Phúc Âm: Ga 6, 1-15: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư. Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng TN 17B-51
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
1. Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực. Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái, đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127, 1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn, chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
2. Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người. Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh em mình.
3. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Yêsu, cuộc sống của họ và của những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người thực tế không? Tại sao?
2. Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay vinh dự cho bạn? Tại sao?
Đọc những trình thuật về Phép Lạ Hóa Bánh Ra Nhiều của bốn sách Phúc Âm, Matthew: TN 17B-52
Đọc những trình thuật về Phép Lạ Hóa Bánh Ra Nhiều của bốn sách Phúc Âm, Matthew, Mark, Luke và John, tôi thấy Chúa Giêsu và các tông đồ đều có lòng quan tâm tới những nhu cầu của dân chúng. Thế nhưng sự quan tâm đến dân chúng của Chúa Giêsu thì khác với sự quan tâm của các tông đồ. Bạn có nhận ra sự khác biệt giữa hai sự quan tâm này không?
Các tông đồ đã QUAN TÂM tới những nhu cầu cấp bách của dân chúng: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” nhưng các ông không có HÀNH ĐỘNG tích cực để đáp ứng lại nhu cầu ấy. Các ông chỉ muốn giải tán đám đông dân chúng cho họ về, để họ tự động vào các làng mạc nông trại chung quanh, tìm chỗ trọ và mua thức ăn… (Mt 14:15, Mk 6:35, Lk 9:12).
Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã QUAN TÂM tới những nhu cầu bức thiết của đám đông dân chúng “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” và liền sau đó Ngài đã có HÀNH ĐỘNG đáp ứng lại nhu cầu của họ ngay lập tức: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn … Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”(Mt 14:16, Jn 6:10).
Mà không phải chỉ có một lần đâu! Chúa Giêsu đã rất nhiều lần QUAN TÂM đến những nhu cầu của tha nhân và có những HÀNH ĐỘNG rất cụ thể để đáp ứng lại những nhu cầu của họ.
• Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và [sau đó Ngài] chữa lành các bệnh nhân của họ (Mt 14:14). Ngài đã quan tâm tới những nỗi đau đớn do bịnh tật gây ra của họ và ra tay chữa lành!
• Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mk 6:34). Ngài đã quan tâm tới những nhu cầu thiếu thốn về tâm linh và dạy dỗ dân chúng.
• Khi Đức Giê-su [thấy] người ta khiêng con trai duy nhất của một bà goá đi chôn … Ngài chạnh lòng thương … lại gần, sờ vào quan tài và nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! " Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ (Lk 7:12-15). Ngài đã quan tâm tới nỗi đau khổ của bà mẹ mất con và liền ra tay xoá đi nỗi đau đớn của bà.
• Khi thấy cô Maria khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc… Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến … Người đi tới mộ… kêu lớn tiếng: "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” (Jn 11:33-42). Ngài đã quan tâm tới nỗi đau đớn và mất mát của hai chị em Mattha & Maria và ra tay phục hồi sự sống để hoàn lại niềm vui cho hai bà.
Bạn thấy không? Chúa Giêsu luôn luôn QUAN TÂM tới, và có những HÀNH ĐỘNG rất cụ thể để đáp ứng lại những nhu cầu của tha nhân. Còn chúng mình thì sao? Bạn và tôi đã biết quan tâm và có những hành động cụ thể để giúp đỡ tha nhân hay chưa?
Có phải rất nhiều lần tôi đã quan tâm tới những nhu cầu của tha nhân nhưng tôi lại không có những hành động cụ thể nào để đáp ứng lại những nhu cầu của họ, phải không?
• Khi xem TV, nghe Radio, đọc báo… tôi thấy nhu cầu cần sự giúp đỡ về tài chánh cho các trẻ em khuyết tật, mồ côi, mù loà…. Thế nhưng tôi chỉ biết chép miệng: “Tội nghiệp quá!” Tôi đã không mở hầu bao ra để gởi một chút quà để các cơ quan thiện nguyện có phương tiện giúp đỡ cho các em kém may mắn đó.
• Nghe ban chấp hành của hội đồng giáo xứ báo cáo về tình hình tài chánh thiếu hụt của cộng đoàn, tôi đã lắng nghe chăm chú và nói: “Xin Chúa chúc lành cho công việc mục vụ của các cha!” Nhưng tôi đã không có một hành động cụ thể nào để giúp đỡ cho giáo xứ, ví dụ như dâng cúng tiền bạc một cách rộng rãi hơn.
• Thấy ông (bà, cha, mẹ…) của tôi đón xe bus đi nhà thờ, đi chợ, đi thăm bạn bè, tôi đã quan tâm tới các ngài: “Trời lạnh lắm, nếu ông (bà, ba, má…) đứng đón xe bus thì sẽ bị bịnh, lỡ té một cái thì sẽ khổ lắm…” Nhưng tôi đã không lái xe đưa đón, hay gọi taxi cho các ngài!
• Thấy vợ, thấy chồng, thấy con cái mệt mỏi và bơ phờ sau một ngày làm việc, tôi đã quan tâm tới họ bằng cách hỏi: “Em (anh, con..) mệt quá hả, ngồi nghỉ một chút đi nha.” Rồi sau đó tôi tỉnh bơ ngồi xem TV, đọc báo, internet, chơi game… chẳng phụ giúp chi vào những công việc trong bếp, trong nhà…
Đấy! Bạn để ý một chút xem, có rất nhiều lần chúng mình đã quan tâm tới tha nhân nhưng chúng mình chỉ biết dừng lại ở mức độ THƯƠNG CẢM. Tôi và bạn đã không hành xử như Chúa Giêsu: Biết QUAN TÂM và có những HÀNH ĐỘNG cụ thể để giúp đỡ cho tha nhân.
Ước mong rằng trong những ngày tháng sắp tới, bạn và tôi, chúng mình sẽ bắt chước và biết noi gương Chúa Giêsu biết quan tâm và có những hành động thật cụ thể giúp đỡ cho những người chung quanh: cha, mẹ, chồng, vợ, con cái…
• Chỉ khi nào sự QUAN TÂM & HÀNH ĐỘNG đi liền với nhau thì lúc đó đức ái mới trở nên trọn vẹn và tuyệt hảo.
• Chỉ khi tôi và bạn biết QUAN TÂM & CÓ NH”NG HÀNH ĐỘNG giúp đỡ tha nhân thì lúc đó chúng mình mới trở thành những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
Bạn có muốn đức ái của bạn trở nên trọn vẹn và tuyệt hảo không? Tôi đề nghị với bạn là hãy chạy đến với Đức Mẹ và xin Mẹ chỉ bảo cho bởi vì Mẹ là mẫu gương tuyệt vời trong việc QUAN TÂM & HÀNH ĐỘNG giúp đỡ tha nhân. Thật đấy!
• Khi nghe tin bà chị họ mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa để giúp đỡ cho bà Elizabeth (Lk 1:39).
• Khi thấy gia đình của đôi tân hôn lâm nguy vì thiếu rượu trong bữa tiệc cưới, Mẹ đã ra tay hành động bằng cách ngỏ lời với con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi” (Jn 2:4)
Bạn có muốn người ta quan tâm và có những hành động cụ thể giúp đỡ bạn khi bạn gặp gian nan khốn khó không? Nếu bạn muốn thì bắt đầu từ ngày hôm nay bạn hãy bắt chước Chúa Giêsu, hãy QUAN TÂM đến những nhu cầu của tha nhân và có những HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ để giúp đỡ họ bởi vì “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lk 6:31).
Bài giải thích về đoạn Tin Mừng phụng vụ Chúa nhật xvii THƯỜNG NIÊN (30-7-.2006) này: TN 17B-53
Bài giải thích về đoạn Tin Mừng phụng vụ Chúa nhật xvii THƯỜNG NIÊN (30-7-.2006) này, do cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng của Phủ Giáo hoàng:
Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi
Qua nhiều Chúa Nhật, bài Tin Mừng trích từ bài diễn văn của Chúa Giêsu về bánh hằng sống trong hội đường Capernaum, Thánh Sử Gioan qui chiếu về đó. Đoạn của Chúa Nhật này đến từ sự hoá bánh và cá ra nhiều, đó là một dẫn nhập vào bài diễn văn Thánh Thể.
Không phải là chuyện ngẫu nhiên mà sự trình bày về Thánh Thể bắt đầu với tường thuật về sự hoá bánh ra nhiều. Điều được khẳng định với sự hoá bánh ra nhiều là, trong con người, chiều kích tôn giáo không thể tách rời khỏi chiều kích vật chất. Không thể lo cho những nhu cầu thiêng liêng và đời đời cho con người mà không quan tâm, đồng thời, tới những nhu cầu trần gian và vật chất của con người.
Chính xác điều cuối cùng là cơn cám dỗ của các tông hồi nảy giờ Trong một đoạn khác của Tin Mừng người ta đọc chính các ông đã gợi ý cho Chúa Giêsu cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.
Nhưng Chua Giêsu đã trả lời: “Chính anh em hãy cho họ ăn!” (Mt 14:16). Nói như vậy, Chúa Giêsu không xin các môn đệ làm những phép lạ, Người xin các ông làm điều các ông có thể làm. Để làm của chung và chia sẻ điều mỗi người có. Trong toán học, phép nhân và chia là hai phép đối nghịch, nhưng trong trường hợp này hai phép đó là một. Không có “sự hoá nhiều” mà không “chia phần” (chia sẻ)!
Sự liên kết này giữa bánh vật chất và thiêng liêng thì thấy rõ trong cách Thánh Thể được cử hành trong những ngày đầu Giáo Hội. Bữa Tiệc của Chúa, lúc đó gọi là “agape,” diễn ra trong bối cảnh một bữa tiệc huynh đệ, trong đó cả hai bánh thường và bánh Thánh Thể đều được chia sẻ.
Đó là lý do tại sao những sự khác biệt giữa một người không có gì ăn và một người hoá say sưa” thì được coi là gương xấu và không thể chấp nhận (1 Co 11: 20-22). Ngày nay Thánh Thể không còn cử hành trong bối cảnh một bữa ăn thường, nhưng sự mâu thuẫn giữa những kẻ có cái dư thừa và những kẻ thiếu điều cần thiết không giảm sút, điều còn hơn, nó phô trương những chiều kích bao trùm.
Về điểm này, phần cuối tường thuật cũng có một cái gì dể nói với chúng ta. Khi tất cả đã ăn no rồi, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miềng thừa kẻo phí đi.”
Chúng ta sống trong một xã hội mà sự phí của là thường. Trong 50 năm, chúng ta đã đi từ một tình huống trong đó người ta đi học hay là đi lễ Chúa Nhật xách giày của mình cho tới ngưỡng cửa, hầu không làm rách chúng, cho tới một tình huống trong đó những đôi giày gần như còn mói lại bị loại hầu thích ưng với mốt thay đổi.
Sự phí của gương xấu nhất xảy ra trong phạm vị lương thực. Sự nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp U.S tiết lộ rằng một phần tư sản xuất lương thực hằng ngày biến thành rác, không nói tới lương thực bị phá hủy cách hữu ý trước khi nó tới chợ.
Hôm đó Chúa Giêsu không nói: “Hãy hủy những miếng dư thừa kẻo giá bánh và cá sẽ hạ trong chợ.” Nhưng đó là điều ngày nay được thực hiện cách chính xác.
Dưới ảnh hưởng của quảng cáo lập đi nhắc lại, “Hãy tiêu hủý đi, đừng để dành chi!” ngày nay là qui tắc trong nền kinh tế.
Dĩ nhiên, để dành không đủ. Sự khôn ngoan phải cho phép các cá nhân và các xã hội những xứ giàu, ở cho quảng đại hơn trong việc giúp đỡ những xứ nghèo, bằng không điều đó xem ra là hà tiện hơn là khôn ngoan.
Mầu nhiệm Nước Trời thường được Thánh Kinh diển tả bằng hình ảnh “Bữa Tiệc”, bữa tiệc Thiên: TN 17B-54
Mầu nhiệm Nước Trời thường được Thánh Kinh diển tả bằng hình ảnh “Bữa Tiệc”, bữa tiệc Thiên Chúa khoãn đãi muôn dân muôn nước trên núi Si-on với ê hề rượu ngon thịt béo, bữa tiệc thường xuyên với Manna rơi xuống để nuôi dân lang thang suốt 40 năm trường trong hoang mạc, bữa tiệc đám cưới mà những cô khôn ngoan nhờ dầu đèn đầy đủ đã được ung dung tham dự, bữa tiệc của người cha già mừng đứa con đi hoang trở về hội ngộ, bữa tiệc của Gia-kê lần đầu tiên vinh dự được gặp Thầy, và như hôm nay, bữa tiệc đơn giản ngoài trời trên bãi cỏ của hơn năm ngàn thực khách vì khao khát lắng nghe Lời Chúa bất chấp hoang mạc, đường xa với nắng gió và những cơn đói khát quay quắt. Và trên hết, là bữa Tiệc Vượt Qua của năm 30 thế kỷ thứ nhất, khi Giao Ước Mới chính thức được ký kết với Bánh Rượu được trở nên Mình và Máu của Con Thiên Chúa làm người, trở hành Hy Tế Tạ ơn mà hôm nay chúng ta đang cử hành.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng đáng tham dự Bàn Tiệc Thánh.
Giảng Lời Chúa.
1. Khi tình thương trở thành phép lạ:
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã nhìn thấy một đám đông bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không kẻ chăn và Ngài đã chạnh lòng thương xót họ, thì Chúa Nhật hôm nay, phát xuất từ trái tim “chạnh lòng thương đó”, Chúa Giêsu lại quay về với đám đông đang lẽo đẽo theo Ngài với cái bụng đói quay quắt đã khiến Ngài dâng trào một mối bận tâm: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Từ trái tim “chạnh lòng thương” tới mối “bận tâm thực hiện”, quả thật con đường của Thiên Chúa đến với loài người bao giờ cũng dẫn tới phép lạ. Từ phép lạ “Manna, chim cút, mạch nước Meriba… trong những ngày lang thang nơi hoang mạc”, đến phép lạ “20 chiếc bánh lúa mạch nuôi cả trăm người của tiên tri Ê-li-sa” (BĐ 1), hay như Tin Mừng Gioan kể lại hôm nay, phép lạ từ “năm chiếc bánh và hai con cá trong tay của một em bé” trở thành bữa tiệc khoản đãi phủ phê mấy ngàn thực khách…tất cả đều muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa không bao giờ lãnh đạm, thờ ơ trước thân phận đói khổ lầm than của nhân loại, như Lời Ngài phán với Môsê: “Ta đã thấy nổi khổ của Dân Ta”, hay như tâm tình dạt dào thương mến đã hóa thành lời nơi môi miệng Đức Kitô; “Ta thương xót đám dân nầy…”.
Để hiểu rõ căn cớ làm sao mà con người lại vật vã kiếm tìm miếng cơm manh áo, và đói khát triền miên cái hạnh phúc hôm nay và vĩnh hằng, thiết tưởng chúng ta phải quay về “tấm bảng chỉ đường” của Lời Chúa trên chặng đường lịch sử cứu rỗi.
2. Bóng dáng địa đàng hôm qua và hình ảnh Nước Trời đang tới:
Đã mang kiếp sông người trần mấy ai mà không một lần mơ ước có một “địa đàng hạnh phúc ngay trên thế gian nầy”. Thì ra, đã có một thời con người được Thiên Chúa cho sống trong vườn địa đàng, một thời vàng son ắp đầy hạnh phúc (St 2, 8-9.15-16). Nhưng rồi điều không may đã xảy ra, địa đàng khép lại, khi “bàn tay lông lá” của Satan thò vào phá đám (St 3,1-7). Chính vì thế, trong đáy sâu thân phận bọt bèo gian lao khổ lụy, con người vẫn ôm lòng luyến tiếc địa đàng xưa. Vã lại, cũng ngay từ cái buổi hồng hoang khi con người bị kết án đuổi đi khỏi địa đàng hạnh phúc, Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cứu độ. Và như thế, hình bóng Nước trời ở cuối tận chân trời lịch sử lại lóe sáng rạng ngời tia hy vọng (St 3,14).
- Nước Trời đó phải chăng là “bữa tiệc trên núi” với ê hề thịt béo rượu nồng mà Gia-vê hào sảng đãi no nê muôn dân muôn nước (I-sa-i-a 25,6-10)
- Nước trời đó phải chăng khi “sa mạc đồng khô cỏ cháy…đã tưng bừng nở hoa như khóm huệ…mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được…Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ…sẽ không phải đói phải khát, không bị khí nóng và mặt trời hành hạ, vì Đấng thương xót chúng sẽ hướng dẫn và đưa chúng đến những suối nước tuôn trào (I-sa-i-a 35,1-10; 49,10).
- Nước Trời đó phải chăng khi có những bước chân người loan báo Tin mừng “Chúa đang hiển trị”, và quân canh gác reo hò vang dậy khi thấy tận mắt “Đức Chúa đang trở về Xi-on, Giêrusalem điêu tàn hoang phế bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi Dân Người và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem” (Is 52,7-10)…
Những gì được tiên báo trong cựu ước cứ tưởng rằng chỉ là câu chuyện của huyền thoại, của những đầu óc hoang tưởng vẽ vời một địa đàng xa xôi để vỗ về cái thực tại não nùng của một kiếp nhân sinh đầy tràn thương đau khổ lụy.
3. Đâu là mối bận tâm của Thiên Chúa ?
Thế nhưng, mọi ước mơ và khát vọng, mọi tiên báo và ước hẹn cứ từ từ hiện thực và dần dần rõ nét. Cứ tưởng Thiên Chúa chỉ quan tâm thực hiện những “dấu lạ động trời” như những phép lạ tai ương đỗ xuống trên Ai Cập, như “Biển Đỏ dựng sóng nước thành đường đi”, như khói bốc lửa dậy khi ban Mười Điều răn trên núi Sinai, như tiếng kèn làm đổ sập thành Giê-ri-cô kiên cố… Không đâu, mối bận tâm thường xuyên và hàng đầu của Thiên Chúa lại chính là những chuyện chúng ta cứ nghĩ là “vụn vặt tầm phào”, những chuyện của đời thường, của kiếp sống mỏng manh, của những ước vọng bình thường, của những nhu cầu giản đơn cần thiết. Thiên Chúa đã trãi qua kinh nghiệm một “đời thường nhân loại với tất cả những lao tâm khổ tứ, cay đắng ngọt bùi, thương đau khổ lụy. Còn đó Bêlem với máng cỏ hang lừa, còn đó Nadarét với cái đục cái cưa của nghề thợ mộc, còn đó những bước chân mệt nhoài đói khát trên những nẻo đường cát bụi Palestina, còn đó những phút giây ngủ gà ngủ gật trên chiếc thuyền nhân loại bị sóng đánh tả tơi, còn đó chén thù chén tạc khi chấp nhận đồng bàn với những người anh em thu thuế và tội lỗi…Và rồi, còn đó cây thập giá với cái chết tũi nhục trên đồi Can Vê, còn đó quán trọ bên đường Emmaus hay bửa điểm tâm trên bờ hồ Tibêriát với tám bánh nướng thơm và vài con cá nhỏ…tất cả lại không là mối bận tâm của Thiên Chúa đó sao, tất cả lại không là “dấu lạ” đó sao ?
Thiên Chúa không quay lưng với những giá trị và nhu cầu vật chất. Chính vì thế, tràn ngập cả bốn cuốn Tin Mừng là những chuyện kể về “Dấu Lạ”, những Phép lạ ngang qua cuộc sống đời thường: mắt thôi mù để có ánh sáng, tai thôi điếc để nghe được âm thanh, phung cùi lành sạch để trở về hội nhập cuộc sống bình thường, rượu ngon thay nước lã để tân lang và tân nương khỏi bẽ mặt, những bệnh nan y được khỏi, kẻ chết sống lại để có được niềm vui và hy vọng…Và hôm nay, với mấy chiếc bánh kiều mạch và vài con cá nục của một em bé, Đức Kitô đã biến thành một bữa đại tiệc ắp đầy hân hoan no phỉ…
Thế giới hôm nay nào có khác gì; và Thiên Chúa cứ vẫn còn quan tâm chăm sóc từng ly từng tí qua Thánh Thần, qua Giáo Hội, qua những Tông đồ, qua chị, qua anh, qua tôi, qua những con người cùng đồng cảm với Ngài và sẵn sàng vâng lệnh Ngài “để lo cho họ ăn”, để sẻ chia và phục vụ. Bởi vì điều cốt yếu Đức Kitô nhắm tới không là “Bữa tiệc của trần gian”, không là thỏa mãn những nhu cầu vật chất và những khát vọng trần tục, mà chính là “Bàn Tiệc của Nước trời”, là hạnh phúc vĩnh cửu, là thiên đàng. Dấu lạ “bánh hóa nhiều hôm nay” chính là tiên báo “Bánh Trường Sinh” Ngài sẽ thực hiện vào Bữa Tiệc Vượt Qua ngày Thứ Năm trước khi ra đi chịu khổ hình thập giá để trở thành “Tiệc Thánh Thể” dấu chỉ của Bàn Tiệc Nước trời mai hậu.
4. Chút phần nhỏ bé của riêng mình trong tay Chúa:
Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu bức xúc của con người, cũng như để thỏa mãn lời réo gọi của con tim chạnh lòng nơi chính mình, Thiên Chúa ít khi muốn “độc quyền” thi thố dấu lạ. Ngài luôn cần những bàn tay nhân loại (Môsê, Đa-vít, Êlia, Esther, Giuse, Maria, Gioan Tẩy giả, Maria Mađalêna, Anê, Cecilia, Têrêsa, Anrê Phú Yên…). Đó chính là những “em bé” quảng đại, biết cho đi “chút phần nhỏ bé nhất của riêng mình” để Thiên Chúa làm nên điều kỳ diệu. Phải chăng, Thánh lễ hôm nay cũng lại là một “phép lạ” như thế đang chợt về ! Để từ đây, những “phép lạ của tình thương” lại nối tiếp trong thế giới, trong cuộc đời. “Phần nhỏ nhất trong cuộc đời” mà Thiên Chúa đang cần đến phải chăng là những điều Thánh Phaolô trong BĐ 2 hôm nay đề nghị: “Hãy sống xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban. Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”.
Nói cách khác, nếu mỗi người có được nhịp đập của trái tim Chúa Giêsu và sẵn sàng quảng đại trao vào tay Chúa chút phần nhỏ bé của riêng mình, thì mỗi ngày có trăm vạn phép lạ “bánh hóa nhiều” không phải chỉ để 5000 ngàn người no nê cơm bánh, mà để hàng hàng lớp lớp nhân loại tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống hôm nay và nắm chắc hạnh phúc trong Nước Trời mai hậu.
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể: TN 17B-55
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ được.
Web Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa anh chị em,
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.
Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh ban sự sống muôn đời.
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim: TN 17B-56
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan: TN 17B-57
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn riêng của mình.
Dẫn nhập (cc. 1-4)
Bài trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38; 21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với biến cố Xuất hành và với ông Môsê.
Dấu lạ (cc. 5-13)
Ngay từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.
Có hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42-44), hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định. Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh tươi của Tv 23,1-2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.
Chúng ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ cho mọi thế hệ Kitô giáo.
Bài trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.
Từ bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Mục tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này, Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng. Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao ban cho mọi người.
Phép lạ bánh hóa nhiều đã là cử chỉ của ngôn sứ Ê-li-sa vào thờii kỳ đói kém ở miền Pha-lệ-tinh, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ thì khiêm tốn.
Ga 6: 1-15
Phép lạ bánh hóa nhiều là cử chỉ của Đức Giê-su cho đông đảo dân chúng ăn thỏa thích mà trước đó Ngài đã nuôi dưỡng bằng lời của Ngài. Cử chỉ nầy tiên báo “ân ban bánh ban sự sống”.
Ep 4: 1-6
Ở Bài Đọc II, chúng ta đọc trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô lời tuyên xưng đức tin theo đó thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các tín hữu theo hình ảnh của sự hiệp nhất Thiên Chúa: chỉ có một thân thể, một Thánh Thần, một Đức Chúa, một niềm tin, một phép rửa.
BÀI ĐỌC I 2V 4: 42-44
Ngôn sứ Ê-li-sa, đồ đệ và người đồng hành trung thành của ngôn sứ Ê-li-a. Ông đã tiếp tục sự nghiệp của: TN 17B-58
Ngôn sứ Ê-li-sa, đồ đệ và người đồng hành trung thành của ngôn sứ Ê-li-a. Ông đã tiếp tục sự nghiệp của ngôn sứ Ê-li-a và sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc. Ông thi hành thừa tác vụ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai, sưu tập những tiểu sử vương triều (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), dành một chỗ lớn cho vai trò của các ngôn sứ. Vai trò tôn giáo: họ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa; họ tố cáo những nhiễm uế của dân ngoại và tất cả hình thức thờ ngẫu tượng; vai trò luân lý: họ lên tiếng chống lại bạo lực và bất công xã hội; vai trò chính trị: họ là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều giai thoại ý nhị nhất, những chuyện tích về các nhân vật như chuyện thật người thật. Ngôn sứ Ê-li-sa xuất hiện ở đây một chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với người phàm hơn, dù ông không phải kém thần thông biến hóa.
1. Thời kỳ đói kém.
“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố nầy không phải là hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pha-lê-tinh; chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se đi xuống đất nước của các Pha-ra-on. Đôi khi nhiều năm hạn hán liên tục. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm, và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ vào lúc diễn ra nạn đói này mà câu chuyện của chúng ta được định vị.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là của lễ đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu cho các tư tế hay “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ nên truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng vật: “có một người”; cũng không cho biết địa danh biến cố đã xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.
2. Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ chia sẻ ngay tức khắc những quà biếu cho mình và những quà biếu nầy sẽ hóa nhiều. Quà tặng nầy được biếu cho ngôn sứ Ê-li-a: qua cử chỉ của vị ngôn sứ của Ngài, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ bánh hóa nhiều từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bản văn của các sách Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su làm phép lạ bánh hóa nhiều từ năm chiếc bánh lúa mạch.
Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng nầy, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn ! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
“Cả trăm người” được hưởng thành quả của phép lạ nầy nầy là ai? Những người đồng hành của vị ngôn sứ và chắc chắn những người khác nữa. Cách nói “cả trăm người” hiển nhiên là biểu tượng, theo nghĩa “rất đông người”. Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu của những người túng thiếu vật chất. Quả thật, Đức Giê-su cũng vậy làm mãn nguyện nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Ngài chất chứa biết bao ý nghĩa: Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “chiếc bánh ban sự sống”: “Chính tôi là bánh ban sự sống. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II Ep 4: 1-6
Bản văn nầy chúng ta đã đọc rồi vào ngày lễ Thăng Thiên, với đoạn trích dẫn dài hơn (Ep 4: 1-13).
Xin nhắc lại rằng sau khi đã trình bày thần học liên quan đến mầu nhiệm cứu độ và Giáo Hội, thân thể của Đức Ki tô, thánh Phao-lô gởi đến các tín hữu của mình những lời khuyên bảo luân lý. Nhờ máu của Đức Ki tô đổ ra, người Do thái và lương dân trở nên một dân duy nhất, vì thế, mỗi tín hữu phải ra sức hiệp nhất với nhau.
Về phần chú giải đoạn thư nầy, tôi xin lấy lại ở Bài Đọc II Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên năm B. Thánh Phao-lô đã viết thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63.
Lời chào của bức thư nầy rất tổng quát gởi đến “các tín hữu trong Đức Giê-su Ki tô”, điều nầy khiến nghĩ rằng bức thư nầy nhằm lưu chuyển giữa các cộng đoàn (các cộng đoàn khác miền Tiểu Á).
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý và phần thứ hai về luân lý và khích lệ. Phần thứ hai được liên kết chặc chẽ với phần thứ nhất như một phần bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”.
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, thánh Phao-lô trước tiên nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm, như vậy thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ giảng dạy, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” như thánh nhân đã được chính Đức Ki tô mặc khải và truyền cho thánh nhân truyền đạt lại cho Giáo Hội của Ngài: trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.
2. Ơn gọi làm người Ki tô hữu.
Vì thế, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su trở thành mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki tô hữu gốc Do thái và những người Ki tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
3. Lời tuyên xưng đức tin.
Đoạn, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin được xoay quanh chủ đề duy nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.
Công thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.
Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa; đoạn sử dụng từ vựng rất gần với từ vựng của phái Khắc Kỷ.
Thiên Chúa của phái Khắc Kỷ, nguyên lý hiệp nhất, là “cha của muôn loài muôn vật”, Đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ.
Đức Ki tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài (chứ không nội tại) chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”.
Công thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo. Những suy luận nầy đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người và nhất là gán cho các thiên sứ trật tự vũ trụ.
TIN MỪNG Ga 6: 1-15
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã đọc đoạn trích Tin Mừng Mác-cô, theo đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng tuôn đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng lời ban sự sống của Ngài và tiếp đó, phép lạ bánh hóa nhiều, loan báo Ngài là bánh ban sự sống từ trời xuống. Nhưng đoạn trích Tin Mừng chỉ dừng lại ở nơi việc Chúa Giê-su ban lời Ngài cho dân chúng.
Tuy nhiên, đoạn trích Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Chúa Giê-su làm phép lạ bánh hóa nhiều cho dân chúng ăn no nê. Thay vì đó, phụng vụ đề nghi cho chúng ta đoạn trích Tin Mừng Gioan, cùng một câu chuyện với Tin Mừng Mác-cô. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện nầy để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “bánh ban sự sống”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật tiếp theo.
Phép lạ bánh hóa nhiều là một trong những phép lạ được viện dẫn nhiều nhất: nó là phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký tường thuật, thêm nữa thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô lại tường phép lạ nầy đến hai lần từ một dị bản khác: bảy chiếc bánh.
Quả thật phép lạ nầy đánh dấu đỉnh cao thừa tác vụ của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê.
1. Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ.
Bài tường thuật của Gioan bắt đầu thật bất ngờ. Trong chuyện kể trước Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem. Ngài trở về miền Ga-li-lê. Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng Ngài đến từ đâu?
Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ bánh hóa nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-sai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.
2. Đức Giê-su lên núi.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ. Ngài lên núi. Núi là nơi ưu tiên để đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, đỉnh núi cao của cuộc Biến Hình, ngọn đồi của phép lạ bánh hóa nhiều, vân vân.
3. Sắp đến lễ Vượt Qua.
Móc điểm thời gian nầy rất quý. Trước tiên nó giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại: từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm đến thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua.
Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su; đại lễ nầy làm cho cử chỉ của Ngài thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới ở đó một phép lạ bánh hóa nhiều khác được thực hiện, bí tích Thánh Thể.
4. Đức Giê-su thấy đông đảo dân chúng đến với mình.
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông nầy để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Ngài ngỏ lời với ông Phi-líp. Ông Phi-líp (chúng ta biết người môn đệ nầy chỉ nhờ Tin Mừng thứ tư) bày tỏ tâm trí rất năng động và thiết thực. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên sự thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông Phi-líp hỏi ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều nầy, có thể câu hỏi gây bối rối mà Đức Giê-su đặt ra cho ông Phi-líp: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một sự dí dõm: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất.
Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự, ông Phi-líp và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-sai-đa. Nếu phép lạ bánh hóa nhiều đã xảy ra gần Bết-sai-đa, thông thường Đức Giê-su hỏi những môn đệ biết rõ nơi nầy nhất để giải quyết vấn đề.
Dù thế nào, câu hỏi được nêu lên cho ông Phi-líp chỉ để thử ông: phải chăng ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, ông đành bất lực không thể nào chu toàn công việc nầy được hay ông nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su ?
Ông Phí-líp tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền lương của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn về người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”.
Vì thế, ông Phí-líp nhận ra về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
5. Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ.
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”.
Em bé trao tặng lương thực của riêng mình; như ngôn sứ Ê-li-a, ông trao tặng quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất, tự nhiên. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện như vậy đối với các bí tích.
6. Vị Mục Tử Mê-si-a.
Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pha-lê-tinh. Điều nầy không muốn nói rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi sao? Thánh Mác-cô gợi ra điều nầy. Đối diện với các vị lãnh đạo Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Mê-si-a tận tình chăm lo dân Ngài.
7. Dấu chỉ Thánh Thể.
Không ai chối cải được phép lạ bánh hóa nhiều đã làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy.
“Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ nầy tương tự với lời nói và cử chỉ của Tiệc Ly. Và chỉ một mình bánh được kể ra trong lời nguyện tạ ơn.
Tấm lòng chia sẻ và bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng tấm lòng chia sẻ và bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là tấm lòng chia sẻ và sự hiện diện hóa nhiều của thân thể vinh quang của Đức Ki tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
8. Mười hai thúng.
Như rượu được ban cho một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban cho một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai bộ tộc Ít-ra-en, và cũng là mười hai Tông Đồ đại diện dân Chúa chọn mới. Không phải những phần dư lại muốn nói rằng có chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa ăn Mê-si-a. Các sấm ngôn của các ngôn sứ (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), những Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Mê-si-a sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh tiên trưng bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng của niềm hoan lạc thiên giới cụ thể và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Mê-si-a và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
Phấn khởi trước vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không thấu hiểu dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế và muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”.
Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Mê-si-a chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng nầy của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều” (Mc 6: 52).
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô: TN 17B-59
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục bằng "bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas" trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: "Hãy cho họ có cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống "thường nhật" với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa bình", "công lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: "Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?". Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người "tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường "cơn đói của thể xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên Chúa" mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và "rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian".
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến", chờ một "giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những "công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: "Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta "đóng khung" Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: "Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng". Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con", để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ "giải phóng" chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người lui vào thanh vắng một mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu "Người là ai", là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên Chúa"? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện: TN 17B-60
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là "diễn từ về Bánh trường sinh" được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.
Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối.
"Sang bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu "lên núi " và “ngồi" đó với các môn đệ.
Người "nước mắt lên" và nhìn "thấy đông đảo dân chúng" đến với mình.
- Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
- Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
- Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.
2. Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể.
Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
+ Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê.
Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng.
Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
- "Làm sao mà đủ cho 100 người được? " người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi.
- Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ...", ông Phipphê trả lời.
Cùng ra lệnh bảo làm:
“Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh.
"Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Đức Giêsu bảo.
Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa:
"Họ ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai.
"Họ chất đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.
Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa.
+ Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành.
Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người.
Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào "ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57).
Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây" chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: "Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây? (Ds 11,3).
Nhưng X.Léon-dufour nhận xét thêm: "Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp "làm" đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay ("Lecture de l'Evangile selon saint Jean", cuốn 11, Seuil, trang 107).
Nếu Gioan thêm câu "Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy. Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.
Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể.
A.Marchadour nhận xét: "Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ hành Thánh Thể.
Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo" ("L'evangile de Jean", Centurion, trang 101)
3. Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian ".
Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: "Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”.
Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi "lên núi một mình”. Người không phải là "vi ngôn sứ" đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.
A.Marchadour kết luận: "Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình vì thế Gioan đã đẩy các môn-đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người" (O.C. trang 101)
BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một dấu" chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết"
Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?
Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều "người môn đệ Chúa yêu" trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho.
Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt" mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (NL 8.3b).
Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ "Bẻ Bánh" tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.
Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước "một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm Vua-cứu-tinh vậy".
2. “Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể”
(Mgr. L. Daloz, trong "Nous avons vu sa gloire". DDB, trang 130).
Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.
3. “Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”.
(H.Vulliez, trong "Dieu si proche. Năm B", Desclée de Brouwer, tr.76-77).
Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu!
Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực "trường tồn đem lại phúc trường sinh" (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh 'Thể".
Hai trăm đồng quan bánh cũng không đủ”: Số tiền quả là lớn vì một quan là tiền công của: TN 17B-61
"Hai trăm đồng quan bánh cũng không đủ”: Số tiền quả là lớn vì một quan là tiền công của một ngày làm việc (Mt 20,2; Lc 10,35).
"Nơi ấy có nhiều cỏ": Điều này xác nhận chi tiết nói rằng sắp đến lễ Vượt qua, vì lễ Vượt qua là thời kỳ duy nhất mà, sau những trận mưa mùa đông và trước cái nắng gay gắt của mùa hạ (bắt đầu từ tháng 5), người ta mới tìm thấy một ít cỏ ở Palestin.
"Bấy giờ Người trốn đi": Như sẽ nói trong phiên tòa Rôma rằng vương quốc Người không thuộc về thế gian (18,36), Chúa Giêsu lúc này từ chối đảm nhận một vương quyền theo như quần chúng quan niệm. Đó đã là một sự đoạn tuyệt với những quan niệm cách chung và thiên sai phàm trần
KẾT LUẬN
Đám dân đông đảo đến cùng Chúa Giêsu để có của ăn, tượng trưng cho hết những kẻ đói khát về phần thiêng liêng đang "đến với Người" qua đức tin để xin người thoa dịu cơn đói của họ. Ngoài Người ra, không ai có thể cung cấp cho đám đông ấy thứ bánh mà họ đang trông chờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
1. Trong đoạn hôm nay, ta khám phá ra một sự ám chỉ thường xuyên đến cuộc Xuất hành: việc vượt qua biển Galilê (hồ Tibêria) nhắc đến lần vượt qua Biển đỏ; bánh hóa nhiều gợi nhớ manna; những tiếng kêu ca của người Do thái (cc.41-43.52.60-61.66) nối tiếp những cuộc nổi loạn của người Hy bá chống lại Môisen trong hoang địa. Về phần ngọn núi, nó là phóng bản của núi Sinai. Sự nhấn mạnh rằng lễ vượt qua gần tới (c 4) đánh dấu vị trí của biến cố này đối với quá khứ (Lễ Vượt qua kỷ niệm Xuất hành), đối với hiện tại (lễ Vượt qua này là một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Kitô, và đối với tương lai (trong dịp lễ Vượt qua Do thái này, Chúa Giêsu sửa soạn cho một lễ Vượt qua mới, cho việc thiết lập Thánh Thể tại nhà Tiệc ly và cho việc cử hành nó cách mới mẻ trong Giáo Hội bằng Thánh lễ.
2. Từ một hoàn cảnh cụ thể, Chúa Giêsu đòi hỏi các sứ đồ một sự vâng phục của đức tin. Lương tri tự nhiên khiến Người hỏi Philipphê: Ta mua được đâu bánh cho họ ăn? Rồi Người trả lời: Hãy cho họ ngồi xuống. Các sứ đồ thi hành lệnh của Thầy, và chắc hẳn họ cũng tự hỏi cái gì sắp xảy đến. Có lẽ họ nghĩ rằng: với Thầy họ thì không nên tìm hiểu. Gioan viết: "Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho những người dùng bữa". Nhưng chắc chắn Người đã nhờ các sứ đồ làm công việc phân phát ấy. Thánh Mátcô thì bảo: "Người ban tiếp cho các môn đồ để họ thết đãi người ta" (6,41). Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đồ, trước sự bất khả, đã chống lại ý Chúa Giêsu? Có thể họ đã không phải là những cộng tác viên với công việc thần linh của Người. Thành thử ta thấy sự vâng phục của đức tin dẫn tại đâu. Nó làm cho kẻ tin trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa trong những công việc vô cùng vượt quá phương tiện loài người. Chúng ta có biết tuân hành những bổn phận mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là khi những công việc ấy vượt quá khả năng chúng ta?
3. Dù không bàn đến tính cách kỳ diệu của việc hóa bánh, người ta tuy vậy cũng phải lưu ý rằng phép lạ đã chẳng xảy ra từ số không. Chúa Giêsu đã cần đến năm chiếc bánh và hai con cá do một em bé nhường lại như là chất liệu đầu tiên xét một cách nào đó. Ngày nay cũng vậy, tất cả mọi của cải dư dật, để có thể thấu đến nhiều người, thì trước tiên đòi buộc một sự để chung các tài nguyên đôi khi lúc đầu rất ít ỏi. Cái làm no nê thỏa mãn mỗi một người trong chúng ta, không phải là số lượng sản vật tích lũy mà mỗi người chiếm hữu cho mình, nhưng là ban phát và chia sẻ các sản vật đó cho tha nhân và chính việc ban phát chia sẻ này làm tăng giá trị và hương vị cho của cải, làm lộ ra cứu cánh đích thật của chúng: nuôi dưỡng sự thông hiệp của chúng ta với tất cả mọi người. Chúng ta kinh nghiệm điều này trong nhiệm tích Thánh Thể. Sẽ không có việc hóa bánh ra nhiều về phương diện phẩm cũng như không có bữa ăn thỏa mãn còn đói của chúng ta nếu chính chúng ta không mang tới bánh riêng của mình và chia sẻ nó một cách huynh đệ. Nhưng chỉ Lời Chúa trong Kinh Thánh mới có thể biểu dương và tạo ra những chiều kích vô biên của tình huynh đệ ấy.
4. Vẫn biết Chúa Giêsu là vua, và Người sẽ khẳng định điều có trước Philatô (18,37), nhưng vương quyền của Người không thuộc về thế gian này (18,36) và Người không chịu để mình bị bắt lấy, bị tôn phong và thống trị như một quân vương trần thế. Người đến trong thế gian để chỉ làm chứng cho sự thật và thông ban sự thật cho chúng ta, không phải để thỏa mãn lòng khát vọng của cải và quyền lực của chúng ta. Người biết rằng Người sẽ lừa gạt chúng ta khi không cho chúng ta một thức ăn hư nát (x.6,26); người thấy phải giác ngộ chúng ta khỏi ý niệm sai lạc của chúng ta về đấu chỉ mà Người vừa thực hiện. Trong lúc này, Người chỉ có thể làm được việc đó bằng cách trốn đi; là Đấng đã hóa bánh ra nhiều, Người vẫn bất lực đối với những con tim khờ khạo và những dạ dày quá nô nê. Nếu chúng ta không nghe tiếng Người, thì người không muốn và không thể ngự trị trên chúng ta. Vương quyền của Người hệ tại chỗ giải phóng chúng ta nhờ sự thật (Ga 8,31-36). Nhưng, ngay cả khi tung hô Người như là vua chúng ta, thì chúng ta vẫn thường quá ao ước làm nô lệ của ăn trần thế và bắt Người phục vụ cơn đói của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta sẽ mất công năn nỉ Người, vì hãy biết rằng chúng ta sẽ không thể bắt Người làm vua chúng ta ta trái với ý Người được; Người sẽ chạy trốn chúng ta và chúng ta sẽ không bao giờ bắt Người lài được nữa, trừ phi chúng ta thực sự lắng nghe Người với tất cả tâm hồn chúng ta (6,63). Và bấy giờ Người sẽ tự biến thành Bánh bổ dưỡng nuôi chúng ta vượt qua đời này, sẽ thành Nước hằng sống, ánh sáng và Sự sống của ta.
5. Chúng ta đang sống trong một thời đại kỹ thuật mà xét trong toàn bộ chứ không xét trong chi tiết, là một thời đại do ý Thiên Chúa muốn. Vậy nếu chúng ta con thời đại chúng ta như một việc hóa bánh ra nhiều, thì chúng ta phải bảo rằng Tin Mừng hôm nay còn có nhiều điều muốn dạy chúng ta về thời đại kỹ thuật của chúng ta và về cuộc sống hoàn toàn cá nhân của chúng ta. Nếu không chúng ta cũng có thể thuộc vào số những kẻ đã góp phần một cách rất mầu nhiệm vào tội lỗi của thời đại này, cho dầu tội đó không có tên gọi trong các công thức xét mình của sách lễ chúng ta. Mỗi người đều góp phần tạo nên tinh thần của thế kỷ mình đang sống Và mỗi người đều có bổn phận sống trong thời này làm sao cho nó thành một thế kỷ mà trong đó Thiên Chúa có thể tin tưởng vào vẻ trong sáng của tâm trí chúng ta cũng như vào tình yêu của tâm hồn chúng ta đối với Ngài, và có thể ban cho chúng ta chính bánh của đời sống trần gian, ngõ hầu trong hoang địa của đời sống này, chúng ta nhận lãnh được bánh của sự sống vĩnh cửu đến thiên thu.
Hãy nhận biết rằng Chúa là Thiên Chúa chúng ta, Chúa dựng nên chúng ta, và chúng ta: TN 17B-62
“Hãy nhận biết rằng Chúa là Thiên Chúa chúng ta, Chúa dựng nên chúng ta, và chúng ta thuộc về Chúa. Chúng ta là dân của Chúa, là chiên trong đoàn chiên của Chúa…” (Thánh Vịnh 100)
Chúa phán:
“Các ngươi là chiên của Ta, là chiên trên đồng cỏ của Ta,
Và Ta là Chúa của các ngươi… (Êgiêkiên 34:31)
Chúa là người Cha luôn săn sóc đoàn chiên của Chúa qua các giai đoạn của lịch sử ơn Cứu độ. Khi Dân Chúa thóat khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, và phải vượt qua sa mạc khô cằn để tiến về Đất Hứa, Thiên Chúa đã làm “phép lạ Manna” để nuôi sống dân Chúa trong suốt 40 năm trường.
Hôm nay, trong Bài Đọc I (Sách Các Vua 4: 42-44), Tiên Tri Êlisê cũng được Chúa ban ơn để làm phép lạ phân phát 20 chiếc bánh lúa mạch cho cả trăm người ăn mà vẫn còn dư, dù môn đệ đã nói với Tiên Tri “chỉ có mấy tấm bánh như vậy, làm sao đủ cho cả trăm người ăn!”
Trong Bài Phúc Âm (Gioan 6: 1-15), khi Chúa Giêsu thấy dân chúng theo Chúa vào trong nơi sa mạc thanh vắng để nghe giảng dạy, và Chúa không muốn để họ ra về bụng đói, nên đã làm phép lạ hóa “năm chiếc bánh và hai con cá” cho cả một đám rất đông ăn, nguyên đàn ông đã tới 5 ngàn người. Dân chúng đã ăn no nê, mà còn dư 12 thúng bánh đầy. Đây là một phép lạ rất quan trọng đã được cả bốn vị Thánh Sử thuật lại (Mathêu 14: 13-21; Matcô 6: 35-44; Luca 9: 12-17; Gioan 6: 5-13). Chỉ có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, còn tất cả bốn Thánh Sử đều thuật lại giống nhau về các điểm chính như: năm chiếc bánh và hai con cá; số người ăn, nguyên đàn ông đã tới 5 ngàn người; số bánh dư là 12 thúng đầy. Đặc biệt chúng ta thấy cả bốn Thánh Sử đều ghi lại việc Chúa Giêsu “cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời, dâng lời cảm tạ, rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng…” Cử chỉ này làm cho chúng ta nhớ đến bữa ăn “Tình thương” khi Chúa Giêsu lập Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc hành trình đức tin qua sa mạc của đời sống, tiến về quê hương Nước Trời.
Trong tinh thần Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng dâng lời cảm ta Chúa là Cha Nhân Lành đã dựng nên chúng ta, đã dựng nên loài vật và muôn loài cây cối, thảo mộc để nuôi sống phần xác chúng ta. Không những thế, Chúa Giêsu còn hiến dâng chính mình trong Bí Tích Thánh Thể để luôn hiện diện thật sự giữa chúng ta và nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta cũng cầu xin cho chúng ta luôn biết sống hiệp nhất với nhau trong Tình yêu Chúa như Thánh Phaolô đã căn dặn chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Êphêsô 4: 1-6): “Anh em hãy lo gìn giữ sự hiệp nhất tinh thần, lấy sự bình an hòa thuận làm giây ràng buộc…Vì chỉ có một Đức Tin, một Phép Rửa, chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người…”
Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp nhất, và chỉ sống trong sự hiệp nhất yêu thương, tha thứ, chúng ta mới xứng đáng làm con Chúa là Cha chúng ta, và mới xứng đáng rước lấy Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Chúa Nhật tuần tới (Chúa Nhật XVIII Thường Niên, Năm B), các Bài Đọc Sách Thánh sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn về Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta ý thức hơn và thêm lòng sùng kính Chúa Giêsu ngự thật trong Hình Bánh và Hình Rượu, và cùng tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho mỗi người chúng ta, đặc biệt cho các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này.
Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc, Malaixia đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ: TN 17B-63
“Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc, Malaixia đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương… để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaixia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng”
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: “Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang.”
Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người và cho mọi người: “cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: “sống chết mặc bây, tao no trước đã.” Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy”
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, “hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình” (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giê-su muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giê-su, Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
Mỗi lần muốn tổ chức sinh họat cho một hội đòan nào, ở các cấp: trung ương, giáo phận, giáo: TN 17B-64
Mỗi lần muốn tổ chức sinh họat cho một hội đòan nào, ở các cấp: trung ương, giáo phận, giáo hạt, hay giáo xứ, vấn đề được đặt ra là kinh phí ở đâu? Vì dù muốn hay không, chỉ một cuộc cắm trại nhỏ cho các em thiếu nhi trong một giáo xứ thì số tài khỏan chi ra không phải là không đáng kể. Năm, mười triệu là chuyện thường, với những xứ khá giả thì còn tương đối dễ dàng, còn những xứ vùng xa xôi, nghèo nàn thì mọi chuyện không đơn giản.
Thời Chúa Giêsu và các Tông đồ so với ngày hôm nay cũng chẳng có gì khác nhau trong công việc thực hành bác ái Kitô giáo. Có khác là khác về không gian, thời gian, còn hòan cảnh thì tương tự nhau. Chúa Giêsu giảng dạy và người ta tấp nập kéo đến. Các Tông đồ làm việc cật lực. Tại các trung tâm hành hương, những nơi khám bệnh, phát quà miễn phí… luôn đông nghẹt người, các tổ chức, các tình nguyện viên cũng vất vả không kém gì thầy trò Chúa Giêsu. Và rồi cũng một vấn đề được đặt ra:”Ta mua đâu được bánh cho họ ăn?”(Ga, 5b). Các Tông đồ xưa cũng như những con người làm việc cho Chúa ngày hôm nay, nhiều lúc thấy mình không thể nào kham nổi. Hai con cá và năm chiếc bánh lúa mạch thấm vào đâu cho số khách hành hương trên năm ngàn người chưa kể đến phụ nữ và trẻ em. Phải chăng một bài tóan quá khó cho các môn đệ và những người dấn thân họat động cho thiện ích của mọi người, phong trào CARITAS của Giáo hội và Giáo phận. Nhiều khi công việc làm chỉ là”muối bỏ biển”, các tông đồ có lần đã đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông và ai nấy tự lo cho mình. Con người như thấy được giới hạn của mình, những chia sẻ trong những khi bão lụt, động đất, tai nạn… chỉ như những nhịp cầu cảm thông và gởi gắm vào đó những lời cầu xin với Cha trên trời. Khi con người không thể thì Thiên Chúa có thể, Philiphê và Anrê đều nhìn nhận họ không thể làm gì khác đi được để giúp cho mấy ngàn con người ta một bữa ăn lót lòng trên đường họ tìm đến với Chúa Giêsu. Năm chiếc bánh và hai con cá khi trao vào tay con người thì quá nhỏ bé, nhưng khi được trao vào tay Chúa Giêsu thì một sự kỳ diệu xảy ra:”khi họ đã ăn đầy đủ rồi, Ngài bảo môn đệ:”Hãy thu nhặt các mảnh vụn dư lại, kẻo có gì hư đi mất”(Ga 6, 12). Và mặc dù trên năm ngàn người đã được no nê:” Họ thu nhặt lại và đổ đầy mười hai giỏ mảnh vụn, do năm chiếc bánh lúa mạch người ăn còn để dư lại”(Ga 6, 13).
Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, trong các Thông Điệp của Ngài, luôn đề cập đến tình yêu và bác ái, tình yêu của Thiên Chúa và bác ái của con người. Con người được Thiên Chúa yêu thương và do đó khi đến lượt mình họ cũng được mời gọi chia sẻ tình yêu đó bằng những việc làm cụ thể đối với anh chị em của mình. Ta có thể nói những hành động bác ái của người Kitô hữu là hệ quả tất yếu của một tình yêu của những người kết hợp mật thiết với Thánh Thể của Chúa Giêsu và trong Chúa, nhờ Chúa và vì Chúa.
Tạm biệt tin mừng Máccô, chúng ta trở lại với Tin mừng Gioan trong trình thuật về việc Chúa: TN 17B-65
Tạm biệt tin mừng Máccô, chúng ta trở lại với Tin mừng Gioan trong trình thuật về việc Chúa hoá bánh ra nhiều. Nhìn chung, trình thuật này cũng như nơi Tin mừng Nhất lãm ít nhiều chịu ảnh hưởng của trình thuật về phép lạ hoá bánh ra nhiều của ngôn sứ Êlisê (x. 2V 4, 42-44). Tuy nhiên, nơi trình thuật của Tin mừng hôm nay còn bao hàm dụng ý thần học, chúng ta cùng tìm hiểu.
Trong Tin mừng, có một địa danh nhưng được gọi bằng nhiều tên. Đó là biển hồ Galilê. Vậy thì đây là biển hay hồ? Địa danh này nằm ở phía bắc xứ Palettine, thuộc miền Galilê. Tân ước thì gọi là biển Galilê, nhưng Cựu ước thì gọi là hồ Ghennêxarét (x. Lc 5,1 ; Gs 12,3). Đúng ra là hồ, vì nơi đây chứa một lượng lớn nước ngọt phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng. Sở dĩ người ta quen gọi là biển vì đó là cách gọi của ngôn ngữ Sêmít. Thánh sử Gioan còn gọi là hồ Tibêria. Lý do là vào năm 20 BC, vua Hêrôđê Antipa xây một thành ở phía nam hồ Galilê và đặt tên là Tibêria- tên của hoàng đế Roma Tiberius. Tại nơi đây, một lần nữa, chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng.
Chúng ta không biết lý do vì sao Chúa Giêsu lại hỏi ông Philipphê, chỉ biết là Chúa hỏi để “thử” ông vì Chúa biết phải làm gì. Trái lại, Philipphê thì không nghĩ như vậy. Ông bắt đầu tính toán, ước lượng để rồi sau đó là một kết luận đầy vẻ bi quan. “Có mua 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút”! Thật vậy, Philípphê bi quan cũng đúng thôi. Vì 200 đồng bạc lúc bấy giờ là một số tiền lớn. Chúng ta biết một đồng thời đó là tiền công của cả một ngày lao động vất vả (x. Mt 20,2). 200 đồng bạc tương đương với 200 ngày công. Đem tiền công của 200 ngày lao động để mua bánh cho một bữa ăn, điều đó cho thấy nổi lo lắng của Philípphê là có cơ sở đồng thời cũng cho thấy dân chúng đông đến cỡ nào! Phản ứng của Philipphê cũng giống như phản ứng của Môsê năm nào. Nó cho thấy tự sức, con người không tài nào giải quyết được chuyện gì nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, nỗi lo lắng của Philípphê phần nào được Thánh Anrê chia sẻ khi ông phát hiện một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá mang theo để làm lương thực cho gia đình. Chính từ đây, phép lạ xuất hiện. Phép lạ của Chúa Giêsu mang âm hưởng phép lạ thời Cựu ước và loan báo bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy đối chiếu phép lạ thời Ngôn sứ Êlisê và thời Chúa Giêsu để xem có những mối tương đồng nào:
Sự kiện
Thời Ngôn sứ Êlisê (2V 42-44}
Thời Chúa Giêsu (Ga 6, 1-15)
1. Không có cùng sự cân xứng. 2. Người trong cuộc tỏ vẻ lo lắng. 3. Cùng ra lệnh cứ làm theo. 4. Ăn vẫn còn dư.
- 20 bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị cho 100 người. - Chú tiểu đồng của Êlisê hỏi: “Làm sao cho đủ 100 người?” - Êlisê bảo: “Cứ phát cho người ta ăn”. - Họ đã ăn mà vẫn còn dư. - 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé cho 5000 người đàn ông - Philipphê trả lời: “Có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút”. - Chúa Giêsu bảo: “Bảo họ nằm ngã xuống đi”. - Dư 12 thúng đầy.
Nhìn vào bảng đối chiếu chúng ta thấy việc làm của Chúa Giêsu vượt trội hơn rất nhiều so với việc làm của ngôn sứ Êlisê thời Cựu ước. Chính phép lạ của Ngôn sứ Êlisê như là hình ảnh tiên báo về phép lạ mà hôm nay Chúa Giêsu thực hiện cho dân Người. Và, Chúa Giêsu chính là Môsê mới- người hằng quan tâm lo lắng cho dân chúng và chu toàn trách vụ Giavê giao phó. Câu hỏi mà Chúa Giêsu đã hỏi Thánh Philipphê như là lời vang vọng của Môsê xưa thân thưa cùng Thiên Chúa khi dân lẩm bẩm trách ông trong hoang mạc: “Con kiếm đâu ra thịt cho dân này ăn đây?” (Ds 11,13). Phép lạ đã được Thiên Chúa thực hiện để nuôi sống đoàn dân lữ thứ trong hoang địa xưa kia, nay cũng được tái hiện bên kia biển hồ Tibêria, nhằm giúp cho dân Người no lòng thoả dạ.
Lời lẽ của trình thuật “Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát” chính là những lời mà cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cử hành nghi thức Thánh thể. Như thế, trình thuật Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng không chỉ đơn thuần là một phép lạ mà còn là lời loan báo cho một nhiệm tích – rồi đây, chính Chúa Giêsu sẽ trở nên lương thực Thần linh nuôi sống dân Người.
Cậu bé trong Tin mừng hôm nay khi quảng đại dâng trọn vẹn lương thực của mình như là chất xúc tác để Chúa Giêsu thực hiện phép lạ khiến không ít người cảm động. Thật vậy, nói như Đức Gioan Phaolô đệ nhị trong lần người viếng thăm mục vụ Scotland năm 1982, rằng cậu bé đã trao cho Chúa tất cả những gì cậu có để nhờ đó, Chúa thết đãi cho đám đông ăn no mà vẫn còn dư. Đồng thời người còn kêu gọi các bạn trẻ trên toàn thế giới hãy trao phó cuộc đời vào tay Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ chúc lành và biến đổi cuộc đời mỗi người trở nên tốt đẹp vượt xa những gì họ đang ước vọng.
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa như cậu bé trong Tin mừng đã làm. Hãy nhớ phép lạ chỉ trở nên hiện thực khi chúng ta dám “cá cược” cuộc đời chúng ta vào tay Thiên Chúa để nhờ đó, Người sẽ làm nên những điều kỳ diệu. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có dám “trao thân gửi phận” cho Thiên Chúa hay không mà thôi.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên, vui mừng và thán phục Chúa: TN 17B-66
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên, vui mừng và thán phục Chúa bởi vì Ngài đã làm nhiều phép lạ ngoài sức tưởng tượng của con người.Phép lạ Chúa làm cho bánh và cá hóa thành nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn mà đọan Tin mừng của thánh Gioan tường thuật ngày hôm nay minh chứng cho nhân loại thấy quyền năng tuyệt vời của Chúa. Tại sao Chúa lại làm phép lạ ? Và phép lạ hôm nay nói gì với chúng ta, với nhân loại ?
MỘT PHÉP LẠ NGOÀI SỨC TƯỞNG TƯỢNG CỦA CON NGƯỜI:
Khi theo Chúa, có người thường chỉ trích, phê phán, đạo công giáo chỉ lo thiên Đàng, chỉ chú ý tới đây sau mà quên đi cái hiện tại. Không phải thế, nếu nghĩ như thế quả thực người ấy chưa hiểu gì về đạo công giáo, chưa hiểu gì về Đức Giêsu Kitô.Đọc Phúc Âm có lẽ người ta sẽ có cái nhìn khác, sẽ có đánh giá đúng hơn, công bằng hơn. Chúa không chỉ dạy con người ta chỉ biết đời sau mà ngược lại khi đi rao giảng, Chúa nói về nước Trời, về đời sau nhưng Ngài không quên cái thực tế đang diễn ra trước mắt, xung quanh và ở ngay bên Ngài. Chúa loan báo nước Thiên Chúa, nhưng Ngài chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền.Chúa quan tâm tới thân xác con người. Chúa đem lại ơn an bình và ơn cứu độ cho thân xác và tâm hồn của con người.Chúa đã nhập thể làm người, nên Ngài đã cảm nghiệm được thế nào là đói, thế nào là khát, thế nào là lạnh, thế nào là mệt mỏi.Đoàn lũ đông đảo dân chúng kiên trì đi theo Ngài sau nhiều ngày nghe Ngài rao giảng, lòng họ, tâm hồn họ phấn khởi, vui tươi, nhưng bụng họ thì đang đói. Chúa đã hiểu thấu cái đói khi Ngài ở trong sa mạc lúc Ngài ăn chay, cầu nguyện. Do đó, Chúa muốn đãi dân chúng hôm đó một bữa tiệc đơn sơ, bất ngờ nhưng ngon miệng và đầy đủ. Chúa gợi ý cho các môn đệ: ” Ta mua đâu được bánh cho những người này “ ( Ga 6, 5 ).Chúa đặt các môn đệ vào nỗi bận tâm của họ. Ngài cần sự cộng tác của các môn đệ và con người.Chúa cần Anrê giới thiệu với Ngài một em bé. Chính em bé trai dâng tặng Chúa bữa ăn trưa của em. Chúa cần các môn đệ ổn địng, sắp xếp chỗ ngồi cho dân trên bãi cỏ xanh. Nhờ Anrê, nhờ em bé với năm chiếc bành và hai con cá. Nhờ các môn đệ cộng tác.Phép lạ lớn lao, lạ lùng đã được thực hiện.Phép lạ này đã nằm ngoài sức dự tưởng của con người.Phép lạ hôm nay nói lên tình thương vô biên và sự quan tâm hoàn toàn con người của Chúa đối với con người, đối với tha nhân.
THẾ GIỚI MUÔN THỜI LUÔN CẦN ĐƯỢC CHIA SẺ:
Trên thế giới có người nghèo người giầu, có nước nghèo nước giầu.Thế giới cần được chia sẻ cho nhau để mọi người đỡ đau khổ, đỡ đói nghèo. Thiên Chúa đã dựng nên một trái đất tươi xinh, nhưng nghèo đói vẫn luôn có đó vì đó là thế giới con người. Thế giới con người chưa phải là hoàn thiện vì thế giới này chưa phải là thiên đàng. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa có thể làm no thỏa hơn 5.000 người ăn.Con người sẽ đẹp hơn và tốt hơn nếu họ biết chia sẻ, cảm thông và yêu thương nhau. Phép lạ sẽ xẩy ra, sẽ được thực hiện, nếu những người con Chúa biết chia sẻ cho nhau. Đừng bắt Chúa, đừng đòi hỏi Ngài phải làm phép lạ, nhưng trước hết, các Kitô hữu hãy biết cảm thông, chia sẻ cho nhau vì chính họ đã lãnh nhận Tin Mừng của Chúa là Tin Mừng của yêu thương và chia sẻ.Phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều dạy con người và nhân loại phải biết yêu thương, quan tâm và chia sẻ cho nhau.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Ở đâu cũng vậy, ở nước nào và ở thế giới muôn thời luôn cần đến những con người giầu lòng yêu thương, nhân đạo.Thế giới luôn cần những con người thiện nguyện dám hy sinh sống chết cho tha nhân. Thế giới luôn cần những bàn tay nhân ái, luôn cần những con tim mở rộng để chia sẻ và yêu thương. Những Phanxicô khó khăn, những Gandhi, những Albert Schweitzer, những Têrêsa Calcutta vv…quả đang là những tấm gương sáng chói để hướng dẫn và soi đường cho nhiều người ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương, chia sẻ góp phần nhỏ bé của chúng con vào công việc phục vụ anh em nghèo khó sống gần kề chúng con. Amen.
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ: TN 17B-67
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một chút sau cuộc truyền giáo đã thấm mệt, đồng thời Thầy trò trao đổi với nhau về công việc vừa qua, nhưng không thể được vì dân chúng kéo đến quá đông, khiến các Ngài không có thời giờ ăn uống. Đức Giêsu muốn đem các ông đến nơi thanh vắng để Thầy trò nghỉ ngơi và chỉ dẫn thêm cho các ông.
Nhưng vừa đến nơi thì dân chúng đã đến trước. Ngài chạnh lòng thương họ, bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ họ. Mà vì đây là nơi rừng vắng, nên dân chúng không tìm được thức ăn. Ngài thương họ đang đói khát nên làm phép lạ cho bánh hóa nhiều. Phép lạ này được kể trong thánh Marcô song Phụng vụ hôm nay mượn ở thánh Gioan.
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành.. Đám môn đệ giờ đây cũng mệt nhoài không hơn gì họ. Thế mà Đức Giêsu lại bảo các Tông đồ hãy cho họ ăn. Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn, giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông , không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn.
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
2. Sứ điệp Đức Giêsu gửi đến cho ta.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn mà Đức Giêsu muốn gửi cho chúng ta qua phép lạ này.
a) Tiên báo phép Thánh Thể.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi 5000 người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các” cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
b) Tình thương và quyền năng của Đức Giêsu.
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều của Tin mừng Gioan hôm nay – cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin mừng khác – đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay, thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Êlisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với tiên tri Êlisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng:”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Vietcatholic)
c) Tin vào Chúa quan phòng.
Theo sách Sáng thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý. Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn đdịa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng, phải làm việc cực nhọc mới có của ăn, nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn.
Vì thế, ta thấy tư tưởng này được viết trong sách Kinh Thư mà các dân tộc Đông phương vẫn tin tưởng:”Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc”: Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban cho. Thánh vịnh cũng có câu:”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”(Tv 144,16).
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa . Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì chỉ trong năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY CHÚNG TA.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều có mục đích thoả mãn cơn đói khát vật chất của đám dân chúng đi theo Chúa cả một ngày đàng, nhưng còn hơn thế nữa, phép lạ này còn đem lại cho chúng ta nhiều bài học thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
1. Cộng tác vào công trình của Chúa.
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh, nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc . Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu:”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”.
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết:”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Truyện: Mẹ Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng:”Ta phải làm điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng. ...
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước (Theo M. Link).
2. Cộng tác bằng việc làm cụ thể.
Lòng thương cảm là một tình cảm tốt. Nhưng thương cảm suông thì chưa có giá trị, chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng thương cảm nhiều khi trở thành hình thức hay giả dối, như người ta thường nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương, Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
Lòng cảm thương ấy cũng có, nhưng số người ra tay hành động vì lòng thương cảm lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu phương tiện. Các Tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói:”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu, và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Truyện: Thánh Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp mọt số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
3. Phải tiết kiệm những của Chúa ban.
Đức Giêsu đã nói:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận : Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban khi Ngài nói:”Tất cả là hồng ân”. Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy. Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các võ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy (Flor MacCarthy).
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú qúi. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào việc với niềm tin: dù chi với “năm chiếc bánh và 2 con cá”, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Ngài sẽ biến đổi khuôn mặt thế giới nên nhân bản hơn, Ngài sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tốt tươi hơn.
4. Phải tìm của ăn thiêng liêng.
Khi ma qủi đến cám dỗ Đức Giêsu đang chay tịnh trong bốn mươi ngày, Ngài đã trả lời cho hắn:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4). Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng.
Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần , nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất. Tuy người ta chê người lười biếng không chịu làm việc, nhưng cũng nói lên rằng: ăn ngon ngủ kỹ cũng chưa đủ mà còn phải có nhu cầu giải trí nữa:
Ăn no rồi lại nằm quèo, Thấy giục trống chèo, bế bụng đi chơi.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển. Linh hồn có một nguồn lương thực dồi dào và không bao giờ cạn kiệt, đó là Lời Chúa và Thánh Thể:
Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Lc 4,4).
Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,54-55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh lễ Misa. Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ , Chúa ban cho chúng ta được dồi dào sự sống trong hai nguồn sống ấy.
Thánh lễ được chia ra hai phần:
Phụng vụ lời Chúa: Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời:”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống”(Ga 6,63).
Phụng vụ Thánh Thể: Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta . Chúa thiết tha mời gọi:”Các con hãy nhận lấy mà ăn... Các con hãy nhận lấy mà uống”(Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).
Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Igatiô Loyola yêu chuộng:
“Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa”(M. Link).
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang: TN 17B-68
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của một đứa bé ngồi trên xe hơi vất xuống lề đường. Thằng anh chạy vội đến nhặt, nhưng bánh quá lấm láp bởi đất bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai rằng: “Anh hai thổi sạch rồi mình ăn”. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít: “Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh”. Thằng anh ngậm ngùi: “Ừ, tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!”
Chuyện quá ngắn mà lòng quặn đau. Chuyện không biết thực hư đến đâu? Nhưng cảnh đời người thừa thải đổ đi. Kẻ nghèo bòn nhặt lấy mà ăn thì vẫn còn quá nhiều ở xung quanh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta phải làm gì trong hoàn cảnh hôm nay?
Năm xưa Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đám dân theo Ngài. Họ nghèo đói tinh thần lẫn vật chất. Họ đói cơm và đói cả tình thương. Thiếu cơm thì không có bữa ăn ngon. Thiếu tình thương thì bữa ăn mất ngon và cuộc sống chỉ là những tháng ngày buồn chán và thất vọng. Hai vấn đề nhưng chung quy vẫn là một. Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì “bánh ngon bẻ đôi”, “chị ngã em nâng”, người ta sẽ sống đùm bọc lẫn nhau đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau” và ngay cả khi nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì “lá lành đùm lá rách”.
Chúa Giêsu đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì “lực bất tòng tâm”. Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: "Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.". Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !"
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính khó khăn đó để dạy các ông: hãy bắt đầu bằng nỗ lực của bản thân và chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất mọi sự trong tình yêu quan phòng của Ngài. Vì “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm, hàng ngàn tấm bánh. Với quyền năng của một vì Thiên Chúa có thể tạo dựng mọi sự từ hư vô. Ngài có thể làm tất cả nhưng Thiên Chúa lại muốn hành động ngang qua con người. Bởi vì con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Ngài muốn con người tiếp tục thay Ngài gieo yêu thương vào trong thế gian. Hay nói cách khác, con người được tạo dựng để yêu thương. Do đó, ai không yêu thương là vong thân, là đang chết dần trong ích kỷ và cô đơn. Người ta sống để yêu, mà không còn khả năng yêu thương, tức là con người đã mất giá trị đích thực của đời người.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Lịch sử còn đó những cuộc tương tàn huynh đệ. Bởi thiếu tình yêu người ta đã đối xử bất khoan dung với nhau. Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó hàng ngàn người chết vì chiến tranh và nghèo đói. Họ đã chết bởi sự vô tâm đến tàn nhẫn mà con người dành cho nhau. Chính trong giờ phút này, trên thế giới vẫn có biết bao trẻ em chết vì đói, biết bao em bé sinh ra suy dinh dưỡng đang khi đó hàng tấn lương thực dư thừa của người giầu, của các nước giầu đang đổ ra biển khơi. Theo thống kê thì nhân loại hôm nay kinh tế đã phát triển không ngừng. Của ăn của để luôn thừa mứa. Trung bình cứ 6 người đủ ăn thì có một người nghèo đói. Nhưng đáng tiếc, 6 người lại không đùm bọc được một người. Người đói vẫn van xin, vẫn đợi chờ lòng thương xót, vẫn rã rời vì thiếu tình thương của đồng loại. Kẻ đói vẫn sống lây lất. Người giầu sang vẫn dư thừa đổ đi.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen
Chúng ta biết toàn bộ Tin Mừng của Gio-an, ông chỉ ghi lại 7 phép lạ Chúa Giê-su đã làm: TN 17B-69
Chúng ta biết toàn bộ Tin Mừng của Gio-an, ông chỉ ghi lại 7 phép lạ Chúa Giê-su đã làm:
Nước lã hóa rượu nho (x Ga 2,1-12). Con của vị sĩ quan sắp chết lại được khỏe mạnh (x Ga 4,46-54). Người tàn phế nằm bờ giếng được khỏe (x Ga 5, 1-18). Năm bánh, hai cá cả đoàn dân ăn còn dư (x Ga 6,1-15). Chúa đi trên mặt biển đến với thuyền các môn đệ đang gặp sóng gió liền được yên (x Ga 6,16-21). Người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt (x Ga 9,1t). La-da-rô chết đã án táng bốn ngày cũng được sống lại (x Ga 11).
Bảy phép lạ trên ông Gio-an gọi đó là ‘DẤU LẠ”, Chúa Giê-su đã hoàn tất công trình Thiên Chúa đã tạo dựng trong vũ trụ suốt 7 ngày (x St 1) ; nên Tin Mừng Gio-an được gọi là “TUẦN SÁNG THẾ MỚI”. Ngày thứ tư trong tuần Sáng Thế thứ I, Thiên Chúa tạo dựng nên tinh tú, mà người Do-thái hiểu đó là các vị thần ; thì dấu lạ thứ tư trong tuần Sáng Thế mới, Chúa Giê-su chỉ dùng năm bánh và hai cá nuôi đoàn lũ dân đông không đếm nổi, họ ăn no mà vẫn còn dư 12 thúng, những mẩu bánh được thu góp lại. Ông Gio-an muốn chúng ta hiểu đây là dấu chỉ về tiệc Thánh Thể Chúa Giê-su thiết lập, ai đến tham dự họ được trở nên bậc thần thánh (x Ga 10,34), đến nỗi được cùng một sự sống với Thiên Chúa (x Ga 6,57), để họ trở thành một “người Giê-su mới” (x Gl.2,20), một khi họ sống 8 dấu lạ sau khi họ được dự tiệc Thánh Thể:
1- Dấu lạ thứ I: Hỏi ai đề nghị cho dân ăn ?
Thưa: Cả Chúa Giê-su, cả môn đệ:
Chính Chúa Giê-su thấy dân đói, Ngài muốn cho họ ăn, Ngài hỏi các môn đệ:
“Thầy mua đâu được bánh cho dân ăn?” (Ga 6,5) ;
hoặc trong lần hóa bánh thứ II, Chúa Giê-su thấy dân đói, nên Ngài gọi các môn đệ đến và nói:
“Thầy thương đám dân này vì họ luôn ở với Thầy đã ba ngày rồi, mà họ không có gì ăn, Thầy không muốn giải tán họ để họ bị đói ra về, sẽ bị xỉu dọc đường” (Mt 15,32 ; Mc 8,2).
Chính các môn đệ khởi xướng đến thưa với Thầy Giê-su: “Xin Thầy giải tán dân, để họ vào làng mua thực phẩm mà ăn” (Mt 14,15 ; Mc 6, 35-36 ; Lc 9,12).
Vậy Chúa Giê-su muốn mọi người phải tự mình nhìn thấy nhu cầu của đồng loại như Ngài, và tìm cách giải quyết giúp họ, đó là lý do thánh Phao-lô khuyên các tín hữu: “Anh em hãy bắt chước tôi như một tù nhân trong Chúa – một người tù phải hoàn toàn làm theo lệnh người cai tù – ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng nhau, duy trì sự hiệp nhất, ăn ở thuận hòa, và cùng chia sẻ cho nhau trong cùng một niềm hy vọng, vì chúng ta đã cùng chịu một Phép Rửa, trở nên chi thể trong thân mình Đức Ki-tô Giê-su” (Ep 4,1-6: Bài đọc II).
2- Dấu lạ thứ II: Hỏi nếu các môn đệ có 200$, cũng không đủ để mua bánh nuôi dân (x Mc 6,37 ; Ga 6,7). Số tiền này có nghĩa gì?
Thưa người Do-thái đi làm công lương cao nhất là được một đồng mỗi ngày (x Mt 20,2), thì số tiền 200$ phải coi là số tiền quá lớn, các môn đệ đi làm suốt năm dành dụm được.
Vậy mọi người cần tận lực làm việc để có tiền của cộng tác với Chúa Giê-su là cùng với Ngài sống nghèo, vì đã làm cho người ta được trở nên giàu có (x 2Cr 8,9).
3- Dấu lạ thứ III: Hỏi Chúa Giê-su dùng 5 bánh và 2 cá nuôi đoàn lũ dân, họ ăn no lại còn dư (x Mt 14,13-21 ; Mc 6,31-44 ; Lc 9,10-17 ; Ga 6,1-13), con số bánh cá ấy Chúa muốn nói gì với chúng ta ?
Thưa:
Con cá tiếng Hy-Lạp là Ictus, lại còn có nghĩa là bàn tiệc. Vậy 2 con cá là dấu hai bàn tiệc trong Thánh lễ:
F Bàn tiệc Lời Chúa: Gồm các Bài đọc, Bài giảng và kinh Tin Kính. F Bàn tiệc Thánh Thể: Từ lúc dâng bánh rượu tới khi mọi người rước lễ.
Hai bàn tiệc trên liên kết chặt chẽ tạo nên một hành vi phụng thờ duy nhất (x Hiến Chế Phụng Vụ số 56).
Năm bánh: Chúa muốn mọi người đến dự tiệc Thánh Thể để được Ngài giúp cho năm nguồn sống:
F Sống bởi đức tin (x Rm 1,17) và lòng mến (x 1Cr 13,13). F Sống bởi Lời Chúa (x Mt 4,4). F Sống bởi ăn Chúa Giê-su Phục Sinh (x Ga 6,34-58). F Sống bởi Chúa cho khả năng thực hành Lời Chúa (x Ga 4,34). F Sống bởi của cải vật chất không thiếu không thừa (x Cn 30,8-9). 4- Dấu lạ thứ IV: Hỏi Chúa dùng 7 bánh và ít cá nuôi dân, có mấy tác giả ghi lại và có ý nghĩa gì?
Thưa: đây là phép lạ hóa bánh lần II, chỉ có hai tác Mát-thêu và Mác-cô ghi lại (x Mt 15,32-39 ; Mc 8,1-10).
Đây là dấu Chúa Giê-su muốn dùng 7 Bí tích Ngài đã lập, và truyền cho Hội Thánh cử hành, để thông ơn thiêng liêng cứu giúp và nuôi sống hồn xác dân Chúa.
5- Dấu lạ thứ V: Hỏi Chúa Giê-su giảng trước hay sau khi Ngài cho dân ăn ?
Thưa: có hai cách ghi:
Theo Tin Mừng Nhất lãm (Mt, Mc, Lc), Chúa Giê-su giảng trước, sau đó Ngài mới cho dân ăn.
Cách ghi này tác giả Nhất lãm đã dựa vào cơ cấu của Thánh lễ để viết: Trong Thánh lễ giảng Lời trước cho rước lễ sau.
Theo Tin Mừng Gio-an: Chúa Giê-su giảng sau khi Ngài cho dân ăn no. Thánh sử Gio-an ghi như vậy vì dựa vào khoa sư phạm giáo dục của Chúa Giê-su: “Ngài làm trước dạy sau” (Cv 1,1). Ngài cho dân ăn no thỏa như thế để Ngài muốn dạy mọi người: “Của ăn no bụng là lương thực hư nát, mà các ngươi còn vất vả, tất bật chạy đi tìm Ta giúp ; thì hãy gia công hơn nữa để tìm lương thực cho linh hồn lưu lại đến sự sống đời đời, đó là của ăn Ta ban cho trong Bí tích Thánh Thể Ta lập” (x Ga 6,14-15.22t). Bởi vì trình thuật hóa bánh là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể Chúa sẽ lập, nên khi Ngài dùng bánh cá nuôi dân và khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể, đều nói một công thức: “Người cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ” (x Mt 14,19 ; 15,36 ; Mc 6,41 ; 8,6 ; Lc 9,16 ; Ga 6,11 = Mt 26,26 ; Mc 14,22 ; Lc 22,19).
Vậy:
Chủ tế phải cho dân ăn:
Trong trình thuật hóa bánh, Chúa ra lệnh cho các môn đệ: “Các con hãy cho dân ăn” (x Mt 14,16 ; Mc 6,37 ; Lc 9,13) ; thì khi Giám mục hay Linh mục dâng lễ phải giảng Lời đã vất vả soạn để nuôi giáo dân. Nếu dâng lễ mà không giảng, hỏi người dâng lễ đã lấy gì là “bánh” của mình để nuôi dân? Nếu chỉ dùng quyền chức Linh mục, để cho dân ăn Chúa Giê-su Phục Sinh (rước lễ), thì đó là “Chúa Giê-su cà thọt” ; Ngài bị cụt một phần thân thể là thiếu bài giảng của người dâng lễ! Vì Lời Chúa trong Phụng vụ được coi là thân thể Chúa Giê-su Phục Sinh (x Hiến Chế Mạc Khải số 21), còn khi dựa vào các Bài đọc Hội Thánh đã chọn trong Thánh lễ để giảng, thì rất đáng được coi là phần chính của Phụng vụ (x Hiến Chế Phụng Vụ số 52).
Chúa Giê-su cho dân ăn nhiều lời.
Chúa Giê-su thấy dân đến với Ngài xin bánh ăn, hoặc xin được chữa lành mọi bệnh tật (x Ga 6,22-26 ; Mc 1,21-39) mà xem ra Ngài không quan tâm đến khát vọng của dân, lại lên tiếng “DẠY NHIỀU ĐIỀU” (x Mc 6,34). Và vì phải nói nhiều điều với dân, nên Ngài đã kéo dài tới ba ngày! (x Mt 15,32) Đây là điều Chúa Giê-su muốn xác quyết với:
- Các chủ chăn: “Đừng lo làm hài lòng người đời” (Gl.1,10), vì người đời chỉ muốn nghe giảng càng vắn càng thích, không giảng tốt nhất! Bởi lẽ “Chúa của họ là cái bụng, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, họ chỉ biết nghĩ đến những điều ở dưới đất, đích cùng của họ là diệt vong !” (Pl 3,19), nên họ thường lấy câu: “Có thực mới vực được đạo làm thánh giáo” (x Mc 7,7b -8), mà gạt bỏ đi Lời Chúa dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn cơm ăn áo mặc Ngài ban thêm sau” (Mt 6,31-33).
Vậy chủ chăn phải bắt chước Thầy Giê-su bắt dân phải nghe nhiều điều, cụ thể là phải giảng nhiều điều rút ra từ các Bài đọc mà Hội Thánh đã chọn trong mỗi Thánh lễ, nếu giấu đi Bài đọc nào là phạm tội giết hồn xác của tín hữu và quăng họ xuống hỏa ngục ! (x Cv 20,26-27) Thánh Tông Đồ đã bắt chước Thầy Giê-su sống tinh thần giảng nhiều điều, nên khi chưa giảng hết ý, mà có kẻ ngã dộng đầu từ lầu ba xuống đất chết như anh Êu-ty-khô, thì cũng cứ mặc kẻ chết tiếp tục giảng! (x Cv 20) Và nếu giảng không vừa ý người đời, dù họ kéo nhau đi hết, thì không vì thế mà hối hận (x Ga 6,60-66), nên phải kiên quyết nhẫn nại giảng lúc thuận cũng như khi nghịch: “Sự thật thì ngoảnh mặt đi còn chuyện bá láp thì họ xô lại theo dục vọng quàng đủ thứ thầy!” (2Tm 4,2-5).
- Các Ki-tô hữu: Phải quảng đại nghe Lời Chúa, nhất là khi dự Phụng vụ, dù có phải ngăn trở công ăn việc làm, mất ăn mất ngủ, hay nhịn đói nhịn khát, cũng cứ phải kiên nhẫn nghe giảng lâu giờ như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai, dĩ nhiên chẳng khi nào đi dự lễ mà nghe giảng lâu tới ba ngày hay nghe thủng đêm (x Mt 15,32 ; Cv 20, 7-11). Nhưng phải lịch sự khi dự tiệc của Vua Trời, cụ thể đừng khi nào bố thí cho Chúa quá ít giờ khi dự tiệc Thánh Thể ; trong khi đó lại rất quảng đại ngồi lâu giờ dự tiệc của người trần thế! Có ai khi dự tiệc người đời mà chốc chốc lại đưa tay coi đồng hồ? Trong khi đó, có nhiều người đi dự lễ cứ sốt ruột xem đồng hồ hoài! Hãy nhớ rằng, vì tin vào Lời Chúa thì cơm bánh có dư. Cụ thể Bài đọc I trong Thánh lễ hôm nay, ngôn sứ Ê-ly-sa dùng 20 chiếc bánh cho cả 100 người ăn no mà vẫn dư thừa bánh theo Lời Chúa phán! (x 2V 4,42-44) Hoặc như bà góa Sa-rép-ta, lúc đầu ông Ê-ly-a xin bà cho ông bánh, bà nhất định khước từ, vì mẹ con bà chỉ còn một chén bột, bà phải có bổn phận để bánh nuôi con mình. Nhưng khi bà nghe ông Ê-ly-a nói: “Chúa bảo bà cứ cho đi, lúc đó bà làm vì được nghe Lời Chúa nói: hũ bột nhà bà không bao giờ vơi cạn, trong khi đó cả xứ ai cũng chết đói vì hạn hán mất mùa !” (x 1V 17)
6- Dấu lạ thứ VI: Hỏi bánh và cá của ai ?
Thưa: bánh và cá của các môn đệ hay của em bé:
Theo Tin Mừng Nhất lãm: bánh và cá của các môn đệ đưa cho Thầy Giê-su (x Mt 14,17 ; 15,34 ; Mc 6,5 ;Lc 9,13).
Theo Tin Mừng Gio-an: bánh và cá của em bé đưa cho Chúa Giê-su (x Ga 6,9).
Thực ra, Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng Gio-an ghi xem ra nghịch nhau như thế, nhưng nếu nhìn phép lạ này là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể, thì cả bốn tác giả Tin Mừng đều chung một ý nói: Chúa muốn các môn đệ cũng như mọi người Ki-tô hữu lớn nhỏ phải cộng tác với Ngài trong mầu nhiệm Thánh Thể để nuôi mọi người. Vì hình ảnh em bé là dấu chỉ nói về các Ki-tô hữu (x 1Ga 2, 1.12.14.18). Nói cách khác, khi ta rước lễ, ta không ăn riêng Chúa Giê-su đã chết và sống lại, mà ta còn nuốt vào lòng mình cả các thánh nữa. Chính vì thế lời cầu nguyện khi Chầu Thánh Thể, vị chủ sự xướng: “Chúa đã ban bánh bởi trời cho chúng ta”, mọi người đáp lại: “Bánh đó đủ mọi mùi thơm ngon”. Đủ mọi mùi đó là: mùi thơm của Chúa Giê-su Phục Sinh cộng với mùi thơm của các Ki-tô hữu thánh thiện (x 2Cr 2,15).
Theo lương tâm, không có luật nào buộc ta phải chia bánh cho người khác lúc ta đang túng thiếu, đang đói khát. Thế mà Thầy trò gồm 13 người, cũng đang trong lúc đói như bao nhiêu người đến nghe Chúa giảng, cả Nhóm chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, chắc chắn không đủ cho Nhóm được no, nhưng nhờ họ được nghe lời Thầy dạy, họ đã đặt nhu cầu của dân hơn nhu cầu của Nhóm, nên họ sẵn sàng đem chia theo lệnh Thầy. Vậy nếu loài người ai cũng biết đón nhận Lời Chúa, để có tâm hồn quảng đại như các Tông Đồ, thì thế giới này chẳng còn có ai sống trong cảnh nghèo đói, điều này lạ hơn, làm Chúa vinh hiển hơn là Ngài hắt hơi tung ra bánh cho mọi người vồ ăn! Vả lại, nếu người ta sống ích kỷ, thì Chúa có hóa ra bao nhiêu của cải, người ta cũng tranh nhau giành giật vơ vét. Sống như thế còn khốn nạn hơn nhịn đói mà nhìn nhau!
7- Dấu lạ thứ VII: Hỏi ai cầm bánh chia cho dân?
Thưa cả Chúa Giê-su, cả môn đệ:
Theo Tin Mừng Gio-an: Chính Chúa Giê-su cầm bánh phát cho dân ăn (x Ga 6,11).
Theo Tin Mừng Nhất lãm: Chính các môn đệ lấy bánh từ tay Thầy Giê-su chia cho dân (x Mt 14,19b ; 15,36b ; Mc 6,41b ; 8,7b ; Lc 9,16b).
Ta biết lúc Đức Giê-su chết mới trở thành bánh hằng sống chia cho dân, nên trong trình thuật hóa bánh, Đức Giê-su bẻ bánh ra, đó là dấu chỉ Ngài bẻ chính thân mình Ngài lúc bị treo trên thập giá, để chia sự sống cho dân Ngài ; thì các môn đệ cũng phải bẻ nát cuộc đời mình, như bằng lòng nhịn đói dành bánh chia cho dân theo lệnh Thầy. Chân lý này đã được báo trước qua hình ảnh ông Gio-an đã bị cắt đầu được nhắc đến ngay trước tác giả Tin Mừng Nhất lãm thuật lại phép lạ Chúa hóa bánh. Tác giả Nhất lãm có ý ghi chi tiết này để xác quyết rằng cái chết của ông Gio-an Tẩy Giả vì sứ mệnh Chúa trao, là dấu chỉ báo trước Chúa Giê-su sẽ bị giết và môn đệ Ngài cũng bị giết! (x Ga 21,19) Để cùng trở thành bánh hằng sống nuôi muôn dân (x Cl. 1,24 ; Mt 14,1-12 ; Mc 6,17-28 ; Lc 9,1-9).
8- Dấu lạ thứ VIII: Hỏi những mẩu bánh dân ăn còn dư thu lại được mấy thúng?
Thưa: Cả bốn tác giả Tin Mừng đều ghi trong trình thuật hóa bánh lần I: Chúa dùng 5 bánh và 2 cá nuôi số dân đông không đếm nổi: chỉ đếm đàn ông đã tới 5.000 người, đàn bà con nít không kể. Cuối cùng các môn đệ thu lại những mẩu bánh còn dư được 12 thúng! (x Mt 14,20-21 ; Mc 6,43-44 ; Lc 9,17 ; Ga 6,13)
Nhưng trong trình thuật hóa bánh lần II: Chúa lại dùng 7 bánh và ít cá nhỏ, nuôi số dân đông: đàn ông đếm được 4.000 người không kể đàn bà con nít. Các môn đệ thu góp những mẩu bánh dư được 7 thúng ! (x Mt 15,37-38 ; Mc 8,8-9).
Số thúng bánh dư là dấu chỉ:
12 thúng là số con ông Gia-cóp làm nên dân tộc Do-thái ; cũng là dấu chỉ 12 môn đệ Chúa Giê-su làm nên dân Ít-ra-en mới là Hội Thánh.
Số 7 thúng bánh dư là dấu chỉ 7 sắc tộc (dân ngoại) cư ngụ tại miền đất Ca-na-an, bị dân Ít-ra-en chiếm lấy đất để lập quốc ; cũng là dấu chỉ 7 Bí tích Chúa Giê-su lập, là những kho tàng ơn Chúa, Hội Thánh dùng để nuôi dân Chúa.
Chúa Giê-su ra lệnh cho các môn đệ Ngài thu lại được 12 hoặc 7 thúng bánh dân ăn còn dư là dấu chỉ Chúa muốn nói: Dân Chúa chỉ cần góp của dư thừa cho các chủ chăn trong Hội Thánh, không đụng đến sự sống của ai, Hội Thánh cũng đủ tài chánh để phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh trên nền tảng 12 môn đệ Chúa Giê-su (12 thúng) và trên 7 Bí tích (7 thúng).
Đó là lý do Hội Thánh đặt thêm điều răn thứ 5 (điều răn mới) trong 5 điều răn Hội Thánh trong Sách Giáo Lý Công Giáo số 2043 đã dạy: “Các tín hữu có bổn phận cấp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh tùy theo khả năng mỗi người”. Tức là góp theo đức tin và lòng mến của mỗi Ki-tô hữu. Chúng ta thử đặt ra chỉ tiêu: Mỗi người bớt 1/10 của ăn nuôi thân xác mình để cộng tác với Hội Thánh, thì chắc chắn chưa ai phải cảm thấy đói. Bởi vì khẩu phần 9USD cũng tương đương với khẩu phần 10USD. Như thế, nếu mỗi người đi dự lễ Chúa nhật, ai cũng dành được 10USD bỏ vào giỏ nhà thờ, thì chắc chắn không giáo xứ nào thiếu tiền để duy trì và phát triển Tin Mừng, tập họp được nhiều người về cho Chúa.
Thật tội nghiệp cho Chúa, Ngài hạ mình xuống xin chúng ta tiền của dư thừa để Ngài được vinh hiển, mà cũng không có.
Nếu ai thực hiện được 8 dấu lạ trên nhờ mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể, thì chắc chắn họ xứng đáng là “bậc thần thánh” (x Ga 10,34), vì đã cộng tác với Chúa Giê-su làm hoàn hảo công trình Thiên Chúa tạo dựng muôn vật trong “Tuần Sáng Thế mới” do Chúa Giê-su đang thực hiện khởi đi từ mầu nhiệm Phục Sinh cho tới ngày cánh chung, đúng với ý nghĩa con số 8 (Đức Giê-su bị giết vào ngày thứ sáu, ngày thứ bảy Ngài được an táng, Chúa nhật hay là ngày thứ tám trong tuần Ngài phục sinh).
Chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa,xin mở long nhân hậu mà hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con đã gắn bó với của cảu muôn đời tồn tại” (Lời nguyện đầu lễ).
“Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là ban sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 145/144,15: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Ông Phao-lô chỉ nói lại cho chúng ta duy có một câu Chúa Giê-su dạy: “Cho thì có phúc hơn là lấy!” (Cv 20,35)
Dám cho tất cả mà không đặt giá cả, không tính tóan hơn thiệt với tâm hồn thật thanh thản: TN 17B-70
Dám cho tất cả mà không đặt giá cả, không tính tóan hơn thiệt với tâm hồn thật thanh thản, thanh thóat vì phần thưởng Chúa sẽ trả lại một cách bội hậu cho những ai biết cho anh em “dù một bát nước lã”.
Sẵn sàng khi Chúa cần đến: tất cả những gì chúng ta có đều bởi do Chúa, do tình thương và lòng nhân hậu của Ngài. Biết cho lại Thiên Chúa, những gì thuộc về Ngài, đó cũng là cách chúng ta tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với Ngài.
Quảng đại và vui vẻ vì mục đích chung, vì anh em mình. Còn gí cao quý cho bằng khi chúng ta biết sống vì anh em và cho anh em. Anh em luôn là hình ảnh Thiên Chúa hiện diện, sống động và gần gũi để chúng ta có cơ hội phục vụ và yêu thương Ngài.
Bài học về lòng tốt của đứa bé vẫn mãi còn đó, và luôn là bài học thật sống động nhắc nhớ từng người chúng ta. Sống ích kỷ, chỉ biết đến cái tôi của mình thì dẫn đến: đói lả, chết chóc và hận thù. Biết trao ban, trao ban tất cả với lòng quảng đại: mọi người được hả hê cơm bánh, thậm chí đến dư thừa“họ thu lại được 12 thúng bánh vụn”. Phép lạ đã thực sự xảy ra từ lòng quảng đại của một đứa bé nhưng tấm lòng còn lớn hơn cả người lớn.
Bài học về lòng tốt của đứa bé vẫn mãi còn đó cho con người hôm nay, khi bên cạnh bao người đói lả, rách rưới, thiếu thốn lại có những “hạng người lớn”, tự coi mình là người lớn mà tâm hồn “không bằng” một đứa bé.
Bài học về lòng của đứa bé vẫn mãi còn đó để dạy tất cả chúng ta: biết cho đi, sẵn sàng cho đi, mau mắn cho đi những gì Chúa cần: chắc chắn phép lạ sẽ xảy ra một cách thật kỳ diệu.
Bài học về lòng quảng đại của một đứa bé tuy dễ, nhưng không dễ học, nhất là với người lớn, khi mà càng lớn, lòng chúng ta “chật chội”bởi biết bao lòng tham lam, ích kỷ, vun quén. Thật nghịch lý khi chúng ta vẫn ngày ngày lớn tiếng dạy dỗ con cái về chữ “thảo” về cách sống “chan hòa, quảng đại” với mọi người. Nhưng chính cách sống của chúng ta, hòan tòan “phản chứng”, trái ngược với chính những “huấn điều”chúng ta dạy dỗ. Phải chăng lòng quảng đại chỉ có nơi những “đứa trẻ” với những tâm hồn thật ngây thơ, trong sáng, không bon chen, không ích kỷ, tính tóan, lọc lừa. Chúa đã từng khẳng định “Nếu các ngươi không hóa nên như trẻ nhỏ, thì chẳng được vào nước trời”
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật xấu hổ cho chúng con, những người lớn. Xin câu chuyện về lòng tốt của đứa bé mãi mãi là bài học giúp chúng con “biết cách sống làm người lớn”. Amen.
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Chúa hóa bánh nuôi 5000 người được ăn no. Đây là một: TN 17B-71
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Chúa hóa bánh nuôi 5000 người được ăn no. Ðây là một phép lạ có tầm mức quan trọng lớn theo truyền thống Tin mừng và phép lạ này duy nhất được cả Bốn Tin mừng thuật lại. Qua phép lạ này, Ðức Giêsu biểu lộ quyền năng của một Ðấng Messia, Ðấng Cứu nhân Ðộ thế, và các môn đệ cần tin tưởng vào Ngài.
Ăn uống là một trong những nhu cầu cơ bản của đời sống con người. Tuy đây không phải là nhu cầu duy nhất và đầy đủ; vì người ta không "sống để mà ăn". Nhưng ăn uống vẫn là nhu cầu đầu tiên của cuộc sống; bởi lẽ, người ta không thể sống nếu không được ăn và trong cuộc đời làm người, con người luôn phải lo toan sao cho có đủ ăn, và xa hơn là ăn ngon. Con người vẫn cần phải "ăn để mà sống".
Một đứa trẻ thiếu ăn, suy dinh dưỡng, sẽ không thể lớn lên, khỏe mạnh, thông minh, không thể học hành cho đến nơi đến chốn. Quả thật, chuyện ăn uống có dính dáng đến cả sứ mệnh làm người, vì nó chắc chắn ảnh hưởng đến tương lai của đứa trẻ. Thử hỏi các bà nội trợ một ngày bỏ ra bao nhiêu thời gian để đi chợ, để nấu nướng, chuẩn bị bữa cơm cho gia đình ? Thử hỏi một đời người đã mất bao nhiêu thời giờ cho các bữa ăn ?
Như thế, ăn uống là một nhu cầu rất thật và là chuyện rất thực tế của đời người. Thế nên, chẳng lạ gì, Ðức Giêsu quan tâm đến "cái ăn" của con người. Hẳn là Người yêu thương và muốn cứu độ trọn vẹn con người. "Chúng ta lấy đâu ra bánh cho từng ấy người đây ?". Ðức Giêsu đã hỏi các môn đệ như thế, và đó cũng là một câu hỏi rất thực tế mà, ngày nay, Người cũng đang hỏi chúng ta.
Tất nhiên, khi nghe câu hỏi này, các môn đệ lo lắng, bối rối. Chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta chẳng những phải lo của ăn cho mình, nhưng còn phải nhìn thấy biết bao người đang đói ăn chung quanh mình, trên thế giới. Nhiều lúc chúng ta cũng chẳng biết làm thế nào.
Với lòng tin tưởng, các tông đồ mang đến 5 chiếc bánh và 2 con cá; với chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta tin tưởng nơi Người và quảng đại đóng góp phần nhỏ nhoi của mình. Chính Người sẽ làm cho phần nhỏ nhoi ấy có thể trở nên một dấu chỉ giúp người ta nhận ra Chúa Giêsu "hẳn là Vị Ngôn Sứ".
Lạy Chúa Giêsu,
Nhiều lúc chúng con thấy cả cuộc đời thật vô nghĩa, vì chỉ để đi kiếm miếng ăn. Nhiều lúc chúng con muốn thoát nợ áo cơm để "làm chuyện lớn lao"; nhưng lại không sao thoát được.
Nhưng chính Chúa đã dạy phải lo đến miếng ăn; để trong miếng ăn hàng ngày, chúng con nhận ra Chúa còn nuôi nhân loại bằng Bánh Hằng Sống bởi trời nữa.
Sau bao nhiêu thập niên chờ đợi, cuối cùng mọi người đã thấy tất cả sự thật về bí mật Fatima: TN 17B-72
Sau bao nhiêu thập niên chờ đợi, cuối cùng mọi người đã thấy tất cả sự thật về bí mật Fatima. Ðức Mẹ đã đóng vai ngôn sứ của thế kỷ 20. Mẹ đã đóng vai ngôn sứ tuyệt vời vì Mẹ đã học nơi Ðức Giêsu Con Mẹ khi còn sống trên trần gian. Lời Mẹ vang vọng cả một nguồn mạc khải đã được Ðức Giêsu truyền đạt cho nhân loại. Kitô hữu vui sướng lắng nghe. Cũng như Mẹ, họ mong trở thành ngôn sứ cho thời đại.
