Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”. Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến”. Họ thưa Chúa Giêsu: “Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: “Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian”. Họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. - Ðó là lời Chúa.
Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ "Damn Yankees" là một người đứng tuổi, tên: TN 18-B1
Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ "Damn Yankees" là một người đứng tuổi, tên là Joe Boyd. Từ khi còn bé, Joe đã ước mơ một ngày nào đó, anh sẽ trở thành một cầu thủ nổi tiếng chơi banh baseball. Bây giờ Joe đã lớn tuổi, giấc mơ không thể thực hiện được nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục mơ ước.
Rồi vào một buổi tối nọ, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Một người đàn ông tên Applegate đã đi vào cuộc sống của Joe. Applegate đã nói với Joe rằng ông có thể giúp Joe thực hiện giấc mơ của mình.
Ông có thể làm cho Joe, từ một người đàn ông đứng tuổi, trở thành một cầu thủ 22 tuổi chơi cho đội banh Washington Senators. Vào thời đó, đội Washington là một đội trong liên hội Hoa Kỳ (American League). Tuyệt vời hơn nữa là Joe không những sẽ trở thành cầu thủ nổi tiếng, mà còn giựt được cờ vô địch New York Yankees.
Applegate là ai vậy? Có lẽ chúng ta có thể đoán ra được câu trả lời rồi, đó là thằng quỉ đội lớp người.
Sau khi nói sơ qua những gì Joe sẽ được, thì Applegate ra một điều kiện là anh phải bán linh hồn mình cho nó để đổi lấy danh tiếng.
Joe đã không nghĩ ra được một lý do gì mà không đồng ý với thằng quỉ Applegate để thực hiện giấc mơ của mình. Sau cùng, Joe đã đồng ý với thằng quỉ nhưng với một điều kiện là nếu bất thình lình trước khi giựt được cờ vô địch thì hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ. Applegate nghĩ rằng một khi Joe đã được nổi tiếng rồi thì chắc chắn anh sẽ bị danh tiếng làm cho ngu muội và sẽ không bao giờ hủy bỏ hợp đồng, và nó đã đồng ý.
Sau khi mọi sự đã được thỏa thuận, Joe đã hôn lên má người vợ đang ngủ của mình và để lại một tấm giấy với những lời tạm biệt. Joe bắt đầu một cuộc sống khác.
Joe đã gia nhập vào đội banh Senators như là một lính mới và dần dần anh đã được nổi tiếng trong nhóm. Joe đã được nhiều người thích baseball mộ mến, và nhiều người trẻ đã coi Joe là một thần tượng. Nhiều người già còn mơ ước rằng Joe là một trong những người con của họ.
Đó là những giây phút thật hào hứng. Anh không bao giờ dám nghĩ rằng cuộc sống của anh tràn đầy sự ngọt ngào như thế. Anh không bao giờ dám mơ rằng thế giới tuyệt vời đến thế.
Tiếp tục cuốn phim, một điều không ngờ đã xảy ra cho Joe. Mặc dù có danh tiếng và vận may Joe vẫn thấy chán nản. Một buổi tối nọ, Joe đã ngồi và nhìn vào một bức tường, và trong thâm tâm của anh, anh đang nhìn thấy một sự trống rỗng. Danh tiếng và vận may không có thể nào làm cho tâm hồn no thỏa được. Và Joe vẫn không hiểu tại sao.
Rốt cuộc, ngày hạn đã sắp đến để giao linh hồn mình cho quỉ. Còn danh tiếng, cờ hiệu, trong tâm trí của Joe chỉ là con số không. Sau cùng, Joe đã quyết định một việc mà anh không bao giờ nghĩ đến đó là trước khi giựt được giải cờ hiệu, anh sẽ hủy bỏ hợp đồng với Applegate.
Có lẽ rằng lý do mà Joe hủy bỏ hợp đồng là bởi vì trong tâm trí của Joe, anh đã nghe được tiếng nói của Chúa Giêsu: "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì?" (Lc 9:25).
Cho dù là lý do nào đi nữa thì Joe đã biến khỏi thế giới của môn thể thao baseball một cách huyền bí giống như lúc anh bước vào.
Một vài ngày sau, Joe đã trở về căn nhà của mình. Anh hôn vợ của mình và anh đã trở lại một người đàn ông đứng tuổi hồi trước, Joe Boyd, một người đã từng mơ ước để trở thành một cầu thủ baseball nổi tiếng.
Câu truyện của Joe Boyd nói lên một tư tưởng mà chúng ta gặp thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời... Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ."
Điều mà Chúa Giêsu phán có thể được tóm gọn trong một câu: Không vật gì ở thế gian này có thể thỏa mãn được trái tim đói khát của con người.
Đó là bài học mà chúng ta cần phải biết nếu chúng ta muốn đi tìm sự hạnh phúc thật. Danh tiếng và của cải sẽ hứa cho chúng ta được no thỏa về phần xác, nhưng đến cuối cùng nó chỉ làm cho chúng ta càng thêm đói khát.
Trong một vài phút nữa đây, chúng ta sẽ chia sẻ với nhau tấm bánh hằng sống. Chúng ta cùng nhau xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ quên đi một chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc Âm: của ăn uống của thế giới vật chất này không bao giờ no thỏa trái tim đói khát của chúng ta và trái tim chúng ta được dựng nên cho Chúa và sẽ chỉ được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều. Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên: TN 18-B2
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự... Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới. Đức Giêsu không trách họ về chuyện này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua. Đức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua. Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ. Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa. Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác. Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi. Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ. Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương. Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống. Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai, nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó... Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa. Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Đức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên. Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
"Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn" "Xin ông cho tôi thứ nước ấy" (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần. Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu! Nếu bạn khao khát Tuyệt Đối thì chỉ Tuyệt Đối mới làm bạn no thỏa. Tuyệt Đối đã hiện diện nơi Đức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn, và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi nói đến thức ăn tinh thần, người ta nghĩ ngay đến báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, phim ảnh, video. Bạn đánh giá thế nào về các món ăn tinh thần này? Bạn thích hình thức giải trí nào hơn cả?
Bạn có những khát vọng về mặt vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy mình được mãn nguyện chút nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Những lúc con cảm thấy đói, xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn. Khi con khát, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống. Khi con lạnh lẽo, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi. Khi con bị xúc phạm, xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an. Khi thập giá của con trở nên nặng nề, xin ban cho con thập giá của một người khác để cùng chia sẻ. Khi con túng nghèo, xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn. Khi con không có thời giờ, xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát. Khi con nản chí, xin gởi đến cho con một người cần khích lệ. Khi con chỉ biết nghĩ đến mình, xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
Cái đói, cái khát, cơm, bánh, nước là những nhu cầu rất thiết thân với con người trong đời sống: TN 18-B3
Cái đói, cái khát, cơm, bánh, nước là những nhu cầu rất thiết thân với con người trong đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu đã rất thực tế khi chạnh lòng thương dân bơ vơ, vất vưởng, đói khát đi theo sát Chúa và các môn đệ để lắng nghe lời Chúa. Và nếu để dân chúng đói khát ra về lúc trời buông màn tối, Chúa và các môn đệ của Ngài sẽ không thực tế chút nào mà đang lơ lửng trên trời cao. Chúa là con người hết sức cụ thể và thực tế rõ ràng: Ngài đưa dân đi từ lương thực vật chất tới lương thực sự sống vĩnh cửu nước trời.
VẪN LÀ LƯƠNG THỰC VẬT CHẤT NÍU KÉO DÂN CHÚNG...
Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống nhiều ngàn người ăn vào cái chiều mà dân chúng đoàn đoàn lũ lũ cứ mải miết, vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài dậy dỗ, loan báo nước Thiên Chúa. Theo các môn đệ cứ giải tán đám dân cho họ về là xong, là hết trách nhiệm, là thoải mái, khỏi vướng mắc, khỏi bận bịu, khỏi mất công, mất thì giờ. Làm như thế quả thực quá dễ dàng và xem ra vô trách nhiệm... Chúa biết trước việc Chúa sẽ làm lúc này, bây giờ đây để nuôi dân chúng đang khát khao lời Chúa. Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao để hướng dân chúng tới thực tại siêu vời là chính Mình và Máu của Ngài sẽ đổ ra để cứu độ nhân loại. Tuy nhiên, khi làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi đám đông đang đói, đang khát, dân chúng đã ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy. Với phép lạ này, đám dân đoàn lũ đã muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì họ quan niệm ông vua này rồi sẽ giúp dân no nê cơm bánh, sẽ bảo đảm đời sống vật chất cho dân và như thế Chúa làm vua là điều tối quan trọng để cuộc sống của người dân được bảo đảm. Nhưng Tin mừng cho thấy: Chúa Giêsu đã lánh mặt, đi lên núi một mình. Chúa không đến để cai trị, để lãnh đạo theo kiểu người đời mà "Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ”. Và hôm nay, Chúa Giêsu lại trở lại để gặp dân chúng, nhưng khi gặp dân, Chúa tấn công ngay:” Thật Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Sở dĩ Chúa Giêsu trả lời cho dân một cách xem ra cứng cỏi vì Ngài đang nói với đám nông dân Galilêa, đám dân cầy Do Thái: họ biết rõ thế nào là mất mùa, là được mùa, thế nào là đói, là khát, là thiếu đồ che thân. Họ sung sướng khi mùa lúa mạch và nho được mùa, khi các bầy gia súc phát triển phồn vinh. Chúa Giêsu cũng đã đưa ra một nhu cầu hết sức thực tế đối với người nữ Samaria đang phải kín nước giếng của Giacóp hằng ngày. Thực tế, dân chúng mong chờ vật chất, lương thực nuôi sống hơn là những dấu chỉ nói về nước trời. Chúa giải quyết nhu cầu cho dân Do Thái lúc đó hay chiều ý của những con người thời nay đang có quá nhiều nhu cầu vật chất như tiền tài, danh vọng, thú vui thì họ đi theo Chúa, còn Ngài giải quyết theo ý của Ngài thì có nhiều người thời xưa cũng như nay sẽ hụt hẵng, chưng hửng, bối rối và bỏ Chúa mà đi tìm thứ khác. Sở dĩ như thế vì con người xưa và con người ngày nay đã không nhìn ra sự liên tục phải đi từ cái đói thể xác tới cái đói, cái khao khát Thiên Chúa và tìm nước trời.
CHÚA MỜI GỌI CON NGƯỜI TIN VÀO NGƯỜI: ĐẤNG ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHA SAI ĐẾN:
Con người không nhìn ra tính liên tục của vấn đề, còn Chúa, Ngài lại nhìn rõ vấn đề ấy. Và như thế, con người có thể hiểu, có thể lý giải tại sao cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với những người Do Thái xem ra gay gắt và hằn học như thế. Chúa Giêsu mời gọi nhân loại tin vào Đấng Thiên Chúa Cha sai đến. Chúa không bảo con người biếng nhác làm việc, cứ ngồi đó trông chờ phép lạ, trông chờ của bố thí, chờ sung rụng vv...nhưng Chúa mời gọi con người làm việc không ngừng, làm việc hết mình để có thể tìm kiếm một thứ lương thực không hề hư nát. Chúa không nói con người khinh thường cơm bánh hằng ngày là của ăn nuôi sống, nhưng Chúa còn muốn con người vươn cao hơn nữa để tìm bánh trường sinh bất tử. Chúa mời gọi nhân loại thay vì ăn Manna như tổ tiên đã ăn trong sa mạc xưa, Ngài mời gọi con người đến ăn thịt và uống máu của Ngài để có sự sống đời đời:” Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát”( Ga 6, 35 ). Đây là một mạc khải hết sức kỳ diệu:” lương thực chính yếu là Đức Kitô “. Ngài là sự sống sung mãn, là Đấng cứu độ. Tin vào Ngài, nhân loại sẽ được sống đời đời. Chúa Giêsu luôn mời gọi con người vươn cao hơn: Ngài đi từ những thực tế, những nhu cầu thường ngày để đưa con người tới sự khao khát Lời của Chúa:” Con người không chỉ sống nguyên nhờ bánh, mà còn bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra”( Đnl 8,2-3 ).
Lạy Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh, xin cho chúng con luôn biết đến với Chúa để không hề đói và tin vào Chúa để không bao giờ khát nữa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Manna trong cuộic hành trình sa mạc xưa ám chỉ gì ?
2. Tại sao Chúa lại nói:” Ta là Bánh trường sinh ? “.
3. Người Do Thái có chấp nhận Chúa là Bánh trường sinh không ?
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi: TN 18-B4
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ.
Theo Công đồng Vatican II, hy tế này là cội nguồn và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu. Là cội nguồn vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phát sinh từ đó. Là chóp đỉnh vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phải qui về đó.
Thế nhưng, một số người đã coi việc tham dự thánh lễ như chuyện miễn cưỡng phải tuân giữ. Họ cảm thấy thánh lễ không liên quan gì đến cuộc sống của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị bỏ rơi. Nhà thờ ngày Chúa nhật cũng vắng bóng người. Đó là điều đã và đang xảy ra tại các nước Phương Tây, nhưng rồi cũng sẽ là điều xảy ra cho chúng ta.
Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Nhiều khi vì nghĩ rằng cử hành thánh lễ là chuyện của linh mục, còn lễ vật dâng lên là hy tế của Đức Kitô, nên nhiều người đã đi tham dự lễ với hai bàn tay trắng.
Thực ra, thánh lễ đòi hỏi con người nhiều nỗ lực cả trước lẫn sau thánh lễ. Những nỗ lực đụng chạm đến cuộc sống thâm sâu của con người. Tham dự thánh lễ một cách nghiêm chỉnh, không dễ như chúng ta lầm tưởng. Càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, thánh lễ càng sinh nhiều hiệu quả.
Cha Teilhard de Chardin đã dùng lễ vật của trái đất để dâng lễ khi viết :
“Tôi là linh mục của Ngài, trên bàn thờ là toàn thể trái đất, tôi sẽ dâng lên Ngài những lao công vất vả cùng với nỗi đau thương của thế giới. Tôi sẽ đặt trên đĩa thánh mùa gặt được đợi chờ từ những cố gắng mới. Tôi sẽ rót vào chén thánh nước cốt của tất cả những hoa trái sẽ được nghiền nát trong ngày hôm nay. Chén thánh và đĩa thánh của tôi là những phần thâm sâu nhất của một tâm hồn được mở rộng để đón nhận tất cả mọi năng lực, trong chốc lát, sẽ dâng lên từ muôn phương của địa cầu và sẽ qui tụ về thần linh”.
Việc dâng lễ sẽ trở nên xa lạ nếu thực sự bánh và rượu không tượng trưng cho chút đóng góp của người đến tham dự.
Công đồng Vatican II cũng đã nói nhiều đến việc dâng lễ. Lễ vật là bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là mọi hoạt động của tôi. Như thế, việc dâng hy tế của Đức Kitô không loại bỏ việc chúng ta dâng hy tế đời mình lên cho Thiên Chúa.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới hai kết luận.
Kết luận thứ nhất, đó là thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những đắng cay và buồn phiền sẽ được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà dâng lên Thiên Chúa.
Kết luận thứ hai, đó là thánh lễ dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Một số tín hữu ở Corinthô, khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Một hôm, Napoleon, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông: TN 18-B5
Một hôm, Napoleon, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoleon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Napoleon nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới chỉ sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Napoleon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến với Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh no nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không phải là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài, ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ… Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên Nước Trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.”
Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.
Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi: TN 18-B6
Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, bức “Cô dâu người Do thái”. Sau khi nhìn ngắm bức tranh ông nói “Tôi sẵn sàng đổi mười năm của đời mình để được ngồi trước bức tranh này trong hai tuần, với lương thực là vụn bánh mì khô. Cơn đói đầu tiên của tôi không phải là đói thức ăn, dù tôi thường nhịn đói nhiều ngày. Lòng khao khát hội họa của tôi còn mạnh hơn nhiều, đến nỗi khi tôi có được ít tiền, tôi lập tức đi săn lùng những mẫu tranh cho đến khi tiền hết sạch”.
Không chỉ có thể xác làm người ta đói, tâm hồn và tinh thần cũng làm người ta đói. Bánh làm bằng vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Nuôi dưỡng một con người không giống như việc vỗ béo gia súc. Chúng ta là những thụ tạo không chỉ có một cơn đói nhưng có hàng trăm cơn đói. Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói nhiều thứ.
Không phải mọi khao khát của chúng ta cần được thỏa mãn. Một số là dục vọng nếu được thỏa mãn, cơn đói và sự đòi hỏi càng lớn hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng những dục vọng ấy tồn tại trong chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giữ lại những khao khát cần được thỏa mãn nếu chúng ta muốn nuôi dưỡng xứng đáng như những con người và như những con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta khao khát được cảm thấy mình quan trọng. Không ai muốn mình chẳng là gì cả. Chúng ta đều muốn mình trở nên quan trọng, dù chỉ quan trọng đối với một người.
Chúng ta khao khát được chấp nhận. Nếu chúng ta không được chấp nhận, chúng ta hầu như mất khả năng nhận thức chính mình.
Chúng ta khao khát những mối quan hệ. Không có các mối quan hệ, chúng ta tha hồ bị những cơn gió rét của đau khổ và cô đơn rung chuyển. Chúng ta giống như một cây trơ trọi trên đỉnh đồi.
Chúng ta khao khát đức tin – vì chấp nhận những niềm tin tích cực hướng dẫn chúng ta. Nếu không thì chúng ta giống như chiếc tàu không có hải đồ và hải bàn.
Chúng ta khao khát niềm hy vọng. Gạt bỏ niềm hy vọng là tiếp tục đình chỉ sự khao khát tinh thần.
Chúng ta khao khát tình yêu. Nếu niềm khao khát này được no thỏa thì hầu hết mọi khao khát khác của chúng ta sẽ biến mất.
Tuy nhiên, có thêm một cơn đói nữa, một khao khát sâu xa hơn và là nền tảng cho mọi khát vọng khác của chúng ta, bao gồm khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sự sống đời đời. Nói cách khác, đó là khao khát Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khao khát này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Nó cứu chúng ta khỏi sự trì trệ và giữ cho dòng sông chảy ra biển cả.
Hàng ngày chúng ta thấy người ta xuất hiện trong các siêu thị với những xe đẩy hàng đầy thức ăn và đồ uống. Nhưng chúng ta không tìm thấy thứ lương thực khác đó trong các siêu thị. Nếu có thể, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng tốt. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta lương thực ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.
Bánh Manna đã nâng đỡ đời sống trần gian. Lương thực của Đức Giêsu nâng đỡ đời sống trường tồn. Đối với chúng ta – những người du hành trên con đường thời gian – đều được một khát vọng không thể cưỡng lại được hướng dẫn đến trường sinh. Đức Giêsu đến với một lời hứa: “Ai ăn bánh mà tôi ban cho sẽ được sống muôn đời”. Ai lại không muốn ăn bánh ấy?
Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm: TN 18-B7
Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho dù manna là một hiện tượng tự nhiên thì sự xuất hiện của manna vẫn là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho dân. Có thể có một thứ lương thực ngọt và dẻo như nhựa do một loại cây nào đó trong sa mạc tiết ra ban đêm và đông lại khi gặp cái lạnh. Người ta phải nhặt chúng vào sáng sớm trước khi nó tan chảy trong sức nóng ban ngày. Chim cút cũng thế: chúng di cư từ Bắc Au đến Châu Phi, và bắt buộc phải đáp xuống nghỉ đêm trong sa mạc, ở đó chúng dễ dàng bị bắt.
Thiên Chúa nói với Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời như mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày ấy; Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo luật của Ta hay không”. Chúng ta phải giải thích những lời ấy như thế nào?
Nếu chúng ta hỏi một tín hữu bình thường xem người ấy có tin Chúa là Thiên Chúa duy nhất của thế gian không, người ấy sẽ không ngần ngại trả lời: “Dĩ nhiên rồi”. Nhưng nếu bạn hỏi người ấy có phải Thiên Chúa sẽ thấy hết mọi nhu cầu của người ấy để người ấy phó thác mọi sự cho Người thì người ấy sẽ lùi lại như muốn nói: “Vâng tôi chưa đạt đến trình độ đó”.
Chúng ta phải phân biệt giữa đức tin và phó thác hay tín thác. Dù chúng liên kết nhau chặt chẽ nhưng chúng không đồng nghĩa. Người nào tin tưởng vững vàng thì phó thác trọn vẹn. Nhưng nếu một người nào đó không phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, thì niềm tin của họ rất yếu. Kinh nghiệm sa mạc là một cơ hội cho dân Do thái gần gũi với Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy dạy họ trông cậy vào Thiên Chúa, tín thác vào Đấng Quan Phòng mỗi ngày. Vì thế, Thiên Chúa bảo họ không được tích trữ bánh manna và bảo đảm họ sẽ có phần của ngày mai. Họ chỉ được lượm đủ nhu cầu của ngày hôm nay. Ngày mai, Thiên Chúa sẽ lại cung cấp cho họ.
Đức Giêsu cũng giảng dạy cùng một chân lý. Người nói chúng ta phải cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Giáo huấn này nghe có vẻ lạ lùng, nếu không nói là điên rồ đối với những người hoàn toàn tín nhiệm vào các tài khoản tiết kiệm, các chính sách bảo hiểm. Chúng ta không dành đủ chỗ cho Thiên Chúa. Đó là đi ngược lại với cách sống đức tin.
Qua mọi lời nói và hành động, không phải bánh manna đã nâng đỡ dân Do thái trong suốt thời gian ở sa mạc. Chính đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa đã nâng đỡ họ. Đây là lương thực có giá trị với chúng ta – Đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong mọi lúc nhưng đặc biệt trong những khi bị thử thách. Không phải chính chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. Dù đời sống có khó khăn như thế nào đối với những người tín thác vào Thiên Chúa và sống mỗi ngày, mỗi lúc thì việc bánh manna rơi xuống mỗi ngày không có gì là ghê gớm lắm.
Sau mỗi lúc cao cả lại đến một lúc phản ứng lại và chính trong sự phản ứng lại này, nguy hiểm: TN 18-B8
Sau mỗi lúc cao cả lại đến một lúc phản ứng lại và chính trong sự phản ứng lại này, nguy hiểm đang nằm chờ sẵn. Dường như có một qui luật của đời sống là ngay sau khi sức mạnh đề kháng lên điểm cao nhất, thì nó chúi xuống điểm thấp nhất.
Viết về kinh nghiệm Auschwitz, nhà văn Ý, Primo Levi nói: “Trong đa số các trường hợp, giờ giải phóng không phải là lúc vui tươi, phấn khởi. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau lúc giải phóng. Trái lại, các vụ tự tử hiếm khi xảy ra trong suốt thời kỳ bị giam cầm. Trong trường hợp của riêng tôi, được thả ra là một giây phút nguy kịch, nó trùng khớp với một cơn lũ của việc suy nghĩ lại và chán nản”.
Và Elie Wiesel, một người sống sót từ Auschwitz trở về nói: “Trong suốt thời kỳ thử thách, tôi đã sống trong sự chờ đợi… một phép lạ, hoặc cái chết. Chỉ sau này, sau khi cơn ác mộng đi qua tôi mới bị một cơn khủng hoảng đau đớn và thống khổ, tra hỏi mọi niềm tin của tôi”.
Về lý thuyết, khi họ đã được thả ra thì sau đó họ phải sống một cách hạnh phúc. Tuy nhiên, thường xảy ra việc những người trở về hầu như đã chết ngay sau khi họ “trở lại sự sống”. Người ta giải thích điều đó như thế nào? Trong lúc họ còn ở trong địa ngục thì giấc mơ được giải thoát đã cho họ sức mạnh để sống còn. Nhưng tự do không luôn luôn thực hiện những mong đợi của họ. Nhiều người trong số họ không có chỗ để về. Sự tàn bạo của nhà tù bắt đầu khi bạn ra khỏi nơi đó. (Oscar Wilde). Dân Do thái đã có một kinh nghiệm tương tự. Họ rời bỏ ách nô lệ ở Ai cập trong niềm vui, và bắt đầu lên đường đi vào một tương lai mà họ tin là tươi sáng. Thế là một thời gian ngắn sau đó họ muốn trở về Ai cập. Họ muốn trở lại thân phận nô lệ. Điều này đã xảy ra?
Trong một ý nghĩa, những bối rối thật sự của họ đã bắt đầu sau khi được ra đi. Tự do không làm cho có điều họ nghĩ phải có. Họ thấy mình ở trong sa mạc và thiếu lương thực. Họ đã khám phá rằng tự do bao gồm một cuộc hành trình đến miền đất hứa xa xăm và mơ hồ. Còn lúc này họ phải đương đầu với khó khăn, thử thách và nguy hiểm.
Thật ra, dân Do thái thời Mosê không sẵn sàng đón nhận tự do, và Kinh Thánh đã trung thành thuật lại những cãi cọ và bối rối của họ. Cần có một thế hệ mới để sẵn sàng vượt qua sông Giocđan và vào miền đất hứa. Cho nên có câu nói: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tự do đưa ra những thách đố của nó. Nó có nghĩa là nhận trách nhiệm về cuộc đời mình. Nó không là việc dễ dàng đặc biệt đối với những người quen để cho người khác quyết định mọi việc cho mình. Tự do đòi hỏi một kỷ luật cho bản thân. Để cho người khác đưa ra kỷ luật cho mình thì dễ dàng hơn mình đặt kỷ luật cho chính mình. Biến đổi một con người thành nô lệ dễ hơn một nô lệ trở thành con người.
Dân Do thái đã nhìn lại đàng sau và nghĩ: “Có lẽ chúng ta đã tốt hơn khi ở lại Ai cập; ít nhất ở đó chúng ta có đủ ăn?”. Và thế là họ bắt đầu càu nhàu Môsê. Giá mà họ đã đem theo những phẩm chất làm họ có thể chịu đựng cảnh nô lệ. Nhưng họ không dùng những phẩm chất ấy để sống tự do như khi họ sống trong cảnh nô lệ.
Chúng ta cảm thấy có thiện cảm với họ. Họ không thể tiên đoán rằng giấc mơ tự do của họ, một khi đã được thực hiện đưa đến những thách đố mới và những nguy cơ mới. Thái độ ù lỳ của họ thật đáng buồn khi nghĩ đến việc họ sẵn sàng từ bỏ tự do để được nhét vào bụng những món ăn ngày trước họ đã ăn ở Ai cập. Tuy nhiên, Thiên Chúa động lòng thương họ và đã cho họ bánh manna để nâng đỡ họ trong cuộc lữ hành băng qua sa mạc.
Điều này có quan hệ rất lớn đối với chúng ta. Là dân mới của Thiên Chúa, chúng ta hành trình trong đức tin hướng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Bởi phép Rửa tội, chúng ta được mời gọi ra khỏi sự nô lệ – nô lệ cho tội, nô lệ cho tiện nghi và an toàn v.v… (Xem bài đọc 2). Chúng ta được hướng dẫn không phải bởi Môsê nhưng bởi Đức Giêsu. Chúng ta phải sống bởi đức tin chứ không phải bởi thị kiến.
Và chúng ta gắn bó với kinh nghiệm sa mạc của thử thách và khó khăn. Có lúc, chúng ta có thể cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Và vì thế, chúng ta khao khát sự xa hoa của thế gian này. Chúng ta bị cám dỗ rơi trở lại tình trạng nô lệ của tội lỗi hơn là sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Nhưng vì Thiên Chúa đã nâng đỡ dân Do thái nên Người đã nâng đỡ chúng ta qua đức tin vào Đức Giêsu và Bánh là chính Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà là đức tin gìn giữ chúng ta. Dù cuộc đời có khó khăn đến mấy, đối với những người tín thác vào Thiên Chúa, và sống mỗi ngày trong mỗi lúc, bánh manna vẫn rơi xuống mỗi ngày.
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi: TN 18-B9
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức “Cô dâu Do thái”. Sau khi ngắm xong, Van Gogh thố lộ: “Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi”.
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
- Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
- Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
- Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
- Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
- Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
- Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
- Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông.
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được: TN 18-B10
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế? Thưa vì lợi lộc vật chất:
. Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài che phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
. Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn: hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm: Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
. Khi đó Đức Giêsu nói thẳng: “ Các ngươi tìm Ta là vì đã được ăn no”. Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói “Các ngươi đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát”.
. Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ “Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?” Phêrô lên tiếng đáp thay anh em “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
Con người ta là thế đấy: Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề “Chìa Khóa Nước Trời”, nhà văn A.J.Cronin kể lại có một linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rải. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gỡ đập phá về sửa nhà riêng.
Vị linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả: Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. Linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát – Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát !
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào ? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẽ: nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cầu nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ: Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn: Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta “Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát”.
Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa: TN 18-B11
1. Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở chỗ nào? Vậy con người phải đặc biệt quan tâm phát triển những khả năng nào?
2. Con người thường tìm hạnh phúc nơi những gì? Khi đạt được những thứ ấy, con người đã thỏa mãn chưa? hay họ lại khao khát những thứ khác? Như vậy, tìm hạnh phúc nơi những thứ ấy có phải là cách khôn ngoan không? Tìm hạnh phúc ở đâu mới là khôn ngoan?
3. Đức Giêsu là «bánh trường sinh». Vậy ta phải làm gì với Đức Giêsu để đạt được «bánh trường sinh» ấy? Có phải là rước lễ? Những người rước lễ có ai đạt được «bánh trường sinh» chưa?
Suy tư gợi ý:
1. Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.
2. Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.
Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.
Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
3. Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua, nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực… Đạt được hạnh phúc này thì lại khao khát hạnh phúc khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy… rồi xe hơi… rồi nhà cao cửa rộng… rồi địa vị quyền lực… Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu khuyên người ta không nên tìm thứ «lương thực mau hư nát» là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại «lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh». «Lương thực thường tồn» ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ «nước» mà Đức Giêsu hứa ban cho ta: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).
4. Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giêsu
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta thứ «lương thực thường tồn» hay «bánh trường sinh», khiến chúng ta một khi đã «ăn» vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. «Lương thực» này khác với thứ «lương thực mau hư nát», >«ăn» vào rồi là chán ngay, và muốn «ăn» thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giêsu. Ngài nói: «Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!». Rất nhiều Kitô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giêsu vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Kitô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.
Chúng ta chỉ «ăn» được «bánh trường sinh» là chính Đức Giêsu bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giêsu. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giêsu là năng lực thần linh, nên «ăn» Đức Giêsu là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên «ăn» Đức Giêsu không phải là «ăn» bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn «ăn» Đức Giêsu, tức «bánh trường sinh», ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy. «Ăn» Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc… luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. «Ăn» Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.
Cầu nguyện Lạy Cha, Đức Giêsu chính là một lương thực bổ dưỡng hữu hiệu cho tâm linh con người. Nhưng «ăn» Ngài không phải là ăn theo kiểu vật chất, mà là ăn theo kiểu tâm linh. Xin Cha dạy cho con cách thức «ăn» Ngài, để con được sống trường sinh và hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và không bao giờ mất đi được. Đó là hạnh phúc đời đời. Amen.
