa. Trong trận chiến chống lại tội lỗi và ma quỷ của chúng ta, Ðức Giêsu luôn sẵn sàng ban cho chúng ta sự trợ giúp, sức mạnh, và chỗ nương náu. Bạn có tin cậy vào ơn sủng và sự trợ giúp của Người trong mọi lúc không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa canh giữ và bảo vệ chúng con khỏi mọi điều ác hại. Xin giúp con kiên vững trong lời Chúa và tin cậy vào sự trợ giúp của Chúa trong mọi tình huống. Chớ gì con luôn luôn tìm được chốn yên nghỉ và ẩn náu trong sự che chở nơi sự hiện diện của Chúa.
Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Tại sao một tuần lại là 7 ngày, mà không là 10 hay 12; con số tròn trĩnh? Tôi đặt vấn đề với mình như thế. Bảy ngày là một tuần. Quy định ấy là do Chúa đặt ra. Nhưng sao cứ phải sáu ngày, thì ngày thứ bảy là ngày nghỉ? Ở đây, không nói tới ý nghĩa đạo đức, chỉ nới tới ý nghĩa tự nhiên.
Suy nghĩ và nhìn xem, tôi phát hiện ra rằng: Sở dĩ một tuần lễ là bảy ngày, là vì con người. Chúa dựng nên con người. Con người là bụi đất. Chúa biết rõ con người từ trong ra ngoài. Cho nên, Ngài thừa hiểu rằng: Khả năng con người có giới hạn. Con người lao động liên tục trong 6 ngày, là đã quá đủ để con người mệt nhọc. Cho nên ngày thứ bảy, con người phải nghỉ ngơi.
Vì là bụi đất, cho nên việc nghỉ ngơi là điều cần thiết cho con người. Vì thế, sau khi đi rao giảng về, Chúa Giêsu bảo các môn đệ hãy ra nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi chính là lúc để ta phục hồi sức khỏe. Sự cố quá sức sẽ làm ta ngã quỵ. Chúa không đòi hỏi ta phải làm quá sức. Công việc truyền giáo là công việc của Chúa, qua các thời đại, cho nên ta chỉ phải làm hết khả năng, cố gắng hết sức mình, trong niềm phó thác nơi Chúa; chứ không được làm quá sức mình.
Sự nghỉ ngơi cũng là điều cần thiết, để từ nơi thanh vắng, ta có thể gặp gỡ lại Chúa, mà có khi trong lúc đang hăng say trong công việc, ta đã lơ là với Chúa. Sự nghỉ ngơi cũng còn là điều cần thiết, để ta có một khoảng cách mà nhìn lại mình và những công việc của mình, để rồi từ đây ta rút tỉa kinh nghiệm, và thêm những sáng kiến mới. Nhưng nghỉ ngơi rồi, ta lại phải tiếp tục lên đường, vì như Chúa và các môn đệ, đang ở trên thuyền nghỉ ngơi, thì dân chúng cứ đua nhau chạy theo thuyền.
Thuyền dừng lại, Chúa ra khỏi thuyền, thấy đám người quá đông, thì Chúa chạnh lòng thương. Họ như những con chiên bơ vơ không có người chăn. Không có người chăn, là không có người chỉ lối dẫn đường, họ sẽ chẳng tìm thấy lối đi trong cuộc đời, và đời họ sẽ bơ vơ tội nghiệp. Không có người chăn, họ sẽ lạc đường; họ sẽ đánh trôi mất linh hồn quý giá, mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải chết để cứu chuộc. Không có người chăn, họ sẽ rơi vào tay bầy chó sói ma quỷ, và kiếp trầm luân là điểm đến tội nghiệp của họ. Cho nên, nghỉ ngơi xong, các tông đồ lại phải gấp rút lên đường.
Câu hỏi:
1 – Bạn có thấy sự nghỉ ngơi là cần thiết? 2 – Ai là người chăn dắt đời bạn?
Thiên Chúa đã dùng tiên tri Giêrêmia để quở trách và kết án những người lãnh đạo dân Chúa. Họ chẳng lo lắng đến dân chúng lại còn làm cho dân chúng phải điêu đứng và phân tán. Tuy nhiên Thiên Chúa đã mở ra cho thấy một viễn tượng tươi sáng. Mầm công chính xuất phát từ dòng Đavít, sẽ làm vua thống trị, sẽ thực thi hoà bình và công lý. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành mà tiên tri Giêrêmia đã diễn tả. Ngài thương dân vì họ bơ vơ không có chủ chăn và ngài băt đầu dạy họ nhiều điều. Ngài như đồng cỏ non và như dòng suối mát để xoa dịu cơn đói khát của con người. Thế giới ngày nay tràn ngập ngôn từ, đầy dẫy những lời lẽ tuyên truyền và quảng cáo, thì liệu còn chỗ nào dành cho lời Chúa hay không. Nếu con người nghe theo tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài thì ngày kia, chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc. Trái lại Ngài chăm sóc cho từng con chiên một, băng bó những con bị thương, và vác lên vai con bị đau yếu. Ngài dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, và tới dòng suối mát. Ngài dám thí mạng sống để bảo vệ đoàn chiên, và cuối cùng, Ngài đã trở nên của ăn nuôi sống cho đoàn chiên.
Tiếp đến Chúa Giêsu còn là vị mục tử hoà giải. Tội lỗi đem lại sự phân cách với Thiên Chúa, sự bất hoà với nhau và sự hỗn loạn trong xã hội. Như lời sách Sáng Thế Ký đã nói: Vì ngươi bất tuân nên đất đai sẽ nguyền rủa ngươi. Người mục tử đích thực của đoàn chiên sẽ tiêu diệt tội lỗi, xoá bỏ đi sự ngăn cách giữa trời và đất, sự thù hận giữa người với người. Bằng thập giá, Ngài đã thực hiện được mục đích đó, đồng thời tụ họp chúng ta lại với nhau. Đôi tay Ngài dang rộng như muốn ôm trọn cả nhân loại như lời thánh Phaolô: Chúng ta trở nên gần gũi nhau nhờ máu Đức Kitô. Cây thập giá gồm hai nét. Nét dọc nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Còn nét ngang nối kết chúng ta lại với nhau.
Sau cùng Chúa Giêsu là mục tử an bình. Ngài đã thực hiện lời tiên tri Giêrêmia, tách biệt khỏi những kẻ chăn thuê vì lợi lộc để chứng thực mình là mục tử nhân lành. Ngài xua đuổi chó sói, và những kẻ cướp bóc. Ngài dạy dỗ và cứu vớt những con chiên lạc, dẫn đưa đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi. Đi bên Ngài chúng ta không còn sợ hãi chi, và không lo thiếu thốn thứ gì cả. Ngài chính là sự sáng. Đi theo Ngài chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con: TN 16-B104
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”. Cụ già chất phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.
Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.
Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
Sau Tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm: TN 16-B105
Sau Tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên lên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôn chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê (5,1), bờ biển Phênicia, (7, 24-31) hay gần nguồn sông Giodan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đờ sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day…Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi… Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước. Chúa Giêsu sai các môn đệ ra TN 16-B106
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
1. Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu. Giữa những đam mê quay cuồng giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu Giữa lúc bị cuộc đời từ khước giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa. Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị. Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần. Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình. Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
3. Thinh lặng để sống nội tâm
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Sự lạnh TN 16-B107
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Sự lạnh lùng con tim khiến cho tình người giá rét đến nỗi không thể thổi hơi ấm tình người cho nhau. Trái tim lạnh lùng đã khiến họ co ro trong vỏ ốc ích kỷ cá nhân mà không thể vươn ra với đồng loại. Sống giữa xã hội lạnh băng tình người, ta sẽ cảm thấy cái lạnh xuyên thấu tâm can, nó dẫn ta đến nỗi đau tột cùng của sự cô đơn.
Cái lạnh tình người ấy dường như đang bao phủ trong xã hội việt Nam hôm nay. Theo kết quả mới công bố của hãng khảo sát quốc tế Gallup, Việt Nam xếp thứ 13 trong những quốc gia vô cảm nhất thế giới. Thực hư của khảo sát không biết đúng hay sai? Nhưng càng ngày, chúng ta càng phải chứng kiến những câu chuyện đau lòng, những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Chuyện nữ sinh đánh nhau được các bạn cổ vũ nhiệt tình; chuyện bác sĩ thờ ơ, tắc trách làm chết bệnh nhân; chuyện bảo mẫu, cha mẹ bạo hành con trẻ đến chết; chuyện những vụ án giết người man rợ… khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức mà biểu hiện rõ nhất là sự vô cảm của con người. Người ta lo ngại “bệnh vô cảm” đang có sức lây lan rất lớn, len lỏi khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội.
Sự vô cảm của con người dâng cao đến độ vô tâm làm hại nhau bằng đầu độc thuốc độc hại trong thực phẩm, trong trái cây. . . Dường như trong tất cả các trái cây hay rau xanh bán ở thị trường Việt Nam hôm nay đều được xịt thuốc trước hoặc sau. Đó là hành động giết người, là tội ác, là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế nhưng, những sát thủ này vì lợi nhuận vẫn thản nhiên bơm thuốc vào thực phẩm để bán. Sư vô tâm còn man rợ đến nỗi gây nguy hiểm cho tha nhân khi chạy xe ẩu, lạng lách, đánh võng và thiếu nhường nhịn nhau trong giao thông đã gây nên hàng vạn cái chết thương tâm.
Trước một xã hội lạnh giá như vậy thì cần lắm một ngọn lửa tình người được thắp lên. Cần lắm những con người vượt lên trên lợi nhuận để sống có lương tâm, có đạo đức, có tình người. Đừng vì lợi nhuận mà đầu độc thuốc vào thực phẩm. Đừng vì vô tâm mà thấy nguy hiểm với tha nhân mà vẫn thản nhiên.
Giữa một xã hội lạnh lùng tình người thì cần lắm một đời sống chứng nhân của người ky-tô hữu. Người ky-tô hữu phải sống cho Tin mừng. Một Tin Mừng của yêu thương không tham lam của người và biết chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó. Một Tin mừng của tình người luôn biết chạnh lòng thương xót những khổ đau của tha nhân, và sẵn lòng cúi xuống phục vụ mà không mong đền đáp. Một Tin Mừng của công lý và hòa bình để người người biết tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp hầu xây dựng một thế giới hòa bình yêu thương.
Chúa Giê-su đã sống yêu thương. Tình yêu của Ngài trải rộng cho mọi người. Trái tim Ngài luôn chạnh lòng xót thương những mảnh đời khổ đau. Ngài luôn dấn thân xây dựng một thế giới công bằng bác ái. Ngài luôn đặt lợi ích tha nhân lên trên quyền lợi bản thân. Phúc âm ghi rằng Ngài và các môn đệ toan tính rời xa đám đông để nghỉ ngơi. Thế mà, đám đông vẫn theo Ngài. Ngài chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục thi ân cho họ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trở nên giống như Chúa luôn sống bác ái yêu thương với mọi người. Xin đừng vì ích kỷ mà đóng cửa lòng với những nhu cầu khổ đau của tha nhân. Xin đừng vì tham lam mà sống thiếu công lý và tình thương làm hại người, hại đời. Amen.
Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh. Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho Thế Vận hội này.
Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp với 3 gam màu chủ đạo.
1. Gam màu vàng cam. Đó chính là hình ảnh các Tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung thành với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà... Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp “chứng chỉ tốt nghiệp” hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?
2. Gam màu xanh thẳm. Đó là gam màu phác hoạ hình ảnh đám đông dân chúng như là đàn chiên đang hết lòng đi theo Mục Tử của mình và khao khát được nghe lời hằng sống của Vị Mục Tử ấy. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh “bị” tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, ngoài biển khơi, hay trong hoang địa... Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Marcô mô tả.
Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.
3. Gam màu hồng thắm. Đây là gam màu nổi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Hậu Từ Tâm.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại, Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh - ngưng nói, ngưng làm - để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc vất vả. Xin giúp thánh hoá công việc con làm và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
Sau Ngôn Sứ Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo Dân Chúa, nay đến Ngôn Sứ Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số đó chính vị Ngôn Sứ là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho Dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai, vậy mà nay họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, vị Ngôn Sứ nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi tộc Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Ngài. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” ( 9, 2 ), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê ( 5, 1 ), bờ biển Phênicia ( 7, 24-31 ) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon ( 8, 27 ). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông Đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm Tông Đồ của mình ( 6, 30 ), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài trỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” ( 1, 35 ). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống Tông Đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để ra những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day… Trước khi khai mạc Công ĐồNG Vaticanô II, ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi… Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Một Giám Mục trông coi một Giáo Phận gần Sao Paulo, thủ đô của Brasil, đã biết rõ tinh thần của phong trào Focolare ( Bác Ái Hiệp Nhất ). Ngài muốn tinh thần tốt đẹp ấy cũng được thâm nhập vào Giáo Phận của ngài. Ngài mời một nhóm Linh Mục của nhóm Focolare đến giảng tĩnh tâm. Họ đã đến, nhưng ngay những ngày đầu tiên họ gặp phải một sự chống đối rất nặng nề và cảm thấy trở ngại rất nhiều trong việc giảng huấn. Sau đó, vào giờ nói chuyện với các Linh Mục, họ nhận ra rằng giữa các Linh Mục và Giám Mục có một sự căng thẳng rất trầm trọng. Họ trình bày với Đức Giám Mục về chuyện đó, ngài hứa sẽ sẵn sàng xin lỗi các Linh Mục trong Thánh Lễ ngày hôm sau về những khuyết điểm sai lầm và bất công trong suốt thời gian qua. Ngài muốn sống đúng theo câu khuyên của Chúa: "Khi con dâng lễ, nếu chợt nhớ ra có ai bất bình với con, hãy để lễ vật đó trước bàn thờ rồi đi làm hoà với anh em con trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật" ( Mt 5, 23-24 ).
Trong Thánh Lễ, Đức Giám Mục đã khiêm tốn xin lỗi cộng đoàn Linh Mục, nhưng điều đó vẫn không mang lại một kết quả nào. Ngài hiểu rằng cần phải tiến thêm một bước nữa. Ngài tìm đến từng phòng để nói chuyện riêng với mỗi Linh Mục. Cử chỉ này đã làm cho các Linh Mục rất đỗi xúc động. Các ngài bắt đầu cởi mở, trình với Đức Giám Mục hết mọi khó khăn, mọi vấn đề của các ngài. Các ngài bộc lộ hết tâm hồn mình cho Giám Mục và chấp nhận Giám Mục như là người anh, như chính Chúa Giêsu, và tạo nên một sự cảm thông sâu xa giữa hai bên. Trong tuần phòng đó, tất cả đã trở nên một đại gia đình, và cuối tuần phòng, Đức Cha đã có một quyết định quan trọng: Ngài thay đổi cách thăm viếng. Từ nay, ngài sẽ ở lại chung sống hai ba ngày với từng Linh Mục trong mỗi Giáo Xứ, để tạo một bầu khí huynh đệ giữa Linh Mục và Giám Mục. Và từ đây các Linh Mục cũng rất ước mong đến ngày Đức Giám Mục đến thăm xứ mình. ( Tgm. FX. Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng ).
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Maccô thuật lại chuyến trở về của các Tông Đồ được sai đi, tụ tập quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút !” Nghỉ ngơi là tĩnh tâm dưỡng sức, tìm về cội nguồn, sau thời gian hăng hái dấn thân phục vụ, mệt mỏi thân xác, lao xao con tim, cạn kiệt tinh thần và đuối sức tâm linh. Cuộc tĩnh tâm của các Linh Mục và Đức Giám Mục ở gần Sao Paulo phản ảnh phần nào trích đoạn trên.
Về nguồn
Sau mỗi ngày cật lực giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu luôn lui vào nơi vắng vẻ nghỉ ngơi dưỡng sức. ( Lc 5, 16 và 9, 10 ) Chẳng phải thảnh thơi nhàn hạ vui hưởng gió mát trăng thanh, mà để hội ngộ với Thiên Chúa Cha, tâm sự, giãi bày mọi chuyện, dâng lên cả thành công lẫn thất bại trong ngày. Khấn xin thêm sức mạnh, can đảm tiếp tục dấn thân cho sứ vụ cứu chuộc nhân loại. Đức Giêsu đã nêu gương cầu nguyện hàng ngày, đồng thời luôn tha thiết mời gọi tất cả mọi người đến cùng Người: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28-30).
Mỗi dịp tĩnh tâm, mỗi Thánh Lễ, mỗi giờ chầu, mỗi lời kinh, mỗi buổi suy gẫm, mỗi dấu Thánh Giá, đều là những giây phút cầu nguyện, giây phút trở về Thiên Chúa, cội nguồn sự sống. Cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng ân được sống, được nhận biết Chúa, được làm con Chúa, được bình an.
Vào nơi cô tịch, vắng vẻ tâm sự với Chúa. Không quên dâng lên Người những việc lành phúc đức, hy sinh, cùng thân thưa hối cải những lỗi lầm, vấp phạm đến anh em và tha nhân. Người sẽ luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn yêu thương an ủi, chỉ dạy, chăm sóc, hướng dẫn, băng bó những thương tích, xoa dịu nỗi khổ đau thất bại, chia sẻ nỗi oan ức, cũng như khích lệ những thành công. Người soi sáng, thức tỉnh cho biết đâu là Thánh Ý mầu nhiệm. Người thử thách, trui luyện, trắc nghiệm xem người Kitô hữu chọn Chúa hay chọn công việc, chức tước, quyền lực ? Có nhận vơ thành công làm thành tích cá nhân mình hay không ? Có chán nản, buông trôi khi thất bại, vì kiêu căng bất khả chiến bại chăng ?
“Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con" ( Đường hy Vọng, số 118 ).
Tận hiến
Mặc dù cùng các Tông Đồ xuống thuyền đi lánh riêng một nơi hoang vắng, để tĩnh dưỡng, nhưng ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đẩu dạy dỗ họ nhiều điều. Thời khóa biểu bị đảo lộn, chương trình, kế hoạch thay đổi bất ngờ, chỉ vì quá thương yêu mà dấn thân tận tụy phục vụ nhu cầu rất chính đáng. Tình yêu xả kỷ vị tha, toàn tâm toàn lực hoàn toàn dâng hiến cho tha nhân. Sẵn sàng từ bỏ ý riêng để thực hành Thánh Ý Chúa. “Xin đừng theo ý con, mà xin cho ý Cha được thực hiện” ( Mt 26, 39 ). Hy sinh tất cả phúc lợi cá nhân để phục vụ tha nhân đang mất phương hướng, thiếu người. Người chính là Thiên Chúa Tình Yêu.
“Tại sao tận hiến cho Chúa, mà con so sánh mình với người đời, phàn nàn vì thua sút điều này, điều nọ. Con tiếc vì làm tôi Chúa thiệt thòi sao ?” ( Đường Hy Vọng, số 116 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa, luôn dành thì giờ siêng năng cầu nguyện khi sáng thức dậy, ban tối trước khi ngủ, cũng như trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc trong ngày, luôn nhớ Chúa hiện diện, chúc lành và thánh hóa cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt chúng con vào nơi hoang vắng mà nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, an ủi, cứu giúp chúng con thoát khỏi đám đông hỗn tạp, xô bồ, ô nhiễm, ồn ào, sặc mùi kim tiền, của cải, vật chất, lợi danh phù phiếm, hưởng lạc, sa đọa. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu chúng con được hồi tâm phục sức sau bao gian lao, thử thách, ban cho chúng con luôn tràn đầy Tin Cậy Mến, lòng nhiệt thành, can đảm theo Chúa đến cùng. Amen.
Thiên Chúa tạo dựng nên 24 giờ trong một ngày. Trong đó có thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Không ai làm việc hết 24 tiếng và cũng chẳng ai nghỉ ngơi hết ngần ấy thời gian. Con người cần phải lao động không chỉ vì cơm ăn áo mặc nhưng còn là cộng tác vào công cuộc tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Con người cần phải nghỉ ngơi không chỉ lấy lại nguồn năng lượng đã tiêu hao cho những giờ lao động mệt mỏi nhưng còn là thời gian để nhìn lại những việc mình đã làm, những lời đã nói, những suy nghĩ đã trải qua để thăng tiến và sửa sai hầu hoàn thiện chính mình.
Sau một ngày lao động mệt mỏi vất vả, Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình cần phải lui vào nơi thanh vắng không chỉ để nghỉ ngơi ăn uống nhưng còn là để nhìn lại. Một ngày qua đi chắc chắn sẽ có nhiều niềm vui, thành công và may mắn nhưng cũng không thể tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Lại còn cần phải được nghỉ ngơi bồi dưỡng sức khỏe thể xác lẫn tinh thần nữa chứ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” ( Mc 6, 31 ).
Có lẽ thành quả lao động của các Tông Đồ rất mỹ mãn cho nên đám đông đi theo các ngài vẫn tấp nập khiến chưa ai ăn uống được gì cả. Như vậy tinh thần của các Tông Đồ ắt hẳn rất vui mừng, phấn chấn, như quên cả đói, khát và mệt. Vâng lời Đức Giêsu các ông đã xuống thuyền lánh ra một nơi thanh vắng. Thấy vậy đám đông không những không buông tha mà họ còn chạy bộ đến trước nơi các ngài đang đến. Nhìn thấy đám đông nhiệt tình đi theo thầy trò như vậy, Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi khát khao, trước cơn đói khát Lời Chúa, đói khát Chân lý của họ. Ngài “chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” ( Mc 6, 34).
Không chỉ ngày ấy nhưng cho đến tận bây giờ, thế giới vẫn còn rất nhiều đám đông như bầy chiên bơ vơ mà không có người bảo ban, dạy dỗ. Giáo Hội còn thiếu rất nhiều những sứ giả ra đi rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội còn cần rất nhiều Tông Đồ nhiệt thành làm việc cho Nước Chúa. Thế nhưng trong đám đông ấy còn có cả số đông những con người từ chối được rao giảng, từ chối đón nhận Tin mừng. Đó là nỗi đau lớn của Giáo Hội.
Có rất nhiều lý do khiến cho số đông người không qui phục Thiên Chúa. Lỗi của người Tông Đồ bất toàn cũng có mà lỗi của văn minh thời đại cũng có. Ngày nay dường như con người không còn coi trọng niềm tin vào tôn giáo, tín ngưỡng mà đúng hơn họ tin vào mê tín dị đoan nhiều hơn. Niềm tin Thần linh đã bị tục hóa. Do vậy cảm thức về Thiên Chúa ngày càng xa rời. Người ta chỉ dễ dàng cảm nhận những gì vật chất mang lại giá trị thực tế cho họ mà thôi.
Ý muốn của Thiên Chúa là cho tất cả quy tụ thành một đàn chiên duy nhất và chỉ có một chủ chiên là Đức Kitô. Thế nhưng nhân loại đã từ chối ơn cứu độ, từ chối vâng phục để mang lại ơn hiệp nhất cho Giáo Hội. Làm thế nào để mỗi người Kitô hữu chúng ta ai ai cũng đều mang trong mình khao khát của Thiên Chúa. Nếu như mỗi người và mọi người biết chung tay góp phần vào công cuộc truyền giáo của Ngài, có lẽ thế giới đã bớt khổ đau. Số đàn chiên bơ vơ vất vưởng không niềm tin, không tôn giáo, không hy vọng ấy… sẽ không còn đông như thế nữa.
Lạy Chúa, việc truyền giáo rõ ràng là việc của Thiên Chúa. Con chỉ là công cụ Ngài dùng để loan báo Tin Mừng. Vậy mà đôi lúc con đã hiểu sai để rồi đi lệch con đường cứu độ của Thiên Chúa. Thay vì làm công việc của Chúa, lại coi như việc riêng mình. Cậy dựa, ý nại vào tài sức bản thân, vinh danh bản thân… để rồi đánh mất bản chất truyền giáo thánh thiêng của Giáo Hội.
Xin giúp con mỗi ngày và từng ngày biết trở thành người Tông Đồ đích thực của Thiên Chúa. Ý thức mình cũng đã và đang là đám người rất đông cần được Thiên Chúa động lòng xót thương, để rồi chính mình cũng biết chạnh lòng trước những nỗi thống khổ và bất hạnh của người khác mà không gieo phiền muộn cho bất cứ ai.
"Mục tử" là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tự ví mình là "mục tử, người chăn chiên" và dân Israel được Chúa chọn là đoàn chiên của Chúa: "Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta… Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ…" ( Gr 23, 3 ). Đến lượt Chúa Giêsu, khi thấy dân chúng bơ vơ tất tưởi, Người động lòng trắc ẩn ví họ như: "Đàn chiên không người chăn dắt" ( Mc 6, 34 ). Người cũng tự nhận mình là "Người chăn chiên".
Hình ảnh người mục tử với đoàn chiên thật tuyệt đẹp, dễ thương và đầy cảm động, diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Ngài như "Mục tử" với "đoàn chiên".
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31; Gr 31, 10; Mk 7, 14 v.v... ) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với hình ảnh người chăn chiên dịu dàng và trìu mến, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đoàn của chúng để chia sẻ cùng một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân: "Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số" ( Gr 23, 3 ).
Vì muốn trao ban nên một khi đã trao ban thì Chúa bảo vệ giữ gìn. Các mục tử được Chúa trao cho chăn dắt đàn chiên Chúa không cẩn thận, Chúa nổi giận đòi lại chiên: "Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé chiên Ta… Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta… Ta sẽ xét xử những hành động gian ác của các ngươi. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng" (Gr 23, 1-4 ).
Chúa chăm sóc chiên của Chúa như thế nào ? Những cảm nghiệm của con chiên dẫn chứng sự chăm sóc của chủ chiên: "Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng" ( Tv 22, 1-3 ). Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn chúng ta không những sống mà còn sống dồi dào, Ngài muốn hướng dẫn chúng ta tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được nghỉ ngơi bồi dưỡng, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất hay bị diệt vọng, nhưng muốn con người đạt tới cùng đích là sống viên mãn tràn đầy. Ðó là điều mà bất cứ người mục tử nào cũng mong muốn cho đoàn chiên.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như Mục Tử của đoàn chiên lạc nhà Israel. Cái nhìn của Chúa trên đám đông dân chúng là cái nhìn "mục tử" đầy tình thương. Thánh Marcô viết: "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều" ( Mc 6, 34 ). Chúa Giêsu nhập thể dưới hình hài Thiên Chúa Mục Tử với kiểu giảng dậy của Người và các việc Người làm, bằng cách chữa lành các người đau yếu và tội lỗi, săn sóc những người ốm đau tật bệnh, để dẫn đưa họ đến bến bình an trong tình xót thương vô bờ của Thiên Chúa là Cha.
Vì kẻ dữ luôn tìm cách phá hỏng công trình của Thiên Chúa, bằng cách gieo vãi chia rẽ trong trái tim con người, giữa thân xác với linh hồn, giữa con người với Thiên Chúa, trong các tương quan liên bản vị, xã hội, quốc tế và cả giữa con người và thụ tạo. Kẻ dữ gieo rắc chiến tranh; Thiên chúa tạo dựng hòa bình. Hơn thế nữa, như Thánh Phaolô khẳng định: "Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người" ( Ep 2, 14 ).
Ðể chu toàn công trình hòa giải triệt để ấy, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, đã phải trở thành Chiên Con, "Chiên Con Thiên Chúa... gánh tội trần gian" ( Ga 1, 29 ). Chỉ như thế Người đã có thể thực hiện lời hứa tuyệt diệu của Thánh Vịnh: "Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài" ( Tv 23, 6 ).
Người mục tử dẫn dắt đoàn chiên không đành lòng đuổi chiên nhưng đưa chiên tới đồng cỏ xanh tươi, tới suối nước trong lành. Tập hợp chiên lại xung quanh mình: "Mục tử tốt lành thí mạng vì đoàn chiên" ( Ga 10, 11 ).
Người vừa là Mục tử và vừa là Cửa chuồng chiên ( Ga 10, 7 ). "Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí" ( Ep 2, 18). Nhờ Người mà chúng ta đi vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu thí mạng vì người mình yêu". "Thiên Chúa là tình yêu" Ngài đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một ( x. Ga 3, 16 ), không ngần ngại trao ban sự sống mình ( x. Ep 2, 14 ).
Những lời trên thật cảm động và đầy an ủi biết bao cho nhân loại hôm nay, vì nó đáp ứng khát vọng sâu thẳm của con người: đó là sống, sống viên mãn, sống vui và sống đời đời !
Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô, Nữ Vương Bình An, Đấng luôn sống trong đồng cỏ Trời Cao, nơi Chiên Con Mục Tử hằng chăn dắt, cầu cho chúng con ! Amen.
Sai đi với một sứ mệnh thì trở về tường trình lại công việc và thành quả …
Có vẻ như công việc của các Tông Đồ khá là thuận lợi và thành quả cũng tốt…Bầu khí phấn khởi rõ ràng …
Thế nhưng Chúa đã nhìn thấy trước như vậy rồi nên Ngài chẳng đề cập chi đến thành quả mà chỉ nhẹ nhàng nhắc các ông:
“ Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thánh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”( Mc 6 , 31) …
Lúc này mà tìm được một nơi thanh vắng như thời các Tông Đồ thì quả thực là khó …
Dĩ nhiên là vẫn có những nơi thanh vắng – tự nhiên thì không mấy nhưng tự tạo thì nhiều – tuy nhiên không hề là chốn nghỉ ngơi …mà ngược lại …
Vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh ngày mùng 2 tháng 4 trong Mùa Chay vừa qua , tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phê-rô , Đức Thánh Cha đã đưa ra lời mời gọi tất cả các linh mục trên khắp thế giới: “ Hãy chấp nhận sự mệt mỏi của mình và học cách nghỉ ngơi trong Chúa .”
Ngài thú nhận là thường xuyên suy nghĩ về sự mỏi mệt này và đưa ra ba loại mệt mỏi:
thứ nhất: mệt mỏi vì đám đông …Có lẽ là trường hợp trên đây của các Tông Đồ …và bản thân Đức Giê-su cũng từng cảm nhận sự mệt mỏi này: một sự mệt mỏi lành mạnh và làm cho hạnh phúc vì thấy mình là mục tử , là cha giữa đoàn con …
thứ hai: mệt mỏi vì thù địch … Loại mệt mỏi này quả thực là làm điên cái đầu của chúng ta … vì những chống đối muôn hình vạn trạng mà kẻ xúi giục lại là ma quỷ - kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa và con cái Người …Hơn ai hết , những mục tử của Chúa biết rõ về nỗi mỏi mệt này và – dĩ nhiên - chính Chúa Giê-su cũng đã từng biết , vẫn biết cũng như vẫn phải chấp nhận cùng với Giáo Hội và từng mục tử như lòng Ngài mong muốn: chấp nhận trong kiêu hãnh và can trường …
thứ ba: mệt mỏi về chính mình …Đức Thánh Cha bảo rằng: đây là sự mỏi mệt nguy hiểm … vì nó là sự mệt mỏi của một tình trạng sống nửa chừng “ vừa muốn , vừa không muốn” , đã và vẫn muốn từ bỏ tất cả nhưng lại tiếc nuối “ món ngon Ai Cập” …Nếu nó là sự mệt mỏi vì tự kiểm điểm và nhận ra mình tội lỗi như bao thân phận người khác để khiêm tốn đón nhận lòng thương xót của Chúa thì thật là tuyệt … Nhưng nếu là sự mệt mỏi trong loang quanh những chuyện không phải là của mục tử hay của những người tin Chúa … thì là thảm hoạ …
“ Món ngon Ai Cập ” đây là những gì ? Đương nhiên là các mục tử của Chúa thì rất rành nhưng bà con không thuộc hàng tăng lữ thì chưa chắc …
“ Món ngon Ai Cập”:
có thể là sự tin tưởng thật lòng và không thật lòng của bà con … Thật lòng vì nhận ra vai trò mục tử của chủ chăn: đây là số đông… Không thật lòng lắm vì nhìn thấy linh mục như một thứ trang trí cho thương hiệu của mình: số này ít thôi nhưng lại có điều kiện…và phong cách tiếp cận với mục tử cũng khác người …
có thể là khát vọng muốn lưu dấu ở một vai trò nào đó: người cao địa vị thì là những vai trò quan trọng , kẻ kém cỏi hơn thì ở những vai vế nhẹ nhàng hơn …Chẳng hạn là người “ đầu tiên” …trong những lãnh vực lớn như chuyện ngoại giao , chuyện bình thường hoá , chuyện này , chuyện nọ …Kém cỏi hơn thì là người “ đầu tiên” đặt viên đá vùng này , vùng kia …Thành tích và chuộng thành tích thì không chỉ là cám dỗ của riêng ai … mà – đã mặc lấy thân phận người trong cuộc trần này và nếu quá ít nền tảng đạo hạnh – thì cám dỗ ấy kể như vô cùng: một “ món ngon Ai Cập” thuộc hàng đặc sản …Đã có lần trong một dịp lễ , ba vị trên bàn thờ đều có bổn mạng Giuse … Vậy là người ta thích thú nói đền “triều đại của Giuse” … Rất tiếc – dù là con cháu trong giòng tộc David – thì Giuse cũng chẳng có triều đại nào hết mà chỉ là kẻ phục vụ chương trình của Thiên Chúa mà thôi …
có thể là những long trọng , những hoành tráng này nọ mà ai cũng thích …Thời điểm này đang diễn ra những dịp lễ tạ ơn khá là rầm rộ với con số khách mời không ai dám nghĩ đến … Có người chép miệng: làm tiền !!! Một người cha gia đình có dịp tâm sự: đồng ý là cha cũng đơn giản thôi … nhưng phải thú thực là cha quá sướng:có tiền thì tiêu mà không tiền thì nhịn , chẳng phải tính toán hơn thiệt chi hết …Còn con đâu có thế …
có thể là những phương tiện quá mức cần thiết và ngang ngửa với tầng lớp được gọi là “ sang” ở ngoài đời …
nhiều và rất nhiều những “ món ngon Ai Cập ” làm nặng lòng kẻ đi theo Chúa và gây mỏi mệt: nỗi mỏi mệt mà Đức Thánh Cha bảo là nguy hiểm !!!