NHẬN DIỆN VỊ NGÔN SỨ
Sau khi chứng kiến "dấu lạ Ðức Giêsu làm", dân chúng kháo láo: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Ðấng phải đến thế gian !" (Ga 6:14). Dấu lạ đó chính là một hành vi bác ái phát xuất từ một quả tim biết động lòng trắc ẩn trước những nhu cầu quần chúng. Người là một vị ngôn sứ đến thế gian, không phải để "cứu rỗi các linh hồn" mà thôi. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa không làm những dấu lạ thiêng liêng, nhưng toàn là "những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm" (Ga 6:3) và cho hàng ngàn người "no nê" cá và bánh. Dĩ nhiên Chúa không dừng lại ở các dấu lạ đó, nhưng hướng tới một mục đích cao hơn. Không dừng lại không có nghĩa là không quan trọng. Trái lại, thân xác giữ một vai trò tất yếu. Nếu không có thân xác không thể đọc ý nghĩa dấu lạ. Nếu không cần thân xác, Chúa đã không mất nhiều thời giờ đi đây đó tìm kiếm những người đau ốm và đói khát. Cứ để hết thời giờ vào việc suy tư cầu nguyện có lẽ sẽ cứu rỗi nhiều linh hồn hơn. Nhưng có lẽ sẽ chỉ làm vui tai mấy nhà trí thức kinh viện mà thôi.
Ðức Giêsu không xuống trần gian để cứu rỗi các linh hồn. Ðúng hơn, Người đến cứu con người toàn diện. Thứ tự không phải đi từ trên xuống dưới, nhưng từ thấp lên cao. Thực tế, có thực mới vực được đạo. Nếu bỏ tất cả những dấu lạ trong Tin Mừng, chắc chắn Ðức Giêsu không thể qui tụ nhiều người và tạo được một thế đứng lớn lao trong lịch sử cứu độ như thế. Dân chúng đã đánh giá Ðức Giêsu như "vị ngôn sứ" chỉ vì đã thấy được hành vi bác ái rất cụ thể của Người. Như vậy, đức ái có tính ngôn sứ. Thánh Gioan khẳng quyết: "Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau yếu." (Ga 6:3)
Người làm được những dấu lạ đó không phải từ hư vô, nhưng từ những chiếc bánh và con cá có sẵn. Những cái có sẵn đó chỉ là một số lượng ít ỏi. Nhưng đó là sự đóng góp của con người. Rất cần thiết. Rất quan trọng. Nhưng phần cần thiết, quan trọng và chính yếu hơn chính là Thiên Chúa. Bởi thế, sau khi các môn đệ gom được "năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6:9) từ chiếc giỏ của một em bé, "Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn" (Ga 6:11) Thiên Chúa Cha. Nhờ đó thần lực đã hoạt động mãnh liệt và cấp thời, biến số lượng bánh và cá nhỏ nhoi đó thành những thúng bánh khổng lồ nuôi sống muôn dân giữa cơn đói khát. Thật là ngoài sức tưởng tượng của các môn đệ và dân chúng. Trong cái tính toán bình thường, trước một đám đông dân chúng, các ông chỉ có thể suy nghĩ: "Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút," (Ga 6:7) hay "ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !" (Ga 6:9) Ðúng là tính toán của con người ! Nhưng Thiên Chúa có những tính toán khác hẳn. Người không bị lệ thuộc bất cứ hoàn cảnh nào, vì Người toàn năng. Tin chắc như thế, nên "Ðức Giêsu nói: 'Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi'." (Ga 6:9) Việc gì phải đến đã đến. Người đã làm được tất cả những gì Người muốn.
Từ một nhu cầu tầm thường vật chất, Người đã có thể hướng người ta về một điểm cao hơn. Tự lòng đầy khâm phục Chúa, dân chúng đã phải thốt lên: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Ðấng phải đến thế gian !" (Ga 6:15) Thấy Ðức Giêsu tài tình như thế, họ tìm cách "tôn làm vua." (Ga 6:15) Tôn làm vua không phải vì Người, nhưng vì chính tương lai của họ. Mặc dầu đầu óc còn trần tục khi muốn tôn phong Ðức Giêsu làm vua, nhưng ít nhất dân chúng cũng thấy nơi Người dấu chỉ về lòng Chúa xót thương. Chỉ cần được hướng dẫn một chút, tâm trí họ có thể bay cao hơn để nhận ra Người chính là "Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa !" (Mt 21:9) Nếu Người được tôn làm vua, còn đâu vai trò ngôn sứ ?! Bởi thế, Người đã "lánh mặt, đi lên núi một mình" (Ga 6:15) để trọn vẹn sống ơn gọi làm ngôn sứ. Ngôn sứ đã ở một vị trí thật đẹp: trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Một vị trí như thế không thể lệ thuộc vào bất cứ cơ chế hay vinh hoa trần gian nào. Có thế, ngôn sứ mới có thể nhân danh Thiên Chúa (Ðnl 18:22) nói với những người đang sống bám vào cơ cấu. Chính vì thế thân phận ngôn sứ luôn bị cơ chế bách hại. Cuộc đời Ðức Giêsu chứng minh tất cả sự thật về thân phận ngôn sứ.
CHIỀU KÍCH NGÔN SỨ
Ðức Giêsu đã không làm dấu lạ một mình. Chung quanh Người có các môn đệ, những người trực tiếp góp phần vào việc tạo thành dấu lạ đó. Cảnh tượng dân chúng ồn ào vì hành trình mệt mỏi khiến Thày trò xốn xang. Các môn đệ lo ra mặt khi Thày đề nghị: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?" (Ga 6:5) Ông Philipphê đi xục xạo khắp nơi để tìm bánh và cá cho Thày. Cuối cùng các ông cũng tìm được với niềm thất vọng trước nhu cầu lớn lao của quần chúng. "Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !" (Ga 6:9) Tất cả chỉ có thế. Ðó lại là phần đóng góp của "một em bé."(Ga 6:9) Em bé đã sẵn sàng dâng cho Chúa, mặc dầu cũng đang đói khát như mọi người xung quanh. Không ai từ chối đóng góp vào việc tạo dấu lạ cho muôn dân nhận ra Ðức Kitô là Ngôn sứ. Dĩ nhiên Chúa chẳng cần đến chất liệu cũng như con người để tạo nên những dấu lạ đó, vì Người là Ðấng Toàn Năng. Nhưng Người muốn cho mọi người cùng tham gia vào công cuộc cứu độ. Người muốn mọi người "đều là ngôn sứ." (Ds 11:27)
Nếu đức bác ái mang tính ngôn sứ, thì không ai có thể từ chối trở thành ngôn sứ. Mỗi hành vi bác ái, dù nhỏ bé nhất, đều là một dấu lạ, là một phương tiện cần thiết để "sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban."(Ep 4:1) Nếu không sống bác ái, dù có mọi nhân đức khác, chúng ta không thể hiệp nhất với Thiên Chúa, vì "chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Ðấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người." (Ep 4:5-6) Chính trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô và với anh em, chúng ta sẽ làm được những dấu lạ mang tính ngôn sứ, và làm cho mọi người nghe được tiếng nói Thiên Chúa. Có hiệp nhất mới có hi vọng. Bởi thế, thánh Phaolô khuyên: "Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng." (Ep 4:3-4) Thần Khí là Ðấng "đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy." (Kinh Tin Kính) Người cũng đang tiếp tục phán dạy muôn dân qua những hành vi hiệp nhất đầy tính ngôn sứ của các Kitô hữu.
Sức mạnh hiệp nhất các Kitô hữu chính là Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Thánh Thể chính là dấu lạ Chúa đã thiết lập để duy trì và phát triển cộng đoàn Kitô hữu. Chỉ có Kitô hữu mới nhìn ra ý nghĩa và hình bóng dấu lạ này nơi dấu lạ hóa bánh. Nếu dấu lạ hóa bánh đã qui tụ được dân chúng, chắc chắn Thánh Thể còn hiệp nhất được muôn dân hơn nữa, vì nơi Thánh Thể, sức mạnh Thiên Chúa đang hoạt động để thực hiện giao ước đối với nhân loại. Nơi đây cũng thể hiện sự hiệp nhất với đầu là Ðức Kitô và với tất cả những ai là chi thể của Người (Fink 1990:439). Nhờ đó Thiên Chúa được hoàn toàn vinh quang và con người được nên thánh. Dấu lạ tìm kiếm dấu lạ. Dấu lạ Thánh Thể đang kêu mời những dấu lạ tình yêu nơi các Kitô hữu. Bạn có muốn trở thành dấu lạ giữa muôn dân như Thánh Thể đang ở giữa chúng ta không ?
Chương 6 của Tin Mừng Gio-an được trích đọc trong mấy Chúa nhật liên tiếp, khởi đầu với trình thuật: TN 17B-73
Chương 6 của Tin Mừng Gio-an được trích đọc trong mấy Chúa nhật liên tiếp, khởi đầu với trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiếp đó là những lời giải thích về đề tài Bánh Trường Sinh.
Trong phần sau này, Ðức Giê-su tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (6,51). Lời tuyên bố này là chìa khoá để giải thích phép lạ hôm nay: việc hoá bánh ra nhiều là sự kiện báo trước về bí tích Thánh Thể.
Các môn đệ của Ðức Giê-su cũng tham gia vào việc chuẩn bị bữa ăn. Quanh Ðức Giê-su, có các ông Phi-líp-phê, An-rê là anh ông Phê-rô, và có lẽ cả các môn đệ khác nữa. Ngoài ra, lẫn trong đám đông, còn một cậu bé có mang theo năm chiếc bánh và hai con cá ; ông An-rê đã giới thiệu cậu bé với Ðức Giê-su.
Chắc chắn rằng, nếu không có những chiếc bánh và mấy con cá của cậu bé, Ðức Giê-su cũng có thể làm phép lạ để nuôi sống đám đông. Thế nhưng, Ðức Giê-su muốn cho thấy một khía cạnh đặc biệt: phép lạ luôn là lời đáp trả trước một đề nghị hay một lời mời.
Như thế, Ðức Giê-su muốn tôn trọng trật tự của sự việc: việc hoá bánh ra nhiều không xuất phát từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một cậu bé. Ai mong muốn chính mình trở thành phúc lành cho người khác, thì phải đem đến cho Ðức Giê-su điều mình có. Người không yêu cầu người ta điều họ không có, nhưng trong đôi tay thánh thiện và nhân ái của Người, điều người ta chia sẻ sẽ trở thành phép lạ, dư tràn và phong phú.
Về phần mình, cậu bé có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay những người thân quen. Làm như thế, cậu chỉ nuôi sống một vài người, chứ không góp phần làm cho việc hoá nhiều được dễ dàng. Trong hoang địa, một nơi ở xa các làng mạc, thì phần thức ăn dù nhỏ nhoi của cậu cũng là một điều rất quý giá, giúp cậu vượt qua cơn đói. Nhưng cậu đã trao tất cả cho Ðức Giê-su, và Người đã dùng quyền năng mà làm cho bánh và cá hoá ra nhiều để nuôi cả đám đông. Không phải chỉ một mình cậu được nuôi sống, mà tất cả mọi người đều được ăn no ...
"Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (Ga 6,9). Một đồng bạc là tiền công của một ngày làm việc, thế mà có bỏ ra một số rất lớn cũng chẳng đủ chia cho mỗi người ... Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá "với bằng ấy người thì thấm vào đâu !" Như thế, theo cái nhìn con người, tình trạng này quả là bất lực, không thể nào giải quyết nỗi. Ðiều này làm rõ lên một chủ đề lớn trong Tin Mừng thứ tư: chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng nuôi sống một đám đông như vậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem lại cho mỗi người phần của họ, làm cho họ được no nê, thoả mãn.
Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu, lớn lao, nhưng Người lại muốn nhân loại đóng góp phần của mình. Chính từ phần đóng góp ít ỏi ấy, Thiên Chúa lại ban cho họ những hồng ân khác, nhất là sự sống.
Người không muốn làm vua
Những người chứng kiến phép lạ Ðức Giê-su đều nhận ra đây là một điều hết sức kỳ diệu. Mọi người đều nhìn nhận Ðức Ki-tô có uy quyền của Thiên Chúa: Người đã bày tỏ uy quyền qua việc hoá bánh ra nhiều. Sự kiện này làm cho người ta nhớ ngay đến những kỷ niệm thời xuất hành: ông Mô-sê đã can thiệp và Thiên Chúa đã ban cho dân Do-thái có bánh ăn trong hoang địa. Do đó, dân chúng nghĩ rằng thời gian cứu độ đã đến và Ðức Giê-su là "vị ngôn sứ, Ðấng phải đến thế gian". Họ tính bắt Người để tôn làm vua, nhưng "Người lánh mặt, đi lên núi một mình".
Những kỷ niệm thời xuất hành
Người ta có thể so sánh ngôn sứ Ê-li-sê trong bài đọc 1 với Ðức Giê-su. Tuy nhiên, những chi tiết trong trình thuật Tin Mừng hôm nay có vẻ gần gũi hơn với những biến cố thời xuất hành. Từ bờ bên này sang bờ bên kia - đi qua Biển Ðỏ ; xa khỏi làng mạc ; - không còn những của ăn của đất Ai-cập ; ông Phi-líp-phê bị thử thách - dân Do-thái bị thử thách ; Ðức Giê-su cho đám đông ăn no - Thiên Chúa nuôi dân bằng man-na.
Xưa kia, dân Do-thái đã trải qua những biến cố này để tiến đến giao ước ; đối với các độc giả đã được nghe nói về mầu nhiệm Phục Sinh, thánh Gio-an nhấn mạnh rằng sự kiện này xảy ra ít lâu trước lễ Vượt Qua. Rõ ràng tác giả muốn các độc giả hiểu rằng dấu chỉ của giao ước chính là bí tích Thánh Thể. Như vậy, con người sẽ trở thành hòm bia, thành căn lều để Thiên Chúa cư ngụ.
Ngôn sứ hay vua
Trong hoang địa, dân Do-thái nhìn nhận ông Mô-sê là thủ lãnh của mình. Họ đi theo ông vì họ đã chứng kiến những dấu lạ ông làm. Giờ đây, đám đông dân chúng đi theo Ðức Giê-su, vì họ đã thấy Ðức Giê-su chữa lành các bệnh nhân và làm nhiều dấu lạ khác. Hôm nay, Ðức Giê-su không chỉ chữa lành, Người còn nuôi sống họ. Trước mắt họ, Ðức Giê-su là "Vị Ngôn Sứ, là Ðấng phải đến thế gian".
Thế nhưng, thay vì tiếp tục đi theo Ðức Giê-su trên con đường Người muốn họ đi - con đường đi đến cái chết và sự phục sinh -, đám đông lại muốn thu nhỏ con người thiên sai này, bằng cách đưa Người vào trong cơ chế của họ. Họ muốn tôn Người làm vua.
Biết được điều đó, Ðức Giê-su đã lánh đi. Người là Vua, là Vua ngay từ khi mới sinh (x. Mt 2,2), nhưng Vương quyền của Người phát xuất từ thập giá chứ không do ý thích của người phàm. Con đường của Người vẫn còn dài ở phía trước, chứ không phải là kết quả của những việc đã làm, nên Người đã lánh đi, đã từ chối, như trước đây Người đã từ chối với Xa-tan, và sau này, với Phi-la-tô. Mỗi lần một người hay một thể chế muốn nắm lấy Ðức Giê-su để phục vụ những chương trình riêng của mình, Người cương quyết khước từ.
Tôn Ðức Giê-su lên làm vua, đó là một sự cắt đứt, bởi vì việc hoá bánh ra nhiều là một dự báo về Nước Trời, nhưng là Nước của Thiên Chúa, chứ không phải nước của loài người đang muốn tái lập quyền lực chính trị của mình.
Do đó, Ðức Giê-su đã lên núi một mình ...
Hãy đóng góp phần của mình
"Một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá".
Cậu bé đó chính là bạn, là chúng ta, là tất cả các Ki-tô hữu. Trước nỗi thống khỗ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Ðiều đó đúng. Thế nhưng, nếu ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy, ta đã đặt nền móng cho Nước Trời.
Ðàng khác, bạn thấy đó, trước khi phân phát bánh, Ðức Ki-tô đã dâng lời tạ ơn - tiếng hy-lạp là Eucharistia. Người tạ ơn ai, nếu không phải là Chúa Cha, như Người vẫn quen làm. Nhờ lời tạ ơn của Ðức Giê-su, năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi sống cả đám đông, lại còn dư mười hai thúng đầy. Nhờ lời tạ ơn của Ðức Giê-su, phần đóng góp nhỏ nhoi của cậu bé trở thành nguồn mạch dồi dào.
Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta: hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là Tình yêu vĩnh cửu ; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Ðức Ki-tô biến đổi thành bánh bởi trời, thành bánh là chính Người, bánh ban sự sống muôn đời.
"Ngày nay, Thiên Chúa đòi chúng ta làm tăng thêm cho chính chúng ta cũng như người khác những tấm bánh đem lại sự sống, những tấm bánh bao trùm mọi hình thức của cuộc sống, những tấm bánh tròn, những tấm bánh dài, cả những tấm bánh có hình dáng lạ kỳ. Theo nghĩa này, chiếc bánh không chỉ là cung cấp năng lượng cần thiết để sống, nhưng còn là những chiếc bánh tràn đầy Thần Khí, tràn đầy niềm vui.
"Cho dù con người thời nay không diễn tả rõ, nhưng chắc chắn, người ta không chỉ cần bánh ăn, mà cả hoa hồng nữa.
"Chúng ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc, để được sung mãn, nhưng chúng ta cũng phải biết rằng hạnh phúc luôn ở bên kia hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một mục đích, nhưng là một chân trời để hướng tới. Bạn có muốn đi xa hơn nữa không ? ..." theo P.Talec
Telbum là tên tuổi của một gia đình Hoà Lan nổi tiếng trong thời đệ nhị thế chiến. Vì đã che: TN 17B-74
Telbum là tên tuổi của một gia đình Hoà Lan nổi tiếng trong thời đệ nhị thế chiến. Vì đã che giấu những người Do thái, họ cũng bị Đức quốc xã bắt vào các trại tập trung.
Hai chị em Cory bà Bessy Telbum bị giam chung trong một láng trại, những điều kiện sống trong các trại tập trung dĩ nhiên là rất tồi tệ, thiếu ăn và bệnh hoạn là tình trạng bình thường. Cũng như tất cả các tù nhân khác, hai chị em Telbum đều trong tư thế chờ đợi cái chết đang đến, nhưng là những người có niềm tin mãnh liệt, họ luôn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nọ, Bessy phải đau liệt, lọ thuốc nước họ mang theo được giờ chỉ còn lại những giọt cuối cùng. Người chị Cory ghi lại như sau: theo bản năng tự nhiên, tôi muốn cất kỹ lọ thuốc, bệnh tình của em Bessy ngày càng trầm trọng, nhưng bên cạnh đó còn có những bệnh nhân khác cũng trầm trọng không kém, thật khó từ chối với những đôi mắt đỏ lên vì sốt, những bàn tay run rẩy vì lạnh, tôi muốn giữ những giọt thuốc cuối cùng cho những người đau liệt nhất. Cory muốn chia sẻ với mọi người nhưng trái tim cô cứ bị giằng co, còn em Besy thì sao? Nếu mình không giữ lại một ít thì Bessy sẽ như thế nào. Nhưng tin tưởng ở phép lạ Chúa, cho nên Cory đã không giữ thuốc lại riêng cho mình, cô chia sẻ cho bất cứ ai đến xin. Cô ngạc nhiên vô cùng là lọ thuốc vẫn không bao giờ cạn kiệt. Cứ mỗi lần có người đến xin thuốc cô vẫn chắt ra được một giọt mới. Sự chia sẻ ấy diễn ra cho đến một ngày nọ, một nữ quản giáo muốn tử tế với các tù nhân, cô mang vào láng một số lượng vitamin lớn. Tối hôm đó, Cory Telbum cố gắng lắc lọ thuốc của mình, nhưng cô không tài nào thấy được một giọt nào nữa.
***
Qúy vị và các bạn thân mến,
Câu chuyện trên đây gợi lại cho chúng ta câu chuyện của bà goá Saresta thời tiên tri Êlia được ghi lại trong sách Các Vua, quyển thứ I. Xứ sở đang bị hạn hán hoành hành, thì tiên tri đi vào thành Saresta, Ngài thấy một bà goá đang đi nhặt củi, Ngài xin bà một ít thức ăn và nước uống, nhưng bà góa cho biết, trong nhà bà chỉ còn một ít bột và dầu, bà nhặt một ít củi về để làm bánh ăn lần cuối và chuẩn bị chết, nhưng vị Tiên tri nói như ra lệnh:
Bà hãy về làm cho tôi một cái bánh nhỏ, rồi làm một cái nữa cho bà và con bà, và Ngài bảo đảm với Người đàn bà goá như sau: “Bột và dầu trong nhà bà sẽ không bao giờ cạn cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên đất đai”. Chuyện đã xảy ra như lời hứa của Tiên tri Êlia. Phép lạ đã diễn ra vì người đàn bà đã biết cho đi phần lương thực cuối cùng của mình.
Trong Tin mừng, phép lạ nhân bánh và cá mà Chúa Giêsu đã thực hiện để nuôi sống trên năm ngàn người cũng đã diễn ra như thế. Ngài đã nuôi sống đám đông từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã quảng đại đóng góp. Thức ăn dư đầy đến độ sau khi đám đông đã ăn no nê người ta vẫn còn thu lượm được 12 thùng bánh. Đây cũng có thể là điều chúng ta chứng kiến trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta vẫn nói: “miếng khi đói bằng gói khi no”. Một miếng nhỏ được san sẻ trong cảnh túng đói có giá trị gấp bội phần sự dư dật người ta khư khư cất giữ cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm phép lạ. Đó phải là niềm xác tín của các tín hữu Kitô chúng ta, nhưng dĩ nhiên để phép lạ có thể diễn ra hay đúng hơn để cảm nhận được phép lạ vẫn xảy ra trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta cần có tấm lòng quảng đại, mỗi lần chúng ta chia sẻ là mỗi lần phép lạ diễn ra.
***
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
“Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với ta sẽ không hề đói, ai tin vào ta sẽ không hề khát bao giờ” (Gioan 6:35).
Trên thế giới ngày nay có bao nhiêu người nghèo? Hằng ngày trên con đường đến văn phòng, tôi: TN 17B-75
Trên thế giới ngày nay có bao nhiêu người nghèo? Hằng ngày trên con đường đến văn phòng, tôi vẫn thường thấy những người đứng ở các ngã tư đường, cầm chiếc bảng nhỏ viết nguệch ngoạc mấy dòng chữ, đại khái: “Tôi thất nghiệp cần giúp đỡ”. Hoặc: “Tôi sẽ làm bất cứ việc gì để kiếm ăn”... Đó là hình thức ăn mày kiểu Mỹ. Còn ở Việt Nam thì những người như vậy sà vào, xè tay, ngửa nón, mũ van xin rất thảm thiết. Họ không sợ bị xua đuổi, khinh bỉ, miễn sao có được đồng bạc kiếm sống qua ngày. Ở nơi những người này, lời cầu xin mà Chúa Giêsu đã dậy trong kinh Lậy Cha không những là một lời cầu xin tha thiết mà còn rất cần thiết đối với những người này: “Xin cho chúng con hằng ngày dùng đủ”.
Nhiều lần tôi đã phải tắt TV vì không cầm nổi xúc động khi xem thấy các em bé tuổi đời 5, 6, hoặc 7 tuổi lem luốc, rách nát phải lang thang, rách rưới kiếm ăn tại các cống rãnh, những bã rác, hoặc phải ngồi lê xin ăn tại các hè phố. Những hình ảnh như vậy, hoặc tương tự đang xẩy ra hằng ngày tại các quốc gia nghèo đói, trong đó có cả Việt Nam, khiến lời Chúa mà Thánh Gioan vừa được trích dẫn theo lý luận chủ quan phần nào như không đúng với thực tế và hoàn cảnh của thế giới ngày nay.
Chúa Giêsu nói ngài là bánh ban sự sống, và người nào đến với ngài thì không hề đói, khát. Ở một vài nơi khác trong Thánh Kinh, ngài còn khẳng định hai con sẻ chỉ đáng giá một đồng xu mà không con nào rơi xuống vì chết đói. Không những thế, ai không tin vào những điều này còn bị ngài cho là hèn tin, yếu tin. Như vậy thì tại sao hằng ngày vẫn có hàng trăm ngàn người lăn ra vì chết đói, chết khát. Con số đói khát vật chất tuy cao, nhưng con số đói khát tâm linh còn nhiều hơn nữa. Người ta điên loạn, cuống quít, đổ xô đi tìm những giải pháp hòa bình, những giải pháp ngưng chiến, giới hạn chế tạo vũ khí giết người, làm đẹp môi sinh... chứng tỏ sự đói khát, sự nghèo khổ tâm linh còn khủng khiếp hơn những cái nghèo khổ, đói khát và thiếu thốn vật chất.
Tóm lại, nhìn vào những cái đói khổ và nghèo túng thể xác và tinh thần của con người ngày nay khiến chúng ta tự hỏi: “Vậy Chúa Giêsu là bánh kiểu gì? Bánh ấy ở đâu mà sao con người không tìm được mà đành phải chết đói?” Như vậy thì Chúa hết bánh. Người ta không tìm ra bánh. Hoặc có tìm thấy mà vào không tiêu hóa. 1. Chúa hết bánh: Chắc chắn là không vì Chúa chính là bánh, nên bao lâu còn Chúa là còn bánh. Mà Chúa là Alpha và Omega – nguyên thủy và cùng đích - nên hiện tượng thiếu bánh là một điều không bao giờ sẩy ra, mặc dù có bao nhiêu người ăn vẫn không thiếu. Chúa Giêsu đã cho thấy điều này khi ngài nuôi hàng ngàn người trong hoang địa với 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Không những nói về ý nghĩa của bánh tinh thần, bánh ban sự sống đời đời mà ngay cả cơm bánh hằng ngày Chúa cũng nuôi con người dư thừa. Sự túng thiếu vật chất xẩy ra cho con người đó chẳng phải là do chính lòng ích kỷ, tham lam của con người gây ra cho nhau sao?
2. Không tìm ra bánh: Bánh có đó mà con người vẫn chết đói là do lỗi của con người. Con người không tìm ra bánh vì lười, hoặc vì được chỉ dẫn đường đi sai, lạc hướng hoặc không đầy đủ.
Trong đời sống tâm linh con người, hằng ngày chúng ta vẫn thường phải chiến đấu với hiện tượng hướng dẫn sai lầm. Hướng dẫn thiếu kinh nghiệm. Những lạc giáo, lạc thuyết. Những mặc khải, tiên tri hay hiện tượng tôn giáo quá khích là những chỉ dẫn sai lạc khiến nhiều người đang mong tìm gặp Chúa, tìm gặp bánh trường sinh mà không được.
Có biết bao tâm hồn mong mỏi tìm gặp Chúa nhưng khi đến thánh đường thì chỉ được nghe những lời giảng giải chiếu lệ, những lời mà ngày này qua ngày khác vẫn được lập đi lập lại một cách máy móc. Tệ hại hơn nữa, đó là những lời mà người nghe không hề thấy người nói thực hành bao giờ. Và đó là những hướng dẫn lệch lạc, không rõ ràng, đầy đủ.
Nhưng không hẳn là lỗi hoàn toàn do thiếu hướng dẫn hay hướng dẫn sai lầm. Nhiều người được chỉ, nghe hướng dẫn những lại đi theo ý mình. Nghe thì nghe vậy, nhưng không làm, và không tin tưởng vào sự hướng dẫn. Kết quả là Chúa vẫn có đó, ở ngay bên mình. Bánh vẫn có đó ở khắp mọi nơi mà nhiều người vẫn không tìm đâu ra đến độ phải chết đói.
3. Không tiêu hóa nổi: Trong lãnh vực vật lý và thể lý, một người ăn đồ bổ, nhiều chất lượng mà vẫn không lên cân, không phát triển thân thể thì chắc chắn là cơ thể người đó có vấn đề.
Trong đời sống tâm linh cũng tương tự là nhiều người tìm ra bánh, nhưng ăn vào không tiêu, và kết quả là có ăn bánh mà không đem lại sức sống, không tiêu hóa nổi. Hơn thế, còn tạo nên tình trạng bệnh tật theo lời của Thánh Phaolô “ai ăn bánh và uống chén này một cách bất xứng, là ăn và uống án phạt” (1 cor 11:29).
Mình Máu Thánh Chúa là của ăn thức uống tâm hồn, là bánh trường sinh ban cho con người sự sống. Nếu con người không đón nhận của ăn này một cách xứng đáng, tức là linh hồn không có điều kiện cho việc tiêu hóa của ăn này, họ sẽ không có sức khỏe và bánh hằng sống ấy sẽ còn làm việc tiêu hóa thiêng liêng gặp phải những khó khăn, bệnh tật.
Những tham, sân, si. Những tự ái, ích kỷ, và bất công. Những gian dối lọc lừa. Những dục vọng bất chánh... Đây là những căn bệnh tâm linh khiến cho việc tiêu hóa của ăn tinh thần là chính Chúa Giêsu, là Mình Máu Thánh người gặp trở ngại và gây phản ứng bệnh tật cho tâm hồn.
“Chính ta là bánh ban sự sống. Ai đến với ta sẽ không hề đói, ai tin vào ta sẽ không hề khát bao giờ” (Gioan 6:35). Nhưng nhân loại ngày nay vẫn đang trong cơn đói và khát trầm trọng.
Nhưng nếu như Chúa Giêsu, bánh hằng sống không bao giờ thiếu, thì một là nhân loại thiếu hướng dẫn để tìm được bánh này, hoặc giả được chỉ cho biết bánh đó ở đâu, nhưng ăn lại không tiêu vì cơ thể bệnh tật.
Khi nghiên cứu về văn minh Việt Nam, người ta lấy làm lạ là người mình chẳng để lại điều gì lớn: TN 17B-76
Khi nghiên cứu về văn minh Việt Nam, người ta lấy làm lạ là người mình chẳng để lại điều gì lớn lao, chẳng có mặt nào xem ra nổi cả, từ triết học, nghệ thuật, kiến trúc, văn hóa đến khoa học, phát minh v.v. trừ tài bắt chước giỏi hay những tháo vát thật bén nhậy để sống còn.
Ấy cũng tại người ta cứ lấy cái thước phách lối chỉ ưa mặt nổi đè người của Tây phương mà đo cái không đo được. Anh nhà buôn Bắc Mỹ đi nghỉ hè miền núi gặp một nhà tu hành mà hỏi lợi tức hằng năm bao nhiêu thì ai thèm trả lời. Tay đánh võ khỏe như Tyson cắn tai đối thủ mà đi hỏi nhà bác học Einstein rằng ông không đánh được tôi là ông thiếu văn minh, thì thật lố bịch.
Quả thực, cái kiểu sống thích nổi, phải tranh đua để vượt lên hơn người thì dễ làm tiến bộ, nhưng cũng lại là đầu mối của căng thẳng khiến cho cuộc sống trở thành một đấu trường hơn là một vườn êm mát mà hưởng sinh thú.
Sơn Nam trong cuốn “Người Việt có dân tộc tính không?” đã dí dỏm nói lên cái thái độ tự đắc của người Âu Mỹ: "Nhiều nhà khảo cổ Tây Phương nghiên cứu kỹ lưỡng để xem người Việt có gì đặc sắc so với người Ai Cập, người Tàu, người Ấn Độ, căn cứ vào di tích, vào những gì mà ngày nay còn chụp ảnh được, đào xới được, đọc được... Dưới mắt người Tây Phương, rõ ràng người Việt Nam chẳng có gì đáng kể, về hình thức. Người Nhựt, người Tàu, người Ấn Độ, người thiểu số cao nguyên, bộ lạc ăn lông ở lỗ ngoài hải đảo Thái Bình Dương đáng chú ý hơn. Ở giải đất Đông Dương thì quyền ưu tiên dành cho Đế Thiên Đế Thích, nghệ thuật Chiêm Thành, hoặc cánh đồng rải rác những cái chum bằng đá ở Lào. Việt Nam thuộc vào hàng thứ yếu...”
"Trong việc sưu tầm văn hóa, người Pháp đã tặng cho người Việt vài lời khen an ủi: sọ người ở Hòa Bình, trống đồng Thanh Hóa, lăng tẩm Huế, tượng nhà sư Minh Hạnh. Trước khi rút lui, người Pháp phát giác thêm những di tích ở đồng bằng Hậu Giang về nước Phù Nam, tại thương cảng Óc Eo (núi Ba Thê An Giang)”.
MỘT NỀN VĂN MINH KHÔNG MẶT
Mỗi dân tộc đều có cái "máu” đặc sắc khác nhau. Người Ý có máu nghệ sĩ, sản xuất biết bao nhân tài về hội họa, điêu khắc, nhạc... Người Đức, người Nhật có máu ta đây, nên thích đè bẹp lân bang để tỏ ra chủng tộc mình trổi vượt, nên họ nghiện làm quên ăn quên ngủ, miễn là dân mình phải hơn thiên hạ, đè bẹp nhiều người. Mặc dù cái máu đó giúp cho hai dân này tiến bộ về khoa học thực, nhưng tiến bộ như vậy để làm gì? Tần Thủy Hoàng để lại Vạn Lí Trường Thành do biết bao nhân mạng để xây cất. Bao đền đài lăng tẩm đã là kết quả của biết bao xương máu.