Để sửa soạn cho một dân tộc làm dân riêng, Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi: TN 18-B12
Để sửa soạn cho một dân tộc làm dân riêng, Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân, đi vào sa mạc chịu cảnh thiếu thốn cực khổ về vật chất để thanh tẩy và luyện lọc họ. Bài trích sách Xuất hành hôm nay cho thấy dân chúng trách móc Mô-sê và A-ha-ron vì đã đưa họ vào sa mạc thanh vắng, thiếu đồ ăn thức uống, để bắt họ phải chết đói. Sở dĩ có sự phàn nàn là vì họ đã quên mất tình yêu và đường lối quan phòng của Chúa. Tình yêu và quyền năng Chúa đã giải thoát họ khỏi ách thống trị của người Ai cập. Dầu sao đi nữa, khi nghe tiếng kêu trách của dân chúng, Chúa liền phán bảo Mô-sê: Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các người ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó. Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo Luật của ta hay không (Xh 16:4). Tuy nhiên khi Chúa cho ma-na rơi xuống mỗi ngày, dân chúng lại phàn nàn vì họ phải đi lượm lấy mà ăn, và vì ngày nào cũng phải ăn cùng thứ bánh, và bánh lại không có mùi vị. Phải chăng họ được voi đòi tiên?
Phúc âm hôm nay cũng ghi lại việc dân chúng đi tìm Chúa, để hi vọng được ăn bánh no nê, vì ngày hôm trước họ đã được Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Nhân cơ hội này, Chúa dạy họ một bài học: Các ngươi đi tìm ta, không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no thoả. Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn, đem lại phúc trường sinh (Ga 6:26-27). Khi Chúa Giê-su bảo họ việc Thiên Chúa Cha muốn là tin vào Đấng mà Người đã sai đến. Đám đông liền xin Người một dấu lạ để tin vào Người. Họ tìm Chúa để được ăn bánh nuôi thân xác nên họ không nhận ra Chúa là Đấng có quyền năng làm phép lạ.
Qua bí tích Rửa tội, ta được gia nhập đại gia đình của Chúa là Giáo hội. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta dừng chân lại, không cần đi tìm Chúa nữa. Ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa, tìm những gì thuộc về nước Chúa, tìm sự công chính của nước Chúa, tìm cái chân thiện mỹ trong tư tưởng, lời nói và hành động, tìm những gì thuộc lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên. Ta cần tìm ra những dấu vết của sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ, nơi những kỳ công của Đấng tạo dựng. Ta cần tìm lắng nghe tiếng Chúa qua liếng lương tâm ngay thẳng. Ta cần tìm ra những gì đem lại hạnh phúc toàn diện về thể xác, tinh thần và thiêng liêng, cũng như hạnh phúc lâu dài ở đời này và đời sau cho cuộc sống.
Tìm Chúa là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Mỗi ngày ta phải đi tìm Chúa với hi vọng được biết Chúa nhiều hơn. Mỗi ngày ta phải khám phá ra sự hiện diện của Chúa để được sống gần gũi thân mật với Chúa. Để có thể đi tìm Chúa, ta phải cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng. Để có thể cảm thấy đói khát, người ta phải loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tinh mê nết xấu thì tâm hồn mới có chỗ trống mà cảm thấy đói được. Nếu tâm hồn chứa đầy những chướng ngại vật: những tư tưởng ám muội, những hận thù ghen ghét, tham lam, những ước nuốn ngang trái, những việc làm tội lỗi thì tâm hồn bị ứ đọng, không thể cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng được. Để có thể cảm thấy đói khát thiêng liêng, ta phải từ bỏ con người cũ, nếp sống tội lỗi cũ để mặc lấy con người mới cùng với nếp sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem mình đang đói khát những gì ? Có phải ta đang đói khát tiền tài, danh vọng, thú vui.... hay đói khát Chúa và những sự công chính và bình an của nước Chúa ?
Một trong những đứa cháu của gia đình sau khi học giáo lý, nó đã được nhận vào xưng tội và: TN 18-B13
Một trong những đứa cháu của gia đình sau khi học giáo lý, nó đã được nhận vào xưng tội và chuẩn bị rước lễ lần đầu. Nó tỏ ra hớn hở và nôn nóng, khoe với các bạn là nó sẽ được cha cho ăn bánh. Và điều làm nó hồi hộp chính là không biết bánh ấy như thế nào, mùi vị làm sao, nhất là có ngon bằng những thứ bánh mà mẹ nó vẫn thường làm, hoặc mua cho nó ăn không. Không những nó, mà các em và bạn bè nó cũng thắc mắc, nhất là mấy đứa cũng đang chuẩn bị rước lễ lần đầu. Hôm rước lễ lần đầu, vừa về đến chỗ ngồi, mấy đứa em nó đã ghé sát vào tai nó và hỏi:
- Ê! Có ngon không?
- Không! Dở lắm!. Không ngon đâu. Nói xong nó le lưỡi cho mấy đứa em xem Thánh Thể mà nó vẫn còn ngậm trong miệng.
Chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi cảm thấy đau lòng cho Chúa Giêsu. Mỏi mong từ trời xuống, biến thành một thứ bánh quí cho nó, mà nó chê là dở và không ngon. Nhưng nghĩ cho cùng nó chỉ là một đứa trẻ mà niềm tin và sự hiểu biết còn nông cạn. Nhất là khi trí óc non nớt của nó chạm đến một mầu nhiệm quá sức phi thường và lớn lao, đến nỗi Thánh Tôma Tiến Sĩ cũng phải thốt lên: “Ta hãy lấy Đức Tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”.
Cảm nghĩ của một đứa trẻ lần đầu rước lễ ấy, dường như cũng trùng hợp với cảm nghĩ của người Do Thái khi họ nghe Chúa Giêsu nói về Thánh Thể, mà Ngài gọi là bánh bởi trời xuống: “Đây là bánh từ trời xuống” (Gio 6:50). Và mặc cho người đương thời phản đối và dị nghị, Chúa Giêsu vẫn cứ quả quyết và cho rằng, mọi người đều phải cần đến thứ bánh này: “Đây là bánh từ trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết” (Gio 6:50).
Cơm bánh hằng ngày, dù bổ béo mấy cũng không làm cho con người thoát chết. Chỉ có thứ bánh đặc biệt của Chúa Giêsu ban, mới giải cứu con người khỏi phải chết. Bánh hằng sống, bánh từ trời xuống như thế lẽ ra không cần phải mời mọc; tiếc thay, bánh này lại không ngon vì nó làm bằng thịt người: “Và bánh Ta ban, chính là thịt Ta” (Gio 6: 51).
Nghĩ cho cùng, con người kể ra cũng khó tính và khó chiều thật. Họ ăn đủ mọi thứ thịt những thú vật lớn nhỏ như trâu, bò, lợn, gà, ngan, ngỗng. Những dã thú rừng hoang như voi, tê giác, hổ, báo, gấu, hươu, nai. Những thứ bơi lội trong biển, trong hồ, trong sông, trong lạch, trong ao. Những chim chóc trên trời, và cả những thú độc hại như rắn, rết, bọ cạp& Nhưng thịt Con Đức Chúa Trời thì lại chê. Hay là tại Thiên Chúa không khéo xào, nấu, và nêm nếm. Hoặc là món thịt ấy nhậu không đã, không ngon. Nhưng Thiên Chúa đâu phải là thiếu khả năng nấu nướng và pha chế. Ngài biết nếu để nguyên thịt Con Người - thịt Đấng Cứu Thế - chắc chắn là ít người dám ăn, nên Ngài đã chế biến thành bánh. Ngài dùng thêm chất liệu lấy từ mặt đất: rượu từ cây nho, bánh từ lúa miến. Ngài không tự mình làm ra rượu và bánh, nhưng để tùy con người chế biến cho hợp khẩu vị, vậy mà tại sao con người lại không đón nhận, không ăn bánh và uống rượu này. Phải chăng như Thánh ký Gioan đã viết: “Không một ai đến được với Ta nếu Cha là Đấng đã sai Ta không lôi kéo người ấy” (Gio 6:44). Vì thế mà tuy “Tất cả đều được Thiên Chúa dậy bảo “ (Gio 6:45), nhưng không phải ai cũng hiểu và cảm nhận được điều mà Chúa Giêsu muốn nói.
Dĩ nhiên, điều Ngài muốn nói ấy con người tự nhiên không thể hiểu thấu được. Làm sao con người tự nhiên lại có thể hiểu và cảm được thế nào là một thứ bánh từ trời ban xuống. Hương vị trên trời, và chất liệu trên trời dùng làm thứ bánh ấy dĩ nhiên là không thể đo lường được bằng cảm giác và cách nhìn tự nhiên. Em bé được nêu trên chê bánh không ngon cũng là điều dễ hiểu, vì bánh này là bánh nuôi linh hồn, bánh đem lại sự sống tâm linh và đời đời, chứ đâu phải bánh mua về từ các siêu thị.
Ngoài ra, thức ăn dù là cao lương mỹ vị đều không ngon, nếu như người ăn không có nhu cầu và sự tiêu hóa không được tốt. Có thể người ăn cảm thấy đói, và nhu cầu thực phẩm cần thiết đem lại cho họ một bữa ăn ngon, nhưng nếu sự tiêu hóa gặp trục trặc thì của ăn ngon, hoặc bổ dưỡng mấy cũng trở thành vô ích. Đó cũng là lý do mà rất nhiều người mặc dù có nhu cầu với bánh “từ trời”, nhưng gặp phải sự tiêu hóa tâm linh không tốt nên đã không đem lại cho họ sức sống và sự phát triển về tâm hồn. Trong Ca Tiếp Liên của Lễ Mình Máu Thánh Chúa, Giáo Hội đã ca lên: “Người lương thiện lãnh, kẻ ác nhân cũng lãnh, nhưng số phận họ không đồng đều: hoặc được sống hay là phải chết. Kẻ ác nhân phải chết, người lương thiện được sống, hãy coi chừng, cùng một của ăn như nhau, mà kết quả khác xa biết mấy”. Thánh Phaolô Tông Đồ cũng đã cảnh cáo những người ăn bánh này với tâm trạng bất kính như thế: “Ai ăn bánh và uống chén này một cách bất kính, là ăn và uống án phạt cho mình” (I Cor 11:29).
Tóm lại, khi nghe Chúa nói về một thứ bánh đặc biệt mà Ngài ban cho nhân loại được làm bằng chính “thịt” của Ngài, tự nhiên con người cảm thấy khó hiểu và không muốn chấp nhận sự thật. Mặc dù biết đó là bánh từ trời xuống, nhưng cũng như người Do Thái đương thời của Ngài, tự nhiên ta cũng cảm thấy dè dặt. Nhưng đó là cái nhìn tự nhiên, cái nhìn hoàn toàn con người. Để khám phá ra thứ bánh đặc biệt ấy phải dùng đến Đức Tin. Cũng Thánh Phaolô đã viết: “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho đến khi Chúa lại đến” (I Cor 11:26).
Bánh từ trời làm bằng thịt Con Người. Nhưng đây lại là thứ bánh mang lại sự sống đời đời. Tiếc thay ít người đã hiểu được giá trị cũng như sự cần thiết của bánh này. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng chúng con cần phải được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống là Thịt và Máu Chúa, và “xin ban cho chúng con bánh ấy luôn mãi” (Gio 6: 34).
Đừng lao công vì của ăn sẽ hư nát,nhưng hãy tìm kiếm của ăn dẫn tới sự sống đời đời...Ta là Bánh Sự Sống, từ Trời xuống...(Jn 6:24-35)
Khi Chúa Giêsu phán, ''Ta là Bánh Sự Sống...'' là Ngài loan báo mầu nhiệm cứu độ mà Ngài sẽ: TN 18-B14
Khi Chúa Giêsu phán, ''Ta là Bánh Sự Sống...'' là Ngài loan báo mầu nhiệm cứu độ mà Ngài sẽ hoàn tất, để thực hiện một tấm Bánh hằng sống cứu độ - cứu con người thoát khỏi tội lỗi.
Tội không gì khác hơn là sự xa cách Thiên Chúa nguồn tình yêu, nguồn an bình, nguồn sống vĩnh cữu... xa cách một Đấng tuyệt đối thánh. Một sự sống xa cách như thế chỉ có thể dẫn người đi sâu vào tội ác, đau khổ và chết. Việc cứu độ chính là đưa con người trở lại sống trong Thiên Chúa như lúc ban đầu, trong tư cách là con Thiên Chúa và thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cữu. Việc cứu độ như thế chỉ có thể thực hiện trong Đức Kitô. Ngài đã đến thế gian chia sẻ thân phận khốn đốn của con người đang sống trong sự trống vắng Thiên Chúa, Ngài đón nhận tất cả đau khổ do hậu quả của tội con người; Ngài giúp họ cảm nghiệm lại Thiên Chúa Cha, khao khát vương quốc Tình yêu của Cha; Ngài đồng hành với con người trong việc sám hối đối với Cha, đồng hành với con người trong việc chay tịnh, sống hãm mình, hy sinh để tập từ bỏ chính mình dần dần, để dẫn con người đến với Cha qua việc cầu nguyện, thực hiện ý Cha, tôn thờ, yêu mến và giữ giới răn của Cha...; tập nói tiếng yêu và hy sinh cho tình yêu đối với đồng loại để diễn tả tình yêu mến Cha... Và cuối cùng chấp nhận từ bỏ mình hoàn toàn trong sự chết để đón nhận Cha một cách hoàn toàn.
Nhưng việc này con người không làm được, vì con người vẫn ''nhớ tới rượu thịt ở xứ Ai cập'' dù là trong thân phận nô lệ; con người không đành lòng trút bỏ hoàn toàn sự sống của mình để đón nhận Thiên Chúa, một Đấng yêu thương đích thực mà con người đã quên mất cội nguồn; con người vẫn muốn sống cuộc sống riêng của mình cho dù sống trong nô lệ tội lỗi, khổ đau và chết dần từng ngày...
Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng từ Cha đến, Ngài hiểu rõ giá trị tuyệt vời của việc sống với Cha, và chỉ mình Ngài có tình yêu tuyệt đối với Cha. Ngài đã từng tuyên bố, ''Lương thực của Ta là làm theo ý Cha,''và ''Ngài đã vâng phục Cha cho đến chết và chết trên thập giá'' để cuối cùng đón nhận lại Cha một cách trọn vẹn... Và Thánh Thần của Cha đã phục sinh Ngài từ cõi chết. Xác phàm mà Ngài mặc lấy đã trở nên Thân Xác Thần Thiêng, vinh hiển và hằng sống. Chính Thân xác đó làm thành tấm Bánh Sự Sống trong bí tích Thánh Thể, để Ngài tiếp tục hiện diện cách cụ thể giữa con người. Tấm Bánh ấy chứa đựng chính sự sống mầu nhiệm của Chúa Giêsu, mầm cứu rỗi; chứa đựng năng lực phục sinh của Chúa Thánh Thần, hạt giống trường sinh,... giúp tín hữu khi đón nhận Bánh ấy có thể mở ra cho Thiên Chúa để đi dần vào cõi hằng sống.
Đời sống Kitô hữu không gì khác hơn là chính Chúa Giêsu sống trong ta và ta sống trong Ngài. Một sự kết hợp kỳ diệu như thế chỉ có thể thực hiện được nhờ Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Giêsu phục sinh trong Thánh Thể. Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể sẽ cùng với tín hữu đến tôn thờ, yêu mến, tạ ơn và làm lễ hiến tế tình yêu cho Cha và yêu mến anh em mình...
Việc đón nhận, chiêm ngắm, tạ ơn, đền tạ, cầu nguyện với Chúa Giêsu phục sinh trong Bánh Thánh Thể sẽ làm mối dây kết hợp sự sống của Ngài với tín hữu thêm sâu đậm... đến nỗi người ta có thể nói như thánh Phaolô, ''Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi...'' Khi đó họ đã trở nên một tấm bánh sống động cho người chung quanh, trở thành lời mời họ cùng đến thưởng thức hương vị của sự sống trường sinh đang bắt đầu nơi đây, ngay lúc này. Mỗi tác động yêu thương của ta đối với đồng loại, mỗi tâm tình tự hiến cho tình yêu, mỗi lần ta chấp nhận những khiếm khuyết của người khác, mỗi lần ta tha thứ cho anh em... là ta đã diễn tả cách sống động sự sống của Chúa phục sinh đang ngự trong ta, và ta đang mang Bánh Sự Sống cho họ...
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế: TN 18-B15
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế Aaron: "Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như thế này? Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập trong tay Chúa, khi chúng tôi còn ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê".
Như chúng ta biết, Chúa đã thương yêu Israel, Dân Riêng của Chúa, Người đã dùng cánh tay uy quyền của Người, thực hiện những phép lạ phi thường để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon bên Ai Cập, dùng các tôi tớ trung thành của Người là Maisen và Aaron dẫn đưa họ về Đất Hứa. Vì những gian khổ trên đường tiến tới Đất Hứa, đã làm cho con cái Isarel quên bẵng những ơn lành Chúa đã ban; họ đã dám vô ơn bội nghĩa, buông ra những lời phàn nàn kêu trách các thủ lãnh của họ và hơn nữa, họ còn dám phạm thượng kêu trách cả Thiên Chúa nữa.
I. PHÉP LẠ MANNA VÀ CHIM CÚT
Thấu tỏ lòng dân vô ơn bội bạc. Lời họ kêu trách đã vọng tới tai Chúa, nhưng Chúa vốn nhân từ thương xót họ, ban Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống họ; đồng thời, Người cũng cho chim cút bay tới rợp cả khu trại, để họ bắt giết thịt làm của ăn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại: Sau khi Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa giảng. Khi gặp lại Chúa, họ thưa với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa thừa biết tâm tư của họ, nên Người đã nói thật với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã được thấy các phép lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê". Chúa thấy họ chỉ nghĩ đến những sự tầm thường, những của ăn hay hư nát, những sự dưới đất này, nên Người muốn nâng tâm hồn họ lên cao hơn nữa, khi phán với họ lời này: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho cuộc sống muôn đời, là của ăn mà Con Người sẽ ban cho các ngươi".
II. TIN KÍNH CHÚA LÀ LẼ SỐNG HỒN TA
Họ thưa với Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa đã quả quyết với họ: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Dầu Chúa đã nói thẳng với họ là phải tin vào Ngài, là chính Đấng mà Chúa Cha đã sai đến, thế mà họ vốn còn cứ bám víu lấy "Của ăn phàm trần", đầu óc họ cứ vốn còn lẩn quẩn đến những nhu cầu vật chất tầm thường, nên họ đã thưa với Chúa: "Xin Ngài làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin vào Ngài, Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã cho chúng tôi ăn bánh bởi trời". Chúa đáp: "Không phải Maisen đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì Bánh của Thiên Chúa phải là vật từ trời xuống, và ban sự sống cho trần gian". Họ liền thưa với Ngài: "Thưa Ngài, xin ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi". Nhờ cơ hội đó, Chúa Kitô đã tỏ cho họ biết chính Ngài là Bánh Thiên Chúa ban cho họ, khi Ngài trịnh trọng tuyên bố: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa cũng đã quả quyết: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn sống bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra". Thực vậy, lương thực nuôi cho người ta được sống; nhưng cũng một sự thực trăm phần trăm là biết bao người có đầy tràn lương thực cũng vốn phải chết, chứ đâu có lương thực đầy đủ mà sống mãi được đâu. Vả nữa, lương thực chỉ là của ăn Chúa ban để nuôi chúng ta phần xác, bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này; nhưng lương thực vật chất đó không thể nuôi chúng ta trong cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống mãi mãi vĩnh tồn trong hạnh phúc bất diệt, mà Thiên Chúa ban cho những ai tin kính yêu mến Người.
Chính nhờ niềm tin kính vào Chúa, mới là lẽ sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
III. THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU
Manna là thứ bánh Chúa làm phép lạ để nuôi Dân Riêng trên đường tiến về Đất Hứa, cũng như phép lạ Chúa làm bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng trong lúc họ đi theo nghe Chúa giảng. Đó là một hình bóng, một biểu tượng Chúa dùng, để dọn lòng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể, một Nhiệm Tích Tình Yêu Chúa đã lập để bày tỏ lòng nhân từ Chúa yêu thương chúng ta. Nhiệm Tích Thánh Thể là một phép lạ gồm tóm mọi phép lạ, là trung tâm mọi việc tôn thờ dâng lên Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo. Là một Nhiệm Tích cần thiết để được Ơn Cứu Độ. Người ta không có lương thực nuôi thân, người ta sẽ phải chết; cũng thế, nếu chúng ta không có lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta, linh hồn chúng ta cũng sẽ phải chết... Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết giá trị đích thực và sự cần thiết phải được dưỡng nuôi bằng Bánh Thánh Thể Chúa. Phải hết lòng phụng sự tôn thờ yêu mến mầu nhiệm Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và siêng năng sốt sắng lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể cách xứng đáng, để chúng ta được hưởng ơn ích do Bí Tích Thánh Thể mang lại cho chúng ta, nhờ lòng nhân từ yêu thương của Chúa.
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm để chứng minh sự hiện diện thực sự của Chúa nơi Thánh Thể. Nhiều vị Thánh và những tâm hồn thánh thiện, không những Bánh Thánh Thể đã nuôi sống linh hồn các ngài, mà còn dưỡng nuôi cả thân xác các ngài nữa, đến nỗi có nhiều vị đã sống nhờ duy một chút Bánh Thánh Thể trong nhiều năm.
Thánh Anton Padua rất khao khát được dự lễ và rước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì ngài phải nằm liệt tại phòng bệnh, không thể tới dự lễ và rước Chúa được. Khi ngài nghe thấy tiếng chuông rung trong lúc Linh Mục chủ tế dâng Mình Thánh Chúa lên, bỗng ngài nhảy chồm xuống khỏi giường, cúi mình thờ lạy Chúa, đột nhiên bức tường phòng bệnh rẽ ra, để ngài đủ thấy rõ Linh Mục dâng Thánh Lễ. Chúa đã làm phép lạ này để thưởng lòng khát mong của Thánh Nhân... Các vị sau đây mỗi ngày chỉ chịu một tấm Bánh Thánh Thể nhỏ bé mà vẫn sống trong nhiều năm. Chân Phước Angela Foligno 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phước Elizabeth Reute 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 28 năm, Chân Phước Catharina Reconnigi 10 năm, Rosa Andriani 28 năm, Louise Leteau 14 năm.
Là con cái Chúa, với tâm tình như các Thánh, chúng ta tin thật Chúa hiện diện thực tại nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Chúa ngự nơi đây vì yêu thương chúng ta, để nên nguồn an ủi, nên hạnh phúc, nên gia nghiệp đời đời, nên Thiên Đàng cho chúng ta trên dương thế này. Chúa khát mong được ngự vào linh hồn chúng ta để thánh hóa và biến đổi chúng ta nên giống Chúa như Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh" (Lv 11:45). Và: "Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh" (Mt 5:48).
Kết Luận
Chúng ta hãy đáp lại lòng Chúa yêu thương bằng cách năng đến viếng thăm Chúa, đền tạ an ủi Chúa vì những tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến Nhiệm Tích Tình Yêu Cực Thánh này, bằng những tội phạm thánh, đón rước Chúa cách bất xứng, hoặc thờ ơ nguội lạnh bất kính, hoặc chối từ không tin nhận Chúa đang ngự thật nơi đây.
Xin Chúa ban cho chúng ta Đức Tin vững mạnh và sống động mỗi khi chúng ta đến viếng thăm, tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, nhất là khi chúng ta đón rước Thánh Thể Chúa ngự vào linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta hằng cháy lửa kính mến Chúa, cố gắng biến đổi cuộc sống chúng ta nên một Hy Lễ với Chúa, để làm vui lòng Cha Trên Trời, thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân.
Chúa Nhật 18 Thường Niên B / 18th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: CHÚA CHO HỌ BÁNH BỞI TRỜI: * The Lord gave them Bread from Heaven *
Bánh Manna từ Trời: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài cung cấp bánh,...cho sự khôn goan và: TN 18-B16
BÀI ĐỌC 1: X.hành 16, 2-4; 12-15 = Bánh Manna từ Trời: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài cung cấp bánh,...cho sự khôn ngoan và tình yêu./ Manna from Heaven: God is with us, providing bread and quail, giving wisdom and love.
BÀI ĐỌC 2: Êph.4, 17; 20-24 = Con người mới: Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới./ A new Self: Be renewed in th Spirit of your minds and put on the newself.
BÀI TIN MỪNG(Gospel): Đức Kitô là bánh Sự Sống: Ngài chính là manna, là bánh bởi trời mà nhân loại cần cho sự sống của họ. Christ, true is the manna, that bread from heaven which human beings need on their way through life.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và Chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Đức Giêsu nói với dân chúng theo Ngài như sau: “Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy các dấu lạ; nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê...”Nếu hôm nay tôi theo Chúa cũng giống như vậy thì thật đáng trách!! Bấy lâu nay tôi đã giữ luật Chúa với mục đích gì? ( Đào luyện)
I say to you, you are loking for Me not beacause you saw signs, but because you ate the loaves were filled... (Ga.6, 26)
2/ Đám dân chúng chỉ biết ăn bánh man-na thôi, nên Đức Giêsu nói: “...không phải ông Mo-sê đã cho các anh ăn bánh bởi trời đâu, mà chính Cha tôi cho các anh ăn bánh bởi trời...” Bạn dừng lại ở của ăn đồ dùng vật chất, mà quên bánh Sự Sống là chính Chúa. Đời sống tâm linh của bạn hiện tại ra sao? (Thánh thiện)
I say to you:it was not Moses gave you the bread from heaven, My Father gives.. the true bread from heaven... (Ga. 6, 29)
3/ Thấy Chúa nói vậy, họ xin được ăn bánh ấy, Ngài bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!” Ngài có ý đến bánh của Đức Khôn ngoan là Lời Chúa là lương thực sự Sống cho mình. Bạn đã đem Lời Chúa đến cho người khác như thế nào? (Hành đạo)
I am the bread of life; whoever comes to Me will never hunger, whoever believes in Me will never thirst! (Ga. 6, 35)
4/ Trong sách Xuất hành, Chúa nói với ông Môsê: “Này Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn; dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình...” Dân Ít-ra-en chỉ nghĩ đến nồi thịt và ăn bánh no nê chứ không biết đến bánh sự Sống Chúa ban. Bạn cảm nghiệm được mình sống qua những gì? (Học đạo)
I will now rain down bread from heaven for you. Each day, people are to go out and gather their daily portion. (Xh. 16, 4)
5/ Bài đọc 2 thánh Phao lô đã năn nỉ: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xa xưa, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa dối,” Làm sao tôi đổi mới tâm tư hẹp hòi được, nếu không nhờ Thần Khí Chúa thanh tẩy tâm trí. Những cách thức nào giúp tôi tăng trưởng đời sống tâm linh?(Sùng đạo)
You should put away the old self of your former way of, corrupted through deceiful desires. (Êph. 4, 22)
B. Câu Kinh Thánh thúc đẩy bạn và tôi chọn làm Châm ngôn Sống: ( The Best GodỴs Word )
“ ...CHÍNH CHA TÔI ĐÃ CHO CÁC ÔNG ĂN BÁNH BỞI TRỜI, BÁNH ĐÍCH THỰC” (Ga. 6, 29)
( My Father gives you the true bread from heaven )
C. Ngay bây giờ bạn và tôi phải chuẩn bị gì để ăn bánh sự Sống: ( So what am I doing / For Action)
1/ Bạn có thể chọn 1 trong 5 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và Chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
2/ Tôi sống luôn là bánh cho người khác trong mọi hoàn cảnh, sau khi nhận tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
D.Bạn và tôi cầu nguyện không ngừng và Sống điều tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action)
a/ Bạn có thể lặp lại 1 trong 5 câu Kinh Thánh trên để trình bày với Chúa những ước nguyện của mình.
b/ Tôi cầu nguyện tự phát với Chúa về những điều tôi đang Cảm nghiệm và khao khát làm cho tha nhân.
Lời hay ý đẹp: CHẲNG CÓ TIN NÀO VUI HƠN PHÚC ÂM - HÃY ĐI LOAN BÁO TIN NÀY !
ThereỴs no better news than the Gospel - Spread the word ! Ptế Định
Bài Phúc âm Chúa nhật 17 Thường niên Năm B tường thuật việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa: TN 18-B17
Bài Phúc âm Chúa nhật 17 Thường niên Năm B tường thuật việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng khỏi bị đói. Còn Bài Phúc Am Chúa nhật 18 hôm nay là khẳng định của Chúa Giêsu: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Chúng ta hãy tìm hiểu bối cảnh và nội dung của lời tuyên bố trên để rút ra những bài học bổ ích cho đời sống tâm linh của chúng ta.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Xh 16,2-4.12-15: Là tường thuật về những việc xẩy ra trong sa mạc, sau khi dân Do Thái ra khỏi nước Ai Cập. Dĩ nhiên cuộc sống hành trình trong sa mạc thì vất vả thiếu thốn đủ mọi thứ nếu so với cuộc sống ổn định lúc trước ở đất Ai Cập. Trong cảnh thiếu thốn vất vả ấy, dân chúng kêu trách ông Môsê và Aharon là hai vị lãnh đạo của họ: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây”
Trước lời trách móc của toàn thể cộng đồng con cái Ítraen, Thiên Chúa không hề nổi giận mà lại tỏ ra rất cảm thông và nhân ái: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng co tuân theo Luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng con cái Ítraen kêu trách,. Vậy ngươi (Môsê) hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các người sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”. Và Thiên Chúa đã ban cho dân Ítraen chim cút và manna là bánh Đức Chúa ban làm của ăn.
1.2 Bài đọc 2: Ep 4,17.20-24: Là những lời khuyên nhủ tín hữu Ehêsô của Thánh Phaolô: “Anh em đừng ăn ở như dân ngoại nữa. Anh em hãy cởi bò con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đồi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”.