Thế rồi Đức Thánh Cha kêu gọi: học cách nghỉ ngơi trong Chúa và Chúa thì lại bảo: hãy lánh riêng ra , đến một nơi thanh vắng , mà nghỉ ngơi đôi chút …
Lánh ra , tách ra khỏi đám đông và những sinh hoạt của đám đông …
Đến một nơi thanh vắng – lúc này giữa đám đông không có nơi nào thực sự thanh vắng – cho nên thanh vắng nhất là Nhà Tạm và Lòng Mình …
Có không một nền thần học vui nhàn , nghỉ ngơi ? Xin thưa là có …
Khuôn mặt đầu tiên là Hugo Rahner – anh của Karl Rahner…Ông cho rằng: sự vui chơi , nhàn nhã là nguyên lý để giải thích và chú giải mặc khải Ky-tô giáo …Ông đi từ Homo ludens ( con người vui chơi) đến Deus ludens (Thiên Chúa vui chơi) và Ecclesia ludens ( Giáo Hội vui chơi) …Ông cho rằng: sự sáng tạo và chương trình cứu chuộc là một “ trò chơi” của sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa …Ông lý luận: con người làm hết việc này đến việc kia là nhằm thoả mãn một nhu cầu hay một thiếu thốn … Mà đã có nhu cầu , đã thiếu thốn thì đương nhiên là bất toàn rồi …Thiên Chúa không vậy … Người là Đấng hoàn toàn … Người sáng tạo hay cứu chuộc không vì một nhu cầu hay thiếu thốn nào … mà tất cả chỉ vì yêu , vì muốn cho thụ tạo của Người có hạnh phúc … Đơn giản như thế thôi … nên lúc nào ở nơi Người cũng là niềm vui: niềm vui nhìn thấy thụ tạo do mình dựng nên cũng thích và cố sống niềm vui lành sạch để - cùng với Người – xây dựng một cuộc sống lành và sạch thực sự chứ không chỉ là khẩu hiệu …Vậy là từ cái hôm nay với Homo ludens ( con người vui chơi và không quá quan trọng hoá nhiều điều trong cuộc sống ) đến Deus ludens ( Thiên Chúa và bản chất vui của Người) … thì phải có và trình bày cho bằng được một một Ecclesia ludens (Giáo Hội vui chơi) …Suy nghĩ đến đây … thì minh chợt nhìn lên bức tường trước mặt với hai nụ cười: một “ rặn” cười để chụp hình và một nụ cười toác rộng của tác giả Tông Huấn “ Niềm Vui Tin Mừng” …
Rồi còn ông thần học gia Harvey Cox – trong tiểu luận thần học có cái nhan đề “ La Fete des Fous” xuất bản ở Paris năm 1971 – đã diển tả ở trang 173 một Giê-su hài hước , vui tươi , linh động , hấp dẫn , dễ đến gần: “ Như một người trào phúng , Đức Ky-tô coi thường hủ tục , lề thói cũ , coi thường những người vẫn được người đời ca tụng , nể vì …Như một thì sĩ lang thang,Ngài không có nơi gối đầu . Như một tay châm biếm chọc cười , Người chế diễu những quyền bính được người đời lập ra , bọn này lúc nào cũng sống xa hoa , lộng lẫy bên cạnh đám dân nghèo thiếu thốn , cùng khổ…Như một nhà thơ hát rong , Ngài tham dự các lễ hội và đám cưới … Cuối cùng , những kẻ thù của Ngài đã dùng chính danh hiệu VUA tạo thành một bức hoạt kê châm biếm chua chát ( để trả thù những châm biếm của Ngài) và đóng đinh Ngài giữa những tiếng cười nhạo báng với bảng hiệu trên đầu Ngài ( để trả thù những chế diễu của Ngài) … Harvey Cox cho rằng nơi Đức Giê-su là một sự hoà hợp hoàn hảo giữa một tâm hồn hết sức nghiêm chỉnh , trong sáng , đúng đắn với một phong thái ung dung , tự tại , phóng khoáng và một cách ứng xử luôn vui tươi , thoải mái , hài hước … để có thể gần gũi với mọi người , nhất là những người bị đẩy qua bên lề xã hội , bên lề cuộc sống . Phong thái này hoàn toàn trái nghịch với nhóm Biệt Phái , Pha-ri-siêu và Kinh Sư Do Thái …Ngài sẵn sàng đồng bàn với những người tội lỗi , bênh vực và nâng họ chỗi dậy …Ngài rất ghét và châm biếm vẻ “ ta đây” của những người có quyền , có chức trong Đạo cũng như ngoài đời …
Un saint triste est un triste saint: thánh mà buồn là thánh đáng buồn …
Thực ra – trong Đạo – các vị thánh buồn không có bao nhiêu đâu … bởi vì không vui thì không thể làm thánh được: có vui và tìm được niềm vui mới tự chế , tự giới hạn đứng trước những mời mọc , những cám dỗ - có vui và tìm được niềm vui mới hiên ngang ca hát với gông cùm , xiềng xích trên đường ra pháp trường – có vui và tìm được niềm vui mới ẩn thân trong cô tịch để gặp gỡ và chuyện trò với Đấng Vô Hình là Cha của mình – có vui và tìm được niềm vui mới lăn xả vào những khó khăn , thử thách để cùng ăn , cùng uống hầu nói với mọi người về Thiên Chúa vốn là cội nguồn của niềm vui chân thật và viên mãn …
Kẻ buồn là chúng ta , những con người chỉ dám đứng nhìn và chua xót cho những chịu đựng của các thánh … để rồi toàn thấy đau thương mà thôi…Đúng là những vị “ thánh đáng buồn” làm cho khuôn mặt của Mẹ Giáo Hội cũng ảm đạm đi rất nhiều …
Riêng bản thân – khi nghe Chúa bảo: Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút – thì thích lắm , vì đã từ lâu vốn say cảnh “ một mai , một cuốc , một cần câu” của người xưa …
Ngày nay con người tương đối dư giả nên cũng tìm mọi cách để nghỉ ngơi theo kiểu của mình … Không có tờ báo nào – trong Đạo cũng như ngoài đời– mà không có những trang quảng cáo những chuyến tham quan , du lịch khá là hấp dẫn: du lịch hành hương , du lịch mua sắm , du lịch hưởng thụ , du lịch ẩm thực …Dĩ nhiên với quảng đại bà con … thì đấy cũng chỉ là những chuyến đi trong mơ … mà hầu như không mấy ai dám nghĩ đến…Điều chắc chắn là những chuyến nghỉ ngơi ấy khá là mệt … Nếu có vui thì vì cũng chỉ là niềm vui tự khẳng định tình trạng “ rủng rỉnh” của mình: một thứ mặc cảm tự tôn nào đó …
Chúa muốn chúng ta vui suốt đời mình vì chúng ta được yêu và Người lưu lại dấu ấn tình yêu của Người mọi nơi mọi chốn để - lữ hành trên trần gian này – chúng ta khám phá ra đây đó những dấu ấn tình yêu để đi theo , để chạy , để nhảy , để giải mã , để nhận semaphore , để dịch morse … như trong một trò chơi lớn – có lẽ sẽ có người bỉu môi vì thấy đây là một phạm thượng- và đích đến là vòng tay cùng với miệng cười của Người …
Marie Noel – trong Notes intimes , Ed . Stock – ngâm nga:
Tôi không muốn nên trọn lành theo kiểu trọn lành của con người . Tôi không muốn tạo ra trong tôi một thứ lương tâm hành xử như một cảnh sát đứng ở ngã ba đường để rình bắt những tên tội phạm đi ngang qua .Tôi không muốn mệt mỏi một cách thảm sầu vì ngày đêm cứ phải đo đạc , tính toán , cưa , đẽo , bào đục … để biến khúc cây sần sùi , nhiều mắt …thành cỗ quan tài chôn xác chết …
Tôi muốn nên tốt lành theo kiểu toàn thiện của Cha trên trời … Người có luật lệ mà cũng có vui chơi thoải mái …Tác phẩm của Người đâu phải chỉ có các thiên thần sáng láng thôi … mà còn là những cánh bướm nữa , không chỉ là trời , sao cùng muôn vì tinh tú lúc nào cũng sẵn sàng vâng phục … mà còn là lửa , là gió , là những đám mây bất định , thất thường …
Người vui đùa với những bông hoa , những đuôi sóc , lông con công , chân con cò , vòi con voi , bướu lạc đà … Người sáng tạo ra để vui chơi …Nếu không để vui chơi thì để làm gì ? Và nếu Người tìm thấy vui thú – có thể như vậy –nơi một tu sĩ thánh thiện đang ngày đêm hy snh , cố gắng tuân giữ kỷ luật … thì chắc chắn Người cũng sẽ chúc lành bằng một nụ cười cho con dê đang nhảy múa , cho con gà đang ấp trứng , cho con dê đực râu dài đang chồm lên con dê cái – bạn nó …
Tôi muốn tâm hồn mình – cũng như tất cả công trình của tôi –vừa có trật tự mà cũng vừa mang tính lãng mạn , ngông cuồng …
Tuần trước đây – trong hội ngộ Xuân Bích hằng năm – cha Thầy An-rê Đỗ Xuân Quế , OP , vừa bắt tay vừa mỉm cười: tôi nhớ tới anh mỗi khi đọc thánh thi kinh Sách thứ năm / tuần I:
Kinh cầu nhẹ gõ cửa hồn , Trần gian dục vọng bồn chồn tâm linh … Bao nhiêu thệ ước ân tình , Chúa thương xin để an bình tin yêu … Đời con cay đắng đã nhiều , Hận thù – danh lợi … đốt thiêu cõi lỏng … Hồn con mong mỏi sạch trong , Mái chèo buông nhẹ theo dòng thuyền trôi… Lánh riêng ra – đến một nơi thanh vắng … mà nghỉ ngơi đôi chút …
Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự của thế giới , mà chủ yếu là suy tư về vấn đề luân lý và đạo đức ( moral & ethics) của thế giới hôm nay mà thôi
Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý , đạo đức thì phải ngao ngán trước thực trạng suy đồi nghiêm trọng về cả hai mặt này của thế giới hôm nay, đặc biệt là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý , Đức, Pháp , Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan ( Ireland) Anh Quốc, Canada và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có đông người theo Kitô Giáo ( Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng nay lại sống phản Kitô giáo ( anti-Christianity) cách rõ nét khi cho phép những thực hành vô luân vô đạo như làm ngơ cho sách báo, phim ảnh khiêu dâm được tự do lưu hành, cho li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)
Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô.(Christians)
Sở dĩ thế, vì con người khác thú vật nhờ có đời sống tâm linh, có ý thức luân lý ,đạo đức, khác biệt với loài vật chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra riêng cho con người mà thôi.
Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì các quốc gia có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh trên đường suy thoái đạo đức và luân lý, khi họ làm ngơ –hay tệ hại hơn nữa- là cho phép những thực hành mà tự bản chất là phi luân, vô đạo, như cho phép kỹ nghệ dâm ô (pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần cho giới trẻ và người lớn, cho phá thai, li dị , và nay là hôn nhân đồng tinh, (same sex marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.
Gia đình -từ ngàn xưa- là nên tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi dân tộc, - và cách riêng- là tương lai của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cải phải có cha có mẹ thì mới thực sự cảm nhận mình là con cái.
Vậy mà nền tảng gia đinh dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên đang bị các xã hội bệnh hoạn trên đây phá đổ, khi họ cho định nghĩa lại ý nghĩa và mục đích của hôn nhân để cho phép hôn nhân đồng tính.
Điều này, trước hết, hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh “ phải sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.” ( St 1: 28).
Đây là nên tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ từ khi có con người trên mặt đát này.
Vậy mà nay các xã hội bệnh hoạn nói trên cho phép hai người nam hay hai người nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa; nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói trên còn tin có Thiên Chúa là Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình ?
Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Do đó, cho muc đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần ( atheists), không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát ( universal moral).
Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán thành hôn nhân đồng tính, cũng là những người đồng tính, thì làm sao sinh ra được họ, để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến ngày nay.
Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với khuynh hướng bất thường về phái tính ( abnormally sexual tendency), người ta đã tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội loài người từ xưa đến nay.
Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên. Nhưng chúng ta không thể công nhận việc công khai sống chung của họ là hôn nhân, như đại đa số những người bình thường khác , đã kết hôn cho mục đích duy trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước hôn nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm có đông con người sinh ra trong trần thế này.
Chúa Kitô , khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse chắc chắn là những người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác. Hai ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô sinh r a bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.
Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse là khuôn mẫu cho mọi gia đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái , cho những người làm cha ,làm chồng, làm vợ và làm mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái là kết quả và là muc đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:
Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép li dị không , Chúa đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.” ( Mt 19: 4-6)
Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con cái mình tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.
Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan ngày 28 tháng 5 vừa qua , Đức Thánh Cha Phanxi cô đã nói với các giám mục như sau:
“ Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo: kết hôn trong Chúa là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối nhẫu với tự do ưng thuận, trở thành phương tiện chuyên chở phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho Giáo Hội và xã hội.” ( Let us continue to present the beauty of Christian matrimony: to marry in the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free consent , become a means of passing on the blessing and grace of God for the Church and society. ( L ‘Osservatore Romano , number 23, Friday , June 5, 2015)
Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có nữ; và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ qua trong mọi nền văn hóa, phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.
Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời sống con người, chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân ai như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.
Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính (sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.
Dó đó, hai người nam hay hai người nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây là điều trái tự nhiên ( unnatural) và vô luân ( immoral)
Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như sau:
“ khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm…” ( Lê vi 20: 13)
Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công nhận sự vô luân về phái tính; hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thit giữa hai người nam hay hai người nữ là điều cũng tự nhiên như sự chung đụng của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa đến nay ?
Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm ( masturbation) loạn dâm =loạn luân ( incest) ấu dâm ( child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm (fornification) ngoại tình ( adultery)… đều không còn là những hành vi vô luân nữa, vì chúng đều xuát phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô luân ( inordinate, immoral)) của con người !, tương tự như huynh hướng đồng tính bất thường mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn, tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!
Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ quát (universal moral) của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại hôn nhân đồng tính này , vì nó vừa sai trái nặng về mặt luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa về ý nghĩa và mục đích của bí tích hôn phối mà Giaó Hội có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.
Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được đến với hai bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.
Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại ra sao khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là những đứa trẻ sinh ra với khuynh hường tính dục khác thường như người nuôi dạy chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy- là những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường, thì việc sống chung với những người bất bình thường kia sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.
Vây những kẻ đang nhắm mắt công nhân hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về nan đề nói trên, liên quan đến các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?
Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải quan tâm và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.
Trang Tin Mừng rất ngắn và rất quen thuộc của Thánh Maccô đã đi vào lòng người. Trang Tin Mừng tuy rất ngắn đó nhưng đã
Cảm ơn tác giả đã vẽ bức hình Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tác giả cảm được tình yêu của Chúa Giêsu nơi con tim và đặc biệt ánh mắt của Chúa Giêsu. Bức ảnh đó có cái hay nhìn ảnh Thánh Tâm đó bất cứ góc cạnh nào ta cũng bắt gặp ánh mắt của Chúa như là Chúa đang nhìn ta vậy.
Ánh mắt của Chúa Giêsu như muốn nói lên cả con người, cả cuộc đời, cả tấm lòng của Chúa Giêsu hay nói cách khác nói lên vai trò của Chúa Giêsu. Vai trò của Chúa Giêsu đó là Ngài đến trong trần gian này để cứu trần gian khỏi vũng bùn của tội lỗi, khỏi cái vòng tục lụy của trần gian.
Tấm lòng chạnh thương của Chúa Giêsu đã có đó trong cuộc đời của Ngài, bắt đầu từ lần đầu tiên xuất hiện công khai trước công chúng.
Chắc có lẽ, chúng ta nhớ hình ảnh của một Đấng vô tội, Con Chiên Thiên Chúa lặng lẽ bước xuống dòng nước sông Giođan dìm mình trong đám tội nhân ngày hôm đó để nhận phép rửa của Gioan đủ để nói lên lòng chạnh thương nhân loại tội lỗi rồi.
Và, kế đến, trong bữa tiệc cưới Cana, ta bắt gặp hai ánh mắt nhìn nhau, hai cõi lòng nhìn nhau, hai con tim gặp nhau đó là mẹ và con. Mẹ Maria nhìn thấy tiệc cưới hết rượu và Mẹ đã ngỏ lời với con Mẹ là Chúa Giêsu cùng đi dự tiệc hôm đó về hoàn cảnh bi đát của đôi tân hôn. Ta thấy Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ đẹp, một hành động quá đẹp hay nói đúng hơn là một phép lạ cả thể đầu tiên tại tiệc cưới Cana là cho nước biến thành rượu mà không phải là rượu thường nữa mà lại là rượu ngon.
Rồi, nhiều và nhiều hình ảnh, nhiều phép lạ khác ta đã bắt gặp Chúa Giêsu trên con đường rao giảng Tin Mừng, rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chữa cho người mù, người què, người câm, người bị quỷ ám và cho cả anh chàng Ladarô và con trai bà góa thành Naim cũng như đứa con yêu của ông trưởng hội đường sống lại.
Tình thương, lòng chạnh thương của Chúa Giêsu ta cũng đã gặp nhiều lần trong cuộc đời của Ngài khi Ngài tha thứ cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Tình thương đó, ánh mắt đó của Chúa Giêsu cũng đã chạm được đến ánh mắt của Giakêu, của Matthêu.
Như Thánh Kinh thuật lại, những con người đó là những con người tội lỗi và yếu đuối. Thế nhưng Ơn Cứu Độ đã đến trong nhà này (Giakêu) khi Chúa nói với ông dưới gốc cây sung. Ơn cứu độ đến với con người mà người ta cho là tội lỗi như Matthêu. Ánh mắt, lời mời của Chúa đã làm thay đổi cuộc đời của Giakêu và cả Matthêu nữa.
Với tôi, tôi lại cảm thấy thấm thía và chính bản thân tôi, ngược lại, lại chạnh lòng với ánh mắt của Chúa Giêsu khi Chúa Giêsu nhìn Phêrô trong sân dinh Thượng Tế.
Mới ngày nao, dõng dạc tuyên xưng rằng “Ai có bỏ Thầy thì bỏ ! nhưng tui (Phêrô) đây không bao giờ bỏ Thầy !”
Câu nói xem ra khẳng khái quá, quyết đoán quá! Thế nhưng thật đáng tiếc khi “gà chưa kịp gáy lần thứ 2 thì con đã chối Thầy đến 3 lần !”
Gà gất tiếng gáy! Phêrô chợt nhận ra rằng lời của Thầy tiên đoán về con người của mình sao đúng quá! Phêrô càng bẽn lẽn khi chạm được ánh mắt của Thầy. Thầy nhìn Phêrô còn Phêrô thì ngoảnh mặt đi vì … ngượng.
Đời của ta cũng thế! Nhiều lần chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta hay, chúng ta hơn người khác để rồi chúng ta khinh khi, chúng ta chà đạp người khác bằng mọi giá khi có thể. Để làm gì vậy ? Để được gì vậy ?
Thật ra cũng khó nói và cũng khó trách vì lẽ con người vẫn thường có thói quen hay bưng bít về mình, hay che đậy về mình và hay khinh thường bất cứ ai có thể.
Khi nào ta cảm được lòng Chúa Giêsu chạnh thương ta thì khi ấy ta mới cảm được và khi đó ta mới chạnh thương được anh chị em đồng loại.
Chắc chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh hết sức thân thương của vị giáo hoàng đương nhiệm Phanxicô đáng kính của chúng ta.
Đức Phanxicô là vị Giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên và cũng là Giáo hoàng đầu tiên xuất thân từ một dòng tu kể từ năm 1831. Điều đó có nghĩa ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên sống dưới “lời khấn nghèo khó” kể từ giữa thế kỷ 19. Tất cả các linh mục có nghĩa vụ phải sống giản dị nhưng thành viên của các dòng tu tuyên khấn sống nghèo khó cụ thể. “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu…” là lời mở đầu công thức khấn của Dòng Tên. Nói cách khác, phần tử của các hội dòng thề hứa với Thiên Chúa sống đơn giản.
Vì thế, hầu hết thời niên thiếu – cho đến khi trở thành giám mục và được miễn trừ khỏi lời khấn ấy, Jorge Mario Bergoglio chẳng sở hữu điều gì cho riêng mình. Như mọi thành viên của các dòng tu, ngài sinh sống bằng một ngân sách nghiêm ngặt. Ngài phải chuyển lại cho cộng đoàn của mình mọi thứ ngài kiếm được và được tặng. Ngài phải xin tiền mặt khi mua sắm những thứ nhiều tiền như một bộ áo vét chẳng hạn. Điều này làm cho Bergoglio quen với một đời sống giản dị mà nhiều người ghi nhận như là một trong những phương diện lôi cuốn nhất của ngài. Nó cũng làm gia tăng lòng thương xót của ngài không phải dành cho những người sống nghèo khó tự nguyện như ngài, nhưng cho những người bị đẩy vào cảnh nghèo như những người nghèo, những người bị gạt ra bên lề.
Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội, ban cho chúng ta một hình ảnh sống động chạnh thương từ vị cha chung yêu quý của chúng ta.
Nhìn cuộc đời Đức Thánh Cha Phanxiô, Ngài một lần nữa nhắc nhớ cho ta lòng chạnh thương với những người nghèo, những người bị gạt ra bên lề. Ngài là mẫu gương chạnh thương những người nghèo, Ngài là hiện thân của một Giêsu đang ở gần ta lắm !
Những người nghèo, những người bị gạt ra bên lề có khi ở gần ta lắm, có khi ngay trong gia đình của ta, có khi ngay trong cộng đoàn của ta, ngay trong cái nhà sát bên cạnh của ta … Xin cho ta cảm được tình thương, ánh mắt, cõi lòng chạnh thương của Chúa trên đời ta thật bao la để ta cũng biết chạnh thương với anh chị em đồng loại của ta như vậy.
Hình ảnh Chúa là Mục tử nhân hậu đã có từ ngàn xưa trong truyền thống của người Do Thái. Các ngôn sứ, đặc biệt là Giêrêmia đã làm chứng rằng Thiên Chúa như Mục tử luôn lo lắng cho đàn chiên của mình. Thánh Vịnh 22 đã nói lên ý nghĩa ấy:” Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng còn thiếu gì “. Chính vì vậy, khi Chúa xuất hiện trước đám đông dân chúng, Ngài đã dùng hình ảnh mục tử để ám chỉ về Ngài. Chúa Giêsu đã ví mình như mục tử nhân lành luôn chăm sóc, cung cấp cho đàn chiên của Ngài mọi lương thực cần dùng cho đời sống, đặc biệt lương thực cho đời sống đức tin là Lời Chúa.
Bài trình thuật của thánh Marcô hôm nay ngắn, gọn là phần mở đầu đưa vào trình thuật “ Hóa Bánh “. Hẳn chúng ta còn nhớ khi các môn đệ được Chúa sai đi thực tập làm việc tông đồ, truyền giáo…Trở về, các ngài hân hoan, phấn khởi kể lại những việc các ngài đã làm, đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tập truyền giáo. Dân chúng vẫn tuôn đến để nghe Chúa Giêsu giảng, trời về chiều, đến nỗi các môn đệ cũng không có giờ để ăn…Chúa Giêsu muốn các môn đệ rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Nhưng thực tế, dân chúng không muốn rời khỏi Chúa và các môn đệ. Do đó, trời về chiều và nơi họ đến với Chúa lại là nơi hoang vắng, không có hàng quán, Chúa nghĩ tới việc phải cho họ ăn, không họ đói, phép lạ Hóa Bánh xẩy ra trong bối cảnh ấy. Đoạn Tin Mừng Mc 6, 30-34, nói lên cho chúng ta hay về một Đức Giêsu Kitô thật hiền hậu, nhân từ, một Thiên Chúa gần gũi, thân mật, tình cảm với con người, khác với một Thiên Chúa từ trên cao của mạc khải lớn lao Mùa Chay hay một Thiên Chúa vinh quang của mùa Phục Sinh. Chúa gặp gỡ, đối diện với đám đông, với nhân loại cách ân cần, mật thiết, Ngài dùng những phương tiện, những vật chất có sẵn để thực hiện lòng yêu thương của Ngài đối với con người, đối với đám đông dân chúng.
Phép lạ Chúa gợi ý cho các môn đệ là “ Hãy cho họ ăn “…Cho họ ăn chứ không phủi tay giải tán đám đông để họ vào làng tìm thức ăn. Chúa thực hiện phép lạ “ Hóa Bánh “ diễn tả lòng thương xót, sự quan tâm tuyệt đối của Ngài đối với đám đông. Tuy nhiên, trước khi làm phép lạ “ Hóa Bánh”, Chúa Giêsu đã cho họ Lời hằng sống, vĩnh cửu để họ nhận ra rằng lương thực phần xác rất cần để nuôi sống, nhưng thực tế của ăn phần hồn, của ăn thiêng liêng luôn cần thiết cho đời sống con người. Chúa đã làm phép lạ nuôi sống họ qua những ngày dân chúng theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy…Lòng Chúa nhói đau vì thấy đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc…Cái đau nhói của một người Cha nhân từ…Một người Cha luôn mở rộng đôi tay đón đứa con hoang trở về, sự quặn đau của Chúa khi thấy các vị lãnh đạo tôn giáo thờ ơ, lãnh đạm với con chiên của mình. Một đám đông khát nghe Lời Chúa, khát nghe giảng dạy, nhưng các thủ lãnh tôn giáo vẫn ung dung xa họ, không chịu dạy dỗ họ.Chúa đau khổ khi nhìn thấy bầy chiên bơ vơ, vất vưởng, lạc loài không có người chăm sóc…Chúa nói:” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt…”. Bơ vơ, lạc lõng, đó là đám đông vô số kể trên thế giới không được nghe loan báo Tin Mừng, không được nghe giảng dạy Lời Chúa. Các mục tử phải chăm sóc đàn chiên theo lòng Chúa mong muốn. Các Mục tử phải có lòng thương xót như Chúa Giêsu.
Vâng, với biết bao công việc chồng chất nặng nề, Chúa muốn các môn đệ hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và đặc biệt để trầm lắng tâm hồn, cầu nguyện, nhờ đó công việc phục vụ của mình sẽ tốt hơn. Các thánh là những người đã biết trầm lặng, cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa xem các Chúa muốn các ngài làm gì ! Vào nơi thanh vắng để gặp Chúa, đối diện với Chúa nhờ đó sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp hơn cho việc phục vụ, cho việc loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lui vào nơi vắng vẻ, tránh những nơi ồn ào để cầu nguyện, lắng nghe Chúa nói, xem Chúa muốn chúng con phải làm gì, nói gì hầu chúng con đem lại cho đàn chiên Chúa, Giáo Hội trao phó cho chúng con chăm sóc được sống và sống dồi dào như lời Chúa nói:” Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ). Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn vào trình thuật nào ? 2.Chúa làm phép lạ “ Hóa Bánh “ nhân cơ hội nào ? 3.Chúa nói với các môn đệ điều gì ? 4.Vào nơi hoang địa thanh vắng để làm gì ? 5.Chúng ta có cần nghỉ ngơi không ?
Bối cảnh truyền giáo trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đưa Chúa và các tông đồ tới một tình huống để Chúa Giê-su biểu lộ một tâm tình vô cùng quan trọng đối với việc rao giảng Tin Mừng, đó là người tông đồ cần phải có trái tim dễ cảm thông, hoặc sử dụng một từ đặc biệt của sách Tin Mừng, là “chạnh lòng thương”. Chúng ta thử xem điều gì khiến Chúa Giê-su chạnh lòng thương và Người đã biểu lộ lòng thương ấy như thế nào.
Nếu chúng ta ở trong tình huống của Chúa Giê-su và các tông đồ, chắc chúng ta sẽ khẩn khoản xin dân chúng “Anh chị em làm ơn làm phước về nhà đi, mai mốt hãy trở lại, để chúng tôi nghỉ ngơi một chút”. Nếu Chúa Giê-su có làm như vậy, chúng ta cũng sẵn sàng hiểu cho Người, vì Người là con người như chúng ta, với một thể lực có giới hạn. Thực vậy, sau những ngày rao giảng và chữa lành cho dân chúng, cũng như sau một chuyến vất vả thực tập làm việc tông đồ, Chúa Giê-su và các tông đồ đã mệt nhoài. Người biết sức mình và các tông đồ, nên Người đã khôn ngoan chọn giải pháp “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thế là thầy trò xuống thuyền ra đi, để lại đám dân chúng còn đang đói khát nghe Tin Mừng và chờ đợi được chữa lành. Nhưng rồi nhu cầu thiêng liêng của dân chúng đã lấn lướt nhu cầu nghỉ ngơi thể xác của Chúa và các tông đồ. Chính sự lấn át này đã làm cho Chúa chạnh lòng thương.
Lòng thương không phải là thương hại, nhưng là tình yêu đích thực và là tình yêu được biểu lộ bằng việc làm. Nhu cầu đón nhận Tin Mừng nơi dân chúng đã không để cho lòng thương của Chúa Giê-su nằm yên, nhưng nó thúc đẩy lòng thương ấy phải chuyển động thành việc làm. Trước sự khao khát của dân chúng muốn nghe lời Chúa và trước những đau khổ thể xác lẫn tinh thần của họ, lòng thương của Chúa Giê-su đã bắt Người phải chọn lựa, hoặc bỏ mặc dân chúng mà đi nghỉ ngơi, hoặc chấp nhận chịu thêm mệt nhọc để đáp ứng nhu cầu của họ. Lựa chọn thứ hai có nghĩa là Chúa Giê-su để cho lòng thương khắc phục Người, mặc dù Người phải hy sinh vì lợi ích của người khác. Khi nhìn đám đông dân chúng bằng cặp mắt của lòng thương, Chúa Giê-su không nghĩ đến danh tiếng của mình, nhưng Người thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt”. Cho nên Chúa Giê-su muốn tiếp tục vai trò chăn dắt, mặc dù kế hoạch “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng” của Người phải hủy bỏ!
Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học thương xót trong sứ mệnh truyền giáo. Người tông đồ phải có lòng thương xót thì mới có thể nhận ra được nhu cầu khẩn thiết của những người mình muốn đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ. Lòng thương xót đích thực còn làm cho chúng ta được mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận gian khổ khi thi hành sứ mệnh. Lòng thương xót cũng giúp chúng ta can đảm dẹp đi những kế hoạch hoặc chương trình riêng của chúng ta, để đưa nhu cầu truyền giáo lên hàng đầu.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước quyết định của Chúa Giê-su muốn tiếp tục phục vụ dân chúng, không thấy có tông đồ nào cằn nhằn hoặc phản đối cả! Chắc chắn họ đã trông vào gương của Thầy và muốn học tập thêm trong công việc truyền giáo. Học tập truyền giáo không chỉ là phải biết những kỹ năng truyền thông, nhưng chính yếu là tập luyện cho mình có được một lòng thương sinh động, sẵn sàng để cho nhu cầu của những kẻ cần được nghe rao giảng thắng lướt những nhu cầu của cá nhân chúng ta.
Có khi nào nhìn những người chung quanh, chúng ta nhận thấy họ cần được đón nhận Tin Mừng hay không? Nếu không có tình yêu truyền giáo, chúng ta sẽ chẳng thấy mệnh lệnh “Hãy đi” của Chúa Giê-su là cấp bách, để rồi chúng ta cứ thu mình trong tháp ngà, sống với thái độ thờ ơ trước lời kêu gọi truyền giáo. Chúng ta có để cho lòng thương bị “chạnh” và thúc giục chúng ta hành động, hay cứ để nó nằm lì một chỗ? Liệu chúng ta có bắt chước các tông đồ của Chúa Giê-su đã noi gương Thầy chạnh lòng thương, cứ tiếp tục phục vụ mà không đòi nghỉ ngơi, cứ hoạt động mà không trông đợi phần thưởng?
Chúng ta vừa được nghe một đoạn Tin Mừng mà cha cho là rất hay. Qua bài Tin Mừng hôm nay cha thấy sao mà Chúa Giêsu của chúng ta dễ thương quá!
Cha đố chúng con Chúa dễ thương ở chỗ nào đó?
……..
Cha thấy Chúa dễ thương ở chỗ Chúa luôn biết quan tâm đến mọi người.
Nhiều nhà đạo đức bảo người biết quan tâm là người trái tim họ có mắt.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này.
Một ông chủ cửa hàng bán thú nuôi kia đem một tấm biển ghi hàng chữ “Bán chó con” ra treo ngay cửa ra vào. Một lúc sau, có một cậu bé mon men đến, đọc tấm bảng rồi lễ phép hỏi ông chủ:
- Thưa bác, bác định bán những chú chó con với giá bao nhiêu ạ?
Ông chủ ân cần trả lời:
- Cũng còn tùy từng con nữa, khoảng từ 30 đến 50 đô-la, cháu ạ!
Cậu bé thò tay vào túi rồi móc ra một ít tiền lẻ:
- Bác ơi, cháu chỉ có 2 đô-la 37 xu. Bác có thể cho cháu ngắm chúng một tý không ạ?
Ông chủ mỉm cười độ lượng, huýt sáo ra hiệu, thế là từ trong nhà lơn tơn chạy ra năm chú chó con, có một con khập khiễng lẹt đẹt theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó ấy:
- Con chó con này bị làm sao thế hả bác?
Ông chủ trả lời ra vẻ tiếc rẻ:
- À, bác sĩ thú y bảo rằng xương chậu của nó bị dị tật nên phải què quặt suốt đời thôi!
Cậu bé tỏ ra mừng rỡ:
- Ồ, nếu vậy thì đây chính là con chó cháu muốn mua...
Ông chủ tốt bụng tròn xoe mắt nhìn cậu bé ngạc nhiên:
- Con chó bác không có ý bán, vì có bán cũng chẳng ai mua. Nhưng nếu cháu thật sự thích nó thì bác tặng luôn cho cháu đấy!
Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng:
- Thưa bác, cháu không hề muốn bác cho không cháu con chó nhỏ này đâu. Nó cũng đáng giá y như những con chó khác. Cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu, và cháu sẽ đưa thêm cho bác 50 xu mỗi tháng cho đến khi đủ số tiền cháu thiếu bác hôm nay...
Ông chủ vẫn tỏ ra ái ngại can ngăn:
- Cháu không nên mua con chó này chút nào... Nó đâu có thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những chú chó lành lặn khác!
Cậu bé lặng lẽ đưa tay xuống kéo ống quần lên để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một cái khung bằng nhôm. Cậu ngước mắt nhìn ông chủ cửa hàng và nhỏ nhẹ nói:
- Bác ơi, cháu cũng đâu có thể chạy nhảy vui đùa, và... cháu nghĩ... chú chó bé con này cũng cần được một ai đó cảm thông cho nó, bác ạ!
Đúng là trái tim của em bé này có mắt. Em biết quan tâm đến cả chú chó tật nguyền.
Thế cha hỏi chúng con, chúng con có thấy Chúa Giêsu quan tâm đến ai không? Có chứ.
1. Trước hết là quan tâm đến các môn đệ.
Sự quan tâm nói lên tấm lòng yêu thương của Chúa đối với các môn đệ. Sau chuyến đi thực tập truyền giáo, các môn đệ đã thấm mệt. Họ cần phải được nghỉ ngơi.
Chúng con có thấy người ta làm việc triền miên mà không nghỉ ngơi không?
Sự nghỉ ngơi sau những ngày làm việc vất vả mệt nhọc là điều Chúa quan tâm. Các môn đệ dường như không để ý tới. Thế nhưng Chúa thì khác. Sau khi các môn đệ đi truyền giáo về Chúa bảo: "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Nghỉ ngơi để lấy sức. Nghỉ ngơi để bồi dưỡng hầu sau đó có thể làm việc tốt hơn.
Chúng con cũng hãy bắt chước Chúa quan tâm đến nhau để làm cho cuộc sống chúng ta đang sống có được nhiều niềm vui và cuộc sống đáng sống hơn. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra ở một trường đào tạo nghiệp vụ y tá.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi đã nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
2. Tiếp đến Chúa quan tâm đến nhu cầu của quần chúng.
Chúng con thấy Chúa và các môn đệ đã không tìm được sự nghỉ ngơi như mình mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Họ không muốn xa Chúa. Họ cũng đi theo và họ tới nơi trước cả khi Chúa và các môn đệ tới.
Lúc Chúa Giêsu và các môn đệ bước ra khỏi thuyền, thì đã thấy đoàn dân mà Chúa cũng như các môn đệ muốn lánh mặt, để tìm thời giờ nghỉ ngơi, đã chờ sẵn đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Chúa dạy dỗ họ.
Thật là rất dễ bực bội với đám đông.Họ đã gây phiền toái cho Chúa. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Chúa bằng những đòi hỏi liên tục như vậy? Chúa không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Vậy mà như Tin Mừng ghi lại, Chúa không màng tới điều đó. Chẳng những Chúa không cảm thấy họ gây phiền hà mà ngược lại còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.
Ông Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn Độ, đã viết lại trong tập tự thuật của ông những lời như thế này: "Từ xưa và cho đến mãi bây giờ, có một sứ điệp chúng ta phải cho rao giảng cho thế giới chưa tin Chúa, đó là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người."
Vâng! Thiên Chúa quan tâm đến mọi người.
Đó là điều con người cần đón nhận và bắt chước nếu con người muốn có hạnh phúc.
Kenneth là một học sinh lớp 6. Cậu rất vui và hồi hộp khi được chọn tham dự ngày hội thao của trường. Cậu bé đã vượt qua các bạn và về nhất trong lần thi chạy đầu tiên. Phần thưởng là dải ruy băng choàng chéo vai và sự hoan hô của khán giả khiến cậu rất hãnh diện - với bố mẹ và với các bạn cùng lớp.
Cậu bé tiếp tục thi lần chạy thứ hai. Ngay khi gần đến đích, chỉ cần thêm vài bước nữa thì Kenneth sẽ lại là người chiến thắng, nhưng cậu bé bỗng chạy chậm lại và bước ra khỏi đường đua. Bố mẹ cậu vô cùng thắc mắc:
- Tại sao con lại làm như vậy, Kenneth? Nếu con tiếp tục chạy, chắc chắn con sẽ giành chiến thắng nữa đấy.
Kenneth ngước đôi mắt trong veo nhìn bố mẹ và trả lời:
- Nhưng, mẹ ơi, con đã có phần thưởng rồi, còn bạn Billy của con thì chưa có.(First news)
Câu chuyện đẹp quá! Ai mà chẳng muốn những điều tốt lành cho mình. Nhưng nếu biết quan tâm làm cho những người khác cũng được như thế thì thật là đáng khâm phục. Amen.
Làm việc miệt mài, lao động cần cù là điều cần thiết, đáng trân trọng. Rao giảng, loan báo Tin Mừng là điều tối cần để đưa nhiều linh hồn về với Chúa. Tuy nhiên, sau khi Chuá sai các môn đệ đi thực tập loan báo Tin Mừng, các ngài phân khởi trở về, hớn hở thuật lại những công việc vàng son mà các ngài đã làm được. Chúa không chê trách, không cho những công việc mả các môn đệ đã làm được là vô ích, là không có giá trị. Chúa đặt quan tâm con người, giá trị con người hơn công việc. Ngài muốn các môn đệ vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút sau những ngày, những giờ vất vả với công việc. Ngài muốn các môn đệ lắng đọng tâm hồn, sống tình thầy trò và sống mật thiết với nhau.
Thực tế, con người vốn thích thành công trong việc làm, trong những sáng kiến của mình. Họ muốn đề cao thành tích, thích khoe khoang những công trình mình đã làm. Ít khi con người muốn ngồi lại, tĩnh lặng, lắng đọng tâm hồn để xem xét, nhìn lại những việc mình đã làm và phân định, lượng giá những việc làm của mình. Con người luôn nại vào khối lượng công việc chồng chất,cạnh tranh thị trường,thời giờ hạn hẹp, nên họ ít khi dừng lại để rà soát, thẩm định, lắng nghe tiếng lương tâm, tiếng Chúa nói với mình.
Vâng, thấy đám đông Chúa chạnh lòng thương, Chúa nhân từ, đầy trắc ẩn và lòng thương xót của Ngài bao la, Ngài luôn quan tâm đến những nhu cầu thiêng liêng và vật chất của con người. Ngài đụng tới nỗi đau, nỗi khốn khổ của từng con người. Ngài miệt mài rao giảng, làm phép lạ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ vv…Ngài quên cả bản thân của mình. Ngài hiểu thấu sự hạnh phúc, niềm vui của các môn đệ khi các môn đệ thành công trong việc rao giảng của mình. Nhưng Ngài không dừng lại nơi những thành công rực rỡ, vinh quang mau qua của công việc. Ngài tôn trọng phẩm giá, sức khỏe và đặc biệt nhắc nhớ các môn đệ hãy giãn xả, hãy để tâm hồn thanh thản, thân xác nghỉ ngơi, bởi vì làm việc với khối lượng lớn sẽ làm con người bù đầu, bù óc không có giờ tĩnh lặng, cầu nguyện và nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để lấy lại sức sau những ngày, những tháng, những giờ lao đao vất vả vì sứ vụ. Ngài ân cần xin các môn đệ để tâm hồn thảnh thơi, yên lặng, và đặc biệt để các ngài có giờ nghỉ ngơi, thư giãn, chơi bời, trò chuyện thân mật với nhau, và có những khoảng khắc chuyện vãn thân mật với Thiên Chúa. Mẹ Têrêsa Calcutta dù công việc bề bộn vẫn luôn dành giờ cho Chúa trước Thánh Thể và buộc các nữ tu bác ái của Mẹ luôn phải cầu nguyện, dành giờ cho Chúa trước Thánh Thể vv…Các vị thánh luôn làm như vậy.
P.Doncocur nói:” Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng mà hồi tâm và cầu nguyện “. Như thế, xem ra sự ồn ào thái quá, sự miệt mài thái quá trong công việc sẽ không mang lại hiệu quả tốt đẹp như lòng con người mong ước. Ngày nay, nhiều khóa thường huấn được mở ra để giúp cá linh mục, các tu sĩ nam nữ học hỏi và đào tạo trường kỳ cũng mng một ý nghĩa tích cực như vậy. Càng muốn làm việc có hiệu quả, càng phải biết cách làm việc khoa học, có giờ làm, có giờ nghỉ. Càng muốn đi xa, càng phải chuẩn bị và nghỉ ngơi dưỡng sức.Càng muốn làm việc tông đồ tốt càng phải cầu nguyện, tĩnh dưỡng, và bồi đắp kiến thức, đạo đức, nhân bản vv…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã truyền cho các môn đệ vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút. Xin cho chúng con biết xa lánh những công việc bề bộn hằng ngày để có những giờ nghỉ ngơi, tĩnh lặng và cầu nguyện với Chúa, để qua những sự thành công, những thất bại ở đời, chúng con luôn biết dừng lại rà soát, thẩm định và thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi hầu chúng con biết tĩnh lặng và bình an. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con không vinh vang khi thành công, không thất vọng khi thất bại, nhưng vẫn một mực tin vào Chúa và cậy trông vào Đức Mẹ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao khi các môn đệ hăng say kể lại những việc thành công của mình trong chuyến đi truyền giáo thì Chúa lại nói với họ:” Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút ? “. 2.Nơi thanh vắng là gì ? 3.Các môn đệ nghĩ làm sao khi Chúa nhắc nhở họ hãy nghỉ ngơi ? 4.Nghỉ ngơi đối với Chúa có ý nghĩa gì ? 5.Anh chị em nghĩ gì về câu:” Thấy dân chúng đông đảo Chúa chạnh lòng thương ?”.
Tin Mừng Chúa nhật thứ XVI thường B tuần này mời gọi chúng ta khám phá tầm quan trọng của sự nghỉ ngơi trong Chúa. Các Tông Đồ trở về từ sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao. Họ đã trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau bệnh tật và rao giảng Tin Mừng. Họ mệt mỏi và Chúa Giêsu bảo họ rằng: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc 6,31).
Các Tông Đồ Chúa, sau chặng đường dài thi hành sứ vụ Thầy trao không tiền, không bao bị, không bánh, chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy và con tim đầy ắp niềm vui của hành trình loan báo Tin Mừng, các ông đã trở về với Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nhưng Chúa Giêsu khám phá ra sự mệt mỏi, rã rời ẩn bên dưới lớp hào quang của thành công. Vì thế, một đàng đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các Tông đồ, đàng khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Với tình thầy trò Người bảo các môn sinh: “Các con hãy hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”, Người nhẹ nhàng kéo các ông ra khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”. Sở dĩ như thế là vì Chúa sợ các môn đệ của mình nhiễm cái thói hám danh, thích khoe khoang, phô trương, quyền lực, vì theo Chúa thành công ấy là khởi điểm tốt đẹp cho chặng đường tiếp theo, chứ không làm các ông tự mãn rồi rơi vào ảo tưởng, ngủ quên trong những thành công đầu đời. Đường trước mắt mà thầy trò phải bước không phải là con đường bằng phẳng, mà đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách, sức lại có giới hạn. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nghỉ ngơi là cần thiết, nghỉ ngơi sẽ giúp các Tông đồ tỉnh táo hồi tâm suy nghĩ và nhấtlà để Chúa bổ sức cho. Thế nên, điều Chúa nói với các Tông đồ ngày xưa, cũng là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Một trong những cám dỗ mà bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể rơi vào là muốn làm nhiều điều, và khi thành công với muôn lời chúc tụng ta dễ bỏ bê tương quan với Chúa thậm trí quên Chúa luôn. Sự bận rộn và thành tích là những căn bệnh hiện đại khiến nhiều người trong chúng ta đau khổ. Nghỉ ngơi, trái ngược với sự bận rộn là một trong những điều mà Chúa muốn nơi chúng ta. Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng trong giờ cầu nguyện, một trong những nguy hiểm nhất là nghĩ rằng có những điều khác cấp bách hơn phải làm, thế là chúng ta chấm dứt giờ kinh nguyện và bỏ qua mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa mà chúng ta đang có. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với các môn đệ của mình, những người đã làm việc chăm chỉ, những người đang mệt mỏi và những người hạnh phúc vui cười bởi vì mọi thứ diễn ra tốt đẹp của mình rằng chúng ta phải nghỉ ngơi. Tin Mừng nói với chúng ta: "các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh" (Mc 6,33).
Để thực hành một giờ nguyện tốt cần phải có ít nhất tối thiểu hai điều: thứ nhất là ở với Chúa Giêsu, bởi vì ở với Chúa chúng ta mới nói chuyện được với Chúa. Ở bên Chúa là gặp gỡ Người, nhờ đó ta thấy cuộc sống của Chúa không phải là quyền lực, là thành công rực rỡ, nhưng là khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ mình, hy sinh vì yêu thương. Chúng ta phải tin chắc Chúa hiện diện trước mắt chúng ta. Bắt đầu giờ cầu nguyện dù ở bất cứ nơi đâu việc ý thức về sự hiện diện của Chúa là điều cần thiết trước tiên và thường là khó khăn nhất. Có thế, chúng ta mới cảm nghiệm được mình ở với Chúa. Điều thứ hai là sự thinh lặng cần thiết. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với ai đó, buổi trò chuyện có thân mật và sâu sắc hay không còn tùy thuộc vào sự lắng nghe. Có thinh lặng chúng ta mới nghe được Chúa nói với chúng ta.
Sức mạnh của chúng ta là nghỉ ngơi trong Chúa. Trong sự thinh lặng và cậy trông! Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng trong việc dành thời gian thinh lặng trong đời sống của Chúa Giêsu. Người thức dậy rất sớm và đi vào nơi thanh vắng một mình cầu nguyện (x. Mc 1,35). Người cần thời gian tĩnh nguyện với Thiên Chúa Cha. Đương nhiên, chúng ta cần thời gian đó! Chúng ta không cần phải lấp đầy thời gian biểu của mình với hàng trăm hoạt động làm cho chúng ta bận rộn. Chỉ trong thinh lặng và ở với Chúa chúng ta mới tìm được sức mạnh trong các hoạt động của mình.
Thánh Phêrô Eymard được đề nghị nghỉ ngơi trong Chúa sau khi hiệp lễ. Và ngài cảnh báo chúng ta về nguy cơ khi kết thúc Thánh lễ với những lời mà chúng ta biết bằng trái tim. Ngài nói rằng, sau khi rước Mình và Máu Chúa Kitô, tốt nhất là thinh lặng trong chốc lát để lấy thêm sức mạnh và nhất là để cho Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự im lặng của tâm hồn chúng ta. Đôi khi, thay vì nói với Chúa về các kế hoạch của chúng ta, tốt hơn là để Chúa dạy chúng ta và ban cho chúng ta lòng can đảm.
Trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.
Đời sống con người luôn có hai nhịp: lao động và nghỉ ngơi. Lao động chính là phúc lành cho chúng ta, giữa bộn bề cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải làm việc, chăm sóc gia đình… Nhưng đôi khi chúng ta quá mải mê lao động mà quên đi phần tâm hồn thiêng liêng mà Chúa trao tặng cho mỗi người, rồi dần dần chúng ta sẽ rời xa Chúa, hình ảnh của Chúa trong tâm hôn chúng ta sẽ phai nhạt dần đi. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Như khí trời cần cho con người, người Kitô hữu cũng cần phải cầu nguyện.
Vì vậy, chúng ta phải lao động và nghỉ ngơi bên Chúa. Nghỉ ngơi bên Chúa để Ngài bồi dưỡng, tăng cường sức lực tinh thần, cũng như để cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, và nhờ vậy, việc lao động của chúng ta được đổi mới và tràn đầy sáng tạo.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa. Amen. ---------------------------
(30) Các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (31) Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32) Vậy, Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Đức Giê-su là một mục tử tốt lành cảm thông với nỗi vất vả của các môn đệ, nên Người đã bảo các ông hãy đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Nhưng khi thuyền cập bến, nhìn thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến đang khao khát nghe giảng Tin Mừng thì Người lại “chạnh lòng xót thương” họ, nên Người và các môn đệ không nghỉ ngơi mà lại tiếp tục công việc giảng dạy.
3. CHÚ THÍCH:
-C 30-31:
+ Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su và kể lại cho người biết mọi việc: Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã họp lại quanh Thầy để báo cáo công tác rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12), trừ quỉ và xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).
+ Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Lời này cho thấy Đức Giê-su cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi không có thời gian thư giãn hồi phục sức khỏe.
+ Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống: Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã đi theo Mô-sê trong hoang địa Xi-nai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo vừa qua của các Tông đồ: Các ông đã giúp người ta nhận biết Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và đi tìm Người để được ơn cứu độ.
-C 32-33:
+ Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng: Đức Giê-su muốn cho các tông đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được hồi phục sức khỏe cả thể xác lẫn tâm hồn.
+ Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài: Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán các ngài sẽ đến miền Bét-sai-da và Giu-li-a cách đó khoảng 10 cây số. Họ không ngại đường xa vất vả nên đã đi bộ ven bờ hồ và đến nơi trước các ngài. Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời Thánh Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).
-C 34:
+ Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương: “Chạnh lòng thương” hay “Động lòng trắc ẩn”, là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại các phép lạ Đức Giê-su làm do động lòng thương” như: Chữa hai người mù tại Giê-ri-cô (x. Mt 20,34), phục sinh con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,13), chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh vì bị quỷ ám (x. Mc 9,22).
+ Vì họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt: Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người đầu mục Do thái là các tư tế và các kinh sư, lẽ ra phải dạy dỗ dân thì lại lười biếng và chỉ lo tìm kiếm tư lợi như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao ? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên thì các ngươi lại không lo chăn dắt: Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy toán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,1-6).
+ Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Đức Giê-su đặt nặng sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời, nên khi cần, Người sẵn sàng bỏ qua chương trình nghỉ ngơi đã định trước. Tin Mừng Lu-ca viết: “Đức Giê-su tiếp đón họ, nói về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9,11).
4.CÂU HỎI:
1) Các Tông đồ đi truyền giáo về đã báo cáo những gì với Đức Giê-su ? 2) Câu nào cho thấy Đức Giê-su luôn nghĩ đến người khác, nghĩ đến nỗi vất vả của các Tông đồ khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời ? 3) Kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông đồ là gì ? 4) Đức Giê-su muốn đưa các Môn đệ vào nơi thanh vắng để làm gì ? 5) Dân chúng biểu lộ lòng yêu mến Đức Giê-su và hâm mộ nghe lời Người giảng qua hành động nào ? 6) Chạnh lòng thương nghĩa là gì ? Tin Mừng ghi nhận Đức Giê-su làm gì khi “chạnh lòng thương” dân chúng ? 7) Tin Mừng dùng hình ảnh nào để diễn tả sự đáng thương của dân chúng lúc đó ? Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tuyên sấm Lời Thiên Chúa quở trách các mục tử Ít-ra-en thế nào ? 8) Đức Giê-su đã làm gì để đáp ứng nhu cầu của dân chúng ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34):
2. CÂU CHUYỆN:
1) HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ CẦN ĐI ĐÔI VỚI LỜI CẦU NGUYỆN:
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do ơn Chúa ban. Gio-an Vi-an-ney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vi-an-ney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể; phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.
Trong cuộc sống tông đồ hôm nay, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa.
2) YÊU THƯƠNG LÀ QUAN TÂM CHIA SẺ NIỀM VUI CHO THA NHÂN:
KEN-NETH là một học sinh lớp 6. Cậu rất vui và hồi hộp khi được ban giám hiệu chọn để tham dự ngày hội thao của nhà trường. Cậu đã vượt qua các bạn và về nhất trong lần thi chạy đầu tiên. Phần thưởng là dải ruy-băng choàng chéo vai và sự hoan hô của khán giả khiến cậu cảm thấy hãnh diện với bố mẹ và với bạn bè cùng lớp.
Bấy giờ cậu bé tiếp tục thi chạy lần thứ hai. Nhưng khi về gần đến đích, chỉ cần thêm vài bước chân nữa là Ken-neth sẽ lại chiến thắng. Tuy nhiên cậu bé bỗng chạy chậm lại và bước ra khỏi đường đua. Sau đó bố mẹ cậu rất thắc mắc hỏi con:
- Tại sao con lại làm như vậy hả Ken-neth? Nếu con tiếp tục chạy, chắc chắn con sẽ giành được chiến thắng nữa cơ mà.
Bấy giờ cậu bé Ken-neth ngước mắt lên nhìn bố mẹ và nói:
- Nhưng, mẹ ơi, con đã có phần thưởng rồi, còn bạn Bil-ly của con thì lại chưa có. (First news)
Chính tình yêu thương bạn là Bil-ly đã khiến cậu bé Ken-neth sẵn sàng chạy chậm lại cho bạn vượt qua mình để cũng giành được huy chương giống như mình.
3) HÃY BIẾT QUAN TÂM ĐẾN THA NHÂN BÊN CẠNH:
Một học viên đã chia sẻ bài học cuối khóa tu nghiệp như sau:
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông. Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường bạn tên là gì?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi đã nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm chỉ là một lời chào và mỉm cười với họ.
Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình sau này. Sau đó tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường là Do-ro-thy.
4) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA THÁI ĐỘ BẤT KHOAN DUNG CỦA VỊ MỤC TỬ:
Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các linh mục. Anh bỏ đến nhà thờ ngày Chúa Nhật và cho biết lý do bỏ đạo như sau: ”Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chánh nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về các thủ tục hành chánh !”
Giả như vị mục tử trong câu chuyện trên học nơi Chúa Giê-su đầy lòng thương xót thì chắc đã biết cách giải quyết các trường hợp rắc rối về hôn nhân, để vừa trung thành tuân giữ luật Hội Thánh, lại vừa thể hiện lòng bao dung nhân ái noi gương Mục Tử Giê-su, thì có lẽ đã không đẩy chàng thanh niên ngang bướng nói trên đến chỗ bất mãn và lìa bỏ Hội Thánh.
4. SUY NIỆM:
1) BỆNH VÔ CẢM CỦA CON NGƯỜI THỜI NAY:
Theo kết quả khảo sát mới đây của viện Quốc tế Gal-lup thì Việt Nam là nước đứng thứ 13 trên thế giới về tệ nạn vô cảm. Thực hư của cuộc khảo sát thế nào chưa rõ, chỉ biết rằng rất nhiều câu chuyện vô cảm đã được báo chí Việt Nam ghi nhận và được đăng trên các trang mạng xã hội ngày càng nhiều hơn: Chuyện mấy nữ sinh tuổi teen đánh nhau được bạn bè đứng chung quanh thay vì ra tay can ngăn lại nhiệt tình cổ vũ kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu; Chuyện bác sĩ có thái độ tắc trách đã không cấp thời cứu chữa nạn nhân, chỉ vì người nhà chưa kịp nộp viện phí; Chuyện cô bảo mẫu bạo hành trẻ thơ được cha mẹ nhờ cậy chăm sóc, đã gây phẫn nộ trong cư dân mạng… Những điều này khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức và sự vô cảm của xã hội Việt Nam hôm nay. Sự vô cảm còn được nhân lên khi có những người bán trái cây hám lợi đã sẵn sàng ngâm trái cây vào thùng hóa chất có thể gây ung thư cho mau chín; Chuyện chủ trại heo cho bơm nước vào heo sắp xuất chuồng, người nuôi tôm bơm thạch vào tôm để kiếm lời nhiều hơn… Các hành vi đó chính là tội ác, vi phạm pháp luật nghiêm trọng cần bị xã hội lên án. Nhất là sư vô cảm còn thể hiện rõ nét qua hành động dã man của tài xế xe tải sau khi gây tai nạn, đã điều khiển xe quay lại cán chết nạn nhân bị thương đang nằm bên đường, để hy vọng sẽ bị đền bù ít hơn...
2) GƯƠNG “CHẠNH LÒNG THƯƠNG” CỦA MỤC TỬ GIÊ-SU:
Trong Tin Mừng hôm nay, sau chuyến đi thực tập truyền giáo trở về, các môn đệ đã vui mừng thuật lại những thành quả các ông đã đạt được cho Thầy Giê-su nghe, mà không nghĩ đến việc phải ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức. Trái tim mục tử của Đức Giê-su biết các ông cần được nghỉ ngơi, nên bảo: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng khi thầy trò lên thuyền, dân chúng đoán ra nơi các ngài sắp đến, nên đã đi bộ theo đường quanh bờ hồ để đến nơi trước các ngài. Khi thuyền cập bến, thấy dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su đã động lòng thương, vì họ giống như “đàn chiên không người chăn dắt”, và Người lại tiếp tục công việc giảng dạy và chữa bệnh để đáp ứng nhu cầu của họ.
Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su luôn tỏ tình yêu thương mọi người, nhất là những người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật và tội lỗi… bị xã hội khinh thường. Người đã thể hiện tình thương bằng việc sẵn sàng vượt qua Luật Mô-sê để chữa bệnh trong ngày hưu lễ Sa-bát, không sợ bị ô uế theo Luật khi đặt tay trên đầu các bệnh nhân phong cùi để chữa lành, sẵn sàng để người phụ nữ bị bệnh băng huyết chạm vào áo mình… Người cũng nặng lời quở trách thái độ giả đạo đức và thiếu lòng khoan dung của các đầu mục dân Do thái đương thời như sau: ”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình…” (Mt 23,23tt); "Ngày Sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sa-bát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát." (Mc 2,27-28). Theo Đức Giê-su thì luật trọng nhất mà mọi người phải tuân giữ là sống yêu thương. Về điểm này thánh Phao-lô cũng dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
3) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA BỆNH VÔ CẢM:
PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại một kinh nghiệm truyền giáo của ông trong cuốn tự thuật sau: “Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là: “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau: Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại tỏ thái độ nóng nảy miễn cưỡng… với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa … thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa !”.
Ông cũng thuật lại câu chuyện về lối ứng xử quan liêu của một vị giám mục người ngoại quốc thuộc giáo phận Băng-gan nước Ấn Độ, đã gây hậu quả tệ hại như sau: Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar), sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng để giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra hôm đó thật đáng tiếc: Vị giám mục đã không ra trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký tiếp xúc qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có nhiều thế lực … Đảng này thề chống lại Hội thánh Công giáo, và tìm cách ngăn chặn việc truyền giáo tại nước Ấn Độ.
4) CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ ĐỂ NOI GƯƠNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH GIÊ-SU?:
a) Ân cần phục vụ:
Mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai có nhiệm vụ chăm sóc cộng đòan, tuy cần phải tổ chức sinh họat theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng vẫn phải dành ưu tiên cho sứ mệnh loan báo Tin mừng. Cần tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái của bọn Biệt Phái khi xưa… vì dễ gây sự bất mãn cho anh em lương dân khi có dịp tiếp xúc với chúng ta.
Noi gương Đức Giê-su vị Mục Tử giàu lòng từ bi thương xót, các mục tử hôm nay cần phải ân cần phục vụ như: Sẵn sàng gặp gỡ các khách từ phương xa đến dù không có hẹn trước; Sẵn sàng ban phép giải tội cho các hối nhân xin xưng tội ngoài giờ quy định; Sẵn sàng đi kẻ liệt khi có người đau nặng vào giờ nghỉ trưa hay giữa lúc đêm khuya…
b) Cảm thông phục vụ:
Đức Giê-su luôn tỏ thái độ cảm thông với nỗi đau của tha nhân: Người đã khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (x. Lc 19,44); Người cảm thông khi nghe tiếng khóc của một bà mẹ góa đang đi chôn đứa con trai duy nhất tại cửa thành Na-in và đã phục sinh anh ta (x. Lc 7,11-17); Người đã khóc thương người bạn thân La-gia-rô mới chết và chôn được bốn ngày trong mồ và truyền cho anh trỗi dậy ra khỏi mồ (x. Ga 11,1-14)… Đức Ma-ri-a cũng có thái độ cảm thông với đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na. Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn khi mở miệng xin Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu để giúp đỡ họ (x.Ga 2,3).
Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần tỏ thái độ cảm thông với nỗi đau của tha nhân như thánh Phao-lô đã dạy: ”Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Riêng các mục tử cần có thái độ cảm thông và sẵn sàng chia sẻ niềm vui nỗi buồn với đàn chiên được Chúa trao phó, nhất là với những cộng tác viên của mình.
c) Dấn thân phục vụ:
Đức Giê-su đã luôn quên mình để phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường tên là Giai-rô để chữa bệnh cho con gái ông sắp chết (x. Mc 5,21-24.35-43); Sẵn sàng đi đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho đầy tớ của ông ta; Người sẵn sàng bỏ chương trình nghỉ ngơi để tiếp tục thi hành sứ vụ như Tin Mừng đã ghi lại…
Để luôn hy sinh phục vụ noi gương Đức Giê-su thật không dễ chút nào. Chỉ những ai có tình thương yêu tha nhân thực sự, mới sẵn sàng dấn thân quên mình phục vụ như vậy. Riêng các mục tử cần tận tình hướng dẫn các đôi hôn phối gặp hoàn cảnh bất thường, để giúp họ đủ điều kiện cử hành hôn lễ tại nhà thờ, hầu an tâm sống đạo…
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi tín hữu, đặc biệt là các mục tử hôm nay. Ơn gọi của chúng con là trở nên khí cụ bình an của Chúa; Là đi bước trước đến với tha nhân, hiểu biết cảm thông với những nỗi đau và nguyện vọng của họ, để sẵn sàng phục vụ với tình thương xót noi gương Chúa xưa. Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói cơm bánh vật chất, đang khát nghe giảng Tin Mừng, hầu sẵn sàng đáp ứng với hết khả năng của con. Xin giúp con luôn biết “chạnh lòng xót thương” để nên giống Chúa là đấng từ bi bao dung và nhân hậu, nhờ đó con sẽ tích cực góp phần, đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội thánh.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Mọi thứ đều có màu sắc đặc trưng: cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, xanh, đỏ, tía, xám, trắng, đen… Tuy nhiên, yêu thương là “chất” trừu tượng, vô hình, làm sao biết nó có màu sắc gì? Đúng vậy, nhưng người ta vẫn “điểm tô” cho nó bằng loại màu sắc đẹp đẽ: màu hồng, màu xanh. Riêng những người thất tình, có lẽ họ thấy tình yêu màu xám xịt hoặc đen thui. Còn những ai yêu Chúa thì chắc chắn KHÔNG BAO GIỜ bị thất tình – nghĩa là tình yêu luôn có màu hồng hoặc xanh biếc, khả dĩ quyến rũ lòng người: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7).
Ai trong chúng ta cũng bị Thiên Chúa quyến rũ như vậy. Thế nhưng con người rất yếu đuối, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Quả thật, không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15,5), nhưng Ngài đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10,37-39; Lc 14,26-27). Thế nên, sách Huấn Ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23,1-3).
Hằng ngày luôn có nhiều thứ nguy hiểm rình rập vây quanh chúng ta, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23,4-6). Và Kitô giáo quên cầu nguyện: “Xin Chúa đừng bắt con phải chết cùng quân tội lỗi, với bọn ác nhân. Miệng thì những nói bình an, mà lòng thâm độc chỉ toan hại người” (Tv 28,3).
Không ai lại không mong muốn được sống thư thái trong sự hòa bình đích thực, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Thiên Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể sung sướng minh định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1). Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23,2-3). Đó là chia sẻ niềm vui thánh đức với tha nhân.
Cứ thế và cứ thế, càng gia tăng niềm vui mừng càng thêm niềm tin tưởng để thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4). Không nói Chúa cũng biết – vì Ngài thấu suốt mọi sự (1Sbn 28,9b; Gđt 8,14; Et 5,1; 2Mcb 7,35; 2Mcb 9,5; 2Mcb 12,22; 2Mcb 15,2; G 28,27; Tv 139,2; Gr 10,12; Cn 16,2; Cn 21,2; Cn 24,12; Kn 1,6; Kn 7,23; Hc 23,19; Hc 42,20; Gr 10,12; Gr 11,20; Gr 20,12; 1Cr 2,10; 1Cr 12,4-6; 1 Ga 3,20), nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23,5). Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để chung hưởng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23,6).
Cuộc đời luôn biến đổi và mang nhiều màu sắc, người đời gọi là “lên voi, xuống chó”. Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu để rồi con tim lại thấy vui mừng: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16,5).
Vừa giải thích vừa xác định, Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2,13). Chỉ vì yếu đuối mà sa ngã, phạm tội; và tội lỗi khiến chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được phục hồi quyền làm con cái của Ngài. Niềm hạnh phúc thật lớn lao. Đó không phải là công của chúng ta, mà là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Chúng ta thật diễm phúc, bởi vì nếu không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân mãi mãi. Cuộc đời của chúng ta đang xám xịt trở thành hồng thắm, đang đen thui hóa ra trắng ngần. Kỳ lạ thay!
Cuộc đời là bể khổ mênh mông. Yêu mà khổ te tua đã đành, không yêu mà cũng khổ tả tơi. Thánh Gióp đã than oán về sinh nhật của mình: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời… Phải chi ngày ấy là đêm tối… Phải chi đêm ấy bị tối tăm xâm nhập, không được kể vào niên lịch, không được tính trong số các tháng” (G 3,3-6). Một loạt “phải chi” thật não nuột!
Cái khổ cứ cộng thêm rồi nhân lên, chẳng bao giờ trừ bớt. Con cái phải lìa xa cha mẹ thì khổ sở lắm, hai người yêu nhau mà không được gần nhau thì khổ vô cùng. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt thì mỏi. Thế nên mệt dạng nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Than thì cứ than, thở vẫn phải thở. Hãy cứ bình tĩnh, rồi đâu lại vào đấy. Thật vậy, chính Thiên Chúa vẫn mãi là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do Thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2,14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2,16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Rồi cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2,18).
Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Deus meus et omnia – Thiên Chúa của tôi và tất cả của tôi”. Thánh nhân là người rất nghèo mà lại trở nên rất giàu. Đó là cách sống tín thác, sống khôn ngoan, bởi vì nhờ đức tin mà được nên công chính (Rm 5,1; Rm 9,30; Rm 9,32; Rm 10,6). Thánh Phêrô cảnh báo: “Hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa” (2Pr 3,17).
Thông thường, cái gì cũng có hai mặt. Chuyện yêu thương cũng thế, có khoảng sáng và khoảng tối – như một bức tranh có màu sáng và tối vậy. Cả hai đều cần để hỗ trợ nhau.
Yêu thương cũng có lúc vui vẻ, lúc buồn bã; lúc hăng hái, lúc chán nản; lúc khỏe khoắn, lúc mệt mỏi. Mệt thì phải nghỉ để “nạp” năng lượng tinh thần. Theo tường thuật của Máccô, hôm đó các Tông Đồ tụ họp xung quanh Thầy Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Và Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Đó là một dạng tĩnh tâm cần thiết lắm.
Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34), tránh trời không khỏi nắng. Ngày nào cũng có việc bận rộn, làm gì cũng mệt – làm ít, mệt ít; làm nhiều, mệt nhiều; thậm chí không làm cũng… mệt. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm để không chỉ PHỤC HỒI THỂ LÝ mà quan trọng hơn là PHỤC HỒI TINH THẦN, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”. Chúa Giêsu cũng căn dặn Thánh Faustina: “Hãy tựa đầu vào vai Ta, hãy nghỉ ngơi và lấy lại sức, Ta luôn ở bên con” (Nhật ký, số 498).
Máccô cho biết, hôm đó kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.
Thật kỳ lạ, Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời thiêng ý thánh, đơn giản mà thâm thúy, giáo huấn chân lý cao siêu nhưng vẫn phù hợp với mọi trình độ, thực hiện những việc lạ lùng, ... mà chắc hẳn Ngài còn ăn nói rất có duyên (cả âm và sắc), rất chí lý, thế nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Cuộc sống luôn nhiêu khê, thế nên Chúa Giêsu đã khuyên nhủ về bí quyết sống: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10,16). Đó là cách “sống khôn”, mà sống khôn đâu dễ gì. Người ta có bí quyết thú vị này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Còn Lão Tử phân tích: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện”. Nghĩa là “người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không thiện”. Đó cũng là dạng yêu thương mang màu sắc lạ.
Khi Thầy trò ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì CHẠNH LÒNG THƯƠNG, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6,34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế, cách thức mà Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Chỉ là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi nơi đồng xanh yêu thương của Chúa trong khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác. Đó là vô cảm tâm linh. Muốn lên Thiên Đàng một mình là ích kỷ, mà người ích kỷ thì làm sao mà vào Nước Trời chứ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sống khôn để có thể chết thiêng, biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con luôn đồng hành với nhau và dìu bước nhau vào Miền Đất Hứa mà Ngài đã hứa ban. Xin tô thắm cuộc đời chúng con bằng màu sắc yêu thương tươi thắm của Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Một danh nhân đã nhận định: “Chỉ có những người biết yêu thương thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Một câu nói khá nhẹ nhàng mà lại khiến lòng người “nhức nhối” lắm.
Trong những ngày vừa qua, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” – tài xế cho xe ủi đất cán chết một phụ nữ trong vụ tranh chấp đất đai ở Hải Dương, hoặc sát thủ Nguyễn Hải Dương ra tay hạ sát 6 nạn nhân tại Bình Phước. Họ là ai? Họ là con người nhưng không hề biết chạnh lòng thương người khác.
Ai cũng phải yêu thương vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Mà dám chống lại Thiên Chúa thì số phận học sẽ như thế nào? Chắc hẳn ai cũng biết. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại”. Chắc chắn “chạy trời không khỏi nắng”.
Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người lãnh trọng trách chăm lo cho người khác. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến cáchành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…
Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”(Gr 23:5-6).
Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.
Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nênnhững người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).
Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.
Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.
Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông:“Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài dạy họ cách sống vì thương xót họ, thương xót vô điều kiện.
Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến khôngphải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…
Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.
Trong Tông thư Laudato Si (Chúc Tụng Thiên Chúa), ĐGH Phanxicô có đề cập một cách sống độc đáo theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô: “Hãy sống khôn ngoan, hãy suy nghĩ sâu sắc, hãy yêu thương rộng lòng”. Ước gì mỗi chúng ta đều biết thể hiện lòng thương xót đối với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ, có làm vậy thì chúng ta mới xứng đáng nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Lòng Chúa Thương Xót, đời đời con ca tụng – Misericordias Domini in aeternum cantabo” (Tv 89:1).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng xót thương, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ (Tv 51:12) để con biết thương xót tha nhân như chính mình. Xin cho các Kitô hữu luôn cố gắng sống xứng đáng kiếp người trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tông đồ Gio-an đã cho ta một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức Giê-su cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân, tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giê-su, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Thầy Giê-su ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?
Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.
‘Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt’.
Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của Thầy Giê-su mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được Thầy Giê-su ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (xem Gl 3:27-28).
Tôi có thể đi tới kết luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương – giáo; triều – dòng; tu – đời, đạo đức – khô khan; tốt – xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.
Lạy Thầy Giê-su từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. A-men.
Trong ngôn ngữ gần như thơ mộng, Thánh Phaolô mời gọi những người Êphêsô vui mừng về sự hiệp nhất mà họ đang trải nghiệm. Nhiều người trong số họ là người Dân ngoại bang, những người khinh miệt người Do Thái gần giống như nhiều như người Do Thái khinh miệt họ. Nhưng giờ đây họ đang thờ phượng Chúa Giêsu – cùng với các anh chị em Do Thái! Qua Đức Kitô, bức tường cổ nhiều thế kỷ phân chia đã bị phá vỡ, chỉ để lại một mối liên kết của tình yêu thương.
Nhưng đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu đem người Do thái và người ngoại đến cùng nhau. Có lẽ điều quan trọng nhất đã xảy ra khoảng ba mươi năm trước đó, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên. Đó là khi “Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel” đã vượt qua những khác biệt của họ. . . để họ có thể cùng đặt Chúa Giêsu vào cái chết (Cv 4,27). Tất nhiên, không phải mọi người đều có cùng âm mưu, nhưng nhiều người đã đoàn kết trong lòng căm hận của họ về Chúa Giêsu
Điều đó không tuyệt vời lắm sao khi mà Chúa Giêsu có thể nhận lấy một cái gì đó thật khủng khiếp và làm cho nó thành một nguồn ơn lành? Ma quỷ đã tạo ra một sự hiệp nhất sai lạc và nhu nhược để loại trừ Chúa Giêsu, nhưng kế hoạch của nó đã bị phản tác dụng. Sự hiệp nhất giả tạo này mang lại sự thống nhất thực sự mà người Êphêsô và các Kitô hữu ở khắp mọi nơi khác – hiện đang được hưởng. Nơi mà người dân ngoại đã từng đối nghịch với người Do Thái, nô lệ đối nghịch với tự do, và đàn bà đối nghịch với đàn ông, bây giờ chỉ có các anh chị em đang chứng kiến sức mạnh của Thánh Thần có sức chữa lành những sự chia rẽ xa xưa.
Nếu Chúa Giêsu có thể chiến thắng sự chia rẽ kéo dài nhiều thế kỷ giữa người Do thái và người dân ngoại, chắc chắn Ngài có thể chữa lành những sự chia rẽ trong cuộc sống của chúng ta. Nó có thể không xảy ra một sớm một chiều hoặc theo cách chúng ta mong đợi, nhưng nó có thể xảy ra – đặc biệt là nếu chúng ta đối diện với chính nó. Vì vậy, hôm nay hãy lấy thử một mối quan hệ, nếu bạn cần phải tha thứ, hãy bỏ đi sự oán giận, hoặc cầu xin sự tha thứ, và hãy xem những gì bạn có thể làm để phá vỡ các bức tường. Nó sẽ không xảy ra lập tức – cũng giống như Giáo hội sơ khai cần có thời gian. Nhưng nếu bạn kiên trì, điều đó sẽ xảy ra.
“Lạy Chúa, xin hãy đến và chữa lành mọi sự chia rẽ và mối quan hệ bị rạn nứt”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương, OP
Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo về lối sống vô cảm đang diễn ra trên thế giới và nơi nhiều tín hữu. Lối sống này biến con người trở nên khô cằn, ích kỷ, dửng dưng trước những đau khổ của anh chị em. Cách đây ít tháng, có những sự kiện khiến nhiều người bức xúc: Một bà mẹ chứng kiến đứa con trai của mình bị tai nạn xe, bà ôm đứa còn đầy thương tích và kêu gào mọi người giúp đỡ. Có nhiều người đi qua, nhưng không ai dừng lại để giúp người phụ nữ này ; một học sinh nữ bị các bạn xúm vào đánh hội đồng, mặc cho nạn nhận kêu khóc lạy van, những đứa bạn chung quanh không hề có phản ứng gì, trái lại, chúng thản nhiên lấy điện thoại ra quay film bạn mình đang bị hành hung như thế. Sự vô cảm đi đến độc ác như vụ án ở Bình Phước, một gia đình gồm sáu người bị thảm sát bằng dao. Hung thủ cắt cổ nạn nhân như cắt cổ con vịt mà không gớm tay.
Vô cảm là tình trạng khi con người chỉ còn nghĩ đến mình và không quan tâm đến người khác. Lối sống đua đòi bon chen, mạnh được yếu thua đã dẫn đến tình trạng con người phải chà đạp lên nhau để sống. Từ đó, con người đã trở nên vô tâm vô tình với nhau, và dần dần trở thành vô cảm lạnh lùng trước những đau khổ của người chung quanh. Sự vô cảm không chỉ xảy ra nơi xã hội, nhưng nó đang xảy ra nơi gia đình và lối xóm. Nhiều người sống mà không hề quan tâm và không hề biết gia đình bên cạnh mình là ai. Trong gia đình, cha mẹ con cái sống với nhau hết sức dửng dưng, mỗi người mỗi việc, mỗi sở thích, không quan tâm, không trò chuyện và không hiểu nhau.
Không chỉ dửng dưng đối với nhau, nhiều Kitô hữu ngày nay còn dửng dưng với Thiên Chúa. Tình trạng này thể hiện qua việc họ coi đời sống đạo chỉ là việc tùy phụ, việc thực hành đạo bị cho là thứ yếu không quan trọng. Nhiều người đã để cho trái tim mình mất cảm xúc, mất cảm nhận về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Vì thế, họ coi thường hoặc từ chối việc lãnh nhận các bí tích, họ đến nhà thờ như một cái xác vô hồn, không ý thức. Từ lối sống vô cảm với Thiên Chúa, dửng dưng với anh em, vô cảm trước nỗi đau của anh em, sẽ dẫn đến nhẫn tâm với anh em, sẽ làm cho lương tâm bị chai lì trước những lời nhắc bảo của Thiên Chúa.
Thiên Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, mà là một Thiên Chúa đồng cảm, chạnh lòng thương với những hoàn cảnh khác nhau của con người. Thiên Chúa không đứng xa để nhìn thấy con người đau khổ, nhưng Thiên Chúa đã bước đến với con người, nâng con người chỗi dậy, và Ngài còn “hôn vào vết thương” của con người. Thiên Chúa không nhắm mắt làm ngơ khi thấy con người phải đau khổ, nhưng Ngài đã chấp nhận trở nên kẻ “liên lụy” với thân phận con người. Khác với Đức Phật đi tìm con đường tu hành giũ bỏ thế trần, tiêu diệt cảm xúc, Chúa Giêsu chọn con đường bước vào trần thế, tìm đến với con người đau khổ, cùng đau nỗi đau của con người, và chấp nhận cả cái chết vô cùng đau đớn để giải thoát con người.
Tin Mừng Marcô hôm nay muốn diễn tả một Thiên Chúa chạnh lòng thương, tìm đến với con người, chứ không trốn tránh những vấn đề thực tế của con người. Sau khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng sám hối, các ông trở về kể lại cho Chúa về những việc các ông đã làm. Chúa Giêsu thấy rõ niềm vui xen lẫn mệt mỏi trên trên gương mặt các tông đồ, Ngài thấy điều các ông cần lúc này là được nghỉ ngơi. Vì thế Ngài đã nói với các ông: Các con hãy tìm một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút. Điều này cho thấy Chúa Giêsu hết sức quan tâm đến các cộng tác viên của mình, vì Ngài thấy các ông bận rộn đến độ không có giờ ăn uống ngơi nghỉ.
Chúa Giêsu muốn các ông tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, là Ngài muốn các ông dành sự nghỉ ngơi để gặp gỡ Thiên Chúa, nạp lại năng lượng cho đời sống thiêng liêng của mình. Giống như chiếc điện thoại cần phải được sạc pin thường xuyên mới có thể họat động, càng hoạt động nhiều, càng phải sạc thường xuyên ; cũng vậy, Chúa cũng muốn các cộng tác viên của Chúa phải được sạc pin thường xuyên nơi nguồn điện là Thiên Chúa, qua đường dây là sự cầu nguyện.
Khi bước ra khỏi thuyền, thấy đám đông dân chúng đang đi tìm Ngài, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Nhìn thấy đám đông bị bỏ rơi, như rắn không đầu, như chiên không chủ, Chúa Giêsu không đành lòng để những con người này lầm lũi mất phương hướng, Ngài đã tiếp tục dạy dỗ họ. Quả thật tình trạng của đám đông này là như thế, họ sống trong một thế giới có rất nhiều tư tưởng triết học của Hylạp, nhiều tôn giáo, có nhiều lời giải thích của các luật sĩ, lời giảng của các thượng tế và kinh sư. Tuy nhiên những tư tưởng tôn giáo, triết học và luật lệ này không chỉ ra cho con người một con đường đi đến hạnh phúc, mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chỉ cho con người con đường đạt đến hạnh phúc mà thôi.
Những tư tế luật sĩ như những mục tử để hướng dẫn dân Chúa. Tuy nhiên, thay vì trở nên những người quy tụ và dẫn dắt dân Chúa, họ đã không chu toàn nhiệm vụ, đã để cho đoàn chiên bị tan tác thất lạc. Lời của ngôn sứ Giêrêmia cho biết: Thiên Chúa sẽ lấy lại đoàn chiên khỏi tay các mục tử, và chính Ngài sẽ là Đấng chăn dắt chiên Ngài, Ngài sẽ quy tụ chúng sau những ngày chúng bị tản mác. Ngài sẽ đem lại cho chiên của Ngài sự bình an và sẽ dẫn dắt chăm sóc chúng, đưa chúng vào đồng cỏ Nước Trời.
Thư Ephêsô cho thấy, nguyên nhân khiến cho con người trở nên vô cảm vô tâm với nhau là do tội. Tội đưa đến xa cách giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Chúa Giêsu đã chết để tẩy rửa tội lỗi nhân loại, đưa con người trở về với Thiên Chúa và đưa con người về lại với nhau. Như thế để xóa bỏ tình trạng dửng dưng vô cảm của con người hôm nay, trước tiên cần loại trừ tội và sự dữ trong tâm hồn. Chỉ khi tâm hồn có Chúa người ta mới biết nghĩ đến anh em, khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng sẽ có được trái tim biết chạnh thương, biết rung động trước những nỗi khổ của anh chị em. Ngược lại khi tội và ma quỷ ở trong tâm hồn, người ta chỉ biết nghĩ đến bản thân và dửng dưng với anh em mình.
Mặt khác, với sức ép của cơm áo gạo tiền, lối sống đua đòi phô trương đang khiến nhiều người chỉ biết tìm kiếm tiền bạc lợi nhuận bằng mọi giá, không quan tâm đến nhau, trở nên vô cảm lạnh lùng với nhau. Lối sống này đang diễn ra trong nhiều gia đình, các thành viên quá bận rộn với công việc khiến họ không còn thời giờ cho nhau và không còn quan tâm đến nhau. Nhiều bậc cha mẹ không còn giờ cho con cái, họ để con cái bị lạc lõng, bị bỏ rơi ngay trong gia đình, thiếu quan tâm, thiếu giáo dục, thiếu tình yêu thương. Lời Chúa hôm nay mời gọi các bậc cha mẹ cần biết dừng lại để quan tâm lo lắng cho gia đình đúng cách hơn, đừng chỉ lo cơm áo, làm giàu nhưng quan tâm chăm sóc cho từng thành viên trong gia đình để không ai cảm thấy bơ vơ lạc lõng trong căn nhà của mình.
Lối sống dửng dưng vô cảm đang ảnh hưởng trầm trọng trên nhiều bạn trẻ, nhiều người đã vùi mình trong thế giới ảo của Internet và các trang mạng xã hội, quên thế giới thật mình đang sống. Họ làm thui chột các tương quan xã hội bạn hữu, để mình rơi vào tình trạng tự kỷ. Lối sống tiêu dùng đua đòi khiến nhiều bạn có thể có nhiều bạn chơi, nhưng lại không có người nào là bạn thật sự. Vì thế, nhiều người cảm thấy trống rỗng lạc lõng, dẫn đến chìm đắm mình trong các thứ nghiện ngập. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy trở về với cuộc sống thật, hãy tìm kiếm những giá trị thật, là những giá trị giúp phát triển con người toàn diện hài hòa. Đặc biệt là hãy tìm kiếm những giá trị tôn giáo, hay nói đúng hơn là tìm kiếm chính Chúa Giêsu và Tin Mừng, gặp gỡ Chúa nơi Bí Tích Giải tội và Thánh Thể, Chúa sẽ cho chúng ta có một trái tim thật mềm để có thể rung nhịp, chạnh thương, một tâm hồn thật nhạy bén trước những nhu cầu của anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta. Amen.
Sau 12 năm đèn sách, các học sinh, kẻ thì hân hoan, người thì vui mừng, với kết quả của kỳ thi “2 trong 1” được tổ chức bốn ngày đầu tháng bảy vừa qua. Trong mua bán “thiên hạ” nói rằng thuận mua vừa bán, tiền nào của nấy; trong kế hoạch làm ăn thì có câu mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên; còn khi thi cử, người ta lại an ủi nhau bằng câu học tài thi phận. Thật giả, được hay mất, còn tùy thuộc tự do của mỗi người; hoặc, muốn có thành quả tốt đẹp, ta không thể thiếu việc đầu tư: tiền của, thời giờ, công sức.
Xưa kia, người làm nông có mùa màng bội thu, họ thường cho rằng nhờ: mưa thuận gió hòa. Ngày hôm nay họ quan niệm, trúng mùa, được mùa, là do kỹ thuật gieo trồng đúng, là biết áp dụng công nghệ khoa học. Và trong học tập, nhiều bạn trẻ đạt được thành tích, lại bị xuyên tạc, mỉa mai cho rằng: may hơn khôn, hoặc “vì nó” thuộc diện “CÔCC”. Mơ ước thành đạt trong cuộc sống, có được kết quả tốt đẹp trong lao động, giáo dục, tai nghe mắt thấy sự trưởng thành của con cháu; mơ mộng ấy, hạnh phúc ấy, thật là chính đáng, khi người ta biết phấn đấu.
Thành quả làm việc tông đồ của các học trò, luôn được Đức Giêsu quan tâm cách đặc biệt, đó là sự nghỉ ngơi bồi dưỡng; kết quả lao động của các môn đệ hôm xưa là vui mừng về thành tích các ông đạt được. Sau một chuyến thực tập việc tông đồ, những người học trò thuở ban đầu ấy rất phấn khởi, báo cáo cho Thầy Giêsu về kết quả truyền giáo đầy khả quan.
Đức Giêsu không vội vã trước sứ mạng tông đồ, không đề cao thành tích của các học trò, cũng không im lặng về việc dấn thân phục vụ của các học trò, Ngài còn quan tâm nhắc nhớ: “các con hãy lo tìm chỗ nghỉ ngơi một chút”. Sau một ngày làm việc của các bậc cha mẹ, trải qua 12 năm ngồi ghế nhà trường, theo phương diện tự nhiên, cũng chỉ là thời gian để ta “suy xét, báo cáo” với Chúa về trách nhiệm, bổn phận của mình. Các môn đệ cần nghỉ ngơi đôi chút rồi tiếp tục sứ mạng, người Kitô hữu cầu nguyện, xin ơn, rồi tiếp tục sống niềm tin, đó cũng là dấu chứng tình yêu những ai theo Chúa.
Lao động có kết quả, làm việc có thành công, không phải là mơ ước của người chăm chỉ, mà còn cho thấy phần thưởng dành cho những ai biết sống tinh thần kỷ luật, sống tin yêu phục vụ. Người học tập có phương pháp là người sẽ gặt hái được thành quả tương xứng với sức đầu tư của họ. Người làm việc có chương trình, có kế hoạch, nhất định sẽ thu được hiệu quả cao dù trong thâm tâm của họ mới có ước mơ thành công. Khi trình báo kết quả thu được, các tông đồ mới từ từ hiểu hoạt động truyền giáo phải có Chúa Giêsu, phải có nghỉ ngơi, cầu nguyện, đó cũng là sự hiệp thông cần thiết nơi người hiến dâng phục vụ.
Đám đông xưa kia và số đông người tín hữu hôm nay vẫn chung một nỗi khắc khoải yêu thương, Chúa Giêsu chạnh lòng yêu thương thì Ngài cũng đáp ứng nhu cầu bình an hạnh phúc cho những ai theo Ngài. Để duy trì tốt công việc được giao, người ta phải biết bảo vệ sức khoẻ: biết làm chủ lấy mình; đến với thành công, người ta cần khiêm tốn nghe sự chỉ dạy của các bậc lão thành. Chúng ta hôm nay và các tông đồ xưa kia đều có thể xác, có linh hồn, chúng ta không thể đi ra ngoài qui luật: giầu mạnh về thân xác, khoẻ đẹp về linh hồn. Nghỉ ngơi cầu nguyện là tuân thủ theo tiến trình tự nhiên, dù là công tử hay bần nông đều phải biết chăm lo cho sức khỏe thể xác, bổ dưỡng phần hồn.
Tục ngữ có câu: “chuông có gõ mới kêu, đèn có khêu mới rạng”. Kết quả, thành quả, chỉ có giá trị khi ta đầu tư công sức làm rạng ngợi ánh sáng đức tin, làm cho tình yêu Đức Kitô sống động. Không ai có thể làm việc hiệu quả mà thiếu nghỉ ngơi, bồi dưỡng, làm sao người ta biết sống gương sáng cho con cháu nếu không được Chúa bổ sức ban ơn ? Kinh nghiệm cũng cho chúng ta biết, thành công chỉ đến khi ta làm việc tận tâm tận lực, và luôn lạc quan nghĩ tới những điều tốt đẹp ở phía trước.
Cũng phải mất thời gian, phải có sự chuẩn bị đầu tư lâu dài cho hành trình truyền giáo, các đệ tử của Chúa Giêsu mới thấm nhuần được bài học Thầy truyền lại: nghỉ ngơi, bồi dưỡng thể xác tinh thần để công việc tông đồ luôn khởi sắc. Thành quả lao động tùy thuộc nơi mỗi người chăm chỉ, gắn bó với công việc, tình yêu của người môn đệ chỉ phát sinh hiệu quả khi có Chúa Giêsu, có biết chạnh lòng thương yêu phục vụ như Chúa Kitô.
Ngụ ngôn La Fontaine có kể câu truyện về 2 con nhái như sau: có 2 con nhái vui đùa vô ý nhảy vào thùng sữa, 1 con cố gắng vùng vẫy nhảy lên miệng thùng, con còn lại thì tuyệt vọng không muốn tốn công vô ích. Cuối cùng con nhái lười biếng thì chết trong thùng sữa ! Con nhái còn lại vì lạc quan, sau khi vùng vẫy từ từ nó đã làm cho thùng sữa đông đặc, thế là con nhái ấy đã nhạy vụt ra khỏi thùng sữa an toàn.
Các tông đồ khi xưa có được thành quả xuất sắc trong chuyến thực tập việc truyền giáo, một phần các ông chăm chỉ làm việc, phần khác các ông đã tuân theo chỉ thị của Thầy Giêsu, nên đã thành công rực rỡ. Mỗi chúng ta hôm nay Chúa cũng mời gọi chăm chỉ làm việc và đừng bao giờ để mất sự hiệp thông cầu nguyện, hy vọng rằng tinh thần tông đồ sẽ theo mãi là dịp may mắn để chúng ta sống tình bác ái yêu thương như Chúa kêu mời. Amen.
“Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34)
Thi hành sứ vụ ngôn sứ vào thời có khá nhiều biến động trước và sau khi Giêrusalem bị thất thủ năm 587 TCN, Giêrêmia chứng kiến nhiều thăng trầm của đất nước và dân Israel. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bi đát của đất nước và dân là do sự yếu kém về tài đức của các vị lãnh đạo. Đoạn trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay một mặt trình bày việc Thiên Chúa lên án các mục tử vì đã không chăm lo cho đoàn chiên, mặt khác mở ra niềm hy vọng về một vị vua khôn ngoan và tài giỏi sẽ hướng dẫn đoàn chiên trong chính trực công minh.
Trước hết, Thiên Chúa, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, lên án các mục tử vì họ không chăm lo cho đàn chiên. Chiên là loài hiền lành nên dễ bị tấn công bởi sói dữ. Vai trò của vị mục tử rất quan trọng trong việc chăm lo, chăn dắt và bảo vệ để đàn chiên được an toàn. Sự lơ là và thiếu trách nhiệm của vị mục tử có thể làm cho đàn chiên tan tác. Những mục tử không thực hiện tốt vai trò của mình đối với đàn chiên được trao phó sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt (Gr 23,1-3).
Thêm vào đó, khi chứng kiến sự tan tác của đàn chiên, Thiên Chúa đích thân ra tay can thiệp. Người qui tụ đàn chiên đã bị tan tác từ khắp mọi miền và đưa chiên về đồng cỏ. Dưới bàn tay chăm sóc chu đáo và đầy tình thương của Thiên Chúa, đàn chiên lại tiếp tục sinh sôi nảy nở thật nhiều (Gr 23,4). Thiên Chúa mới thật là mục tử nhân lành của đàn chiên. Người hằng dõi theo từng bước của đàn chiên và ra tay can thiệp để đưa chiên về, để chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).
