Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”. Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến”. Họ thưa Chúa Giêsu: “Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: “Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian”. Họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. - Ðó là lời Chúa.
Những tưởng phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Chúa Giêsu đã thực hiện sẽ mang lại nhiều ích lợi: TN 18-B51
Những tưởng phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Chúa Giêsu đã thực hiện sẽ mang lại nhiều ích lợi thiết thực về phần thiêng liêng cho số đông dân chúng theo Người, nhưng sự thật không như vậy. Thì ra phần đông đi theo Chúa Giêsu không phải để lắng nghe lời Người giáo huấn mà chỉ vì “cái bao tử” của họ. Thế nên, tại hội đường Caphacnaum, Chúa Giêsu đã giúp cho họ hiểu đằng sau phép lạ Người đã thực hiện là gì và đâu là ý nghĩa đích thực đằng sau sự kiện ấy.
Từ lương thực chóng hư nát…
Trước thái độ vụ lợi của đám đông dân chúng, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh họ: “Các ông tìm tôi không phải vì dấu lạ, nhưng vì được ăn no”. Thật vậy, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê, họ lại tìm kiếm Chúa. Lần này, việc tìm kiếm Chúa không phải để hiểu biết Người, không phải khao khát được ánh sáng chiếu soi nhằm khám phá ra con Người Chúa Giêsu mà chính là “cái bao tử” soi đường dẫn lối họ. Như thế, dấu lạ hoá bánh ra nhiều chỉ khơi dậy nơi lòng dân chúng một ước muốn là có bánh ăn. Họ chỉ nghĩ đi theo Chúa Giêsu chỉ hao tốn chút thời gian nhàn rỗi, không phải làm lụng vất vả mà vẫn ăn uống thoả thuê. Thế thôi. Vì thế, Chúa Giêsu giúp họ hiểu thấu hơn nữa ý nghĩa phép lạ Người đã làm.
Đến bánh trường sinh
Hơn ai hết, người Dothái hẳn biết rất rõ bánh Manna thời ông Môsê. Thật thế, bốn mươi năm trường trong sa mạc, dân Israel đã không lao tâm khổ tứ để làm ra cơm bánh mà vẫn có lương thực hằng ngày dùng đủ. Họ hiểu rõ Giavê Thiên Chúa vẫn hằng săn sóc và hướng dẫn họ trong suốt hành trình về đất hứa. Giờ đây, đứng trước đám người bước theo Chúa chỉ vì cái lợi trước mắt và chóng hư nát ấy, Chúa Giêsu đã vin vào sự kiện manna của cha ông ngày xưa để hướng họ chú tâm vào chính lương thực Thần linh là Bánh đích thực.
Môsê xưa cho cha ông họ ăn bánh bởi trời nhưng chưa phải là bánh bởi trời đích thực. Chúa Giêsu đến và Ngài cho thấy, thứ bánh manna xưa chỉ là dấu hiệu cho Manna đích thực. Và đây chính là điều quan trọng trong đạo lý của Chúa Giêsu. Hồng ân Manna xưa chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một dấu hiệu loan báo cho một thực tại đích thực. Việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Chúa Giêsu mới là Bánh Đích thực, Bánh Trường Sinh, bánh từ trời xuống để cho thế gian được sống. Vâng, Chúa Giêsu chính là bánh đích thực, là nguồn sống Thần linh đến từ Thiên Chúa. Đây là nguồn sống Thần linh vĩnh cửu, bất diệt mà bất cứ ai đều khao khát được lãnh nhận. Khi con người lãnh nhận nguồn sống Thần linh này, họ sẽ được nhận lãnh chính sự sống trong thế giới của Thiên Chúa. Sự sống đó, Chúa Giêsu chỉ chia sẻ cho những ai tin vào Thiên Chúa, tin vào giáo huấn của Người mà thôi.
Trong tâm thức của nhiều người Dothái, họ có thể chấp nhận kiếp làm tôi tớ chỉ để được sống qua ngày, để được ăn no. Chúa Giêsu không như vậy. Điều Người muốn là, họ được tự do đi theo Người và tin vào giáo huấn của Người. Đây chính là điều kiện tiên quyết để họ được hưởng “thứ bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Ở đây có một sự khác biệt vô cùng lớn về thang giá trị. Một bên là, người Dothái chấp nhận làm tất cả những gì trong thân phận nô lệ chỉ để đảm bảo cho cuộc sống tại thế, nay còn mai mất, để thoả mãn cơn đói khát về thể xác; còn một bên là, chỉ tin vào Chúa Giêsu cùng với giáo huấn của Người, họ có thể có tất cả và, còn hơn thế nữa, họ sẽ được thừa hưởng vinh quang và phúc lộc trong ân sủng của Thiên Chúa. Người Dothái thời Chúa Giêsu và cả chúng ta nữa không dại gì chọn cho mình kiếp làm nô lệ. Vậy là đã rõ. Chúng ta đã biết phân định và tự do lựa chọn cho tương lai và cuộc sống của mình. Bước theo Chúa Giêsu và tin vào giáo huấn của Người, chúng ta sẽ lãnh nhận sự sống Thần linh trong ân sủng của Thiên Chúa. Và, điều này mới thực sự là cùng đích, là sự khao khát đích thực của kiếp người.
“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Người Dothái và cả chúng ta nữa vẫn hằng cầu xin và ước ao “thứ bánh kỳ diệu” ấy. Thật sự, thứ bánh kỳ diệu ấy đang ở rất gần trong tầm tay của chúng ta. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có thực sự muốn hay không mà thôi.
Con người muôn thời vẫn bó tay trước cái chết. Do đó, khoa học, y học, khoa dinh dưỡng luôn: TN 18-B52
Con người muôn thời vẫn bó tay trước cái chết. Do đó, khoa học, y học, khoa dinh dưỡng luôn cố gắng tìm những hướng mới, những tiến bộ hơn nhằm giúp con người kéo dài thêm cuộc sống, nhưng con người càng tìm, càng kiếm những phương pháp, những kỹ thuật, nhưng dược liệu có sức cải lão hoàn đồng,con người vẫn cảm thấy thật bất lực trước cái chết. Sự chết luôn là nỗi bế tắc của con người.Tuy nhiên, điều quan trọng hơn thể xác nhiều là tâm linh, nhưng con người hầu như cũng dửng dưng với cả đời sống mai sau. Chúa Giêsu đã giải đáp vấn nạn muôn người của con người.Ngài tuyên bố: “ Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ “ ( Ga 6,35 ).
DÂN CHÚNG TÌM CHÚA VÌ ĐƯỢC NGÀI CHO ĂN UỐNG NO NÊ:
Sau phép lạ hóa bánh và cá để nuôi hơn 5.000 người ăn, dân chúng cảm thấy ấm bụng và tin tưởng vào một con người mà họ luôn ước vọng sẽ làm cho đời sống họ được thăng tiến, được ấm no hạnh phúc.Chúa Giêsu nhận ra nỗ lực tìm kiếm của họ. Bởi vì họ đã được no nê khi theo Chúa. Người nghèo ở miền Galilê luôn có nỗi lo canh cánh về cái đói hằng ngày.Và đây cũng là nỗi lo của vài tỷ người trên toàn thế giới này.Chúa Giêsu muốn hướng con người lên tầm cao mới, chiều sâu mới, bởi vì lương thực vật chất thật mau qua.Chúa muốn đưa họ lên cao hơn, lương thực trường tồn sẽ ban cho họ sự sống vĩnh cửu, sự sống muôn đời. Người Galilê chỉ dừng lại nơi cái bánh vật chất mau qua mà thôi. Họ ngừng lại nơi phép lạ và ngừng lại nơi những chiếc bánh mau qua. Họ không ước mơ gì hơn là có bánh ăn cho no, cho hết cơn đói, cơn khát. Thế giới hôm nay nhiều người cũng chỉ dừng lại nơi cơm bánh, nơi những của phù vân, mau qua. Người nghèo thì lam lũ vất vả và dừng lại nơi vật chất, nơi hũ gạo, cơm bánh. Người giầu thì mải mê tìm hưởng thụ, tiện nghi vv…Nên, người giầu và nghèo cũng rơi vào tình trạng chung là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, bằng lòng với cơm gạo, với tiện nghi.Thực ra thì mọi người đều có những khát vọng chính đáng, người nghèo khao khát tình thương, người giầu cần lẽ sống. Chúa khơi dậy trong con người nỗi khao khát cao hơn, thứ khao khát không phải là manna mau qua, mau hết, nhưng là thứ bánh ban sự sống đời đời.