Mỗi nền văn hóa có những quan niệm và tiêu chuẩn để đo giá trị khác nhau. Văn minh Hy Lạp thích đo bằng đầu óc triết lí. Văn minh Ai Cập chuộng sức mạnh tâm linh. Văn minh Âu Mỹ thích tìm tòi sự lạ, thích đề cao hiệu năng sản xuất, tôn thờ vật chất. Hết định nghĩa người là con vật biết suy tư đến người là con vật kinh tế. Chẳng biết đâu là văn minh, đâu là man rợ. Cứ thấy cái cảnh người Âu Mỹ giết bào thai đã có tay chân phèo phổi một cách ngon lành mà lại do luật pháp bảo vệ, đang khi ai trót dại động tới mấy con chó là bị hội bảo vệ súc vật lôi ra tòa liền. Người ta tự hỏi nền văn minh đang đưa con người tới đâu? Chỉ biết xã hội Âu Mỹ đang trả giá cho văn minh này: bác sĩ thần kinh không bao giờ thất nghiệp, thuốc nhức đầu bán chạy hơn tôm tươi. Con người mệt mỏi, rã rời, khắc khoải...
Suy nghiệm về thân phận Việt Nam, chúng ta vẫn thường tự hỏi nếu người mình có cái gì gọi là đặc sắc, thì cái đặc sắc đó chính lại cái không mặt, không có gì nổi, chẳng đe lại gì đồ sộ nguy nga, mà chỉ nhằm tìm ra cái lạ thường trong cuộc sống xem ra tầm thường.
Cái đặc sắc chính là điều biết sống cái bình thường, chính là cái biết tìm an nhiên tự tại trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người Việt vốn không tin vào những chủ trương lấn lướt này hay lý thuyết quá khích nọ, nhưng tin vào sự sung túc của cuộc đời, và dai dẳng bám vào sức sống đó, qua những bình lặng hằng ngày, qua những trầm bổng đắng cay ngọt bùi, mà khám phá ra cái lạ thường trong những tầm thường. Người Việt luôn biết dung hòa và hóa giải mọi đối nghịch để tìm ra nét hài hòa và thăng bằng để làm nên đạo sống an nhiên tự tại. Sống như vậy gọi là phong lưu: hòa được vào dòng sinh khí vẫn đang thổi hơi sức sống và dòng nước suối nguồn cuộc đời vẫn đang luân lưu chảy. Đời sống không phải là những phép lạ là gì?
TIN VUI VỀ CÁI LẠ TRONG CÁI THƯỜNG
Chúa Giêsu trong lúc giảng đạo thường đưa ra những "công án" xem ra rất ngược đời, có ý đánh thức người nghe để mở mắt nhìn ra những lạ lùng đang hiển hiện chứ không phải những đua tranh kiếm tìm một cách khổ sở mệt nhọc như nhiều người đang bị quăng vào vòng xích quay. Ai cũng nghĩ phải gia tăng lợi tức thì mới hạnh phúc, phải ăn mặc theo tiêu chuẩn thì mới sáng giá, phải có nhà lớn thì mới đáng kể, phải có tài năng xuất chúng thì mới thành công v.v. Nghĩa là hơn bao giờ hết ở cuối thế kỷ này, người ta đề cao sức mạnh của vật chất hơn là là sức mạnh của tinh thần.
Khi đặt chân lên mặt trăng hay hỏa tinh nhìn lại trái đất hay nhìn ra vũ trụ bao la, con người mới thực sự cảm thấy mình nhỏ bé to vo trong cái bao la vô tận của đất trời, đúng như nhận xét của tổng thống Tiệp Khắc là ông Vavlav Havel về nền văn minh "thời đại mới" khi nhận giải thưởng Tự Do, rằng cái gọi là "thời đại mới" của văn minh vật chất đã chấm dứt lúc nhân lọai cựa mình bước sang nghìn năm thứ ba. Con người chỉ thật sự tiến bộ văn minh khi đánh bể được cái hộp vuông vật chất tù túng để mở tới được chiều kích tinh thần là vòng tròn viên mãn. Mà sức mạnh này nằm ngay trong những gì xem ra tầm thường hằng ngày.
Sức mạnh tinh thần chính là hòa nhập vào sức thiêng vượt trên mình, cậy dựa vào quyền năng của Đấng Tối Cao. Nói khác hơn là biết để cho Chúa làm việc. Tin Vui tuần này cho thấy một đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa Giêsu giảng đạo một cách say mê. Linh Mục Trần Văn Kiệm trong phần diễn giải Tin Mừng theo Thánh Gioan đã cho biết tại sao lại có đám đông dân chúng như thế quây tụ nghe Chúa Giêsu giảng tại vùng Biển Hồ, vì đây là dịp Hội Vượt Qua khoảng giữa tháng tư đầu xuân cây cỏ xanh tươi, người Do Thái từ Galilê hành hương xuống Giêrusalem thường men heo Biển Hồ và tả ngạn sông Gio-Đan để tránh đi qua miền đất Samaria. Đám đông đã theo Chúa Giêsu cả mấy ngày rồi, nay đã hết đồ ăn mà không biết tìm cách nào vì đây là vùng đồng quê.
Đang khi nhiều người tìm những giải pháp khác nhau như môn đệ Philip, nghĩa là vẫn còn dựa vào sức mạnh vật chất hay tìm mặt nổi, thì một mình An-rê đã nhận ra giải pháp bằng sức mạnh tinh thần nơi Chúa Giêsu. Nên khi được khỏi phải giải quyết thế nào thì An-rê đã nói một xách xem ra rất ngớ ngẩn nhưng lại là một giải pháp đúng nhất.
“Có đứa bé mang theo hai đồng bánh lúa mạch và hai con cá nhưng người đông, ngần ấy thấm thía gì?” (Gioan 6:9).
Khi đi hành hương, người Do Thái thường đeo trên lưng một cái sọt đựng đồ ăn, nhưng nay sau nhiều ngày thì Chúa Giêsu biết rõ lương thực đã cạn. Theo môn đồ Philip chiết tính thì cũng phải sáu tháng lương mới cho mỗi người được một mẩu bánh mì làm sao đủ chép miệng! Vậy mà An-Re lại tìm giải pháp nơi một đứa bé chứ không phải một ông bự giầu có, và chỉ bằng năm đồng bánh lúa mạch là loại bánh rất thường, dành cho người nghèo và gia súc.
Đây là lúc quyền năng Chúa hoạt động. Chúa Giêsu đã đọc kinh cầu phúc biến thành phép lạ cho năm ngàn người ăn no nê mà dư tới mười hai sọt mẩu bánh. Lời thánh vịnh 24 được thể hiện qua mỗi thánh lễ:
Có Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi,
Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ.
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi.
Tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng.
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, từ Chúa Nhật 17 tuần này tới Chúa Nhật 21 Thường: TN 17B-77
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, từ Chúa Nhật 17 tuần này tới Chúa Nhật 21 Thường Niên, nghĩa là trong vòng 5 tuần lễ liền, các bài Phúc Âm thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B vốn theo Thánh Ký Marcô này sẽ theo Thánh Ký Gioan, những bài Phúc Âm về biến cố hóa bánh ra nhiều và bài giảng về Bánh Hằng Sống. Thực tế cho thấy Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan rất hiếm có trường hợp trung với bộ Phúc Âm Nhất Lãm, nếu có trùng, thì cũng rất hiếm, như những đoạn về vị tiền hô Gioan Tẩy Giả và đoạn về Mầu Nhiệm Vượt Qua, song nội dung của một ít đoạn trùng này cũng hầu như rất khác biệt. Bài Phúc Âm về biến cố bánh hóa nhiều được Giáo Hội giành cho Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần này là một trong mấy đoạn trùng hợp giữa Phúc Âm Thánh Gioan và bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong khi Thánh Ký Gioan chẳng những thuật lại biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều giống như bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm về lần thứ nhất Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều này mà còn ghi lại cả một bài giảng dài hết sức lạ lùng thần bí về Bánh Hằng Sống đi kèm nữa.
Chúng ta sẽ chia sẻ về chính bài giảng này vào ba Chúa Nhật (XVIII, XIX, XX) tới, cũng như về hậu quả của bài giảng này vào Chúa Nhật XXI sau đó. Hôm nay chúng ta chỉ chia sẻ về biến cố bánh hóa ra nhiều theo quan điểm của Phúc Âm Thánh Gioan, một quan điểm liên quan đến vai trò của một vị mục tử, một vị mục tử động lòng thương dân chúng đông đảo tuốn đến với Người như đàn chiên vô chủ, một chi tiết duy nhất (trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm) được thấy trong bài Phúc Âm Thánh Ký Marcô tuần trước. Tuy nhiên, vì Thánh Ký Marcô chỉ nêu lên nhận định có tính cách mục tử về Chúa Giêsu chứ không khai triển thêm nhận định này, mà Giáo Hội đã cần phải sử dụng bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, bài Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 6 này tuy không trực tiếp nói đến vai trò và tinh thần của một người mục tử nhân lành như ở đoạn 10, nhưng cũng đã cho thấy trước tất cả ruột gan của vị mục tử nhân lành, vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên (x Jn 10:11), ở chỗ, đã tự trở thành bánh nuôi chiên (x Jn 6:57), cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn (x Jn 10:10).
Vấn đề của bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Marcô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, dù biết dân đang đói, vẫn cứ nuôi dân bằng lời Chúa trước, nuôi dân bằng một bài giảng dài, và dân chúng, tuy đói, vẫn hăng say nghe lời Chúa, như chưa bao giờ được ăn những của cao lương mỹ vị thiêng liêng như vậy. Vấn đề của bài Phúc Âm tuần này là Chúa Giêsu chẳng những nuôi dân chúng, thành phần tìm kiếm Người và khao khát Người, bằng lời Chúa mà còn bằng của ăn phần xác nữa. Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi thành phần dân chúng theo đuổi để nghe lời Người đây thực sự nói lên cho thấy vai trò Cứu Thế của Người, một vị cứu thế của toàn thể nhân loại (được biểu hiệu qua hình ảnh đám đông dân chúng), và là một vị cứu tinh toàn diện con người (tức cả hồn lẫn xác, chứ không phải chỉ cứu có hồn thôi). Người là vị cứu tinh linh hồn con người khỏi tội lỗi bằng việc Người tỏ mình ra cho họ, tức bằng việc Người tái sinh họ “bởi nước” là những gì liên quan đến nhân tính của Người, qua các lời Người nói và việc Người làm, cũng như “bởi Thần Linh” là Đấng làm cho họ nhận biết Người; Người còn cứu cả thân xác con người khỏi tử thần nữa, bằng quyền năng phục sinh của Người, khi Người biến thân xác yếu hèn của họ ngay khi còn sống trên trần gian thành dụng cụ hoạt động cho bác ái, tận tuyệt hy sinh phục vụ tha nhân, những việc hoàn toàn ngược lại với khuynh hướng vị kỷ sinh tồn và hoàn toàn vượt khả năng tự nhiên hữu hạn của họ, nhất là bằng cuộc phục sinh cánh chung thân xác của họ.
Vấn đề được đặt ra ở đây là hiện tượng và ý nghĩa “hóa nhiều” của 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô. Trước hết về hiện tượng “hóa nhiều”, một hiện tượng phát xuất từ hành động ban phát của các môn đệ. Bởi vì, khi Chúa Giêsu cầm 5 ổ bánh trước và 2 con cá khô sau, dâng lời cảm tạthì vẫn là 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô, không hơn không kém. Thế nhưng, con số 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô này đã “hóa nhiều” khi chúng được truyền đi từ Chúa Giêsu sang các môn đệ và từ các môn đệ sang đám đông dân chúng. Vì là phép lạ vượt tự nhiên, chúng ta không biết được tại sao và làm sao 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá khô này có thể “hóa nhiều” hơn cả ngàn lần ấy, thế nhưng, qua phép lạ này, ở đây, chúng ta thấy được một số chân lý hợp với lời Chúa:
Thứ nhất, hiện tượng “hóa nhiều” đây nói lên tình trạng dồi dào, (chứ không phải chỉ đầy đủ hay vừa đủ), một thứ dồi dào Chúa Giêsu Mục Tử muốn cho chiên của mình được hưởng: “Tôi đến cho chúng được sự sống và là một sự sống viên mãn” (Jn 10:10).
Thứ hai, hiện tượng “hóa nhiều” đây còn nói lên chân lý cành nho mới là nơi sinh muôn vàn hoa trái chứ không phải thân nho, miễn là cành nho phải dính liền với thân nho (x Jn 15:5), vì ở trường hợp này, tác động phân phát của các môn đệ sau khi nhận lãnh từ Thày đã gây nên hiện tượng “hóa nhiều”.
Thư ba, hiện tượng “hóa nhiều” đây cho thấy đường lối càng cho càng có, càng phân phát càng dồi dào, càng bỏ càng còn, đúng như lời Chúa phán với các môn đệ: “Ai yêu sự sống mình thì làm mất nó, còn ai ghét sự mạng mình trên thế gian này thì lại giữ được nó cho sự sống đời đời” (Jn 12:25; x Mt 16:25). Thật vậy, hiện tượng “hóa nhiều” này cũng đúng theo định luật tự nhiên nữa. Điển hình nhất là trường hợp người mẹ, ở chỗ, sở dĩ bà có sữa là vì có con, và bà chỉ còn sữa khi cho con bú, bằng không thì nguồn giữa của bà sẽ cạn kiệt rất nhanh.
Ngoài ra, hiện tượng “hóa nhiều” đây còn liên quan đến chất liệu được hóa nhiều, đó là 5 ổ lúa mạch và 2 con cá khô, tức là những gì ăn liền mà không cần phải nấu nướng. Theo Phúc Âm Nhất Lãm, trừ Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu còn thực hiện việc hóa nhiều lần thứ hai nuôi 4 ngàn người nữa. Trong lần thứ hai này, Thánh Ký Marcô chỉ nói đến 7 ổ bánh, còn Thánh Mathêu nói thêm, ngoài 7 ổ bánh còn có mấy con cá nhỏ nữa (x Mt 15:34). Nếu cả hai lần “hóa nhiều” nuôi dân này, hai chất liệu cần có là bánh và cá thì chắc hẳn hai chất liệu này phải có một liên hệ với nhau và với Chúa Giêsu. Thật vậy, bánh và cá là hai món đồ ăn thông dụng nhất như một thứ lương khô thuận lợi cho thành phần đi đường xa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã lợi dụng những vật dụng, những thứ tự nhiên ấy để dẫn con người vào lãnh giới siêu nhiên, vào mầu nhiệm thần linh cao cả. Như Người đã dùng hình ảnh nước và việc kín nước bình thường để nói chuyện với chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp (x Jn 4:1-26). Vậy bánh và cá đây liên quan đến Chúa Kitô như thế nào? Nếu không phải bánh liên quan đến chính bản thân Chúa Kitô nói chung và đến thân xác của Người nói riêng (x Jn 6:51), như Người khẳng định trong bài Phúc Âm về Bánh Hằng Sống trong ba tuần tới.
Còn cá? Trước hết, hình ảnh cá là biểu hiệu cho Chúa Kitô trước thế kỷ thứ 5. Chữ cá theo tiếng Hy Lạp là ichthus, tức chữ bao gồm những mẫu tự tắt về Chúa Giêsu: Iesous, CHristos, THeou, Uios, Soter, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế. Ngoài ra, theo người chia sẻ bài này, cá còn là hình ảnh liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua nói chung và hình ảnh mồ táng nói riêng, vì Chúa Giêsu đã khẳng định với những người luật sĩ và biệt phái Do Thái không tin Người mà chỉ đòi xem dấu lạ rằng: “Không có một dấu lạ nào ngoài dấu lạ tiên tri Giona. Như Giona ở trong bụng cá voi ba ngày ba đêm thế nào, Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12:39-40). Thánh Thể được Chúa Kitô thiết lập để Giáo Hội cử hành mà nhớ đến Người, nhớ đến cuộc tử nạn của Người, nhớ đến việc “mình Thày bị nộp vì các con”, “máu Thày đổ ra cho các con” (Lk 22:19-20). Bánh và cá đi với nhau trong phép lạ “hóa nhiều” là như thế: Bánh là tiêu biểu cho mình Chúa Kitô và cá tiêu biểu cho cuộc tử nạn của Người.
Chưa hết, cá còn tiêu biểu cho cả sứ vụ tông đồ truyền giáo của Giáo Hội trong việc tung lưới bắt cá người nữa (x Mt 4:19). Thế nhưng, nếu Chúa Kitô khẳng định Người đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến thân làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28). Về chữ “nhiều người” đây không phải là Người chỉ có cứu bằng đó hay khả năng cứu độ của Người chỉ có như thế, trái lại, công nghiệp của Chúa Kitô có khả năng cứu rỗi “tất cả” loài người, và mục đích cứu chuộc của Chúa Kitô là cứu rỗi “hết mọi” người. “Nhiều người” đây là hình ảnh của thành phần được cứu rỗi qua công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, một hình ảnh đã được tiên báo khi các tông đồ, vào lúc mới bắt đầu theo Thày cũng như sau khi Thày phục sinh từ trong cõi chết, vâng lời Thày thả lưới theo sự chỉ dẫn của Thày và đã bắt được một mẻ cá đầy đến gần rách lưới (x Lk 5:4-7; Jn 21:6-7). Như thế, vấn đề có người một lần kia đặt ra với Chúa Giêsu là “có phải số người được cứu rỗi ít hay chăng?” (x Lk 13:23), tuy Chúa Giêsu bấy giờ không trả lời thẳng vấn đề, mà chỉ nói đến nỗ lực của con người và tác dụng của ân sủng liên quan tới số phận đời đời của con người, ở đây, nhân bài Phúc Âm về phép là “hóa nhiều” liên quan đến cá này, một hải sản lại liên quan đến sứ mệnh tông đồ truyền giáo của Giáo Hội, một Giáo Hội, qua các tông đồ ngày xưa đã đánh được những mẻ cả lạ, một Giáo Hội như cành nho luôn dính liền với thân nho nên tiếp tục trổ sinh muôn vàn hoa trái, thì có thể suy ra rằng “nhiều người” được cứu rỗi chứ không ít.
Một cựu quân nhân Việt Nam kể như sau: "Tôi là một chiến sĩ Cộng Hòa, cấp bậc Trung Uý.: TN 17B-78
Một cựu quân nhân Việt Nam kể như sau:
"Tôi là một chiến sĩ Cộng Hòa, cấp bậc Trung Uý. Tôi bị giải giới sau biến cố 1975. Sau giải ngũ tôi về sống với gia đình ở Long Thành, tỉnh Phước Tuy. Được vài bữa, họ gọi tôi đi khai báo và học tập một tuần cơm gạo mang theo, sau đó họ liệt tôi vào số ngụy quyền cao cấp nguy hiểm, làm việc cho Mỹ nhiều năm. Thế rồi họ chuyển tôi đi trại cải tạo ở Biên Hòa, rồi đưa tôi đi biệt giam tạivùng cao nguyên nước độc Yên Bái, Lạng Sơn suốt 12 năm trường, không có thân nhân giúp đỡ. Tôi sống với các bạn tù toàn là thứ gộc từ đại úy, thiếu tá, trung tướng..... Ban ngày công tác lao động trồng mì trồng sắn, ban đêm bị xích lại với nhau trong những dẫy nhà giam khổng lồ. Mỗi bữa được một bát cơm trộn ngô bắp với vài hạt muối. Nhiều bạn tôi đói lả, sinh ra bệnh hoang tưởng, lấy lòng cán bộ, không tin tưởng nhau, cắn xé nhau, hằn thù nhau. Sau cùng, tôi và một người bạn đứng lên lôi kéo anh em, tổ chức những tối cầu nguyện, chia sẻ. Các tù nhân từ từ thống hối, từ 2 đến 3 rồi 5 người, rồi lan ra cả trại. Họ hiểu hoàn cảnh của nhau, thương yêu nhau, chia sẻ với nhau mọi nỗi khổ đau của cuộc sống tù nhân."
Câu chuyện của hai người tiền phong cũng giống như em bé trong Phúc Âm làm điều mình có thể. Em đã dâng Chúa những gì mình có để Chúa làm tất cả. Chúa biến đổi hai con cá và năm chiếc bánh thành nhiều phần ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Từ hai người trong trại tù cải tạo làm men biến đổi cả trại tù thành một đoàn môn đệ nhiệt thành của Chúa Kitô. Chúa cần em bé dâng cho Chúa hai con cá và năm cái bánh cũng như Ngài cần có người giống như qúy vị và tôi dâng cho Ngài tài năng, hy sinh và lời cầu nguyện hàng ngày, để Ngài biến thành của ăn uống thiêng liêng, hữu ích cho dân Ngài đang đói lả dọc đường.
Nếu hằng ngày chúng ta biết dâng "bánh và cá" cuộc đời cho Chúa, thì Ngài sẽ lãnh nhận và biến thành hữu ích cho chính chúng ta và toàn thế giới ngoài sự tưởng tượng của mình.
Công Đồng Vatican II đã dạy: “Giáo Hội đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính: TN 17B-79
Công Đồng Vatican II đã dạy:
“Giáo Hội đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thánh Thể Chúa: nhất là trong phụng vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy Bánh ban Sự Sống từ Bàn Tiệc Lời Chúa cũng như Bàn Tiệc Mình Chúa Ki-tô mà trao ban cho các tín hữu.” (1).
Giáo lý trên của Công Đồng trùng hợp với Giáo huấn của Thánh Kinh trong các bài đọc Chúa Nhật 17 Thường Niên Năm B hôm nay: Đời sống tâm linh của Ki-tô hữu cần phải được nuôi dưỡng bằng Lời & Bánh. Lời và Bánh đều là quà tặng “nhưng không” của Thiên Chúa và Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô. Tâm hồn và thân xác chúng ta càng được Lời và Bánh nuôi dưỡng thì càng cường tráng, khỏe mạnh.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: 2 V 4,42-44: Họ sẽ ăn và vẫn còn dư.
42 Hồi ấy trong miền có nạn đói. Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: "Phát cho người ta ăn." 43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì ĐỨC CHÚA phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư."44 Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời ĐỨC CHÚA phán.
(2) Bài đọc 2: Ep 4,1-6: Kêu gọi hiệp nhất.
1 Thưa anh em, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3 Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 6,1-15: Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14, 13 -21; Mc 6, 30- 44; Lc 9,10 -17).
1 Hôm ấy, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? " 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: 9 "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" 10 Đức Giê-su nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (2 V4,42-44) là câu truyện chia sẻ bánh của ngôn sứ Ê-li-sa với những người đang đói cần bánh để sống trong thời kỳ khó khăn của cả vùng. Thay vì cất giữ bánh cho riêng mình, người của Thiên Chúa là ngôn sứ Ê-li-sa đã mở rộng cõi lòng và bàn tay mà đem bánh chia cho những người có nhu cầu. Làm thế vì ngôn sứ Ê-li-sa tin vào Lời Thiên Chúa và biết chắc rằng Thiên Chúa sẽ không để ông phải đói vì Thiên Chúa là Đấng vừa quyền năng vừa yêu thương.
Phép lạ bánh hóa nhiều là biểu hiện của lòng Thiên Chúa yêu thương và của lòng tin của Ê-li-sa là vị ngôn sứ. Phép lạ này loan báo phép lạ bánh hóa nhiều Chúa Giê-su sẽ thực hiện trong đời sống rao giảng Tin Mừng (bài Phúc Âm).
(2) Bài đọc 2 (Ep 4,1-6) là những lời Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Ê-phê-sô về cách sống thích hợp của các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô: ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; sống tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau; thiết tha duy trì sự hiệp nhất của Thần Khí, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau.
Nguyên lý hay lý do thâm sâu và mang tính tôn giáo của nếp sống ấy là: Các Ki-tô hữu chỉ có một Thiên Chúa là Cha Chung của mọi người, là Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người; Họ cũng chỉ có một Thân Thể (là chính Chúa Ki-tô), một Thần Khí (là Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho tất cả những ai nhận phép Rửa trong Chúa Ki-tô), một niềm hy vọng (về ơn cứu độ, về đời sau), một niềm tin và một phép rửa tha tội và cứu độ.
(3) Bài Tin Mừng (Ga 6,1-15) là tường thuật của Thánh Gio-an về phép lạ Chúa Giê-su đã làm để hóa bánh ra nhiều, nuôi hơn năm ngàn người khỏi đói. Câu truyện này có ít nhất 3 ý nghĩa sau đây:
* Ý nghĩa thứ nhất là Chúa Giê-su muốn đáp lại tấm lòng chân thành của đám đông khao khát tìm nghe lời Người mà không màng đến nhu cầu ăn uống;
* Ý nghĩa thứ hai là Chúa Giê-su thể hiện quyền năng thần linh và sứ mạng thiên sai của Người. Cũng như xưa kia Thiên Chúa nuôi dân Ít-ra-en bằng man-na trong sa mạc thì nay Chúa Giê-su nuôi những người tìm nghe Lời Chúa bằng bánh và cá của phép lạ sau khi đã nuôi họ bằng lời giảng dạy về Nước Trời. Cũng như xưa kia Thiên Chúa dùng Mô-sê để giải thoát và tập hợp dân Ít-ra-en thành dân của Giao Ước (cũ) thì nay Chúa Giê-su là Mô-sê mới có sứ mạng tập hợp muôn nước muôn dân thành dân của Giao Ước (mới). Lời và Bánh là lương thực cần thiết cho cuộc lữ hành trần gian của Dân Chúa.
* Ý nghĩa thứ ba là tất cả những người được ăn cùng một Bánh, uống cùng một Lời có trách nhiệm làm nên một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và thuận hòa. Cộng đoàn ấy là hình ảnh sống động và là loan báo cụ thể về Cộng đoàn Vương Quốc mà Thiên Chúa sẽ thiết lập giữa loài người.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay có hai phần, là:
(a) Vì là Đấng yêu thương và quyền năng, Thiên Chúa đã dùng LỜI & BÁNH để tập hợp và dưõng nuôi người Ki-tô hữu. Ai tin vào LỜI thì sẽ không phải đói. Ai ăn BÁNH thì sẽ được no nê. Bánh cũng như Lời đều cần cho sự sống con người: muốn sống mạnh mẽ và dồi dào, con người cần rước Lời và rước Mình như chính Công đồng Vatican II đã dạy (1).
(b) Những người cùng rước LỜI và nhận BÁNH thì lập thành một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và thuận hòa để làm chứng cho Tin Mừng và loan báo Vương Quốc của Thiên Chúa giữa loài người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay là thực hiện ba việc sau đây:
- Thứ nhất: nuôi dưỡng lòng khát khao đón nghe và tiếp nhận LỜI và BÁNH Thiên Chúa ban cho một cách “nhưng không” và “dư giả”;
- Thứ hai: chia sẻ với người chung quanh LỜI và BÁNH mà mình đã nhận được từ Thiên Chúa, từ Chúa Giê-su và từ Giáo Hội ;
- Thứ ba: xây dựng cộng đoàn gia đình, giáo xứ, giáo phận và cộng đồng xã hội thành cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và thuận hòa như Chúa Giê-su mong muốn.
Mỗi người, mỗi cộng đoàn phải tự vấn lương tâm và kiểm điểm đời sống xem mình đã thực hiện ba điều ấy như thế nào, để trả lời trước mặt Chúa.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là “Lời của Thiên Chúa”, là “Bánh Từ Trời” mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại để mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Xin Chúa nuôi dưỡng tâm hồn chúng con và tâm hồn những người khát khao tìm đến Chúa!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là “Lời của Thiên Chúa”, là “Bánh Từ Trời” mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại để mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Xin Chúa mở lòng, mở trí, mở tay chúng con để chúng con biết sống chia sẻ Lời và Bánh với mọi người; nhất là với những người thiếu thốn phần hồn phần xác !
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là “Lời của Thiên Chúa”, là “Bánh Từ Trời” mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại để mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Xin Chúa hỗ trợ chúng con khi chúng con nỗ lực xây dựng gia đình, giáo xứ và giáo phận thành cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và hòa thuận! Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Kansas City (MO/USA) ngày 23.07.2006
Ông Tâm là một nông gia. Ngày kia, sau khi bán hết nông phẩn chở từ Cái Sắn lên thành phố: TN 17B-80
Ông Tâm là một nông gia. Ngày kia, sau khi bán hết nông phẩn chở từ Cái Sắn lên thành phố Hồ Chí Minh, ông ghé vào tiệm để ăn một bữa trước khi trở về. Ông ngồi gần bàn một nhóm cán bộ đang hạch hỏi làm khó dễ người chủ tiệm và chọc ghẹo cô chiêu đãi viên. Khi món ăn đã đem đến cho ông, ông nghiêm trang làm Dấu Thánh Giá và cúi đầu thầm thĩ đọc kinh trước khi dùng bữa như thường quen. Thấy thái độ đạo đức của ông, bọn cán bộ tỏ vẻ tức tối khó chịu muốn gây sự với ông, thế là một tên trong bọn quát thật lớn như muốn cho mọi người trong tiệm ăn đều có thể nghe được: "Này bác già nhà quê kia ơi, bác từ đâu tới vậy? Trong thời buổi văn minh Xã Hội Chủ Nghĩa này mà còn kinh với kệ như vậy sao?" Rất bình thản, ông Tâm quay lại, với giọng ngọt ngào nhưng trịnh trọng cũng nói lớn tiếng, cốt ý cho mọi người có thể nghe được: "Thưa đồng chí cán bộ, tôi thiết tưởng, chỉ có bày heo, bày chó mới không đọc kinh cảm tạ ơn Chúa như vậy trước khi dùng bữa thôi!"
Mẩu truyện trên đây xảy ra giữa một Xã Hội Chủ Nghĩa mà kẻ thống trị đang ở thế mạnh, thì thật là một điều nguy hiểm đáng sợ. Không biết rồi ra số phận ông nông gia sẽ đi về đâu. Nhưng dầu sao, thái độ can đảm của ông cũng nêu cho chúng ta một mẫu gương đức tin sống động và lòng biết ơn Thiên Chúa, khiến chúng ta phải suy nghĩ và hết lòng cảm phục.
I. NHÂN LOẠI ĐANG ĐÓI KHÁT
Bài sách Các Vua chúng ta vừa nghe, thuật lại mối cảm thương của nhà tiên tri trước cảnh đói khát của hàng trăm người đang chờ đợi ông, nên khi vừa nhận được lễ vật là 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa do một người từ Baal Salisa đem đến dâng, người của Thiên Chúa đã truyền ngay cho các đệ tử ngài phân phát cho dân chúng ăn. Chỉ có 20 chiếc bánh mà hàng trăm người ăn no mà vẫn còn dư đúng như lời Chúa đã phán trước.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng tường thuật một phép lạ vĩ đại, Chúa đã dùng 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá, nuôi 5000 người đang đói, ăn no thỏa thích mà phần còn dư thu lại được đầy 12 thúng. Thấu tỏ nỗi thống khổ của nhân loại đang đói khát, không phải họ chỉ đói khát cơm bánh mà thôi, mà còn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát Chân Lý và Lời Hằng Sống, nên Chúa rất động lòng thương phán với các môn đệ: "Thầy thương xót đám dân đông đảo này, vì họ bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt".
Ngày nay, thảm cảnh đói khát ấy vẫn còn đang diễn ra khắp đó đây trên thế giới. Cảnh đói khát cơm bánh thuốc thang và những nhu cầu vật chất tại các nước nghèo nàn chậm tiến đã khiến hằng năm có từng triệu, từng triệu người bị chết đói, nhất là ở Ấn Độ, Phi Châu hoặc nơi các nước thuộc quyền đảng cộng sản thống trị, như các nước Nga Sô, Trung Cộng, Việt Nam chẳng hạn, lại càng thảm khốc hơn nhiều. Nhưng còn một cơn đói khát thảm khốc hơn bội phần, đó là cơn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát chân lý, đói khát tình thương yêu, đói khát sự công bình xã hội, đói khát quyền tự do nhân bản... Cơn đói khát này đã làm cho con người phải héo hắt mòn mỏi, đến nỗi nhiều người đã trở nên điên khùng, và vì quá khổ đau, quá căng thẳng khiến họ bị quẩn trí, đến phải quyên sinh, tự vẫn cách tất tưởi.
II. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO
Chúng ta phải chân thành thú nhận rằng: Chúa ban cho chúng ta được may mắn hơn nhiều người, được thoát ách cộng sản độc tài, đến mảnh đất tự do này. Chúng ta được đầy đủ về mọi phương diện cả tinh thần lẫn vật chất hơn biết bao người khác. Ngoài những nhu cầu vật chất, cơm ăn, áo mặc, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ... Chúng ta còn được hưởng tình thương yêu, đức công bình xã hội, sự tự do: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú... Chúng ta không bị chèn ép, bị đe dọa, bị nhòm ngó rình rập như số phận của đồng bào chúng ta đang phải chịu bên quê nhà.
Đành rằng, có một số người trong chúng ta cũng phải chịu cảnh thiệt thòi đôi chút, vì thời vàng son không còn nữa, chức vị Tướng Tá, Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng... không còn nữa. Nhưng bù lại, con em chúng ta lại có nhiều cơ hội tiến thân, được hội nhập vào xã hội văn minh tân tiến, mở mang kiến thức, trau dồi nghệ thuật, thăng tiến cuộc sống, để trong tương lai khi được trở về quê hương, xây dựng đất nước, làm nở mặt rạng danh cha mẹ; con em chúng ta sẽ thay thế chúng ta tất cả những gì chúng ta chưa thể làm cho dân tộc như lòng chúng ta mong muốn.
Nhiều người trong số đồng bào Việt Nam chúng ta ở hải ngoại này chưa nhìn nhận ra ơn Chúa ban, họ chỉ biết phàn nàn trách móc thời cuộc, trách móc người lãnh đạo, trách móc cả Thiên Chúa nữa... Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta? Trong khi chúng ta được may mắn, hưởng biết bao ơn lành Chúa ban, mà đồng bào và thân nhân chúng ta ở bên quê nhà, cũng như biết bao người nghèo đói thiếu thốn khổ cực trên thế giới không được hưởng, họ thèm khát số phận của chúng ta mà không được.