Sau cùng, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện các mục tử khác để thay Người chăm sóc đoàn chiên; đàn chiên không còn phải sợ hãi và bị bỏ rơi nữa (Gr 23,5). Lời hứa của Thiên Chúa vẫn chưa dừng lại ở đó, vì “sẽ tới những ngày”, Người sẽ làm trổ sinh “một chồi non chính trực”; đó là một vị vua “khôn ngoan tài giỏi” sẽ thi hành điều “chính trực công minh”. Dưới sự dẫn dắt của vị vua này, dân Chúa sẽ được cứu thoát và được sống yên hàn (Gr 23,5-6). Đây là lời hứa quan trọng dẫn đến vua Giêsu, Đấng công minh chính trực, Đấng ban ơn cứu độ cho con người.
2. Bài đọc 2 - Ep 2,13-18
Đoạn trích thư thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêxô nhấn mạnh hiệu quả cái chết của Đức Giêsu. Đó là công trình cứu độ Thiên Chúa thực hiện nhờ Con của Người: liên kết dân ngoại và dân Do thái; hòa giải nhân loại với Thiên Chúa.
Trước hết, máu Đức Giêsu đổ ra liên kết dân ngoại và dân Do thái. Nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân ngoại và dân Do thái, phá đổ sự thù ghét lẫn nhau, để liên kết mọi người trong một Hội Thánh duy nhất. Trong Hội Thánh của Đức Kitô, người ta không còn phân biệt Do thái hay dân ngoại, ở xa hay ở gần, vì tất cả đều được liên kết thành một người mới duy nhất trong chính thân thể Đức Kitô, Đấng ban bình an cho tất cả chúng ta (Ep 2,13-15).
Sau nữa, cái chết của Đức Giêsu trên thập giá hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Tác giả thư Êphêxô khẳng định rằng nhờ thập giá, cả dân ngoại và dân Do thái đều được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất, nghĩa là trong Hội Thánh duy nhất. Như thế, không những nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa, mà còn được giao hòa với nhau: Nhờ Đức Giêsu, mọi người được liên kết trong một Thần Khí mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2,16-18). Ba Ngôi Thiên Chúa chính là cội nguồn của sự hiệp thông và giao hòa cho nhân loại.
Nhờ cái chết của Đức Giêsu, Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ của Người là cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và nhờ đó mà được giao hòa với nhau, để một khi được qui tụ quanh Đức Kitô, người ta không còn phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa… nhưng được kết hợp lại trong một thân thể duy nhất là Hội Thánh.
3. Bài Tin Mừng - Mc 6,30-34
Bài Tin Mừng làm nổi bật hai đặc tính của mục tử Giêsu: chạnh lòng thương và dưỡng nuôi dân chúng bằng lời và bánh.
Mục tử Giêsu là Đấng biết chạnh lòng thương. Bối cảnh bài Tin Mừng cho ta hiểu rằng sau khi được sai đi (Mc 6,7-13), các tông đồ trở về báo cáo cho Chúa Giêsu về những công việc các ngài làm (Mc 6,30). Dù Đức Giêsu ý thức tầm quan trọng của sự thinh lặng và nghỉ ngơi (Mc 6,31-32), nhưng Người tỏ ra chạnh lòng thương dân chúng như đàn chiên không người chăn dắt mà sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ (Mc 6,34tt). Vì biết “chạnh lòng thương” nên dù mệt nhọc và cần được nghỉ ngơi, nhưng mục tử Giêsu tỏ ra nhạy cảm trước nhu cầu của đàn chiên; Người biết họ đang khao khát được gặp Người nên Người tạm gác lại nhu cầu của mình để phục vụ cho nhu cầu cấp bách của đàn chiên. Thái độ “chạnh lòng thương” của mục tử Giêsu không chỉ dừng lại ở một cảm xúc, một kiểu cảm động nhất thời thoáng qua mà là lòng trắc ẩn sâu xa; lòng trắc ẩn thúc đẩy Người hành động.
Hành động trước tiên của mục tử Giêsu là “dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34). Người không chỉ “chạnh lòng thương” mà còn biết dân chúng đang khao khát điều gì. Họ đã bỏ nhiều giờ, dùng những phương tiện họ có để kiếm tìm Người. Khi “dạy dỗ họ nhiều điều”, Chúa Giêsu lấp đầy nỗi khao khát lời Chúa đang cháy bỏng trong lòng họ. Hơn nữa, khi trời xế chiều, các môn đệ muốn giải tán dân chúng để họ tự tìm thức ăn thì Chúa Giêsu lại đưa ra một mệnh lệnh đầy bất ngờ: “các con hãy cho họ ăn” (Mc 6,37). Chúa Giêsu chủ động và đi bước trước để đáp ứng nhu cầu của dân. Người không những ban lương thực thiêng liêng là lời Chúa cho dân chúng, mà Người còn ban cho họ bánh như lương thực nuôi thể xác.
Quả vậy, theo Mc 6,34-44, Đức Giêsu cho thấy Người như vị mục tử biết chạnh lòng thương dân chúng đang bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt; Người chăm lo cho họ, dùng lời (6,34) và bánh (6,41-42) mà nuôi sống họ.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Qua lời ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa lên án các mục tử không chăm lo cho đàn chiên, để đàn chiên bị tan tác. Người ra tay qui tụ đàn chiên về đồng cỏ để chúng được sinh sôi nảy nở và cho xuất hiện những mục tử khác để chăm sóc đàn chiên trong khi chờ đợi vị mục tử khôn ngoan và tài giỏi sẽ chăn dắt đàn chiên trong chính trực công minh. Tôi có chăm lo cho đàn chiên được trao phó cho tôi với tất cả lòng yêu thương của một mục tử đích thực? Tôi có biết học nơi Chúa là vị mục tử đích thực, Đấng qui tụ đàn chiên tản lạc về đồng cỏ để chúng được sinh sôi nảy nở? Tôi có khao khát trở thành vị mục tử khôn ngoan và tài giỏi để chăn dắt đàn chiên trong chính trực công minh như Chúa hằng chờ đợi?
2/ Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa, để một khi được giao hòa với Thiên Chúa, nhân loại cũng biết giao hòa với nhau. Tôi có thật sự được giao hòa với Thiên Chúa? Tôi có thật sự giao hòa với anh chị em? Tôi có còn để cho những hận thù, ghen ghét như bức tường ngăn cách giữa tôi và Chúa, giữa tôi và anh chị em?
3/ Chúa Giêsu là mục tử biết chạnh lòng thương, biết nhận ra và đáp ứng nhu cầu của đàn chiên. Chúa Giêsu cũng kêu mời tôi noi gương vị mục tử Giêsu. Tôi có sẵn sàng noi gương vị mục tử Giêsu, yêu thương và chăm sóc đàn chiên được trao phó cho tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã sai Con Một yêu dấu của Người đến thế gian như vị Mục Tử qui tụ và chăm sóc muôn người trong một đàn chiên duy nhất. Cộng đoàn chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và tin tưởng dâng lời cầu xin.
1. Chúa trao cho Hội Thánh sứ mạng chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và các vị chủ chăn trong Hội Thánh, luôn được hồn an xác mạnh, đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, hầu tận tâm chu toàn sứ mạng Chúa trao.
2. Chúa đã chạnh lòng thương đám đông như đàn chiên không người chăn dắt. Chúng ta cùng cầu xin cho những người nghèo cả vật chất lẫn tinh thần trong thế giới hôm nay được quan tâm chăm sóc, và biết khiêm tốn mở lòng trước những cơ hội đón nhận Tin Mừng.
3. “Các Tông đồ kể lại cho Chúa mọi điều các ông đã làm và giảng dạy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ, luôn gắn bó mật thiết với Chúa Kitô trong kinh nguyện và các Bí tích để được khích lệ, nâng đỡ và hướng dẫn.
4. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ chia sẻ và tham dự vào sứ vụ mục tử của Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn biết lắng nghe, tìm kiếm và thực thi ý Chúa qua những bổn phận hằng ngày đối với gia đình và cộng đoàn.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban muôn ơn lành giúp chúng con luôn hăng hái làm việc tông đồ để cho nhiều người được ơn cứu độ và hưởng phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Bài Tin mừng hôm nay,Thánh Mác- Cô thuật lại việc các Tông đồ sau những thời gian bận rộn với công việc của mình, là cùng với Chúa ra đi rao giảng, đã trở về tụ họp, kể lại cho Chúa nghe những việc đã thực hiện, nói lại những điều các ông đã giảng dạy. Sau khi đã lắng nghe và chạnh lòng thương, Người đã bảo các ông “ Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút “. Tin mừng ghi rõ lý do “ Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa “.
Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. . . (Mc 6; 31 ).
Bài Tin mừng hôm nay,Thánh Mác- Cô thuật lại việc các Tông đồ sau những thời gian bận rộn với công việc của mình, là cùng với Chúa ra đi rao giảng, đã trở về tụ họp, kể lại cho Chúa nghe những việc đã thực hiện, nói lại những điều các ông đã giảng dạy. Sau khi đã lắng nghe và chạnh lòng thương, Người đã bảo các ông “ Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút “. Tin mừng ghi rõ lý do “ Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa “.
Từ những định hướng này, những người lãnh đạo Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam ngay từ những năm 70, thực hiện bản Tân Nội quy, từ trung ương toàn quốc đến các xứ đoàn cơ sở, hàng năm đều khuyến khích các Huynh trưởng, Tông đồ đội trưởng phải dành thời gian ít nhiều Vào Sa Mạc, tức là đi đến một nơi thanh vắng mà “nghỉ ngơi đôi chút”.
Nghỉ ngơi không phải là không làm gì, là ăn uống thoải mái, thư giãn thân thể hay giải trí rồi ngủ nghỉ cho đã vài ba ngày. Nghỉ ngơi trong Tin mừng chính là nghỉ ngơi trong Chúa. Đó là biết bỏ lại những bận rộn của cuộc sống hàng ngày, biết gác lại những lo toan chạy vạy, biết tìm được sự tĩnh lặng cho tâm hồn. Không bồn chồn lắng lo, không lo ra giao động, không phân tâm hướng ngoại. Đó là biết dành thời gian để nhìn vào sâu thẳm nội tâm con người mình, đặt mình đối diện với Thiên Chúa, coi mình như KHÔNG trước mặt Chúa để Người hành động, Người lên tiếng, Người nhắc nhở. Có như thế con mới có cơ hội lắng nghe được tiếng Chúa, con sẽ thưa với Người về bản thân, về gia đình, về cuộc sống, về những ý định, nhu cầu, nguyện ước của con và của những người đang sống với con, về Giáo hội, xã hội hôm nay. . . Chính lúc đó là con được nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu đã từng nhắn nhủ: “Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng “.
Lạy Chúa,
Lời Chúa nhắc các tông đồ cũng chính là nhắc cho con. Cuộc sống hôm nay có quá nhiều xáo động, con có quá nhiều bận rộn. Con chạy đi chạy lại, con tới lui tính toán, lúc nào cũng cảm thấy bất an, lo lắng. Chính vì con không biết dành thời gian lui vào “nơi thanh vắng” nghỉ ngơi cầu nguyện. Con không dành thời giờ để nạp lại “ năng lượng “ cho đời sống tâm linh của mình. Nơi thanh vắng không chỉ hiểu theo nghĩa đen là hoang địa, là vùng núi, biển cả, rừng sâu âm u hay một đan viện mà thôi, mà còn là không gian tĩnh lặng của đời thường, đêm về hay buổi sáng khi bình minh chưa ló dạng mỗi ngày, khi trời và đất như giao duyên không bị ảnh hưởng bởi những xao động của cuộc sống.
“ Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi?( Lắng nghe Lời Chúa- Nguyễn Duy ).
Chớ gì con biết mỗi ngày dành ra ít phút khi vừa thức giấc, cũng như trước lúc nghỉ đêm để Vào Sa Mạc nội tâm như những ngày trẻ, là huynh trưởng Thiếu nhi, con từng rời khỏi gia đình Vào Sa Mạc mỗi năm một vài ngày, để được Chúa huấn luyện, Chúa chỉ dẫn. Những lúc ấy, Chúa sẽ cho con biết phải làm gì trong cuộc đời hôm nay . AMEN .
Khi thực hiện sứ vụ loan báo tin mừng chúng tôi thấm thía lời mời gọi của Chúa hôm nay với các môn đệ: Hãy lánh ra một nơi để cầu nguyện. Trong khi các môn đệ thi nhau kể lại thành tích của mình thì Chúa nhắc khéo các ông đừng mãn nguyện về những thành công của mình, nhưng hãy khiêm tốn trở về với lòng mình bằng cầu nguyện và đối diện với Đấng đang đồng hành với mình trên hành trình loan báo. Cầu nguyện là phương tiện tối ưu không thể thiếu đối với người được sai đi vì tông huấn “Loan báo Tin Mừng” khẳng định: “Không bao giờ có thể loan báo Tin Mừng nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Thần … Chúa Thánh Thần chính là tác nhân của việc rao giảng Tin Mừng: Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng và cũng chính Ngài tác động trong thâm cung tâm hồn để giúp ta chấp nhận và hiểu biết Lời cứu độ”. (EN 75).
Sở dĩ chúng tôi luôn gặp thất bại khi đem Chúa đến cho anh em là vì chúng tôi chưa thực hiện Lời Chúa dạy hôm nay là phải tĩnh lặng để nghe rõ tiếng Chúa, để đón nhận các tiêu chuẩn của Chúa và để khám phá ra ý muốn của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tôi không bao giờ quên mẫu gương của một vị Thánh linh mục Gioan Vienney. Người ta kể vào năm 1818, Ngài được sai về xứ Ars có 40 nhà với khoảng 260 người và 4 quán rượu. Vì ảnh hưởng của cuộc “cách mạng”, dân làng Ars đã bỏ đạo gần hết. Hai cha xứ trước đã rời bỏ chức linh mục. Nhiều năm trời dân làng không có thánh lễ, không có các Bí Tích hay học hỏi giáo lý. Những ngày Chúa Nhật họ gặp nhau trong các quán rượu để nhảy múa, để say sưa, để chưi tục và thường kết thúc bằng những trận ẩu đả. Trong bối cảnh tối tăm đó cha Vianney sẽ làm gì? Việc đầu tiên là Ngài đến với Chúa Giê-su thánh Thể và chay tịnh. Rồi Ngài đi thăm từng gia đình hỏi han về gia cảnh, mùa màng, con cái, sinh hoạt và thời tiết..
Cùng với việc sống kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài ăn uống rất đạm bạc. Trong 9 năm trời, thức ăn của Ngài là khoai luộc, đôi khi thêm một cái trứng, hoặc một cái bánh khô của người vùng đó gọi là “matefaims”. Ngài ngủ rất ít và dành nhiều giờ cầu nguyện. Một giáo dân gần nhà thờ có tính tò mò. Sáng nào ông cũng ngó qua coi ông cha mới này làm gì. Một buổi sáng kia ông theo dõi Ngài khi thấy ánh đèn cầy leo lét đi từ nhà xứ xuyên qua nghĩa trang âm u vào trong nhà thờ. Và ông thấy cha xứ mới quỳ gối giang tay trước Thánh Thể và cầu nguyện. Ngài nói với Chúa những lời như: “Lạy Chúa là tất cả của con. Chúa biết rõ con yêu mến Chúa dường nào và Chúa biết con chưa yêu mến Chúa cho đủ” và “Lạy Chúa của con, đây là tất cả – xin hãy lấy đi hết, nhưng hãy ban ơn hoán cải cho giáo dân của con. Nếu Chúa không biến đổi lòng họ, đó tại vì con không xứng đáng.”
Nhờ những giờ cầu nguyện âm thầm với Chúa như thế mà Chúa đã biến đổi xứ Ars thành giáo xứ nổi tiếng đạo đức, một điểm hành hương nổi bật thời đó. Người ta nối đuôi nhau xưng tội đến nỗi mỗi đêm cha chỉ ngủ được hai ba tiếng đồng hồ.
Cầu nguyện là thời gian nghỉ ngơi bên Chúa. Hôm nay Chúa Giê-su nói với các môn đệ: Phải dành thời gian nghỉ ngơi. Việc tông đồ truyền giáo là đem Chúa đến cho anh em nhưng nó chỉ được kết quả phong nhiêu nơi các linh hồn khi nhà truyền giáo có đời sống cầu nguyện. Người ta thắc mắc hỏi mẹ Tê-rê-xa: “ Thưa mẹ, Mẹ yêu thương đám quần chúng mà người khác nhìn họ như những đống hoang phế của nhân loại. Vậy đâu là bí quyết của mẹ?” Mẹ Tê-rê-xa từ tốn trả lời: “ Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện.”
Nhờ đời sống cầu nguyện Mẹ đã làm được những việc phi thường: Dòng Mẹ mới thành lập nhưng đông đảo và có mặt khắp thế giới. Công việc bác ái Mẹ và các con cái mẹ thực hiện rất tuyệt vời và hữu hiệu.
Tôi cũng được nghe một vị Giám Mục đi Ad Limina về kể: Thời đại của chúng ta có hai vị Giáo Hoàng, mẫu gương của đời sống cầu nguyện. Đức Benedicto XVI, Ngài hoạt động trong chiêm niệm. Còn Đức Giáo Hoàng Phanxico thì chiêm niệm trong hoạt động. Khi dâng lễ với các Đức Giám Mục Việt Nam, Ngài cầu nguyện hai tiếng đồng hồ trước thánh lễ. Chính vì thế mà Ngài đã giải quyết các vấn đề của Giáo Hội bằng quyền năng của Chúa. Câu truyện sau đây cho chúng ta hiểu hơn về giá trị không thể thiếu của việc cầu nguyện:
Thánh giáo hoàng Piô V đã dày công thuyết phục một vị “Tai mắt” Tin Lành đến với Giáo Hội Công Giáo. Trong khi vị này đang tìm hiểu Đạo, ngày nọ ông bước vào một nhà thờ để tham dự thánh lễ. Rủi thay, hôm đó những người hiện diện không có vẻ tôn kính trang nghiêm, trừ một số rất ít, số còn lại thì chia trí nói chuyện to nhỏ và nhìn ngó loanh quanh. Con người có ý định trở lại đạo này sinh ra bất bình, ông từ chối trở lại đạo bằng cách viện dẫn lý do. Ông nói: “Các người Công giáo không tin ở thánh lễ. Họ không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể”. Câu chuyện trên đây đã để lại cho mọi người kitô hữu chúng ta một bài học hết sức thâm thuý, đặc biệt trong vấn đề truyền giáo. Nhiều khi vì những việc làm, lời nói vô tình hay cố ý của chúng ta làm rào cản, ngăn người khác đến với Chúa và Giáo hội. Rất tiếc!
Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Hãy vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi một chút”. Chúa muốn các ông tách ra khỏi đám đông để nghỉ ngơi. Đó là điều mà Ngài từng làm. Ngài đi lên núi cầu nguyện và Ngài muốn cho các tông đồ biết rằng bổn phận trước hết là vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi với Ngài. Ngài chọn các ông trước hết là ở với Ngài, sau đó mới đi rao giảng.
Vào nơi thanh vắng là lời mời gọi trịnh trọng để đi vào tương quan thân mật với Cha. Trọng tâm của đời sống Ki-Tô hữu là tâm sự với Cha. Vào nơi thanh vắng với Chúa Giê-su là ở cạnh Cha, là sống trong sự kín nhiệm với Cha. Điều này phải là ý nghĩa của đời sống hằng ngày của người đem Chúa đến cho anh em. Nghỉ ngơi bên Chúa cho chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa.
Là những người rao truyền ơn cứu độ cho thế giới, chúng ta phải noi gương Chúa Giê-su, Ngài qua đêm cầu nguyện với Chúa Cha, đó là loan báo Tin Mừng ở chiều sâu nhất. Không có sự đối nhau giữa nghỉ ngơi và làm việc. Làm việc dẫn đến nghỉ ngơi, làm việc cũng đòi hỏi cùng cách thức như nghỉ ngơi là kết hợp với Chúa. Thiên Chúa muốn chúng ta dâng hiến hoàn toàn nghĩa là trao nộp chúng ta cho tình yêu của Cha. Và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên những hữu thể loan báo Tin Mừng hữu hiệu.
Rao giảng đích thực trước hết đòi phải có một khả năng thinh lặng: thinh lặng để nghe rõ tiếng Chúa, để đón nhận các tiêu chuẩn của Chúa và để khám phá ra ý muốn của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Cầu nguyện là một phần không thể thiếu trong sứ vụ tông đồ để diễn tả đích thực về sự sống còn của con người. Người tông đồ dâng lên Chúa Cha lời cầu nguyện của mọi dân tộc mà họ tìm thấy một dư âm nào đó trong lời cầu nguyện của mình. Nơi người ấy, tiếng nói của mọi dân tộc kêu lên cùng Chúa Cha. Sứ vụ này vượt quá khả năng nhân loại của người tông đồ mà tự nó có giới hạn, nhưng lại có thể được nếu như người tông đồ biết kết hiệp với Chúa Kitô, “Đấng Hằng Sống để chuyển cầu cho ta” (Dt 7, 2).
Chính bản thân tôi cũng cảm thấy khó đến với tha nhân nếu không cầu nguyện. Và khi đến với tha nhân với tình yêu của Chúa tôi thấy an tâm và tự tin hơn. Khi giúp các anh em dự tòng tôi cũng lấy chính kinh nghiệm của mình để hướng dẫn anh em. Những anh em nào có những giây phút cầu nguyện, họ bền tâm hơn và trung thành hơn.
Lời mời gọi của Chúa với các tông đồ khi xưa cũng là lời mời gọi với mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong những giờ phút thầm lặng với Chúa. Ở bên Chúa chúng ta sẽ biết được những gì cần phải làm. Chúng ta sẽ được tình yêu Chúa thúc đẩy phải làm gì. Tình yêu ấy sẽ giúp chúng ta quên mình phục vụ tha nhân cách vô vị lợi. Và cuối cùng tình yêu ấy sẽ đưa chúng ta vào sự bình an trong việc lắng nghe Lời và thực hành Lời trước khi chia sẻ cho tha nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể được gọi là bài Tin Mừng về lòng từ bi của Thiên Chúa. Chúa Giêsu ân cần lo lắng đến 3 mẫu người kitô: mẫu người năng động, mẫu người chiêm niệm trầm tư và mẫu người đang tìm kiếm Ngài. Ngài lo lắng cho từng mẫu người một:
- Đối với hạng người năng động hoạt bát, Ngài nói: “Anh chị em hãy đến nghỉ ngơi bên tôi”.
- Đối với hạng người chiêm niệm trầm tư, Ngài muốn họ có tâm tư như Ngài khi hướng về đám dân chúng: “Họ như những con chiên không người chăn”.
- Đối với hạng người đang tìm kiếm Ngài như đám đông hôm nay, Ngài nói: “Tôi thương xót anh chị em. Tôi yêu anh chị em”.
Ngài yêu thương tất cả các mẫu người này và nói với họ rằng: “Hãy nghỉ ngơi một chút”.
Nhưng, trước hết là đối với các tông đồ. Khi thấy họ trở về mệt nhoài và đầy bụi, Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy nghỉ ngơi một chút”. Là người chào hàng cho Thiên Chúa, các tông đồ và cả chúng ta nữa không được phép nghỉ ngơi hoàn toàn! Chúa Giêsu biết điều đó và Ngài cảm thấy nổi lên trong Ngài một lòng trìu mến sâu xa đối với họ là những người tin tưởng Ngài. “Anh em hãy thư giãn một chút. Hãy ở lại một nơi vắng vẻ, Thầy thích cầu nguyện ở đó. Trong tĩnh mịch và xa đám đông, Thầy trò có thể nói và cùng nhau cầu nguyện”. “ Tuyệt vời! Thầy trò trao đổi bên nhau và cho nhau! Còn gì đẹp hơn!
1- Đối với những người hoạt động xã hội, Chúa Giêsu cũng mời họ nghỉ ngơi một chút để lấy lại sức và cũng là để gặp lại mình. “Anh em hãy nghỉ để thư giãn. Anh em đang sống trong một nhịp điệu náo nhiệt.. Anh em đã bị dồn nén liên tục. Rất dễ bị nhồi máu hoặc trầm cảm”.
Chúa Giêsu cũng mời các bạn trẻ nghỉ ngơi yên lặng. Ngày nay, vấn đề lớn nhất của các bạn trẻ là không biết chịu đựng yên lặng nữa. Đức Hồng Y Vladimir Ghika nói: “Nếu bạn muốn nghe Thiên Chúa nói, bạn phải rất chú ý vì Thiên Chúa thích nói rất nhỏ”.
Chúa Giêsu cũng nói với các bạn là cần phải có những kỳ nghỉ yên lặng chiêm ngắm. “Hãy tận dụng thời giờ cho đời sống thiêng liêng. Hãy ẩn mình trong một hốc đá và hãy chiêm ngắm biển, hình ảnh vĩ đại của Thiên Chúa. Hoặc hãy ở một mình trên đỉnh núi trong yên lặng. Lúc đó, không cần phải nói các bạn hãy tận hưởng sự hiện diện của Thiên Chúa trong tất cả công trình tạo dựng của Ngài”.
2- Đối với những người kitô hữu khá năng động trong cộng đoàn của họ, Chúa Giêsu nhắc nhớ họ cần phải có một sự nghỉ ngơi cần thiết. Thời gian nghỉ ngơi này để làm một bảng tổng kết: như các tông đồ, thỉnh thoảng nhìn lại công việc và tính toán xem hoạt động của mình có thực sự nhằm mục đích phục vụ Giáo Hội không. Plaise Pascal nói: “Khi tôi bắt đầu xem xét kỹ những náo động khác nhau của con người, tôi khám phá ra rằng tất cả những cái không hay xảy ra, là do con người không biết nghỉ ngơi trong một căn phòng”.
Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta tầm quan trọng của việc cầu nguyện như là sự nghỉ ngơi trong Thiên Chúa. Những người năng động nhất lại càng cần phải chiêm niệm nhất. Ernest Hello viết: “Tâm hồn nào càng nhận lãnh trong yên lặng thì càng biết cho đi trong hoạt động”. Đối với những người nhiệt tình phục vụ cộng đoàn cũng như giáo xứ, Chúa Giêsu nói với họ như thể Ngài đã nói với các tông đồ: “Vậy anh em hãy nghỉ ngơi một chút. Hãy kết hợp mật thiết với Thầy. Hãy sống đối diện với tình yêu của Thầy. Hãy đến nghỉ ngơi bên Thày. Anh em làm việc cho Thiên Chúa trong suốt cả năm, nhưng anh em phải biết dừng lại để kín múc nguồn suối: hãy vào trong nhà thờ hoặc nhà nguyện và ở đó mà không cần nói gì trong vòng nửa giờ hay một giờ. Hãy làm như vậy đừng sợ mất thì giờ! Cần chú ý, đừng làm việc của Thiên Chúa suốt cả một ngày, mà không nghĩ tới Ngài”.
3- Đối với những kitô hữu thụ động, thích một cuộc sống yên hàn và nghĩ rằng những vẫn đề của dân Thiên Chúa là công việc của linh mục, giám mục và tu sỹ, Chúa Giêsu nói: “Anh em không được phó mặc việc dạy giáo lý con em mình cho cha xứ và cho quí vị trong ban hành giáo và giáo lý viên, dù cha xứ, bab hành giáo và giáo lý viên làm việc này rất tốt”.
Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gưỉ câu này tới những người xem ra là đạo đức, trốn mình trong cầu nguyện mà quên biết bao người xung quanh đang khốn cùng về đời sống thiêng liêng. Cha Helder Camara nói: “Bạn đừng làm cho Thiên Chúa trở thành cái gối đầu của bạn và làm cho lời cầu nguyện của bạn thành một chiếc chăn bông”.
Người có đời sống chiêm niệm thục sự không có thể giữ lại cho mình những kho tàng thiêng liêng mà mình đã khám phá. Người có đời sống chiêm niệm không phải là nhà tư bản về đức tin, nhốt Chúa Kitô trong tủ sắt trái tim của mình để rút ra những lợi ích cho đời sống vĩnh cửu. Chúng ta phải là người nhận Chúa Giêsu để mà cho đi! Người có đời sống chiêm niệm cảm thấy mình bị thúc bách cần phải mang sức mạnh bùng nổ của tin mừng đến cho thế giới,.. Thánh Phaolo trong thư gửi I giáo đoàn Corintho đã nói: “đối với tôi, rao giảng tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng tin mừng”.
Khi Chúa Giêsu chỉ cho thấy một số kitô hữu đã đảo ngũ khỏi Giáo Hội, đối với chúng ta nếu là người chiêm niệm đích thực, chúng ta có thể làm được gì? Nếu không làm được gì thì trước hết chúng ta càng phải trở nên người nhiệt thành cho Thiên Chúa. Chắc chắn người chiêm niệm phải nói về Thiên Chúa cách rõ ràng, phải kêu vang Thiên Chúa cho một thế giới đang đánh mất ý nghĩa về sự hiện hữu của Người.
Người chiêm niệm đích thực khi đã tìm thấy nơi Thiên Chúa sự chắc chắn và bình an, thì cần phải có bổn phận là một thợ xây dựng hoà bình, là men hiệp nhất và yêu thương cho những người xung quanh.
Trong tình thương vô bờ bến, Chúa Giêsu nhắc lại cho tất cả những kitô hữu đang tìm kiếm Ngài và tất cả những ai có thiện chí, khát khao sự thật rằng: Ngài yêu thương từng người một biết chừng nào! Ngài muốn nói với chúng ta:
- Tôi đau lòng cùng với anh em khi anh em chỉ biết Giáo Hội nhờ vào những bản tin trên phương tiện truyền thông!
- Tôi đau lòng cùng với anh em khi đau khổ mà anh em phải chịu đựng trên giuờng bệnh làm cho anh em nghi ngờ về tình yêu của tôi!
- Tôi đau lòng cùng với anh em, khi tôi thấy anh em không có những nhà giáo dục đích thực và vô vị lợi!
- Tôi đau lòng cùng với anh em khi anh em phải chịu dựng cơn khát Thiên Chúa, mà trong khi đó con người thời nay chỉ thích hội họp đông ngoài quảng trường, nơi rạp hát hơn là trong nhà thờ”.
Nếu các bạn thuộc nhóm người thụ động, các bạn đừng thất vọng! Hãy nhìn xung quanh các bạn: vẫn có những người kitô đứng sẵn và hoạt động, những người kitô có tinh thần trách nhiệm và cầu nguyện. Chắc hẳn, họ thì ít, nhưng họ năng động và đầy hứa hẹn.Trên trần gian này, Chúa Giêsu là biểu tượng của lòng thương xót. Ngài đã cảm thông với anh em đồng loại đang chịu đau khổ, vì Ngài là tình yêu. Như thế, đến lượt chúng ta, là người kitô, chúng ta cũng phải trở nên biểu tượng tình yêu cho những người sống chung quanh chúng ta.
Bà Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn cho bé trai này bú sữa của chúng.
Bà Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống biển hòng thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chẳng biết tên của mình nên báo chí gọi em là bé Chó. (Nguồn: ABC nEWS, Santiago, June 19, 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu (Mt 4,4).
Khao khát lương thực tinh thần
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được. Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống. Chạnh lòng thương các Tông đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giêsu bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút.
Kế đó, Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi. Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm mà Chúa Giêsu và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giêsu.
Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giêsu lại gặp đông đảo những người mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.
Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình như đoàn chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết là những lời dạy dỗ khôn ngoan (Mc 6,34).
Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài như đám đông người Dothái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giêsu là hiện thân của sự Khôn ngoan đang sống giữa chúng ta.
Vấn đề quan trọng là chúng ta có mở tâm hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “kho tàng” vô giá này hay không.