XIN CHO CHÚNG TÔI BÁNH TRƯỜNG SINH VÀ THỨ NƯỚC KHÔNG HỀ KHÁT:
Chúa nói với đám đông dân chúng hãy đi tìm bánh trường sinh, hãy tìm thứ nước uống vào không hề khát.Dân chúng bỡ ngỡ, chưng hửng. Hôm nay có lẽ nhân loại nhiều người cũng chưng hửng, ngạc nhiên như dân Galilê xưa? Tuy nhiên, dân chúng vẫn khao khát và xin Chúa: ” Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn.Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15 ).Con người muôn thời vẫn đói vẫn khát về tâm linh, về tinh thần.Con người dù có đầy đủ tất cả về tiện nghi, vật chất nhưng không bao giờ có thể khỏa lấp đầy tất cả nếu họ không tới với Đức Kitô. Chúa Giêsu chính là tấm bánh trường sinh để con người được no thỏa đời đời. Ngài là cánh tay, đôi chân của con người để con người phục vụ và đi đây đi đó. Chúa là bạn đồng hành để tất cả con người được đi trong sự thật và ánh sáng. Bánh trường sinh và nước không hề khát là Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ đời đời cho con người.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Thực tế, cái nghịch lý muôn đời vẫn là muốn được là phải cho đi, phải chịu mất đi mới chiếm lại được nó.Chúng ta chỉ no nê khi chúng ta biết quan tâm đến những người nghèo, đến những người đói, người khát đang ở xung quanh chúng ta. Chúng ta chỉ có thể hết khát khi chúng ta biết an ủi những người neo đơn, tàn tật và đau xót biết chia sẻ với những đau khổ của anh chị em đồng loại. Chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta những điều nhạy cảm đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích nuôi sống cả tâm hồn và thể xác chúng con.Amen.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông đồ bỏ đảo Zénézareth trở về Capharnaum, nhưng TN 18-B53
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông đồ bỏ đảo Zénézareth trở về Capharnaum, nhưng Đức Giêsu không đi cùng thuyền với các Tông đồ vì Ngài còn lên núi cầu nguyện một mình (Ga 6,15). Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không đi trên thuyền đó, nên họ đổ xô đi tìm Ngài. Khi về tới Capharnaum gặp Chúa, họ hết sức ngạc nhiên vì gặp Ngài ở đó rồi:”Lạy Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Một câu hỏi đơn sơ, tỏ lòng tha thiết với Chúa và muốn biết Ngài đến đây bằng cách nào.
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi ấy, mà nhân cơ hội này Ngài giảng cho họ một bài về Bánh hằng sống. Bài này cốt nâng cao tư tưởng thính giả lên bên trên những lo lắng vật chất. Đức Giêsu biết rõ, dân chúng chỉ đến với Ngài sau khi được ăn bánh no nê. Và phép lạ làm cho bánh hoá nhiều làm cho người ta nghĩ rằng: đã đến thời lập lại nước Israel, đời sống sẽ phú túc. Bài này có ý cải chính ý tưởng đó.
Điều Đức Giêsu muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài sai đến, tức tin vào Ngài là Đấng vừa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho người Do thái nhận ra rằng Ngài không chỉ có thể làm cho bánh hoá nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người, mà Ngài còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên, mà còn sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người: ”Chính Ta là Bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đức Giêsu là bánh trường sinh. Bánh trường sinh ban sự sống trường sinh. Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì được no thỏa tâm hồn. Nhưng sự sống trường sinh là gỉ ? – Sự sống trường sinh là nhận biết Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận. Sự sống trường sinh là sự sống của” con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Đức Kitô. Cụ thể đó là con người thực sự sống công chính và thánh thiện (bài đọc 2).
2. Sự đói khát triền miên của con người.
Đức Giêsu nói với họ:”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”(Ga 6,26). Đức Giêsu nói chuyện với những người nông dân vùng Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ là thế nào khi họ miệt mài làm việc để mùa thu hoạch có kết quả tốt. Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói, khát, bánh, nước...
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: nếu một người giầu có đầy đủ: gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng... nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng ? Nếu chúng ta trả lời rằng “CÓ” thì các bài đọc Kinh thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là: Trên thế giới này có hai loại đói: trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được.Nói cách khác, dầu chúng ta có giầu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bầy tỏ được.
Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiều thốn vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu, nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn.
Truyện: Hoàng đế Tần thủy Hoàng.
Tần thủy Hoàng của nước Tầu đã sống trước Chúa Giáng sinh 200 năm. Ông tự phong là “Nhất Thế”, nghĩa là vô địch nhất thế gian này, về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung hoa. Tần thủy Hoàng còn muốn trường sinh trẻ mãi, nên đi tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai quần thần đi khắp nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông... Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, nămB, tr 155).
3. Thỏa mãn sự đói khát của con người.
Dân chúng hỏi Đức Giêsu rằng:”Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đáp lại:”Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến” Ở đây bắt đầu một mặc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu ! Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chứng hàng triệu lần từ 2000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin, đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Đức Giêsu vừa đưa ra một tuyên bố quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thực của Thiên Chúa là tin Ngài. Người Do thái nói: Hay lắm, quả thật đây là lời tuyên xưng mình là Đấng Messia, vậy ông hãy chứng minh đi...
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh 16,15). Trong Do thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng: khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được cho là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Maisen, mà Đấng Messia thì còn phải hơn thế nữa. Vị cứu tinh đầu tiên thế nào thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thể ấy.
Như vậy, dân Do thái đang thách thức Đức Giêsu hãy khiến bánh từ trời xuống để hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Họ không chịu xem số bánh cho 5000 người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ, manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Maisen đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ: manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể xác nhưng là sự sống. Đức Giêsu tuyên bố rằng sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
II. ĐI TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH.
1. Phải hướng tâm hồn lên.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người tìm đến với Ngài khi Ngài nói:”Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Gêsu biết rõ tâm tư của họ, họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước. Dĩ nhiên, việc ăn uống nuôi thể xác là một điều cần thiết, ai lại không phải ăn ? Nhưng Đức Giêsu muốn nói với họ là ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên:”Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Truyện: Napolén có đôi mắt sáng.
Một hôm, Napoléon, vị hoàng đế có một đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có một đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoléon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn:
Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không ?
Người bạn trả lời:
Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả.
Napoléon nói:
Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.
Rồi Napoléon nói tiếp:
Những người nhìn mầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen.
Lời nhận xét trên đây của Napoléon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém (Phạm văn Phượng).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng gián tiếp chê bai những người đến với Ngài không phải vì đã chứng kiến các dấu lạ mà chỉ muốn được ăn no nê. Họ chỉ biết thỏa mãn những gì thuộc thể xác, còn những gì cao hơn họ không để ý tới. Như vậy, theo như Napoléon, họ mới sống được nửa cuộc đời mà thôi.
2. Những khát vọng của con người.
Con người sống trên trần gian này có rất nhiều khát vọng cần được thỏa mãn. Khát vọng đầu tiên là được thoả mãn cơn đói khát thể xác. Cái ăn cái uống là những nhu cầu vật chất khẩn thiết làm cho thể xác được bảo toàn và tăng trưởng. Người Tây phương có một câu ngạn ngữ nói về nhu cầu đó: ”Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi muốn nói gì thì nói. Người Việt nam chúng ta cũng có tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ: ”Dĩ thực vi tiên”: cái ăn phải đứng đầu.
Ngoài những nhu cầu vật chất, người ta còn có những khát vọng tinh thần cần được thỏa mãn: nhu cầu hiểu biết, cần được tôn trọng, cần được quan tâm, cần được thông cảm.... Tuy nhiên, con người còn có một khát vọng căn bản và sâu xa nhất, đó là khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sống đời đời. Nói cách khác, đó là khát khao Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khát khao này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Chính Chúa là hạnh phúc, ai được yêu mến là sống trong hạnh phúc. Nhiều người muốn được hạnh phúc mà không biết cách tìm, họ tìm hạnh phúc ơ nơi tạo vật mà bỏ quên Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, cho nên họ đã thất bại. Thay vì tiến tới hạnh phúc, họ chỉ đạt tới những bất hạnh vì họ đã đi trệch đường.
Truyện: Kinh nghiệm của một người.
Tại Pháp, có một thương gia rất giầu, phương châm sống của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông:”Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
3. Khát vọng được lấp đầy.
Đức Giêsu nói: ”Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian: ” Ta là bánh hằng sống”. Linh hồn chúng ta phải có của ăn mới sống được, mà của ăn ấy chính là Đức Kitô: ” Chính Ta là bánh ban sự sống ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói:”Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Thánh Augustinô đã thú nhận rằng:”Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn đến nỗi không gì có thể lấp đầy được, ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Ngài.
Vậy sứ điệp trong các bài Kinh thánh hôm nay gửi đến cho chúng ta như sau: Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thoả mãn. Sứ điệp này đã mang lại ý nghĩa mới cho hàng triệu người và nó cũng mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới miễn là chúng ta chấp nhận nó.
4. Hãy sống bằng bánh trường sinh.
Khi người Do thái nói với Chúa:”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ:”Chính Ta là Bánh trường sinh” Bánh trường sinh mà Đức Giêsu ban cho chúng ta, chính là Lời Chúa và Thánh Thể.
Lời Chúa: Chúng ta thấy quan niệm cho rằng Lời Chúa, giới răn Chúa là thức ăn thiêng liêng bồi dưỡng cho con người, cao qúi hơn thức ăn thông thường đã có trong Cựu ước. Ví dụ tiên tri Amos đã nói:”Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lời Chúa”(Am 8,11).
Tiên tri Giêrêmia cũng khát Lời Chúa: ”Khi nghe Lời của Ngài, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”(Gr 15,16).
Thánh Thể: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rõ: ”Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ... một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Ngài kết luận: ”Chính ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết: TN 18-B54
Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ong kể rằng:
Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay”.
Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu . . . cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi . . .”. Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi”.
Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…
*****
Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc, thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời, hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải, thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy, mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.
Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen
Đoạn Tin Mừng Gio-an chương 6 gây cho ta một thắc mắc: Đúng lý ra trình thuật Chúa hóa: TN 18-B55.
Đoạn Tin Mừng Gio-an chương 6 gây cho ta một thắc mắc: Đúng lý ra trình thuật Chúa hóa bánh cá ra nhiều nuôi dân (x Ga 6,1-15), phải đi liền với diễn từ về mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể (x Ga 6,22t), để nói lên người ta phải tìm của nuôi linh hồn quan trọng hơn là bánh nuôi thân xác. Thế mà tác giả Gio-an lại viết chen phép lạ Chúa Giê-su đi trên mặt biển đến với thuyền các môn đệ đang gặp biển động quyền phong đốc thổi (x Ga 6,16-21).