Thiết tưởng, không gì hơn, chúng ta hãy noi gương Chúa, động lòng trắc ẩn trước cảnh đói khát, trước nỗi khổ đau của nhân loại, nhất là của đồng bào và thân nhân nghèo khổ của chúng ta còn ở bên quê nhà, mà rộng tay quảng đại cứu giúp họ, bằng bất cứ cách nào có thể vừa tầm tay của chúng ta.
Thứ đến, chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho chúng ta, nhất là chúng ta hãy lo sống đạo, thánh hóa cuộc sống, tìm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước hết; đồng thời, chúng ta hãy hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, luôn thuần phục thánh ý Người trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Người sẽ định liệu và ban cho chúng ta những ơn cần thiết, miễn sao lợi ích cho linh hồn chúng ta theo sự khôn ngoan quan phòng của Người.
Kết Luận
Trước mỗi lần Chúa Kitô làm một phép lạ thương giúp nỗi khốn cùng của người nào, hoặc mỗi khi Chúa dọn bữa cho dân chúng ăn, như trường hợp Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều nuôi dân chúng, Chúa luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng lên Thiên Chúa Cha để tạ ơn Người và xin Người rộng tay ban ơn giáng phúc cho nhân loại những nhu cầu cần thiết.
Chúng ta cũng hãy cố giữ thói quen đạo đức này và tập cho con em chúng ta duy trì việc dâng lời ngợi khen và cảm tạ Chúa trước sau bữa ăn; cũng như dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa ban cho chúng ta trong cả cuộc sống; đồng thời, biết can đảm làm chứng nhân cho Chúa như ông nông gia trong câu truyện trên, cho dù sẽ phải trả một giá đắt mấy đi nữa, miễn sao Chúa được nhận biết, được tôn thờ, được phụng sự và yêu mến.
Một đêm, khi máy bay vừa hạ cánh, một người đàn ông sang trọng bước ra khỏi máy bay tại một: TN 17B-81
Một đêm, khi máy bay vừa hạ cánh, một người đàn ông sang trọng bước ra khỏi máy bay tại một phi trường ở Ấn Độ. Điều đầu tiên đập ngay vào mắt ông, chính là những người vô gia cư đang nằm vô trật tự hai bên đường bay. Suốt ngày, đường bay hấp thụ sức nóng, để đêm về trở thành chiếc lò sưởi cho những người bần cùng này.
Sau đó, người đàn ông rảo bước trong phố đêm hoang vắng về khách sạn. Hình ảnh người khổ nghèo lại đập vào mắt ông. Đó là những thân hình co quắp trong đêm lạnh bên cạnh bàn chân đang bước đi khá thong dong của ông… Bỗng lịch kịch, lịch kịch… Những tiếng gõ khô khốc trong đêm đều đặn nhịp xuống mặt đường làm ông giật mình quay lại: Một thằng bé cụt chân hầu như đến tận háng, đang chống đôi nạng gỗ, cố gắng trườn mình thật nhanh đuổi theo ông. Ông cầm tất cả số tiền lẻ trong túi nhét vào tay thằng bé rồi quay đi… Bỗng ông nghe tiếng la thất thanh và tiếng động dữ dội một cách kỳ lạ vang lên ở phía sau. Hóa ra, thằng bé bị những kẻ “đồng hội đồng thuyền” đánh túi bụi bằng chính đôi nạng gỗ của nó. Họ cưỡng bức thằng bé để đoạt số tiền mà ông vừa cho nó. Đôi mắt của ông chợt chùng xuống, gương mặt ông đượm buồn. Khách sạn sang trọng và tiện nghi, hơn gấp ngàn lần những cảnh đời chỉ có “màn trời chiếu đất”, những cảnh đời đang chìm sâu trong giấc ngủ co quắp mà ông bắt gặp, lại không thể cho ông một giấc ngủ ngon trong đêm ấy… Nhưng chỉ với những suy nghĩ như thế, nên ông chỉ biết có vậy. Ông biết làm sao hơn!…
Ngày nọ, có một phụ nữ vừa đứng tuổi, đã đưa bàn tay của bà nắm lấy lũ người khốn cùng này. Bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ kỹ. Bà đi khắp vùng, tìm lũ trẻ con đầu đường xó chợ, đem về và trao cho chúng hơi ấm của tình yêu. Đó là cách bà dùng để chiến đấu với cái nghèo, cái dốt và hung dữ của những đứa trẻ bạc phận. Bà chính là câu trả lời cho câu hỏi của người đàn ông sang trọng bên trên: “Tôi biết làm sao hơn?” Bà dạy ông biết cách nâng cao cuộc đời, không phải bằng cái đầu suy ghĩ, nhưng bằng chính trái tim hành động. Con đường từ cái đầu đến trái tim không xa, nhưng từ suy nghĩ đến hành động thì xa thăm thẳm. Xóa được khoảng cách từ suy nghĩ đến hành động, ông sẽ bình an, sẽ thấy cuộc đời đáng yêu hơn, ông sẽ hạnh phúc khi phục vụ hạnh phúc của đồng loại, và chắc chắn ông sẽ ngủ ngon.
Người đàn ông sang trọng đó không ai khác hơn là chính tác giả của câu chuyện này (trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”), ông Jay Kesler. Còn người phụ nữ trong câu chuyện thật sâu sắc, thật cảm động của ông không ai khác hơn là Mẹ Têrêsa thành Calcutta, nữ tu, chân phước, vị sáng lập dòng Thừa Sai Bác Ái.
Mẹ Têrêsa đã làm công việc mà trước Mẹ từ lâu, nhiều người đã làm và Thánh Kinh đã ghi lại. Bài đọc I, với 20 cái bánh lúa mạch của một nông dân, tiên tri Êlisê đã nhân lên nhiều để dọn cho 100 người ăn. Thật lạ lùng, với lao công của một con người và quyền năng của Thiên Chúa tình yêu thể hiện nơi một tiên tri, đã làm nên một bữa tiệc dư đầy. “Người ta ăn rồi mà hãy còn dư”.
Cũng vậy, chỉ với 5 cái bánh và hai con cá, công sức và hy sinh của một em bé trai đã góp phần vào lòng yêu thương của Chúa Giêsu, làm nên phép lạ diệu kỳ: 5,000 người ăn no nê mà vẫn còn dư đến 12 thúng đầy!
Mẹ Têrêsa đã trao cho Chúa tất cả bánh và cá của mình, đó chính là những đồng tiền còm cỏi của một nữ tu nghèo nhưng lại giàu tình yêu; giàu sự hy sinh; giàu lòng can đảm để mạo hiểm gánh một sức nặng vuợt sức người, đó là gánh cuộc đời anh chị em lên vai mình; giàu khối óc và con tim để dấn thân cho Chúa, dấn thân cho đồng loại… Chúa chỉ cần có thế, cần sức người cộng tác, để làm nên phép lạ cả thể, chữa lành mọi đói nghèo của anh chị em.
Nhưng không dừng lại trên sự no nê thân xác, với phép lạ hóa 5 chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn 5,000 người ăn tại bờ hồ Tibêria, Chúa Giêsu đưa ta tiến đến một phép lạ trường cửu, một phép lạ, mà ở đó, Lương Thực của nó, không có bất cứ thứ lương thực nào sánh ví: Phép lạ Mình Thánh Chúa làm tấm bánh bổ dưỡng đời đời.
Chính thánh Gioan đã tài tình liên kết ý nghĩa của phép lạ hóa bánh nuôi hơn 5,000 người với phép lạ Bánh Trưởng Cửu. Sau khi thuật lại việc hóa bánh nuôi thân xác, thánh Gioan bắt đầu cả một chương dài (trọn chương 6) tường thuật về việc Chúa Giêsu rao giảng Bánh Hằng Sống là chính Thánh Thể của Người.
Từ nay, nhân loại, nếu muốn được sống trong cõi đời tạm này hạnh phúc, bình an, họ có một nguồn cậy trông vững chắc, một chỗ dựa không bao giờ hư hao, để giữa trăm chiều lao khổ, long đong, thử thách, họ có chốn tìm về, ngã mình vào náu nương.
Từ nay, nhân loại, nếu muốn sống trong một sức sống dồi dào, một lẽ sống phong phú, họ có một suối nguồn chân lý, một đỉnh cao của núi khôn ngoan mà hứng lấy, mà hướng tới, mà đi lên, làm tăng giá trị đời mình.
Trên hết mọi sự, từ nay, nhân loại, nếu muốn bước vào sự sống và sức sống của chính Thiên Chúa, một sự sống và sức sống đời đời không tàn, không phai, họ có cả một trời yêu thương chứa đựng một sự sống và sức sống vô cùng, để ngay từ hôm nay, trong khi hưởng sự sống và sức sống ấy, sẽ là nấc thang đưa họ về cùng Chúa.
Hóa ra, nhìn đoàn người đông đảo nghe Chúa rao giảng đang đói lả, Chúa Giêsu băn khoăn: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”, thì đó chính là cái băn khoăn của một trái tim đập nhịp đập của chính tình yêu Thiên Chúa, một trái tim nhân từ của Người Cha Lành lo lắng cho đàn con.
Nhưng lời hỏi của Chúa không chỉ dừng lại trên đoàn người đang đói ăn. Nó tiến xa hơn, khi nhìn đến một nhân loại đang khao khát chân lý, khao khát sự sống đích thật. Vì thế, khi ban Bánh ấy cho nhân trần, Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ sống muôn đời. Và Bánh Ta ban tặng, chính là Thịt Ta đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51).
Chính vì phục vụ cho ý nghĩa “Bánh Hằng Sống”, thánh Gioan không bỏ qua một chi tiết quan trọng trong câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều. Chi tiết mà sau này, khi lập bí tích Mình Máu Người, Chúa Giêsu đã thực hiện. Chi tiết đó là: “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó?” (Ga 6, 11).
Sau này, khi lập bí tích quý trọng, cùng một nghi thức như hôm nay, Chúa đã làm cho bánh người cầm trong tay trở thành chính Bánh Thịt Máu Người. Người tự phân phát bánh nói lên sự tự hiến mạng sống của Người. Loài người không tầm thường chút nào. Ngược lại, họ cao quý quá đỗi, hạnh phúc của họ lớn lao và tuyệt vời qua đỗi: Họ được chính tay Thiên Chúa chăm lo. Họ được nuôi sống bằng chính việc tự trao ban sự sống của Người. Họ nhận được Lương Thực thần thiêng, điều mà chỉ có sức người mà thôi, sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa muốn dạy ta bài học của tình liên đới trong yêu thương, hiến dâng, hy sinh và cho đi. Người nông dân trong bài đọc I, trích sách Các Vua quyển thứ hai, đã dâng hiến những chiếc bánh là lao công của mình, lấy từ hoa quả đầu mùa, để tiên tri Êlisê khoản đãi hàng trăm người. Em bé trong câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều, chắc không ngờ rằng, việc dâng hiến những của cải quá nhỏ bé, nhưng là tất cả sự hy sinh của mình, đã có thể làm nên một phép lạ cả thể. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, hoàn toàn không thể hiểu hết, với sự dâng hiến cái nghèo khó của Mẹ, (khi bắt đầu công việc, trong tay Mẹ chỉ có 3 đồng xu), đã được Chúa làm cho nên giàu có, để ngày hôm nay, khi Chúa đã gọi Mẹ về với Người, Mẹ đã để lại cho Chúa cả một công trình đồ sộ trên trần gian. Chỉ tính tại Ấn Độ, Mẹ đã hiến dâng khoảng 100 trường học được trang bị đầy đủ, trên 300 nhà phát chẩn lao động hiện đại, trên 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi, 40,000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ Mẹ trong các công tác từ thiện…
Cũng vậy, mỗi người trong chúng ta hãy học cách trao tặng những gì mà chúng ta đang có. Chúa không đợi chúng ta dư giả, giàu có mới dạy chúng ta cách cho, nhưng hãy hiến dâng ngay cả khi chúng ta nghèo nàn. Với một tâm hồn hiến dâng thực sự, cái nghèo của chúng ta sẽ được Chúa làm phép lạ để nên giàu có cho nhiều người.
Tất cả chúng ta đều sinh ra với hai bàn tay trắng. Bước vào đời, ta là những người nghèo, nghèo thực sự. Hãy nhớ kỹ điều này để đừng sống ích kỷ, nhưng luôn luôn biết hiến dâng. Chúa không kêu gọi bạn và tôi làm phép lạ như Chúa, nhưng Chúa chỉ xin ta hãy yêu, hãy cho đi, hãy hiến dâng, hãy hy sinh. Phép lạ đương nhiên sẽ xảy ra sau khi ta cộng tác với ơn Chúa bằng tất cả khả năng của mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu này được thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất nơi con người Đức: TN 17B-82
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu này được thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất nơi con người Đức Giêsu. Thế nên, đến trong thế trần Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa làm nhiều phép lạ chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Không những Ngài quan tâm đến phần rỗi nhân loại mà Ngài còn quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác. Và hôm nay Ngài làm phép lạ để cho dân chúng ăn no nê. Ngài đã cho các môn đệ cộng tác trong phần của mình để có phép lạ xảy ra.
Con người cần sống liên đới trong tình thương. Từ phép lạ này, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông cũng có lòng thương nhưng chỉ ở mức "tội nghiệp" họ nên thưa với Chúa: "Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn". Đó là thứ yêu thương bình thường. Nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi xa hơn, thể hiện tình thương bằng việc làm cụ thể, liên đới với tha nhân trong đó có phần của các ông đóng góp tích cực, có phần các ông cộng tác "các con hãy cho họ ăn".
Thực tế, có tấm lòng thương người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, thực sự. Chúa Giêsu thể hiện và Ngài muốn chúng ta làm như thế. Như vậy, có lòng trắc ẩn, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ một cách cụ thể. Chúa không đòi chúng ta phải làm quá sức mình, hay những việc ngoài khả năng nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, giúp đỡ, phải biết làm những gì có thể làm được trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ tiếp tay thực hiện. Điều khác cũng quan trọng không kém là không phải cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra người khác cũng là con Thiên Chúa, là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta hãy biết cộng tác. Thật thế, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Có thể nói cũng vậy, nếu không có bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, bởi vì theo Thánh kinh, từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ trong hư vô (Stk 1, 1 - 24) Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Tuy nhiên ở đây Chúa muốn cho các môn đệ và tất cả chúng ta thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, dù rất nhỏ của một em bé. Em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Vì thế, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Như vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: "Anh em hãy cho họ ăn", nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta là Chúa cần có sự cộng tác của mỗi người trong chương trình của Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa tạo dựng con, Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con, Ngài cần có sự cộng tác của con".
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Chúa Giêsu đang ngỏ lời với chúng ta "Ta cần lòng quảng đại của các con". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì. Chẳng hạn như thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta. Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và hai con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết quảng đại bằng cách cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để làm cho cuộc đời này lan tràn tình thương của Chúa và phép lạ được tiếp tục thể hiện.
1.LỜI CHÚA: Người hỏi Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?" (Ga 6,5).
2.CÂU CHUYỆN: PHẢI THỂ HIỆN LÒNG BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ:
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời: TN 17B-83
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời Chúa dạy. Các bà ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm ra phương cách họat động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà kết quả chẳng đi đến đâu. Một hôm, trong lúc họ đang bàn cãi, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật được gói trong tấm khăn vải. Ngài đặt chiếc gói xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái mới sinh được khỏang ba ngày, bị bỏ lại bên cạnh đống rác mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói: "Các bà muốn làm việc bác ái thì đừng nói nhiều nữa mà hãy làm những việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay làm việc nuôi trẻ bị bỏ rơi này ngay đi !". Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ ngày đó.
3.SUY NIỆM:
Giống nhu Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban man-na nuôi dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc 40 năm về miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều, ám chỉ việc Người sẽ Man-na Mới là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đức tin của Ít-ra-en Mới là Hội Thánh trên bước đường vượt qua sa mạc trần gian để về Đất Hứa Nước Trời đời sau. Qua trình thuật này, chúng ta có thể rút ra được một số bài học về đức tin như sau:
a) Cộng tác làm việc tông đồ: Đức Giêsu nói với Phi-lip-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?" Dĩ nhiên Người có thể làm phép lạ hóa bánh từ trời để nuôi đám đông dân chúng, giống như Đức Chúa đã ban man-na từ trời rơi xuống nuôi dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn các môn đệ ý thức và nhiệt tâm cộng tác trong sứ vụ ban ơn cứu độ cho lòai người.
Ngày nay Ngừơi cũng muốn các tín hữu chúng ta ý thức bổn phận phải tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ Chúa hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi...
b) Sự bất lực của chúng ta: Tin mừng ghi lại lời của Phi-lip-phê nói lên sự bất lực của các môn đệ trước nhu cầu quá lớn: "Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút": Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ muốn thử để biết lòng tin của môn đệ, vì Ngừơi biết việc Người sắp làm.
Ngày nay khi mời gọi chúng ta cộng tác, hẳn Đức Giêsu cũng quá rõ về khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng Người muốn chúng ta ý thức bổn phận cộng tác, rồi vừa làm hết sức mình, vừa cậy trông vào tình thương và quyền năng của Người như Người đã dạy: "Vì không có Thầy anh em không làm gì được" (Ga 15,5b).
c) Cộng tác bằng việc làm cụ thể:
An-rê đã mau mắn đưa một bé trai đến và thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?". Chúa cần thiện chí của các môn đệ thể hiện qua các việc làm thiết thực cụ thể, hơn là thái độ ỷ nại "nói mà không làm".
Ngày nay Chúa muốn các tín hữu chúng ta làm những việc bác ái hợp với khả năng như thánh Gia-cô-bê dạy: "Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có lợi ích gì ? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no". Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì ? Cũng vậy, đức Tin không có hành động thì quả là đức Tin chết" (x. Gc 2,14-17). Vậy chúng ta có thể làm gì trong những ngày này để phục vụ Chúa hiện thân trong các người nghèo khổ, bất hạnh và đang bị bỏ rơi ?
d) Phải tiết kiệm trong sự chi dùng:
Đức Giêsu dạy các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
Ngày nay nhân lọai vẫn tồn tại hai lọai là người giàu và kẻ nghèo: "Kẻ ăn không hết người lần không ra !". 80% của cải trên trái đất đang nằm trong tay 20% người giàu. Còn hơn 700 triệu người không đủ cơm ăn áo mặc và một phần ba trẻ em ở lục địa đen (Phi châu) đang bị suy dinh dưỡng rất cần được trợ giúp. Qua việc ra lệnh cho môn đệ thu lại những miếng bánh thừa bị vứt bừa bãi, Đức Giêsu muốn chúng ta phải biết trân trọng lương thực Chúa ban, vì của cải là của chung hết mọi người và chúng ta chỉ được trao quyền quản lý. Cần chi tiêu tiết kiệm để có điều kiện chia sẻ cho những người nghèo đói hơn mình. Vậy chúng ta có thể tiết kiệm những gì để lấy tiền giúp đỡ những ngừơi nghèo đói bên cạnh ?
e) Phải đáp ứng cả nhu cầu về bánh tinh thần: Đức Giêsu có lần đã nhấn mạnh về giá trị của lương thực tinh thần như sau: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4):
Ngày nay lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin mang lại sự sống đời đời chính là Lời Chúa và Thánh Thể được ban trong thánh lễ. Chúng ta cần dự lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời như lời Chúa hứa: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuông. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga 6,51).
4.THẢO LUẬN: Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn nhiều người bị đói khát cơm ăn, áo mặc, thuốc men... và đói nghe Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Vậy chúng ta phải làm gì cụ thể trong khả năng giới hạn của mình để giúp người nghèo có cơm ăn áo mặc, người đau liệt có thuốc men chữa bệnh, trẻ em đường phố được người có trách nhiệm quan tâm chăm sóc nuôi nấng, người lương được nghe rao giảng Tin Mừng để tin Chúa và được sống đời đời sau này ?
5.NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Xin cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và đau khổ của tha nhân. Phần đóng góp của chúng con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người bất hạnh, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đói khát, một manh áo cũ cho người không áo che thân, một lời động viên an ủi cho người đang đau khổ vì bị hiểu lầm và đối xử bất công, một sự khoan dung tha thứ đối với những kẻ đang để tâm thù ghét làm hại chúng con... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi anh em. Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm vui lòng một người, mỗi ngày làm ít nhất một việc thiện..., để trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho "Danh Cha cả sáng, Nưốc Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
HẠNH PHÚC ĐÂU CHỈ CÓ CƠM NGON VÀ ÁO ĐẸP! Khi đời sống con người ngày càng: TN 17B-84
HẠNH PHÚC ĐÂU CHỈ CÓ CƠM NGON VÀ ÁO ĐẸP!
Khi đời sống con người ngày càng không đơn giản, quan niệm về hạnh phúc cũng lắm phức tạp. Khi nhu cầu mỗi ngày một cao thì quan niệm về hạnh phúc cũng dần dần đổi khác. Người sống trong đói nghèo hạnh phúc chỉ là bữa cơm no. Người sống trong binh biến, hạnh phúc là nỗi khát mong xoá bỏ hận thù, im bặt tiếng súng. Nhưng khi mọi nhu cầu thường ngày được đáp ứng người ta lại hướng về những ước vọng cao hơn, xa hơn: nhu cầu chiếm hữu, nhu cầu muốn trổi vượt hay chinh phục vũ trụ thiên nhiên.
Ngày 20.7.2009 vừa qua thế giới kỷ niệm 40 năm lần đầu tiên con người đặt chân lên cung trăng ngày 20.7.1969. Hai tên tuổi được nhắc đến là Amstrong và Buzz Aldrin là những người khai màu cho những ước mơ lớn và đã trở thành hiện thực. Con người đã làm được điều mình ước mơ.
Nhìn đoàn dân đi theo Chúa Giêsu mỗi người mang một ước mơ khác nhau. Người theo vì sự hiếu kỳ muốn chứng kiến điềm lạ. Người theo kiểu "phong trào" để giống với bao nhiêu người khác. Người theo với hy vọng đổi đời theo nghĩa trần thế. Người theo với ý hướng tôn giáo như Tin Mừng mời gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay là dấu hiệu đáp đền cho những ước vọng dân chúng. Đây là bữa ăn đặc biệt vì có nhiều điểm đặc biệt.
Đặc biệt vì không mất "tiền"
Nói đến bữa ăn không mất tiền không mang ý nghĩa tính toán thiệt hơn, lời lỗ cho bằng nhắc nhớ đây là ân ban của Thiên Chúa. Một ân ban mà con người có được không tốn một đồng xu. Ân ban vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh vừa lắp đầy cả nhu cầu vật chất.
Những ai bước đi theo Chúa, cách này cách khác đều có quà tặng của Người. Có những bệnh nhân được chữa khỏi dọc đường. Có kẻ tội lỗi được kêu mời hoán cải. Khi thấy họ còn khắc khoải về phận người thì Chúa Giêsu nói cho họ về Tám Mối phúc thật.
Nhu cầu tâm linh đã được chú ý nhưng nhu cầu vật chất cũng được quan tâm. Chúa Giêsu đã thấy được cái đói rã rời, mệt lã và cả cái đói khắc khoải, lo âu. Nhiều cái đói hoà trộn với nhau làm choán ngợp phận người. Có cái đói có tiền mới thoát khỏi, có cái đói có tiền cũng chẳng ăn thua. Chính Chúa xuất hiện đã làm tan biến mọi điều mà không cần con người phải vay trả trả vay.
Đặc biệt vì cần đến "tình"
Tình thương Thiên Chúa luôn dạt dào nhưng công việc của Ngài không làm cách đơn phương. Ngài muốn con người có phần cộng tác. Dù đóng góp nhỏ nhoi nhưng đó là dấu hiệu của lòng thành. Chữ "tình" muốn nói đến ở đây đó là tình thương chia sẻ, tình thương quan tâm đến người. Quan tâm bằng cái nhìn thấu hiểu, chia sẻ bằng những gì sẵn có trong tay.
Theo William Barclay, năm chiếc bánh lúa mạch của bé trai là loại bánh rẽ tiền. Bánh lúa mạch là loại bánh bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Do đó bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá cũng vậy, kẻ nghèo đâu được ăn cá tươi. Cá đứa bé chỉ là thứ cá thường, được ngâm muối, bắt lên từ biển Galilê. Đây là thức ăn phổ thông mà người trong vùng thường sử dụng.
Chúa không khinh chê sự đóng góp nho nhỏ của con người. Năm chiếc bánh cho năm ngàn người, tỉ lệ một phần ngàn thấm tháp vào đâu. Phải thừa nhận của cho ở đây không đáng giá nhưng cái tình thì quý biết bao. Tình của người quan tâm đóng góp, tình dân chúng quay quần trong bữa ăn, tình của Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót họ.
Đặc biệt vì cần đến "tin"
Phép là sẽ là niềm vui thoáng qua nếu nhiều người xem Chúa Giêsu như một ông Bụt trong chuyện cổ tích. Ông Bụt thường xuất hiện để ban bố khi con người cầu xin. Niềm tin đưa con người nhận ra Chúa Giêsu còn vượt xa ông Bụt nhiều. Từ bữa ăn trên thảm cỏ hôm nay Ngài mời gọi họ đến một bữa ăn ấm cúng trên Nước trời. Thức ăn bánh và cá sẽ được đổi bằng Thịt Máu Ngài.
Đức tin giúp con người thấy được sự thánh thiêng trong những gì thuần vật chất, thấy được phục vụ là niềm vui, thấy được cho có phúc hơn nhận. Phân phát bánh có vẻ vui hơn, chứ thu lại những mãnh vụn thì chẳng thích thú gì. Trong đức tin ta mới tìm thấy niềm vui trong phục vụ. Tình nhiều khi không cũng có nhưng đức tin cần có sự góp nhặt ân ban từng ngày mới có kinh nghiệm đức tin và sống đức tin.
Từ bữa ăn đặc biệt Chúa Giêsu muốn hình thành nơi mỗi người chúng ta một cách sống đặc biệt. "Chúng con sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về thế gian". Sự phục vụ vô vị lợi, giúp người không tính toán, sống với nhau trọn chữ tình, sống với Chúa trong cậy tin đó là dấu hiệu đặc biệt chứng nhận ta thuộc về Đức Kitô. Ước mơ lớn nhất của chúng ta là được tham dự trong tiệc vui Nước Chúa. Bữa ăn đặc biệt cần có những con người đặc biệt.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay dạy cho chúng ta bài học như sau: Thứ nhất Chúa Giêsu: TN 17B-85
Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay dạy cho chúng ta bài học như sau:
Thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ nên thưa với Chúa: "Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn". Đó là thứ thương xót bình thường, là lòng thương xót khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa Giêsu muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đi tới vào thứ thương xót thứ hai: "Anh em hãy cho họ ăn".
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, thực sự. Chúa Giêsu thể hiện và Ngài muốn chúng ta làm như thế. Như vậy, có lòng trắc ẩn, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ một cách cụ thể. Chúa không đòi chúng ta phải làm quá sức mình, hay những việc ngoài khả năng nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết làm những gì có thể làm được trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ tiếp tay thực hiện. Điều khác cũng quan trọng nữa là không phải cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra người khác cũng là con Thiên Chúa, là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để lòng yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng hơn.
Thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác. Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Có thể nói cũng vậy, nếu không có bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, bởi vì theo Thánh kinh, từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ trong hư vô (Stk 1, 1 - 24) Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn.
Tuy nhiên ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Như vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: "Anh em hãy cho họ ăn", nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: Chúa cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa tạo dựng con, Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con, Ngài cần có sự cộng tác của con".
Xin Chúa cho chúng ta biết cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để làm cho cuộc đời này lan tràn tình thương của Chúa và phép lạ được tiếp tục thể hiện.
Ngày nọ, có một anh thanh niên chở vợ cùng đứa con 5 tuổi đi trên một chiếc xe Honđa, từ: TN 17B-86
Ngày nọ, có một anh thanh niên chở vợ cùng đứa con 5 tuổi đi trên một chiếc xe Honđa, từ Bến Tre đi Thành Phố Hồ Chí Minh. Đang chạy ngon trớn bỗng nhiên chiếc xe của anh bị nổ bánh xe trước. Do tốc độ hơi cao nên anh đã không làm chủ được tay lái để xe của mình đâm vào một chiếc xe tải cùng chiều. Sau khi đâm vào xe tải thì cả hai vợ chồng đã chết tại chỗ còn lại đứa con của họ may mắn được cứu sống.
Điều đáng nói là đứa nhỏ này giờ đây bơ vơ không ai chăm sóc. Cùng lúc đó có một bác gái thấy vậy nên đã nhận đem về nuôi dưỡng như con của mình. Đúng là đứa nhỏ này thật may mắn. May mắn vì chính bác gái tốt bụng này đã đi bước trước đến với em. Nhờ đó em được lớn lên trong sự chăm sóc đầy tình thương của bác ấy.
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Đây là một phép lạ quan trọng nên đã được cả bốn Thánh sử ghi lại. Nếu đem so sánh bản văn Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay với bản văn của Thánh Matthêu chúng ta sẽ thấy có sáu chi tiết khác nhau.
Trong sáu chi tiết khác nhau có hai chi tiết cho thấy Chúa Giêsu thật sự đã đi bước trước đến với dân chúng. Chi tiết thứ nhất là trong Tin mừng Matthêu khi thấy dân chúng đói thì các Tông đồ đã đề nghị với Chúa Giêsu (Mt 14, 15), còn ở đây chính Chúa Giêsu gợi ý (Ga 6, 5b). Chi tiết thứ hai là trong Tin mừng Matthêu sau khi làm phép lạ xong Chúa Giêsu đã bảo các Tông đồ đem phân phát cho dân chúng (Mt 14, 19), còn ở đây chính Chúa Giêsu đem phân phát cho dân chúng (Ga 6, 10).
Đi theo Chúa Giêsu được nghe giảng dạy quả là điều hết sức cao quý cho người Do thái thời ấy. Điều cao quý ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi họ được Chúa Giêsu quan tâm lo cho ăn no nê về phần xác. Nhớ lại tuần trước, khi các Tông đồ về trình diện cũng chính Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu các ông đi nghỉ ngơi (Mc 6, 31)
Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta được làm con của Chúa. Chúa luôn ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết trước khi chúng ta cầu xin hay chẳng dám cầu xin. Qua Bí tích Hòa giải Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho trước khi chúng ta xưng thú. Vậy còn chần chừ gì nữa mà chúng ta không mau mắn đến với Tòa giải tội mỗi khi lỡ phạm tội.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy biết đi bước trước để tha thứ cho anh chị em mỗi khi họ lỡ xúc phạm đến mình.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta: TN 17B-87
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.
Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.
Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.
Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
Sau khi nhắc nhở tín hữu Ê-phê-xô về việc họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn qua Mầu nhiệm: TN 17B-88
Sau khi nhắc nhở tín hữu Ê-phê-xô về việc họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn qua Mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Mầu nhiệm Giáo Hội, trong phần thứ hai của thư Ê-phê-xô, thánh Phao-lô gửi tới họ những huấn dụ cụ thể giúp họ xây dựng cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn. Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn phần này cho năm Chúa Nhật liên tiếp, chứng tỏ những huấn dụ này quan trọng như thế nào. Có thể chia phần huấn dụ này làm bốn đoạn. Đoạn thứ nhất là huấn dụ khởi đầu, nhấn mạnh đến sống sự hiệp nhất của Thánh Thần để Giáo Hội được phát triển trong tình yêu thương (4:1-16). Đoạn hai gồm ba huấn dụ nhỏ khuyên tín hữu đừng sống theo lối sống Dân ngoại (4:17-24; 4:25-5:2; 5:3-14). Đoạn ba là huấn dụ về đời sống nội tâm trong Giáo Hội và nhất là trong gia đình Ki-tô giáo (5:15-6:9). Đoạn bốn nói về cuộc chiến đấu thiêng liêng của Ki-tô hữu chiến đấu với những thế lực của ác thần (6:10-17). Bài đọc hôm nay trích dẫn đoạn thứ nhất, lời thánh Phao-lô kêu gọi hãy sống hiệp nhất trong Giáo Hội Chúa Ki-tô.
a) Trong mọi thời Giáo Hội luôn đương đầu với mối nguy hiểm chia rẽ
Lịch sử Giáo Hội mang những vết thương chia rẽ từ lâu đời. Giáo Hội có hai đặc tính, Thiên Chúa và loài người, thánh thiện và tội lỗi, lúa lẫn cỏ lùng. Chính trong nhóm môn đệ dưới sự huấn luyện dạy dỗ của Chúa Giê-su, chúng ta đã có thể nhận ra nguy cơ chia rẽ rồi. Khi hai người con ông Dê-bê-đê đến xin xỏ với Chúa Giê-su, thì “mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an” (Mc 10:41). Tiếp đến là chuyện Giu-đa phản bội Thầy và anh em (Mt 26:20-25). Thời sơ khai của Giáo Hội, những hiểm nguy chia rẽ gây nhiều khó khăn cho những vị lãnh đạo. Ông Phê-rô phải biện minh cho việc rửa tội những người ngoại đầu tiên (Cv 10:44-11:18). Công đồng Giê-ru-sa-lem giải quyết những phiền hà người ta muốn áp đặt trên những anh chị em ngoại giáo muốn trở lại đạo (Cv 15). Từ những thế kỷ sau đó, Giáo Hội đối phó với nguy hiểm chia rẽ trong đủ mọi lãnh vực: giáo lý đức tin, luân lý, kỷ luật, xã hội và chính trị. Những bè lạc giáo, ly giáo, phản giáo... lần lượt xuất hiện. Những thế lực chính trị thế giới muốn lôi kéo Giáo Hội về phía mình, nên đã có thời Giáo Hội có tới ba Giáo Hoàng một lúc!