Khai thác kho tàng trong tầm tay
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn ngoan luôn ở cùng chúng ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy gian nan hiểm trở… Vậy muốn tìm được “kho báu”, chúng ta phải chấp nhận dành thời giờ để tìm kiếm và khám phá Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “kho báu” trong Tin mừng của Chúa, nhờ đó chúng con được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Sau chuyến công tác của các môn đệ trở về, Thầy trò tụ họp bên nhau. Các ông báo cáo với Thầy tất cả những việc mình đã làm được. Nhân cơ hội này, Thầy dạy các ông một phương thế để mọi công việc của người mục tử có hiệu quả tốt: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31a). Mọi hoạt động tông đồ để mang lại kết quả tốt đẹp, cần có giờ nghỉ ngơi tĩnh lặng mà dưỡng sức, cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa. Nếu cứ ra sức hăng say, làm việc quá tải đến quên ăn mất ngủ, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu năng công việc và mệt mỏi kiệt sức. Đời sống siêu nhiên của người tông đồ cần phải có nhịp độ: ở với Chúa, ra đi thi hành sứ vụ và trở về lại bên Chúa để kiểm thảo, nhìn lại như các môn đệ hôm nay. Qua một ngày làm việc cần phải trở về “thân thưa” với Chúa, trong cầu nguyện, tĩnh lặng thanh vắng để nghỉ ngơi, nạp thêm năng lượng mới cho hành trình tiếp theo.
“Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.” (Mc 6,32). Mặc dù thầy trò đã xuống thuyền tìm chốn nghỉ ngơi mà cầu nguyện, nhưng bầy chiên vẫn tìm cách đón gặp cho bằng được. “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. (Mc 6,34). Cảm động sao tấm lòng người Mục Tử, chạnh lòng thương trước bầy chiên đông đảo. “Chạnh lòng thương” theo tiếng Hy lạp, nghĩa là cảm thấy quặn đau trong lòng, xót xa, khiến Người Mục Tử không thể đặng đừng, Người lại bắt đầu giảng dạy thật nhiều, cho thỏa nỗi lòng khát mong của đoàn chiên.
Ngày nay chúng con có thấy “chạnh lòng thương” trước khó khăn đau khổ, phải cần đến sự giúp đỡ, giải quyết mọi nhu cầu cho người anh em mà hằng ngày chúng con gặp thấy không? Nhìn lên những người có trách nhiệm chăm sóc, lãnh đạo từ Giáo Hội địa phương như các Giám mục, Linh mục, chúng con có vâng lời, biết ơn, giúp đỡ cả tinh thần và vật chất không?
Lạy Chúa! cùng với nhịp sống hằng ngày, dù thành công hay thất bại, hơn thua được mất, xin cho con luôn biết trở về bên Chúa trong thinh lặng, để con được nghỉ ngơi dưỡng sức trong Chúa, kín múc ân sủng từ nguồn sống là chính Chúa, để hiện tại và tương lai của con luôn được Chúa dẫn dắt từng ngày. Ở lại với Chúa nhiều, chúng con sẽ được biến đổi, để luôn biết “chạnh lòng thương” như Chúa vậy. Amen.
Nền kinh tế thị trường là một chiến trường khốc liệt mà người ta phải chấp nhận sự cạnh tranh và đào thải, và cũng từ đó dẫn đến tình trạng có người nhanh chóng giàu lên, và có người thì không ngóc đầu lên nổi, dù cũng rất vất vả; cùng với việc xuất hiện cái hố ngăn cách giàu và nghèo, trong xã hội là sự phát sinh khoảng cách giữa người này và người khác, gia đình này với gia đình khác, nó và tạo nên tình trạng dửng dưng vô cảm giửa con người với nhau, con người dường như ai cũng bận rộn quay cuồng với công việc, đến độ quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống và không nhận ra sự hiện diện của người anh em bên cạnh. Trong một xã hội như thế, người Kitô hữu phải sống thế nảo?
Thưa quý OBACE, Lời Chúa của Chúa nhật XVI hôm nay giới thiệu cho chúng ta hình ảnh của Đức Giêsu là một mục tử nhân từ yêu thương, Ngài chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ của dân chúng như đàn chiên không người chăn dắt. Hình ảnh này đã được tiên tri Gieremia tiên báo: Ta sẽ quy tụ đàn chiên của ta còn sót lại, ta sẽ cho xuất hiện những mục tử để lãnh đạo chúng. Lời tiên báo của Gieremia được nói lên trong hoàn cảnh đất nước Giuda đang bị đe dọa bởi người Syria, các vua chúa và các thượng tế hoảng sợ và tìm cách liên mình với các thế lực chính trị và các quốc gia lân bang, thay vì tìm đến nương tựa vào Chúa. Còn dân chúng thì tán loạn vì không biết phải nghiêng chiếu về phía nào, trong bối cảnh đó vị tiên tri lớn tiếng để trấn an dân chúng, và kêu gọi nhà vua hãy quay trở về với Thiên Chúa, hãy làm theo Lời Chúa thì đất nước sẽ thoát khỏi cảnh binh đao, dân chúng sẽ không bị tản mác. Thế nhưng những nhà chức trách đã bịt tai trước lời cảnh tỉnh của Gieremia, chính vì thế mà đất Giuda đã rơi vào tay quân thù, và dân chúng bị bắt đi lưu đày tản mác bơ vơ như đàn chiên bị tan tác.
Qua miệng vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ lấy lòng nhân từ của Ngài mà quy tụ dân Israel trở về, như người mục tử quy tụ đàn chiên sau những ngày chúng bị tản mác, sẽ đem lại bình an và hạnh phúc, ấm no cho dân chúng như người mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ tươi và dòng suối mát. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn hứa sẽ ban cho họ những mục tử nhân từ như lòng Chúa mong ước, để những người này sẽ chăn dắt và hướng dẫn dân Chúa đi theo con đường công chính, và những mục tử này sẽ là những người dám hết mình để bảo vệ đàn chiên. Tiên tri Gieremia còn chỉ cho thấy vị mục tử ấy sẽ là một chồi non của nhà Đavít và sẽ trở thành một vị vua, một vị mục tử đích thực người ấy sẽ dẫn dắt dân Israel nhân danh Thiên Chúa.
Chồi non của nhà Đavít mà Gieremia tiên báo đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử đích thực mà Thiên Chúa Cha đã sai đến. Tuần trước Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu gọi và sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, thì hôm nay các tông đồ trở về tụ họp quanh Chúa Giêsu để kể lại cho Ngài những việc họ đã làm, Chúa Giêsu đã thấy những học trò của mình mệt mỏi với công việc, và Ngài đã đề nghị họ: Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút.
Tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi là dịp Chúa Giesu muốn cho các tông đồ của Ngài không chỉ nghỉ ngơi về thể xác sau những ngày rao giảng và bận rộn với những công việc phục vụ, mà còn còn có thời giờ để sống trong sự tĩnh lặng, sống thân tình với Chúa Giêsu, và để nhìn lại công việc và bản thân cũng như để gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện, vì chính trong sự tĩnh lặng của thiên nhiên và của tâm hồn con người mới có thể gặp gỡ được Thiên Chúa.
Trong lúc đó đám đông dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu để được nghe lời người rao giảng, trước cảnh tượng một đám đông đang thèm khát được nghe sự dạy bảo, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ vì họ bơ vơ như những con chiên không có người chăn, và Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ họ. Dân Israel như đàn chiên được trao cho những người có trách nhiệm là các thượng tế và luật sĩ hướng dẫn dân đi theo giới răn lề luật của Chúa, nhưng những người này đã không chu toàn bổn phận của mình, họ để cho dân chúng rơi vào cảnh hoang mang lạc lối. Thấy một đám đông lang thanh lạc lối như thế, Chúa Giêsu, vơi trái tim mục tử của mình, Ngài không thể làm ngơ trước những nhu cầu của đám dân chúng, Ngài không thể im lặng trước những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm chân lý, Ngài không quan tâm đên sự mệt mỏi của thể xác của mình, Ngài sẵn sàng tiếp tục phục vụ, giảng dạy và làm tất cả mọi việc để đem lại hanh phúc và niềm vui cho dân chúng, để đáp ứng cho những khao khát của họ.
Nhìn thấy đám đông dân chúng, Ngài chạnh lòng thương; trái tim biết chạnh thương là trái tim biết rung động trước nhưng nhu cầu, trước những đau khổ của anh em, đó là trái tim đồng cảm, nhạy bén, muốn chia sẻ, muốn cho đi mà không tính toán thiệt hơn, đó là trái tim của một mục tử đích thật dám hết mình vì đàn chiên, dám gạt bỏ mọi quyền lợi riêng tư và dành trọn cuộc đời để phục vụ và mưu cầu hạnh phúc cho đàn chiên. Chúa Giêsu chính là vị mục tử đích thực đã mang trong mình trái tim yêu thương, yêu đên nỗi hy sinh cả mạng sống mình để bảo vệ và cho đàn chiên được sống.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai cho thấy: trước đây chúng ta như nhưng người xa lạ, nay chúng ta nên người ở gần và trở thành người nhà của Thiên Chúa nhờ cái chết của Chúa Giêsu. Chính Ngài đã quy tụ chúng ta về làm thành một dân mới, một đàn chiên do tay Người dẫn dắt, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi mọi sự sợ hãi và khỏi sự đe dọa của ma quỷ và thần chết, với sự dẫn dắt của Chúa Giêsu, chúng ta không bị bơ vơ lạc lõng, cũng không sợ lầm đường lạc lối vi chính Chúa Giêsu là đưởng là sự thật và là sự sống, Ngài đem lại cho chúng ta sự bình an của Nguời và đưa chúng ta vào nhà Cha trên trời.
Thưa quý OBACE, ngày nay người ta bị lôi cuốn vào vòng xoay của xã hội, của công việc và sức hút của đồng tiền khiến cho nhiều người dường như không còn có điểm dừng, chính vì thế, mà người ta không còn thời giờ để cho nhau, không có thời giờ cho gia đình và chăm sóc con cái. Lời Chúa nói với các môn đệ cũng là nói với chúng ta hôm nay: Các con hãy tim nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút. Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta, hãy dám tách mình ra khỏi công việc, hãy biết dành thời giờ để lo cho đời sống đạo đức của bản thân và gia đình; hãy tìm nơi vắng vẻ là chính nội tâm con người của mình để ở nơi đó, chúng ta có thể nhìn lại cuộc sống của bản thân cùng với những trách nhiệm của mình là vợ chông, là cha mẹ hay con cái.
Tim nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, là tìm gặp gỡ Chúa trong thân tình của việc cầu nguyện, là hiện diện trước mặt Chúa để đánh giá lại từng việc làm của mình, là thinh lặng sống kết hợp với Chúa qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích thánh Thể, là biết dành cho Chúa một vị trí quan trọng trong tâm hồn cũng như trong nhịp sống thường ngày qua những giờ dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện riêng tư cũng như chung với công đoàn, giờ kinh tối gia đình, đừng để cho công việc lấn át đời sống đạo đức của chúng ta.
Khi chúng ta đến với Chúa, sống với Chúa, chúng ta sẽ có trái tim của Chúa, tức là trái tim biết chạnh thương và thấu cảm. Trước hết các bậc cha mẹ hãy biết chạnh thương đến vợ, chồng, con cái mình đang cần được yêu thương vỗ về hơn là cần tiền bạc cơm bánh, đừng vì công việc, cơm áo mà bỏ bê con cái bơ vơ, phó mặc con cái cho xã hội đưa đẩy. Hãy dành nhiều thì giờ hơn cho gia đình, cho người thân, để lắng nghe và thông cảm, khích lệ và hướng dẫn.
Thưa các bạn trẻ, do lối sống vội, sống cạnh tranh, tham vọng, mà nhiều người đã không còn giờ để nhận ra vẻ đẹp của cuộc sống và không nhận ra hạnh phúc ở bên mình, không nhận ra sự hiện diện của người thân bên cạnh ví du: cứ nhìn ra đường phố chúng ta thấy thế nào là sự vội vàng, và vì sống vội, sống không có điểm dừng, và sống không có mục đích, nên nhiều người đã để cuộc đời mình trôi qua một cách uổng phí. Hãy tim nơi thanh vắng mà nghỉ ngời, tức là hãy tìm về với mục đích nguồn cội cuộc đời của mình là Thiên Chúa, đừng ngại tìm về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, và việc phụng thờ, vì chỉ khi đặt Chúa là mục đích của cuộc đời, các bạn mới tim được sự bình an và hạnh phúc đích thực mà thôi. Khi có Chúa trong cuộc đời, và trong tâm hồn, Chúa sẽ giúp các bạn có thể sống trọn vẹn tuổi trẻ của mình, sống với một trái tim yêu thương và biết rung nhịp với anh chị em
Xin Chúa biến đổi những trái tim lạnh lùng băng giá của chúng ta trở thành những trái tim nhạy bén và biết yêu thương. Amen
----------------------------
TN 16-B136: Gợi ý suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 16 Thường Niên năm B
Đoạn Tin Mừng hôm nay vẽ cho chúng ta thấy một nét đặc biệt của Chúa Giêsu đó là lòng thương xót.
Sau khi đi rao giảng về, các tông đồ vây quanh Thầy mình, tường trình cho Ngài biết kết quả, những gì các ông đã làm được. Thánh Maccô không nói rõ thời gian đi rao giảng là bao lâu: một hay hai tuần. Hình như Chúa thấy các ông tỏ dấu mệt mỏi, dù họ rất vui vì những kết quả thâu được. Ngài bảo các ông hãy vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi đôi chút. Đám đông dân chúng vẫn vây quanh các ngài đến nỗi các ngài không có giờ dùng bữa.
Thầy trò xuống thuyền ra đi. Nhưng khi ghé vào bờ bên kia, vẫn thấy đám đông đã đi bộ đến trước các ngài.
Nhìn đám đông dân chúng khao khát được nghe giảng. Thánh Maccô ghi nhận: Chúa nhìn thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên bơ vơ vất vưởng không có người chăn dắt và lại tiếp tục giảng cho họ.
Chúa thương các môn đệ đang mệt mỏi, Chúa cũng thương đám dân lành nô nức theo Ngài để nghe giảng Tin Mừng. Chúa đến để cứu vớt. Ngài đến vì mọi người. Ngài là Tình Yêu. Ngài không nở lòng bỏ đàn chiên bơ vơ như thế.
Đây là nét đặc trưng của Chúa Giêsu. Ngài chính là người mục tử nhân lành, luôn nghĩ đến đàn chiên, luôn tìm mọi cách cứu vớt đàn chiên và liều mạng sống cho đàn chiên.
Đoàn dân khao khát nghe giảng Tin Mừng vì chưa từng thấy ai có thể mang lại cho họ của ăn tinh thần họ đang cần: “Con người không chỉ cần cơm bánh…”
Chúng ta có khao khát nghe lời Chúa như đoàn dân đó không? Chúng ta có thực tình yêu mến Lời Chúa không? Chúng ta nghe đủ thứ tin tức, đủ thứ chuyện ở đời, xem đủ thứ phim ảnh, nhưng Lời Chúa thì ngại nghe, không hấp dẫn. Có lẽ không mấy người có tài hùng biện hấp dẫn chúng ta, nhưng nếu có những người giảng Lời Chúa, chúng ta có sẵn sàng đón nhận với tất cả thiện chí không?
Người yêu mới thích nghe tiếng người yêu. Nếu chúng ta thực tình yêu Chúa, chắc hẳn chúng ta sẽ yêu thích nghe nói đến Chúa, nghe lời Chúa.
Tiên tri Giêrêmia nói: “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài”.
Chúng ta có yêu thích Lời Chúa như thế không? Đám dân lành khao khát nghe lời Chúa đến nỗi, biết Ngài sang bên kia bờ, đã đi bộ kéo nhau đi tìm Ngài. Xin cho chúng ta được niềm khao khát trong lành đó.
Chúng ta có rất nhiều phương tiện để nghe Lời Chúa. Lời Chúa trong quyển sách mà nhiều người đã có trong gia đình. Lời Chúa trên những phương tiện truyền thông, chỉ cần bật một cái nút, chúng ta có thể nghe Lời Chúa. Những người sử dụng internet, biết bao nhiêu trang Lời Chúa luôn có sẵn… nhưng chúng ta có muốn nghe không? Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Đúng thế. Làm sao biết Chúa nếu không tìm Chúa nơi Chúa tỏ ra? Lời Chúa mới giúp chúng ta tiếp cận với Chúa, hiểu biết Ngài và yêu mến Ngài.
Chúng ta phung phí thời giờ vào những việc phù phiếm, thức đêm thức hôm để theo dõi một trận bóng đá, còn Chúa thì lãng quên. Hình như nhiều người không cần đến Thiên Chúa. Hãy dành cho Chúa một khoảng không gian nào đó trong ngày sống của chúng ta. Thời giờ qua đi mà không trở lại. Hoang phí thời giờ vào những thú vui trần thế mà đánh mất niềm vui nơi Chúa, thì ích lợi gì cho chúng ta? Đánh mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Chúa không mỏi mệt rao giảng qua Giáo hội, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng. Lời Chúa là ngọn đèn soi bước con đi, nhưng chúng ta không cần ánh sáng của Chúa. Làm sao chúng ta biết đâu là sự thật? Chúng ta sẽ lạc lối và rơi vào bóng tối tội lỗi. Thế giới hôm nay đang chìm trong bóng tối tội ác, chúng ta làm sao biết chọn con đường nào? Con người hôm nay muốn loại trừ Thiên Chúa, và hậu quả như thế nào? Người ta chỉ tin vào sự khôn ngoan của mình, tin vào khoa học, vì thế con người đang rơi vào cơn ác mộng tận diệt. Chân trời hôm nay của con người đen nghịch những đe dọa. Người ta tưởng rằng chế tạo vũ khí là khôn ngoan, là bảo đảm sự tồn vong của mình, nhưng thế giới sẽ ra sao với những kho vũ khí khổng lồ và vô cùng hữu hiệu? Người ta tưởng chấp nhận hôn nhân đồng tính là tiến bộ, hay là dấu hiệu của một sự suy đồi đáng sợ? Chỉ có Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Không bám vào Chúa, con người sẽ hủy diệt lẫn nhau thôi.
Giáo hội luôn sống theo Lời Chúa, dù mọi người chối từ. Giáo hội vẫn yêu mến Lời Chúa như yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Tình yêu Chúa vẫn thôi thúc chúng ta, nhưng chúng ta hình như vẫn cứng lòng như dân Do Thái xưa.
Hôm nay, khi nhìn đến chúng ta, có lẽ Chúa cũng chạnh lòng thương chúng ta hơn đám dân lành khi xưa, vì chúng ta không phải là đàn chiên không có chủ chăn mà bi đát hơn, chúng ta là đàn chiên đang bị hi sinh cho quyền lợi của một nhóm nhỏ, những tay đầu xỏ thế giới, những người thờ tiền. Nhưng ở đời không có gì tồn tại. Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Ta sẽ không qua đi, dù một chấm một phảy cũng không qua đi. Lời Chúa là chân lý, nhưng chúng ta không thích nghe, chúng ta chỉ muốn nghe những lời lếu láo của người đời hơn. Lời Chúa là sự sống, nhưng chúng ta không muốn nghe để được sống, chúng ta chỉ muốn gặt hái hư vô. Chúng ta nói như các môn đệ xưa: “Lời Chúa sao khó nghe quá”! Hãy như Phêrô: “Bỏ Thầy con biết theo ai, chỉ có Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời”.
Hãy trở về với Chủ chăn nhân lành của chúng ta, lắng nghe lời Ngài, yêu mến Ngài, chúng ta mới đạt tới niềm vui sung mãn mà Ngài mang lại cho chúng ta, khi ban mạng sống Ngài cứu vớt chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ rơi đàn chiên mà Ngài đã chuộc lại bằng giá máu của Ngài. Tình yêu của Ngài bền vững muôn năm.
Ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta, không những bằng lời Ngài mà bằng cả thịt máu Ngài. Ngài trở thành của ăn cho đàn chiên của Ngài. Còn gì mà Ngài không làm cho chúng ta? Chúng ta tìm đâu được một ai đó dám sống chết cho chúng ta, yêu thương đến nỗi không tiếc gì với chúng ta? Hãy ăn lấy Ngài vì Ngài là của ăn, là Bánh Hằng Sống sẽ ban cho chúng ta nguồn sống của Ngài, vì chỉ có Ngài mới là niềm vui bất tận cho chúng ta.
Phải làm việc quần quật suốt ngày không có thời gian nghỉ ngơi thì người ta than mệt, rồi sinh kiệt sức bệnh tật. Không có việc làm, tối ngày đi tới đi lui thì lại kêu buồn chán, rồi sinh ra “nhàn cư vi bất thiện”. Thiên Chúa, sau sáu ngày làm việc để tạo dựng vũ trụ, ngày thứ bảy, Ngài nghỉ ngơi. Sau khi trở về từ chuyến công tác đầu tiên , các môn đệ tụ họp quanh Chúa Giêsu và thuật lại cho Ngài biết mọi việc họ đã làm và mọi điều họ đã giảng dạy. Kẻ lui người tới rất đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ để ăn uống nữa. Chúa Giêsu thấy thế, Ngài bảo các ông: “ Chính anh em, hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Ngài không nghĩ đến sự vất vả của mình để cần đến sự nghỉ ngơi, nhưng Ngài quan tâm đến những vất vả mệt nhọc của các môn đệ, nên Ngài mới nhấn mạnh: “ chính anh em.” Thế mới thấy làm việc và nghỉ ngơi là hai nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Nhưng chúng ta phải nghỉ ngơi như thế nào cho hợp ý Thiên Chúa?
Chúa không dạy các môn đệ nghỉ ngơi bằng những buổi ăn nhậu say sưa, bằng say mê bên sòng bài, hay làm những gì theo sở thích, nhưng Ngài bảo các môn đệ “ hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”
Lánh riêng ra một nơi thanh vắng là tách biệt ra khỏi sự ồn ào để chỉ một mình ta với ta, và một mình ta với Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta chọn làm cứu cánh cuộc đời. Trong khoảng khắc chỉ mình ta với ta là cơ hội để chúng ta nhìn lại mình, kiểm điểm những gì mình đã làm và hướng tới những gì sẽ làm để phục vụ Thiên Chúa. Chỉ khi một mình ta với ta, chúng ta mới nhớ đến Đấng yêu thương chúng ta . Đây là cơ hội để chúng ta tâm sự với người mình yêu. Giây phút tuyệt với của sự nghỉ ngơi là được ở bên cạnh và tâm sự với người mình yêu. Đó là giây phút nghỉ ngơi tuyệt vời để tăng thêm sức mạnh tinh thần. Chính Chúa đã nói: Ai khó nhọc hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức lại cho. Như thế, nghỉ ngơi đối với người Kitô hữu là cầu nguyện. Cầu nguyện là giây phút tâm tình, kết hợp với Thiên Chúa. Qua lời Chúa: “ Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Ngài cũng muốn dạy chúng ta: dù bon chen vất vả, đầu tắt mặt tối để lo cho cuộc sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải dành một chút thời gian để nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Chúa Giêsu sau một ngày làm việc vất vả, đêm về, Ngài luôn một mình tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi của Chúa Giêsu là cầu nguyện, là giây phút tâm sự với Chúa Cha. Đó là giây phút nghỉ ngơi tuyệt vời nhất mà ở đó, Ngài tìm được sự âu yếm nâng đỡ và khích lệ của Chúa Cha. Thánh Phanxicô Xaviê, vì suốt ngày mãi mê rao giảng Tin Mừng cho lương dân, nên mỗi khi đêm về, qùy gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, có lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục trên bục bàn thờ. Lúc ấy, ngài thường cầu nguyện: “ Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa.”
Giây phút lánh ra một mình nơi thanh vắng để nghỉ ngơi trong cầu nguyện là giây phút chúng ta sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống, là hai như cầu của người môn đệ Chúa.
----------------------------
TN 16-B138: Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút
Antôn Nguyễn Chân Hồng. OH
Nhịp sống của thời hiện đại dễ làm cho con người trở nên vội vã, cạnh tranh, đầy thách thức tạo TN 16-B138
Nhịp sống của thời hiện đại dễ làm cho con người trở nên vội vã, cạnh tranh, đầy thách thức tạo ra áp lực công việc nặng nề lên cả tinh thần và thể xác con người qua biểu hiện stress. Theo y học, stress là phản ứng của cơ thể cho thấy hệ thần kinh đang ở trong tình trạng căng thẳng, là dấu hiệu báo động sự quá tải của hệ thần kinh cũng như của cơ thể. Stress thường biểu hiện qua các dấu hiệu như: mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, buồn chán…, căn bệnh này tuy rất thông thường, nhưng chữa trị lại rất tốn kém và có khi không khỏi hẳn, gây mất hứng thú với các hoạt động công việc, hay cáu gắt, lo lắng, mất tập trung, trở nên trì trệ. Các triệu chứng này thường rất trầm trọng và kéo dài liên tục, nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời. Đặc biệt là không có chế độ dinh dưỡng và nghỉ ngơi hợp lý.
Tin mừng Chúa nhật XVI thường niên hôm nay, thánh sử Maccô thuật lại sau thời gian thi hành sứ mạng trở về, các tông đồ rất phấn khởi vì đạt nhiều thành công rực rỡ. Những thành công ấy cũng rất lạ thường, bởi nó vượt xa khả năng tự nhiên của các tông đồ: như việc xua trừ ma quỷ và chữa lành nhiều bệnh nhân. Các tông đồ vui mừng tụ họp bên Chúa, báo cáo thành tích đạt được cho Chúa nghe. Chúa Giêsu là nhà sư phạm, đồng thời cũng là vị lương y siêu phàm đã “thăm mạch và chẩn đoán đúng căn bệnh” của các tông đồ. Một mặt Ngài đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các tông đồ, nhưng mặt khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn là những thành công trong việc làm. Thay vì mời gọi các ông tiếp tục thực hiện sứ mạng đang trên đà thành công. Người lại nhẹ nhàng kéo các tông đồ ra khỏi căn bệnh say “men chiến thắng”: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. (Mc 30, 31)
Bởi Người biết, con đường trước mắt mà thầy trò phải đối diện không phải là con đường bằng phẳng, sẽ không ít gập ghềnh. Đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách. Sứ mạng hôm nay dù thành công, nhưng chưa kết thúc, đúng hơn, chỉ mới mở ra. Đường còn dài đã vậy, sức lực con người lại có giới hạn. Vì thế, chưa cho phép người môn đệ có quyền ngủ mê trong những thành công đầu đời tông đồ này. Thành công đầu đời chưa phải là tất cả của sự thành công. Bởi thế, ngoài việc kéo các tông đồ ra khỏi căn bệnh “say men chiến thắng”, lời động viên của Chúa: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Điều này còn cho thấy sự quan tâm rất thực tế của Chúa Giêsu với các đồ đệ.
Chính lúc này đây, hơn bao giờ hết, các học trò của Chúa cần phải được nghỉ ngơi dưỡng sức. Bởi họ đã quá vất vả cho công việc. Sức lực thể lý của họ phần nào đã bị hao mòn vì đám đông, vì cảnh ồn ào, náo động. Chính lúc này phải là một bầu khí không gian cô tịch thanh vắng, mới có thể giúp các tông đồ tỉnh táo kiểm chứng nội tâm của mình, đồng thời bồi bổ sức lực thể xác tinh thần. Ðể duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Ðức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi. Kinh Thánh cũng đã ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2, 3).
Thực vậy, vì con người không phải là cỗ máy vô tri, nên con người cần có thời giờ để làm việc, thì cũng cần có thời giờ để ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí để lấy lại sức khỏe làm việc. Cũng một cách tương tự về mặt tinh thần, con người cần tạm đóng cửa với thế giới bên ngoài, dành thời giờ trở về với chính mình trong sự tĩnh lặng, để tìm lại sự an bình nội tâm và nghị lực tinh thần nhằm có thể chu toàn bổn phận mà Chúa trao ban. Vì “Một tinh thần minh mẫn, trong một thân thể tráng kiện”. Sự thinh lặng bên trong và bầu khí tĩnh mịch bên ngoài được coi như mảnh vườn tâm hồn khao khát tình yêu và tìm kiếm an bình. Nơi đây, sự cô độc của tâm hồn không phải là sa mạc khô cằn nắng cháy, nhưng sẽ trở nên như thuở đất tốt trổ sinh hoa trái dồi dào.
Sự tĩnh lặng cũng được ví như ngôi nhà nơi nghỉ ngơi của tâm hồn bị xáo trộn và là điểm tựa cần thiết cho tâm hồn. Thế nhưng, sự tĩnh lặng và nơi cô tịnh không hẳn là chỗ mọi người đều ưa thích và muốn ở lại lâu giờ, bởi vì chúng ta thường dễ bị chi phối bởi những cám dỗ lôi kéo theo những thỏa mãn chóng qua. Trái lại, sự thinh lặng mời gọi chúng ta trở về với nội tâm, đối diện với những khuyết điểm và đối phó với những hạn hẹp bởi bản tính yếu đuối của con người, chỉ những ai không trốn chạy chính mình, chỉ những ai can đảm ở lại trong thinh lặng, người đó mới có thể tìm lại được con người thật của chính mình.
Hơn thế nữa, sự nghỉ ngơi yên tĩnh sẽ là môi trường tốt giúp chúng ta dễ dàng cầu nguyện kết hợp mật thiết với Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa, thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bên ngoài hơn là nội tâm bên trong. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành việc của riêng ta, và vì thế sinh ra tự phụ, tự mãn, kiêu căng. Không cầu nguyện, công việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém.
Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp ta chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn. Cũng chính vì sự cần thiết của nghỉ ngơi và cầu nguyện, mà hàng năm Giáo hội khuyên những người sống đời thánh hiến phải dành những khoảng thời gian trong năm, tạm gác lại mọi công việc bận rộn ồn ào để đi vào nơi tĩnh lặng tĩnh tâm, linh thao hay thường huấn, nơi đây họ sẽ nhìn lại những thành công, những thất bại, và ngay cả những dự tính cho tương lai sứ vụ nữa. Như vậy, lời mời gọi của Chúa Giêsu ngày xưa với các tông đồ, cũng là lời mời gọi bổ ích cho mỗi người chúng ta ngày nay, là cần phải dành thời gian cho việc nghỉ ngơi dưỡng sức sau những ngày tháng làm việc vất vả: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một thế giới với biết bao ồn ào náo động của những công việc, giữa những sôi nổi của thành công và thất bại, Giữa những đam mê quay cuồng, của những khát khao thèm muốn; những trói buộc của sợ hãi và âu lo. Giữa lúc bị cuộc đời khước từ, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm tối mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa. Vòng xoáy của cuộc đời có khi khiến chúng con chẳng còn dành chút thời gian để nghỉ ngơi và sống an bình thư thái. Dường như từ sáng đến khuya, chúng con luôn bị những công việc hay những bận tâm chiếm hết những giờ phút nghỉ ngơi cần thiết. Đã mệt mỏi, đời sống của chúng con càng trở nên căng thẳng và bất an hơn. Chính vì thế mà việc dành thời gian nghỉ ngơi không phải là lãng phí, nhưng là điều rất cần thiết cho mình. Khi thể lý và tinh thần chúng con được thư thái, chúng con mới có thể cảm nghiệm được hương vị ngọt ngào của cuộc sống.
Sau những bôn ba, vất vả của mưu sinh, nghỉ ngơi là nhu cầu cần thiết để phục hồi thể xác và tinh thần. Nghỉ ngơi không phải chỉ là để “tạm dừng” sau những giờ lao tác mệt nhọc, mà còn giúp mang lại sự hồi sinh để con người tiếp tục vui sống. Chúng con cảm tạ Chúa đã cho con người có nhu cầu nghỉ ngơi để con người biết dừng lại, để biết chăm lo cho sức khỏe và tưới mát tâm hồn. Khi biết cách tách mình ra khỏi vòng xoáy lo lắng của cuộc sống, con người mới có thể đứng vững trước gánh nặng của phận người. Xin giúp chúng con biết quay về bên Chúa, để gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa; nhờ đó chúng con được lãnh nhận sức mạnh Chúa ban để tiếp tục lên đường trong yêu thương và phục vụ anh chị em. Amen.