Sở dĩ ông Gio-an viết chen phép lạ này giữa trình thuật hóa bánh và diễn từ Thánh Thể, là dấu chỉ báo trước cho các môn đệ biết: Nếu các ông thấy dân đói khát của ăn vật chất, họ phải chạy đi tìm kiếm các ông để xin giải quyết (x Ga 6,14.22-26), mà các ông thấy đó là việc phải làm quan trọng, rất thực tiễn, phải giúp họ tận tình mới là sống bác ái, để rồi các ông bỏ bê xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời là bổn phận chính của các ông, thì chắc chắn cộng đoàn sẽ gặp sóng gió, gây bất hòa với nhau (x Cv 6,1-7). Sóng gió này hơn thuyền các môn đệ gặp giông tố bão táp trên biển!
Vậy ta muốn được bình an đích thực, ta cần phải có Chúa Giê-su Phục Sinh hiện diện (x Ga 6,20 ; 20,19.26) từng ngày trong đời ta, để ta sống khác với dân ngoại, Ngài giúp ta canh tân đổi mới cuộc đời, cho ta được sống giống như Thiên Chúa (x Ep 4,17.20-24: Bài đọc II).
I. ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN ĐÍCH THỰC CẦN PHẢI CÓ CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH HIỆN DIỆN.
Chúa Giê-su Phục Sinh không bao giờ chúc bình an cho ai khi Ngài gặp họ không sống chung với các Tông Đồ trong ngày Chúa nhật! Nói cách khác, Ngài chỉ ban bình an cho cộng đoàn Ngài chọn họp nhau trong ngày Chúa nhật mà thôi! (x Ga 20,19.26)
Ta biết ngày Chúa nhật là ngày Chúa Giê-su hoàn tất giá trị Phụng Vụ, đó là kế hoạch Chúa cứu độ con người, nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su, và chỉ trong Phụng Vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa mới nói với chúng ta: “Mọi sự của Cha đều là của con” (x Ga 17,7-10 ; Lc 15,31), vì khi ta “CÓ” đầy đủ mọi sự Chúa ban cho,ta mới thực sự được bình an.
Ông Mô-sê được Chúa dùng dẫn dân Chúa thoát nô lệ Ai-cập, ông hỏi tên Chúa là gì, để ông về nói với dân theo ông ra khỏi Ai-cập. Chúa nói với ông: “TA LÀ” hay “TA CÓ” (x Xh 3,13-14). Suốt thời Cựu Ước dân Chúa cứ thắc mắc: “Chúa là gì? Hay Chúa có gì?” Vào thời Tân Ước, Con Thiên Chúa sinh làm người, Ngài mới mạc khải nội dung và ý nghĩa danh Gia-vê qua bảy lần Ngài nói:
Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta không còn đói khát (Ga 6,35). Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta không còn ở trong tối tăm, nhưng có ánh sáng sự sống (Ga 8,12). Ta là cửa ràn chiên (Chúa Giê-su dẫn ta vào Hội Thánh), ngoài Ta ai dẫn các ngươi nó là trộm là cướp! (Ga 10,7). Ta là Mục Tử tốt lành, Ta thí mạng sống vì chiên (Ga 10,10). Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25). Ta là đường và là sự thật, sự sống (Ga 14,6). Ta là cây nho đích thực (Ga 15,1).
Chúng ta lưu ý 7 lần Chúa Giê-su nói “Ta Là”, thì mở đầu (lần I): “Ta là bánh”, và kết thúc (lần VII): “Ta là nho”. Bánh và nho là dấu chỉ của Bí tích Thánh Thể. Như thế, qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su Phục Sinh tái tạo (số 7 dấu chỉ một tuần Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ) kẻ đón nhận Ngài mỗi ngày được nên hoàn hảo giống Thiên Chúa hơn. Đó là ý định ngàn đời Thiên Chúa muốn tạo dựng con người cách hoàn hảo trong Chúa Giê-su, như lời thánh Phao-lô nói:
“Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả được viên mãn đậu lại trong Chúa Giê-su” (Cl.1,19).
“Bởi vì Người đã chọn ta trong Ngài từ tạo thiên lập địa, để ta được nên thánh… nhờ máu Người đổ ra cho ta được ơn tha tội… Vì sự an bài của Người cho muôn thời được viên mãn, là thâu họp vạn vật dưới một đầu một mối trong Đức Ki-tô, vật ở trời cao, vật nơi dương thế” (Ep 1,4-10).
II. ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA CHỈ BAN “HÔM NAY” THÔI.
Trong giờ Kinh Phụng Vụ ban sáng, chúng ta thường đọc: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94,7). Nên Chúa kêu gọi: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha” (Mt 21,28). Bởi vì Chúa chỉ xét xử người ta trong giây phút hiện tại: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của nó, và làm điều bất chính, thì chính vì điều bất chính nó đã làm, mà nó phải chết ; còn kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó cứu được mạng sống nó” (Ed 18,26-27).
Ta nhớ 7 lần Chúa Giê-su đều xưng danh “Ta Là” (ở thì hiện tại) mà Tin Mừng Gio-an đã ghi lại, để diễn tả sự vô cùng giàu có của Chúa (ý nghĩa con số 7) trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su công bố ở thời hiện tại. Do đó xưa dân Chúa đi trong sa mạc, muốn có đủ sức tiến về miền đất Chúa hứa, thì mỗi ngày (hiện tại), họ phải đi lượm man-na để ăn cho đủ ngày hôm đó thôi (x Xh 16,2-15: Bài đọc I). Man-na đó là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể, Chúa thông ban sự sống đời đời của Ngài cho ta (x Ga 6,57). Thế mà ta không thèm ăn Man-na mới của Chúa Giê-su ban cho mỗi ngày, thì làm sao ta đủ sức tiến về Thiên Đàng, đấy mới là đích thực miền đất Chúa hứa cho dân Ngài, hơn xưa đất Ca-na-an Chúa hứa cho dân Do-thái.
III. TA ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CHÚA BAN CHO TA QUA BÍ TÍCH THÁNH THỂ.
Thánh Phao-lô trong Bài đọc II đã dạy chúng ta:
“Anh em đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ chỉ sống theo những tư tưởng phù phiếm” (Ep 4,17). Họ chỉ lo tìm kiếm của cải vật chất, vì chủ trương rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nghĩa là cứ có đầy đủ của cải là có dư thừa hạnh phúc! Đó thực là tư tưởng phù phiếm mà nhiều kẻ lại lấy đó làm thánh giáo! (x Mt 15,9)
“Anh phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối” (Ep 4,22), như dân Do-thái muốn trở lại kiếp nô lệ Ai-cập, mơ tưởng được ngồi bên niêu thịt mà ăn bánh thỏa thuê, nên họ kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập” (x Xh 16,3: Bài đọc I) ; còn dân Chúa hôm nay, chỉ mong ước được thỏa mãn các đam mê xác thịt, chấp nhận nô lệ cho sa-tan! Văn hào người Nga tên là Dostoeski nói: “Ngày nay nếu đặt trước mắt người ta tự do và bánh mì ; hoặc chân lý và quyền lợi, thì người ta sẽ chọn bánh mì và quyền lợi! Mặc dù lương tri con người ai cũng biết: Tự do và chân lý thì cao quý hơn quyền lợi và bánh mì!”
“Anh em phải để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4,23). Cụ thể như 11 môn đệ của Chúa, họ kiên nhẫn theo Thầy Giê-su đến cùng (x Mt 24,13), nên sau khi họ đã được rước lễ, Chúa biến đổi họ từ những mảnh đất vệ đường, đá sỏi, bụi gai (x Mt 13,19 - Mc 8,17-21 ;Mt 13,20-21 - Mc 14,50 ; Mt 13,22 - Mc 10,35-40), trở thành những mảnh đất tốt, làm cho hạt giống Lời Chúa đơm bông kết trái, cho muôn dân, mọi thời cho đến tận thế được no thỏa.
“Anh em phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Trong các bài giảng của Chúa Giê-su, chỉ có bài giảng về mầu nhiệm Thánh Thể là dài nhất (x Ga 6,26-59: 33 câu), như vậy Chúa Giê-su muốn nói về việc cử hành Thánh Thể: giáo dục dân bằng Lời Chúa là quan trọng nhất ; bởi lẽ mỗi Thánh lễ là một cuộc Sáng tạo mới trong Chúa Giê-su Phục Sinh, mà giáo dục ai, chính là tạo hình (formation) người ấy theo một khuôn mẫu, Thiên Chúa đã không chọn được một con vật nào mà Ngài đã dựng nên nó rất tốt đẹp, để làm mẫu tạo dựng loài người (x St 2,19-20), mà Thiên Chúa chỉ lấy hình ảnh Ngài làm khuôn mẫu tạo dựng loài người, để con người được đồng hóa với Thiên Chúa (x Gl 2,20). Chính vì thế mà khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa bàn bạc với nhau, để nhờ Lời của Ngài phán ra, con người được được Thiên Chúa nắn tạo theo hình ảnh của Ngài (x St 1,26-27). Cũng vì Chúa muốn qua mầu nhiệm Thánh Thể, dân Chúa phải được tái tạo hình (formation) theo mẫu Thiên Chúa bằng việc giáo dục Lời của Ngài. Đó là lý do Chúa Giê-su nhắc lại lời ngôn sứ I-sai-a chương 54, câu 13: “Con cái của ngươi (Giê-ru-sa-lem mới) hết thảy đều được Thiên Chúa giáo dục” (Ga 6,45).