1.3 Bài Tin Mừng: Ga 6,24-35: là tường thuật của Gioan về sự kiện xẩy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều để làm cho đám đông được no nê. Thấy những dấu lạ tày trời như vậy, đáng lẽ ra những người Do Thái phải tin vào Đức Giêsu và nhận ra chân dung đích thực của Người. Nhưng họ bị cái bụng chi phối khiến Đức Giêsu phải nói thẳng nói thật với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” Tuy nói thế, nhưng Đức Giêsu cũng không lên án họ mà đã khởi đi từ thực tế vật chất tầm thường ấy để đưa họ đi xa và lên cao hơn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận” Dường như những người Do Thái đã hiểu ý của Đức Giêsu nên mới đặt câu hỏi đầy thiện chí: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Và Đức Giêsu đã đáp lời họ một cách hết sức ân cần: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người sai đến”. Nhưng những người Do Thái còn tỏ ra hoài nghi và đòi dấu lạ, như cha ông họ đã đòi dấu lạ của Thiên Chúa trong sa mạc nên Đức Giêsu phải quả quyết với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Nghe nói đến bánh ban sự sống, người Do thái đề nghị ngay với Đức Giêsu: “Thưa ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” Có nhiều động cơ khiến con người tìm đến với Thiên Chúa. Trong Phúc âm cũng như trong đời thường không phải ai tìm đến với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa cũng đều có một động cơ vô vị lợi, ngay lành, thánh thiện cả đâu. Nhiều người tìm đến với Chúa với động cơ tầm thường, thậm chí vụ lợi như để được ăn no, để được khỏi bệnh, để được đề cao trọng vọng v.v& Ngay các tông đồ bỏ mọi sự đi theo Chúa mà còn nhắm chỗ ngồi bên hữu hay bên tả Chúa nữa là! Huống chi chúng ta là người trần, phàm phu tục tử thì tránh sao khỏi cảnh “vàng thau lẫn lộn” trong đời sống đức tin, trong việc tìm đến với Chúa hay phục vụ Chúa. Nhưng dù xuất phát từ một động cơ vụ lợi thì đó chỉ là khởi điểm của một tiến trình mà chỉ có Thiên Chúa mới biết được Người sẽ dẫn người ta tới đâu. Chúng ta hãy thử đếm xem có bao nhiêu tấm bảng tạ ơn ở Trung tâm hành hương La Vang (Quảng Trị), ở Nhà thờ Fatima Bình Triệu (Thủ Đức, TPHCM), ở Đền Thánh Giuse (Tân Bình,TPHCM), ở Đền Thánh Máctin (Hố Nai, Biên Hòa) hoặc ở xung quanh mộ cha Trương Bửu Diệp (Tắc Sậy, Bạc Liêu). Những người gắn những tấm bảng tạ ơn ở những nơi ấy là những người đã nhận được ơn mà họ xin. Nhưng không phải tất cả những người đã nhận được ơn đã xin đều để lại một tấm bảng tạ ơn như thế, vì nếu tất cả những người nhận được ơn đều để lại một tấm bảng tạ ơn, thì e rằng chẳng nơi nào có đủ mặt bằng để gắn hết những tấm bảng tạ ơn ấy. Một điều chắc chắn nữa là: trong những ơn mà những người ta nhận được thì có nhiều ơn thuộc lãnh vực vật chất đời thường như buôn bán hay làm ăn phát đạt, được khỏi bệnh, được thi đậu, tìm được công ăn việc làm, thoát khỏi cảnh hiểm nguy gì đó. Cũng chắc chắn là những người đã được ơn này ơn nọ thì nay trở nên những người tin, cậy, yêu mến Chúa, Đức Mẹ và các thánh mạnh nẽ xác tín hơn. Đó mới là điều quan trọng nhất. Các ơn vật chất chỉ là con đường Thiên Chúa dùng để dẫn người ta đến với Người mà thôi. Tất cả các ơn phải dẫn người ta đến với Đấng Ban Ơn. Đó chính là điều Đức Giêsu đã nói rõ trong bài Phúc âm ngày hôm nay.
2.2 “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người sai đến” Trong bài Phúc âm, Đức Giêsu -tuy không cảm phục động cơ của những người Do Thái tìm đến với Người (vì họ vừa được Người cho ăn bánh no nê)- nhưng cũng không khinh miệt họ. Điều Chúa muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người sai đến” tức tin vào Người là Đấng vừa làm phép lạ bánh hóa nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho những người Do Thái nhận ra rằng Người không chỉ có thể làm cho bánh ra nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người mà Người còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên mà còn là sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người. “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Đức Giêsu là bánh trường sinh. Bánh trường sinh ban sự sống trường sinh. Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì đã có sự sống trường sinh nơi mình! Những ai tin và tìm đến với Chúa Giêsu thì không bao giờ phải đói khát nữa vì đã được no thỏa tâm hồn! Nhưng sự sống trường sinh là gì? - Sự sống trường sinh là nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là Sự Sống của Thiên Chúa và là Đấng ban Sự Sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận. Sự sống trường sinh là sự sống của “con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Chúa Kitô. Cụ thể đó là con người thật sự sống công chính và thánh thiện (Bài đọc 2).
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Cha là Thiên Chúa yêu thương, việc Cha muốn chúng con làm là tin vào Đấng Người đã sai đến. Chúng con đã tin vào Đức Giêsu Kitô là Con Một và Sứ Giả của Cha. Xin Cha ban ơn cho chúng con để mỗi ngày niềm tin ấy được phát triển và cụ thể hóa hơn nữa trong lời nói, việc làm, cử chỉ, thái độ của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến, chúng con đã đón nhận Chúa, và chúng con muốn đón nhận Chúa nhiều hơn nữa vào trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con. Xin Chúa hãy đến với chúng con, đi sâu vào tâm hồn và đời sống của chúng con, dậy dỗ chúng con nhiều hơn nữa về chính Chúa và về Chúa Cha, Cha của Chúa và cũng là Cha của chúng con để tâm hồn và cuộc sống của chúng con được biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh, chúng con tìm đến với Chúa để được sống trường sinh bất tử, xin Chúa ban chính Chúa cho chúng con để chúng con không còn phải đói, không còn phải khát nữa.
Lạy Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh, chung quanh chúng con còn không biết bao nhiêu tâm hồn đói khát vì họ không biết tìm đâu ra Lương Thực Hằng Sống. Xin Chúa hãy đoái thương ban cho họ Bánh Trường Sinh của Chúa, Bánh Trường Sinh là chính Chúa để họ không còn phải đói không còn phải khát nữa. Amen.
Đức Giêsu cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát: TN 18-B18
Đức Giêsu cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả Man-na thời kỳ Xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được cho người ta khỏi phải chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực tức là Con Người, Đấng từ trời mà đến và ban sự sống muôn đời cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sắp thiết lập.
2) Chú thích:
- Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy ? (Ga 6,24-25):
+ Ca-phác-na-um: Là một thành phố thuộc xứ Galilê, nằm trên bờ biển hồ Tibêria, Đức Giêsu lấy thành Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động trong thời gian giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như: Xua trừ ma qủy (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu Phêrô và nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,21-43), rao giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)& Về sau thành này cũng là một trong các thành của dân Do Thái bị Đức Giêsu nguyền rủa, vì họ tuy đã được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24).
+ Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15). Chiều đến, các môn đệ xuống thuyền đi về Ca-phác-na-um phía bên kia Biển hồ. Đêm hôm đó, thuyền các ông bị sóng đánh và gió thổi mạnh không thể tiến được, Đức Giêsu đã đi trên mặt biển đến với các ông và giúp các ông cập thuyền vào bờ một cách lạ lùng (x. Ga 6,16-21).
+ Thầy đến đây bao giờ vậy ?: Đây là câu hỏi của đám đông dân chúng khi gặp Đức Giêsu ở thành Ca-phác-na-um. Nó biểu lộ lòng ngưỡng mộ mà họ dành cho Người.
- Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6,26-27):
+ Thật, tôi bảo thật các ông: Đây là cách nói quả quyết của Đức Giêsu, cho thấy Người biết rõ và nắm vững điều Người sắp trình bày.
+ Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê: Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của dân chúng khi nào Người về tới Ca-phác-na-um. Nhưng nhân dịp này, Người giảng một bài về Bánh Hằng Sống. Người cảnh cáo họ về động lực đi tìm Người là vụ lợi: để được ăn bánh no nê mà không phải vất vả làm việc. Họ muốn tôn Người làm vua với hy vọng được Người ban cho bánh ăn vật chất, thay vì lẽ ra phải xin Người thứ Bánh Hằng Sống là lương thực mang lại sự sống đời đời.
+ Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh: Nghe câu này, dân chúng cũng chỉ hiểu bánh Đức Giêsu sắp ban cũng là một thứ bánh vật chất khác, có khả năng ban sự sống đời đời. Đức Giêsu không phủ nhận nhu cầu cần có bánh ăn vật chất, nên Người đã làm phép lạ cho họ được ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng: Bên trên cuộc sống thể xác là một cuộc sống tinh thần tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực đem lại sự sống tồn tại mãi mãi là Bí Tích Thánh Thể mà Người sắp thiết lập.
+ Con Người: Là một nhân vật thần thiêng mà Ngôn sứ Đanien trong một thị kiến đã xem thấy đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Đức Giêsu tự xưng mình là Con Người từ trời mà đến. Người là Sứ Giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và được Thánh Thần giúp thi hành sứ mệnh ấy (x. Lc 4,18; Is 61,1-2).
+ Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận: Con dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Con dấu ấn có loại được chế tạo như một chiếc nhẫn, có loại hình khối trụ cao từ 2 đến 4 phân, bề mặt có khắc chữ hay dấu hiệu. Khi lăn dấu ấn trên đất sét hay trên sáp ong, người ta sẽ thấy một hình dấu ấn nổi được in trên mặt đất sét hay sáp ong đó. Chỉ thợ chuyên môn mới khắc được con dấu ấn (X. Xh 28,11.36). Ngoài việc in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời thánh Phaolô: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Riêng câu Ga 6,27 nói trên có nghĩa là: Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu để xác nhận Người là Đấng được sai đến, gọi là Đấng Thiên Sai.
- Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,28-29):
+ Chúng tôi phải làm gì ?: Đây là câu hỏi bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa sau khi nghe giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan (X. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi Phêrô vào lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (x. Cv 2,37).
+ Tin vào Đấng Người đã sai đến: Đấng Người sai đến là Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu nghĩa là sống kết hiệp với Người, như Thánh Phaolô đã nêu gương: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,19-20).
- Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6,30-31):
+ Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ?: Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mệnh Thiên Sai của Người, giống như Môsê xưa đã làm phép lạ cho man-na từ trời mưa xuống để nuôi dân Ítraen suốt 40 năm trong sa mạc, nen man-na được gọi là bánh bởi trời.
+ Man-na:
* phát xuất từ tiếng Man-hu, nghĩa là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ítraen không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Môsê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”. Như vậy, Man-na chính là lương thực lạ lùng mà Đức Chúa đã ban cho dân Ítraen, khi họ đi qua sa mạc về miền Đất Hứa (x. Xh 16, 11-18).
* Man-na có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8).
* Man-na là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban để dân Ítraen biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3; Mt 4,4). Khi dân Ítraen vào tới Đất Hứa là Canaan và bắt đầu được ăn các loại thổ sản tại đó thì man-na không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc ở trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để họ đủ sức tiến về Đất Hứa Thiên Đàng, tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Apraham, Ixaác va Giacóp của dân Do thái (x. Mt 8,11).
- Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,32-33):
+ Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi: Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ: Man-na được ban thời kỳ Xuất Hành không phải do Môsê, nhưng do Đức Chúa đã ban cho dân Ítraen. Ngoài ra man-na cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là lương thực vật chất mau hư nát và nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16, 19-21), và dù có ăn man-na, người ta cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35).
+ Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian: Để được gọi là Bánh Thiên Chúa thì cần phải có hai đặc tính như sau: Một là phải xuất phát từ trời, và hai là phải có khả năng ban sự sống muôn đời. Bánh Thiên Chúa ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. a 1,14), và Người sắp lập Bí Tích Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực mang lại sự sống muôn đời cho những người lãnh nhận (x. Ga 6,51).
- Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !” (Ga 6,34-35); + Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó: Sau khi nghe Đức Giêsu giải thích về bánh hằng sống mà Người sẽ ban, dân chúng tuy chưa hiểu hết ý nghĩa nhưng cũng đã xin Đức Giêsu ban cho họ thứ bánh đó.
+ Chính tôi là Bánh Trường Sinh: Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gioan đã ghi lại một số những lời ấy như sau: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34); Là Anh áng thế gian (x. Ga 8,12; 9,5); Là Cửa cho chiên ra vào (x. Ga 10,7); Là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11); Là sự sống lại và là Sự Sống (x. Ga 11,25); Là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (x. Ga 14,6); Là Cây Nho thật (x. Ga 15,1). Trong câu này, khi khẳng định: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu đề cập đến bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập để trở nên bánh thần nuôi người dương thế và đem lại cho họ hạnh phúc muôn đời.
+ Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận bí tích Thánh thể được no thỏa. Người cho những ai đặt trọn niềm Tin nơi Người thỏa mãn khát vọng được sống vĩnh cửu.
II. Học sống Lời Chúa:
1) “Chính Tôi là bánh Trường Sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói. Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
Câu chuyện: Chỉ Đức Giêsu mới thỏa mãn khát vọng của con người:
- Đim-sây (J. Demsey) sau khi đoạt giải vô địch quyền Anh vào chiều hôm trước, đêm ấy đã bị mất ngủ và chỉ thiếp đi vào lúc 2 giờ sáng. Nhưng một tiếng đồng hồ sau, anh lại giật mình tỉnh dậy vì vừa nằm mơ thấy mình bị ban tổ chức tước mất chiếc cúp vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh thay quần áo đi ra phố mua tờ báo mới xuất bản xem phóng viên tường thuật chiến thắng của anh thế nào để tự trấn an. Về sau Đim-sây đã ghi lại cảm tưởng của anh vào lúc đó như sau: “Sau khi đọc bài báo, tôi ý thức rằng sự thành công cũng chẳng có mùi vị thơm ngon nhiều như tôi hằng mơ tưởng. Sau giây phút đó, tôi vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng&”
- Tom Phi-líp (Tom Phillips) vào năm 40 tuổi đã làm chủ tịch một công ty lớn nhất tại tiểu bang Mét-sa-kiu-sét (Messachusettes). Ông đã có riêng một biệt thự lớn, một chiếc xe hơi đắt tiền và một gia đình vợ đẹp con khôn như ý&Thế mà ông vẫn không thấy thỏa mãn. Ông vẫn cảm thấy có một cái gì đó còn thiếu trong cuộc sống của ông, dù không biết rõ là thiếu cái gì. Thế rồi vào một đêm kia, trong một chuyến đi xa, bất ngờ ông đã cảm nhận được một kinh nghiệm về đức tin, và cảm nghiệm ấy đã làm biến đổi cuộc đời của ông. Về sau ông đã nói về kinh nghiệm này như sau: “Tôi đột nhiên nhận ra rằng điều mà tôi thường cảm thấy thiếu trong cuộc sống chính là Đức Giêsu, mà trước đó tôi chưa bao giờ quan tâm đến”. Từ đó trở đi, Tom đã đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Đức Giêsu, và hăng say chia sẻ cảm nghiệm của mình cho những người chưa tin hoặc chưa theo Người.
- Sác Côn-sân (Charles Colson), một nhân vật quan trọng trong bộ tham mưu của Tòa Bạch Ốc. Ông là một triệu phú có đầy đủ các phương tiện vật chất mà nhiều người mong ước như: một biệt thự to lớn, một xe hơi đắt tiền với tài xế riêng, một chiếc du thuyền sang trọng&Thế mà ông vẫn không thấy được thỏa mãn thực sự. Ông luôn cảm thấy có một hố sâu trong tâm hồn, thiếu một điều gì đó mà ông không biết rõ. Thế rồi trong một bữa tiệc thân mật do Tom Phi-líp trong câu chuyện trên khoản đãi tại nhà riêng. Hai ông bạn thân đã dành nhiều thời gian tâm sự với nhau về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề đức tin tôn giáo. Tom Phi-líp đã có dịp chia sẻ với ông bạn Côn-sân về bước ngoặc trong đời mình. Càng nghe bạn nói, Côn-sân càng cảm thấy ông bạn Phi-líp đang làm dịu sự trăn trở khắc khoải trong lòng mình bấy lâu nay, và còn có khả năng lấp đầy cái hố sâu trong lòng mình nữa. Lần đầu tiên ông ý thức được cái mà ông cảm thấy thiếu chính là Đức Giêsu. Hôm ấy, khi xe ra khỏi nhà Phi-líp được khoản 100 mét, thì có một sức mạnh vô hình tự nhiên dâng trào lên trong lòng, khiến Côn-sân đã phải thốt ra lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không biết làm cách nào để gặp được Chúa, nhưng con sẽ cố gắng hết sức con. Hiện giờ con cảm thấy mình tội lỗi bất xứng, nhưng con vẫn muốn tận hiến đời con cho Chúa &” Đây là lần đầu tiên Côn-sân cầu nguyện với Chúa. Sau lời cầu này, ông chẵng biết nói gì thêm, mà chỉ đơn giản lặp lại câu: “Xin Chúa thương nhậm lời con”. Và từ ngày đó, Côn-sân bắt đầu đi du hành trong khắp nước Mỹ để diễn thuyết về nhiều đề tài tại các giảng đường đại học với các sinh viên, và trong nhiều nhà tù với các tù nhân đang bị giam giữ& Trong các buổi nói chuyện, Côn-sân luôn chia sẻ kinh nghiệm mình đã gặp Chúa thế nào. Câu chuyện trở lại đạo của Côn-sân chẳng những đã gây nên một sự ngạc nhiên cho các thành viên ban tham mưu toà Bạch Oc, mà qua báo chí, hiện tượng Côn-sân cũng đã gây ra một luồn dư luận ảnh hưởng sâu rộng đến công chúng Mỹ. Một tờ báo uy tín lớn lúc đó đã đăng tựa đề như sau: “Chàng Côn-sân ngang bướng đã đầu phục Chúa!”. Một tờ báo khác có nhiều độc giả nhất cũng đăng hàng tít lớn: “Côn-sân đã đi tìm và đã gặp đạo”, - “Một kẻ mang tiếng là tay sai của chính quyền Ni-xon, bị mang tiếng ba hoa khoác lác, như có lần dám tuyên bố “sẵn sàng giết chết cả bà nội để ủng hộ tổng thống”, giờ đây đã quay về với niềm tin tôn giáo cách lạ lùng!”.
Suy niệm:
+ Trong cuộc sống, có khi nào chúng ta có cảm nghiệm giống như ba nhân vật là nhà vô địch Đim-sây, ông chủ hãng Tom Phi-líp và nhà hoạt động chính trị Côn-sân nói trên hay không ? Nhiều lần chúng ta đã dồn mọi nỗ lực và tài trí để đạt được một thành quả, một địa vị hay chức quyền nào đó. Nhưng sau khi đã được như ý mà ta vẫn không thoả mãn, vẫn không đạt được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn hay không ?
+ Người ta thường nói: “Lòng tham không đáy!”, “Được voi đòi tiên”. Về vấn đề này thánh Augustin đã thật có lý khi thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa. Và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
+ Điều mà các nhân vật trong mấy câu chuyện trên cảm thấy thiếu đó chính là Lẽ Sống của cuộc đời, mà chỉ duy mình Đức Giêsu mới có khả năng thoả mãn được, như Người đã từng nói với người phụ nữ Samari bên miệng giếng Giacóp về Nước Hằng Sống như sau: “Ai uống nước này sẽ lại bị khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13-14). Hoặc như lời Người nói với đám đông dân chúng về Bánh Trường Sinh trong Tin Mừng hôm nay: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!” (Ga 6,34).
Quyết tâm: Trong những ngày này, tôi quyết tâm làm gì để thực sự gặp được Đức Giêsu và để được Ngài biến đổi nên một người mới ? Mỗi người chúng ta phải có thái độ thế nào đối với những người đau khổ, bệnh tật, đói khát, mất đi người thân, gặp thất bại trong cuộc sống&để ân cần đón tiếp, động viên an ủi và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Đức Giêsu ? (x. Mt 25, 40.45).
2) Chính Tôi là Bánh Trường Sinh (Ga 6,34):
Câu chuyện: Tin theo Chúa nhờ Bí Tích Thánh Thể:
Héc-man Kon (Hermann Cohn) là người Do Thái và là một tài năng xuất chúng về đàn dương cầm (Pia-nô). Anh là học trò xuất sắc của Phăng-Lít (Franz Liszt), một nhạc sĩ nổi tiếng tài hoa vào lúc đó. Kon cùng mấy người bạn thân thành lập một ban nhạc trẻ đi đó đây biểu diễn âm nhạc để kiếm sống. Khi đã có nhiều tiền và bị bạn bè lôi cuốn. Kon đã tìm đến hưởng thụ tại những nơi ăn chơi trụy lạc. Rồi một ngày kia, một người bạn thân của Kon là ca trưởng một ca đoàn nhà thờ, do thiếu người đánh đàn, đã mời Kon cộng tác để đàn giúp ca đoàn hát trong buổi dâng hoa kính Đức Mẹ tại nhà thờ. Buổi dâng hoa hôm ấy kết thúc bằng giờ chầu Mình Thánh Chúa. Mặc dù không phải là người công giáo, nhưng khi vị chủ sự ban phép lành Mình Thánh Chúa, thì tự nhiên Kon cảm thấy như có một sức mạnh vô hình bắt anh phải quì gối cúi đầu thờ lạy Chúa. Kon không lý giải được tại sao lại có hiện tượng trên. Sau đó, Kon tiếp tục đến nhà thờ và cảm thấy có một Đấng nào đó hiện diện ở trong anh, và thôi thúc anh tìm gặp Người. Sau đó anh xin học đạo nơi một linh mục trẻ và được anh bạn ca trưởng tặng cho cuốn sách “Các kinh nguyện trong Thánh Lễ”. Kon đã say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Về sau anh đã chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa như sau: “Trong thời thơ ấu, tôi thường hay khóc mỗi lần bị cha mẹ sửa phạt vì sai lỗi. Nhưng chưa khi nào nước mắt tôi lại chảy ra nhiều như lúc bấy giờ. Khi ấy, đột nhiên tôi nhìn ra các tội lỗi của mình đã phạm bấy lâu nay, tôi thấy rõ những sự xấu xa hèn hạ của tôi và tôi nghĩ mình đáng bị phạt trong hỏa ngục. Nhưng sau khi khóc hết nước mắt, tôi lại cảm thấy tâm hồn được bình an. Tôi xác tín rằng: Chúa nhân lành đã thấu hiểu lòng tôi, đã tha thứ lỗi lầm cho tôi để tôi xứng đáng trở nên con cái Người”. Sau đó, Kon được lãnh phép Rửa tội gia nhập Giáo Hội, rồi xin nhập dòng Các-mê-lô. Trong nhà dòng, Thầy Kon đã được học các môn về triết lý và thần học, thực tập các nhân đức, và bảy năm sau thầy đã được thụ phong linh mục. Tân linh mục Kon đã được nhiều người công nhận là một linh mục có lòng đạo đức. Cha nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và thường chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho người chưa biết Chúa. Nhiều người nhờ tiếp xúc với cha mà đã gặp được Chúa. Cũng nhờ sự hướng dẫn của cha mà cả ông thầy dạy đàn là nhạc sĩ Phăng-Lít và 10 bạn thân hồi nhỏ đã tin Chúa và được chịu phép rửa tội.
Suy niệm:
+ Hơn ai hết, Đức Giêsu đã am hiểu cơm bánh vật chất là một nhu cầu không thể thiếu để con người sống được, và Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo Người được ăn một bữa no nê. Người cũng dạy môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Tuy nhiên, “Người ta đâu phải chỉ sống nhờ cơm bánh”, nhưng còn có những khát vọng mà chỉ mình Đức Giêsu mới có thể làm cho thỏa mãn. Đó là lòng khao khát muốn gặp Đức Giêsu. Vì Người là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nhờ Người mà chúng ta mới được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần như: Muốn hiểu biết chân lý, muốn yêu và được yêu, muốn được tha nhân cảm thông chia sẻ&Nhờ được thỏa mãn các nhu cầu này mà con người mới đạt được niềm vưi và hạnh phúc trọn vẹn.
+ Do đó, nếu chúng ta chỉ chia sẻ cho tha nhân cơm ăn áo mặc thì chưa đủ, mà còn phải chia sẻ niềm tin và tình người. Một hôm có một lão hành khất gặp Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta trên đường phố và chìa tay ra xin bà bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào, bà đành vỗ vai ông lão, vừa tươi cười vừa xin lỗi vì không có gì để tặng cho ông. Bấy giờ lão hành khất mới nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và sự an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng !”Quyết tâm: Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để chia sẻ tình thương và niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa và đang chịu nhiều nỗi bất hạnh khổ đau ?
III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu. Của cải vật chất và cơm ăn áo mặc là những nhu cầu không thể thiếu của thân xác con người. Chúng thường cám dỗ lôi kéo con tìm kiếm chúng thay vì phải tìm kiếm Chúa mới thực là lẽ sống cuộc đời của con. Lạy Chúa, từ trong thâm tâm, con rất sợ bị nghèo đói bần hàn, và con luôn khao khát có một cuộc sống dư dật sung sướng. Con thường mải mê tìm kiếm những của cải vật chất đến nỗi chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện, dự lễ và tuân giữ các giới răn. Xin Chúa thương tha thứ tội lỗi và bù đắp những thiếu sót của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khôn ngoan tìm kiếm những của cải thiêng liêng tồn tại mãi mãi. Con biết rằng: Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa là hai của ăn thần linh mang lại cho con sự sống muôn đời, như thánh Phêrô đã thưa với Chúa: “Chỉ có Thầy mới có những lời đem lại sự sống muôn đời” (Ga 6,68). Hoặc như lời Chúa phán trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời&Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Xin cho con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận hai thứ lương thực thiêng liêng là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, để con được sống muôn đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, chắc Mẹ đã biết con luôn phải long đong vất vả, chạy ngược chạy xuôi suốt ngày, để tìm kiếm cái ăn cái mặc, hầu thỏa mãn các nhu cầu về thể xác của con. Xin Mẹ giúp con có một đức tin phó thác cậy trông để con thực hành theo lời Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Lạy Mẹ Maria. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là “sự sống lại và làsự sống”. Ai tin vào Người, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người, thì sẽ không bao giờ phải chết (x. Ga 11,25-26). Xin Mẹ giúp con siêng năng nghe lời Chúa dạy, để nhờ lời Chúa soi dẫn, con sẽ hành động phù hợp với Thánh Ý Chúa và sẽ được an vui hạnh phúc. Xin Mẹ giúp con siêng năng tham dự thánh lễ hằng ngày để con được nuôi dưỡng bằng hai thứ lương thực thiêng liêng là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhờ được kết hiệp mật thiết với Chúa trong bí tích Thánh Thể, con sẽ đón nhận được sức sống thần linh và sẽ loại trừ được những thói hư tật xấu cùng các đam mê tội lỗi ra khỏi lòng trí con, hầu con được ơn biến đổi ngày một nên giống Chúa Giêsu con yêu của Mẹ hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Bài đọc 1: Xh 16, 2-4. 12-15: Bài đọc 2: Ep 4, 17. 20-24; Tin Mừng: Ga 6, 24-35
Kính thưa….
Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay tiếp tục loạt bài nói về Bánh Hằng Sống trong Tin Mừng: TN 18-B19
Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay tiếp tục loạt bài nói về Bánh Hằng Sống trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Đúng ra, theo chu kỳ phụng vụ, năm nay các bài Tin Mừng sẽ đọc của thánh sử Marcô, nhưng vì Tin Mừng theo thánh Marcô quá ngắn, chỉ có 16 đoạn. Do đó, từ Chúa Nhật 17 vừa qua cho đến Chúa Nhật 21, các bài Tin Mừng sẽ được trích đọc từ đoạn 6 của Tin Mừng theo thánh Gioan.
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng mà chúng ta đã nghe trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Giêsu biết là dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua theo quan niệm trần thế của họ, nên ngay đêm hôm đó, Ngài đã cùng với các môn đệ lẳng lặng rời bỏ đám đông xuống đò, đến thành Capharnaum ở bờ bên kia hồ Tibêria. Và sáng hôm sau, không thấy Đức Giêsu, cả đám đông đã kéo nhau sang Capharnaum để tìm gặp Chúa như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhân dịp đó, Đức Giêsu đã có một bài giảng khá dài nói về Bánh Hằng Sống.
Và bài Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của bài giảng này. Trong đó, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, tức là tin vào Ngài để có thể đón nhận được của ăn ban sự sống đời đời.
1. Tin vào Đức Giêsu:
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Tin luôn là một trong những điều kiện quan trọng để Thiên Chúa hành động. Chính Đức Giêsu cũng đã không làm được phép lạ nào tại Nazareth là quê hương của mình, chỉ vì những người đồng hương của Ngài đã không tin vào Ngài (x. Mc 6,1-6).
Do đó, khi thấy người Do thái tìm đến Ngài để mong tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết rõ họ đến với Ngài không phải bởi tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng chỉ vì mong muốn nhờ Ngài giải thoát họ khỏi ách nô lệ về chính trị, và nhất là để họ khỏi phải làm việc, vì vua của họ có khả năng hoá bánh ra nhiều để nuôi họ. Đức Giêsu không chấp nhận suy nghĩ quá trần tục của họ. Vì thế, Ngài đã tuyên bố thẳng thắn với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”.
Đồng thời, Ngài mời gọi họ thay đổi cách nhìn của họ về Ngài và về sứ mạng của Ngài: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi”. Khi nghe Đức Giêsu nói thế, dân chúng đã thắc mắc: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?”. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã một lần nữa khẳng định với đám đông dân chúng: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Khi nói với dân chúng: Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu muốn dân chúng tin vào chính bản thân Ngài. Một người đang hiện diện và đang sống ở giữa họ, để nhờ đó, họ được sự sống đời đời, được làm con Thiên Chúa, như lời tựa trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12).
Xác tín được sự cần thiết của việc tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, nên trong câu xướng trước bài Tin Mừng, Mẹ Giáo Hội đã cất tiếng cầu xin: “Lạy Chúa, xin mở lòng chúng tôi, để chúng tôi nghe lời Con Chúa”. Chúng ta cần được Thiên Chúa mở lòng để nghe lời của Con Chúa, và cũng cần được mở mắt tâm hồn để chúng ta vững tin vào Chúa. Hay nói một cách khác, tự sức mình, chúng ta không thể có được một đức Tin vững chắc vào Thiên Chúa, đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. Ngay cả dân Do thái, mặc dù là một dân được Thiên Chúa tuyển chọn, được Ngài giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập bằng cuộc Vượt qua Biển Đỏ oai hùng, thế mà ngay trong những ngày đầu của cuộc Xuất Hành, họ đã vấp phạm. Họ không tin tưởng đủ vào Thiên Chúa. Họ đã kêu trách Môisen và Aaron: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai cập do tay Chúa khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vậy?”.
Thế đó, Thiên Chúa đã làm biết bao dấu lạ mà họ vẫn không tin, vẫn chưa dám đặt trọn cuộc đời mình trong tay Chúa. Chỉ cần gặp một chút trở ngại, họ đã kêu trách Chúa.
***
Thế nhưng đây cũng có thể là tâm trạng của từng người chúng ta hôm nay. Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, Thiên Chúa vẫn đang thực hiện biết bao nhiêu là dấu lạ. Tôi chỉ đơn cử một điều thật đơn giản, đó là về sức khoẻ của chúng ta. Mỗi khi bệnh, chúng ta vẫn thường tìm nguyên nhân tại sao bệnh, nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: “Tại sao tôi không bệnh không?”. Ngay bây giờ, cứ nhìn vào tia sáng chiếu qua khe cửa, chúng ta sẽ thấy có vô vàn bụi bặm, nghĩa là đang có vô số những vi trùng và các tác nhân gây bệnh khác đang tấn công cơ thể chúng ta, đó là chưa nói đến sự thay đổi thất thường của thời tiết, cùng với việc ăn uống bừa bãi và cách sống thiếu điều độ của chúng ta, thế mà tại sao chúng ta lại không bị bệnh? Đó chẳng phải là một dấu lạ sao?
Thiên Chúa đã làm nên những dấu lạ là để mời gọi chúng ta tin vào Ngài. Tuy nhiên, việc Tin ở đây không chỉ là một lời nói, một quyết định nhất thời, nhưng là việc dấn cả sinh mạng, sẵn sàng sống và chết theo lời mình tuyên xưng (x. Dt 11, 8).