Antôn Nguyễn Chân Hồng. OH
----------------------------
TN 16-B139: Hãy Lui Vào Nơi Thanh Vắng Mà Nghỉ Ngơi Đôi Chút
– Chúa Nhật 16 Thường Niên Năm B
Chúa Giêsu vừa sai các tông đồ đi truyền giáo để tiếp tục điều Ngài đã làm, là kêu gọi mọi người TN 16-B139
Chúa Giêsu vừa sai các tông đồ đi truyền giáo để tiếp tục điều Ngài đã làm, là kêu gọi mọi người sám hối, xua đuổi ma quỉ và chữa lành bệnh nhân. Ít lâu sau, họ trở về với Ngài để tường trình những gì họ vừa trải qua. Cũng thế, ngày chủ nhật chúng ta qui tụ chung quanh Chúa, và cũng như các tông đồ, chúng ta được mời gọi tường trình cho Ngài những gì chúng ta đã làm trong một tuần lễ qua. Chúng ta nói chuyện với Ngài, cám ơn Ngài và chờ đợi những lệnh truyền mới.
Chính Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy lui vào nơi thanh vằng và nghỉ ngơi đôi chút!”. Thấy các tông đồ mệt lả sau chuyến đi, Chúa Giêsu đề nghị họ nghỉ ngơi một chút. Nhiều người muốn gọi đoạn tin mừng nầy là “qui luật tin mừng về kì nghỉ hè”. Nhưng điều quan trọng nhất lại ở chỗ khác. Các tông đồ được mời gọi tách rời đám đông, không phải là trốn chạy họ mà là dành một thời gian tìm lại sức sống và tinh thần để phục vụ đám đông tốt hơn. Chính Ngài cũng thường lui vào nơi hoang địa để chuyện vãn thân mật với Thiên Chúa Cha. Nhiều khi thức thâu đêm. Đó là thời gian quí báu Ngài kín múc sức mạnh để khỏi sa vào cám dỗ ngồi yên một chỗ.
«Hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút». Do đó, cử hành Thánh Thể là thời gian nghỉ ngơi với Chúa. Tạm bỏ lại sau lưng những lo lắng và công việc mỗi ngày, để tĩnh dưỡng và tìm lại sức mạnh nơi nguồn suối ban sự sống. Cũng như để tạ ơn Thiên Chúa vì niềm vui gặp gỡ và bồi dưỡng bên Ngài. Sống giữa môi trường ồn ào trong thế giới hiện nay, dành một ít thời gian cho mình không phải là một thứ xa xỉ. Chất lượng đời sống thiêng liêng, đặc biệt là sự quan tâm cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với người khác, nhờ đó mà được đổi mới.
Đó là điều quan trọng vì nhu cầu rất bao la: «Khi lên khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám đông bao la. Ngài chạnh lòng thương xót họ, vì họ như nhưng con chiên không có người chăn dắt ». Đám đông từ khắp nơi tuôn đến, đó là cả nhân loại, nhân loại đương thời với Ngài và hôm nay. Cũng như ngày xưa, ngày nay có những đám đông như những đàn chiên không người chăn dắt. Lẽ ra họ phải được bảo vệ bởi những vị chủ chăn đầy ý thức về trách nhiệm thiện ích chung. Nhưng tiếc thay, nhiều lúc họ chỉ tìm thấy những mục tử chỉ quan tâm đến tư lợi của mình mà lơ là ích chung của đoàn chiên. Nạn nhân chính của tình trạng đó lại là những kẻ bé miệng, những người nghèo khổ, những người đáng thương nhất.
Đó là hạng người lôi kéo sự chú ý là lòng thương xót của Chúa Giêsu. Tâm hồn của Ngài xúc động trước nỗi khốn cùng của họ. Như người mẹ quặn đau trước nỗi đau khổ của con. Vì thế Ngài dành hết thời giờ để giáo huấn họ vì Ngài yêu thương họ. Ngài biết rõ hơn ai hết sự khinh bỉ mà họ phải chịu đựng. Vì thế Ngài đề cao phẩm giá con người của họ, và không cho phép ai lạm dụng lòng tin tưởng cũng như khinh bỉ, lừa đối và chia rẻ họ. Trong mỗi thánh lễ, Đức Kitô ở giữa chúng ta để tỏ lòng yêu thương của Ngài. Ngài dạy dỗ và nuôi dưỡng chúng ta bằng Bánh Sự sống. Ngài biết rõ Lời Chúa ảnh hưởng trong đời sống chúng ta như thế nào vì đó là Lời quyền năng, có sức mạnh hoán cải và soi sáng chúng ta.
Là linh mục hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về lời rao giảng và làm chứng cho Tin mừng. Nhưng ý thức sự yếu đuối của chính mình, chúng ta nhìn nhận rằng sứ mạng ấy vượt quá khả năng con ngưởi của chúng ta. Vì thế, Chúa mời gọi chúng ta đến bên Ngài để tái tạo sức mạnh và bồi dưỡng cho chúng ta. Để rồi sai chúng ta đến với những người của thời đại hôm nay, đặc biệt những ké bé miệng, những người đang khao khát công lí và hòa bình.
Đó chính là công việc mà Chúa Giêsu đã làm, và còn đi trước chúng ta trong tâm hồn của những người mà Ngài đặt trên con đường chúng ta. Trong thế giới mất phương hướng và đầy xáo trộn ngày hôm nay, chúng ta được sai đi để làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không đòi chúng ta phải làm cho người khác tin, nhưng loan báo tình yêu say mê của Thiên Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ. Vì thế, chúng ta hãy trở nên những sứ giả mang tin vui và niềm hi vọng. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa đặt trong tâm hồn chúng ta tình yêu và lòng thương xót đối với những con chiên không có chủ chăn.
Phục vụ Lời ĐCV Xuân Lộc
----------------------------
TN 16-B140: Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng
Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. . . (Mc 6; 31 ).
Bài Tin mừng hôm nay,Thánh Mác- Cô thuật lại việc các Tông đồ sau những thời gian bận rộn TN 16-B140
Bài Tin mừng hôm nay,Thánh Mác- Cô thuật lại việc các Tông đồ sau những thời gian bận rộn với công việc của mình, là cùng với Chúa ra đi rao giảng, đã trở về tụ họp, kể lại cho Chúa nghe những việc đã thực hiện, nói lại những điều các ông đã giảng dạy. Sau khi đã lắng nghe và chạnh lòng thương, Người đã bảo các ông “ Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút “. Tin mừng ghi rõ lý do “ Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa “.
Từ những định hướng này, những người lãnh đạo Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam ngay từ những năm 70, thực hiện bản Tân Nội quy, từ trung ương toàn quốc đến các xứ đoàn cơ sở, hàng năm đều khuyến khích các Huynh trưởng, Tông đồ đội trưởng phải dành thời gian ít nhiều Vào Sa Mạc, tức là đi đến một nơi thanh vắng mà “nghỉ ngơi đôi chút”.
Nghỉ ngơi không phải là không làm gì, là ăn uống thoải mái, thư giãn thân thể hay giải trí rồi ngủ nghỉ cho đã vài ba ngày. Nghỉ ngơi trong Tin mừng chính là nghỉ ngơi trong Chúa. Đó là biết bỏ lại những bận rộn của cuộc sống hàng ngày, biết gác lại những lo toan chạy vạy, biết tìm được sự tĩnh lặng cho tâm hồn. Không bồn chồn lắng lo, không lo ra giao động, không phân tâm hướng ngoại. Đó là biết dành thời gian để nhìn vào sâu thẳm nội tâm con người mình, đặt mình đối diện với Thiên Chúa, coi mình như KHÔNG trước mặt Chúa để Người hành động, Người lên tiếng, Người nhắc nhở. Có như thế con mới có cơ hội lắng nghe được tiếng Chúa, con sẽ thưa với Người về bản thân, về gia đình, về cuộc sống, về những ý định, nhu cầu, nguyện ước của con và của những người đang sống với con, về Giáo hội, xã hội hôm nay. . . Chính lúc đó là con được nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu đã từng nhắn nhủ: “Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng “.
Lạy Chúa,
Lời Chúa nhắc các tông đồ cũng chính là nhắc cho con. Cuộc sống hôm nay có quá nhiều xáo động, con có quá nhiều bận rộn. Con chạy đi chạy lại, con tới lui tính toán, lúc nào cũng cảm thấy bất an, lo lắng. Chính vì con không biết dành thời gian lui vào “nơi thanh vắng” nghỉ ngơi cầu nguyện. Con không dành thời giờ để nạp lại “ năng lượng “ cho đời sống tâm linh của mình. Nơi thanh vắng không chỉ hiểu theo nghĩa đen là hoang địa, là vùng núi, biển cả, rừng sâu âm u hay một đan viện mà thôi, mà còn là không gian tĩnh lặng của đời thường, đêm về hay buổi sáng khi bình minh chưa ló dạng mỗi ngày, khi trời và đất như giao duyên không bị ảnh hưởng bởi những xao động của cuộc sống.
“ Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa : Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi?( Lắng nghe Lời Chúa- Nguyễn Duy ).
Chớ gì con biết mỗi ngày dành ra ít phút khi vừa thức giấc, cũng như trước lúc nghỉ đêm để Vào Sa Mạc nội tâm như những ngày trẻ, là huynh trưởng Thiếu nhi, con từng rời khỏi gia đình Vào Sa Mạc mỗi năm một vài ngày, để được Chúa huấn luyện, Chúa chỉ dẫn. Những lúc ấy, Chúa sẽ cho con biết phải làm gì trong cuộc đời hôm nay . AMEN . Fx. Đỗ Công Minh
(Bài giảng Chúa nhật 16 Thường niên B của Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên)
Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng TN 16-B141
Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Cuộc sống xung quanh ta đầy rẫy những bon chen tính toán. Những quay cuồng vật lộn, những lo toan cơm áo gạo tiền dễ làm ta lạc đường mất hướng. Có những lúc giật mình nhìn lại, ngỡ ngàng không biết mình sống cho ai, để làm gì và sẽ đi về đâu. Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Người mục tử là một hình ảnh rất thân thương và gần gũi đối với dân tộc Do Thái, là dân chuyên sống bằng nghề du mục. Ảnh hưởng của người mục tử rất quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của đàn chiên. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa khẳng định, chính Ngài là mục tử của vương quốc Israen, cũng là Vua lãnh đạo dân tộc này. Ngài chăm sóc, hướng dẫn và chúc lành cho dân. Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử cứu độ. Từng trang sử đều in đậm dấu ấn do quyền năng và tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với dân riêng Ngài đã chọn, tức là dân Do Thái. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn hứa ban cho dân Israen một vị vua trong tương lai. Vị vua này sẽ dẫn dắt dân trong sự công chính. Người sẽ là vị Vua Hòa Bình. Nhờ Người, Thiên Chúa và con người sẽ giao hòa, muôn nước sẽ sống trong bình an. Người ta không còn dùng gươm giáo để tiêu diệt nhau nữa, nhưng cùng nắm tay nhau xây dựng một thế giới nhân ái yêu thương.
Vị vua tương lai mà ngôn sứ Giêrêmia loan báo là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và Đấng Cứu độ trần gian. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói về quyền năng của Người. “Ta là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Người là Mục tử tốt và cũng là Mục tử đích thực. Hai đặc tính này đi đôi với nhau và diễn tả sứ mạng Thiên sai của Người. Trong lịch sử cũng như ngày hôm nay, đã và đang có những mục tử giả hiệu, những mục tử không tốt. Những mục tử này, thay vì phục vụ đàn chiên, lại hành hạ và giết chết đàn chiên. Chúa Giêsu là Mục tử tốt và thật. Vị Mục tử Giêsu vừa quan tâm đến những người cộng tác là các môn đệ, vừa lo lắng cho đám đông dân chúng. Khi thấy các môn đệ mệt mỏi, Người đã bảo họ đi nghỉ ngơi cầu nguyện tĩnh dưỡng. Khi thấy dân chúng đông đảo đi theo Người, Người chạnh lòng thương trước nỗi khốn cùng về thể xác cũng như tinh thần của họ. Không chỉ những người đi theo Chúa vào tận nơi hẻo lánh, mà còn cả nhân loại đang đói khát tình thương, cũng đang rất cần sự nâng đỡ của Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng thâm sâu của con người.
Trước nỗi khốn cùng của cuộc sống, nhiều người đã chọn những giải pháp trần gian mà họ quên chạy đến với Chúa để xin Ngài hướng dẫn, chỉ lối đưa đường. Cũng có những người mù quáng đi theo những mục tử giả, tức là những cá nhân hoặc những trào lưu buông thả, vô thần, chủ trương lối sống duy vật chất và phủ nhận những giá trị thiêng liêng. “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi”, đó vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là tâm tình phó thác của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu. Trải qua hai mươi thế kỷ, biết bao sói dữ đã trở thành chiên lành, nhờ chuyên tâm đi theo vị Mục tử nhân lành dẫn dắt. Biết bao con chiên lạc đã trở về chính lộ nhờ thiện chí đón nhận lời giáo huấn của Người. Ý thức mình là con chiên trong đàn chiên đông đảo của Chúa, chúng ta hãy chân thành lắng nghe lời Người dạy và thực hiện lời Người nhủ khuyên. “Đường đi có Chúa chông gai con có sợ chi”, tin vào sự dẫn dắt của Chúa giúp chúng ta vượt thắng mọi gian khó trên đường đời.
Hình ảnh vị Mục tử nhân lành cũng nhắc nhở những ai được Chúa trao nhiệm vụ lãnh đạo các cộng đoàn tín hữu, tức là Giám mục, linh mục, phải noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì tha nhân. Bất kể thời nào và ở đâu, Giáo hội luôn cần những mục tử tài đức, khiêm tốn và sẵn sàng phục vụ đàn chiên Chúa đã trao phó. Những vị lãnh đạo này rất cần đến sự nâng đỡ, cộng tác và cầu nguyện của các tín hữu.
Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo một vị Vua công chính đến để kiến tạo hòa bình, đó là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tiếp tục quảng diễn sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu, tức là giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái với các dân, tiêu diệt mối thù nghịch, liên kết mọi người và làm thành gia đình của Thiên Chúa (Bài đọc II). Gia đình này là đàn chiên đông đảo, không còn phân biệt nguồn gốc, ngôn ngữ hay mọi dị biệt. Mỗi cộng đoàn đều là hình ảnh của gia đình ấy. Sự hiệp thông gắn bó, tình đoàn kết yêu thương giữa mọi cá nhân trong một cộng đoàn, chính là lời chứng hùng hồn cho sự dẫn dắt yêu thương của vị Mục tử nhân lành, luôn chạnh lòng thương và chúc lành cho những ai tin tưởng phó thác nơi Người.
Bấy giờ các môn đệ đi rao giảng trở về. Các ông có nhiều chuyện để kể lại cho Chúa Giêsu nghe TN 16-B142
Bấy giờ các môn đệ đi rao giảng trở về. Các ông có nhiều chuyện để kể lại cho Chúa Giêsu nghe, nhưng các ông không làm được, bởi vì đám đông dân chúng cứ đòi Ngài phải nói với họ hay thực hiện một việc làm kỳ diệu nào đó, cho họ được thoả lòng. Chúa Giêsu muốn các ông rút vào một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng dân chúng vẫn đi theo, đến độ các ông không có giờ để mà ăn và rồi giờ thì đã muộn, quanh cảnh lại hoang vắng, nên bắt buộc các ông phải nghĩ đến chuyện họ đói phải cho ăn. Chính trong bối cảnh ấy đã diễn ra phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Điểm nổi bật trong thái độ của Chúa Giêsu đó là lòng ân cần. Chúa Giêsu xuất hiện như một người đang chăm lo cho những kẻ chung quanh. Chúng ta đã quá quen với những điều mà thiên hạ vốn thường lặp đi lặp lại rằng: Người Kitô hữu phải lắng nghe người khác, phải lưu tâm tới các tiếng gọi. Thế nhưng thiết tưởng, chúng ta nên làm trẻ lại cách nhìn của chúng ta và hãy xem cách Chúa Giêsu đón tiếp các môn đệ khi các ông trở về. Cũng như hãy xem Chúa Giêsu đối diện với đám đông đang háo hức tìm gặp Ngài và Ngài đã động lòng thương xót họ vì họ bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không người chăn. Và đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý: Đoàn chiên thiếu người chăn. Một đám đông, đang đói lời giảng dạy, đang khát sự hấp dẫn.
Thực vậy trải dài suốt hai mươi thế kỷ, lời cảnh giác của Chúa vẫn còn là một sự khẩn cấp: lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ sai thợ đến gặt lúa của mình. Biết bao nhiêu người trên thế giới, khát khao tìm gặp Chúa, nhưng lại không có ai hướng dẫn cho họ. Biết bao nhiêu người còn ngồi trong bóng tối, nhưng lại không có ai soi chiếu cho họ. Biết bao nhiêu đàn chiên không có người chăn, nên phải bơ vơ lạc lõng.
Thế nhưng trước một hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì? Đó mới là điều quan trọng. Bởi vì như danh ngôn Tây phương cũng đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta có thể trở thành một tay thợ trên cánh đồng của Chúa, một ngọn đèn le lói trong đêm tối, một kẻ tiếp giúp cho việc hướng dẫn đoàn chiên.
Khi chế tạo sản phẩm mới người ta quảng cáo đủ mọi điều tốt đẹp về sản phẩm. Nào là nó TN 16-B143
Khi chế tạo sản phẩm mới người ta quảng cáo đủ mọi điều tốt đẹp về sản phẩm. Nào là nó tiện lợi, đẹp, rẻ và tiện nghi cho đời sống mới. Một thời gian sau sản phẩm khác ra đời thay thế sản phẩm cũ, thế là có mới nới cũ. Cũ chìm vào quá khứ biến mất khỏi thị trường. Như thế người tiêu dùng bị hấp lực bởi quảng cáo, không phải hấp lực của sản phẩm. Đồng ý là khoa học kỹ thuật mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho con người nhưng không phải mọi sáng chế đều thuận lợi cả đâu. Nhiều người trở thành nạn nhân của những sáng chế mới. Điều mà không ai tránh khỏi đó là vấn đề chạy đua với thời gian. Từ già trẻ, lớn bé, mọi người đều cảm thấy ngày ngắn, đêm đoản, ngủ chưa no giấc ngày đã đến, còn đang lai rai đêm đã tàn. Máy móc làm việc nhanh gấp ngàn lần chân tay đáng ra con người phải có nhiều giờ rảnh mới đúng nhưng dường như ai cũng bận rộn, không đủ giờ để nghỉ, thiếu giờ liên lạc, đàm thoại với nhau. Vì sao? Vì phải chạy đua với máy móc. Sức người có hạn, máy móc lại dai dẳng, không mệt nên người mệt mỏi trước máy. Tai hại thứ hai của sản phẩm khoa học kĩ thuật là vấn đề gian lận. Trẻ gian lận giờ học, giờ chơi, giờ ngủ để có giờ cho máy móc. Cảnh sát vất vả vì kẻ lạm dụng kiến thức khoa học đánh cắp đủ thứ. Hầu như ai cũng được khuyên cần mã số cho máy, mã số cho sổ ngân hàng, mã số cho mọi thứ liên quan đến cá nhân vì lúc nào cũng có kẻ rình mò tìm cách lợi dụng. Phương diện quốc gia cũng không hơn gì, ngày đêm có kẻ rình rập ăn cắp dữ kiện, phá nhau để họ khỏi hơn mình. Chiến tranh trên mạng chỉ mới bắt đầu và sẽ trở thành đại nạn trong những năm sắp tới.
Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho tha nhân, các ông cũng cảm thấy bận rộn đến độ các ông không có giờ ăn trưa. Đức Kitô nói với các ông: anh em hãy đi tìm nơi thánh vắng nghỉ lấy sức c.13
Lời khuyên vừa khôn ngoan vừa thiết thực, nên nghỉ ngơi sau ngày làm việc vất vả đến từ Đức Kitô. Nơi thanh vắng không mang nghĩa là nơi cô đơn, một mình, không có ai hoặc là không làm gì hết nhưng là nghỉ trong Chúa. Nơi thanh vắng cho ta thời giờ rảnh rang để nhìn lại, kiểm điểm công việc đã qua. Trường hợp các tông đồ các ông đi chung với nhau, với những người chung niềm tin, tôn thờ cùng Thiên Chúa và làm cùng công việc rao giảng về nước trời.Nơi thanh vắng là nơi thể xác được nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, tinh thần được bồi bổ và tâm linh được tăng sức mạnh. Nơi thanh vắng là nơi cuộc sống không bị dày vò, công việc không thúc bách và không phải chạy đua với thời gian. Nơi thanh vắng chúng ta tìm được bình an trong tâm hồn, yên tĩnh của cuộc sống và những điều này đánh tan nỗi lo nhọc của cuộc sống. Nơi thanh vắng là nơi chúng ta cởi mở tâm hồn tâm sự cùng Chúa. Nếu là những niềm vui chúng ta chia sẻ Thiên Chúa sẽ làm cho nguồn vui tăng gấp bội. Nếu là nhưng lo âu, sầu khổ, mệt mỏi chúng ta san sẻ nỗi âu lo đó cho Chúa và Chúa sẽ ban sức mạnh, chữa lành.
Tình yêu Chúa bất biến với thời gian. Tình yêu Chúa không bao giờ thay đổi nhưng cách làm chứng nhân cho Thiên Chúa cần đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh. Thay đổi thế nào thì tuỳ vào sự khôn ngoan của mỗi cá nhân lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Chúa trong lúc nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Nghỉ ngơi, bồi bổ, dưỡng sức là nhu cầu bắt buộc phải có trong cuộc sống. Thiếu nghỉ ngơi, bồi TN 16-B144
Nghỉ ngơi, bồi bổ, dưỡng sức là nhu cầu bắt buộc phải có trong cuộc sống. Thiếu nghỉ ngơi, bồi bổ và dưỡng sức sự sống bị hao mòn trước khi tắt ngủm.
Hay nóng giận, nổi quạo một cách vô cớ, phê bình, chỉ trích không lý do, là dấu hiệu báo động cho biết người đó đang bị căng thẳng. Căng thẳng gây nên bởi hai lý do chính. Một đến từ trong con người. Hai đến từ bên ngoài. Dù đến từ trong hay ngoài đều nguy hiểm cho cuộc sống. Căng thẳng xảy ra vì thiếu niềm tin vào Chúa.
Lý do trong ta
Tiền tài, tham vọng, tài sức riêng, và tính kiêu ngạo là lý do nội tại tạo nên mối căng thẳng cho mình và cho người khác.
Lý do ngoài ta
Xã hội sa đoạ, luân lí suy đồi vì gạt Chúa ra ngoài. Gia đình sào sáo, tranh quyền. Chúa đóng vai phụ trong cuộc sống. Môi trường thích hợp cho căng thẳng phát triển. Bao lâu người ta còn chối tình yêu Chúa, bấy lâu thân xác họ còn là những hầm mỏ chứa căng thẳng, tị hiềm, ghen ghét. Thể xác phải gánh chịu những đớn đau, dằn vặt đó.
Để tiêu diệt thù trong, giặc ngoài, nghi kị, hằn thù. Để tâm hồn tìm lại bình an, thể xác thảnh thơi, thoải mái, tình người đề cao, nhân phẩm coi trọng.
Sống tình Chúa yêu ta là điều không thể thiếu.
Thiếu yêu thương
Căng thẳng phát sinh không phải do công việc nặng nhọc. Nó bộc phát bởi điều kiện bên ngoài tác hại con người bên trong. Điều kiện bên ngoài do con người tác tạo. Xã hội có người gây căng thẳng; lại có người chữa trị căng thẳng. Có người chữa vì lòng yêu mến. Cũng có người lợi dụng làm giầu trên lo lắng, đau khổ của kẻ khác. Kết quả kẻ là nạn nhân; kẻ là tác giả gây căng thẳng. Cũng có trường hợp tác giả cũng chính là nạn nhân, thật đúng câu: gậy ông đập lưng ông. Sở dĩ có tình trạng tréo cẳng ngỗng như thế vì người ta từ chối, không đón nhận tôn thờ một Thiên Chúa yêu thương. Chối bỏ tình yêu Chúa con người không biết cách diễn tả tình yêu chân chính. Tưởng hành xử như thế là yêu nhưng thực ra phản lại tình yêu. Chúa là Đấng duy nhất dậy ta biết cách diễn tả tình yêu trọn hảo nhất. Ngoài cách Chúa dậy, mọi cách khác đều không trọn hảo.
Các ý kiến mâu thuẫn trong việc giải thích tình yêu. Ý nào cũng tự hào là đúng nhất. Điều gì bảo đảm cách này đúng hơn cách kia? Thưa, sức mạnh đồng tiền và vũ khí. Giầu, mạnh hơn đúng nhiều; nghèo, yếu hơn đúng ít. Tiền và vũ khí gieo oán hận, tang thương. Nơi đâu có ân oán, tang thương; nơi đó vắng bóng tình yêu chân chính. Khi có nhiều ý kiến nghịch nhau giải nghĩa chữ yêu thì cần phải chọn lựa.
Chúa là Đấng duy nhất đủ thẩm quyền dậy về tình yêu. Chính Con một Chúa làm gương tình yêu cho nhân loại soi. Mọi kêu gọi hy sinh trái với giới luật yêu thương của Chúa đều là gương giả hiệu. Từ chối lời Ngài là chọn sống trong tình trạng không biết Chúa. Không biết Chúa thì không biết yêu như Chúa yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Chúa chết để cứu chuộc ta nên tình yêu Ngài ban tặng là tình yêu chân thật.
Ân tình Chúa
Đức Kitô đưa ra lời khuyên cụ thể, xác thực. Lời khuyên đơn giản, cần thiết cho cuộc sống. Ngài biểu lộ tình yêu bằng cách lo lắng cho hạnh phúc của con người.
Tình yêu Chúa biểu lộ qua Tin Mừng.
Người rao giảng Tin Mừng, khuyên các ông nghỉ cho lại sức c.32
Đại chúng khi Ngài thấy họ bơ vơ nên chạnh lòng thương c.34
Nơi thanh vắng
Nơi thanh vắng là nơi không có người. Dù vắng người nhưng người tới đó không cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Nơi thanh vắng là nơi Đức Kitô gặp Chúa Cha. Nơi thanh vắng Kitô hữu gặp
– Lại mình – Tha nhân – Gặp Chúa.
Đến nơi thanh vắng để tâm hồn được thanh thản, thân xác bình an. Cách chữa bệnh bằng phương pháp tự nhiên này rất công hiệu cho mọi người. Không cần phải thầy thuốc. Chỉ cần nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Nơi thanh vắng không cần phải xa xôi, hẻo lánh. Nơi gần, tốt, an toàn và thanh vắng nhất chính là con tim mình. Nơi con tim cảm thấy yên tâm, thoải mái. Không còn bồn chồn, giao động, toan tính mà là yên tâm, bình an. Chính lúc thư giãn, yên tâm là lúc tâm hồn gặp được Chúa. Tâm hồn được bồi dưỡng bằng sức mạnh thần thiêng. Sức mạnh thần thiêng có khả năng tăng sức cho thân xác. Nơi thanh vắng là nơi cầu nguyện tốt.
Tâm hồn xao động không có bình an. Bất an không thể phục vụ. Có yêu Chúa chỉ là yêu bằng môi mép. Chúa không muốn điều đó.
Quân này yêu Ta bằng môi, miệng còn lòng chúng thì xa Ta’. Mt 15, 8
Nơi thanh vắng giúp ta nhìn lại bước đường đã qua. Kiểm lại bước chân lung lạc trên đường về quê trời. Nơi thanh vắng giúp ta nhìn vào chính mình, học hỏi, xem lại cách sống, cách đối xử với tha nhân và với Đức Kitô.
Xin giúp con xác tín ngoài Chúa ra không có tình yêu chân chính.
Một Giám mục gần Sao Paulo (Thủ đô Brasil) đã biết rõ tinh thần của phong trào Focolare (Bác ái TN 16-B145
Một Giám mục gần Sao Paulo (Thủ đô Brasil) đã biết rõ tinh thần của phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Ngài muốn tinh thần tốt đẹp ấy cũng được thâm nhập vào giáo phận của ngài. Ngài mời một nhóm linh mục của nhóm Focolare đến giảng tĩnh tâm. Họ đã đến, nhưng ngay những ngày đầu tiên họ gặp phải một sự chống đối rất nặng nề và cảm thấy trở ngại rất nhiều trong việc giảng huấn. Sau đó, vào giờ nói chuyện với các linh mục, họ nhận ra rằng giữa các linh mục và Giám mục có một sự căng thẳng rất trầm trọng. Họ trình bày với Đức Giám mục về chuyện đó, ngài hứa sẽ sẵn sàng xin lỗi các linh mục trong Thánh lễ ngày mai về những khuyết điểm sai lầm và bất công trong suốt thời gian qua. Ngài muốn sống đúng theo câu khuyên của Chúa: “Khi con dâng lễ, nếu chợt nhớ ra có ai bất bình với con, hãy để lễ vật đó trước bàn thờ rồi đi làm hoà với anh em con trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật.” (Mt 5,23-24).
Trong Thánh lễ, Đức Giám mục đã khiêm tốn xin lỗi cộng đoàn linh mục, nhưng điều đó vẫn không mang lại một kết quả nào. Ngài hiểu rằng cần phải tiến thêm một bước nữa. Ngài tìm đến từng phòng để nói chuyện riêng với mỗi linh mục. Cử chỉ này đã làm cho các linh mục rất đỗi xúc động. Các ngài bắt đầu cởi mở, trình với Đức Giám mục hết mọi khó khăn, mọi vấn đề của các ngài. Các ngài bộc lộ hết tâm hồn mình cho Giám mục và chấp nhận Giám mục như là người anh, như chính Chúa Giêsu, và tạo nên một sự cảm thông sâu xa giữa hai bên. Trong tuần phòng đó, tất cả đã trở nên một đại gia đình, và cuối tuần phòng, Đức Cha đã có một quyết định quan trọng: Ngài thay đổi cách thăm viếng. Từ nay, ngài sẽ ở lại chung sống hai ba ngày với từng linh mục trong mỗi giáo xứ, để tạo một bầu khí huynh đệ giữa linh mục và Giám mục. Và từ đây các linh mục cũng rất ước mong đến ngày Đức Giám mục đến thăm xứ mình. ( ĐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng )
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh sử Maccô thuật lại chuyến trở về của các Tông Đồ được sai đi, tụ tập quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!” Nghỉ ngơi là tĩnh tâm dưỡng sức, tìm về cội nguồn, sau thời gian hăng hái dấn thân phục vụ, mệt mỏi thân xác, lao xao con tim, cạn kiệt tinh thần và đuối sức tâm linh. Cuộc tĩnh tâm của các Linh mục và Đức Giám Mục ở gần Sao Paulo phản ảnh phần nào trích đoạn trên.
Về nguồn
Sau mỗi ngày cật lực giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu luôn lui vào nơi vắng vẻ nghỉ ngơi dưỡng sức. (Lc 5, 16 & 9, 10) Chẳng phải thảnh thơi nhàn hạ vui hưởng gió mát trăng thanh, mà để hội ngộ với Thiên Chúa Cha, tâm sự, giãi bày mọi chuyện, dâng lên cả thành công lẫn thất bại trong ngày. Khấn xin thêm sức mạnh, can đảm tiếp tục dấn thân cho sứ vụ cứu chuộc nhân loại.
Đức Giêsu đã nêu gương cầu nguyện hàng ngày, đồng thời luôn tha thiết mời gọi tất cả mọi người đến cùng Người: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30)
Mỗi dịp tĩnh tâm, mỗi Thánh Lễ, mỗi giờ chầu, mỗi lời kinh, mỗi buổi suy gẫm, mỗi dấu Thánh Giá, đều là những giây phút cầu nguyện, giây phút trở về Thiên Chúa, cội nguồn sự sống. Cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng ân được sống, được nhận biết Chúa, được làm con Chúa, được bình an.