Trong trình thuật Sáng tạo lần II, Thiên Chúa đã lấy đất sét nắn tạo nên loài người (x St 2,7). Nên mỗi khi ta dự Thánh lễ, ta như cục đất sét trong tay Đấng Sáng Tạo (x Is 64,8). Do đó mỗi lần ta đến dự lễ cách trọn vẹn, ta lại được Chúa Giê-su nắn tạo ta mỗi ngày nên hoàn hảo hơn. Thánh Phao-lô nói: “Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, họ là thụ tạo mới, con người cũ đã qua đi, và con người mới được tạo thành” (2Cr 5,17).
Nếu nắm đất sét trong tay người thợ gốm, ông chỉ nắn tạo tác phẩm có một lần trong ngày, thì tác phẩm đó chắc chắn là tầm thường. Trái lại, tác phẩm đó được người nắn tạo ra nó mỗi ngày ông sửa một chút, cho tới cả trăm năm mới xong, thì chắc chắn nó là một kiệt tác. Không biết một Ki-tô hữu chỉ giữ Luật rước lễ mỗi năm một lần vào mùa Phục Sinh, mà họ được Chúa cho sống tới 100 tuổi, thì họ chỉ được Chúa nắn tạo 100 lần, trong khi đó muốn Chúa nắn tạo họ 36.000 lần mà không được, thì liệu trong thời Phục Sinh, họ có phải là người “khuyết tật” không?! Mà đã trở thành kẻ “khuyết tật” vì lười rước lễ, nên vào ngày cánh chung, nó lết mãi mới tới Thiên Đàng, lúc ấy các thánh mạnh khỏe vào trước đã dự tiệc xong, ai cũng được no thỏa vui vẻ ra về, còn kẻ “khuyết tật” vào Thiên Đàng trễ, để đi dọn bàn hay rửa chén ư?!
Thánh Gio-an diễn tả: “Ngày cánh chung các thánh là những cô dâu mặc áo trúc bâu vào dự tiệc cưới, áo trúc bâu đó là công đức của các thánh” (Kh 19,7-8), mà kẻ lười rước lễ, chắc chắn là do thiếu đức tin, thiếu lòng mến Chúa, thì áo đó có phải là áo cưới của họ mặc không? Kẻ không mặc áo cưới mà vào dự tiệc, sẽ bị tống vào ngục tù! (x Mt 22,1-13)
Chúng ta cùng cầu nguyện: "Lạy Chúa, Chúa khiến man-na tựa hồ như mưa đổ xuống và ban bánh bởi Trời nuôi dưỡng con, kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gởi đến cho con dồi dào lương thực, Chúa dẫn đưa con vào miền đất thánh” (Tv 78/77, 24-25.54-55: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh (Ga 6,27)
Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ Bánh Sự Sống. Từ nhu cầu bánh ăn hàng ngày: TN 18-B56
Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ Bánh Sự Sống. Từ nhu cầu bánh ăn hàng ngày, Ðức Giêsu kêu gọi người ta nhân ra nhu cầu "Bánh Sự Sống" và Người khẳng định mình chính là Sự Sống đích thực.
Những người tuôn đến với Ðức Giêsu chắc chắn vẫn còn nhớ đến bữa ăn no nê do phép lạ Ðức Giêsu đã làm từ năm chiếc bánh và hai con cá. Phép lạ đó làm cho người ta yên chí rằng Người sẽ còn mang lại cho họ những điều may mắn, sung sướng hay lợi lộc nào khác.
Những người Galilê đã chứng kiến phép lạ này, thay vì nhận ra đó là dấu chỉ hướng dẫn mình đi xa hơn, thì lại chỉ nghĩ đến những lợi lộc trước mắt; họ mới chỉ "tin" vào Ðức Giêsu như người bảo vệ những quyền lợi riêng tư, như người phục vụ cho đời sống trần gian của họ.
Ðức Giêsu hiểu rõ tâm hồn con người hơn bất cứ ai khác. Người biết họ tìm đến với Người vì điều gì. "Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê".
Ðức Giêsu nhấn mạnh đến từ "dấu lạ" để kêu gọi người ta biết nhìn xa hơn, tin vào Chúa trọn vẹn hơn.
Chẳng những Người lưu ý đến những nhu cầu ăn uống, nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người còn là Ðấng Cứu độ trọn vẹn thân phận làm người nữa.
Phải chăng nhiều người chúng ta vẫn "đi đạo" như thể "đi chợ"; chúng ta muốn Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta những "hành, tỏi, tiêu, ớt" như một thứ gia vị cho cuộc sống mà thôi. Chúng ta chưa nhận ra Ðức Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài nuôi cuộc sống nhân loại bằng chính tình yêu thương lớn lao để chúng ta được đầy sức mạnh trên bước đường đời: Ngài nói với ta lời chân lý có sức giải thoát mọi lầm lạc: Ngài cứu độ nhân loại bằng chính sự sống thần linh để chúng ta được sống cùng với Người và sống trong Người. Như thế, một đức Tin thực sự phải có thể nói lên rằng: Ðức Giêsu là tất cả đối với tôi. Tôi sẽ khám phá Người chính là "Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi không hề phải đói; ai tin vào Tôi không khát bao giờ".
Nhưng dẫu sao, Ðức Giêsu vẫn thuơng con người. Người nhắc nhủ những lời ngọt ngào thân ái: "Hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh". Người kêu gọi" "Hãy tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến"; và hãy yêu mến Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn" (Mc 12,30).
Lạy Chúa, Xin cho những hạt giống đức tin mọc lên trên thửa đất tốt của cầu nguyện, trở thành những cây cao chất chứa ánh sáng, mọc trên các nẻo đường của Nước Trời.
***
Vì Nước Trời giống như một hạt cải li ti, mong manh được gieo trong lòng chúng con, một hạt cải chỉ chờ ngày nảy mầm để trỗ sinh hoa trái nếu chúng con biết vun trồng.
Không bao giờ nhân loại hết đói khổ. Chính dân Chúa đã trải qua kinh nghiệm đau thương: TN 18-B57.
Không bao giờ nhân loại hết đói khổ. Chính dân Chúa đã trải qua kinh nghiệm đau thương đó trong sa mạc. Nhưng cũng chính trong cơn đói khát đó, họ mới chứng kiến sự thật về quyền năng Thiên Chúa.
BÁNH ÐÍCH THỰC
Tại sao con người phải lao nhọc mới có miếng ăn ? Miếng ăn có phải là lý do sau cùng lý giải hoàn toàn mọi sinh hoạt của nhân loại không ? Con người thường thiếu tầm nhìn xa để thấy được tất cả ý nghĩa và nguyên nhân sự sống. Ngay cả trong hàng ngũ những người theo Chúa, cũng có những người chỉ biết cắm mắt vào những những thực tại tầm thường và theo đuổi những mục tiêu quá vị kỷ. Chính vì thế, Ðức Giêsu mới nói: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê." (Ga 6:26)
Làm sao có thể nhìn thấy thực chất cuộc sống, nếu không hiểu được ý định của Tạo Hóa ? Thực vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta "tin vào Ðấng Người đã sai đến." (Ga 6:29) Không tin không thể thấy những "dấu lạ" tràn ngập trong cuộc sống. Dấu lạ đó là những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa. Dấu lạ lớn nhất là chính Ðức Giêsu Kitô "đem lại sự sống cho thế gian," vì Người là "bánh Thiên Chúa." (Ga 6: 33) Chỉ có con mắt đức tin mới khám phá được tất cả những "dấu lạ" trong "bánh trường sinh" (Ga 6:35). Bánh trường sinh đó là "lời mạc khải của Ðức Giêsu." (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Khác hẳn với bánh trần gian, "bánh trường sinh" sẽ cung cấp cho con người sự sống bất tận. Thực vậy, Ðức Giêsu mạnh dạn mạc khải: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ." (Ga 6:35) Tin vào Ðức Giêsu, phải dấn thân và hành động. Tin là phục vụ vô điều kiện. Không có sự phân cách giữa đức tin và việc làm, vì tất cả đều do ân sủng ! Hơn nữa, chính Ðức giêsu cũng nhấn mạnh: " Chỉ có một 'việc'phải làm, đó là tin vào Ðấng Thiên Chúa đã sai đến." (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Nguồn ân sủng phát xuất từ Thánh linh. Bởi đấy, muốn tin vào Ðức Giêsu, "anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em." (Ep 4:23-24) Không đổi mới không thể thấy "dấu lạ". Chỉ Thần Khí mới có thể dẫn con người ra khỏi đường mòn và ngõ cụt cuộc đời. Thiếu Thần Khí, con người cứ quanh quẩn với những nhu cầu tầm thường và chết ngộp dưới sức nặng vật chất. Cuộc đời trở thành đấu trường đầy dẫy bất công và vô đạo. Muốn được giải thoát, chúng ta "phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4:24) Con người ấy sẽ sống nhờ "bánh bởi trời, bánh đích thực" (Ga 6:32) là Ðức Giêsu Kitô. Nhờ đó, họ sống trong hòa bình và hạnh phúc. Thật vậy, chỉ khi nào trở về con người đích thực, họ mới nhận ra Ðức Chúa là Thiên chúa (x. Xh 16:12) và "Ðấng Người đã sai đến" (Ga 6:29) giải thoát nhân loại khỏi cơn đói khát triền miên.
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?
Ngày nay, cơn đói khát cả tinh thần lẫn vất chất lan rộng khắp thế giới. Phải có một cuộc "liên đới toàn cầu" mới tạo nổi sức mạnh giải quyết vấn đề quá sức lớn lao đó. Ðây là quan tâm chính và cũng là phương châm của 450 đại biểu thuộc hơn 150 tổ chức Caritas quốc gia họp tại Roma từ ngày 7 đến 12 tháng 7 năm 2003.