2. Sống theo lời Đức Giêsu:
Tin vào Đức Giêsu đòi chúng ta thay đổi cuộc sống, đó cũng là điều mà thánh Phaolô kêu gọi tín hữu thành Êphêsô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Anh em chớ ăn ở như dân ngoại ăn ở … Phần anh em, anh em không hề học biết Đức Kitô như thế đâu. Nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc”. Thánh Phaolô muốn chúng ta bỏ đi lối sống đạo chỉ dựa vào hình thức rầm rộ bên ngoài mà thiếu chiều sâu nội tâm bên trong. Và ngay cả những lời cầu nguyện của tôi và quý ông bà anh chị em phải chăng chỉ là những lời xin: Xin Chúa cho con cái này, cho con cái kia, rồi có khi còn trả giá với Chúa: Nếu Chúa cho con được cái này, con sẽ xin lễ tạ ơn, con sẽ dâng cho Đài Đức Mẹ cái này, dâng cho Nhà thờ cái kia. Nếu chúng ta cư xử với Chúa như thế, có thực là chúng ta đã tin Chúa không? Hay là chúng ta vẫn sống như những người chưa tin?
Thay vì những lời cầu nguyện như vậy, điều thiết thực hơn để chứng tỏ đức tin của mình, có lẽ chúng ta cần thực hiện điều thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng đáng với sự thật”. Chúng ta cần đổi mới lòng trí, đổi mới suy nghĩ, mặc lấy con người mới, một con người có tình yêu của Đức Kitô trong mình. Khi đó mọi việc chúng ta làm không chỉ nguyên dựa vào những nhận xét của người khác, nhưng quan trọng hơn là luôn đặt mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Chúng ta đi dâng lễ không phải vì bắt buộc, làm việc bác ái, chia sẻ và giúp đỡ người khác không phải để được nhận giấy khen, nhưng tất cả phải do lòng mến Chúa thúc đẩy.
Và trong Thánh lễ này, Đức Giêsu vẫn đang làm một dấu lạ vĩ đại là biến bánh rượu trở nên Mình và Máu Ngài. Đây chính là một mầu nhiệm của lòng tin. Do đó, ngay giờ phút này, xin mời quý ông bà anh chị em cùng chuẩn bị tâm hồn, để tất cả chúng ta, những người đang hiện diện nơi đây và có đủ điều kiện, đều hiệp lễ cách sốt sắng, như một cách chứng tỏ lòng tin của mình. Amen. Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Trong cuốn Một Phút Minh Triết (One minute Wisdom, bản dịch Đỗ Tân Hưng), cha Anthony: TN 18-B20
Trong cuốn Một Phút Minh Triết (One minute Wisdom, bản dịch Đỗ Tân Hưng), cha Anthony de Mello kể câu chuyện sau:
Một nhóm đệ tử nóng lòng đi hành hương, Minh Sư bảo họ: "Hãy mang quả mướp đắng này theo các con. Hãy nhớ nhúng nó vào những giòng sông thánh và mang nó vào mọi nơi linh thiêng."
Khi đệ tử trở về, trái mướp đắng được đem nấu chín và thở thành một món ăn thánh.
Sau khi nếm món ăn đó Minh Sư nói bằng một giọng ranh mãnh: "Lạ thật, nước thánh và những đền đài linh thiêng không làm cho quả mướp đắng trở nên ngọt hơn!"
Có lẽ nhiều người công giáo cũng tự hỏi mình: “Lạ thật, tại sao tôi đã tắm mình trong bao nhiêu thánh lễ, đã rước Mình Thánh Chúa bao nhiêu năm rồi mà không cảm thấy “Sự Sống”? “ Thế là họ tự yên ủi: “Bây giờ tôi không cảm thấy sự sống “thiêng liêng” của Chúa, khi tôi chết thì sẽ biết được”.
Đối với những người ấy, tôi muốn nói lên một điều để cảnh giác họ: nếu cuộc sống của bạn bây giờ là một cuộc sống mà bạn cảm thấy bất hạnh, thì sự sống đời đời chẳng có ích lợi gì cả, còn tai hại nữa là đàng khác, bởi vì đấy chỉ là sự kéo dài mãi cho đến đời đời cái cuộc sống bất hạnh này, kéo dài không bao giờ dứt. Nhưng trái lại, nếu trong cuộc đời này, hạnh phúc đã hiện diện trong lòng bạn, dù cho hoàn cảnh thực tế có thế nào đi nữa, thì sự sống đời đời mới là một điều đáng mong ước. Bấy giờ, sự sống mà Chúa hứa sẽ là hạnh phúc đời đời, và hạnh phúc ấy đã khởi sự từ cuộc sống này, dù chưa được viên mãn.
Hãy nói ít lời về hạnh phúc. Ta cảm thấy hạnh phúc khi nhu cầu được mãn nguyện, khi mong ước được thành đạt, khi lo âu được giải tỏa. Và nhu cầu hàng đầu của con người là giải quyết cái đói! Phải đói trong tình trạng không biết lấy gì mà ăn cho trưa nay, chiều nay, thì lúc đó mới biết lương thực liên hệ đến “sự sống” đến độ nào. Phải “chạy cơm từng bữa toát mồ hôi”, thì mới thấy không cái lo nào lớn bằng cái lo đó. Khi một người đã đói trong vòng ba ngày mà gặp một “mẩu bánh“ thì đừng nói đến luân lý, đạo đức, tình cảm... phải ăn cái đã, rồi sao thì sao!
Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về một loại lương thực mà người ăn không còn đói bao giờ; thế là những người chung quanh mừng rỡ vì như vậy là giải quyết được vấn đề lo âu hàng đầu của con người. Họ nhao nhao xin Ngài ban cho họ thứ bánh đó. Phải tưởng tượng họ hụt hẫng đến thế nào khi Ngài đáp lại: “Tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi không hề phải đói.” Chúa Giêsu nói đến cái đói căn bản nhất của con người, mà mấy ai hiểu được?
Người ngày xưa không hiểu thì đã đành, nhưng chúng ta là nh”ng Kitô hữu thừa hưởng 2000 năm truyền thống Giáo Hội, với bao nhiêu hiểu biết về mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta có cảm nhận được cái đói cơ bản đó chưa? Cái đói vượt trên nhận thức của giác quan hay tình cảm.
Đối với thân thể, nếu thiếu chất cần thiết cho sự sống, thì mọi người đều cảm thấy đói... Không, không phải mọi người! Có những người bệnh biết rằng không ăn thì chết, nhưng không hề cảm thấy đói, không thèm ăn, thậm chí không thể nào ăn được. Nếu buộc phải ăn, thì họ xem gần như một cực hình. Chúng ta là những người biết rằng Thánh Thể là đem lại sự sống đích thực, nhưng ta có đói chăng, hay ta đã bệnh nặng rồi? Và nếu là bệnh, thì do đâu mà ra?
Ta hãy đọc lại lời Chúa: “Tôi là bánh... Ai đến với tôi... “ Lời Chúa thật rõ ràng. Ai đến với Ngài thì sẽ biết đói, rồi sẽ hết đói vì có sự sống. Phần bạn và tôi, khi đến với Thánh Thể, ta đến với “bánh ăn“ mong được nuôi sống theo ý mình muốn, hay đến với _NgàiỴ để Ngài sống trong chúng ta? Nếu ta chỉ đến với “bánh“, dù là bánh thánh, thì chúng ta vẫn tìm kiếm chính bản thân mình, và cái đói - đói ăn, đói mặc, đói tiền, đói danh - vẫn trở đi trở lại; nhưng nếu chúng ta đến với “Ngài“ thì ta thật sự tìm kiếm Sự Sống, và Ngài sẽ là sự sống của chúng ta, cho đến đời đời.
Làm sao ta biết được lúc nào sự sống đời đời của Ngài đã khởi sự nơi chúng ta? Khi chúng ta bắt đầu đói cái đói của Ngài, sống bằng lương thực của Ngài: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Khi bỏ được ý riêng trong phần nào của cuộc sống mình, thì kinh nghiệm thiêng liêng cho ta biết rằng phần ấy có một sự sống mới, một hạnh phúc mới... Đến lúc nào đó, ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi!” (Gl 2,20)
Phải vượt qua mẩu bánh thánh để đến với Chúa Kitô hằng sống, lúc bấy giờ ta mới bắt đầu đi vào cái đói đích thực, hạnh phúc trường cửu, và sự sống đời đời.
“Ai đến với tôi...” Lời kêu gọi xưa kia của Chúa, ngày nay vang lên trong lòng chúng ta như một câu hỏi: Ai đến với tôi ?
Chủ đề: “Nơi tất cả chúng ta đều có một cơn đói khát mà chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mới có thể làm cho no thoả.”
Tôi xin phép mở đầu bằng một câu hỏi hơn bất thường. Có khi nào bạn thèm ăn một món nào đó: TN 18-B21
Tôi xin phép mở đầu bằng một câu hỏi hơn bất thường. Có khi nào bạn thèm ăn một món nào đó mà bạn không biết rõ là món gì chưa? chẳng hạn có bao giờ bạn đi đến tủ lạnh mở ra nhìn vào các ngăn đựng đồ ăn rồi nói; “Tôi thèm một món khác chứ không phải món nào trong tủ này!” hoặc có khi nào bạn đã từng muốn uống một thứ nào đó mà bạn cũng chưa rõ là món gì chưa? Cũng như lần trước bạn đi đến mở tủ lạnh ra, nhìn vào đủ thứ thức uống trên ngăn và nói; “tôi đang khát một thứ khác chứ không phải thứ nào trong tủ lạnh này!”.
Hoặc tôi có thể đặt lại câu hỏi trên như sau; “Dù đã có được những điều quan trọng trong đời như: gia đình , nghề nghiệp, lợi tức, nhưng bạn có còn cảm thấy thiếu thiếu một điều gì đó không?
Nếu chúng ta trả lời rằng: “Có” thì các bài đọc Kinh Thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là: Trên thế gian này có hai loại đói khát: trước hết là đói khác thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thoả mãn được, thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không một thực phẩm nào trên trần gian này có thể thoả mãn được. Nói cách khác, dù chúng ta có giàu có hoặc thành công thế nào đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu mình một cơn đói khát khó có thể bày tỏ được. Xin cho phép tôi minh hoạ điều này bằng câu chuyện có thật về hai nhân vật sau.
Trước hết là Tom Phillíp. Tới năm 40 tuổi Tom là chủ tịch một công ty lớn nhất thuộc tiểu bang Massachusettes. Ông có riêng một chiếc Mercèdes, một căn nhà xinh đẹp và một gia đình êm ấm. Thế mà Tom Phillips vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Vẫn còn thiếu sót một điều gì đó trong cuộc sống dù ông không biết rõ đó là điều gì. Thế rồi một đêm nọ, trong chuyến đi New York làm ăn, bất ngờ Tom Philips đã cảm nhận được một Kinh nghiệm tôn giáo làm thay đổi đời sống ông mãi mãi. Ông đã nói về Kinh nghiệm này như sau; “Tôi nhận ra rằng điều tôi vẫn thường cảm thấy thiếu thiếu trong cuộc sống chính là Chúa Giêsu Kitô. Tôi chưa bao giờ biết hướng cuộc sống tôi lên với Ngài”. Và ngay đêm đó Tom đã làm công việc này. Đời chàng đã đổi thay và mang lại cho chàng niềm hạnh phúc chưa bao giờ chàng mơ đến.
Và chúng ta nói đến nhân vật thứ hai. Đó là Charels Colson. Ông cũng là một người thành đạt trong cuộc sống. Theo lời ông thì ông có một văn phòng riêng cạnh dinh Tổng Thống Mỹ, lợi tức ông lên đến hàng triệu, ngoài ra còn có một chiếc du thuyền riêng, một chiếc xe hơi đắt tiền và một tài xế riêng. Thế mà ông vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Cũng theo lời ông, ông luôn cảm thấy “một hố thẳm gặm nhấm” nơi tâm hồn, đời ông dường như còn thiếu một điều gì đó mà ông không biết rõ. Thế rồi một đêm tháng tám năm 1973, Tom Phillips, nhân vật thứ nhất chúng ta vừa kể trên, đã tâm sự với Charles Colson về cuộc trở lại của mình. Colson càng lắng nghe, lòng càng xác tín rằng Tom Phillips đã đặt ngón tay xoa dịu vết thương “hố thẳmỴ trong tâm hồn ông. Chính ông cũng từng đói khát một điều gì đó và giờ đây lần đầu tiên trong đời ông đã nhìn ra đó là điều gì.
Vào đêm ấy khi từ giã Phillips ra về. Charles Colson đã biết được chính xác điều ông ấy làm. Ông lái xe ra khỏi nhà Phillips chưa đầy 100 mét, chiếc xe vừa leo dọc con đường cái thì ông bắt đầu la to lên đến nỗi ông e rằng gia đình Phillips có thể nghe tiếng ông. Colson mô tả điều gì xảy ra tiếp theo sau đó: “Lần đầu tiên tôi đã cầu nguyện thực sự: tôi thưa với Chúa thế này: “Lay Chúa, con không biết làm cách nào để tìm kiếm Ngài nhưng con xin cố gắng ! hiện giờ con không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài”. Tôi chả biết nói gì thêm nữa, vì vậy tôi cứ lập đi lập lại câu: “xin hãy nhận lấy con”.
Để rút ngắn câu chuyện, tôi xin kể rằng một hoán cải tôn giáo của Colson chẳng những gây ngạc nhiên cho ban tham mưu toà Bạch Ốc mà còn cho cả toàn nước Mỹ nữa. Kẻ bị mang tiếng là “Tay saiỴ của chính quyền Nixon, kẻ bị mang tiếng là hay khoác lác nói rằng mình “Sẵn sàng giết chết cả bà nội mình để ủng hộ cho tổng thống”, giờ đây đang trở lại đạo một cách thật lạ lùng.
Tờ Tin tức Los Angeles (Los Angeles Times) có đăng dòng tít lớn này: “Chàng Colson ngang ngạnh đã trở lại đạo”. Còn tờ Nữu Ước thời báo (New York Times) cũng đăng dòng tít lớn; “Colson đã tìm thấy đạo”. Và cho đến hôm nay, Colson vẫn đi khắp đất nước để rao Tin Mừng, nhất là trong các nhà giam và các trường đại học.
Hai câu chuyện trên dẫn chúng ta trở lại câu hỏi đặt ra từ đầu; có bao giờ thâm tâm bạn đói khát điều gì mà bạn không biết rõ chưa? nếu bạn trả lời “Có” thì chúng ta hãy thành khẩn đọc lại các bài đọc Kinh Thánh ngày hôm nay vì chúng chứa đựng một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tóm tắt sứ điệp này bằng những lời sau đây; “Ta là bánh hằng sống& Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, ai tin vào Ta sẽ chẳng bao giờ khátỴ.
Vậy sứ điệp trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay thật đơn giản như sau; “Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mới có thể thoả mãn. Sứ điệp này đã đem lại ý nghĩa mới cho hàng triệu người và nó cũng mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới, miễn là chúng ta chấp nhận nó.
Để kết thúc, chúng ta hãy lặp lại lời cầu nguyện được Charles Colson thốt ra trong khi dừng xe vào cái đêm tháng tám năm 1973 đáng nhớ ấy: “Lay Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa làm sao, nhưng con vẫn gắng tìm. Hiện giờ con không mấy tốt lành nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận lấy con, xin hãy nhận lấy con. Xin hãy nhận lấy con”.
Luy Latô (louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau: TN 18-B22
Luy Latô (louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn ăn chút ít, mỗi ngày một mẩu bánh nhỏ. Và kể từ 1871 trở đi, suốt bảy năm, cô không ăn uống được gì nữa, chỉ còn rước lễ hằng ngày.
Thời gian gần đây, có những người được ơn lạ. Trong số những người đó, có Têrêsa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Có lẽ Chúa Giêsu muốn chúng ta nhớ điều này: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh...” Dĩ nhiên hai cuộc sống nói ở trên đây là khác biệt, nhưng đều quan trọng cho một đời người.
Trong sinh hoạt trần thế con người, có lẽ những bận tâm những nỗ lực tìm kiếm của nuôi thân đã mất nhiều công sức và thời giờ hơn cả. Chúa nhìn ra tâm trạng đó ngay trong đám dân chúng đi theo Người: “Các ngươi tìm Ta không phải xem thấy dấu lạ, nhưng vì đã được ăn bánh no nê”. Và có những người khi nghe Chúa nói tới bánh là họ hiểu ngay theo nghĩa đen. Cũng như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp nghe Chúa nói về nước, bà đã xin ngay: “xin cho tôi nước đó, để tôi không còn phải đi múc nước ở đây”.
Tâm tình này là đúng. Nhưng ngoài nhu cầu thân xác, còn có nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tâm linh hay lương thực nuôi hồn là gì? Lương thực nuôi hồn là Lời Chúa, là chính Chúa, chỉ khi nào con người tìm về với Chúa, mới được no thoả, dù có ý thức điều đó hay không. Ngôn sứ Amos đã nói về niềm khát khao Chúa như một cơn đói trầm trọng: “Sẽ có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phải là khát nước, mà là đói khát lời Chúa, tôi đã nhai và nuốt vào Lời Chúa làm no thoả hồn tôi và làm tôi hân hoan” (Yn 15, 16). Và chính Chúa cũng đã nói với các môn đệ: “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Người” (Yn 4, 32-34). Bởi thế, Chúa nói: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta, sẽ không phải đói; Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Lạy Chúa, chúng con tìm kiếm Chúa như tìm kiếm của ăn đích thực cho tâm hồn. Chỉ một mình Chúa, mới đem lại cho chúng con sự sống và niềm vui thực.
Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã: TN 18-B23
Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá, các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi ngay nét mặt nói; “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.
Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hàng ngày, chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay; “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người Cha trong câu chuyện nói với con “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.
Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.
Không có phù phép trong tấm bánh của người Mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi Kinh nghiệm người lính bị thương biết rằng tấm bánh Mẹ chàng nướng gói gém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay đây, trong giờ này.
Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh thể chúng ta dùng cũng như lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh thể Chúa ban trong giờ phút này.
“Chúa đã cho họ bánh bởi trời” “Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn và Người cho họ bánh bởi trời”.
Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng, Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được nhiều người lính bị thương trong câu chuyện đã Kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng; “Thánh thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”
Đức Giêsu nói với quần chúng đến tìm Ngài: "Các ông các bà đến tìm tôi không phải vì đã thấy: TN 18-B24
Đức Giêsu nói với quần chúng đến tìm Ngài: "Các ông các bà đến tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông các bà đã được ăn bánh no nê". Đức Giêsu am hiểu tâm lý quần chúng đói khổ hơn ai hết. Ngài cũng thông cảm hoàn cảnh đói nghèo chật vật của họ. Đói khát mà được đãi một bữa no ai chả mừng. Nếu đói khát là nỗi khổ cơ bản nhất của con người, thì được ăn no uống đủ là một hạnh phúc cơ bản nhất. Vì cơm bánh là một trong những nhu cầu hằng ngày của con người, nên Chúa đã dạy chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban đủ lương thực hằng ngày cho chúng ta.
Nhưng lương thực chỉ là một trong những dạng năng lượng con người cần. Chúa cũng đã nói: "Người ta đâu chỉ sống nhờ cơm bánh...". Thật vậy, ngoài cơn đói cơn khát thể xác, còn những cơn đói khát tinh thần. Đó là những khát vọng của tâm hồn con người: con người cần được yêu thương, được chia sẻ, được có bạn bè, được thoả mãn những tò mò tìm hiểu của mình.
Vì vậy, chỉ trao cho đồng loại cơm ăn, nước uống, áo mặc, thì chưa đủ, mà còn phải trao tặng những tình cảm cao quý nhất của chúng ta là tình yêu thương. Một người hành khất già một hôm chìa tay xin Mẹ Têrêsa bố thí. Bà lục lọi hết các túi mà không kiếm được đồng xu nào, bà đành vỗ vai và cười thân ái với cụ già ấy và xin lỗi vì không có gì để tặng cụ. Cụ hành khất nói: "Có cho vàng tôi cũng không đổi nụ cười thân ái, tử tế của bà. Hôm nay bà đã cho tôi rất nhiều. Bà đã coi tôi là một đồng loại cần chia sẻ".
Đối với tất cả các loại đói khát kể trên, Đức Giêsu long trọng tuyên bố: "Tôi là tấm bánh mang lại sự sống".
Một người hành khất quì xuống xin Thủ tướng Talleyrand (1754-1788) làm phước bố thí. Ông này hỏi: "Tại sao tôi lại phải cho anh?". Người hành khất trả lời: "Vì tôi cần phải sống". Talleyrand lạ lùng đáp: "Tôi không thấy điều đó là cần thiết" (Nguyên văn: Je n'en vois pas la nécessité).
Nhưng lạy Chúa, chúng con dám thưa với Chúa rằng: Chúng con cần được sống và sống dồi dào cả về thể xác lẫn tinh thần, bởi vì Chúa là bánh sự sống. Xin Chúa giúp chúng con làm cho anh em chúng con cũng được sống dồi dào như chúng con.
- Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15): Chúa ban manna cho dân do thái trong sa mạc.
- Đáp ca (Tv 77): "Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ"
- Tin Mừng (Ga 6,24-35): Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu bắt đầu bài giảng về bánh hằng sống.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng: TN 18-B25
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng hôm sau họ lại tìm đến Ngài, mong được ăn bánh nữa, thì Ngài nói với họ về một thứ bánh khác: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh".
Chúng ta đến đây vì chúng ta biết rằng chúng ta cần một thứ lương thực khác, thứ lương thực mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng con quá lo tìm lương thực vật chất, đến nỗi sao lãng lương thực thần linh.
- Ngay cả khi chúng con dự Thánh Lễ, chúng con cũng chỉ xin Chúa ban lương thực vật chất cho chúng con.
- Chúng con chưa đủ lòng phó thác để tin rằng Chúa sẽ lo cho chúng con lương thực hằng ngày.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15)
Phép lạ manna xảy ra trong sa mạc. Sa mạc là nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi thứ, cho nên sa mạc cũng là nơi thử thách. Mà một trong những thử thách lớn nhất đối với con người là đói, không có thức ăn. Bởi vậy, Chúa đã nói với Môsê: "Ta muốn thử lòng chúng"
Tuy nhiên, thử thách này cũng có cái lợi là nhắc con người nhớ rằng lương thực họ ăn hằng ngày là do Chúa ban. Chính vì thế, Thiên Chúa bảo dân do thái chỉ được lượm một phần bánh đủ ăn trong ngày.
2. Đáp ca (Tv 77)
Phép lạ manna vẫn được các thế hệ về sau nhắc tới như là một trong những công cuộc lẫy lừng của Thiên Chúa, cho người ta thấy quyền phép và tình thương to lớn Chúa dành cho dân Ngài.
3. Tin Mừng (Ga 6,24-35)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, hôm sau người do thái lại tìm đến với Đức Giêsu mong được ăn bánh nữa. Đức Giêsu hướng họ lên cao hơn một bước: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh". Họ tưởng đó là manna ngày xưa trong sa mạc. Đức Giêsu nói rõ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ".
4. Bài đọc II (Êp 4,17-20.24) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô khuyên tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ, tư tưởng cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới, tinh thần mới và cách sống mới như Đức Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Nhiều thứ đói
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức "Cô dâu do thái". Sau khi ngắm xong, van Gogh thố lộ: "Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi".
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
- đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
- đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
- đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
- đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
- đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
- đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc ; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
- đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Cậy trông nơi Chúa
Khi ban Manna cho dân do thái, Thiên Chúa nói với Môsê rằng: "Ta sẽ cho lương thực từ trời rơi xuống cho các ngươi. Mỗi ngày, dân hãy ra khỏi trại để nhặt lấy phần lương thực cho ngày đó. Băng cách này, Ta muốn thử xem họ có tuân theo lề luật của Ta hay không". Những lời này của Thiên Chúa có nghĩa gì ?
Nếu bạn hỏi một tín hữu là có tin rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất của vũ trụ không, thì người đó sẽ trả lời ngay không chút ngần ngại: "Dĩ nhiên là tôi tin thế". Nhưng nếu bạn lại hỏi người đó có tin rằng Thiên Chúa ấy thấy mọi nhu cầu đời sống của họ và sẽ lo cho họ có mọi thứ họ cần không, thì họ sẽ chần chừ không dám trả lời xác quyết.
Đức tin và đức Cậy liên hệ chặt chẽ với nhau. Người nào tin vững vàng thì cũng trông cậy hoàn toàn. Còn ai không trông cậy trọn vẹn vào Chúa thì đức tin của họ cũng bị lung lay.
Kinh nghiệm trong sa mạc là cơ hội giúp dân do thái trông cậy vào Chúa. Bởi thế Chúa bảo họ chỉ lượm manna cho đủ ăn một ngày thôi, ngày mai để Thiên Chúa lo. Đức Giêsu cũng dạy như thế: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày". Ngày nay, những lời dạy như thế xem ra xa lạ và thậm chí điên khùng nữa, bởi vì nhiều người rất phòng xa bằng cách để dành tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm v.v. Họ trông cậy vào những thứ đó hơn là vào Chúa.
Xét cho cùng thì cái nâng đỡ dân do thái trong sa mạc không phải là manna mà là đức tin và đức cậy. Đối với chúng ta cũng thế, lương thực nuôi chúng ta chính là đức tin và đức cậy. Nhất là khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, khi đó không phải chúng ta giữ đức tin và đức cậy, mà ngược lại hai nhân đức ấy gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Cái giá của tự do
Hình như có một quy luật của cuộc sống là trong lúc khó khăn thì nghị lực của con người lên tới đỉnh cao nhất, nhưng khi khó khăn qua rồi thì nghị lực lại tuột xuống mức thấp nhất. Primo Levi, một người sống sót sau nhiều năm ở trong trại giam Auschwitz của Đức quốc Xã, đã viết: "Trong đa số trường hợp, giờ được giải phóng chẳng vui mà cũng chẳng mừng gì cả. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau ngày giải phóng. Ngược lại, những cuộc tự tử rất hiếm trong thời gian bị giam cầm". Elie Wiesel, một cựu từ nhân Auschwitz khác cũng nói: "Trong cơn thử thách, tôi sống trong sự mong chờ, mong chờ một phép lạ hoặc mong chờ cái chết. Nhưng khi cơn ác mộng đã qua thì tôi bị rơi vào cơn khủng hoảng rất đau đớn và dằn vật, tôi đặt lại vấn đề về tất cả những niềm tin của tôi". Còn Oscar Wilde thì viết: "Sự tàn bạo của ngục tù chỉ bắt đầu khi bạn ra khỏi đó".
Tại sao vậy ? Vì trong lúc khó khăn, ước mơ được giải thoát đã giúp cho người ta có nghị lực để sống. Nhưng khi được tự do rồi, thực tế không phải luôn luôn đúng như họ đã ước mơ.
Dân do thái cũng trải qua kinh nghiệm ấy. Ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ đã vui mừng ra đi và tràn đầy hy vọng một tương lai tươi sáng. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, họ lãi đòi trở lại Ai cập, họ muốn làm nô lệ nữa. Lý do là những khó khăn họ gặp phải trong cuộc xuất hành. Sự tự do đã không biến hết những ước mơ của họ thành sự thật. Có lẽ họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng để sống cái ơn ban tự do ấy. Phải chờ thế hệ sau mới sẵn sàng qua sông Giođan và vào Đất hứa. Bởi vậy có người đã nói: "Dân do thái chỉ cần một ngày để ra khỏi Ai cập, nhưng phải cần đến 40 năm để hình ảnh Ai cập thoát khỏi đầu óc của họ".
Tự do có những thách thức của nó. Tự do nghĩa là phải tự gánh lấy trách nhiệm của đời mình. Điều này thật không dễ đối với những ai đã quen để cho người khác quyết định thay mình, còn mình chỉ biết vâng lời thôi. Tự do còn đòi phải có kỷ luật bản thân. Tuân theo kỹ luật do người khác đặt ra cho mình thì dễ hơn là làm theo kỹ luật do chính mình tự đặt ra. Biến một người tự do thành người nô lệ thì dễ hơn giúp một người nô lệ thành người tự do.
Dân do thái nhìn lại quá khứ và nghĩ: "Sống ở Ai cập còn tốt hơn, vì ít ra mình cũng có đủ ăn". Thế là họ cằn nhằn với Môsê. Lẽ ra, họ phải mang theo họ những đức tính đã từng giúp họ chịu đựng những khó khăn thời làm nô lệ. Nhưng lúc được tư do họ đã không xử dụng nghị lực như khi còn làm nô lệ.
May thay Thiên Chúa đã ban manna cho dân do thái để nâng đỡ cuộc sống của họ trong cuộc hành trình về Đất Hứa.
Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được giải phóng: giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào những bảo đảm vật chất (xem bài đọc II). Tuy nhiên cuộc hành trình của chúng ta cũng rất gian truân. Nhiều khi chúng ta muốn trở lại kiếp sống nô lệ. Chúng ta thà làm nô lệ cho thế gian và tội lỗi hơn là làm những người con tự do của Thiên Chúa. May thay Đức Giêsu đã nâng đỡ cuộc hành trình của chúng ta. Đặc biệt Ngài đã ban manna mới cho chúng ta là bí tích Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Theo Chúa, nhưng vì động lực nào ?
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế ? Thưa vì lợi lộc vật chất:
. Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài cho phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
. Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn: hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm: Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
. Khi đó Đức Giêsu nói thẳng: "Các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no". Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói "Các người đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát".
. Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ "Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?" Phêrô lên tiếng đáp thay anh em "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời".
Con người ta là thế đấy: Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề "Chìa khóa Nước Trời", nhà văn A.J.Cronin kể lại có một Linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rãi. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí Nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gở đập phá về sửa nhà riêng. Vị Linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả: Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của Linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. Linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát - Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát !
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào ? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẻ: nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cần nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ: Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn: Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta "Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát".
Những của ăn tinh thần ấy là gì ?
. Là một cuộc sống lương thiện: Người ta thì bần cùng sinh đạo tặc, nhưng kẻ theo Chúa thật thì dù nghèo cũng vẫn thanh cao, công bình.
. Là một cuộc sống bác ái: Người ta thì có phú quý mới sinh lễ nghĩa, còn nghèo túng thì lục đục với nhau: Nhưng kẻ theo Chúa thật dù nghèo túng cũng biết thương yêu chia sốt cho nhau.
. Là một quan niệm sống đầy đủ: không chỉ lo cho thân xác mà còn lo cho phần hồn nữa.