Vào nơi cô tịch, vắng vẻ tâm sự với Chúa. Không quên dâng lên Người những việc lành phúc đức, hy sinh, cùng thân thưa hối cải những lỗi lầm, vấp phạm đến anh em và tha nhân. Người sẽ luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn yêu thương an ủi, chỉ dạy, chăm sóc, hướng dẫn, băng bó những thương tích, xoa dịu nỗi khổ đau thất bại, chia sẻ nỗi oan ức, cũng như khích lệ những thành công. Người soi sáng, thức tỉnh cho biết đâu là Thánh Ý mầu nhiệm. Người thử thách, trui luyện, trắc nghiệm xem người Kitô hữu chọn Chúa hay chọn công việc, chức tước, quyền lực? Có nhận vơ thành công làm thành tích cá nhân mình hay không? Có chán nản, buông trôi khi thất bại, vì kiêu căng bất khả chiến bại chăng?
“Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. “ ( Đường hy Vọng, số 118 )
Tận hiến
Mặc dù cùng các Tông Đồ xuống thuyền đi lánh riêng một nơi hoang vắng, để tĩnh dưỡng, nhưng ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đẩu dạy dỗ họ nhiều điều. Thởi khóa biểu bị đảo lộn, chương trình, kế hoạch thay đổi bất ngờ, chỉ vì quá thương yêu mà dấn thân tận tụy phục vụ nhu cầu rất chính đáng. Tình yêu xả kỷ vị tha, toàn tâm toàn lực hoàn toàn dâng hiến cho tha nhân. Sẵn sàng từ bỏ ý riêng để thực hành Thánh Ý Chúa. “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39) Hy sinh tất cả phúc lợi cá nhân để phục vụ tha nhân đang mất phương hướng, thiếu người. Người chính là Thiên Chúa Tình Yêu.
“Tại sao tận hiến cho Chúa, mà con so sánh mình với người đời, phàn nàn vì thua sút điều này, điều nọ. Con tiếc vì làm tôi Chúa thiệt thòi sao?” ( Đường Hy Vọng, số 116)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa, luôn dành thì giờ siêng năng cầu nguyện khi sáng thức dậy, ban tối trước khi ngủ, cũng như trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc trong ngày, luôn nhớ Chúa hiện diện, chúc lành và thánh hóa cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt chúng con vào nơi hoang vắng mà nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, an ủi, cứu giúp chúng con thoát khỏi đám đông hỗn tạp, xô bồ, ô nhiễm, ồn ào, sặc mùi kim tiền, của cải, vật chất, lợi danh phù phiếm, hưởng lạc, sa đọa. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu chúng con được hồi tâm phục sức sau bao gian lao, thử thách, ban cho chúng con luôn tràn đầy Tin Cậy Mến, lòng nhiệt thành, can đảm theo Chúa đến cùng. Amen.
“Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt”.
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau: Vào năm 1982, khi quân TN 16-B146
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau:
Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương. Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều chào hỏi niềm nở với chúng tôi.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em
Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người khác chúng ta mới hiểu và thông cảm với họ. Đó là bài học mà chúng ta cần phải học hỏi và rút ra từ chính cuộc đời của Chúa Giêsu để có thể sống đúng luật bác ái của Ngài. Để cảm thông với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã hoá thân làm người, và khi làm người, Ngài chọn kiếp sống nghèo hèn cũng như sống thân thiết với người nghèo. Thiên Chúa muốn nên một với con người, nhất là những người nghèo hèn cùng khổ, những người bị gạt bỏ ra ngoài lề của xã hội.
Bài Tin Mừng hôm nay đã ghi lại sự cảm thông ấy của Chúa Giêsu trước tiên là với các Tông Đồ. Ngài biết các ông đã rất mệt mỏi sau chuyến đi công tác về, và không đợi các ông ngỏ ý, Ngài đã khuyên các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Còn đối với đám đông, Thánh Mac cô đã tóm gọn: “Ngài động lòng thương”. Trái tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa như đang từng giây, từng phút bừng cháy một ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa cảm thông và trìu mến đối với tất cả mọi người chúng ta.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em, Chúa Giêsu xuống thế làm người là để sống và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người. Có lẽ ai trong chúng ta ít nhất cũng đã hơn một lần được nghe các đoạn Tin Mừng nói về:
– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của Lazarô và Ngài đã cho sống lại.
– Chúa Giêsu động lòng thương trước sự hối cải của tên trộm trên đồi Calvê và hứa ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.
– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của một thanh niên con bà goá ở thành Na-in và Ngài đã cho anh ấy sống lại.v.v.
Qua những việc làm cao cả đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài, đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn tỏ bày cho chúng ta nhân tính đích thực của con người. Không thể làm người mà không biết xúc động, cảm thông trước những đau khổ của người chung quanh.
Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông thì giống cánh”. Chúng ta là dân riêng của Chúa Giêsu, là học trò của Chúa Giêsu, và là con cái của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta đã học đựơc nơi Ngài điều gì để xứng đáng được gọi là học trò của Ngài? Chúng ta đã nên giống Ngài ở điểm nào để xứng đáng được gọi là con cái của Ngài ?
Vậy qua bài Tin Mừng hôm nay, tất cả mỗi người chúng ta cần phải nhìn lại xem:
– Đã bao lần ta thực sự cảm thông trước lầm lỗi của người khác?
– Đã bao lần ta thực sự chia sẻ trước những đau khổ của người khác?
– Đã bao lần ta thực sự động lòng thương trước những người ngày ngày lê lết ngoài phố chợ kia chưa?…
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta phải không ngừng học hỏi Đức Giêsu là Thầy của chúng ta để sống cho ra người, sống cho xứng đáng với phẩm giá con người, chính mỗi người chúng ta phải biết rung động và cảm thông trước những đau khổ với người khác, biết chia sẽ nổi khổ của người khác, biết lấy nổi khổ đau của người khác làm của chính mình. Nếu chúng ta thể hiện được những việc như thế, chúng ta mới xứng đáng là những người trò, người con của Đức Kitô sống để làm chứng cho lòng thương xót, sự cảm thông và tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, và có lẽ chúng ta cũng cần khẳng định rằng đó chính là sứ vụ, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu dưới lòng trần thế. Amen.
ĐỨC GIÊSU, HIỆN THÂN LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Thưa quý vị.
Lòng tôi như lửa thiêu khi ngồi viết những hàng chữ này. Giả tỷ có phép màu nào khiến tôi tránh TN 16-B147
Lòng tôi như lửa thiêu khi ngồi viết những hàng chữ này. Giả tỷ có phép màu nào khiến tôi tránh né được những ý nghĩ đầu tiên ập đến qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay, thì hay biết mấy. Đặc biệt bài đọc 1 trích từ sách tiên tri Giêrêmia khiến tôi nôn nao bất an. Thay cho Thiên Chúa, ông than vãn: “Khốn nạn những mục tử làm cho đoàn chiên ta phải lạc lõng và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa.” Tôi đọc những chữ đó, khi đang làm việc tại trung tâm rao giảng Aquinô. St. Louis, vào cuối tháng sáu vừa qua. Cùng thời gian hội đồng Giám Mục Hoa kỳ tiến hành hội nghị bán niên, cũng tại thành phố này. Chỉ cách chỗ tôi làm việc vài trăm mét. Ngoài tình hình dai dẳng về gương mù lạm dụng tình dục, lại có tiết lộ tầy trời về giám mục địa phận Phoenix bị tố cáo đã từng giết một khách bộ hành rồi chạy tội. “Còn có thể tệ hại hơn được nữa không?” Tôi buồn phiền ta thán. “Trong đời như một tín hữu của Hội thánh, tôi không thể nhớ có bao giờ phải tủi nhục, xấu hổ hơn lúc này.” Tuy nhiên, sự thật vẫn phải phơi bày, không ém nhẹm mãi được nữa. Bổn phận của tôi là một nhà giảng thuyết.
Và ngay cả khi tôi muốn giấu giếm thì bài đọc 1 Chúa Nhật 16 hôm nay cũng không để tôi yên thân. Thiên Chúa buộc tội các mục tử hư hỏng của Israel. Sách Giêrêmia gộp chung các vua chúa, quan quyền, tư tế thời ấy vào một từ: “mục tử”. Đáng lý họ phải là những gương mẫu về hạnh kiểm, luân lý trong dân, thì thực tế họ lại đứng đầu những kẻ phá hoại luân thường, đạo lý, ăn ở trác táng, dâm dật, tham nhũng, bê tha khét tiếng. Thiên Chúa đã chỉ định họ dẫn dắt dân tộc đi trên các đường nẻo của Ngài, làm dụng cụ hữu hiệu cho Ngài, thì họ đã tuân theo mệnh lệnh của xác thịt, quỷ dữ và thế gian làm cho dân Ngài gian nan, điêu đứng! Báo trước những tai hoạ khủng khiếp sắp ập xuống chư dân và đất nước! Thiên Chúa muốn các mục tử cai trị dân Ngài trong an bình thịnh vượng, bênh đỡ những kẻ nghèo hèn cơ khổ, những người bị áp bức, không tiếng nói, thì họ làm ngược lại, đàn áp, bóc lột, đoạ đầy… Khi tiên tri loan báo những điều trên, thì quân đội Babylon đã tiến sát đến gần biên giới Israel và cuộc lưu đày đã bắt đầu. Triều đình tan rã, thành quách, làng mạc bị tàn phá là điều không tránh khỏi. Vấn đề chỉ còn là thời gian. Trước khi các tai hoạ qua đi thì Giêrusalem và đền thờ đã là đống tro tàn, đổ nát. Một khi cấp lãnh đạo sai lầm, làm trái lề luật Thiên Chúa, thì hậu quả trên dân chúng và quê hương là tàn khốc. Lệ thường xưa nay vẫn thế. Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
Tình hình Giáo hội Hoa Kỳ hiện nay là điều lặp lại hoàn cảnh đất nước Do thái thời tiên tri Giêrêmia, tuy ở mức độ nhẹ hơn. Vẫn biết số linh mục, giám mục gây nên gương mù, gương xấu là ít, đa phần vẫn trung thành với ơn gọi và nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên xì-căng-đan vẫn ương ngạnh “trơ gan cùng tuế nguyệt” trước mắt cộng đồng thế giới. Rất nhiều tín hữu Hoa kỳ đã bị thương tổn đức tin và danh dự. Nhiều “con chiên” đã tản mác và lạc lõng. Tờ thời báo New York ngày 2.7.2003 trang 14 đưa tin một sự giảm sút lớn về số người tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, kể từ khi nổ ra các vụ lạm dụng tình dục. Thường thì trong tổng địa phận này tỷ lệ người đi lễ Chúa nhật khá cao. Năm nay giảm thêm 14 phần trăm, kém hơn năm ngoái. Dân số trong tổng giáo phận là 2,1 triệu. Số người tham dự thánh lễ hàng tuần chỉ còn chưa đầy 300 ngàn. Kéo theo nó là giảm sút về ngân sách tài chánh. Tài chánh để duy trì các cơ quan từ thiện và giáo dục! Các trường của tổng giáo phận cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Nói chung, thiệt hại là quá to lớn vì lỗi lầm của một số nhỏ lãnh đạo!
Mặc dù bức tranh ảm đạm, tiên tri Giêrêmia cũng báo trước một tia hy vọng cho dân Do thái. Điều này cũng làm cho chúng ta ngày nay phấn khởi. Lỗi là về phần các cấp lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Tai hoạ phải xảy đến để chống lại họ. Nhưng Thiên Chúa vẫn hứa ban cho tuyển dân một tương lai tươi sáng. Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Thu thập “đoàn chiên còn sót lại từ khắp các miền Ta đã xua chúng đến, sẽ đưa chúng về đồng cỏ tươi tốt, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở thật nhiều.” Để làm tròn lời hứa đó, Thiên Chúa sẽ ban cho Israel những mục tử trung thành, biết chu toàn bổn phận của mình. Đặc biệt Ngài sẽ gởi đấng Thiên sai, con cháu David đến chăn dắt dân Ngài: “Này sẽ tới ngày Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà David một chồi non chính trực.” Như thế bất chấp thời hiện tại đen tối, Israel sẽ có một triều đại mới, tươi sáng hơn. Tôi hy vọng Hội thánh bây giờ cũng vậy. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài, những tín hữu vô tội. Nhưng Ngài sẽ canh tân họ, thu gom thành những cộng đồng thờ phượng mới, với những cấp lãnh đạo trung tín. Phải chăng đó là đường lối ân sủng hoạt động? Khi mà chẳng còn hy vọng nào cả, chỉ có thất bại và chết chóc, thì uy quyền Thiên Chúa tỏ hiện, đảo ngược tình hình. Ngôn sứ Giêrêmia rao giảng chống lại vua chúa và tư tế Israel là hợp lý. Ông mạnh mẽ tố cáo những thối nát của triều đình và các quan chức, là cứu vãn đất nước và tuyển dân. Bởi lẽ họ đang bị tội lỗi của các cấp lãnh đạo làm tan tác. Tình trạng đó khiến Thiên Chúa chạnh lòng thương. Ngài lại giơ tay cứu giúp và có sẵn một dự phóng cho dân. Dự phóng này được ứng nghiệm đầy đủ nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu thực chất là lòng thương cảm của Thượng đế thể hiện bằng xương thịt cho các môn đệ- những mục tử đích thật rao giảng nhân danh Chúa Kitô, và cho các tín hữu- những linh hồn tản mác cần được quy tụ và nuôi dưỡng. Như vậy Chúa Giêsu còn lớn hơn một dự phóng. Ngài là lòng xót thương của Thiên Chúa được cụ thể hoá thành một ngôi vị giữa loài người. Cho nên, trong bài phúc âm hôm nay, Ngài bày tỏ cho nhân loại biết, mục tử tốt là gì? lãnh đạo trung tín là gì? và tuyển dân mới là thế nào? Ngài đã sai phái các môn đệ đi rao giảng, dậy dỗ và chữa lành trong tư thế khó nghèo cùng cực (chúa nhật tuần trước) và bây giờ họ trở về rất thành công. Họ là những mục tử kiểu mới, đúng nghĩa, thay thế cho các mục tử cũ, thối nát: “Khi ấy, các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.” Nghĩa là họ đã truyền đạt cho dân chúng đúng những gì họ học được nơi Chúa Giêsu, không thêm không bớt. Họ làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao (bởi đã được sai đi từng hai). Lúc này họ cần nghỉ ngơi, hồi sức bên Chúa Giêsu. Dân chúng dồn dập tuôn đến nơi họ nghỉ, nhưng Chúa Giêsu trông thấy nhu cầu tái sinh của các môn đệ cần thiết hơn, nên thầy trò xuống thuyền đi đến một nơi vắng vẻ. Các môn đệ đã làm việc xuất sắc đến kiệt sức. Họ không thể tiếp tục sứ vụ nếu không được bồi dưỡng thêm nơi kho tàng vô tận của Chúa Giêsu?
Trên đất nước chúng ta nhiều linh mục, giám mục, giáo dân, cũng từng hoạt động lương thiện và cật lực như các tông đồ thưở xưa. Họ cũng đã từng là những vị thánh. Thật đáng buồn một số ít đã làm ô danh họ, nhơ bẩn danh thơm tiếng tốt của Giáo hội bằng lối sống buông thả. Điều thiệt hại lớn nhất tôi thấy được hiện nay là tiếng nói luân lý của Hội đồng giám mục Hoa Kỳ bị hạ thấp, không còn được đánh giá cao như hồi xưa nữa. Lúc trước, tiếng nói của các ngài về các vấn đề đạo đức như hoà bình, công lý, ngừa thai, phá thai, di cư, môi trường… rất nặng ký, được xã hội lắng nghe và kính nể. Nay không còn nữa. Gương xấu của số ít đó bịt miệng các ngài. Trong quá khứ, khi đi rao giảng tôi thường trưng dẫn các giám mục và uy tín của các vị về những đề tài quan trọng. Bây giờ thì thấy ít hiệu quả. Tiếng nói ngôn sứ của Hội đồng giám mục Hoa Kỳ đã bị thiệt hại năng nề vì hạnh kiểm tồi tệ của một số ít giáo sĩ. Đúng lý thì không phải như thế. Nhưng chí ít tôi cảm thấy như vậy khi giảng thuyết.
Sau khi lướt qua bài đọc 1, tôi quay về với Phúc âm, hy vọng tìm thêm được vài tư tưởng vui cho vơi bớt nỗi phiền muộn. Đúng thế, tôi nhận ta lòng thương xót kép nơi Chúa Giêsu. Thứ nhất Ngài yêu thương các môn đệ, đang mệt mỏi. Họ đã được sai đi làm tông đồ và đã hết tâm chu toàn nhiệm vụ. Lúc này họ cần trở lại vị thế học trò xin Chúa dạy bảo thêm và bồi dưỡng thêm. Để giữ được mục tiêu, lòng nhiệt thành rao giảng, dạy dỗ, chữa lành họ cần một thời gian “lánh riêng ra chỗ thảnh thơi hoang vắng và nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng Ngài vẫn không quên nhu cầu cấp thiết của đám đông dân chúng. Sở dĩ Chúa khuyên các môn đệ nghỉ ngơi, cũng là vì lợi ích của đám đông. Để có thể thay thế Ngài đắc lực hơn, hiệu quả hơn, các Tông đồ cần canh tân nội tâm và lấy lại sinh khí. Việc này chỉ có thể thực hiện được khi các vị tách riêng ra chỗ thanh vắng, sống mật thiết với Ngài.
Đây là bài học lớn cho các vị giảng thuyết tân thời. Điều quí vị cần làm là ngày càng qui chiếu về Chúa Giêsu qua cầu nguyện và tĩnh tâm. Không thể cứ liên tục rao giảng, bất cần những giây phút truyện vãn riêng tư với Thiên Chúa, mà có thể đạt tới thành công. Hiệu quả của quí vị phần lớn nhờ vào những giây phút cầu nguyện, sống thân mật với Thiên Chúa. Nói cho đúng, Chúa Giêsu kêu gọi tất cả chúng ta, những tín hữu của Ngài, làm mục tử cho các thế hệ mai sau, cho toàn thể nhân loại, con cháu, xóm làng. Chúng ta có trách nhiệm trên gia đình mình như những mục tử. Tất cả đều được sai đi, ăn nói và hành động nhân danh Chúa Giêsu. Cho nên tất cả đều cần những giây phút “tách riêng ra” sống mật thiết với Chúa. Toàn thể Giáo hội lúc nào cũng cần canh tân và hoán cải. Mỗi người tín hữu đều có vai trò trong công việc này, để thúc đẩy tăng trưởng thiêng liêng cho thế giới. Nghĩa là tìm ra những giây phút yên lặng với Chúa Giêsu. Bởi lẽ chỉ Ngài mới có quyền năng chữa lành và phục hồi những chi tội lỗi đã làm tổn hại. Đó chẳng phải là điều Ngài làm khi chúng ta rời bỏ công việc bận rộn thế tục để chạy đến với phép Thánh Thể? Nơi đây, Chúa Giêsu giúp đỡ chúng ta hàn gắn những vết thương chia rẽ trong Giáo hội. Nơi đây, Ngài chữa lành và nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Mình Máu Ngài. Nơi đây, chúng ta có thể trực diện với cơn bão táp tấn công Mẹ Hội thánh, làm chứng nhân cho hy vọng, cậy trông, và tiếp tục rao giảng, dạy dỗ, chữa lành mà không hổ thẹn.
Từ bài đọc 1 và 3 chúng ta học được rằng: đám dân đói khát và phân tán chẳng thể tự thân tự họp và giải quyết những nhu cầu của mình, họ cần Thiên Chúa ra tay cứu giúp. Qua tiên tri Giêrêmia Ngài ban lời hứa: “Chính ta sẽ quy tụ đàn chiên còn sót lại… Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành để lãnh đạo chúng.” Chúa Giêsu là hiện thân của lời hứa đó. Ngài không những giữ vai trò Mục Tử Tối Cao, mà còn huấn luyện các môn đệ, thay thế khi Ngài vắng bóng. Thiên Chúa không thể bỏ mặc Hội thánh tản mác, tan tác. Chúng ta phải vững tin điều ấy. Ngài sẽ làm tròn lời hứa với nhân loại. Ngài sẽ là mục tử duy nhất quy tụ chúng ta, chăn dắt chúng ta qua mọi cơn sóng gió. Cho nên hãy can đảm rao truyền cho mọi thế hệ rằng tương lai Giáo hội Hoa Kỳ và các Giáo hội khác vẫn tươi sáng ở phía trước. Amen.
Suy gẫm: Tiên tri Giêrêmia rao giảng dưới thời vua Sêđêkia. Sêđêkia có nghĩa là Thiên-Chúa-công-lý-của-tôi. Tên quá đẹp. Nhưng vua lại sống ngược với tên ấy.
CHÚNG TA LÀ TÔNG ĐỒ CỦA CHÚA. HÃY THỰC THI SỨ VỤ CỦA MÌNH
Hôm nay chúng ta thấy toàn hình ảnh người mục tử trong Kinh Thánh. Bài thánh vịnh hôm nay TN 16-B148
Hôm nay chúng ta thấy toàn hình ảnh người mục tử trong Kinh Thánh. Bài thánh vịnh hôm nay tóm lược tất cả hình ảnh đó: “Đức Chúa chăn dắt tôi, tôi không thiếu gì”. Chúng ta nhớ lại Thiên Chúa không ở xa chúng ta đâu. Các động từ trong thánh vịnh diễn tả các hành động của Thiên Chúa đối với chiên như: nuôi dưỡng, chăm sóc, dẫn dắt đến nơi nằm nghỉ; ở đó Thiên Chúa khuyến khích, cho lại sức, làm an dạ, và xức đượm dầu, ban cho sức lực để tiến ra nhân danh Ngài. Như trong bài phúc âm trước bài hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi giảng dạy và chữa lành. (Mc 6: 7-13)
Các lãnh đạo của dân Israel trước kia, các vua chúa, phải là mục tử của của dân. Họ phải là hình ảnh của Thiên Chúa, mục tử của Israel. Ngôn sứ Giêrêmia khiển trách các vua Israel lúc bấy giờ không làm đủ trách nhiệm vụ của họ với dân Giuda. Sự suy đồi của họ đã gây nên vụ tàn phá Giêrusalem và dân bị bắt đi lưu đày qua Babylon là một hình phạt.
Giêrêmia nhắc cho dân chúng biết là Thiên Chúa không quên họ, và Ngài sẽ đem họ trở về quê quán. Khi nào có một người tự gây đời sống hư hỏng thì người đó nghĩ là họ bị Thiên Chúa trừng phạt. Họ nghĩ họ không còn liên hệ với quá khứ, và cảm thấy như bị tù đày, không còn quê quán nữa như dân Israel ở Babylon. Họ cũng cảm thấy xấu hổ khi họ nghĩ đến Thiên Chúa, và bởi đó họ ngần ngại xin ơn tha thứ.
Những ai trong chúng ta có cảm nghiệm bị tù đày cách này hay cách khác, mặc dù chúng ta nghĩ chúng ta ra thế nào đi nữa, hay chúng ta cảm thấy ân hận về việc đã làm hay quên làm, chúng ta nên suy ngẫm lời ngôn sứ Giêrêmia. Nếu đặt trường hợp chúng ta là Thiên Chúa có lẽ chúng ta sẽ buông thả và chẳng muốn thay đổi. Nhưng chúng ta không phải là Thiên Chúa, và Giêrêmia nhắc chúng ta là Thiên Chúa, Đấng chăn dắt chúng ta, đã đi tìm kiếm thâu gom chúng ta về nhà. “Chính Ta, Ta sẽ tập hợp số còn sót của đàn chiên Ta từ mọi nơi. Ta đã xua chúng đến. Và sẽ đem chúng về đồng cỏ của chúng.” (Gr 23: 3).
Và hơn nữa, một khi Thiên Chúa đã đem chúng ta về, Thiên Chúa sẽ ở với chúng ta, và gìn giữ chúng ta khỏi sợ hãi, nhát đảm, hay mất mát “Ta sẽ cho chổi dậy những mục tử coi chúng” (Gr 23: 4). Thiên Chúa sẽ không để chúng ta tản mát và lạc lỏng giữa nơi hoang địa. Bài phúc âm hôm nay chứng tỏ lời hứa của Giêrêmia là sự Thiên Chúa lo lắng cho chúng ta đã hiện thể qua Chúa Giêsu, Vị Mục Tử của chúng ta.
Vì sao lại có người bỏ quê hương để đi tìm hơi hoang vắng? Ngay cả bây giờ, vì sao có người sau một ngày làm việc cực nhọc, lại đi tìm nơi ăn uống, bỏ nhà để đến nhà thờ giáo xứ để học về Kinh Thánh, hay về tông thư mới của Đức Giáo Hoàng, hay dự buổi giáo lý tân tòng v.v… Chúng ta có thể không đến nơi “hoang vắng theo nghĩa trừu tượng”, Nhưng chúng ta cũng như đám đông dân chúng trong phúc âm hôm nay: chúng ta khát khao, chúng ta muốn biết rõ nhiều hơn về Chúa Giêsu. Như Ngài đã làm cho dân chúng lúc bấy giờ, Ngài thu hút chúng ta đến với Ngài để Ngài giảng dạy. Điều chúng ta học hỏi thêm không phải chỉ về Ngài. Lý do thúc đẩy chúng ta đi tìm hiểu về Chúa Giêsu mà chúng ta biết bởi lời nói và hành động của các môn đệ thời nay, những Kitô hữu tầm thường như chúng ta, được giao trách nhiệm rao giảng và hành động nhân danh Chúa Giêsu.
Về cách kêu gọi, trong những đoạn sách khác của phúc âm thánh Máccô, những người theo Chúa Giêsu được goi là “môn đệ”. Nhưng hôm nay họ được gọi là “Tông Đồ”. Đây là chổ độc nhất trong phúc âm Máccô, họ được gọi như thế. Vậy điều gì làm cho lời mời gọi đó đặc biệt? Vì họ vừa trở về sau khi Chúa Giêsu sai họ đi rao giảng. Trước đó Chúa Giêsu sai họ đi từng hai người một (Mc6:7-13) và cho họ quyền giảng dạy và chữa lành. Trong khi chúng ta theo Chúa Giêsu, chúng ta là “môn đệ”. Khi chúng ta được sai đi giảng dạy và chữa lành thi chúng ta được gọi là “Tông Đồ”.
Chúa Giêsu đem các Tông Đồ trở về ra “nơi thanh vắng”. Chúng ta nhớ là sau khi Thiên Chúa cứu dân Israel ra khỏi nơi tù đày ở Ai Cập, Thiên Chúa dẫn họ ra nơi thanh vắng và cho họ thức ăn và nước uống. Và hơn nữa, trong nơi thanh vắng Thiên Chúa mặc khải chính Ngài cho họ và làm lời giao ước muôn đời với họ. Bây giờ Chúa Giêsu làm việc Thiên Chúa đã làm cho dân Ngài trong nơi thanh vắng. Chúa Giêsu dạy các ông “nhiều điều”. Nhưng điều này không có ý nghĩa là Chúa Giêsu giảng dạy lâu dài, buồn chán. Trái lại, Ngài dạy các ông như Ngài thường dạy “nhiều điều” về tình thương yêu và lòng lo lắng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Rốt cuộc mục tử sẽ giảng dạy và dẫn dắt dân Thiên Chúa.
Chúng ta cũng được mời gọi dạy dỗ như: phụ huynh, giáo chức, bạn bè, người dạy giáo lý và làm gương tốt. Chúng ta có rất nhiều dịp chia sẻ những hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa với những người cảm thấy họ đang ở “nơi thanh vắng” của họ, là nơi họ chán nản. do dự, buồn phiền, thiếu đức tin, nghèo nàn, thất nghiệp, mất người thân thương v.v… Nhiều người cảm thấy đang sống nơi “thanh vắng” tìm đến chúng ta để được cảm thấy sự lo lắng của Chúa Giêsu như Ngài đã lo lắng cho những ai như “các chiên không có người chăn dắt”. Tự chúng ta, chúng ta không đủ sức đáp ứng cho nhu cầu của họ. Nhưng, cũng như các Tông Đồ đầu tiên, chúng ta không tự làm một mình. Chúng ta đã được sai đi với quyền lực mà Thần Linh Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Chúng ta lãnh nhận Thần Linh đó qua Bí tích rửa tội, và giờ đây chúng ta nên nhớ là chúng ta được sai đi để làm Tông Đồ của Chúa Giêsu.
Con người rất yếu đuối. Hứa nhiều mà chẳng giữ đươc bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao TN 16-B149
Con người rất yếu đuối. Hứa nhiều mà chẳng giữ đươc bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Đúng là không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), và Chúa đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3). Rất nhiều thứ nguy hiểm vây quanh chúng ta hằng ngày, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6).
Ai cũng mong muốn được sống an bình thư thái, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể hạnh phúc nói: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” [Tv 22 (23):2-3]. Và rồi vui mừng với niềm tin tưởng thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” [Tv 22 (23):4]. Không nói Chúa cũng biết, nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó ra: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” [Tv 22 (23):5]. Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để cùng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” [Tv 22 (23):6].
Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu “và con tim đã vui trở lại” (ca khúc của Ns Đức Huy).
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Vì yếu đối, vì sa ngã, vì tội lỗi mà chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được Ngài thương nhận là con cái. Thật hạnh phúc biết bao! Đó là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân đời đời!
Con cái phải lìa xa cha mẹ là nỗi khổ, yêu nhau mà không được gần nhau là nỗi khổ. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Thật vậy, chính Ngài là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).
Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Công việc bận rộn, làm gì cũng mệt, làm ít mệt ít, làm nhiều mệt nhiều. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ để phục hồi thể lý mà quan trọng hơn là phục hồi tinh thần, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”.
Hôm đó, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời hay ý đẹp, dạy chân lý cao siêu, làm những việc kỳ diệu, mà chắc hẳn Ngài ăn nói rất có duyên và chí lý nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Chính Ngài đã từng khuyên nhủ: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16).
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế. Như Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17). Là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi trong đồng xanh yêu thương của Chúa khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con biết cùng dìu nhau vào Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Có thực mới vực được đạo”. Đó là câu người ta thường nói, cho thấy chuyện ăn uống là điều TN 16-B150
“Có thực mới vực được đạo”. Đó là câu người ta thường nói, cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết cơ bản nhất để duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường.
Chúa Giêsu là người rất thực tế. Ngài chăm lo từ những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, và chính Ngài cũng đã xác định tại Bêtania: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người ta khinh miệt, và vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống bình thường mà quan trọng. Điều đó liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…
Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).
Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.
Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).
Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.
Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.
Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Tuy nhiên, bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Ngài và thưa chuyện về việc cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn, vì ở đó hoang vắng và trời đã khá muộn. Nhưng Ngài nói tỉnh bơ: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!”. Mèn ơi! Các ông vừa gãi đầu vừa nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phh tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), gấp 10 lần số tiền ông Giuđa bán Thầy.
Ngài biết các ông chỉ có nước “bó tay” mà thôi, thế nên Ngài bảo các ông đi xem có mấy chiếc bánh. Khi dò hỏi, họ thưa với Ngài là có năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh, ngồi thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Rồi Ngài cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng, cả hai con cá cũng được chia đều như vậy. Ai nấy đều ăn và được no nê, người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông. Nếu tính cả số phụ nữ và trẻ em “ăn theo”, con số có thể lên tới chục ngàn người.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta thấy rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”.
Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…
Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng con người, đồng thời an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ giàu lòng xót thương. Amen.
THIÊN CHÚA MỜI GỌI
Được làm người là lời Chúa mời gọi Cố nuôi dưỡng và sống trọn đức tin Sống yêu thương chân thành cả con tim Biết trắc ẩn, chạnh lòng thương người khác Sống khiêm nhu, biết chấp nhận thua thiệt Sống đoàn kết huynh đệ một gia đình Biết phục vụ, dấn thân và quên mình Sống đại lượng, mọi chuyện đều tha thứ Sống cương trực, quyết bảo vệ công lý Vì chân lý, sống trong hy vọng luôn Sống đơn sơ, giản dị và nhân hiền Thu nhỏ mình để Thiên Chúa lớn mạnh