Trong lá thư viết cho ÐGM Youhanna Fouad El-Hage, chủ tịch Caritas Quốc tế và là TGM tại Lebanon, ÐGH Gioan Phaolô II viết: "việc toàn cầu hóa phải được mọi giai tầng chính trị nhận thức. Muốn cho sự liên đới mang chiều kích toàn cầu, phải thực sự quan tâm tới mọi dân tộc khắp nơi trên thế giới. Trước hết, phải có những nỗ lực quốc tế lớn lao bảo đảm vững chắc cho những tổ chức nhân đạo. Những tổ chức này thường bị gạt qua một bên mỗi khi có tranh chấp, vì họ không được bảo đảm an ninh cũng như quyền giúp đỡ con người" (Zenit 7/7/03) sống và phát triển. Tìm đâu ra hứng khởi và sức mạnh hỗ trợ cho những nỗ lực như thế ? Chỉ Lời Chúa mới có thể đem "thần khí và sự sống" cho toàn thể vũ trụ. Lời Chúa mới có thể hiệp nhất nhân loại trong nỗ lực chống nghèo đói trên thế giới. Chính vì thế, việc toàn cầu hóa tình liên đới trên hết là một lời đáp lại tiếng Ðức Giêsu mời gọi khẩn thiết trong Tin mừng. Ðối với các Kitô hữu, lời mơi gọi này đòi chúng ta phải đi theo một con đường thiêng liêng đích thực, cải hóa tâm hồn và con người." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Theo tinh thần đó, "viện trợ không chỉ là việc bố thí cho người nghèo, khiến người cho tự hào và người nhận tủi hổ." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03) Ðể tránh tình trạng đó, "việc toàn cầu hóa tình liên đới đòi chúng ta phải sát cánh làm việc và thường xuyên liên đới với những tổ chức quốc tế. Chính những tổ chức này làm cho các mối tương quan giữa các quốc gia giàu nghèo được luật pháp bảo đảm, cân bằng các mối tương quan đó theo chiều hướng mới, để chấm dứt các các tương quan viện trợ một chiều, thường góp phần làm chênh lệch cán cân giữa các quốc gia qua những món nợ chồng chất từ năm này qua năm khác." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Của cải đã trở thành phương tiện thống trị. Mối quan tâm hàng đầu của con người thời nay là làm sao "được ăn bánh no nê" hằng ngày, bất kể người anh em đồng loại đang chết đói bên cạnh. Những hạng phú hộ đó nhan nhản khắp nơi. Theo gót Ðức Giêsu Kitô, người tín hữu không thể sống buông thả như thế. Trái lại, vì "được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Ðức Giêsu," (Ep 4:21) họ có khả năng đọc những "dấu lạ". Nhờ đó, họ phấn khởi hướng dẫn mọi ngươi từ "lương thực mau hư nát" tới "lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh" (Ga 6:28) nơi "Ðấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận" (Ga 6:27) là Ðấng Cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
Ðoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Ðức Giê-su với đám đông dân chúng muốn: TN 18-B58
Ðoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Ðức Giê-su với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều. Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Ðức Giê-su đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nỗi. Ðức Giê-su cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra. Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều. Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.
"Tôi là bánh trường sinh"
Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích. Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất. Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Ðâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ ? Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói ? Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì ?
Lời tuyên bố của Ðức Giê-su không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng. Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ. Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này ? Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình. Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.
Ðó là điều Ðức Giê-su muốn đề nghị qua lời tuyên bố "Tôi là bánh trường sinh."
"Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin ..."
Khi đám đông đến gặp Ðức Giê-su, Người đã nói với họ: "Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê". Ðức Giê-su biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần. Trong thâm sâu, có lẽ Ðức Giê-su muốn nói với họ rằng: "Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến. Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm".
Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.
Tin vào tôi tức là vào Ðức Giê-su, người đang nói chuyện với đám đông. Ðây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện. Tin Ðức Giê-su là Ðấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.
Lời đề nghị của Ðức Giê-su không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.
Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Ðức Giê-su buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy. Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.
Cuộc đối thoại quyết liệt
Cuộc đối thoại giữa Ðức Giê-su và đám đông quả là một thứ bi kịch. Ðức Giê-su muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất. Các cử chỉ và lời lẽ của Ðức Giê-su do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm. Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng. Một cuộc đối thoại quyết liệt.
Khởi đầu, đám đông đi tìm Ðức Giê-su. Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.
Nhưng họ đi tìm ai ?
Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ ? Sau khi được Ðức Giê-su nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người.
Gặp Ðức Giê-su, họ đưa ra một loạt câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy ?" –
"Ông sẽ làm gì đây ?" - "Ông làm được dấu lạ nào ?" Và cuối cùng, như một lệnh truyền: "Xin ban cho chúng tôi ..."
Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông. Họ muốn Ðức Giê-su phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo. Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Ðức Giê-su theo những việc Người làm. Ðể đáp lại từ làm của đám đông,
Ðức Giê-su nói: "Tôi là".
Họ hỏi: "Chúng tôi phải làm gì ?"
Ðức Giê-su đáp: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Ðấng Người đã sai đến."
Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
Chính tôi là bánh trường sinh. Hãy đến và hãy tin.
Ðây chính là trọng tâm của bi kịch ; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được. Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và "tôi làm" chỉ là một hình thức của "tôi là" ?
Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình. Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rổi không sống chính sự sống của Ðức Ki-tô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.
Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này. Người ta dễ dàng quả quyết Ðức Giê-su là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình. Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Ðức Ki-tô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.
Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Ðức Giê-su muốn nói với họ. Họ chỉ mong muốn Ðức Giê-su làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Ðức Giê-su là bánh cho họ.
Bánh là chính Thiên Chúa
"Tôi là bánh trường sinh."
Ðây là một khẳng định quan trọng Ðức Giê-su gửi đến mỗi chúng ta. Qua câu nói này, Ðức Giê-su muốn nói với chúng ta: "Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói ; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát."
Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn ; chúng ta khát không phải chỉ nước uống. Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn. Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ. Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.
Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa. Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn. Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Ðức Giê-su Ki-tô.
Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Ðức Ki-tô, và chỉ một mình Người. Chúng ta phải tiến đến với Ðức Ki-tô, chứ không phải là đi tìm bánh. Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Ðức Ki-tô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên: "Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin hãy đến. Chúa thực là bánh trường sinh, là bánh từ trời xuống."
|||
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban cho chúng con Người Con của Chúa. Xin cho chúng con được ăn thịt và máu Người.
Xin cho chúng con được hưởng tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con. Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa.
Xin dạy chúng con đừng chỉ tìm sống cho riêng mình để biết mến yêu người khác, và như vậy, được bước từ cõi chết sang cõi sống. theo F.Cromphout
Sau khi Chúa Giê-su làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều cho hàng: TN 18-B59
Sau khi Chúa Giê-su làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài không đồng tình với quan niệm vật chất, trần tục của họ, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền đi trước sang bờ bên kia Biển Hồ, còn một mình Ngài lên núi cầu nguyện. Nửa đêm, bão tố nổi lên, con thuyền các môn đệ bị đe dọa, Chúa Giê-su đi trên mặt biển đến với các môn đệ, Ngài truyền cho bão tố yên lặng và con thuyền cập bến bình an. Còn dân chúng không thấy Chúa đâu, họ háo hức đi tìm, số người rất đông, gồm những người mới tới cũng như những người đã được ăn bánh hóa nhiều hôm trước. Họ đã gặp Chúa và các môn đệ ở Ca-phác-na-um. Nhân dịp này, Chúa đã giảng dạy cho họ một bài khá dài về bánh hằng sống, và qua đó Chúa mạc khải về Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của bài giảng ấy, vừa móc nối với những gì đã xảy ra trước đó vừa đặt “dàn bài” cho bài giảng theo sau. Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giê-su đòi hỏi dân chúng phải tin vào Ngài: “Các người hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Nghe Chúa nói như vậy, họ hiểu ngay Chúa muốn nói phải tin vào Ngài, nên họ liền đặt câu hỏi với Chúa: “Ông làm được dấu lạ nào để chúng tôi tin ông ? Ông làm được việc gì ?”, nghĩa là họ đòi Chúa phải làm một việc gì phi thường để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, rồi chính họ lại đưa “đề tài” để Chúa biểu diễn quyền năng, họ nói: “Tổ tiên chúng tôi hồi ở trong sa mạc đã được ăn man-na, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”.
Chúng ta biết: man-na là một loại bánh Thiên Chúa đã ban từ trời xuống làm lương thực cho dân Do Thái trong 40 năm hành trình đi về Đất Hứa. Đây là một biến cố vĩ đại không người Do Thái nào không biết, vì thế, suốt chiều dài lịch sử, dân Do Thái luôn luôn ghi nhớ và ca tụng ân huệ man-na, họ gọi đó là ‘bánh bởi trời”,”bánh của các thiên thần”, và trong truyền thống Do Thái, man-na vẫn được coi là dấu lạ vĩ đại nhất, man-na cũng là bằng chứng cho dân Do Thái tin vào ông Mô-sê. Bây giờ Chúa Giê-su đòi họ tin vào Ngài, nên họ đem chuyện man-na ra làm đề tài để đối chiếu Chúa với ông Mô-sê, và yêu cầu Chúa làm một dấu lạ gì tương tự như thế hay hơn thế thì họ sẽ tin Ngài.
Chúa Giê-su đã dùng đề tài họ nêu ra để dạy cho họ và mọi thời đại biết: không phải ông Mô-sê đã ban man-na, ông chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa mới ban ma-na. Đàng khác, man-na chưa phải là bánh thật từ trời xuống, có chăng chỉ là hình bóng, là cái bóng mờ của một thứ bánh thật mà Ngài sẽ ban sau này. Một điều khác biệt quan trọng nữa là man-na chỉ có trong một thời gian ở sa mạc và bao nhiêu người được ăn man-na rồi cũng chết, trái lại, bánh Ngài sẽ ban mới là bánh từ trời đích thực, có những đặc tính: tăng sức mạnh cho thời gian lữ thứ, và cuối cùng ban sự sống đời đời. Đó là ý nghĩa của man-na cũ và Chúa Giê-su đã áp dụng vào man-na mới là bánh hằng sống và ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, đó là bánh Thánh Thể.