Trở lại với câu chuyện truyền giáo của Linh mục kia. Vì Cha nghèo, không có tiền nhiều để làm mồi câu những người tòng giáo - mà dù có Cha cũng không muốn truyền giáo theo kiểu đó - Cha chỉ đem tinh thần bác ái của Tin Mừng ra để sống với người khác: Cha thăm viếng những người bệnh, Cha cư xử với những người khác tín ngưỡng như những người bạn, Cha nuôi những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Một hôm đứa con trai duy nhất của một ông điền chủ bị bệnh nặng. Nhờ có hiểu biết chút ít về Tây Y, Cha đã cứu cho nó sống. Ông điền chủ chiều hôm ấy tìm đem cha về xin theo đạo. Nhưng Cha thẳng thắn từ chối vì thừa hiểu rằng ông ta chưa có niềm tin. Cha chỉ giữ liên hệ láng giềng tốt với ông ta thôi. Phần ông ta càng ngày càng có cảm tình với Cha. Sau 30 năm truyền giáo như thế, vị Linh mục nghèo tiền nhưng giàu lòng bác ái ấy đã có được số giáo dân khoảng 500 người, nhưng đều là những giáo dân có niềm tin vững chắc. Một ngày trước khi Cha giả từ họ đạo để về hưu, Cha nhận được một niềm vui to lớn: ông nhà giàu kia lại xin theo đạo, và lần này vì một lý do rất vững chắc, ông nói: Thưa Cha, cách đây 30 năm tôi xin theo đạo để trả ơn Cha đã cứu sống con trai tôi, khi đó Cha không nhận vì thấy tôi chưa có niềm tin. Hôm nay, 30 năm sau tôi lại xin theo đạo, lần này không phải để trả ơn Cha, mà vì tôi thấy tôi cần có đạo. Cuộc sống của Cha trong 30 năm đã giúp tôi thấy đạo rất là đẹp, rất là tốt và rất là cần cho con người. Vậy lần này tôi mong Cha đừng từ chối nữa. Dĩ nhiên là Vị Linh mục già ấy nhận lời. Buổi lễ tiễn biệt được trở thành lễ Rửa tội thật là cảm động.
Xin Chúa giúp chúng ta theo đạo vì lý do vững chắc như ông ấy, và biết sống đạo như vị Linh mục ấy. Chúng ta hãy ghi nhớ Lời Chúa "Các người đừng chỉ tìm của ăn vật chất hay hư nát, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát bao giờ" ; cũng đừng bao giờ vì khó khăn vật chất mà bỏ Chúa: "Bỏ Ngài con biết theo ai vì Ngài có Lời ban sự sống".
* 5. Bánh Ban Sự Sống
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana, vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: "Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội".
****
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: "Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa" (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: "Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời".
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: "Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy".
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
****
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân Do thái xưa đã tìm đến Đức Giêsu vì được ăn no. Đức Giêsu bảo họ: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh". Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu nguyện cho Hội thánh đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và chậm tiến / cùng giúp cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ.
2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đừng chỉ chuyên tâm đến vấn đề vật chất và kinh tế / mà bỏ quên vấn đề nhân phẩm, giáo dục, và tự do của mỗi người.
3. Chúng ta cầu nguyện cho những người đang chạy theo tiền bạc và ham mê hưởng thụ vật chất / biết nhận ra rằng con người còn có tâm hồn và tình yêu / để hướng tới những gì là cao thượng và linh thiêng hơn.
4. Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì âu lo sinh sống vật chất mà bỏ quên bổn phận là con của Chúa, và là anh em của mọi người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa hằng thương lo cho mọi người chúng con cả hồn xác, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa, để ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh. Chúa là đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
1. Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao: TN 18-B26
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.
2. Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.
Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: “Ai uống nước này, sẽ lại khát” ( Ga 4,13 ). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.
Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
3. Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực... Đạt được cái này thì lại khao khát cái khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy... rồi xe hơi... rồi nhà cao cửa rộng... rồi địa vị quyền lực... Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc !
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su khuyên người ta không nên tìm thứ “lương thực mau hư nát” là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. “Lương thực thường tồn” ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ nước mà Đức Giê-su hứa ban cho ta: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” ( Ga 4, 14 ).
4. Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giê-su
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giê-su giới thiệu cho chúng ta thứ “lương thực thường tồn” hay “bánh trường sinh”, khiến chúng ta một khi đã ăn vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. “Lương Thực” này khác với thứ “lương thực mau hư nát”, ăn vào rồi là chán ngay, và muốn ăn thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giê-su. Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
Rất nhiều Ki-tô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giê-su vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Ki-tô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu ! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.
Chúng ta chỉ “ăn” được “bánh trường sinh” là chính Đức Giê-su bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giê-su. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giê-su là năng lực thần linh, nên “ăn” Đức Giê-su là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên “ăn” Đức Giê-su không phải là “ăn” bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn “ăn” Đức Giê-su, tức “bánh trường sinh”, ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giê-su trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy.
“Ăn” Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc... luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. “Ăn” Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.
Chúa không hiện diện cách lý thuyết, nhưng như một người cha đầy quyền năng và tình yêu: TN 18-B27
Chúa không hiện diện cách lý thuyết, nhưng như một người cha đầy quyền năng và tình yêu, luôn mời gọi an ủi, hướng dẫn tha thứ và yêu thương.
Chúa hiện diện như là người cùng đích, động lực và gương mẫu của đời ta.
CÓ CHÚA HIỆN DIỆN TRONG TA, ĐỜI TA SẼ RA SAO ?
Có Chúa hiện diện trong ta:
Ta sẽ không còn cô đơn, nhưng tràn đầy bình an, hạnh phúc và phấn khởi. Đời ta được biến đổi và thánh hóa. Ta trở nên Đền Thờ và của lễ Chúa Ba Ngôi.
Ý THỨC CHÚA HIỆN DIỆN TRONG TA, TA PHẢI LÀM GÌ ?
Ý thức Chúa hiện diện trong ta, ta phải:
Tu bổ Đền Thờ tâm hồn, sống yêu thương, trong mọi môi trường, hoàn cảnh. Năng cầu nguyện với mẹ Maria, và nhờ Mẹ giúp ta gặp Chúa. Hướng lòng về Chúa để thờ lạy yêu mến Ngài.
Nhà Tạm Cựu Ước
Trong suốt 40 năm trường phiêu cư trong sa mạc, Nhà Tạm là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với dân Israen mà đại diện là Mô-sê va A-ha-ron. Cứ mỗi lần Mô-sê vào Nhà Tạm thì cột mây buông xuống, đứng lại nơi của và Mô-sê cùng với Thiên Chúa đàm đạo với nhau, diện đối diện như bằng hữu thân thiết, trong lúc bên ngoài thì dân chúng ai ở lều nấy, cúi mình phục lạy. Hai ông thường vào đó để nhận lệnh Chúa hoặc cầu bầu thay cho dân. Lần kia, Cô-rê, Đa-tan và A-bi-ran cấu kết với 250 người khác nổi lên làm phản. Hai ông liền vào Nhà Tạm cầu nguyện và mặt đất liền nứt ra nuốt những kẻ nổi lên chống lại các vị đại diện Chúa.
Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương ( ĐHV 234 ).
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem
Đó là một Thánh Đường nguy nga, với những dây cột đồ sộ bằng cẩm thạch muôn màu óng ánh; nhưng dây cột này dát vàng trên chóp và đỡ nâng một mái lớn cũng dát vàng.
Sau khi đi qua một khu đất gồm nhiều dãy hành lang rất đẹp, ta phải leo lên một cái thang 10 cấp rồi qua một trong chín cửa ( trong đó Cửa Đẹp là cửa chính, tương tự như Ngọ Môn ở Thành Nội Huế ) để vào sân phụ nữ. Qua sân phụ nữ, bước lên mấy bậc, ngang qua Cửa Nicaner lộng lẫy, ta sẽ vào tiền đường Ít-ra-en rộng 300 thước vuông, chứa được 1.000 người. Tiến vào trong nữa là Sân các Tư Tế. Từ sân ấy, leo lên 12 bậc nữa là tới Nội Điện. Trong thâm cung Nội Điện, chìm mờ trong ánh sáng vàng nhạt là căn phòng hình chữ nhật dài 20 thước, rộng 10 thước. Đây là Cung Thánh, giữa nổi lên một Bàn Thờ bằng vàng, ngày đêm nghi ngút khói hương. Bên hữu bàn thờ, một chân nến bằng vàng 7 ngọn cung kính dâng, đối diện với một cái bàn nhỏ dát vàng ở bên tả, trên có 12 chiếc bánh không men tượng trưng 12 chi tộc Ít-ra-en.
Cung thánh là nơi tôn nghiêm thánh thiện, chỉ có chủ tế được vào mỗi ngày hai lần để dâng hương, ngoài ra không ai được lai vãng. Nhưng chính trong Cung Thánh còn một nơi tôn nghiêm hơn nữa, quen mệnh danh là nơi Cực Thánh. Một tấm màn lớn mỗi bề 6 thước ngăn Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh này. Xưa kia, đây là chỗ đặt Hòm Bia và cây gậy nở hoa của A-ha-ron; bây giờ chỉ còn trơ trọi một phiến đá đã dùng làm bệ đỡ. Ngoài ra không còn đồ vật nào khác. Vì nó biểu hiệu nơi Đấng Tối Cao ngự trị một cách đặc biệt, nơi chỉ mình vị Thượng Tế mới được diễm phúc mỗi năm một lần vào đó để tế lễ mà thôi.
Ở lầu son gác tía, hay lều tranh vách đất con không lo, miễn là con luôn luôn làm cho nhà ấy đáng yêu thương, lúc ấy biến thành Thiên Đàng vì có Chúa ( ĐHV 246).
Như thấy Chúa hiện diện
Tất cả những ai đã từng được thấy Đức Giáo Hoàng Pi-ô 12 trong các cuộc lễ ở Đền Thờ Thánh Phê-rô hay các buổi triều yết chung riêng, đều đồng thanh xác nhận rằng: “Chúng tôi có cảm giác như người đang thấy Chúa hiện diện”.
Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình nhưng Chúa phải chiếm hữu cà con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con ( ĐHV 241 ).
Niềm an ủi trong chốn lao tù
Linh Mục Scheider, thuộc Dòng Ngôi Lời ở Trung Quốc, sau làm Giám Đốc trường Thánh Phê-rô tại Rô-ma có thuật lại rằng: “Lúc bị giam tù ở Thượng Hải, chúng tôi biết cách trại giam vài trăm thước có Dòng Kín Cát-minh, và ai trong chúng tôi cũng xem đó là nguồn an ủi lớn lao nhất đối với chính mình, vì chúng tôi tin có Chúa Giê-su Thánh Thể đang hiện diện ở đó. Chúng tôi luôn hướng về nơi ấy để cầu nguyện và tế lễ với Chúa suốt thời gian bị giam giữ”.
Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa ( ĐHV 233 ).
Hãy nhờ Đức Mẹ đưa con đến với Chúa Giê-su, con sẽ quen sống bên Chúa ( ĐHV 240 ).
Nhìn qua khe cửa
Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô có một người bạn chí thân là Đức Cha Camus. Lần nọ, Đức Cha Camus đến nghĩ hè với Thánh nhân một thời gian khá lâu. Lúc về, vị Giám Mục phát biểu: “Trước đây, tôi nghe Đức Cha Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô hằng luôn sống trước mặt Chúa như thể Chúa luôn luôn hiện diện bên ngài, nhưng tôi vẫn chưa tin. Tiện dịp, tôi xin đến nghỉ nhà ngài để tự mình kiểm chứng. Nhờ chiếm được một phòng cạnh phòng ngài đêm ngày tôi đã quan sát mọi thái độ, mọi cử chỉ của ngài qua một khe hở; lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngủ, lúc viết lách cũng như lúc cầu nguyện... Nay tôi xác nhận rằng: ngài sống trước mặt Chúa. Ngài ở một mình nhưng có Chúa hiện diện bên ngài luôn”.
Năng đặt tay trên lòng và bảo con: “Chúa ở với tôi, trong tôi”. Dần dần Chúa sẽ cho con nếm hạnh phúc ấy ( ĐHV 230 ).
Tại sao người Ki-tô hữu than van mình cô đơn ? Chúa Ki-tô của họ ở đâu ? ( ĐHV 237 ).
Tôi đã thấy Chúa trong một con người
Trong một cuộc điều tra để phong Thánh cho Linh Mục Maria Vianney, Tòa An Hội Thánh đã cho mời tất cả những ai đã từng co dịp tiếp xúc với Thánh nhân đến đặt tay trên Phúc Âm và thề nói hết sự thật hay cũng như dở về ngài. Trong số các nhân chứng được mời đến, có một bác nhà quê chất phác nói một câu đơn sơ, vắn tắt mà đầy ý nghia: “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
“Chúa ở đâu ?” –“Chúa ở trên trời”. Đó là câu trả lời của trẻ em, đó là một thiếu sót lúc dạy giáo lý. “Chúa ở trong con”, sung sướng, gần gủi, xác đáng biết bao ! (ĐHV 231 ).
Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh, Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện ( Đường Hy Vọng 242 ).
Chúa là của con
Thánh Phan-xi-cô thành Assisi đã từ bỏ mọi sự, chọn nếp sống khó nghèo để theo Chúa. Một đêm mùa đông khi ngoài trời đầy tuyết lạnh, ngài được Chúa cho cảm nhiệm một cách thấm thía về Chúa đang hiện diện trong ngài. Quả sung sướng, ngài quên tất cả rét lạnh, lăn lóc trên tuyềt suốt đêm và chỉ lặp đi lặp lại một câu: “Chúa là của con, là tất cả mọi sự của con !”
Chúa Giê-su là tất cả của con: là cùng đích các ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là mẫu gương các hành động của con ( ĐHV 235 ).
Chúa Ba Ngôi ở trong con, con trở nên Đền Thờ Chúa, con cũng là của Lễ Toàn Thiêu, con là lời ngợi khen không ngừng, con là đóa hoa muôn sắc dâng lên Chúa (ĐHV 244 ).
Không còn chỗ núp
Một thiếu nữ trắc nết nọ đến cám dỗ một vị Thánh phạm tội với mình. Ngài bảo: “Được lắm, ta hãy kiếm nơi nào kín đáo đi”. Cô dẫn ngài vào một căn phòng và khóa cửa lại. Ngài bảo: “Đây tôi sợ cũng chưa được kín đáo”. Cô lại đưa ngài đến một căn phòng khác có một lối vào cong queo lại thêm hai lớp cửa thật là vững chắc. Ngài nói: “Tôi vẫn còn ngại, chỗ này cũng chưa kín đủ, với lại nhỡ có ai đột nhập thì làm sao thoát nạn ?” Cô lại đưa ngài lên tầng lầu cao nhất, chỗ kín đáo bí mật nhất, lại có hệ thống báo động và nhiều lối thông thương, chuồn đi rất dễ. Cô bảo: “Như thế này thì thật là cẩn mật ! Muốn thấy đã là điều không thể, huống nữa là đi vào !” Lúc ấy Thánh nhân mới dốc bầu tâm sự ra: “Cô ơi, không có chỗ nào kín cả !” Cô trố mắt ngạc nhiên nhìn ngài. Ngài hỏi tiếp: “Làm sao ta che mắt Thiên Chúa được ? Ngài là Đấng thấu suốt mọi sự, cô không biết sao ?” Rồi ngài khuyên răn, dạy dỗ cô gái. Về sau cô trở thành người đạo đức, có lòng sám hối sâu xa...
Từng ngàn bệnh nhân trong nhà Thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa !” ( ĐHV 235 )
Đối với Thiên Chúa, lương tâm đã đủ; đối với con mắt người đời, cần cả khôn ngoan, vì mắt họ không nhìn thấu lương tâm con ( ĐHV 239 ).
Đức Cố Hồng Y FX. NGUYỄN VĂN THUẬN ( Lm. Huỳnh San gửi về từ Úc )
Nếu như muốn suy niệm về Kinh thánh Do thái, thì hôm nay chúng ta có cơ hội tốt. Bài đọc 1 trích: TN 18-B28
Nếu như muốn suy niệm về Kinh thánh Do thái, thì hôm nay chúng ta có cơ hội tốt. Bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành, là thành phần của cuộc di cư vĩ đại, lâu dài, khó khăn, dân tộc Do thái phải trải qua trong sa mạc Sin khô cằn. Tính chất biểu tượng của nó thật phong phú cho mỗi linh hồn và ngay cả cho toàn thể Hội thánh, để vượt qua biển đời trần gian. Trong suốt thời kỳ đó lòng tin của dân tộc Israel bị thử thách nặng nề qua những miền đất hoang dã, gập ghềnh, đầy thú dữ. Nghe đọc bản văn, chúng ta tưởng chừng như câu truyện mới xảy ra hôm qua. Thực sự việc đó đã xảy ra hàng ngàn năm về trước. Thiên Chúa dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, và vào lúc này họ thấy mình đang trên con đường trở về đất hứa. Họ được tự do, nhưng cuộc hành trình về quê cha đất tổ thì mới vừa khởi sự. Họ còn phải chịu đựng rất nhiều để học cho biết họ là dân tộc nào và Thiên Chúa là ai? Câu truyện thật hấp dẫn và biểu tượng song hành cũng thật rõ ràng. Đức tin của mỗi linh hồn cũng phải trải qua ngần ấy khó khăn để đến được bến bờ hạnh phúc.
Điểm tôi lưu ý đầu tiên là tính cộng đoàn của dân Israel. Ở đây tác giả không nói về cá nhân nào, mà về toàn thể xét như một dân tộc thoát ách nô lệ, và làm cuộc di chuyển qua sa mạc. Cả cộng đồng rời bỏ Ai cập, cả cộng đồng ăn thịt chim cút và bánh manna. Cả cộng đồng phải thử thách, khổ đau, chịu đựng và kêu ca. Như vậy bài đọc gợi ý cho chúng ta về những vật lộn cá nhân trong những cuộc hành trình khó khăn của đức tin. Xin luôn nhớ đây là truyện lòng tin của cả một khối người, không phải của riêng lẻ một ai. Một khối người duy nhất phải trải qua sa mạc. Về phần chúng ta cũng vậy các khó khăn thử thách trong cuộc sống cũng phải được nhìn trong tổng thể lòng tin của cộng đoàn giáo xứ, khi chúng ta cùng nhau tiến tới trên cuộc đời người tín hữu.
Vậy thì cứ thử đặt kinh nghiệm vượt sa mạc của dân Do thái dưới góc độ văn phạm của ngôn ngữ để thấy nội dung của nó ra sao ! Thật khủng khiếp. Nhưng xin thứ lỗi cho tôi về lối giải thích ngoại thường này. Một mệnh đề đơn giản phải có ba yếu tố: Chủ từ, động từ và túc từ. Chủ từ thực hiện hành động, động từ chuyển tải hành động và túc từ tiếp nhận hành động. Trong suốt hành trình di cư của dân Do thái, sự thật văn phạm được tôn trọng. Thiên Chúa là chủ từ và dân Israel tiếp nhận các hành động của Ngài, còn động từ thì vô số, tuỳ vào tình huống: giải cứu, trừng phạt, đe doạ, khuyên răn, ban lề luật& Trong câu truyện xuất hành Thiên Chúa thực hiện những hành động cao cả trên dân. Ngài trông thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của kiếp sống lầm than và ra tay giải cứu. Ngài che chở, nuôi sống, dẫn đưa họ qua sa mạc. Tất cả đều là những hành động của Ngài. Dân chúng kêu ca, ta thán, thì có thể coi như những lời cầu khẩn, van xin Thiên Chúa nghe lời và quyết định giải thoát. Ngài không hề ở xa tuyển dân, ngược lại luôn ở gần, lắng nghe các ước vọng của họ. Đàng khác, tuyển dân là túc từ của mệnh đề. Họ sống trong gian khổ, trong những nhu cầu cấp thiết, nhưng chẳng có khả năng tự giải quyết. Họ tiếp nhận các hành động xót thương của Đức Chúa.
Do đó, sách Xuất hành mạc khải cho dân Do thái biết Thiên Chúa là ai và những vật lộn trong sa mạc cho họ hay mình là thế nào? Chúng ta cũng thường bộc lộ những yếu đuối, chao đảo, khó khăn, ta thán, những nỗi thống khổ. Chúng ta có cảm nhận một Thiên Chúa trung tín, hằng ra tay nâng đỡ, cứu giúp, như Ngài đã từng làm cho dân Do thái? Hơn nữa, hàng ngày chúng ta cần Thượng đế giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi. Mặc dù do thói quen chúng ta không nhận ra thân phận mình, cứ cho là tự do mà trong thực tế không phải vậy. Nói rộng ra, phần đông nhân loại đều sống trong ách kìm kẹp của Satan. Nhân loại cần một Thiên Chúa giải thoát. Nhưng công việc của Ngài chỉ là bước đầu. Còn rất nhiều gian nan trước mắt: phá vỡ thói xấu, tập tành nhân đức, vượt khó& Vì thế ngay khi ra khỏi Ai Cập, Thiên Chúa đã truyền cho tuyển dân phải nên thánh, kẻo trở lại nếp sống nô lệ xưa. Đây là tình trạng mà Vat.II đã gặp. Sau những cố gắng đổi mới, biết bao nhiêu chống đối nổi lên, thậm chí còn có những kẻ muốn huỷ bỏ thành quả của Công đồng, trở về nếp sống bảo thủ, khép kín, ngăn cách khỏi cộng đồng nhân loại. Trên con đường thiêng liêng nếu không có Thiên Chúa hướng d”n, thì trăm bước sai lầm, chưa chắc chúng ta đã được một bước chính xác. Vì vậy phải luôn gắn bó với Thiên Chúa trong nếp sống thánh thiện.
Nhưng cũng không nên quá bi quan, tô vẽ một Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào khó khăn, thử thách. Xin luôn nhớ, dân tộc Israel đã từng sống kiếp nô lệ và Thiên Chúa là Đấng giải cứu họ. Nếu như họ gặp nhọc nhằn, đó là vì còn đang ở trong tiến trình tiến tới tự do, phải bỏ lại đằng sau những tập quán xưa, thói quen cũ. Điều này không phải dễ, nhìn vào chính bản thân, chúng ta cũng thấy cải tạo quả là khó khăn, đau xót, nói chi đến một tập thể, một cộng đoàn, một giáo xứ và ngay cả Hội thánh. Tuy nhiên, để có những cuộc khai sinh con người mới, cộng đoàn mới, thì nhất thiết chúng ta phải chết đi bằng nhiều kiểu cách. Không phải tự tử mà chết đi với tật xấu thói hư.
Giống như dân tộc Israel, Hội thánh cũng hằng đối mặt với các cuộc thanh tẩy, các thử thách do những thế lực ma quỉ gây nên. Lịch sử Giáo hội cho thấy rõ điều đó. Năm ngoái tôi được cung cấp một danh sách dài những quốc gia đang còn bách hại Hội thánh. Tất cả là hơn 20. Năm nay tôi dám chắc con số đó không giảm, có thể còn tăng lên. Bởi lẽ tình hình bài tây phương ngày một dâng cao và Hội thánh bị ảnh hưởng, tuy gián tiếp nhưng cũng rất nặng nề. Cũng không thể bỏ qua những đấu tranh nội bộ. Khi cố gắng sống nhân chứng cho Đức Ki-tô, Giáo hội phải thích nghi với nếp sống địa phương. Nhưng vô tình Giáo hội đồng hành luôn với các thể chế chính trị, văn hoá, kinh tế. Thành thử nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, lây nhiễm não trạng thực dụng, cứ ngỡ ủng hộ lợi ích của chế độ là trở thành các Kitô hữu tốt. Làm ngược lại là xấu, là phản bội đức tin. Thực chất không phải vậy. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18, 36). Lại còn một loại khó khăn khác nữa mà Hội thánh luôn phải đấu tranh. Đó là tội lỗi trong lòng mình, đặc biệt các gương mù gương xấu của giai cấp linh mục, tu sĩ. Thí dụ như trong Hội thánh Hoa Kỳ, gương mù lạm dụng tình dục của một vài giáo sĩ đã gây nên không biết bao nhiêu thiệt hại cho mẹ Giáo hội. Về vật chất, thiệt hại quả là khổng lồ. Tiền của đền bù, đáng lý phải được dùng vào những lợi ích khác như thành lập bệnh viện, trường học, từ thiện, viện trợ cho các giáo hội nghèo khó v.v& Tất cả đều bị cắt giảm để tài trợ cho các án dân sự. Về mặt tinh thần thì vô kể. Gương xấu đã phát sinh nhiều lời phê bình gay gắt, giận dữ, bất mãn, ta thán, chế diễu, tố cáo, rời bỏ, loại trừ& Chẳng thiếu một hình thức nào. Có thể còn phải mất vài thập niên nữa vết thương mới được chữa lành. Ở đây chúng ta lại gặp kinh nghiệm sa mạc và như thế lại cần đến lương thực “man-na” mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng cung cấp. Thứ manna chữa lành, đổi mới và tái dấn thân. Giáo hội Hoa kỳ đang ở giai đoạn xuất hành gian khổ. Thử thách ập đến trong nhiều hình thức khác nhau. Giống như tuyển dân Do thái, chúng ta cũng rất dễ xa đường lạc lối.
Điều an ủi là Thiên Chúa xưa kia đã trông thấy cộng đoàn xuất hành Do thái đói khổ và gởi lương thực đến cho họ. Không phải lương thực họ đã quen dùng, cũng không phải lương thực họ tự chọn lấy. Nhưng thứ bánh mà họ phải hỏi nhau: “Cái gì đây?” (man-hu?). Cho nên bài đọc 1 cũng như bài Tin mừng kêu gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong những ngày tháng khó khăn này. Chúng ta chẳng biết được thứ bánh mà Ngài sẽ ban là gì. Có thể ngon ngọt, vui mừng. Có thể chua cay đắng đót. Nhưng mỗi ngày chúng ta được thêm sức mạnh để vượt qua thử thách. Bánh đây không loại trừ lời khích lệ của thân nhân, bà con, bạn bè, có khi của cả những người xa lạ chúng ta chưa từng một lần gặp. Đúng thế, ngoại trừ số ít lòng lang dạ thú, còn thì trái tim con người ta đa phần rất dễ rung động trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác. Mỗi khi có thiên tai, bão lụt, lòng hảo tâm của các tầng lớp đồng bào lại mở rộng một cách hào hiệp. Thêm vào đó, nhiều cơ quan từ thiện quốc gia, tôn giáo, quốc tế thường xuyên hoạt động ở những khu vực cần giúp đỡ. Nhiều khi vì quá vô tâm, chúng ta không nhìn thấy bàn tay dịu hiền của Thiên Chúa cùng hoạt động với những cơ quan đó. Như vậy trong một cộng đoàn, bánh của Thiên Chúa có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dưới những hình thức ngôn sứ khác nhau, kêu gọi chúng ta trở về với Hội thánh, Bí tích phổ quát của Chúa Giêsu trên thế gian.
Điểm cuối cùng sách Xuất hành mặc khải là: ngày nào đủ bánh cho ngày ấy. Người ta thu gom phần bánh cho mình hàng ngày. Nếu như họ tỏ lộ lòng tham lam, lượm hơn số cần thiết, nó sẽ tự hư nát (trừ trường hợp cho ngày Sabbath). Nghĩa là Thiên Chúa luôn có mặt để giúp đỡ con người vượt qua mọi khó khăn. Do đó, chúng ta được dậy cho biết phải cậy trông vào sự quan phòng của Đức Chúa Trời, nuôi dưỡng các tạo vật của Ngài. Chúng ta thực sự có nhu cầu sống trong đức tin như thể cá nhân hay cộng đồng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới thoả mãn được. Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, bánh hàng ngày của nhân loại, bánh ban sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Bánh chứng tỏ rằng mặc dù chúng ta hằng cầu xin, nhưng Thiên Chúa đã lắng nghe rồi, mà ban cho dư thừa. Tuy nhiên, còn một hình thức khác của bánh cần van xin. Đó là bánh đức tin để chúng ta can đảm làm các chứng nhân. Đó là bánh liên kết chúng ta với nhau trong bác ái. Đó là bánh bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa xót thương giữa xã hội loài người. Chúng ta cầu xin thứ bánh đó. Nhưng cũng đừng quá đỗi ngạc nhiên., khi Ngài ban tặng “manna” trong muôn vàn thể thức khác nhau. Amen.
Ghi chú thêm: Bài đọc 2 thánh Phaolô nói đến con người mới: chúng ta có thể khai triển: Con người mới là Đức Giêsu Kitô, là Hội thánh (khải hoàn). Con người đang đổi mới là mỗi tín hữu.
“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
Lời của đức Giêsu công khai tuyên bố giữa thanh thiên bạch nhật, bản thân Ngài sẽ thỏa mãn: TN 18-B29
Lời của đức Giêsu công khai tuyên bố giữa thanh thiên bạch nhật, bản thân Ngài sẽ thỏa mãn hết mọi nhu cầu đói khát kinh niên của mỗi người và cả gia đình nhân loại. Chỉ cần tin thật kiên vững vào Ngài, thực hiện những gì Ngài đã truyền dạy cho con người, thì nhân loại mới mong thoát cảnh đói khát đau khổ triền miên. Ngài là đáp số duy nhất và gần gũi nhất cho những trăn trở luôn sôi sục tận đáy lòng mỗi người: được sống hạnh phúc trường cữu.
Như thế nào mới là tin vào Chúa Giêsu? Ai tin vào Ngài thì sẵn sàng tuân giữ Lời Vàng Ngọc của Ngài chứa đựng trong Phúc Âm. Người đó biết tổ chức và xây dựng cuộc sống của mình trên nền móng bằng đá tảng là Lời vĩnh cửu của Ngài. Dùng Lời Ngài làm chuẩn mực để cân nhắc và sắp xếp bậc thang giá trị cho các nhu cầu đa dạng trong đời. Lấy Lời Ngài làm khuôn mẫu để đối đãi với mọi người chung quanh. Lòng trí luôn hướng lên Ngài để bày tỏ niềm tri ân cảm mến và cầu xin ơn soi sáng trong những hoàn cảnh khó khăn rối rắm. Nhất nhất mọi việc đều tin tưởng vào quyền năng tuyệt đối của Ngài vượt trên mọi tạo vật. Sống như Ngài đã từng sống; yêu như Ngài đã từng yêu, tha thứ như Ngài vẫn hằng tha thứ; gieo rắc tình thân và những ân cần giúp đỡ đến hết mọi người ta có dịp gặp gỡ trong đời. Nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài đến những kẻ chưa có cơ may nghe biết về Ngài.
Riêng những người Công Giáo chúng ta lại được một diễm phúc quí báu là đón rước Mình Máu Thánh đức Giêsu mỗi ngày trong đời. Trong khi những Kitô hữu khác và những anh chị em lương dân không có được diễm phúc tuyệt vời đó. Đức kitô đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng lời Hằng Sống của Ngài, mà còn bằng chính Máu Thịt từ cơ thể sống động của Ngài. Có ông vua bà chúa nào mà lại luôn thân cận sẵn sàng lắng nghe và đáp ứng lại những nhu cầu của chúng ta hơn là đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa, Ngài là Bánh Trường Sinh ban cho con được no thỏa toàn vẹn trong cuộc sống bất diệt, nhưng con lại vẫn mải mê khốn khổ đi tìm những điều con ưa thích; chỉ tại vì con chưa tin kiên vững vào tình yêu của Chúa. Cầu xin Chúa ban ơn Chúa Thánh Thần, soi sáng cho con hiểu được tình Chúa luôn dành cho con, hầu đời con sẽ là một mùa xuân trường cửu bên Ngài.