Ngay trong đoạn huấn dụ này, thánh Phao-lô đã nêu lên một số lý do cơ bản có thể gây chia rẽ trong Giáo Hội. Đó là những mối bất hòa (cc. 1-3), hiểu sai việc phân phối những thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội (cc. 7-11) và thích chạy theo những tư tưởng tuy mới lạ nhưng đi ngược lại giáo lý của Giáo Hội (cc. 14-15). b) Nguyên lý của hiệp nhất Giáo Hội
Các câu 4-6 trong đoạn này là một lời tuyên xưng đức tin nói lên nguyên lý hiệp nhất Giáo Hội. Giáo Hội phải là một thực thể duy nhất, không thể phân chia, vì Giáo Hội được thiết lập trên nền tảng là lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô. Sau khi Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống,” Chúa Giê-su đã khẳng định: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16:18). Quyền lực tử thần tức là thế lực của ma quỷ muốn chia rẽ con người với Thiên Chúa và với nhau. Nó luôn luôn là một đe dọa cho sự hiệp nhất của Giáo Hội. Nhưng sự hiệp nhất ấy đã được gìn giữ nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giê-su (Ga 17:11). Vậy bản chất hiệp nhất của Giáo Hội được thánh Phao-lô trình bày như thế nào?
Phao-lô vẫn dựa trên Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa:
Vai trò của Thần Khí: Tuy gồm những phần tử khác nhau, nhưng Giáo Hội là một thân thể. Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất mọi sự, điều này đã được nói lên qua biến cố Hiện Xuống, mọi ngôn ngữ đều được hiểu theo một ngôn ngữ mới là ngôn ngữ của Thần Khí Đức Ki-tô. Vì muốn diễn tả bản chất của Giáo Hội lữ hành, thánh Phao-lô mới nêu lên ở đây đặc điểm niềm hy vọng. Mọi Ki-tô hữu đều có chung một niềm hy vọng vào ngày tái lâm của Đức Ki-tô và được cùng hiển trị với Người.
Vai trò của Đức Ki-tô: Đức Ki-tô được tuyên xưng là Chúa, Nguyên lý quy tụ muôn loài muôn vật để đưa về cùng Thiên Chúa Cha. Niềm tin là lối sống của Ki-tô hữu luôn nhìn nhận Đức Ki-tô là Chúa Phục Sinh và làm chứng cho Tin Mừng của Người. Niềm tin ấy được tuyên xưng và đón nhận qua Bí tích Rửa tội, để Ki-tô hữu được kết hợp với Thiên Chúa và những phần tử khác trong Giáo Hội.
Vai trò của Thiên Chúa Cha: Chúa Cha là nguyên lý cùng đích của sự hiệp nhất. Mọi sự đều phải quy hướng về Người. Bản chất của sự hiệp nhất thật là đặc biệt, không làm mất đi tính cách cá nhân của mỗi tạo vật, bởi vì mỗi tạo vật không biến tan đi trong Thiên Chúa, mà trái lại, Thiên Chúa “ngự trên mọi người và trong mọi người.” Nghĩa là chúng ta vẫn còn hiện hữu như những cá nhân tách biệt, nhưng ai ai cũng có Thiên Chúa ngự trong mình.
c) Sống sự hiệp nhất của Giáo Hội
Giáo Hội là một thực thể hoàn vũ. Nhưng Giáo Hội tỏ hiện gương mặt của mình qua những giáo hội địa phương và “giáo hội tại gia.” Do đó, chúng ta có những cách sống sự hiệp nhất đối với Giáo Hội toàn cầu, thí dụ như cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và hàng giáo phẩm, giúp đỡ công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, theo dõi những sinh hoạt của Đức Thánh Cha... Nhưng chúng ta cũng ràng buộc với giáo hội địa phương, như giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn và chính gia đình là tế bào của Thân thể Mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Sự hiệp nhất phải đi từ những đơn vị căn bản ấy. Suy tư của thánh Phao-lô quả thực giúp chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy là lời gọi của Thiên Chúa dạy chúng ta hãy sống tình con cái mà Người đã ban cho chúng ta khi cho chúng ta làm một phần tử của Giáo Hội Chúa Ki-tô. Lối sống của chúng ta trong Giáo Hội là “khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.” Tóm lại là hãy “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau.” Thánh Phao-lô đã nêu lên những điểm then chốt để tạo dựng một cộng đồng yêu thương theo kế hoạch của Thiên Chúa, đồng thời cũng là những điểm chúng ta phải luôn luôn kiểm điểm cho biết mình làm được gì cho Giáo Hội Chúa Ki-tô. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đề tài về sự hiệp nhất luôn là một thách đố để tôi nhìn lại bổn phận của mình đối với cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội. Vậy tôi xét lại: tôi đã làm gì phương hại đến sự hiệp nhất trong cộng đoàn hoặc giáo xứ? Tôi đang làm gì cho cộng đoàn hoặc giáo xứ? Tôi sẽ làm gì?
Sự hiệp nhất trong gia đình tôi, tức “giáo hội nhỏ bé” của tôi có gặp nguy hiểm chia rẽ rạn nứt nào không? Nếu có, phải làm sao để hòa giải? Tôi có thể xin nhóm giúp điều gì?
Những lời khuyên của thánh Phao-lô như “khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, chịu đựng” đều có vẻ “thua thiệt” quá! Tại sao tôi phải chọn những thái độ này trong việc xây dựng sự hiệp nhất?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát “Xin hiệp nhất chúng con”, hoặc đọc lại kinh nguyện tuần trước.
Lạy Chúa Giê-su, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược: TN 17B-89
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo, quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ: Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót, người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không biết nắm lấy thời cơ.
Qua dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm chính trị.
Sự lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế - vào thời Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian. Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút lui lên núi một mình.
Tại sao phải lẩn tránh?
Tại sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với những kẻ thân thích của Ngài: "Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và cũng không nhận biết Thầy" (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói: "Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha" (17,25). Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ, phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ. Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.
Câu hỏi.
Chúng ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công, thù ghét và cho các ngẫu tượng không?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Thánh Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng" - Charles E. Miller)
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và: TN 17B-90
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài. Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.
Chương thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.
Thánh Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: "Lạy Chúa bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế gian."
Thánh Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.
Trong câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. "Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn". Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt.
Còn cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: "Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ". Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của chữ cá: "ICHTHUS." Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô: "Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta".
Vì Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan, và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.
(Sách Các Vua II 4,42-44; Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan 6,1-15) Phúc Âm: Ga 6, 1-15
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích". Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới.
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình. Suy Niệm:
Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B
Sách Các Vua II 4,42-44; Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan 6,1-15
Chúng ta có thể nghĩ cả ba bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể là bánh: TN 17B-91
Chúng ta có thể nghĩ cả ba bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể là bánh hằng sống có sức nuôi cả nhân loại để họ được hợp nhất nên một. Nhưng không tất nhiên phải hiểu như vậy. Chúng ta cứ thử đọc lại từng bài. Sẽ có nhiều tư tưởng và chân lý phong phú không ngờ, làm giàu đời sống hằng ngày của chúng ta. 1. Bài Học Về Quyền Năng Của Thiên Chúa
Dĩ nhiên phụng vụ chọn đoạn sách Các Vua hôm nay để dẫn vào bài Tin Mừng. Nhưng chính đoạn sách này cũng có giá trị của nó. Và giáo lý ở đây cũng không kém phần sâu sắc.
Đây là một câu chuyện lớn và là một phép lạ. 20 ổ bánh mà dọn được cho 100 người ăn no mà còn dư nữa. Thế mà tác giả hầu như không có một hứng thú nào khi kể lại một việc như thế. Người ta muốn ông phải thuật truyện sống động hơn và phải thêm nhiều chi tiết nữa. Phải nói người của Thiên Chúa tên là gì? Đang ở đâu? Vì sao lúc ấy lại đang có 100 người ở tại chỗ đó? Và kẻ mang bánh từ nơi xa đến tên họ thế nào? Già hay trẻ? v.v... Dường như đây không phải là một bài thuật truyện. Tác giả viết vắn tắt và thiếu hứng khởi đang khi lẽ ra phép lạ này phải làm ông kinh ngạc và gây chấn động, như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Người ta đã cố gắng bổ khuyết những thiếu sót trên đây bằng cách nại đến văn mạch... Quả vậy, nếu đọc nối với đoạn trên, người ta có thể xây dựng lại câu chuyện như sau:
Bấy giờ Êlisê đã trở lại Gilgal gần Yêrikô trong xứ đang có nạn đói. Con cái tiên tri (tức là môn đồ của nhà tiên tri) đang ngồi trước mặt ông để nghe thuyết giáo. Chợt một người đến. Anh ta từ Shalishah, tức khoảng 70 cây số lại đây. Anh đến dâng bánh đầu mùa cho Thiên Chúa như luật dạy (Lêvi 23,20). Êlisê dùng quyền tiên tri, tương đương với quyền tư tế, truyền lấy bánh đó cho môn đồ ăn. Họ thì đông mà lại đang đói, thì 20 cái bánh kia sẽ thấm vào đâu? Êlisê bảo cứ dọn ra, vì lời Chúa phán: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy thật.
Nhưng dù có xây dựng lại câu truyện như thế chúng ta vẫn chưa giải thích được thắc mắc trên đây: tại sao một phép lạ lớn như vậy đã không khiến được ngòi bút của tác giả linh hoạt và hào hứng hơn? Cuối cùng, đọc thêm nhiều đoạn khác trong quyển sách Các Vua này, người ta mới thấy rằng: khi kể lại nhiều phép lạ trong cuộc đời của Êlisê, tác giả không muốn kể truyện, nhưng chỉ ưu tư dạy đạo... Ông coi thường các nét tả và chú ý tới giáo thuyết. Ở đây cũng như trong nhiều câu truyện về Êlisê, ông muốn làm nổi bật nhà tiên tri này lên để tỏ ra vị này không kém gì Êlia là nhà tiên tri lừng danh đã chọn Êlisê để kế nghiệp. Tác giả phải đề cao các môn đệ chứng tỏ thần trí của Êlia vẫn còn tiếp tục và phong trào tiên tri trong dân Chúa thật đáng kính phục. Bài của tác giả không muốn cho chúng ta chú trọng tới phép lạ nhưng tới các nhà tiên tri, tới quyền năng của ông, tức là tới sức mạnh của Lời Chúa trong con người được gọi làm tiên tri. Rõ ràng chính Êlisê không làm phép lạ. Ông tuyên bố: Lời Chúa phán thế này: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy, thì người ta phải kết luận: Lời Chúa, tức là chính Chúa đã làm phép lạ, củng cố uy tín cho nhà tiên tri.
Như vậy câu truyện trên đây có thể được coi như là một "hạnh thánh". Tác giả không muốn làm văn khi thuật truyện. Ông quan tâm làm nổi bật tính cách thiêng thánh. Những nét tả trở thành không quan trọng. Chính sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống con người là điều phải ngưỡng mộ. Ở đây, chúng ta phải bỏ hết mọi chi tiết để nhớ rằng: Thiên Chúa đã cho một người ở xa đến, mang một ít bánh nuôi sống một số đông người đang đói để tăng uy tín cho người của Thiên Chúa và cho phong trào tiên tri ở trong dân Người.
Những ý tưởng tốt đẹp của bài sách Các Vua có thể dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay. 2. Quyền Năng Của Chúa Đã Tỏ Hiện
Như trên đã nói, chúng ta có thể hiểu bài Tin Mừng này về Thánh Thể. Nhưng chúng ta hãy xem câu kết: "Thấy phép lạ Ngài vừa làm, người ta nói: hẳn Ngài là vị tiên tri. Đấng sẽ đến trong thế gian". Như vậy hiệu quả trước mắt và cũng là ý nghĩa đầu tiên của phép lạ bánh hóa ra nhiều này là mạc khải cho người ta thấy quyền năng của Đức Yêsu, và do đó nguồn gốc cao siêu của Người. Chúng ta không chối và chúng ta sẽ làm chứng, tác giả bài Tin Mừng hôm nay khi kể lại câu truyện phép lạ đã muốn có nhiều gợi ý về Thánh Thể. Nhưng đó là ý tứ thứ hai, có sau và tựa vào ý tứ thứ nhất là mạc khải thêm về con người Đức Yêsu.
Thật vậy, nếu đọc cả bốn sách Tin Mừng, chúng ta có thể ngạc nhiên vì việc hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng là phép lạ duy nhất được cả bốn sách cùng thuật lại. Những phép lạ khác có thể được hai hoặc ba sách cùng nói, nhưng chẳng bao giờ được bốn sách cùng kể. Điều này cho thấy phép lạ hóa bánh ra nhiều có giá trị đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong lời giáo huấn và đời sống của Hội Thánh thời khai nguyên.
Nhưng một truyện được bốn tác giả viết lại, không ít thì nhiều sẽ có những sắc thái và những chi tiết hơi khác nhau tuỳ theo người viết. Chẳng hạn, không có tác giả nào như Yoan đã có một bài suy tư dài theo sau bài tường thuật phép lạ. Và cũng chẳng giống ai, ông để cho một mình Đức Yêsu đóng vai chủ động và hầu như độc diễn trong câu truyện này. Nơi ba tác giả kia, các tông đồ như được kêu mời hợp tác tích cực. Nào là có sáng kiến đến xin Đức Yêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15); nào là bảo dân ngồi xuống từng hàng 100 người (Mc 6,39-40); nào là cầm bánh đi phát cho người ta (Lc 9,16). Theo Yoan, một mình Đức Yêsu làm tất cả; vì ông muốn mọi cái nhìn của chúng ta phải quy về một mình Người. Sách của ông chỉ muốn làm nổi bật một mình Đức Yêsu: mỗi nhân vật khác chỉ đóng vai phụ.
Ở đây ông cũng nói đến tên tông đồ Philipphê và Anrê, em của Simôn Phêrô. Nhưng ông này quê quán ở Bétsaiđa, tức là địa phương mà Đức Yêsu đang ở khi xảy ra câu truyện này. Có lẽ Người đã trao đổi với hai người địa phương để làm cho người ta thấy rõ hoàn cảnh thật là vô vọng, vì Người đã biến trước việc Người sắp làm. Họ trình Người: "200 đồng quan bánh cũng không đủ cho họ để mỗi người được một chút đỉnh". Số tiền lớn lắm chứ. Nó ngang với 200 công nhật. Bòn vét đâu cho ra nơi hoang vắng này? Và nếu có số tiền ấy, cũng mua được đâu ra bánh? Tại chỗ, nơi có khoảng 5,000 người tụ họp mà cũng chỉ có một đứa bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá. Chúng ta có thể coi em nhỏ này là "đứa bé bán bánh mì" trong vùng, vì chỉ có một mình em thôi. Và phải có Anrê quê quán ở đây mới tinh mắt nhận ra.
Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu! Đó là thực trạng của hoàn cảnh lúc bấy giờ. Philipphê và Anrê đã đóng vai phụ để làm nổi bật công việc Đức Yêsu sắp làm.
Tác giả Yoan còn chú thích: hôm ấy Đức Yêsu vượt qua biển sang bên kia bờ; một đám đông dân chúng đi theo Người; và bấy giờ lại sắp đến lễ Vượt quan của người Dothái. Có lẽ chẳng khi nào tác giả viết một mạc khải nào lớn về Đức Yêsu mà lại không đặt nó vào trong bối cảnh một ngày đại lễ. Điều này làm chứng Người có tinh thần phụng vụ; và chúng ta phải hiểu các ý tưởng của Người theo phụng vụ nữa. Đàng khác các ngày lễ phụng vụ lại gợi lên lịch sử dân Chúa và lịch sử cứu độ. Thế nên sách của tác giả Yoan đòi được giải thích cả trong chiều hướng lịch sử thánh cũng gọi là nhiệm cục cứu thế.
Vậy ở đây, Yoan viết hôm ấy là khoảng trước lễ Vượt qua, và Đức Yêsu vừa mới vượt biển và sang bên kia bờ, có đám đông dân chúng theo sau... Tác giả không muốn gợi lại hình ảnh một Môsê đưa dân vượt qua Biển Đỏ sao? Và việc hóa bánh ra nhiều vào ngày trước lễ Vượt qua không muốn gợi lên ý tưởng bí tích Thánh Thể đã được thiết lập trước khi Đức Yêsu vượt qua đời này để về cùng Chúa Cha là gì? Ý tứ phụng vụ và ám chỉ lịch sử thánh tỏ ra rõ rệt.
Chúng ta chưa vội suy nghĩ về bí tích Thánh Thể. Căn cứ vào câu kinh ngạc người ta thốt ra sau khi thấy phép lạ: "Hẳn Ngài là vị tiên tri, Đấng sẽ đến trong thế gian", chúng ta hãy theo gợi ý của tác giả Yoan và so sánh Đức Yêsu với Môsê.
Bấy giờ chúng ta sẽ phải nhớ lại sách Xuất hành đoạn 16 hay sách Dân số đoạn 11 kể chuyện dân Dothái sau khi vượt qua Biển Đỏ để đi vào sa mạc. Họ nhớ bánh nhớ thịt của đất Aicập. Họ trách móc Môsê đã dẫn họ đến đây để họ chết đói, chết khát. Môsê chỉ còn biết đập đầu ăn vạ với Chúa. Ngài mà không cứu, chắc mạng ông sẽ chẳng còn. Chúa bảo ông cứ tuyên bố sẽ có thịt có bánh. Môsê phản ứng như các tông đồ hôm nay: ở nơi cô tịch này lấy đâu ra bánh ra thịt? Đàng khác đểnuôi đám dân đông đảo này, phải mấy bầy súc vật lớn nhỏ? Nhưng rồi Chúa đã ban Manna và chim cút... khiến dân khiếp sợ quyền năng của Chúa và kính nể uy tín của Môsê. Từ đó hình ảnh một Môsê ban bánh thịt cho dân trong cơn quẫn bách, trở thành một tiêu chuẩn đển dân mơ ước về Đấng tiên tri sẽ đến lãnh đạo dân ở thời thiên sai. Và câu truyện kể về Êlisê trong sách Các Vua muốn nói lên điều ấy. Dân trông chờ một vị tiên tri như Môsê sẽ đến dẫn đưa họ vượt qua cảnh đời đau khổ và tội lỗi để đi vào thời đại hạnh phục và sung túc.
Hôm nay vị tiên tri ấy đã đến nơi con người Đức Yêsu. Người ngước mắt lên thấy dân, một dân đang cần được hướng dẫn. Người làm lại cử chỉ Môsê đã làm xưa, nhưng làm một cách siêu việt hẳn. Người nuôi dân một cách dễ dàng vì với năm chiếc bánh và hai con cá, Người nuôi cả khoảng 5,000 người. Mà lại còn dư, thu lại được 12 giỏ. Dân thấy ngay Người là Môsê mới, nên họ kêu lên: hẳn thật Ngài là vị tiên tri, Đấng sẽ đến trong thế gian. Họ muốn rước Người như một Môsê đến làm vua ở đời này. Thế nên Người vội bỏ họ, và rút lui lên núi một mình.
Nếu thế thì rõ rệt, bài Tin Mừng hôm nay không có ý nói nhiều về Thánh Thể, nhưng chủ ý mạc khải Đức Yêsu là Môsê mới, đến lãnh đạo dân; nhưng dân chưa hiểu Người... Người vượt xa Êlisê vì câu truyện bánh hóa ra nhiều của ông này thật là nhạt nhẽo sánh với phép lạ Đức Yêsu vừa làm. Người là vị tiên tri đích thực của Thiên Chúa đến cứu độ trần gian.
Nói như vậy, chúng ta vẫn không muốn phủ nhận bài Tin Mừng hôm nay có một ý nghĩa đưa về Thánh Thể. Đặc biệt những câu: Đức Yêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, phát ra cho người ta... và bảo phải thu lại các vụn dư kẻo hư đi... đều là những câu văn phụng vụ Thánh Thể. Tác giả Yoan viết như vậy để đề cao bí tích Thánh Thể ở thời đại ông và để giới thiệu bài suy tư tiếp nối đoạn Tin Mừng này, mà chúng ta sẽ suy nghĩ vào các Chúa nhật sau.
Hôm nay chúng ta hãy bằng lòng với lý tưởng: Đức Yêsu là vị tiên tri mà Cựu Ước hằng hứa hẹn và Êlisê là hình ảnh rất nhạt nhẽo; Người là Môsê mới đến lãnh đạo dân ở bình diện khác hẳn với Môsê ngày trước. Người không hóa bánh ra nhiều để nuôi dân khỏi đói như Êlisê và Môsê, nhưng để bày tỏ uy quyền của Người một cách khác thường để người ta tin Người. Tất cả những điều ấy còn thiết thực đối với chúng ta, khiến giờ đây chúng ta hãy dựa vào bài Thánh Thư để biết đáp trả như thế nào. 3. Chúng Ta Hãy Sống Trong Hiệp Nhất
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy đi đứng sao cho xứng với ơn Chúa đã kêu gọi chúng ta. Lời kêu gọi này chứng tỏ ơn gọi Kitô hữu có những đòi hỏi mà chúng ta phải có thiện chí và quyết tâm thi hành. Chắc chắn những đòi hỏi đó không ít; nhưng tất cả chỉ để sống xứng với ơn gọi. Chúng ta phải nắm vững ơn gọi này là gì để biết chấp nhận và thi hành các đòi hỏi của nó.
Đối với thánh Phaolô, ơn gọi Kitô hữu biến chúng ta nên chi thể của một thân thể duy nhất mà chính Đức Kitô là đầu. Nó chính là ơn gọi của Israel trở thành dân Chúa, là ơn gọi dân ngoại vào hưởng sản nghiệp các lời hứa, là ơn gọi mọi người trở nên con cái Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều này chỉ xảy ra nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô. Thế nên, nói rằng ơn gọi Kitô hữu muốn làm cho chúng ta trở thành chi thể của một thân thể duy nhất mà Đức Kitô là đầu, nói như vậy là nói vắn tắt và gọn gàng hơn cả. Và đó là điều mà Đức Yêsu muốn làm trong bài Tin Mừng hôm nay và được bài sách Các Vua dẫn vào. Người muốn mạc khải Người là vị Tiên tri Thiên Chúa sai đến, để làm một Môsê mới, kết nạp mọi người nên một dân mới có sự sống mới và lý tưởng mới.
Nếu ơn gọi của chúng ta là thế, thì muốn đáp lại chúng ta hãy sống hiệp nhất là điều rất phải. Một chi thể không thể ở lẻ loi. Nó phải liên kết chặt chẽ vào thân mình. Và vì thế chúng ta phải khiêm tốn, hiền từ đại lượng và chịu đựng để duy trì sự hiệp nhất. Đó là những đòi hỏi tất yếu không cần chứng minh. Tuy nhiên thánh Phaolô còn khai triển thêm để chúng ta thấy ơn gọi của chúng ta cao quý như thế nào.
Người nói hiện tại chúng ta đã được kêu gọi vào cùng một niềm hy vọng, tức là Nước Trời, sản nghiệp của bao lời hứa mà việc tuôn đổ Thánh Thần xuống trong chúng ta là dấu hiệu và là bảo chứng vững vàng. Chúng ta được như vậy nhờ cùng một niềm tin, một phép rửa của một Đức Yêsu Kitô để chúng ta hết thảy được một Thiên Chúa là Cha yêu mến của tất cả mọi người.
Thánh Phaolô nhắc đến ba nhân đức Tin, Cậy, Mến và Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần. Không có quan niệm và từ ngữ nào tốt đẹp hơn nữa để diễn tả ơn gọi và lý tưởng của chúng ta. Tất cả đòi hỏi chúng ta một điều, là sống hiệp nhất.
Giờ đây chúng ta đang ở trong bầu khí hiệp nhất này. Chúng ta tham dự thánh lễ để thấy Đức Kitô đến như vị tiên tri của Thiên Chúa và như một Môsê mới. Người ban thịt máu thánh kết hợp chúng ta vào Người và khắng khít với nhau, để chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, hầu yêu mến một Cha chúng của mọi người thắm thiết hơn và sống cuộc đời siêu nhiên, thánh thiện hơn, xứng đáng làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy giục lòng tin yêu mạnh mẽ để cử hành bí tích hiệp nhất của thánh lễ này hầu sau đó sẽ thể hiện tinh thần hiệp nhất sâu sắc hơn trong đời sống hằng ngày. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúa Giêsu luôn quan tâm tới những nhu cầu của dân chúng. Tin Mừng thánh Marcô 6, 34 viết: TN 17B-92
Chúa Giêsu luôn quan tâm tới những nhu cầu của dân chúng. Tin Mừng thánh Marcô 6, 34 viết:” Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều “. Hôm nay, thánh Gioan lại cho chúng ta hiểu hơn:” Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philipphê:” Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây “ ( Ga 6, 5 ). Đức Giêsu muốn tặng dân chúng một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời…
Khi đặt vấn đề chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác với Ngài và Ngài đưa các ông vào mối bận tâm của Ngài. Ở đây, các môn đệ nhận ra nỗi bất lực của mình bởi vì với một đám đông dân chúng như thế có một số tiền lớn lao cũng chẳng thấm vào đâu cả. Con người đã cảm thấy sự bất lực của mình rồi. Môn đệ Philipphê thưa với Chúa:” Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút “ ( Ga 6, 7 ). Tuy nhiên, Chúa biết Ngài sắp làm gì rồi . Và rồi Chúa muốn con người giúp Ngài để phép lạ có thể được hoàn thành:” Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá “ ( Ga 6, 9 ). Với năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống nhiều ngàn người ăn.
Ngày nay, trên thế giới vẫn còn nhiều người đói khát, vẫn còn nhiều người thiếu miếng cơm manh áo. Đói nhà ở, đói thuốc men, đói tiện nghi, đói sự trong lành, yên tĩnh. Nhân loại luôn luôn phải tìm kiếm. Do đó, niềm tin của những người Công giáo là bám chặt vào Chúa. Qua phép lạ hóa bánh và cá, Chúa Giêsu còn muốn ám chỉ đến Mình và Máu của Người. Bí Tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Ly nói lên ý nghĩa thật cao sâu tuyệt vời. Nhân loại hay dân Do Thái xưa trong sa mạc được Thiên Chúa nuôi bằng Manna và chim cút, rồi vẫn cứ đói. Đám đông được Chúa cho ăn bánh và cá, rồi vẫn còn đói, vẫn ước mong Chúa làm phép lạ họ có bánh có cá ăn hằng ngày. Chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn những ước mong của con người.
Phép lạ Chúa làm hôm nay với sự cộng tác của con người đã làm cho Chúa hài lòng và con người được vui lây. Bởi vì nếu không có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ bé của một em bé trong hoang địa lúc đó, chắc phép lạ sẽ không xẩy ra. Tuy nhiên, phép lạ này sẽ mở ra một niềm tin mới, niềm tin lớn lao:” Ta là bánh hằng sống…Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, ai tin vào Ta sẽ chẳng bao giờ khát “.
Chúng ta có thể hiểu được sứ điệp thật đơn giản trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay: Chúa Giêsu mời gọi con người, mời gọi từng người hãy cộng tác với Chúa. Cộng tác với Ngài sẽ giúp những phép lạ được thực hiện như trong Kinh Thánh. Chúng ta trao cho Chúa bất cứ gì: thời giờ, tài năng, lời cầu nguyện, tình yêu, lòng quảng đại, sự hy sinh và nguồn tài lực của chúng ta, Ngài sẽ sử dụng và làm cho nó trở thành kết quả vượt sức đo lường, tiên đoán và ước mong của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ làm cho những điều chúng ta mong muốn vượt quá những gì chúng ta ước mong. Như năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã làm cho nó hóa nên nhiều ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Chúng ta hãy dùng lời Kinh của Thánh Ignatiô de Loyola để suy gẫm và để kết thúc bài suy niệm, chia sẻ này: “ Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy sự tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin Chúa hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Chúa đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Chúa để Chúa tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ân sủng như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa “.
Lạy Chúa tất cả để làm vinh danh Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Đói là gì ? 2.Tại sao Chúa Giêsu lại quan tâm tới đám đông dân chúng ? 3.Chúa Giêsu có biết việc Chúa sắp làm không ? 4.Chúa có cần sự cộng tác của con người không ? 5.Thế giới ngày nay còn phép lạ Chúa làm không ? 6.Theo bạn nghĩ phép lạ nhất, quan trọng nhất mà chúng ta đang thụ hưởng là phép lạ nào ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:1-15)
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Gio-an không nói rõ Chúa Giê-su vì chạnh lòng: TN 17B-93
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Gio-an không nói rõ Chúa Giê-su vì chạnh lòng thương dân chúng nên làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Nhưng ngài lại cho chúng ta thấy được lòng thương ấy qua lời Chúa Giê-su hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Đây quả thực là những lời phát xuất từ trái tim đầy tràn tình yêu và thương cảm của Chúa Giê-su, giống như lời mẹ hiền thốt lên khi thấy con cái mình đang đói. Vậy tình yêu ấy đem lại cho đám dân chúng ngày xưa và chúng ta hôm nay những kết quả nào?
Dĩ nhiên là một phép lạ vĩ đại, nhưng chung quanh phép lạ ấy còn có nhiều kết quả khác do tình thương ấy mang tới. Kết quả lớn lao hơn cả phải là sự kiện “đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm”. Dân chúng đã hiểu rõ tình yêu là động lực thúc đẩy Chúa Giê-su hăng say rao giảng Tin Mừng và dạy dỗ họ. Họ đi theo Chúa để được Người dạy bảo với tất cả tình yêu thương. Họ đi theo Chúa để không chỉ chứng kiến những lần Người chữa lành, mà còn để nhận biết lòng thương bao la của Thiên Chúa trước những khổ đau của con người. Việc chạnh lòng thương có sức mạnh lôi kéo người ta đi theo Chúa.
Chúng ta cũng nhận thấy một kết quả khác nơi các tông đồ. Việc Chúa Giê-su động lòng thương dân chúng đã lây lan sang các môn đệ Người. Họ được Chúa Giê-su đào tạo trở nên những người biết chạnh lòng thương kẻ khác. Lòng cảm thông của các ông tuy không được thể hiện theo cách tính toán thực tế của con người, tức là “có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”, nhưng lại giúp ông An-rê khám phá ra “có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Chúa cần họ cộng tác với Người bằng tất cả khả năng nhỏ bé của loài người, rồi Người sử dụng khả năng nhỏ bé đó để thực hiện việc lớn lao!
Nhìn vào chính phép lạ, chúng ta nhận ra kết quả của việc chạnh lòng thương là bánh và cá cứ thêm ra mãi theo nhu cầu của dân chúng. Rõ ràng số bánh và cá tăng thêm là để nói lên lòng thương luôn tăng thêm mãi. Lòng thương của Chúa Giê-su không bị giới hạn, nhưng cứ tăng theo chiều dài rộng cao sâu của trái tim Thiên Chúa. Nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Đó chỉ là con số tượng trưng cho tình yêu không thể đo lường của Thiên Chúa mà thôi. Cũng như dân chúng muốn ăn bao nhiêu bánh và cá tùy ý, chúng ta đều có thể đón nhận bao nhiêu tình thương của Chúa là tùy chúng ta!
Một kết quả khác đáng ghi nhận của việc Chúa Giê-su chạnh lòng thương, đó là nó giúp dân chúng nhận ra Người là “vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Chúa Giê-su không chỉ là một nhà hảo tâm hay mạnh thường quân, nhưng là vị Ngôn Sứ đầy quyền năng của Thiên Chúa. Người phải đến thế gian để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Người phải đến để chiến thắng sự chết và tội lỗi mà đưa nhân loại về với Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lòng thương của Chúa Giê-su đã đem lại những kết quả kỳ diệu qua phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều. Ngày nay chúng ta cũng có thể đem lại cùng những kết quả ấy nếu chúng ta có lòng thương đích thực. Chúa không bảo chúng ta phải nuôi hơn năm ngàn người, nhưng ít ra là một em nhỏ mồ côi hay một người già neo đơn ở Việt Nam. Chúa không đòi chúng ta phải chi ra hai trăm ngàn đô-la, nhưng chỉ một số tiền nhỏ dành lại do một sự hy sinh mua sắm đồ không cần thiết để bỏ vào hộp tiền giúp người nghèo. Như Chúa đã dạy các môn đệ “đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch”, Người cũng muốn chúng ta đừng phí phạm đồ ăn thức uống trong khi bao người đói khát cần đến những thừa thãi của chúng ta. Chúa còn mong chúng ta dạy dỗ con cái biết đừng phí phạm và biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Phép lạ hôm nay cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng tình thương của Chúa Giê-su và những kết quả nó mang đến, nhưng cũng đòi chúng ta phải xét lại việc chạnh lòng thương của chính mình.
Gio 6:1-15: 1 Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển bồ Galilê làng Tibêria. 2 Đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Người lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.
5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ”Chúng ta mua bánh ở đâu cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.7 Ông Philípphê đáp: ”Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” 8 Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: 9 ”Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giêsu nói: ”Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ”Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Người làm thì nói: ”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” 15 Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đoạn 6:1-15 thuộc về phần thứ nhất của chương 6, ghi lại việc Chúa nuôi dân chúng. Chương: TN 17B-94
Đoạn 6:1-15 thuộc về phần thứ nhất của chương 6, ghi lại việc Chúa nuôi dân chúng. Chương nầy có thể chia làm hai phần đối xứng và liên hệ nhau: phần thứ nhất gồm việc làm bánh hoá nhiều (6:1-15) và đi trên biển (6:16-21); và tiếp theo đó là hai cuộc đối thoại liên quan đến bánh: tìm kiếm Chúa (6:22-26) và xin một dấu lạ từ trời (6:27-31); phần thứ hai là diễn từ về Bánh Hằng Sống (6:32-59); và tiếp theo là hai cuộc đối thoại liên quan đến Bánh: một số môn đệ bỏ đi (6:60-65) và nhóm Mười Hai ở lại (6:66-71).