Là con cái Chúa ở thế kỷ XXI này, chúng ta không còn có lý do gì để nói rằng chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giê-su đã mặc khải cách đây hai ngàn năm nữa. Ngài nói: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Nhưng thứ bánh mà Chúa nói đến ở đây không phải là thứ bánh mà người Do Thái thời xưa đã hiểu và đã xin Chúa, mà bánh đó là bánh Giê-su, bánh có tên là Giê-su, bánh đó là bánh từ trời xuống, Ngài đã từ trời xuống, bánh đó mới có khả năng đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Thế nhưng thái độ của chúng ta đối với thứ bánh đó như thế nào ? Có phải là thái độ của người Do Thái thời Chúa Giê-su khi được nghe nói về thứ bánh từ trời xuống, thứ bánh ban sự sống đời đời hay là thái độ thờ ơ lãnh đạm đối với thứ bánh vô cùng quý giá đó ? Và nếu trong những lời cầu xin của chúng ta, nhất là trong những lời cầu xin sau những lần ăn bánh Giê-su, chúng ta chỉ cầu xin cơm bánh vật chất, cầu xin tiền bạc, cầu xin sức khỏe, cầu xin thành công, cầu xin địa vị danh giá mà không cầu xin sự sống đời đời mà bánh Giê-su mang lại thì chúng ta cũng chẳng hơn gì những người Do Thái thời Chúa Giê-su.
Chúng ta hãy nhớ: ông Mô-sê và dân Do Thái đã được ăn man-na trong thời gian vượt qua sa mạc. Cuộc đời con người chúng ta hôm nay, sống trong khoảng không gian, thời gian ở trần thế, được coi là một cuộc vượt qua sa mạc, chúng ta cần có lương thực, đó là bánh Thánh Thể. Bánh này không phải như man-na dân Do Thái đã ăn và cũng đã chết, cũng không phải là thứ bánh hóa nhiều trong hoang địa cũng đã hết. Nhưng bánh của Chúa là bánh ban sự sống và bảo đảm được sự sống đời đời với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta biết quý trọng phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để Mình Thánh Chúa trợ giúp chúng ta sống lành, sống tốt ở đời này và bảo đảm cho cuộc sống vĩnh cửu hạnh phúc ở đời sau.
Thời xa xưa, tìm được cách làm ra lửa là cả một phát minh vĩ đại...
Có một nhà phát minh nọ, sau khi đã tìm được nghệ thuật làm ra lửa đã đi từ bộ lạc này sang bộ lạc: TN 18-B60
Có một nhà phát minh nọ, sau khi đã tìm được nghệ thuật làm ra lửa đã đi từ bộ lạc này sang bộ lạc khác để quảng bá phương pháp của mình. Có nhiều bộ lạc tiếp thu phương pháp của ông mà không hề bày tỏ một dấu hiệu nào của lòng biết ơn. Nhưng con người quảng đại này không màng đến chuyện người ta biết ơn hay phản bội. Niềm hạnh phúc của ông là thấy được mỗi ngày càng có được nhiều người hưởng được sự phát minh của ông.
Cũng giống như những bộ lạc trước, bộ lạc cuối cùng mà ông mang đến nghệ thuật làm ra lửa cũng hồ hởi đón tiếp ông. Nhưng không mấy chốc, các tư tế trong bộ lạc tỏ lòng ghen tức, họ âm mưu sát hại ông để xóa bỏ mọi ảnh hưởng của ông. Sau khi mưu sát ông, để đánh tan mọi nghi ngờ, các tư tế cho vẽ một bức chân dung của ông và đặt trên bàn thờ. Trong mọi nghi thức tế tự, tên của ông được thành kính nhắc đến như một đại ân nhân của bộ lạc. Các dụng cụ ông làm ra lửa cũng được các tư tế cho đặt vào trong một chiếc hộp quý. Họ cũng rêu rao rằng bất cứ ai lấy lòng tin mà chạm đến các báu vật ấy sẽ được chữa mọi bệnh tật.
Vị Thượng tế của bộ lạc cũng nhận trách nhiệm biên soạn một tiểu sử của vị phát minh ra lửa. Quyển tiểu sử ấy cũng trở thành một thứ sách Thánh trong đó gương sáng, đời sống gương mẫu của vị đại ân nhân được ca tụng và đề ra như lý tưởng cho mọi người noi theo. Các tư tế cũng tự nhận cho họ quyền được giải thích về cuộc đời và các lời răn dạy của vị phát minh.
Ðể đảm bảo tính cách tinh ròng của những lời răn dạy của vị phát minh, các tư tế ra vạ tuyệt thông hoặc tử hình cho tất cả những ai không chấp nhận những lời giải thích của họ. Dân chúng sợ hãi đến độ dần dà họ chỉ còn biết có những lời giải thích của các vị tư tế và quên hẳn cả chính nghệ thuật làm ra lửa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây đã được một vị linh đạo nổi tiếng của Ấn Ðộ là linh mục Anthony De Mello ghi lại trong các câu chuyện có nội dung giáo lý của cha. Qua câu chuyện này, cha De Mello như muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cái khuynh hướng chung của những người có tôn giáo là dễ dàng quên đi chính cái cốt lõi của tôn giáo. Con người dẽ bám vào những nghi thức bên ngoài của tôn giáo mà quên đi sứ điệp thiết yếu của nó. Chiến tranh tôn giáo, sự bất khoan dung của các tín đồ đều bắt nguồn từ khuynh hướng trên.
Người tín hữu Kitô chúng ta có lẽ cũng không thoát khỏi khuynh hướng ấy. Chúng ta dễ bị cám dỗ nhìn vào đạo của chúng ta như một hệ thống của những cơ cấu, của những nghi thức, của những điều phải tin, phải giữ, nhưng lại quên đi cái cốt lõi của đạo chúng ta chính là tình yêu. Chúng ta sẵn sàng nhân danh Chúa, nhân danh đạo lý để loại trừ, để bách hại người anh em bằng cách này hay cách khác. Rốt cục cũng giống như bộ lạc cuối cùng trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây, lửa của yêu thương mà Chúa Giêsu đã mang đến, chúng ta đã dập tắt đi để thay vào đó bằng những nghi thức thừa thãi trống rỗng. Chúng ta dễ dàng thay thế đạo của yêu thương, đạo của Tin Mừng bằng đạo của hình thức, đạo của giả hình...
Quên đi cốt lõi của Tin Mừng là Yêu Thương, chúng ta cũng loại bỏ chính Chúa Kitô ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Không chừng chúng ta cũng đang đóng đinh Ngài một lần thứ hai. Lời Kinh của chúng ta sẽ chỉ là những tiếng kêu trống rỗng, các nghi thức của chúng ta sẽ chỉ là những trò hề, nếu cuộc sống của chúng ta chưa được thấm nhuần, tưới gội bằng Lửa của Yêu Thương mà Chúa Giêsu đã mang đến cho chúng ta.
Ai trong chúng ta chắc hẳn đã từng ăn một bữa nhớ đời. Nhớ đời chưa hẳn vì bữa ăn đó gồm: TN 18-B61
Ai trong chúng ta chắc hẳn đã từng ăn một bữa nhớ đời. Nhớ đời chưa hẳn vì bữa ăn đó gồm những cao lương mỹ vị, hay là vì được ăn chung với các bậc vị vọng. Đôi lúc đó chỉ là một bữa ăn đơn sơ đạm bạc, nhưng đã để lại một ấn tượng khó quên. Khó quên là bởi vì trong bữa ăn đó, ta được cảm thấy no thỏa, được chăm sóc, hay có được một sự thân mật đậm nét tình người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan kể lại phản ứng của dân chúng sau khi được ăn một bữa no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá (Ga 6:1-15). Cả bốn Phúc âm đều thuật lại biến cố đầy ấn tượng này. Ở nơi đồng không mông quạnh mà Đức Giêsu đã cho trên 5000 người được ăn no nê, còn dư đến hơn 12 sọt bánh vụn, thì quả là một kỳ tích rất đáng phục. Thế nên ta sẽ không ngạc nhiên khi dân chúng, đa số là những người nghèo khó, tìm thấy nơi Đức Giêsu một vị lãnh đạo tài tình. Họ kỳ vọng Ngài sẽ giải thoát họ khỏi sự nghèo đói. Thấy Đức Giêsu có phép màu, họ muốn tôn Ngài lên làm lãnh tụ.
Thế nhưng Đức Giêsu không chiều lòng họ. Ngài dư biết họ chỉ quan tâm đến những quyền lợi vật chất. Ngài bảo cho họ biết họ hãy cố sức tìm thứ thực phẩm bền bỉ đem lại sự sống vĩnh cửu thay vì lo tìm thứ thực phẩm ăn rồi lại đói. Ở đây chúng ta thấy một thách đố tương tự như câu chuyện Ngài đã gặp gỡ người đàn bà xứ Samari bên bờ giếng (Ga 4, 1-42). Người đàn bà khao khát thứ nước uống vào sẽ không khát, và Đức Giêsu tỏ lộ cho bà thấy Ngài chính là Nước Hằng Sống, là nguồn sinh lực đem lại tình yêu bền bỉ trường tồn.