Các bài đọc Chúa Nhật XVIII Thường Niên hôm nay đề cập đến chủ đề bánh. Bánh được đại: TN 18-B30
Các bài đọc Chúa Nhật XVIII Thường Niên hôm nay đề cập đến chủ đề bánh. Bánh được đại diện cho rất nhiều thứ lương thực nuôi sống con người. Ở bài đọc 1 trích từ sách Xuất Hành kể lại rằng: Khi dân Israel ở trong sa mạc khô cằn sỏi đá đã đói khát lương thực, họ lên tiếng kêu trách phàn nàn Chúa đã dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập. Và Thiên Chúa đã thương ban cho họ một thứ lương thực từ trời rơi xuống. Lương thực đó rất ki lạ, là một thứ nhựa cây, cứng lại khi gặp không khí, người ta đem giã nát để nướng thành bánh ăn. Dân Israel cũng chẳng biết đó là thứ gì nên chỉ gọi là Manna nghĩa là cái gì vậy. Nhưng dầu sao Manna cũng chỉ là lương thực Thiên Chúa nuôi dân Ngài ở trong sa mạc.
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan Ga 6,24-35 cũng lại nói về bánh. Dân chúng đi tìm Chúa Giêsu là người có khả năng ban bánh cho họ ăn. Lần trước họ đã được ăn bánh no nê khi Chúa Giêsu thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lần này họ đi tìm Chúa chỉ với mục đích muốn được ăn bánh no thân xác. Họ nghĩ rằng đi theo Chúa thì sẽ có lương thực dư đầy ăn dài dài. Họ nhớ đến Manna Thiên Chúa đã nuôi cha ông họ trong sa mạc. Đối với họ Chúa Giêsu chỉ là một con người hoạt động từ thiện để cứu đói dân nghèo. Họ có suy nghĩ sai lầm về Chúa. Nói theo câu thành ngữ của người Việt Nam chúng ta họ là những người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.
Bởi thế, Chúa Giêsu đã nói thẳng với họ về sự mong đợi của họ ở nơi Ngài. Ngài luôn yêu thương và chăm lo cho mọi nhu cầu của con người, nhất là những người nghèo, nhưng Ngài không phải là một nhà từ thiện chuyên lo cứu đói cho nhân dân. Trong cuộc đời công khai Ngài dành phần lớn thời gian cho hoạt động cứu giúp con người. Sứ mạng của Ngài còn cao cả hơn gấp vạn lần những nhà từ thiện. Hay nói cách khác Ngài chính là nhà từ thiện vĩ nhất, chăm lo chu tất cho hết mọi người, Ngài không những chăm lo cho con người từ lương thực nuôi thân xác, mà còn chăm lo cả lương thực thiêng liêng con người. Mà lương thực cho thân xác sao bằng lương thực cho đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu lo cho con người cả đời sống thiêng liêng nữa. Ngài muốn cho chúng ta làm phát triển đời sống thiêng liêng. Đó là một đời sống gắn bó thân mật với Chúa. Và chỉ có Chúa mới co thể ban phát lương thực thiêng liêng. Tin Mừng hôm nay nói đến Bánh Trường sinh. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định với những người Do-thái “Tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi sẽ không hề đói, ai tin vào tôi sẽ không bao giờ khát”. Như vậy mọi sự đã rõ, Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha ban cho nhân loại. Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống. Bánh vĩnh cửu không bao giờ hư nát. Bánh rất quý giá đốI với chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu chính la man na mớI thiên Chúa ban cho những ai vào Ngài. Manna chỉ là lương thực trong sa mạc. Còn bánh trường sinh là lương thực cho hành trình về quê trời của người Kitô hữu. Bánh đó còn cao trọng hơn cả Manna.
Nói đến Bánh trường sinh người ta còn hiểu đến biết bao nhiêu nhu cầu thâm sâu và cần thiết nhất của đời sống con người. Bởi vì con người luôn đi tìm cái gì Tuyệt đối, và đi tìm điều Chân-Thiện-Mỹ vượt lên trên tất cả mọi sự. Nhưng những thứ đó thì chỉ có Chúa Giêsu mớI có khả ngăng ban cho. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa Ngài có thể làm thoả mãn tất cả mọi khát vọng chính đáng của con người. Đén vớI Ngài chúng ta sẽ được sống trong niềm hạnh phúc tron vẹn nhất. Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng Tuyệt đối mà con người bao đời vẫn khát mong.
Chúng ta đi theo Chúa có phải vì được ăn bánh, hay được Chúa chăm lo cho một nhu cầu vật chất nào đó của mình ? Câu hỏi đó mỗi người sẽ tự đặt ra cho mình để tự điều chỉnh đời sống mình. Dĩ nhiên đi theo một con người có khả năng ban phát lương thực thì thật là có lợi. Nhưng đó không phải là thái độ đúng của người môn đệ Chúa Giêsu. Nếu ta đi theo Chúa chỉ với mục đích cầu mong cho một điều gì đó thì chúng ta đã phạm phải sai lầm của những người Dothái thời của Chúa Giêsu. Ngài muốn chúng đi theo Ngài vì một lòng yêu mến chân thành. Chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta s ự sống đời đời trong mối liên hệ gắn bó thâm sâu với Ngài. Moi sự trong cuộc đời này sẽ qua đi nhưng Chúa thì còn ở mãi với chúng ta. Trong Ngài chúng ta sẽ được mếm hưởng thứ Bánh trường sinh. Trong cuộc sống chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng ở Chúa và đến gặp gỡ Ngài trong Thánh Kinh, trong Thánh Thể v à trong tha nhân. Nơi đó Chúa đang đợi chờ chúng để ban Bánh Trường Sinh cho chúng ta. Nơi đó Ngài thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Ngài cho con người. Chúng ta đừng đi tìm Ngài ở đâu xa ngoài những nơi đó. Thế giới hôm nay có rất nhiều địa điểm hấp dẫn mời mọc chúng ta. Tựu chung chúng đặc trưng cho một cuộc sống cắt đứt liên lạc với Chúa để bắt tay hợp tác làm ăn với những hạnh phúc giả tạo. Hạnh phúc của những kẻ lắm tiền nhiều của và thành đạt mà đóng kín cuộc sống mình lại vì tính ích kỉ hẹp hòi và dửng dưng với những nỗi đau khổ của tha nhân, đ ồng th ời cũng từ chối cả Chúa
Lạy Chúa Giêsu là Bánh trường sinh xin cho chúng con được đói khát Ngài để luôn luôn thưởng thức thứ bánh làm cho chúng con trở nên thân mật vớI Chúa v à biết cư xử tốt với tha nhân. Amen
Đổi mới là một trong những vấn để nóng hổi hiện nay và là một đòi hỏi rất khẩn thiết của thời đi: TN 18-B31
Đổi mới là một trong những vấn để nóng hổi hiện nay và là một đòi hỏi rất khẩn thiết của thời đi. Đổi mới trong hết mọi lãnh vực: khoa học, kỹ thuật, sư phạm, nghệ thuật, kinh tế chính trị, xã hội. . . Cuộc đổi mới này đang diễn ra khắp nơi, tại các nước đang phát triển cũng như tại các quốc gia đã phát triển. Mọi người còn nhớ câu nói nổi tiếng của một nhà chính trị: Đổi mới hay là chết. Lời này có nghĩa: Không có con đường nào khác để tồn tại.
Trong đoạn thư Ephêsô thánh Phaolô cũng mời gọi tất cả chúng ta thành tâm đổi mới tâm linh: Anh em hãy khử trừ lối sống cũ, hãy lột bỏ con người cũ. . . Hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, mặc lấy con người mới đã được tác thành theo Thánh ý Chúa.
Lời khuyên của thánh Phaolô không có tính cơ hội, thoáng qua. Nhưng diễn tả một qui luật căn bản của đời Kitô hữu: Người Kitô hữu phải đổi mới không ngừng và đổi mới cách triệt để. Triệt để có nghĩa: Đổi mới chính con người của mình, đổi mới bắt đầu từ lòng trí của mình và đổi mới để nên giống Chúa Giêsu.
ĐỔI MỚI CHÍNH BẢN THÂN
Có những cuộc đổi mới phụ thuộc hoặc chỉ có tính kỹ thuật. Chẳng hạn thay đổi môi trường hoặc điều kiện sinh sống của con ngươl. Thay đổi cách làm việc, phương thế lao động để công việc dễ dàng hơn, đỡ mệt nhọc hơn nhưng lại đạt hiệu năng cao hơn. Hoặc thay đổi những luật lệ, qui định liên quan đến sinh hoạt của con người.
Những thay đổi loại này cần thiết, tuy nhiên chưa thật sâu xa, triệt để, vì chúng cờn diễn ra bên ngoài con người, chỉ tác động phần nào đến con người chứ chưa hoán cải chính con người là đối tượng cần được đổi mới.
Sự đổi mới của Kitô hữu thì khác. Nó liên quan đến phẩm chất đạo đức của con người và mang tính tôn giáo. Phải thay đổi chính bản thân, chính phong cách, chính lối sống, nâng cao phẩm chất và nhân cách của mình. Phải sống cách khác, trở thành một con người khác. Sự đổi mới diễn ra trong chính bản thân: cần thay đổi tâm hồn con người chứ không chỉ thay đổi áo ngoài. Vì thế thánh Phaolô mới bảo: “Hãy lột bỏ con người cũ.. . Hãy mặc lấy con người mới”.
ĐỔI MỚI NỘI GIỚI
Nếu chỉ thay đổi bên ngoài thôi thì chẳng những chưa đủ mà nhiều khi trở thành hình thức và giả dối. Cái bên ngoài rất có thể không phản chiếu trung thực cái bên trong. Nhiều lời nói, cử chỉ, thái độ ngọt ngào bên ngoài rất có thể che giấu cách khéo léo một tâm tình thù nghịch bên trong. Đừng vội tin những lời ngon ngọt. Khi nghe những lời nói chói tai, chỉ cần suy nghĩ một lần. Nhưng khi nghe những lời bùi tai, cần suy nghĩ nhiều lần.
Thánh Phaolô nhấn mạnh đến nỗ lực canh tân nội giới. Ngài bảo: "Hãy trở nên mới trong lòng trí anh em". "Trong lòng trí" có nghĩa là tự nội giới, tự nguồn mạch của mọi tư tưởng và mọi hành động của con người. Quả thật thiện tâm ở tại lòng ta". Nếu chính lòng ta được đổi mới thì mọi sự của ta cũng sẽ được đổi mới theo và sẽ đổi mới đích thực. Nước ở đầu nguồn có trong thì nước ở cuối nguồn mới sạch.
TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊSU
Chúa Giêsu là chính sự thánh thiện, là con người lý tưởng, toàn hảo, là con người mới, khuôn mẫu của những ai muốn trở nên con người mới. Ngài là con người điển hình. Mỗi Kitô hữu phải nhân điển hình đó lên trong chính bản thân mình. Người Kitô hữu phải trở nên con người mới như Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu.
Đó phải là ưu tư và nỗ lực hàng đầu của đời Kitô hữu. Lời mời gọi của thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta điều đó.
Cách đây năm năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất: TN 18-B32 fb
Cách đây năm năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên ? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc ? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do Thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giê-su để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ, khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giê-su. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Á-pra-ham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Á-pra-ham đi theo Chúa, và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Á-pra-ham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa, chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối, chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc, chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Á-pra-ham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Au-gus-ti-nô: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
Kiểm Điểm Đời Sống
1- Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó ?
2- Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không ?
3- Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần: a/ Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục: TN 18-B33
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần:
a/ Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê.” Rồi Ngài dạy họ tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
b/ Chúa Giêsu bắt đầu giải thích về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
- Thứ của ăn đó vượt trôi hơn manna ngày xưa.
- Nghe thế dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn cũng là vật chất- nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nen họ xin “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
B...nẩy mầm.
1. Vì con mang thân xác con người còn bám víu qúa nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng các tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hàng ngày chúng con thường tìm gì? Tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh.
2. Một lời nhắc nhở khác của Chúa: chúng con thường ra công làm việc vì cái gì: vì thức ăn hay hư nát hay vì thức ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời?
3. “Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ được vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng ngủ được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…) có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghĩa, bởi vì nó không giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh tỉnh: đừng mải mê chạy theo những điều không đem lại hạnh phúc đích thực” (Mỗi ngày một niềm vui)
4. “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”
Tôi đến nhà thờ mỗi tuần hầu như chỉ vì thói quen, vì khoe khoang quần áo hay tỏ ra mình là người đạo đức. Tôi đến với Chúa hầu như để giảm bớt cơn sầu hoặc xin tỏ ơn này ơn nọ.
Mặt khác tôi sống làm việc, học tập chẳng qua chỉ vì muốn tìm cho mình một việc làm có lương bổng cao, một địa vị kha khá để mọi người phải kiêng nể.
Tôi nào biết mình đã nhắm sai mục đích. Mục đích trọng yếu là: “Sự sống đời đời”. Điều mà tôi chỉ thoáng nghĩ tới như một ý nguyện mơ hồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi điều về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và giáo lý của Ngài. (Epphata)
5. Thái độ dân do thái rất đáng ta suy nghĩ: nhớ tới manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng đó là một thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh thường ngày; cầu xin với Chúa Giêsu, họ cũng chỉ cần xin một thứ lương thực cũng vật chất nhưng giúp no lâu hơn. Nhiếu khi chúng ta đến với Chúa cũng chỉ để xin những nhu cầu thỏa mãn cho cuộc sống vật chất.
6. Những hình ảnh trong Tin mừng Ga luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần; thấy thức ăn vật chất thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần. Ước gì tôi cũng biết nghĩ như Thánh Gioan khi cảm thấy đói, khát, mệt mỏi, yếu bệnh…
7. Mỗi khi ăn, ta làm điều mà nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa vào cho mình một vật chết mà cho sự sống. Thức ăn trở nên thành phần của cơ thể ta. Nhiếu khi sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”.
Thức ăn giàu chất dinh dưỡng: bạn mập; ăn vặt: bạn suy dinh dưỡng. Cho một bệnh nhân bị ghẻ thức ăn thích hợp, da của anh sẽ sạch. Khi có sự nghiệp, ta thường dùng thức ăn ngon.
8. “Đức Giêsu bảo ho: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hế phải đói: ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!”
Đôi khi nhóm bạn chúng tôi cảm thấy chán nản vì cuộc sống tẻ nhạt, nhịp điệu đời sống cứ đều đều quay vòng: học, ăn, ngủ, lo cho túi tiền có đủ xài đến cuối tháng!…Sinh viên xa nhà thiếu thốn đủ thứ, thiếu vật chất- tinh thần; thèm xem phim, đói truyện báo, khát những buổi ca nhạc… tai hại hơn, những bạn bè là Kitô hữu phần lớn đều đói Tin mừng, khát lời Chúa vì những lý do không tên, để rồi đức tin dần mờ nhạt mà không hay biết.
Chúa ơi! chúng con chỉ biết đói khát những vật chất thế gian, xin cho chúng con biết nhận ra sự “đói khát” Lời Chúa trong chính bản thân mình. (Epphata)
Sau khi đám đông đã no nê, lòng người phấn khởi, họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua, Chúa: TN 18-B34
Sau khi đám đông đã no nê, lòng người phấn khởi, họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua, Chúa Giêsu thấy tình hình có thể gây nguy hiểm, nên tốt hơn là để một mình Ngài đối phó, không nên để các môn đệ dính líu vào. Ngài hối các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước. Ngài thuyết phục đám đông ra về, có Ngài lánh lên núi một mình. Chuyến đi không xuôi chảy vì các ông đã gặp bão lớn trên biển hồ. Đang mệt nhọc và sợ hãi, các môn đệ bất ngờ thấy Chúa xuất hiện, xuyên qua sóng gió đến với con thuyền đang cố cập vào bờtại Cá-phác-na-um.
Mặc dầu Chúa bảo về, nhưng một số dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ, họ chờ Chúa Giêsu trở lại với họ. Họ chờ, vì thấy chiếc thuyền của các môn đệ chèo đi không có Chúa trong đó nên kết luận rằng Chúa Giêsu ở gần đây thôi. chờ đợi một chút họ mới thấy rằng Chúa Giêsu không trở lại. Trong vịnh gần đó có một số chiếc thuyền nhỏ từ Tibêria đến đậu lại, chắc là tìm chỗ ẩn núp cơn dông đêm qua. Thế là dân chúng lên chiếc thuyền ấy vượt biển hồ để trở về Cá-phác-na-um.
Đến nơi họ vô cùng kinh ngạc vì thấy Chúa Giêsu đã ở đó rồi. Họ hỏi Ngài đến đó bao giờ. Nhưng Chúa Giêsu đã không trả lời câu hỏi ấy. đây không phải là lúc trò chuyện về những việc như vậy. Đời sống thậy ngắn ngủi không có thời giờ tán gẫu về những chuyến đi. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Ngài phán: “Các ngươi chứng kiến những việc lạ lùng, các ngươi đã thấy ân sủng của Thiên Chúa có thể khiến cả một đoàn dân chúng ăn no nê. Đáng lẽ tâm trí các ngươi phải suy nghĩ về Thiên Chúa đã làm những việc ấy, nhưng thay vào đó, các ngươi lại chỉ nghĩ đến bánh”. Dường như Chúa Giêsu ngụ ý “các ngươi chỉ nghĩ đến cái bụng, không thể nghĩ đến linh hồn mình được!
Thánh Gioan Kim khẩu nói: “Loài người vốn bị đóng đinh về những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ ước cao hơn bức tường thành của thế gian, phóng tầm mắt đến chân trời của cõi đời đời. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen, bấy giờ đã khuya lắm, ngoài trời tối đen, hai người đến gần khung cửa, trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu cái kim, nhấp nháy sáng. Mắt của Nã phá Luân thì còn tinh, còn mắt bạn ông đã mờ. Ông chỉ lên trời và hỏi: “Anh có thấy các ngôi sao đó không?” Người bạn đáp: “Tôi không thấy”. Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi và anh”. Người bị buộc chặt vào thế gian chỉ sống phân nửa của đời sống. chỉ có ai có tầm mắt nhìn xa thấy rộng, nhìn ra các vùng trời xa xăm và thấy được các ngôi sao mới là người thật sự sống.
Chúa Giêsu truyền phán mệnh lệnh bằng một câu ngắn gọn: “Đừng nhọc công tìm kiếm những đồ ăn dễ hư nát nhưng hãy tìm thực phẩm đem lại đời sống vĩnh cửu”. Từ ngàn xưa tiên tri Isaia đã nêu cùng một câu hỏi như vậy: “sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình để đổi lấy một vật chẳng làm cho no?” (55,2). Có hai thứ đói, đói thể xác mà thực phẩm vật chất có thể thoả mãn, nhưng đói tâm linh thì thức ăn thể chất không có thể thoả mãn được. Một người có thể giàu như vua Ngô mà vẫn thiếu một cái gì đó trong đời.
Sau năm 60 SC, xã hội Lamã sống trong sự sa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ người Lamã đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi, người ta uống thuốc cho nôn mửa giữa hai bữa ăn, để lần sau ăn thây ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng gía hàng ngàn Anh kim là chuyện thông thường. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và đính nhiều châu ngọc trị giá tương đương bốn mươi ngàn Anh kim. Nguyên do của những phung phí đó là những bất mãn sâu xa, sự đói khát không gì thoả mãn được. họ tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có một rung động mới, hương vị mới, vì họ vừa giàu có nhưng lại đói khát vô cùng.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến sự thoả mãn về phần thể xác. họ đã được đãi ăn một bữa dư dật chẳng phải trả tiền, và họ muốn được ăn nữa. nhưng có nhiều thứ đói mà chỉ Chúa Giêsu mới làm thoả mãn được. Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người. Đó là đói sự sống, chỉ có Ngài mới ban sự sống thật dư dật. Đó là tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết. chỉ có Chúa Cứu Thế mới làm thoả mãn sự đói khát không xoa dịu được tâm linh con người.
Tại sao Ngài làm được điều đó? Có rất nhiều ý nghĩa qua câu: “Bởi và Thiên Chúa đã đóng ấn trên Ngài”. trong quyển “Phong tục Đông phương tại xứ Thánh”, B Tristram cho biết vài điều thú vị về chiếc ấn trong thế giới thời cổ. Bên Đông phương không phải là chữ kí mà là dấu ấn mới có giá trị. Các tài liệu chính trị và thương mại có giá trị khi được in bằng dấu ấn trên mặt nhẫn. Dấu ấn chứng thực cho một bản Do Thái chúc, dấu ấn trên miệng bao hay trên thùng bảo đảm cho vật đựng bên trong. Tristram kể rằng cả đến người nghèo nhất cũng xử dụng chiếc nhẫn để chứng thực. Trong những chuyến du hành của ông, khi ký hợp đồng với những người cho thuê lừa, ngựa hay khuôn vác, họ cũng đóng ấn của họ vào để xác nhận rằng họ bắt buộc phải tôn trọng và đồng ý như vậy. An được là bằng miếng đất nung, kim khí hay kim cương. Trong bảo tàng viện Anh quốc, hầu như có đủ các chiếc ấn của các vua Asyri. Dấu ấn được in trên miếng đất sét và miếng đất sét ấy được gắn vào tài liệu. Nhiều khi tài liệu đã mục nát từ lâu nhưng dấu ấn vẫn còn đó, nếu không có nó thì tài liệu cũng vô giá trị.
Các đạo sỹ Do Thái có câu tục ngữ: “Dấu ấn của Thiên Chúa là chân lý”. Kinh Talmud chép: “Ngày nọ một đại hội các chuyên gia về luật pháp đang hội họp đông đủ, họ cùng nhau khóc lóc cầu nguyện, ăn chay, bỗng một quyển sách nhỏ từ trời rơi xuống giữa họ. Họ mở cuốn sách ra trong đó chỉ có chữ Ameth, nghĩa là chân lý, cho nên các đạo sỹ nói: “Đó là dấu ấn của Thiên Chúa”. Ameth do ba mẫu tự Hy lạp ghép lại: aleph là chữ đầu trong mẫu tự, min là chữ chính giữa, tau là chữ cuối cùng. Chân lý của Thiên Chúa là bắt đầu, chính giữa và kết thúc của đời sống.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu mới làm thoả mãn cơn đói đời đời. Ngài được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ một mình Thiên Chúa mới thỏa mãn cơn đói của tâm linh cho chính Ngài tạo nên.
Khi Chúa Giêsu nói đến công việc của Thiên Chúa, người Do Thái nghĩ ngay đến việc lành, làm phúc. Người Do Thái tin một người sống thiện hoàn hảo thì được hưởng ân huệ của Thiên Chúa. Họ chủ trương loài người được chia làm ba hạng: người ngay lành, người xấu xa và người ở giữa hai hạng nếu biết làm thêm một việc lành nữa, thì có thể được chuyển sang hạng người ngay lành. Nên khi hỏi Chúa Giêsu công việc của Thiên Chúa là gì, họ mong rằng đưa ra các bảng liệt kê những gì họ phải làm, nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn không nói đến điều đó.
Chúa trả lời rất cô đọng, nên chúng ta cần khai triển và tra xét có điều gì tiềm ẩn trong đó. Chúa Giêsu dạy rằng công việc mà Thiên Chúa muốn loài người làm là tin Đấng đã được Ngài sai đến. Tông đồ Phao Lô cũng đưa chúng ta và điểm đó: công việc duy nhất mà Thiên Chúa muốn loài người làm là đức tin . Đức tin là gì? Đức tin chính là mối liên hệ với Thiên Chúa, đến độ chúng ta trở thành bạn thân của Ngài, không còn sợ hãi Ngài nữa, nhưng xem Ngài là Cha và là bạn thân thiết, đến nỗi chúng ta tin cây, vâng lời, phục tùng Ngài cách tự nhiên do mối liên hệ mới mẻ đó. Vậy, tin Chúa Giêsu có liên hệ với việc đó như thế nào. Chúng ta chẳng bao giờ biết được Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu không đến, sống và chiụ chết để dạy cho mỗi chúng ta biết điều đó. Chính nhờ Chúa Giêsu đã đến, qua ngài chúng ta biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, yêu thương chăm sóc chúng ta, chẳng muốn khác gì hơn là tha thứ cho chúng ta, hấu cho sự xa lạ, khoảng cách thù nghịch và nghi ngờ Thiên Chúa không còn nữa, và chúng ta có được mối liên hệ với Ngài.
Một lối sống xuất phát từ mối liên hệ đó. Khi đã biết Thiên Chúa như thế nào, thì đời sống chúng ta phải phù hợp với những gì mình biết về Ngài. Chúng ta phải đáp ứng theo ba hướng, mỗi hướng đều phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về Thiên Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu thương. Ví` thế đời sống chúng ta phải biết yêu thương và phục vụ tha nhân, phù hợp với tình yêu và sự phục vụ Thiên Chúa: tha thứ người khác, phù hợp với tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là thánh khiết. Do đó đời sống chúng ta phải thuần khiết phù hợp với sự thánh khiết của Thiên Chúa
Thiên Chúa là sự khôn ngoan. Do đó, đời sống chúng ta phải tuân phục hoàn toàn và tin cậy tuyệt đối, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy tất cả những căn bản của sinh hoạt Kitô hữu trong mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa, do Thiên Chúa khởi xướng, một liên hệ chỉ thực hiện được nhờ sự mạc khải của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, mối liên hệ xuất phát từ sự phục vụ, lòng thanh sạch và tin cậy, vốn là tấm gương phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là công việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm và giúp chúng ta đủ khả năng để thực hiện.
Đến đây phần lý luận trở thành đặc biệt có tính cách Do Thái trong ngôn ngữ, cach giả dụ và nói bóng. Chúa Giêsu vừa đưa ra một lời tuyên xưng quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thự của Thiên Chúa là tin Ngài, người Do Thái nói: “Hay lắm quả thật đây là lời tự xưng mình là Đấng Messia vậy ông hãy chứng minh đi…”
Bấy giờ họ còn nghĩa đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong samạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh16,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng, khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban man na được coi là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Môisê, mà Đấng Messia thì phải làm hơn thế nữa. “Vị cứu tinh đầu tiên thế nào, thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến Manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thế ấy”. “Các người không thể tìm được manna trong đời này, nhưng sẽ tìm được manna trong đời hầu đến”. “Man na đã được chuẩn bị cho ai? Cho người công chính của kỷ nguyên hầu đến, mỗi người tin đều xứng đáng và được ăn bánh ấy”. Người ta tin có một bình Manna được dấu trong hòm giao ước trong ngôi đền thờ đầi tiên, khi đền thờ bị phá hủy. Giêrêmia đã đem giấu đi. Khi Đấng Messia đến, dân chúng sẽ được thấy lại manna. Nói khác đi, dân Do Thái đang thách thức Chúa Giêsu hãy khiến bánh từ Thiên Chúa xuống để hậu thuẫn cho lời tự xưng của Ngài. họ không chịu xem số bánh cho năm ngàn người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Chúa Giêsu.
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Môi sêđã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa. thứ hai, ngài bảo manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thuộc thể nhưng là sự sống. Chúa Giêsu tuyên bố rằng sự thoả mãn duy nhất là ở trong Ngài.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN NĂM B -LỄ HIỂN DUNG - (06.08.2006)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Khi đọc các bài Sách Thánh Chúa Nhật 18 Thường Niên Năm B này, tôi không thể không liên tưởng: TN 18-B35
Khi đọc các bài Sách Thánh Chúa Nhật 18 Thường Niên Năm B này, tôi không thể không liên tưởng đến những gì tôi đọc được trong cuốn “VẠCH TRẦN VÀ TẨY CHAY THE DA VINCI CODE” của nhà xuất bản Phụng Sự (2006) mà một người bạn tặng tôi khi tôi vừa đặt chân đến California (Hoa Kỳ). Thật ra thì trong thời gian qua, tôi cũng đã đọc, đã nghe một ít điều về cuốn sách của Dan Brown và về cuốn phim ăn khách có mục đích xỉ báng Chúa Giê-su và chối bỏ Thánh Kinh và hạ giá Giáo hội Công giáo. Nhưng - tôi nghĩ - đối với các Ki-tô hữu tỉnh táo và trưởng thành, những trang Sách Thánh, nhất là ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay, là giáo huấn tuyệt đối dạy chúng ta biết Đức Giê-su là Ai? Thiên Chúa là Đấng nào và muốn gì ở chúng ta?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Đn 7,9-10.13-14: Áo Người trắng như tuyết.
9 Tôi là Đa-ni-en, ban đêm trong một thị kiến, tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. 10 Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.
13 Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. 14 Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.
(2) Bài đọc 2: 2 Pr 1,16-19: Tiếng đó chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra.
16 Anh em thân mến, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. 19 Như vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 9,2-10: Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Mt 17, 1-8; Lc 9,28 -36).
2 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3 Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. 4 Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. 5 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." 6 Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7 Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." 8 Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.
9 Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Đn 7,9-10.13-14) là những lời mô tả của ngôn sứ Đa-ni-en về thị kiến của ông, trong đó ông thấy xuất hiện một “nhân vật đặc biệt” - mà ông gọi là Con Người - bên và trước mặt Vị Lão Thành. Nhân vật đặc biệt này được mô tả là “đang ngự giá mây trời mà đến, tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện và Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” Các nhà chú giải Thánh Kinh đều đồng ý với nhau để giải thích Vị Lão Thành là Thiên Chúa Cha và Con Người là Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người.
(2) Bài đọc 2 (2 Pr 1,16-19) là khẳng định của Thánh Phê-rô về những lời mà chính ngài nghe được trên núi Ta-bo khi ngài chứng kiến cuộc Hiển Dung của Đức Giê-su cùng với hai ông Gia-cô-bê và Gio-an: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". Quang cảnh lạ thường và những lời tuyệt diệu vang lên từ trong đám mây tạo ấn tượng không bao giờ phai trong tâm trí Phê-rô và là nguồn sức mạnh cho cuộc sống và công cuộc rao giảng của vị Tông Đồ Trưởng.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 9,2-10) là tường thuật của Thánh Mác-cô về cuộc Hiển Dung (thay hình đổi dạng) của Chúa Giê-su trên núi Ta-bo. Có 6 nhân vật nhưng thuộc hai thế giới khác nhau mà liên kết mật thiết với nhau. Ba môn đệ (Phêrô, Gia-cô-bê và Gio-an) thuộc thế giới bên này là trần gian. Ông Ê-li-a và ông Mô-sê thuộc thế giới bên/trên kia. Chúa Giê-su vừa thuộc thế giới bên này của ba môn đệ, vừa thuộc thế giới bên/trên kia của hai ông Ê-li-a và Mô-sê. Chúa Giê-su là cây cầu bắc giữa hai thế giới ấy và là con đường đi từ thế giới bên/dưới này vào thế giới bên/trên kia, vì Người đã từ thế giới bên/trên kia đi vào/đến thế giới bên/dưới này.
Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giê-su mạc khải về căn tính đích thực của mình, nhưng là lần mặc khải có sức thuyết phục nhất về thiên tính và sứ mạng thiên sai của Người. Chúa Giê-su là Trung Tâm của Giao Ước; Người kết nối lề luật, sứ ngôn và tông đồ thành một. Chính Chúa là nhân vật được Đa-ni-en gọi là "Con Người" và tiếng nói từ trong đám mây chính là tiếng nói của Thiên Chúa Cha là Vị Lão Thành trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Thiên Chúa đã cho nhân loại (tượng trưng là ngôn sứ Đa-ni-en và ba môn đệ thân tín của Chúa Giê-su) thấy chân dung và căn tính đích thực của Chúa Giêsu Ki-tô: Người là Con Một Thiên Chúa với vương quyền trên mọi loài thụ tạo. Người sống đẹp long Thiên Chúa mọi bề và là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Vì thế mà Thiên Chúa Cha muốn chúng ta "HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI", sống theo sự chỉ dạy của Người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp của Lời Chúa đã được gửi gấm trong ba bài Sách Thánh hôm nay, mỗi Ki-tô hữu phải:
(1) Nhìn nhận và suy tôn Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, là Thiên Chúa làm người (Con Người), là Đấng sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha mọi bề, là Vị Lãnh Đạo và Hướng Dẫn Tối Cao cho mọi người và Vương Quyền của Người bao trùm trên tất cả mọi loài.
(2) Lắng nghe Chúa Giê-su Ki-tô là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, là Thày Dạy Chân Lý để sống theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Người.
Mỗi người, mỗi cộng đoàn phải tự vấn lương tâm và kiểm điểm đời sống xem mình đã thực hiện hai điều trên như thế nào, để trả lời trước mặt Chúa.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã hé mở Mầu Nhiệm của Chúa cho chúng con. Nhờ mạc khải của Chúa mà chúng con biết rằng Chúa từ thế giới thần linh, siêu việt mà đi vào trần gian để yêu thương và cứu chuộc chúng con. Xin Chúa hãy thống trị tâm hồn và cuộc sống chúng con !
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã hé mở Mầu Nhiệm của Chúa cho chúng con. Nhờ mạc khải của Chúa mà chúng con biết rằng Chúa từ thế giới thần linh, siêu việt mà đi vào trần gian để chỉ dạy và hướng dẫn chúng con biết lối về Nhà Cha. Xin Chúa hãy chỉ dạy và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa Cha !
Lạy Thánh Thần Thiên Chúa là ánh sáng và sức mạnh phù trợ các tín hữu. Xin Chúa soi sáng, giúp đỡ chúng con biết vâng nghe Lời Chúa Giê-su Ki-tô, để chúng con làm đẹp lòng và vinh danh Chúa Cha và đưọc hưởng Ơn Cứu Độ mà Chúa Cha đã dành cho chúng con, nhờ công nghiệp và ở nơi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chí Ái của Cha. Amen !
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Kansas City (MO/USA) ngày 30.07.2006
Nếu biển gợi lên cái gì mênh mông bao la thì núi gợi lên cho ta cái gì cao cả hùng vĩ. Trong: TN 18-B36
Nếu biển gợi lên cái gì mênh mông bao la thì núi gợi lên cho ta cái gì cao cả hùng vĩ. Trong nhiều tôn giáo, núi là biểu tượng cho sự uy nghi hùng vĩ, sự cao cả. Núi được coi như nơi ngự trị thích hợp cho thần thánh. Do đó nhiều đền chùa được xây trên núi cao mời gọi con người hướng thượng. Người Việt Nam chúng ta coi núi như biểu tượng của cha, nước như biểu tượng của mẹ. “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Kinh Thánh nói khá nhiều đến núi. Si-on là ngọn Núi Thánh được nói đến nhiều hơn cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi. Mô-sê đã được kêu mời lên núi Si-nai để gặp gỡ Gia-vê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho dân riêng. Ê-li-a đã ròng rã 40 ngày đêm lên núi Khô-rép để gặp gỡ Chúa. Núi là nơi Đức Giê-su cầu nguyện ( Lc 6, 12; 9, 28 ), nơi Đức Giê-su công bố Hiến Chương Nước Trời ( Mt 5, 1 ), nơi Đức Giê-su biến hình ( Mt 17, 1; Mc 9, 2; Lc 9, 28 ). Núi còn là nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh ( Mt 27, 33; Mc 15, 22; Lc 23, 33 ) và là nơi Người từ giã các môn đệ để về Trời ( Mt 28, 16 ).
Trang Tin Mừng hôm nay, Thánh Mác-cô kể câu chuyện: Chúa Giê-su đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Sau khi cho các ông thấy một thoáng phục sinh trước phục sinh, nếm trước một chút thiên đàng trước thiên đàng, Chúa lại đưa các ông xuống núi chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn. Cuộc hành trình ấy, hành trình: lên núi – biến đổi – xuống núi được thể hiện trong suốt cuộc đời mỗi con người.
LÊN NÚI
Lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi hỏi nhiều cố gắng. Đó không phải là cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng, khéo léo, can đảm. Cần bứt ra những ràng buộc của cuộc sống thường ngày. Cần có nhiều thời giờ cho việc leo núi. Càng lên cao càng có ánh sáng. Muốn có ánh sáng phải lên cao. Lên cao thì vất vả. Lắm lúc đụng phải sườn dốc cheo leo, đá sắc trơn trượt. Nhưng đổi lại, lên đỉnh núi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái an hoà với đất trời bao la.
Đức Giê-su chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi đón nhận và bày tỏ tình yêu giữa ta và Chúa.
BIẾN ĐỔI
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời. Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”. Và có tiếng phán từ trong đám mây “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” Đó là những biểu tượng cho các ông thấy Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa.
Các ông còn thấy “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu Ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Mô-sê đại diện cho luật pháp. Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giê-su. Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê viết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” ( Đnl 18, 15 ). Còn Ê-li-a được ngôn sứ Ma-la-ki-a tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giê-su đến: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” ( Ml 3, 23 ). Đức Giê-su cũng xác nhận Ê-li-a phải trở lại trước khi Ngài đến ( x. Mt 17, 10 – 12; Mc 9, 12 – 13 ).
Trên núi cao, Đức Giê-su gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết, khuôn mặt Người sáng láng. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Ai gặp được Chúa cũng đều hạnh phúc, cũng đều được biến đổi. Ông Mô-sê sau khi ở trên núi Si-nai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt lại, dân chúng mới dám đến gần ông.
Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng trái tim ta, xoá tan băng giá thờ ơ. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta nên dịu hiền. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ làm ta nên đơn sơ. Sự bao dung của Chúa sẽ giúp ta sống hoà nhã. Sự tha thứ của Chúa giúp ta luôn biết cảm thông. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
XUỐNG NÚI
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phê-rô, trong giây phút tuyệt đẹp đã xin Chúa cho dựng ba chiếc lều để ở lại hưởng hạnh phúc trên núi. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giê-su đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Ta-bo trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giê-su phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào Thiên Đàng. Hai đỉnh núl: núi Ta-bo và núi Sọ cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.
Thánh Phê-rô cùng các Tông Đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy Chí Thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường Tình Yêu.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự Thánh Lễ, kinh nguyện, những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi Tĩnh Tâm. Cần phải dành những giây phút lên núi với Chúa: Núi của Thánh Lễ, núi của cầu nguyện, núi của sám hối, núi của những dịp tĩnh tâm. Đó là những giây phút lên núi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến đổi bản thân mình.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những thách đố của đời sống. Núi Thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên Đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Chúng ta có sẵn sàng nhận lời mời của Chúa Giê-su để cùng với Người “lên núi” không ? Mỗi lần Cầu Nguyện, Tĩnh Tâm, Linh Thao, Dâng Lễ, lắng nghe Lời Chúa, đón nhận các Bí Tích, là chúng ta được “lên núi” với Chúa. Nhiều lần “lên núi” như thế là để thực tập cho quen với một lần “lên Núi Thánh” là đỉnh cao cuối cùng trong Nước Trời.
Gần như đã thành lệ: cứ đến những ngày sĩ tử lều chõng đi dự tuyển sinh đại học, là nạn học giả: TN 18-B37
Gần như đã thành lệ: cứ đến những ngày sĩ tử lều chõng đi dự tuyển sinh đại học, là nạn học giả, bằng giả lại được báo chí moi ra, nhắc lại, với hàng ngàn trường hợp mới cũ lúc nào cũng có sẵn để nêu lên. Điều này chẳng còn đánh động được nhiều người nữa, khi mà con cháu họ đang là nạn nhân của cái trò “da hàng thịt” mà cứ bị nhồi nhét “hồn Trương Ba” vào, đến nỗi khi phải tỏ lộ “cái ruột” thật nơi phòng thi, thì nhiều sĩ tử không ngần ngại cho Cà Mau và Kiên Giang là hai tỉnh của Đồng Bằng Sông Hồng và Tây Nguyên, lại nằm cạnh biển, rất có lợi cho việc khai thác và đánh bắt thuỷ hải sản !?!
Râu ông cắm cằm bà là điều chẳng còn gây ra được gì, ngoài sự quặn đau và thất vọng nơi những người còn tâm huyết với tiền đồ đất nước: những người trẻ nhiễm thói “ăn xổi ở thì”, tắc trách và gian dối của người lớn, vốn lẽ ra là mô phạm ! Tất cả lại chẳng lạ lùng gì ở một đất nước mà hễ có thứ hàng thật nào bán được, thì ngay tức khắc xuất hiện hàng nhái, hàng giả, khiến cho ta luôn có cảm giác bất an, khi ngày ngày phải đối mặt và sử dụng những thứ mà mình vừa bị móc túi, vừa có hại cho sức khoẻ, thậm chí còn cả nguy hiểm đến tính mạng, vì không chỉ hàng ăn uống, may mặc, tiêu dùng, mà ngay cả các dược phẩm cũng chẳng được tha.
Phơi bày bộ mặt thật, lột mặt nạ, dấu đầu hở đuôi, cái kim để trong bị lâu ngày cũng lòi ra, v.v... là những thành ngữ ca dao để khẳng định rằng: người ta chỉ có thể giữ bí mật, khi không làm gì bí mật – nhất là không làm gì sai trái – bởi vì sớm hay muộn, sự thật sẽ được đem ra ánh sáng. Các văn bản xưa nay tưởng sẽ vĩnh viễn chôn vùi trong các thư khố kín mít với những bí mật lớn lao của thời đại chúng, nhưng rồi người ta đòi hỏi chúng phải được trình ra cho công luận, sau một thời gian quy ước khả dĩ không gây nguy hại cho những người hoặc những bên liên quan.
Những gì người ta tưởng “sống để bụng, chết mang theo”, cũng dần dà được công khai hoá trước bàn dân thiên hạ. Khi mà những ngôi mộ cổ trong các Kim Tự tháp ở Ai Cập, ở Chi-lê, ở Trung Hoa, sau bao ngàn năm tránh được bàn tay của người trần, của bọn trộm đạo, thì nay cũng dần dà được khai quật, nghiên cứu. Có thể nói không sai lắm, rằng đó cũng là những cuộc ”hiển dung”, khi sự thật được phơi bày: có những sự thật minh oan, nhưng có những sự thật làm thay đổi suy nghĩ theo hướng tiêu cực về một con người, một sự kiện xưa nay chưa rõ ràng hoặc nhìn nhận sai lầm. Vậy, ý nghĩa Chúa Giê-su Hiển Dung hôm nay có thể hiểu như vậy chăng ? Xin thưa ngay: CÓ và KHÔNG !
Nếu như trò ảo thuật có mục đích đánh lừa thị giác người xem, thì “hiển dung” lại từ thị giác con người mà giúp nhìn ra và xác tín vào sự thật. Không ai hiển dung cho vui hoặc để biểu diễn: Chúa Giê-su cũng không nằm ngoại lệ. Mỗi lần “hiển dung”, Chúa Giê-su đều có mục đích làm mở mắt, xác nhận hoặc củng cố Đức Tin cho các môn đệ. Ngôi Hai Thiên Chúa đã một lần hiển dung nơi máng cỏ Bê-lem và rõ ràng là... thất bại, vì người ta có thể tạm chấp nhận một vị thần linh “đầu thai” thành một quân vương hay chí ít là một bậc thánh nhân nơi dương thế, chứ từ cái cao quang vô cùng để thành cái hèn hạ vô song, thì chỉ có Đức Tin mới chấp nhận được, nhưng khi Mầu Nhiệm Nhập Thể xảy đến, nếu xét Đức Tin theo đúng nghĩa, thì chỉ có Đức Ma-ri-a và Thánh Cả Giu-se. “Sai lầm” – nếu gọi được đó là “sai lầm” theo tiêu chí nhân loại – thì Chúa Giê-su sẽ còn phạm một “sai lầm chết người” nữa, khi có thêm một cuộc “hiển dung” vô cùng tệ hại xảy ra ở Mầu Nhiệm Thương Khó, như chính các ngôn sứ mô tả trong “bài ca Người Tôi Tớ của Thiên Chúa”.
Và Chúa Giê-su đã phải hai lần “sửa sai”: lần cuối cùng, là bằng chính Mầu Nhiệm Phục Sinh, khi Người cho thấy bản thể của Người: hằng hữu, vinh quang, quyền năng. Và hôm nay, ở lần “sửa sai” đầu tiên ở trên núi Ta-bo, Chúa Giê-su cho ba môn đệ thấy một phần vinh quang thật của Người ( và cũng sẽ là dành cho các ông, cho chúng ta ).
Ngoài tính chất thiêng liêng, thì Giáo Hội còn là một thực thể tồn tại và phát triển ở giữa thế gian, với những thăng trầm như bao cơ cấu, tổ chức khác trong lịch sử. Theo gương Thầy Chí Thánh, Giáo Hội cũng phải “hiển dung”, nghĩa là hằng ngày, hằng giờ phải làm sao để hình ảnh Chúa Ki-tô, Đầu của Giáo Hội được mọi người nhận ra, hay chí ít cũng là cảm nhận được.
Cho đến nay, đã bao phen hình ảnh Giáo Hội bị làm cho hoen ố, có khi còn bị dìm tận đáy bùn nhơ và những cuộc “hiển dung” chẳng được mong đợi ấy đã để lại dư âm lâu dài cùng vô vàn hệ quả: chia rẽ, bè phái, mất Đức Tin v.v... vẫn tồn tại đến ngày nay và có chiều hướng gia tăng. Cha ông ta vẫn thường dạy: làm trăm điều tốt không mấy ai hay, nhưng chỉ cần một điều xấu thì mọi người đều rõ. Khi là trung tâm cho mọi đích ngắm, phê phán và cả những mưu toan đả kích, bôi nhọ, phá hoại, thì mọi cuộc “hiển dung” của Giáo Hội đều không nhỏ và không thể khinh xuất.
Trong cái nhìn Đức Tin, chúng ta cảm tạ Chúa Nhân Lành và có quyền hãnh diện, vì tất cả các Chủ Chăn Giáo Hội suốt thế kỷ 20 cho đến nay đều là những vị Thánh, không chỉ nổi trội về nhân đức, mà còn xuất chúng về khôn ngoan và sáng suốt. Nhưng Giáo Hội không chỉ có các Vị Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, mà còn – và chủ yếu – là Giáo Dân. Vì vậy, không thể lơ là bỏ qua việc “hiển dung” sát sao nhất với thế gian và thế nhân này, mà Chúa Giê-su đã lột tả bằng hình ảnh “men bột” và “muối đất”. Và ở nơi đây, ”hồn Trương Ba” thì ít, mà “da hàng thịt” lại đầy dãy.
Ở Trung Quốc có loại hình nghệ thuật “Biến Diện” bí truyền mà vừa qua nhiều giới muốn xếp vào hàng “bí mật quốc gia, cấm phổ biến tràn lan”: đó là nghệ thuật chuyển mặt nạ ! Diễn viên thượng thặng có thể thay hằng chục chiếc mặt nạ trong một pha diễn có khi chỉ kéo dài một vài phút: có mặt nạ nhìn dễ mến, phúc hậu như của Ông Thiện, song cũng có những mặt nạ trông thật dữ tợn, đe doạ hoặc toát lên sự độc ác, xấu xa, giống như Ông Ác. Một cách nào đó, người Ki-tô hữu cũng phải phải liên tục soi gương lòng mình, để xem bộ mặt chúng ta “hiển dung” với anh em, với tha nhân là loại mặt nạ nào; có phản ảnh ánh sáng chân lý và tình thương của Thiên Chúa, hay là khiến cho người ta sợ hãi, chán ngán và tránh xa Tin Mừng và Giáo Hội ?
Người Ki-tô hữu không thay lòng đổi dạ như diễn viên thay mặt nạ, nhưng biết “hiển dung” tâm tình chia sẻ chân thành với cả kẻ khóc, người cười, biết cảm thông với anh em lỗi lầm và tha thứ cho những người “có nợ với chúng con”. Một cách tích cực hơn, ấy là “hiển dung” với tấm lòng quảng đại, bái ái với hết mọi anh em nghèo khó, bất hạnh về cả vật chất lẫn tinh thần. Khi vào đời, chúng ta đã được Chúa cho “hiển dung” sáng láng như các Thiên Thần qua Bí Tích Thanh Tẩy, thì khi sống giữa đời, Chúa cũng ban cho chúng ta Bí Tích Hoà Giải, để chúng ta luôn có thể “hiển dung” với bộ mặt thật của một Người Mang Chúa Ki-tô trong mình và Mang Chúa Ki-tô đến cho tha nhân.
Bài ca Chúa muốn con hát hôm nay, mang ý nghĩa một lời khích lệ, nhưng cũng là một lời cảnh cáo: nếu qua ân sủng và các Bí Tích, chúng con có khả năng nên giống Chúa ( nghĩa là SỐNG ĐỨC TIN ) và có thể hiển dung cho tha nhân với hình dáng và tâm hồn như Chúa Giê-su ( tức là TRUYỀN GIÁO ), thì cũng rất có khả năng do tội lỗi, với cuộc sống ích kỷ, tham lam tiền tài và dục vọng, chúng con mang hình ảnh hoả ngục và hiển dung cho tha nhân như hiện thân của ma quỷ.
Nên giống Chúa, vì vậy, là Ơn Gọi, là Bổn Phận, trước khi trở thành Sứ Mệnh, để cuối cùng là Bản Chất. Nên giống Chúa, vì vậy, không bao giờ là “số mệnh an bài” cho bất cứ ai, kể cả là những người được thanh tẩy nhờ Bí Tích Rửa Tội hoặc cho một số người đã được “định sẵn” như niềm tin sai lầm của phái Jansenius và đã bị Giáo Hội kết án ( mà tượng trưng là hai tay Chúa Giê-su giơ thẳng lên trờI trên thập giá – ý chỉ rằng chỉ có một số người được cứu rỗi – thay vì hai tay Chúa giang rộng ra, như Thánh Giá chúng ta vẫn tôn thờ – để nói rằng ơn cứu độ dành cho hết mọi người thiện tâm ).
CÁ NHÂN CON đã – đang và sẽ hiển dung với anh em ra sao ? Có khi nào với bộ mặt lem luốc hoen ố tội tình, dục vọng, hèn nhát, ích kỷ ? Có khi nào như một dạng... “dead man”, vẫn sống – ăn – uống – đi đứng – nói năng – kể cả vẫn biểu hiện nhiều thứ tình cảm, song chẳng khác nào người đã chết rồi: những cái ấy không sinh ích gì cho con, chẳng nên ích gì cho ai ! Tiếng Anh có câu thán tự thật hay: Poor me ! Tội nghiệp cho tôi ! “Nghèo” quá, trống rỗng đến đáng thương !
Ngoài dáng vẻ phô trương bên ngoài, nội tâm nghèo nàn đến chạnh lòng. “Hồn Trương Ba” có nhập đến mấy lần vào “da hàng thịt”, thì cũng chẳng thể nào đổi thay được anh hàng thịt thành ông Trương Ba. Nhưng khi ăn uống Thịt và Máu Chúa, sống Lời Chúa, thì con sẽ được biến cải để cuộc sống mà con “hiển dung” cho thế gian, trong thế gian, chính là Lời Ca Yêu Thương mà Chúa hát cho nhân loại từ ngàn xưa cho mãi đến thiên thu vạn đại.
CVK. NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 08
Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng: TN 18-B38
Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên đã trở nên giàu có. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, ông muốn trao phó cơ nghiệp cho người con nào thông minh nhất. Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.
Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn. Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt. Còn người con thứ ba, nghĩ mãi nghĩ hoài mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay. Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.
Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha. Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà. Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi. Giữa lúc người cha đang thất vọng thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng. Người cha mỉm cười, đắc ý về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.
*****
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan. Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.
Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống… Thế nhưng dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa. Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không? Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng: Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.
Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.
Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến do người con út thắp lên đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng.
Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó mà con người mới thực sự được hạnh phúc.
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng: TN 18-B39
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giê-su để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giê-su. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó? 2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không? 3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc: TN 18-B40
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc âm thứ tư. Thánh Gioan đã chuyển những gì Đức Giêsu đã nói trước các thính giả kém cỏi hơn thành những dòng chữ cho thích hợp với các độc giả cuối thế kỷ I. thực tế, những gì Thánh Gioan kể lại, là do Đức Giêsu đã nói thật sự, nhưng với từ ngữ, những công thức, những ráp nối được Thánh Gioan viết lại. Thánh Gioan đã trung thành chuyển đạt lời rao giảng của Đức Giêsu, vì ngài đã viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nhưng chuyển đạt không phải bằng cách thức thâu phát băng nhựa. Với tư cách là một môn đệ trung thành đã suy nghĩ nhiều, ngài đã tiêu hóa lời giảng dạy của Thầy, rồi ngài truyền đạt lại lời giảng dạy này xuyên qua những từ ngữ của riêng ngài, cách thức ngài diễn tả, lề-lối ngài suy tư. Tóm lại ngài vừa là chứng nhân, vừa là người được linh ứng.
Bài giảng về bánh sự sống trình bày ý nghĩa tiềm ẩn trong phép lạ bánh hoá nhiều Đức Giêsu đã muốn cho một dấu hiệu. Ngài đã quyết định làm một công việc với ý muốn chứng minh rằng chính Chúa Cha đã làm công việc này xuyên qua Ngài. Như thế Ngài muốn cho thấy chính Ngài là Đấng đem lại sự sống vĩnh cửu cũng như của ăn cần thiết cho đời sống ấy. Sau Phục Sinh, các Kitô hữu sẽ hiểu rằng của ăn này, bánh sự sống này là Thánh Thể.
Không nhấn mạnh đến lối giải thích Thánh Thể về đoạn văn này, chúng ta hãy xem điều được trình bày như là 1 lời mời gọi chúng ta tin.
1) ‘Chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực’.
Người Do thái vừa mới nhắc đến bánh man-na từ trời xuống. Đức Giêsu lợi dụng cơ hội để cho thấy việc ban bánh man-na kia nay đã bị vượt qua bằng một ơn huệ cao cả hơn vô cùng. Từ một của ăn thuần tuý thể xác, nay người ta đến một của ăn thiêng liêng, của ăn đem lại sự sống đời đời. Bánh từ trời xuống, không phải chỉ là cái gì vật chất. Bánh này là Đấng Chúa Cha ban cho nhân loại, chính là Đức Giêsu Ngài không đến qua trung gian Môsê, Ngài trực tiếp là hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đến để ban sự sống cho thế gian và Ngài thật sự là của ăn cho đời sống ấy.
Đời sống thâm sâu của ta làm bằng gì? Của ăn của nó là gì? Chúng ta sống nhờ các sự vật hay nhờ một Con Người? Chân lý của chúng ta là một tổng hợp các ý tưởng hay là một sự dẫn thân cho Đức Giêsu Kitô?
2) ‘Chính Ta là bánh sự sống’.
Trong phúc âm Thánh Gioan, Đức Giêsu đã nhiều lần nói ‘Ta là’. Ngài nói: ‘Ta là ánh sáng, là kẻ chăn chiên nhân lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và là sự sống, là cây nho đích thật’. Tất cả những chỉ dẫn trên dưới con mắt của người Do thái đều có giá trị ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng chính Ngài, hôm nay là ơn huệ đích thật và vĩnh viễn của TC.
Khi nói: ‘Ta là bánh sự sống, chỉ một mình Ta là bánh sự sống’. Đức Giêsu biết Ngài sẽ gây ra việc hiểu lầm, cứng lòng tin và ngay cả sự vấp phạm. Thật vậy, cách nói ‘Ta là’ khi nói đến bánh sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng các thính giả Do thái một ý tưởng tuyệt đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể nói ‘Ta là’. Con người chỉ có thể nói: tôi là người này, người nọ, nhưng không ai có thể nói: Ta là bánh, là ánh sáng, là sự thật, là sự sống. Nhưng đó lại là điều Đức Giêsu làm. Một quả quyết như thế gây ra vấp phạm hoặc niềm tin. Chúng ta được may mắn thuộc thành phần những kẻ đáp lại bằng niềm tin.
Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến: TN 18-B41
Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bạn, anh kẻ rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.
Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những điều phiền muộn, những gian nan và những khổ đau hàng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người cha trong câu chuyện nói với con mình “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.
Thánh Thể là bánh từ trên trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.
Không có phù phép trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng tấm bánh mẹ chàng nướng gói ghém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây, trong giờ này.
Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu Ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh Thể chúng ta dùng cũng những lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh Thể Chúa ban trong giờ phút này.
“Chúa đã cho họ bánh bởi trời”
“Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn và Người cho họ bánh bởi trời”.
Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối.
Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: “Thánh Thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”.
Đám đông dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ. Vào thời Chúa Giêsu, người ta không cần mở: TN 18-B42
Đám đông dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ. Vào thời Chúa Giêsu, người ta không cần mở cửa văn phòng theo một giờ nhất định. Họ có thì giờ chờ Chúa Giêsu trở lại với họ, họ chờ vì họ thấy chiếc thuyền các môn đệ chèo đi không có Chúa trong đó nên họ kết luận rằng Chúa Giêsu phải ở gần đây thôi. Chờ đợi một lúc, họ mới biết Chúa không trở lại. Trong vịnh gần đó, có mấy chiếc thuyền nhỏ từ Tibêria đến đậu lại, chắc là tìm chỗ ẩn nấp cơn giông qua đêm. Thế là dân chúng lên các thuyền ấy, vượt biển hồ để trở qua Caphacnaum.
Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy Chúa ở đó rồi. Họ hỏi Ngài đến đó bao giờ. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi ấy. Đây không phải là lúc để trò chuyện về những việc như vậy. Đời sống thật ngắn ngủi, không có thì giờ để tán gẫu về những chuyến đi. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Ngài phán “Các ngươi đã chứng kiến những việc lạ lùng, các ngươi đã thấy ân sủng của Thiên Chúa có thể làm cho cả một đoàn dân đông đảo được ăn no, đáng lẽ tâm trí các ngươi phải suy nghĩ về Thiên Chúa là Đấng đã làm những việc ấy, nhưng thay vào đó, các ngươi lại chỉ nghĩ đến bánh. Dường như Chúa Giêsu có ý nói “Các ngươi chỉ biết đến cái bụng nên không thể nghĩ đến linh hồn mình”.
Chrysostom đã nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ ngước cao hơn bức tường thành của thế gian, chẳng biết phóng tầm mắt đến chân trời của cõi đời đời. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen, bấy giờ đã khuya lắm, ngoài trời tối đen, hai người đến gần khung cửa, trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu kim, nhấp nháy sáng. Mắt của Nã Phá Luân thì tinh, còn mặt bạn ông đã mờ. Nã Phá Luân chỉ lên trời hỏi: “Anh có thấy các ngôi sao ấy không?”. Người bạn đáp: “Tôi không thấy”, Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi với anh”. Người bị buộc chặt vào thế gian chỉ sống được phân nửa đời sống. Chỉ những ai có tầm mắt nhìn xa thấy rộng, nhìn ra các vùng trời xa xăm và thấy được các vì sao mới là người thật sự sống.
Chúa Giêsu dạy bằng một câu nói ngắn gọn: “Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn còn lại đến sự sống đời đời”. Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia đã nêu cùng một câu hỏi như vậy: “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Is 55,2). Có hai thứ đói, đói thể xác mà thực phẩm vật chất có thể thỏa mãn được. Một người có thể giàu như Croesus mà vẫn thấy thiếu một cái gì trong đời.
Sau năm 60 SC, xã hội Roma sống trong xa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ, người Roma đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi, người ta ăn uống cho nôn mửa giữa hai bàn ăn, để lần sau thấy ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thông thường. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và dính nhiều châu ngọc trị giá tương đuơng 432.000 Anh kim. Nguyên do của những phung phí đó là sự bất mãn sâu xa, sự đói khát không gì thỏa mãn được. Họ tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có được một rung động mới, hương vị mới, vì họ vừa giàu có nhưng lại vừa đói khát vô cùng.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến thỏa mãn thể xác. Họ đã được đãi ăn một bữa dư dật, và họ muốn được ăn nữa. Nhưng có nhiều thứ đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người. Đó là đói tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn sự đói khát không xoa dịu được của tâm linh con người.
Tại sao Ngài làm được điều đó? Có rất nhiều ý nghĩa qua câu “Bởi vì Thiên Chúa Cha đã đóng dấu trên Ngài”. Trong quyển Phong Tục Phương Đông Tại Xứ Thánh, H. B. Tristam cho biết vài điều thú vị về chiếc ấn trong thế giới cổ. Bên Phương Đông không phải là chữ ký mà là dấu ấn mới có giá trị. Các tài liệu chính trị và thương mại có giá trị khi được in bằng dấu trên mặt nhẫn. Dấu ấn chứng thực cho một bản di chúc, dấu ấn trên miệng bao hay thùng bảo đảm cho vật đựng bên trong. Tristam kể rằng đến người nghèo nhất cũng sử dụng chiếc ấn để chứng thực. Trong những chuyến du hành của ông, khi ký hợp đồng với những người cho thuê lừa, ngựa hoặc khuân vác, họ cũng đóng dấu của họ vào đó để xác nhận rằng họ bắt buộc phải tôn trọng và đồng ý như vậy. Ấn được làm bằng đất nung, kim khí hay kim cương. Trong bảo tàng viện Anh quốc, hầu như có đủ các chiến ấn của của vua Assyri. Dấu ấn được in lên đất sét và miếng đất được gắn vào tài liệu. Nhiều khi tài liệu đã mục nát từ lâu nhưng dấu ấn vẫn còn đó, nếu không có nó thì tài liệu vô giá trị.
Người Pharisêu có câu tục ngữ “Dấu ấn của Thiên Chúa là chân lý”. Kinh Talmud chép “Ngày nọ một đại hội các chuyên gia về luật Do Thái đang hội họp đông đảo, họ cùng nhau khóc lóc cầu nguyện, kiêng ăn, bỗng một cuốn sách nhỏ từ trên trời rơi xuống giữa họ. Họ mở cuốn sách ra, trong đó chỉ có một chữ Ameth, nghĩa là chân lý, cho nên các Pharisêu nói “đó là dấu ấn của Chúa”. Ameth do ba mẫu tự Hy Lạp chép lại: aleph là chữ đầu trong mẫu tự, min là chữ chính giữa, tau là chữ cuối cùng. Chân lý của Thiên Chúa là bắt đầu, chính giữa và kết thúc của đời sống.
Chính vì thế mà chỉ Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Ngài được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm thỏa mãn cơn đói của tâm linh do chính Ngài tạo nên.