Trình thuật 6:1-15 về việc làm bánh ra nhiều để nuôi dân chúng bao gồm: thời gian và nơi xảy ra biến cố (cc. 1-4); đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ về vấn đề bánh cho dân chúng ăn (cc. 5-9); cách giải quyết của Người là làm bánh hóa nhiều (cc. 10-11); kết quả là dân chúng được no nê - bánh thừa (cc. 12-13), dẫn đến phản ứng của họ là muốn tôn Người làm vua (cc. 14-15). Trình thuật nầy được đóng khung bởi hai yếu tố chủ yếu giúp hiểu nó trong ý hướng của Gioan: ”thấy những dấu lạ” (cc. 2 và14), ”Người lên núi” (cc. 3 và 15). Ngay trong những câu đầu tiên, Gioan nêu lên lý do thúc đẩy dân chúng đi theo Chúa Giêsu là ”thấy Người đã làm những dấu lạ trên bệnh nhân” (c.2); và trong phần kết, cũng là do thấy Người đã làm dấu lạ nuôi họ no nê, họ nghĩ Người là một ngôn sứ, và muốn tôn Người làm vua (c. 14). Về phía Chúa Giêsu, Gioan trình bày Người như một vị Thầy (rabbi) khi nói ”Lên núi Người ngồi với các môn đệ” (c. 3; 6:35). ”Ngồi” là tư thế Người thường có khi Người giảng dạy (8:2; cf. Mc 4:1, 9:35, Mt 26:55, Lk 4:20, 5:3). Ngoài ra, Gioan đã trình bày tương tự như Marcô là Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng sau khi thấy họ kéo đến với Người và trước khi làm bánh ra nhiều cho họ (x. Mc 6:34). Tuy nhiên, vì dân chúng đã không hiểu đúng Chúa Giêsu là ai (x. 6:26), Người lại rút lên núi một mình (c. 15); lần nầy là để tránh họ.
Vị trí của trình thuật nầy được đặt trong tin mừng của Gioan, khác với các tin mừng nhất lãm, cho thấy ý định của ông là trình bày Chúa Giêsu qua câu chuyện làm bánh ra nhiều như là Đấng ban Bánh Hằng Sống, chứ không nhấn mạnh Người là mục tử nuôi dưỡng đàn chiên (x. Mt 14:13-21; Mc 6:32-44; Lc 9:10b-17); và qua đó, mời gọi dân chúng tin vào Người. Trong mạch văn rộng hơn, đoạn 6:1-15, được đóng khung bởi những lần nhắc đến Môsê như là chứng nhân cho Chúa Giêsu (5:45-47) và là người ban manna cho dân chúng trong hoang địa (6:32). Như thế, Chúa Giêsu được hình dung trong tương quan với Môsê. Như Môsê, Người ban bánh cho dân chúng (x. Dân số 11:13). Trổi vượt hơn Môsê, khi bánh ấy tự Người ban cho (6:11-12). Bánh ấy sẽ là bánh bởi trời ban sự sống, vì chính là thân thể Người (6:35); trong khi Môsê chỉ cho dân chúng manna hư nát. Như thế, khi nói Người là một ngôn sứ và muốn tôn Người lên làm vua, dân chúng chỉ nhận ra nơi Người là một Môsê khác, ngôn sứ và vua, chứ không phải là Con Thiên Chúa, được gởi đến trần gian và phải tin vào Người (x. 6:26.29). Chính vì lý do nầy mà Chúa Giêsu đã rút lên núi một mình.
Trong phần chính của trình thuật làm bánh ra nhiều (6:5-13), Gioan đã trình bày những sự kiện cách khác biệt ít nhiều so với câu chuyện ấy trong các tin mừng nhất lãm. Trước tiên, Chúa Giêsu có sáng kiến thực hiện chuyện nầy. Hầu như Người là chủ ngữ của mọi động từ trong đoạn nầy: ngước mắt lên, thấy dân chúng, hỏi Philiphê (c. 5), ra lệnh cho các môn đệ, cầm lấy bánh, tạ ơn, phân phát bánh cho dân chúng (cc. 10-11), bảo các môn đệ đi thu lượm bánh vụn (c. 12). Tiếp đến, vai trò trung gian của các môn đệ rất hạn hạn chế. Họ chỉ làm hai việc: sắp đặt chỗ ngồi cho dân chúng và đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Sau cùng, Gioan dùng những hạn từ khác: bánh lúa mạch, cá (đã nấu chín sẳn sàng để ăn) (6:9; 21:9.13), câu trả lời của Philiphê về ”hai trăm quan tiền cũng không đủ” (c. 7) là để nhấn mạnh (x. Mc 6;37).
Chỉ mình Chúa Giêsu có thể thực hiện những dấu lạ kỳ diệu mà chẳng ai có thể làm được (3:2). Dấu lạ Người làm không chỉ để đáp ứng nhu cầu vật chất, mà còn để gây nên lòng tin nơi người nào nhìn thấy nó (2:11.23). Dấu lạ bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng mời gọi tin vào Đấng có thể ban Bánh Hằng Sống cho muôn người. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Ăn là nhu cầu của sự sống. Sự sống thể xác được duy trì và phát triển là nhờ ăn uống. Cũng: TN 17B-95
Ăn là nhu cầu của sự sống. Sự sống thể xác được duy trì và phát triển là nhờ ăn uống. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng cần những của ăn tinh thần. Thiên Chúa ban cho ta thức ăn nuôi dưỡng thể xác thì Người cũng ban cho ta Lời của Người (Đnl 8:3) để dưỡng nuôi linh hồn. Hai phép lạ được thuật lại trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay về việc làm cho bánh hóa nhiều có những điều để ta suy nghĩ về Chúa cũng như về bản thân ta.
1. Nghĩ về lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta (bài đọc Cựu Ước – 2 Vua 4:42-44)
Ta bắt đầu với câu truyện ngôn sứ Ê-li-sa lấy hai mươi chiếc bánh lúa mạch và một bị cốm mà nuôi hằng trăm người đang khốn khổ vì nạn đói. Điều khiến ta không thể không chú ý chính là câu trả lời của vị ngôn sứ khi tiểu đồng hỏi ông phải làm thế nào trước tình trạng bánh quá ít mà số người cần ăn lại quá đông. Ông nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nói như thế, ngôn sứ Ê-li-sa đã cảm nhận được tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa.
Bối cảnh câu truyện là nạn đói đang hoành hành tại miền Ghin-gan. Giữa lúc bao người lâm cảnh khốn cùng, ngôn sứ Ê-li-sa là người may mắn vì “có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị”. Nhưng ông không giữ lại để lo cho mình, mà bảo tiểu đồng đem phân phát cho những người đang thiếu thốn đói ăn. Ông cảm nhận Thiên Chúa đã đặc biệt thương và chăm sóc ông giữa cơn khốn cùng khi ông nhận lấy những chiếc bánh và bị cốm người ta đem biếu ông. Tuy nhiên tình thương của Chúa dành cho ông không thể bị giới hạn, mà cần được lan tỏa tới những người chung quanh. Những chiếc bánh lúa mạch và bị cốm là hình ảnh nói lên tình thương ấy đã được đem chia sẻ với mọi người. Bao nhiêu người ăn mà chúng vẫn còn dư thừa. Cũng vậy, lòng thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta chan hòa và bao bọc ta trong bàn tay quan phòng của Người. Lòng yêu thương của Thiên Chúa là đề tài cho tác giả Thánh Vịnh viết thành bao lời chúc tụng tôn vinh. Đó cũng là đề tài rao giảng của Chúa Giê-su khi Người khai triển những giáo lý của Tám Mối Phúc, nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha (Mt 6:25-34; Lc 12:22-31).
Ngôn sứ Ê-li-sa chính là hình ảnh báo trước vị Ngôn Sứ vĩ đại Thiên Chúa sẽ sai đến với nhân loại, là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là chính Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể để tỏ ra cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ biết chừng nào (Ga 3:16). Câu truyện Tin Mừng hôm nay nói với ta về việc biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Chúa Giê-su cho ta thấy tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều (bài Tin Mừng – Gio-an 6:1-15)
Trong hành trình rao giảng của Chúa Giê-su, dân chúng thường đến tụ họp quanh Người để lắng nghe những lời dạy dỗ. Nhưng mỗi lần Người di chuyển từ nơi này tới nơi khác, họ cũng không ngại đi theo Người vì họ đã say mê giáo lý của Người và luôn cảm thấy đói khát lời Người. Thánh Gio-an kể lại là “Chúa Giê-su sang bên kia biển hồ Ga-li-lê” và “có đông đảo dân chúng đi theo”. Tới nơi, nhìn cảnh dân chúng đói khát, Người làm phép lạ hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để họ được ăn no nê. Sau phép lạ, khi chiều đến, các môn đệ Chúa xuống thuyền đi sang phía Ca-phác-na-um, còn Chúa Giê-su thì “lánh mặt , đi lên núi một mình” để cầu nguyện, vì “biết dân chúng sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua”. Tiếp đến, thánh sử kể việc Chúa Giê-su đi trên mặt nước đến gặp các môn đệ trên thuyền, gợi lại biến cố Thiên Chúa đưa dân Người vượt qua Biển Đỏ. Đó là những gì xảy ra chung quanh phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Quả thực thánh Gio-an đã sắp đặt câu truyện như thế, mục đích để nói lên hình ảnh Chúa Giê-su là Thiên Chúa yêu thương chăm sóc ta. Thiên Chúa đã đưa dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ và nuôi dưỡng họ trên đường về đất hứa. Cũng thế, Chúa Giê-su là Tình Yêu Thiên Chúa xuống thế làm người để nuôi dưỡng ta và dẫn ta vượt biển trần gian trên đường về quê trời. Ta hãy hiện diện trong khung cảnh Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để chiêm ngưỡng cung cách của Người. Từ ánh mắt cho đến lời nói của Chúa, hết thảy đều nói lên nỗi lo lắng thương yêu Người dành cho đám dân chúng đang mệt nhọc vì đói khát. Người không chỉ nhìn thấy một đám đông lũ lượt theo Người vì ngưỡng mộ, nhưng là một đám đông khao khát được biết phải làm gì để sống cho đúng với ước mong của Cha trên trời. Người cũng lợi dụng chính cơ hội này để dạy các môn đệ bài học yêu thương chăm sóc anh chị em. Vì thế, Người đã gợi ý cho ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Nói như vậy là vì Người mời gọi các môn đệ hãy mở lòng nhận ra những nhu cầu và thiếu thốn của người khác. Trước gợi ý của Chúa, mỗi môn đệ có một sáng kiến riêng. Ông Phi-líp-phê thì thực tế tính toán, để cuối cùng đi tới câu trả lời là đành bó tay. Nhưng thật là may mắn, vì ông An-rê đưa ra một giải quyết của lòng tin khi ông nói với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Rồi ông cũng làm một bài toán giống như ông Phi-líp-phê: “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Chắc là ông An-rê tin rằng việc còn lại phải làm là thuộc quyền năng của Chúa Giê-su. Đúng vậy, Chúa Giê-su đã nhập cuộc và làm phần thuộc về Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là do quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Người cũng muốn bàn tay con người của ta góp phần vào phép lạ của tình Chúa chăm sóc yêu thương.
Cũng giống như trong phép lạ ngôn sứ Ê-li-sa, dân chúng ăn no nê mà bánh vẫn còn dư. Bánh còn dư nói lên sự phong phú đầy tràn của tình yêu Thiên Chúa chăm sóc ta. Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy thu nhặt những miếng thừa “kẻo phí đi”. Tình yêu Thiên Chúa ta nhận lãnh là để sinh ích lợi cho ta và cho những người khác, chứ không phải để phung phí đi một cách vô ích. Về điểm này, chắc chắn mỗi người đều phải xét mình. Ta lãnh nhận tình yêu và sự chăm sóc của Chúa nhiều không kể xiết, từ vật chất cho đến tinh thần. Nhưng ta cũng phải thú nhận rằng mình đã phung phí những ơn lành của Chúa một cách vô bổ. Ta đã phí phạm thì giờ, tiền bạc, đồ ăn thức uống quá đáng. Một thí dụ, mỗi lần đi ăn tiệc cưới ở Hoa-kỳ, ta thấy những người hầu bàn đổ đi bao nhiêu đồ ăn đắt tiền vào thùng rác. Nhưng liệu ta có tự hỏi: Nếu như những người nghèo đói có được những đồ ăn dư thừa kia thì họ sung sướng biết mấy? Chính vì thế, Chúa Giê-su cũng muốn nhắc nhở ta hãy chia sẻ tình thương của Chúa với anh chị em, kẻo phí đi tình thương Người đã dành cho ta.
Bài học Chúa Giê-su dạy các môn đệ phải biết nhận ra những nhu cầu của anh chị em và giúp đỡ họ đã được thánh Phao-lô lập lại và ngài xin anh chị em tín hữu Ê-phê-xô hãy thực hành trong đời sống cộng đoàn. Trước hết, ngài khuyên họ hãy sống theo “ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ”. Đúng vậy, Thiên Chúa đã kêu gọi họ bỏ lối sống của thế gian để sống lối sống Ki-tô, tức là sống “khiêm tốn, hiền từ , nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau, duy trì sự hiệp nhất bằng cách thuận hòa gắn bó với nhau”. Nói tóm lại, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy sống theo gương Chúa Ki-tô mà yêu thương chăm sóc cho anh chị em.
Lý do tại sao ta phải sống như vậy là vì ta là thân thể Chúa Ki-tô, chia sẻ cùng một niềm tin và một niềm hy vọng, hành động theo cùng một Thần Khí là tinh thần của Chúa Ki-tô và làm con cùng một Cha trên trời. Chúa Giê-su là người Anh Trưởng đã sống yêu thương chăm sóc cho các em thế nào, ta cũng phải theo gương Người mà sống như vậy. Ta bắt chước Người, ngước mắt lên để nhìn thấy anh chị em chung quanh đang thiếu thốn, chứ không chỉ nhìn vào mình để nuôi thêm tính ích kỷ và để thấy ta là trên hết. Ta không phí tình yêu Chúa dành cho ta, nhưng sử dụng nó để phục vụ, giúp đỡ anh chị em. Một cái bánh lúa mạch hay một con cá nhỏ, đối với ta có lẽ chẳng đáng là bao, nhưng đối với anh chị em thiếu thốn lại có giá trị hết sức lớn lao. Chúa sử dụng những hy sinh, chia sẻ nhỏ bé ấy của ta để Người thực hiện những phép lạ phi thường. Phép lạ bánh và cá hóa nhiều cần phải được tiếp diễn ở ngay tại nơi và ngày giờ ta đang sinh sống, nếu ta nhận biết mình là một chi thể đích thực của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô.
4. Sống Lời Chúa
Bài học ngôn sứ Ê-li-sa dạy cho tiểu đồng của ông cũng như bài học Chúa Giê-su dạy các môn đệ yêu thương và chăm sóc dân chúng đã cho ta cơ hội nhìn lại thái độ của ta đối với những người anh chị em thiếu thốn cùng khổ đang cần đến sự giúp đỡ của ta. Tình yêu thương của Chúa thật bao la vô bờ. Nhưng tình yêu ấy cần phải được chuyên chở qua chúng ta là những người làm môn đệ Chúa Ki-tô. Ta đem tình thương của Chúa đến cho anh chị em, không chỉ qua những giúp đỡ vật chất, nhưng còn là những an ủi, khích lệ hay nâng đỡ tinh thần và tâm lý nữa. Trái tim yêu thương và nhậy cảm của Chúa Giê-su trước đám dân chúng thiếu thốn và đói khát cũng phải là trái tim của ta, những Ki-tô hữu đích thực hôm nay vậy. Suy nghĩ: Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban”. Vậy “ơn gọi” Thiên Chúa đã ban cho tôi là gì? Và tôi đã sống thế nào theo ơn gọi ấy?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là sức mạnh và là niềm trông cậy của chúng con, không có Chúa, chẳng có chi vững bền, không có chi thánh thiện; xin mở lòng nhân hậu hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con được gắn bó với của cải muôn đời tồn tại. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 17 mùa Thường niên).
Chúa Nhật hôm nay đặt dân Chúa trước uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa. Uy quyền ấy được: TN 17B-96
Chúa Nhật hôm nay đặt dân Chúa trước uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa. Uy quyền ấy được diễn tả ra bằng phép lạ Chúa làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn. Trước phép lạ của Chúa, con người chỉ có thể hiểu được qua lòng tin và nhờ lòng tin vào Đức Kitô, họ nhân ra được quyền năng và vinh quang cao vời của Thiên Chúa.
I.PHÉP LẠ CHÚA GIÊSU ĐÃ LÀM: Để chứng tỏ uy quyền của Ngài, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương khi thấy đoàn lũ đông đảo đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dậy và loan báo Nước Trời, Ngài đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều trong khi các môn đệ muốn phủi tay, muốn dễ dàng, nên đã đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông. Việc làm của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa lớn lao. Trước hết, phép lạ chứng tỏ Chúa Giêsu có uy quyền tuyệt đối, có thể vừa nói, vừa hành động một cách đầy quyền năng. Điều ấy minh chứng rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể khiến cho cá và bánh trở nên dư thừa, nuôi dân chúng tùy theo nhu cầu của họ. Phép lạ này còn liên kết với phép lạ Chúa làm cho dân Do Thái trong cuộc hành trình bốn mươi năm trở về đất hứa. Phép lạ Manna và chim cút trong Cựu Ước có ám chỉ đến của nuôi lương thực bánh và cá trong Tân Ước. Nó còn liên quan cách gián tiếp tới chính Mình và Máu Chúa Giêsu sau này:” Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng khát bao giờ “ ( Ga 6, 35 ) hoặc “ Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây để thế gian được sống “( Ga 6, 51 ). Điểm khác nữa phép lạ hóa bánh và cá trở nên nhiều còn làm nổi bật vai trò của Đức Kitô, Đấng cứu tinh nhân loại. Vị cứu tinh vừa có uy quyền trên tinh thần con người, vừa có uy quyền trên vật chất vũ trụ. Đức Kitô hành động cứu chuộc con người qua tác động làm cho cá và bánh trở nên dư thừa sau khi đã cho dân chúng đi theo Ngài ăn no nê, thoả chí. Điều này cho thấy Thiên Chúa Cha luôn tin tưởng Con của Ngài là Đức Kitô. Cha có thương ban, con người mới được hưởng dùng và sung túc hưởng nhờ. Thường Đức Kitô làm phép lạ để khơi dậy lòng tin của con người và biểu tỏ cho con người biết Ngài là Đấng đầy uy quyền và hay chạnh lòng thương xót:” Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người sai đến “ ( Ga 6, 29 ).
II.TA PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO TRƯỚC PHÉP LẠ BÁNH VÀ CÁ HOÁ NÊN NHIỀU:
Trước phép lạ quá lớn lao như vậy, dân Chúa chỉ có thể hiểu được qua lòng tin tuyệt đối. Tin vào Đức Kitô, vị Cứu Tinh có uy quyền trên con người và vũ trụ. Nhờ lòng tin, con người nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa, vị Thiên sai đến trần gian để cứu độ con người. Khi đã tin vào Thiên Chúa, con người sẽ không còn mập mờ nhận và không nhận Đấng đã đến để cứu chuộc nhân loại, cứu rỗi con người. Nhưng thái độ của con người phải là thái độ cảm tạ và khâm phục. Chỉ có thái độ tạ ơn, tin cậy mến và tôn vinh Danh Chúa, con người mới hiểu được rằng Thiên là Đấng phải đến trong gian trần để cứu chuộc con người. Phép lạ Đức Kitô đã làm xưa nuôi sống nhiều ngàn người cũng là phép lạ Chúa đã, đang và sẽ làm cho chúng ta mỗi ngày ngày hôm nay. Chỉ khi nào con người chịu tế nhận quyền năng và con người của Đức Kitô, khi ấy con người mới thực sự nhận ra được sự hiện hữu của mình trong lịch sử cứu độ. Thiên Chúa qua Con Một yêu dấu của Ngài vẫn còn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Chúng ta phải có tâm hồn mở rộng mới hiểu được dấu chỉ của thời đại, nhận ra được phép lạ Thiên Chúa vẫn làm cho mỗi người chúng ta từng giây từng phút trong lịch sử cứu rỗi nhân loại. Phép lạ lớn nhất mà Đức Kitô đã làm là phục sinh chính thân xác của Ngài. Đây là dấu chỉ và loan báo chính sự sống lại của chúng ta sau này.
Cùng với Giáo Hội, Mẹ chúng ta và cùng với anh chị em có mặt trong thánh lễ này, chúng ta khẩn cầu mẹ Maria giúp chúng ta hiểu được dấu chỉ của thời đại và phép lạ vẫn xẩy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội: TN 17B-97
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội.
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể,đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác... Hôm nay xin được chia sẽ về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư ? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh,con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”(ĐHV 817).
Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật: TN 17B-98
Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy, trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế, vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước…Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám…Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước ?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không ?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên. Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và: TN 17B-99:
Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu. Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
Xin Chúa cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và đau khổ của tha nhân.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,1-15.
(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. (5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. (8) Một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, thưa với Người: (9) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. (10) Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị Ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian !” (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đức Giêsu chứng tỏ mình là Mô-sê Mới khi làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá: TN 17B-100
2. Ý CHÍNH: Đức Giêsu chứng tỏ mình là Mô-sê Mới khi làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no, giống như trong thời kỳ Xuất hành, Mô-sê đã làm phép lạ nuôi dân Ít-ra-en trong sa mạc bằng man-na từ trời rơi xuống. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu sắp thiết lập trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua sau này.
3. CHÚ THÍCH:
- C. 1-4:
+ Biển hồ Ga-li-lê: Gọi là Ga-li-lê vì Biển Hồ này nằm ở xứ Ga-li-lê, miền Bắc nước Pa-lét-ti-na. Cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1), vì vào năm 26 vua Hê-rô-đê An-ti-pa đã cho xây thành phố Ti-bê-ri-a ở gần Biển Hồ này, rồi người ta dùng tên thành đó để gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Ngoài ra, Biển Hồ còn có tên là Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1).
+ Sắp đến lễ Vượt Qua là dại lễ của người Do Thái: Lễ Vượt Qua kỷ niệm việc dân Do Thái được thóat khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, và được trở về miền Đất Hứa là xứ Ca-na-an (x. Xh 3,17), nơi Thiên Chúa đã hứa ban đất ấy cho tổ phụ A-bra-ham và dòng dõi đến muôn đời (x. St 12,1).
- C. 5-7:
+ Người hỏi ông Phi-líp-phê: Sở dĩ Phi-líp-phê được Đức Giêsu hòi vì ông là dân địa phương.
+ Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?: Qua câu này, ta thấy Đức Giêsu còn quan tâm cả đến nhu cầu thể xác của đám đông dân chúng và tìm cách đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy.
+ Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi: Thời kỳ Xuất hành, Đức Chúa đã nhiều lần thử thách sự trung thành của dân Ít-ra-en, xem họ phản ứng thế nào khi gặp những hoàn cảnh khó khăn (x. Xh 16,4; 17,1-7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi hỏi Phi-líp-phê kiếm đâu ra bánh cho đám đông ăn, Đức Giêsu muốn thử xem ông có tin vào quyền năng của Người trong hoàn cảnh khó khăn này không ? Còn Người thì đã có quyết định phải làm gì rồi.
+ “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”: 200 đồng là một số tiền lớn, tương đương với 200 ngày công lao động, vì lương công nhật thời bấy giờ là một đồng (x. Mt 20,2.9).
- C. 8-9:
+ An-rê anh ông Si-mon Phê-rô thưa với Người: An-rê có lần đã dẫn đưa em mình là Si-mon đến giới thiệu với Đức Giêsu (x. Ga 1,42). Lần này ông cũng đã phát hiện ra một em bé trai có thực phẩm và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giêsu.
+ “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá: Bánh lúa mạch là loại bánh mì rẻ tiền, làm bằng lúa mạch, là thức ăn dành cho gia súc. Đây là bánh của những người thật nghèo. Cá của em nhỏ mang theo là loại cá nhỏ ướp muối. Vì thời đó người ta chưa có phương tiện bảo quản cá tươi lâu được. Cá muối là món ăn bình dân của dân chài lưới ven bờ Biển Hồ.
+ “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !”: Nói lên sự bất lực của các Tông Đồ trước nhu cầu lớn lao của dân chúng đang đói và cần được ăn no.
- C. 10-11:
+ Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi: Nằm ngả xuống hay ngồi xuống cách thoải mái là tập tục nằm nghiêng khi ăn uống của vùng Cận Đông. Theo Mác-cô, việc người ta ngồi thành từng nhóm một trăm hay năm mươi (x. Mc 6,40), không những tiện lợi cho việc phân phát bánh theo thể thức Mô-sê đã làm trong cuộc Xuất Hành (x. Xh 18,21.25), mà còn nói lên tinh thần hiệp thông phải có, khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể sau này (x. 1 Cr 11,18-21).
+ Chỗ ấy có nhiều cỏ: Đất có nhiều cỏ cho thấy khi ấy đang trong mùa xuân, là thời gian mừng lễ Vượt Qua của Đạo Do Thái. Cây cỏ xanh tươi gợi lên hình ảnh Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11). Người dẫn đàn chiên Ít-ra-en Mới đi đến cánh đồng cỏ xanh tươi, để họ được ăn uống no nê và được sống dồi dào (x. Tv 23,1-3; Ga 10,10).
+ Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó: Trong Tin Mừng Nhất Lãm (gồm 3 Tin Mừng của Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), Đức Giêsu trao bánh và cá cho Môn đệ để họ đi chia cho dân chúng (x. Mt 14, 19; Mc 6,41; Lc 9,16). Còn trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giêsu tự phân phát bánh đã được nhân ra nhiều cho dân chúng. Việc Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát là những cử chỉ Người sẽ làm trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua (x. Mt 26, 26). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều này là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ thiết lập.
- C. 12-13:
+ No nê: Theo Hy ngữ cổ, từ “no nê” chỉ việc cho súc vật ăn rơm. Khi dùng cho người thì có nghĩa là ăn no đến phát ngán !
+ “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”: Tạo sao có nhiều miếng bánh thừa như vậy ? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì cho các tôi tớ phục vụ bàn ăn. Số bánh thừa là mười hai giỏ đầy do mười hai Tông Đồ thu lượm.
- C. 14-15:
+ Hẳn ông này là vị Ngôn sứ: Vị Ngôn sứ nói đây đã được Mô-sê đề cập đến như sau: “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi rằng: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một Ngôn sứ giống như ngươi, để giúp chúng. Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì ta truyền cho người ấy “ (Đnl 18,17-18).
+ Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình: Người Do Thái đang bị người Rô-ma cai trị và họ khao khát trông mong Đấng Thiên Sai đến để làm vua của họ và cầm quân giải phóng họ khỏi ách đô hộ. Họ đã nhiều lần khởi nghĩa và đều bị quân Rô-ma đàn áp giết hại rất dã man. Đức Giêsu hiểu rõ sứ mệnh của Người không nhằm làm vua trần thế như ước muốn của người Do Thái, nên Người đã lánh lên núi để gặp gỡ Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI:
1) Xưa vào thời kỳ Xuất Hành, Mô-sê đã nuôi dân Ít-ra-en trong suốt thời gian đi trong sa mạc 40 năm để về Đất Hứa bằng man-na từ trời rơi xuông, thì nay Đức Giêsu làm gì để ban Man-na Mới do dân Ít-ra-en Mới trên đường lữ hành về Đất Hứa Thiên Đàng ?
2) Tại sao Biển Hồ được mang tên là Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a ?
3) Lễ Vượt Qua là lễ của đạo Do thái hay đạo Công giáo ? Kỷ niệm biến cố nào trong lịch sử Ít ra-en ?
4) Tại sao Đức Giêsu hỏi Phi-lip-phê chổ để mua bánh cho dân chúng ? Có thể rút ra bài học gì qua câu hòi của Người ? Đức Giêsu hỏi thử Phi-lip-phê để tìm biết gì về đức tin của các môn đệ ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Người hỏi Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6,5).
2. CÂU CHUYỆN: PHẢI THỂ HIỆN LÒNG BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ:
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời Chúa dạy. Các bà ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm ra phương cách họat động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà kết quả chẳng đi đến đâu. Một hôm, trong lúc họ đang bàn cãi, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật được gói trong tấm khăn vải. Ngài đặt chiếc gói xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái mới sinh được khoảng ba ngày, bị bỏ lại bên cạnh đống rác mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói: “Các bà muốn làm việc bác ái thì đừng nói nhiều nữa mà hãy làm những việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay làm việc nuôi trẻ bị bỏ rơi này ngay đi !”. Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ ngày đó.
3. SUY NIỆM:
Giống nhu Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban man-na nuôi dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc 40 năm về miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều, ám chỉ việc Người sẽ Man-na Mới là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đức tin của Ít-ra-en Mới là Hội Thánh trên bước đường vượt qua sa mạc trần gian để về Đất Hứa Nước Trời đời sau. Qua trình thuật này, chúng ta có thể rút ra được một số bài học về đức tin như sau:
a) Cộng tác làm việc tông đồ: Đức Giêsu nói với Phi-lip-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” Dĩ nhiên Người có thể làm phép lạ hóa bánh từ trời để nuôi đám đông dân chúng, giống như Đức Chúa đã ban man-na từ trời rơi xuống nuôi dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn các môn đệ ý thức và nhiệt tâm cộng tác trong sứ vụ ban ơn cứu độ cho lòai người.
Ngày nay Ngừơi cũng muốn các tín hữu chúng ta ý thức bổn phận phải tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ Chúa hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi…
b) Sự bất lực của chúng ta: Tin mừng ghi lại lời của Phi-lip-phê nói lên sự bất lực của các môn đệ trước nhu cầu quá lớn: “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”: Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ muốn thử để biết lòng tin của môn đệ, vì Ngừơi biết việc Người sắp làm.
Ngày nay khi mời gọi chúng ta cộng tác, hẳn Đức Giêsu cũng quá rõ về khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng Người muốn chúng ta ý thức bổn phận cộng tác, rồi vừa làm hết sức mình, vừa cậy trông vào tình thương và quyền năng của Người như Người đã dạy: “Vì không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga 15,5b).
c) Cộng tác bằng việc làm cụ thể: An-rê đã mau mắn đưa một bé trai đến và thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. Chúa cần thiện chí của các môn đệ thể hiện qua các việc làm thiết thực cụ thể, hơn là thái độ ỷ nại “nói mà không làm”.
Ngày nay Chúa muốn các tín hữu chúng ta làm những việc bác ái hợp với khả năng như thánh Gia-cô-bê dạy: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có lợi ích gì ? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì ? Cũng vậy, đức Tin không có hành động thì quả là đức Tin chết” (x. Gc 2,14-17). Vậy chúng ta có thể làm gì trong những ngày này để phục vụ Chúa hiện thân trong các người nghèo khổ, bất hạnh và đang bị bỏ rơi ?
d) Phải tiết kiệm trong sự chi dùng: Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Ngày nay nhân lọai vẫn tồn tại hai lọai là người giàu và kẻ nghèo: “Kẻ ăn không hết người lần không ra !”. 80% của cải trên trái đất đang nằm trong tay 20% người giàu. Còn hơn 700 triệu người không đủ cơm ăn áo mặc và một phần ba trẻ em ở lục địa đen (Phi châu) đang bị suy dinh dưỡng rất cần được trợ giúp. Qua việc ra lệnh cho môn đệ thu lại những miếng bánh thừa bị vứt bừa bãi, Đức Giêsu muốn chúng ta phải biết trân trọng lương thực Chúa ban, vì của cải là của chung hết mọi người và chúng ta chỉ được trao quyền quản lý. Cần chi tiêu tiết kiệm để có điều kiện chia sẻ cho những người nghèo đói hơn mình. Vậy chúng ta có thể tiết kiệm những gì để lấy tiền giúp đỡ những ngừơi nghèo đói bên cạnh ?
e) Phải đáp ứng cả nhu cầu về bánh tinh thần: Đức Giêsu có lần đã nhấn mạnh về giá trị của lương thực tinh thần như sau: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4):
Ngày nay lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin mang lại sự sống đời đời chính là Lời Chúa và Thánh Thể được ban trong thánh lễ. Chúng ta cần dự lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời như lời Chúa hứa: ”Tôi là bánh hằng sống từ trời xuông. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51).
4. THẢO LUẬN: Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn nhiều người bị đói khát cơm ăn, áo mặc, thuốc men… và đói nghe Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Vậy chúng ta phải làm gì cụ thể trong khả năng giới hạn của mình để giúp người nghèo có cơm ăn áo mặc, người đau liệt có thuốc men chữa bệnh, trẻ em đường phố được người có trách nhiệm quan tâm chăm sóc nuôi nấng, người lương được nghe rao giảng Tin Mừng để tin Chúa và được sống đời đời sau này ? 5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Xin cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và đau khổ của tha nhân. Phần đóng góp của chúng con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người bất hạnh, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đói khát, một manh áo cũ cho người không áo che thân, một lời động viên an ủi cho người đang đau khổ vì bị hiểu lầm và đối xử bất công, một sự khoan dung tha thứ đối với những kẻ đang để tâm thù ghét làm hại chúng con... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi anh em. Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm vui lòng một người, mỗi ngày làm ít nhất một việc thiện…, để trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.