Trong câu chuyện tin mừng hôm nay cũng thế. Đang khi quần chúng chỉ nghĩ đến việc được ăn no, thì Đức Giêsu nghĩ đến phúc trường sinh thiêng liêng Ngài muốn chia sẻ với họ. Ngài chính là bánh từ trời ban sức sống. Năm xưa Thiên Chúa nuôi dân Người trong hoang địa Sinai bằng bánh manna cũng từ trời xuống (Xh 16, 4-5, 14-36). Sách Xuất Hành thuật lại rằng khi con cái Israel đói khát trong sa mạc, Thiên Chúa đã không bỏ rơi họ. Mỗi sáng có lớp sương phủ quanh lều trại của họ, và sau khi sương tan thì trên mặt đất đầy thứ bánh nho nho mịn màng. Và cứ như thế trong 40 năm lưu lạc trước khi vào được Đất Hứa, Thiên Chúa đã chăm sóc họ như thế đó.
Trong trình thuật của Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu tỏ cho dân chúng biết Ngài chính là bánh thần lương đó. Ngài là manna mới, là bánh từ trời xuống, đem lại sự sống cho thế gian. Nhưng khác với manna tổ tiên họ được ăn, Ngài là bánh trường sinh, ai ăn sẽ sống muôn đời. Đây quả là một câu nói khó được chấp nhận. Làm sao một con người có thể trở thành bánh nuôi kẻ khác sống? Làm sao có thể được trường sinh? Không phải Đức Giêsu đang mị dân sao? Nhiều người nghe Ngài nói cảm thấy khó chấp nhận, và họ đã từ từ bỏ đi.
Điều này chỉ có thể hiểu được trên bình diện đức tin. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến để chăm sóc cho dân Người, như Người đã làm cho tổ tiên họ năm xưa. Ai tìm đến Ngài sẽ không còn đói; ai tin vào Ngài sẽ không còn khát. Đức Giêsu không chỉ thỏa mãn cơn đói khát thể lý mà còn là sự khát khao tinh thần của họ. Khát vọng được nâng đỡ, được chăm sóc, được thông cảm, được tôn trọng, được thương yêu, mãi mãi vẫn là sự khao khát của con người hôm qua và hôm nay.
bcda
Khi tuyên bố Ngài là bánh cho nhân loại, Chúa Giêsu đã hé mở thân phận và sứ mạng của Ngài – Emmanuel – Ngài chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Năm xưa Thiên Chúa ban manna từ trời xuống cho dân Israel. Tình yêu ban phát từ trời xuống. Ân huệ trao ban để cứu vớt dân Ngài. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy Ngài không đến từ bên trên, không chỉ ban phát ân huệ, mà Ngài ước ao được ở cùng với con người, ở trong con người. Khi trở thành bánh, Ngài muốn đồng hóa với sự sống từ bên trong. Khi trở thành bánh, Ngài muốn ở cùng người ăn bánh, chia sẻ vào cuộc sống của họ.
Tình yêu là thế đó. Tình yêu không phải là ban phát, trao tặng, nhưng là “ở cùng.” Ở cùng đúng nghĩa là tình yêu trọn gói. Khi cho ai một món quà là trao bao một phần sở hữu. Khi cho đi chính mình là cho hết. Ở cùng là chia sẻ thân phận với người mình yêu mến. Ở cùng là hiện diện (being) với một ai đó, chứ chưa chắc là làm được (doing) điều gì cho họ. Khi người mẹ ngồi bên giường bệnh chăm sóc cho con, bà không có năng lực làm cho con khỏi bệnh, nhưng bà hiện diện với con của mình, chia sẻ nỗi mệt nhọc của con. Bà lấy nỗi đau của con làm nỗi đau của mình.
Trong cơn đau, con người thường mong Thiên Chúa làm một cái gì đó để cất đi chén đắng cuộc đời. Người ta thường cho rằng Chúa thương tôi thì Chúa phải làm điều gì đó cho tôi. Tình yêu thì phải cụ thể hóa bằng hành động chứ. Nói suông thì được ích gì? Thế nhưng, con đường của Đức Giêsu lại không như thế. Thay vì cứu cho tôi khỏi chết thì lại chết cho tôi. Thay vì chữa tôi khỏi đau thì lại cùng đau với tôi. Đó chính là ý nghĩa thâm sâu của mầu nhiệm Thánh Thể mà Tin Mừng Gioan muốn truyền đạt lại cho chúng ta trong Chương 6.
Không giống như các sách Tin Mừng khác, Gioan đã không đặt trọng tâm của phép Thánh Thể vào bữa tiệc ly, nhưng ông khai triển giáo lý về bí tích Thánh Thể ngay sau bữa ăn kỳ diệu bánh hóa nhiều. Theo Gioan bí tích Thánh Thể phải được hiểu không phải như một dấu ấn của kỷ niệm, không phải như một bữa ăn chia tay của người sắp ra đi, nhưng phải được hiểu trong bối cảnh của một bữa ăn thấm đậm tình người, một bữa ăn sẻ chia những thực phẩm ít oi đã được thánh hóa.
Như thế, bí tích Thánh Thể là tình yêu đi vào cuộc sống. Khi tôi ăn Bánh trường sinh và uống Chén cứu độ, tôi trở nên một với Đấng Hằng Sống. Và Ngài nên một với tôi.
Hôm nay, khi chúng ta quây quần bên bàn tiệc Thánh, chúng ta lại một lần nữa xin ơn để nhận ra dấu chỉ của tình yêu, của một Thiên Chúa muốn cùng hiện diện với chúng ta trong cuộc sống. Và rồi cũng như bàn tiệc năm xưa, cuộc sống chúng ta cũng cần được bẻ ra, trao ban cho người khác. Có thể chúng ta không làm được gì nhiều để ủi an, chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kẻ khác. Nhưng ít ra, khi hiện diện với ai đó với hết cả tâm tình của mình, chúng ta đang đi vào cuộc đời của nhau.
Ân cần hiện diện, ân cần chăm sóc, ân cần chia sẻ, phải chăng đó chính là mầu nhiệm Thánh Thể đang diễn ra trong cuộc sống chúng ta?
Lương thực là nhu cầu thiết yếu của con người. Có nhiều thứ lương thực, có thứ lương thực: TN 18-B62
Lương thực là nhu cầu thiết yếu của con người. Có nhiều thứ lương thực, có thứ lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thứ lương thực nuôi dưỡng tinh thần và có thứ lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, phần rỗi con người. Ngày nay, có thể người ta không thiếu lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thiếu là do người ta chưa biết san sẻ cho nhau. Tuy nhiên một điều chắc chắc là người ta thiếu tình thương, vì thiếu tình thương nên thể hiện quá nhiều thứ tiêu cực, thể hiện quá nhiều bạo lực trong thế giới, trong xã hội và ngay trong gia đình, thậm chí trong chính bản thân con người.
Chúa Giêsu là Đấng đã trao ban tình thương, bình an và gieo niềm hy vọng. Ngài đã trao ban những điều mà nhân loại đang thiếu thốn. Đó là tình thương vì chỉ có tình thương này mới có thể lấp đầy những thiếu thốn kia. Thật thế, phép lạ hoá bánh ra nhiều thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, Chúa cho no nê về thể xác mà người ta thấy được rõ ràng, Chúa còn cho người ta tình thương, Chúa cho người ta sự liên đới, sự cộng tác với Chúa, sự quảng đại san sẻ của cải, san sẻ tình người,...điều đó người ta có thể cảm nhận và học hỏi được. Do đó, khi lòng người cảm nhận được Chúa yêu thương, quan tâm chăm sóc thì đó chính là lúc tâm hồn mình được bình an không còn xáo trộn nữa mà được thúc bách thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, thể hiện tình người cho nhân thế và thể hiện được nền văn minh sự sống. Được như thế thì bản thân, gia đình và đến cả xã hội, thế giới sẽ không còn thiếu thốn nữa mà là đầy đủ thậm chí là dư tràn, dư tràn tình thương của Chúa, dư tràn lòng mến thương nhau. Đó chẳng phải là điều Chúa Giêsu khát mong, điều mà tình thương của Ngài thật sự hữu hiệu.
Trên bình diện nhân linh, con người luôn luôn cần và rất cần thậm chí có thể nói, con người đói khát chân lý và các thực tại siêu nhiên, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận thì không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khát khao vô hạn của con người. Vì con người tự thân là một "khao khát vô biên, khao khát tuyệt đối" và duy chỉ con người mới có khả năng đó. Chính thánh Augustino đã nói lên điều này: "Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con khao khát mãi cho đến khi được nghỉ ngơi trong Chúa". Chúa Giêsu hẳn đã biết được tâm trạng này nên Ngài đã kêu mời: "hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 28, 28 - 30). Vả lại, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta hãy lo cho phần rỗi của mình, lo cho sự sống đời đời: "hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em" (Ga 6, 27)
Chính Ta là bánh Hằng Sống, đây là một chân lý quan trọng, là một khẳng định dứt khoát cho con người. Chỉ khi con người tin nhận, đến với và đón lấy thì con người sẽ nhận được sự sống đời đời, sự bình an và niềm hoan lạc đích thực. Đó hẳn thật là một hành trình, hành trình của tình yêu, tình yêu càng lên cao mãi, tình yêu này làm cho con người no thoả, không còn phải đói khát, tình yêu này làm cho con người biết liên đới với tha nhân, chung sống và chung xây hoà bình và lợi ích của nhau. Và thật sự chính Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể chính là mối giây liên kết mọi người cùng tồn tại trong đức ái, thể hiện tình mến thương chân thành và luôn đi trong lòng mến. Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông. Hơn nữa, Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu , luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài. Bên cạnh đó, Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự Thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát và siêng năng chay đến với bí tích Thánh Thể, để chúng con đón lấy suối nguồn yêu thương của Chúa và chúng con sẵn sàng trao ban tình thương Chúa cho mọi người. Amen.