VIỆC LÀM DUY NHẤT (Ga 6, 28-29)
Khi Chúa Giêsu nói đến công việc của Thiên Chúa, người Do Thái nghĩ ngay đến việc lành, làm phước. Người Do Thái tin một người sống tốt lành thì được thưởng ân huệ của Thiên Chúa. Họ chủ trương loài người được chia thành ba hạng: người ngay lành, người xấu xa và người ở giữa hai hạng người đó. Nếu người hạng ba biết làm thêm chỉ một việc lành nữa, thì có thể được chuyển sang hạng người ngay lành. Nên khi hỏi Chúa Giêsu công việc của Thiên Chúa là gì, họ mong Ngài đưa ra các bản liệt kê những gì họ phải làm, nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn không nói đến điều đó.
Chúa trả lời rất cô đọng, nên chúng ta cần phải khai triển và tìm xem những nghĩa nào trong đó. Chúa Giêsu dạy công việc của Thiên Chúa muốn loài người làm là tin Đấng đã được Ngài sai đến. Phaolô cũng đưa chúng ta vào thời điểm đó: Công việc duy nhất mà Thiên Chúa muốn loài người làm là đức tin. Đức tin là gì? Đức tin chính là “mối liên hệ với Thiên Chúa”, đến độ chúng ta trở thành bạn thân của Ngài, không còn sợ hãi Ngài nữa, nhưng xem Ngài là Cha và là bạn thân thiết, đến nỗi chúng ta tin cậy, vâng lời, phục tùng Ngài cách tự nhiên do mối liên hệ mới mẻ đó. Vậy, tin Chúa Giêsu có liên hệ với việc đó như thế nào? Chúng ta chẳng bao giờ biết được Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu không đến, sống và chịu chết để dạy mỗi người chúng ta biết điều đó. Chính nhờ Chúa Giêsu đã đến, qua Ngài chúng ta biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, yêu thương chăm sóc chúng ta, chẳng muốn gì khác hơn là tha thứ cho chúng ta, để sự xa lạ, khoảng cách thù nghịch và nghi ngờ Thiên Chúa không còn nữa, và chúng ta có được mối liên hệ với Ngài.
Một lối sống xuất phát từ mối liên hệ mới đó. Khi đã biết Thiên Chúa thế nào, thì đời sống chúng ta phải phù hợp với những gì mình biết về Ngài. Chúng ta phải đáp ứng theo ba hướng, mỗi hướng đều phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã dạy về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế đời sống chúng ta phải biết thương yêu và phục vụ tha nhân, phù hợp với tình yêu và sự phục vụ của Thiên Chúa, tha thứ cho người khác, phù hợp với sự tha thứ của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa là thánh thiện. Do đó, đời sống chúng ta phải thánh thiện, phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
3. Thiên Chúa là khôn ngoan. Do đó đời sống chúng ta phải kính phục và tin cậy hoàn toàn, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy tất cả căn bản của đời sống Kitô hữu ở trong mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa, do Thiên Chúa khởi xướng, một liên hệ chỉ thực hiện được nhờ mặc khải về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, mối liên hệ xuất phát từ phục vụ, lòng thanh sạch và tin cậy, vốn là tấm gương phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là công việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm và giúp chúng ta đủ khả năng để thực hiện.
ĐÒI HỎI MỘT DẤU LẠ (Ga 6, 30-34)
Đến đây, phần lý luận trở thành đặc biệt có tính cách Do Thái trong ngôn ngữ, cách giả dụ và nói bóng. Chúa Giêsu vừa đưa ra một lời tuyên xưng quan trọng, Ngài bảo rằng công việc đích thực Thiên Chúa muốn họ làm là tin Ngài. Người Do Thái nói: “Hay lắm, quả thật đây là lời tự xưng mình là Đấng Mêsia, vậy ông hãy chứng minh đi”.
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa (Tv 78,24; Xh 16,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được coi là công việc tối quan trọng trong cuộc sống của Môsê, mà Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa. “Vị cứu tinh đầu tiên thế nào, thì vị cuối cùng cũng phải như thế: vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời xuống thế nào, thì vị sau cùng phải khiến được manna từ trời xuống như vậy”. “Các người không thể tìm manna trong đời này, nhưng sẽ tìm thấy manna trong thời sắp tới”. “Manna đã được chuẩn bị cho ai? Cho người công chính của thời sắp tới, mỗi người đều tin, đều xứng đáng được ăn bánh ấy”. Người ta tin có một bình manna được giấu kín trong hòm Giao Ước đặt trong ngôi Đền Thờ đầu tiên. Khi Đền Thờ bị phá hủy, Giêrêmia đã đem giấu đi. Khi Đấng Mêsia đến, dân chúng sẽ được thấy lại manna. Nói cách khác, dân Do Thái đang thách thức Chúa Giêsu hãy khiến bánh từ Thiên Chúa xuống để hậu thuẫn cho những lời tự xưng của Ngài. Họ không chịu xem số bánh năm ngàn người vừa ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Theo họ, manna phải khác hẳn và đó là trắc nghiệm cho Chúa Giêsu Kitô.
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý nhưng là sự sống. Chúa Giêsu tuyên bố sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội: TN 18-B43
Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.
Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.
CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)
Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).
1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31). Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26) Lương thực trường tồn (c. 27) Được Con Người ban cho (c. 27) Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Ăn bánh no nê Lương thực mau hư nát Công việc nào? Tổ tiên chúng tôi
Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.
Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.
2. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)
Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32) Bánh đích thực bởi trời Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33) Bánh đem lại sự sống cho thế gian. Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)
Mặc khải:
Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35) Ai đến với Tôi không hề phải đói Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37) Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39) Sự cứng lòng không chịu tin: Thấy mà không tin (c. 36) Xầm xì (c. 41) Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42) Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống Bánh Tôi sẽ ban tặng... Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh: TN 18-B44
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa "trên bờ bên kia". Do đó một diễn từ dài về "Bánh hằng sống" sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.
Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: "Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).
Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.
Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê".
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước... Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những "dấu chỉ của nước trời" mà là những "lợi lộc vật chất" họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít "duy vật" hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu "giải gỡ" những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những "dấu chỉ gây rtgỡ ngàng" của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường "lương thực hằng ngày" nhưng hãy ao ước "Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta "làm việc" cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em... Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.
Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. "Anh em hãy tin". Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người .
Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời". Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực".
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó... Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ "man-na" đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng "bú mút": Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.
Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói "Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng". Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: "Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa". Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.
“Bánh từ trời xuống" đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của "quà tặng từ trên cao", "lương thực bởi trời". Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen "tin tưởng" vào Chúa: "Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: "Bánh vật chất" không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, "Đấng Kitô" của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.
Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh".
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
- A-mốt 8,11: "Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa".
- Giêrêmia 15,16: "Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
- Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.
Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao...
1) Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn: TN 18-B45
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ Người xuống thuyền đi sang "bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.
Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): "Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho" ("Lecture de l'evangile de Jean", cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải "làm việc" để kiếm tìm.
Ngộ nhận mới do những từ ngữ "làm", "những việc" gợi lên. Dân chúng hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.
Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua "những việc" (số nhiều) để nghĩ đến "Việc Thiên Chúa" (số ít): bởi lẽ "việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
2. Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: "Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào" (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Apraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: "Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
+ Người ban manna, "bánh bởi trời" không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là "Cha" của Người.
+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. An huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: "Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc" (hồi ức) và khao khát "được ăn mãi thứ bánh ấy" (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể" (OC. trang 137).
+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống" không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.
-"Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy", dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15) .
- Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ "chính tôi đây là bánh trường sinh", bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. "Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy" (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến" với Người và “tin" vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: "Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị"
(R. Josse trong "Célébrer" tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.
Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.
Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
2) "Lương thực đích thực"
(Đức Cha L. Daloz, trong "Nous avons vu sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 81-82).
"Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến". Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác...
Họ không muốn dấn thân: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: "Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".
Thiên Chúa đã niêm ấn": Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành: TN 18-B46
“Thiên Chúa đã niêm ấn": Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành vi qua đó Thiên Chúa bảo đảm rằng sứ mệnh Người là đích thực (3,33) và nhân loại có thể nhờ Người mà chiếm được sự sống vĩnh cửu. Một vài nhà chú giải coi công thức "niêm ấn" là một ám chỉ đến phép rửa của Chúa Giêsu, vì họ thấy cùng từ ngữ đó được dùng trong thần học phép Rửa tội (x. Ep 1, 13; 4,30; Kh 7,3-4).
"Công việc của Thiên Chúa ... là các người tin vào Đấng Ngài đã sai đến": Gioan sử dụng, bằng cách nhuận sắc lại một thành ngữ của Phaolô (Rm 3,18) và duy nhất hóa tất cả thái độ của Kitô hữu thành đức tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
"Vậy thì ông làm dấu chỉ gì để chúng tôi thấy mà tin ông": Lời yêu cầu này không có đáp trả, bởi vì không thể đáp trả Chẳng một dấu chỉ nào có thể minh chứng (mặc dầu nhiều dấu chỉ gợi lên cho thấy) Chúa Giêsu là sứ giả Thiên Chúa sai. Một bằng chứng có tính cách ép buộc bất thành hóa công việc của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu. Ở đây những người đối thoại với Chúa Giêsu bắt đức tin lệ thuộc việc chứng kiến những điềm lạ vĩ đại; theo họ, Đấng Thiên sai phải hoàn tất được nhiều phép lạ trổi vượt các phép lạ mà Israel xưa từng mục kích (x. Mc 8,11; Mt 16,1; 12,38), đặc biệt những phép lạ thời Xuất hành. "Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời xuống": Việc ban manna hằng ngày trong sa mạc đã được nhiều tiến sĩ luật xem như là dấu lạ lớn nhất của thời Xuất Hành (Xh 16, 15; Ds 11,7; 21,5; Đn 8,3; Kn 16,20; ở đây, Gioan trích dẫn Tv 78,24.
KẾT LUẬN
Một lần nữa, Chúa Giêsu đưa thính giả của Người trở lại mầu nhiệm Con Người (c.27), nghĩa là nghĩ đến nhân vật thần thiêng mà Đanien đã thấy bên cạnh Thiên Chúa (Đn 7,13-14), nhân vật của tương lai thiên sai. Đến từ trời, Con Người, tức Chúa Giêsu, sẽ là sứ giả đích thực của Cha, được thánh hiến để thi hành sứ mệnh và được xác nhận qua các phép lạ của Người. Hơn hẳn Môisen trong các dấu lạ cũng như trong chính bản thân (c.32), Người sẽ phát ban một thứ lương thực siêu nhiên cho những kẻ theo Người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
"Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (c.27). Y như nước luôn múc từ giếng không làm giảm cơn khát của người đàn bà xứ Samaria (4,13), thì "lương thực hay hư nát" cũng chẳng có sức làm chúng ta no thỏa, bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống lâu dài và đích thực; vì một khi ăn vào, nó liền bị tiêu hóa và cuối cùng duy trì tính háu ăn của ta, nhận chìm chúng ta vào sự lệ thuộc bắt buộc, bất lực, tha hóa của khát vọng không bao giờ nguôi, của lòng ao ước đưa tới thất vọng vì sự chết. Của ăn trần thế, cho dù thú vị nhất thời đến đâu vẫn không thể làm no thỏa tâm hồn của con người. Thay vì cố gắng đổ đầy túi thèm khát vô đáy của xác thịt, chúng ta phải "ra công làm việc vì thức ăn lưu lại mãi đến sự sống vĩnh cửu, nghĩa là thức ăn biến đổi chúng ta nên những con người sống chính cuộc sống của Thiên Chúa và hiệp thông vào nguồn phát sinh không bao giờ cạn của Người. Lúc đó niềm ao ước và cơn đói khát của chúng ta sẽ không còn ám ảnh chúng ta nữa; và thay vì lo lắng thái quá cho việc sinh nhai (x. Mt 6,25tt), chúng ta sẽ "đói khát sự công chính" (Mt 5,6), sẽ tìm được của ăn là làm theo ý Thiên Chúa chúng ta (Ga 4,34).
2) "Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa” (câu 28). Câu hỏi xem ra nói lên thiện chí của những người đối thoại với Chúa Giêsu. Nhưng theo văn mạch, nó thật là hàm hồ để được "ăn no nê" (c.26), người ta tỏ ra sẵn sàng đặt một giá nào đó; những công việc tốt họ sẽ thực thi làm cho họ xứng đáng ăn bánh bởi trời, họ tưởng như vậy. Đó là phản ứng thuần bản năng của tôn giáo loài người trong việc "bán buôn" với Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận làm tròn mọi điều kiện Ngài đặt ra, miễn là về phía Ngài, Ngài bảo đảm lợi ích cho chúng ta.
3) Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến lối tiểu xảo đó "Công việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Đấng Ngài đã sai" (câu 29). Người đảo ngược viễn tượng: không còn vấn đề các công việc của chúng ta, việc mặc cả thô bỉ của chúng ta với Thiên Chúa nữa, nhưng là công việc mà Thiên Chúa hoàn thành trong chúng ta: đức tin vào Đấng Ngài sai đến. Điều này đòi hỏi ở chúng ta một cái gì khác hơn điều chúng ta đã dự liệu: không còn là một cái tối thiểu khiến chúng ta nên sòng phẳng một cách rẻ tiền, cũng chẳng là những dấu lạ nhân đức làm cho Thiên Chúa trở thành người mắc nợ chúng ta, song là việc cởi mở đón nhận hoạt động của Ngài, hoạt động biến đổi chúng ta tự căn để, làm ta trở về với Chúa Giêsu và đem chúng ta vào trường học của Người. Để Thiên Chúa xâm nhập như thế vào đời sống chúng ta và ra công làm việc, điều đó làm chúng ta sợ hãi, Để biện minh cho sự thối lui trước đòi hỏi này, chúng ta dùng một chiến thuật để câu giờ và đặt một điều kiện mới: "Vậy thì Ngài làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm việc chi?" (x. c.30). Trong lúc Chúa Giêsu vừa hoàn thành một dấu chỉ, thì chúng ta muốn ép Người làm nhiều phép lạ càng lúc càng kỳ diệu hơn để chúng ta trơ trẽn lợi dụng. Thật ra, chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta luôn bị cám dỗ từ chối tin vào Ngài. Chúng ta luôn đòi hỏi những bằng cớ chứng minh sự hiện hữu và hoạt dộng của Ngài trong thế gian, những bằng cớ buộc chúng ta tin từ bên ngoài, trong lúc Thiên Chúa lại ưa nói cùng chúng ta từ bên trong bằng những dấu chỉ kín đáo vốn để chúng ta được tự do từ chối lời mời gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được những người con tự do mến yêu, chứ không muốn những tên nô lệ sợ hãi thờ kính.
4. "Ai đến với Ta ..." (c.35). Đức tin bao hàm một bước tự ý, một sự dấn thân. Người ta không thể chỉ ngồi nhìn như khán giả say sưa hay phê bình những gì Chúa Giêsu làm và nói để rồi tùy cơ lợi dụng. Chúa Giêsu chỉ cho no thỏa hoàn toàn và dứt khoát những ai dám bước cái bước quyết định của đức tin. Kẻ tài tử thích nhìn người từ xa thôi sẽ luôn đói. Những ai "đến cùng Chúa Giêsu” sẽ được tràn đầy hoan lạc và an bình. Kẻ ấy sẽ khám phá hương vị đích thực của cuộc sống, là sống bình dị như con cái Thiên Chúa giữa đại gia đình nhân loại được tụ tập quanh Cha.
Ở bên Đức Gêsu, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận: TN 18-B47
Ở bên Đức Gêsu, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ bánh vô cùng quý giá hơn.
I. NgỮ cẢnh
“Sách các Dấu lạ” của Tin Mừng Gioan là từ ch. 2 đến ch. 12. Phân đoạn về “Bánh trường sinh” (6,1-71) là đề tài thứ ba của bảy đề tài thuộc “Sách” này. Sau truyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (6,1-15) là diễn từ về Bánh ban sự sống, trong đó đề tài được xác định ở cc. 35 và 51: “Chính tôi là bánh…”.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (cc. 24-27); 2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (cc. 28-29); 3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (cc. 30-33); 4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (cc. 34-35).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do-thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số nhiều của “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi qui định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Gioan đã sửa lại một chút một công thức của ông Phaolô (Rm 3,28) và thống nhất tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các Tin Mừng Nhất Lãm và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, Tin Mừng Gioan lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV, 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất hành (Xh 16,15; Ds 11,7; 21,5; Đnl 8,3; Kn 16,20). Ở đây, Gioan trích Tv 78,24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở nam tính, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): Tin Mừng Gioan nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Ngài (Xh 3,14; Hs 1,9;…). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là điều mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do-thái. Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất còn quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do-thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; 2,23-25) nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12); phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do-thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy về đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đúc tin” (trừu tượng), tác giả TM Gioan cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đạt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do-thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do-thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). Tin Mừng Gioan, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhạn về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Như chúng ta vẫn thấy, người Do-thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh sẽ từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Nhưng điều mà Đức Giêsu ban, thì Người ban một lần cho mãi mãi. Nhất là Người không ban một điều gì, mà Người ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất còn quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như sự Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề, Ngài không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn.Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa ản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưngsự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Ngài, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào… ? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Ngài. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
Trong bốn Chúa Nhật tiếp theo sau, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, phụng vụ đề: TN 18-B48
Trong bốn Chúa Nhật tiếp theo sau, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan: bài diễn từ của Đức Giê-su về bánh ban sự sống.
Xh 16: 2-4, 12-15
Các bài đọc I đều được chọn theo viễn cảnh nầy. Như vậy, vào Chúa Nhật nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy giứp dân Do thái sống còn trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư nầy, thánh Phao-lô mời gọi người Ki tô hữu đổi đời tận căn để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ bánh ban sự sống, vào ngày hôm sau của phép lạ bánh hóa nhiều.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình của dân Do thái trong hoang địa, nhưng cũng là bản phác thảo lộ trình tâm linh.
Hoang địa tự nó đã mặc khải chỗ ưu tiên cho phép dân khám phá kế hoạch của Thiên Chúa trên mình, nhưng cũng còn là nơi thử thách nữa.
1. Thử thách của hoang địa.
Để đạt đến Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để chận đứng mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang). Ông luôn luôn chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập: dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); bây giờ họ đi sâu vào trong sa mạc Xin trên đường tiến về sa mạc Xi-nai, ở đây họ lâm vào cảnh đói và khát.
Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh (thuật ngữ “cộng đồng” ở đây chỉ cho thấy rằng dân Ít-ra-en chưa là một quốc gia, nhưng mang nét đặc trưng của cộng đồng tôn giáo).
Bất chấp những kêu ca của dân, Thiên Chúa đáp trả bằng cách bày tỏ lòng từ bi nhân hậu của Ngài, nhưng đáp lại Ngài đòi hỏi ở nơi họ một niềm tin chứ không sự nghi nan ngờ vực: “các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi”.
2. Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành nầy tập hợp hai biến cố để cho thấy tấm lòng ân cần chăm sóc của Thiên Chúa: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na mưa xuống trên mặt đất. Thật ra hai biến cố nầy đã không xảy ra cùng một ngày. Ít ra sách Dân Số trong cùng một câu chuyện cho thấy điều nầy (Ds 11 cho thấy hai truyền thống được trộn lẫn với nhau; trong hai truyền thống, truyền thống Gia-vít chỉ kể ra hiện tượng bánh man-na).
Biến cố chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là đàn chim thiên di từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống rất dể tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất thành những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nối nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Chúng ta không thể tin rằng trong hoang địa dân Do thái được nuôi dưỡng chỉ bằng bánh man-na; họ còn sống bằng những sản phẩm từ đàn vật của họ và từ những ốc đảo. Nhưng bánh man-na đã là lương thực phụ thêm trong suốt cuộc lữ hành nầy.
Với tư cách là thiên ân, bánh man-na cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không”.
Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần từng ngày một”, mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Chúa (từ đó một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa, giữa bánh man-na và Lời Chúa).
Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Ngài khi dạy họ kinh “Lạy Cha”: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
3. Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường can dự vào thời điểm khó khăn, bánh man-na được truyền thống tôn giáo lý tưởng hóa và thần thiêng hóa. Rồi, nhà biên soạn sách Xuất Hành nói rằng “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn”. Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời đại thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Đối với thánh Phao-lô, theo cùng giải thích của truyền thống Cựu Ước, bánh man-na là thức ăn linh thiêng (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống nầy mà Đức Giê-su tham chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ của Ngài về bánh ban sự sống.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Tiếp theo sau phần đạo lý (ch. 1-3), mà chúng ta đã đọc nhiều trích đoạn, thánh Phao-lô gởi đến các tín hữu của ngài những lời khuyên luân lý: trước hết ngài kêu gọi hiệp nhất với nhau (chủ đề của bài đọc Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư hôm nay.
Để trở thành một người Ki tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ thị tổng quát:
- đừng ăn ở như dân ngoại; - học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống; - đổi đời tận căn và mặc lấy con người mới.
***********
1. Đừng ăn ở như dân ngoại.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các tín hữu trong các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ dân ngoại; nhưng lời khuyên dạy của thánh nhân cũng có giá trị đối với những tín hữu gốc Do thái giáo. Thư gởi cho tín hữu Rô-ma, như thư gởi cho các tín Cô-lô-sê, chứa đựng những cảnh giác tương tự.
Trước khi tiếp tục những khảo sát nầy, thánh nhân ngừng lại để nêu lên phẩm chất là người Ki tô hữu, đòi buộc phải thay đổi đời sống.
2. Học biết Đức Giê-su để mà sống như vậy.
Thánh nhân nhắc nhở cho các tín hữu giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su”, nghĩa là “thuộc về Đức Ki tô”. Cách dùng động từ “học biết” với túc từ chỉ người thì hiếm, nhưng ý nghĩa thật đặc biệt: là Ki tô hữu, chính là gắn bó không với đạo lý trừu tượng, nhưng với một con người, con người nầy chính là “sự thật hiện thân”.
3. Đổi đời tận căn và mặc lấy con người mới.
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình bằng cách tập hợp những lời khuyên của mình dưới ba mệnh lệnh:
Phải cỡi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; Phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; Phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về Phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới tận căn đời sống Ki tô hữu.
Phải cỡi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối.
Cuộc sống của người Ki tô hữu, nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, cho phép đổi mới tâm trí, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki tô giáo mở ra phía sự khôn ngoan cao vời.
Cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà Phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để sống theo sự công chính và thánh thiện đích thật”.
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trịch Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ của Đức Giê-su về bánh ban sự sống mà thánh Gioan xác định vào ngày hôm sau phép lạ bánh hóa nhiều.
Việc định vị biến cố thật là quan trọng; phép lạ bánh hóa nhiều đánh dấu đỉnh cao thừa tác vụ Ga-li-lê của Đức Giê-su. Khởi đi từ lúc nầy, thế phải chọn lựa sắp được nêu lên càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Ngài. Diễn từ về bánh ban sự sống là một trắc nghiệm có tính quyết định: nó mở ra giai đoạn hoặc quay lưng lại với Ngài mà ra đi hay khẳng định niềm tin của mình vào Ngài. Vì thế Đức Giê-su sắp nhấn mạnh, tiên vàn phải “tin” vào Ngài.
Bài diễn từ bắt đầu ở bên biển hồ Ghê-nê-sa-rét và chấm dứt ở trong hội đường Ca-phác-na-um.
1. Bối cảnh.
Vào buổi chiều phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Ngài thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy đi lên núi một mình, đoạn, giữa đêm Ngài đã đi trên Biển Hồ mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra đi một mình mà Đức Giê-su không cùng xuống thuyền đó cùng với họ (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền [6: 22]). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Ngài (6: 23).
Khi đến Ca-phác-nu-um, họ ngạc nhiên gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”. Câu hỏi mà họ nêu lên mang đến một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi; Ngài đề cập thẳng vấn đề căn bản: ý định nào hướng dẫn đám đông mong ước được gặp lại Ngài? “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định gấp đôi nầy (“Thật, tôi bảo thật”) đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá phàm trần: họ chỉ thấy ở nơi Ngài một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Lúc đó cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của nó, rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri.
2. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên Đức muốn họ biết rằng Ngài là một con người mầu nhiệm, Ngài có khả năng ban cho con người những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Trong nhiều trường hợp, lời hứa mầu nhiệm của Đấng chỉ tỏ mình ra một cách bí ẩn, nhưng ở đây – như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan – gợi lên mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha.
Những lời nầy gây ấn tượng trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Ngài lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”.
“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Đức Giê-su không muốn giản lược “những công việc” vào chỉ “đức tin”, nhưng những lời mà Ngài sắp công bố quá mạnh mẽ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Ngài không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Đức tin phải là thái độ đầu tiên mà Ngài đòi hỏi ở nơi họ.
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ Ngài và bắt bẻ Ngài: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ xứ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Với từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại bởi “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật và bằng cách đồng hóa bản thân của Ngài với bánh ban sự sống nầy.
Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su nói về “bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian”, trong khi bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác Ngài là Mô-sê mới nhưng cao vời vô tận trên ông Mô-sê.
Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy”; cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
3. Mở lòng ra trước mầu nhiệm.
Lúc đó, Đức Giê-su vén thêm một chút bức màn mầu nhiệm của Ngài: “Chính tôi là bánh ban sự sống”.
Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện công thức: “Chính tôi là” (lần thứ nhất, Đức Giê-su ngỏ lời với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” [theo sát nghĩa của từ: “Chính tôi là”: ego eimi] và lần thứ hai Đức Giê-su nói với các môn đệ kinh khiếp khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” [theo nghĩa văn tự: “Chính tôi là”: ego eimi]).
Công thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc ngữ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca, nhưng trái với gợi ý của sách nầy. Lời mà Sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến…Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21). Hiền nhân nầy muốn nói rằng ai nếm lương thực của sự khôn ngoan thì người ấy ước muốn mãi không thôi. Trái lại Đức Giê-su lập lại lời nầy và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là Ngài hứa những thiện hảo siêu nhiên làm mãn nguyện mọi cái đói và cái khát tâm linh.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:24-35)
Theo dõi cuốn phim bộ, chúng ta chờ đợi tới tập cuối để biết được kết cục câu chuyện ra sao. Sau TN 18-B49
Theo dõi cuốn phim bộ, chúng ta chờ đợi tới tập cuối để biết được kết cục câu chuyện ra sao. Sau cùng, chúng ta thở phào vì cái kết có hậu của cuốn phim. Cũng giống vậy, dân chúng đi theo Chúa Giê-su và muốn biết Người thực sự là ai. Họ đã chứng kiến Chúa làm những phép lạ chữa lành và trừ quỷ. Họ được ăn no nê nhờ phép lạ Người làm cho năm cái bánh và hai con cá hóa nhiều. Nhưng Chúa và các môn đệ âm thầm rời bỏ họ. Họ lại tiếp tục theo đuổi Người. Gặp lại họ, Chúa Giê-su nói cho họ biết đâu là lý do đích thực để họ đi tìm Người: tìm Người không phải vì sẽ được cơm no áo ấm, nhưng vì Người sẽ ban cho họ lương thực thiêng liêng đem lại hạnh phúc trường sinh. Tập cuối của câu chuyện đi tìm Chúa Giê-su không phải là để được no bụng, nhưng là để tin vào Người và được sống muôn đời.
Sứ điệp về sự sống đời đời chính là sứ điệp Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giê-su để thông báo cho nhân loại. Hôm nay Chúa Giê-su đã lợi dụng cơ hội dân chúng đi kiếm Người để nói cho họ biết về sứ điệp này. Người bảo họ rằng Người là “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” và điều này đã được Thiên Chúa Cha ghi dấu xác nhận. Đúng vậy, Thiên Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu khi Người nhận phép rửa của ông Gio-an Tẩy Giả. Chúa Cha cũng xác nhận điều ấy với ba tông đồ theo Chúa lên núi trong cuộc Hiển dung. Chúa Cha tiếp tục ghi dấu xác nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su qua những bài giảng và những phép lạ Người làm. Giờ đây dân chúng bắt đầu nhận ra điều Thiên Chúa xác nhận về Chúa Giê-su, nhưng chưa rõ Thiên Chúa muốn họ phải làm gì để đáp lại điều Người xác nhận, cho nên họ hỏi thẳng Chúa Giê-su: “Vậy chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Thế là chúng ta đã tới đoạn kết cuộc tìm kiếm chân tính của Chúa Giê-su, mở ra cho dân chúng một hành trình mới. Nếu người ta nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su như đã được Chúa Cha ghi dấu xác nhận, thì người ta phải thực hiện những việc Chúa Cha muốn họ làm đối với Chúa Giê-su. Vậy, trả lời câu hỏi của họ “chúng tôi phải làm gì?”, Chúa Giê-su đã khẳng định rõ ràng: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Nói như trên, Chúa Giê-su đã mở ra cho dân chúng một chân trời mới. Tuy nhiên đối với họ, không dễ dàng chấp nhận một điều mới lạ như vậy đâu, vì họ vẫn bám chặt lấy lịch sử và truyền thống của tổ tiên họ. Họ quá hãnh diện với những oai hùng khi rời khỏi Ai-cập và dưới sự lãnh đạo của ông Mô-sê, đến nỗi tưởng rằng chính ông Mô-sê đã cho tổ tiên họ man-na để ăn trong sa mạc! Họ đâu hiểu rằng man-na chỉ là lương thực tạm bợ chóng hư nát Thiên Chúa ban cho cha ông họ, còn Chúa Giê-su mới thực sự là bánh ban sự sống do Thiên Chúa sai đến trần gian, để ai lãnh nhận sẽ được sống đời đời.
Sống sứ điệp TinMừng
Người Tây phương thường nói: Anh ăn thứ gì thì sẽ trở thành thứ nấy. Thiên Chúa ban cho chúng ta một lương thực mới, đó là Chúa Giê-su để chúng ta được nên giống với Chúa Giê-su, Con Một Người. Người muốn chúng ta đón nhận “Lương Thực” được Người ban xuống từ trời, bằng cách “hãy tin vào Đấng Người đã sai đến”. Khi suy tư về cách tin vào Chúa Ki-tô, thánh Phao-lô dạy chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ” với nếp sống tội lỗi và ham muốn, để “mặc lấy con người mới” đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa. Đây cũng chính là công việc đổi mới của Thánh Thần, Đấng hoạt động trong tâm hồn chúng ta đang mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Người (Xem Ê-phê-xô 4:22-24).
Vì thế, tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến không phải chỉ là hành vi của ý chí, nhưng là cả một diễn trình biến đổi từ con người tội lỗi chúng ta thành con người thánh thiện của Chúa Ki-tô. Sự phát triển của sự sống thể xác cần của ăn thế nào, sự sống thiêng liêng và thánh thiện của chúng ta cần đến lương thực bởi trời là Chúa Ki-tô như thế. Người đã tuyên bố chắc chắn rằng: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” Vậy chúng ta còn ngần ngại gì nữa?
Sau khi được Chúa Giê-su ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều: TN 18-B50
Sau khi được Chúa Giê-su ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giê-su không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giê-su răn bảo họ: “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27)
Khi nói như thế, Chúa Giê-su kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”
Chính Chúa Giê-su là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
“Ăn” Chúa Giê-su (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giê-su nhưng là đến với Chúa Giê-su và tin vào Người: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Nói khác đi, “ăn” Chúa Giê-su là đến với Chúa Giê-su, học với Chúa Giê-su, sống như Chúa Giê-su để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giê-su và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.