Đức Giêsu hứa ban Bánh Hằng Sống là Lời Người dạy và là bí tích Thánh Thể do Người thiết lập.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy ? (26) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” (29) Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. (33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (34) Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. (35) Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. Ý CHÍNH:
Đức Giêsu cảnh báo việc dân chúng đi tìm Người chỉ vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư: TN 18-B63
Đức Giêsu cảnh báo việc dân chúng đi tìm Người chỉ vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả man-na thời kỳ xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được người ta khỏi chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực là Con Người là Đấng từ trời mà đến và ban sự sống cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
3. CHÚ THÍCH:
- C. 24-25: + Ca-phác-na-um: Là một thành phố thuộc xứ Ga-li-lê, nằm gần biển hồ Ti-bê-ri-a. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động trong thời gian giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như: Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô và chữa lành nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết sống lại (x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Thành này là một trong các thành Do Thái bị Đức Giêsu quở trách, vì đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15).
- C. 26-27): + Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê: Đức Giêsu cảnh báo dân chúng đi tìm Người do động lực vụ lợi: Để được có cơm bánh mà không phải lao công làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh: Đức Giêsu không phủ nhận nhu cầu bánh ăn vật chất, nên Người đã làm phép lạ cho dân chúng ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng: Trên cuộc sống thể xác là cuộc sống tinh thần sẽ tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực đem lại sự sống đời đời là bí tích Thánh Thể mà Ngừơi sắp thiết lập. + Con Người: Là một nhân vật thần thiêng mà ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng là Con Người từ trời mà đến, Đức Giêsu khẳng định Người mới là sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và giúp chu tòan sứ mệnh ấy (x. Lc 4,18 ; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận: Con dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phaolô: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu làm bảo chứng xác nhận Người thực là Đấng Thiên Sai.
- C. 28-29: + Chúng tôi phải làm gì ?: Đây là câu hỏi của dân chúng bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa, sau khi họ nghe rao giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gio-an Tẩy Giả tại sống Gio-đan (x. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần tại Giê-ru-sa-lem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến: Đấng Thiên Chúa sai đến nói đây chính là Đức Giêsu.
- C. 30-31: + Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ?: Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi Đức Giêsu làm một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mệnh Thiên Sai của Người, giống như Mô-sê đã làm phép cho man-na từ trời mưa xuống để nuôi dân Ít-ra-en suốt 40 năm trong sa mạc, nên man-na được gọi là bánh bởi trời. + Man-na: Phát xuất do từ “Man-nu ?”, nghĩa là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ít-ra-en không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Mô-sê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”.
Như vậy, Man-na chính là lương thực đi đường mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en một cách lạ lùng, trong thời gian họ đi băng qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Man-na có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Man-na là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban, và dân Ít-ra-en phải ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Khi dân Ít-ra-en vào tới Đất hứa Ca-na-an và bắt đầu được ăn các loại thổ sản tại đó thì Man-na không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trên trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để họ đủ sức tiến về Đất Hứa Thiên Đàng, tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp (x. Mt 8,11).
- C. 32-33: + Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi: Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ: Man-na được ban trong thời kỳ Xuất Hành không phải do Mô-sê ban, nhưng là do chính Đức Chúa đã ban cho dân. Ngoài ra man-na cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là luơng thực vật chất mau hư nát và chỉ nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), nên dù có ăn man-na, người ta cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian: Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần phải có hai đặc tính là xuất phát từ trời, và ban sự sống đời đời. Bánh ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, nay được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sắp ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho ai lãnh nhận (x. Ga 6,51).
- C. 34-35: + Chính tôi là Bánh Trường Sinh: Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gio-an đã ghi lại một số câu như: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34) ; Tôi là Ánh Sáng thế gian (x. Ga 8,12; 9,5) ; Tôi là Cửa cho chiên ra vào (x. Ga 10,7) ; Tôi là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) ; Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống (x. Ga 11,25); Tôi là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (x. Ga 14,6); Tôi là Cây Nho thật (x. Ga 15,1)… Ở đây, khi khẳng định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muớn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập. Qua đó Người sẽ nên bánh thiêng nuôi người dương thế và đem lại cho họ hạnh phúc muôn đời. + Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận bí tích Thánh Thể được no thỏa. Người cho những ai đặt trọn niềm tin vào Người thỏa mãn khát vọng sống vĩnh hằng.
4. CÂU HỎI: 1) Bạn biết gì về thành Ca-phác-na-um ? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giêsu muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người ? 3) Tại sao Đức Giêsu tự xưng mình là Con Người ? 4) Dức Giêsu trả lời cho dân chúng biết họ cần làm gì sau khi nghe giảng Tin Mừng ? 5) Dân Do Thái muốn Đức Giêsu làm gỉ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người ? 6) Thời Môsê danh từ Man-na ám chỉ điều gì, được ban cho ai và nhằm mục đích gì ? Trong Tân Ước Man-na ám chỉ điều gì ? 7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào ? 8) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói về điều gì ? 9) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được những ơn gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói. ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. CÂU CHUYỆN: CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI
Một hôm có một lão hành khất gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta trên đường phố và chìa tay ra xin bà bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào, bà đánh vỗ vai ông lão, vừa tươi cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để chia sẻ cho ông. Bấy giờ lão hành khất nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và lời an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng !”.
3. SUY NIỆM:
1) Cơm bánh vật chất là nhu cầu cần phải được thỏa mãn:
Ngày nay một phần ba nhân loại đang lâm cảnh đói nghèo có nhu cầu cần được mọi người trong đó có các tín hữu chúng ta tận tình đáp ứng để vượt qua hòan cảnh khó khăn. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng theo Người bị đói. Và Người đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng việc nhân bánh ra nhiều cho họ được ăn no.
2) Con người còn có những nhu cầu tinh thần cần được đáp ứng:
Tin Mừng hôm nay ghi lại việc đám đông dân chúng háo hức đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh mà không vất vả lao động, giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban bánh bởi trời là man-na cho dân Do thái thời kỳ xúât hành. Họ đã bị Đức Giêsu cảnh báo “Đừng lo tìm những thứ của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người biết rõ tâm lý con người luôn khát vọng các giá trị tinh thần. Đức Giêsu đã giới thiệu về Bánh Hằng Sống, là bánh từ trời mà đến và ban sự sống đời đời cho trần gian. Banh ấy là chính Đức Giêsu.
3) Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là Bánh Hằng Sống ban ơn cứu độ:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu hứa ban Bánh Hằng Sống là Lời Người dạy và là bí tích Thánh Thể do Người sắp thiết lập để ban ơn cứu độ cho người đón nhận.
4) Làm gì để chia sẻ Bánh tình thương cho tha nhân ?
Các tín hữu chúng ta ngoài việc phải lao động làm ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân và chia sẻ cho những kẻ nghèo đói, chúng ta còn có bổn phận năng đi dự thánh lễ để đón nhận Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, và sẵn sàng chia sẻ Chúa là “Con Đường” duy nhất dẫn đưa ta lên trời, là “Sự Thật” được Chúa Cha mặc khải để lòai ngừơi nhận ra tình yêu cứu độ của Chúa, và là “Sự Sống” đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận.
4. THẢO LUẬN: Bạn cần làm gì để có được hai thứ Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa ? 2) Bạn sẽ làm gì để giúp những người đói nghèo bệnh tật hay đang đi tìm Chúa nhận được niểm vui ơn cứu độ của Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Những lúc con được no đủ, xin hãy gửi đến cho con một người nghèo đói cần được chia sẻ cơm ăn áo mặc. Khi con đang vùi mình trong chăn ấm nệm êm, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi cóng lạnh giữa giá rét đang cần được sưởi ấm. Khi con sống trong an bình, xin hãy dạy con ý thức rằng còn nhiều người đang cần sự trợ giúp quảng đại của con. Khi thập giá đời con giảm nhẹ bớt, xin hãy giúp con sẵn lòng ghé vai vác đỡ gánh nặng cho người anh em. Khi con làm ăn thất bại, xin giúp con khôn ngoan vượt qua để cảm thông với những người đồng cảnh ngộ. Khi con có nhiều thời giờ nhàn rỗi, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi khuyết tật để con ân cần phục vụ. Khi con được may mắn thành công, xin hãy gởi đến cho con một người bị thất bại để con động viên khích lệ. Khi con ích kỷ chỉ biết nghĩ đến bản thân, xin dạy con quên mình nghĩ đến tha nhân và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa.- AMEN.
Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến: TN 18-B64
Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục, thế nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá và nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng đều từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết chàng nhớ nhà nên anh đã tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một nắm cơm.
Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng chàng vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: Này con, đây là nắm cơm mẹ con đã thổi. Nghe thế chàng bèn tươi ngay nét mặt và nói: Vâng, cơm mẹ con đã thổi xin cho con một miếng. Từ đó chàng bắt đầu bình phục.
Phải chăng đó cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Thực vậy, chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hằng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Cha Ta cho các ngươi bánh bởi trời đích thật. Bánh của Thiên Chúa từ trới đến và ban sự sống cho thế gian. Cũng giống như người cha trong câu chuyện đã nói với con mình: đây là cơm mẹ con đã thổi.
Vì thế, vị linh mục nhân danh Đức Kitô cũng nói với chúng ta: Đây là bánh Cha chúng ta ở trên trời đã làm. Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống, bánh chữa lành thiêng liêng, cũng như trao ban sức mạnh cho tâm hồn. Không có phù phép gì trong nắm cơm của người mẹ. Nhưng có tình yêu là như một phép mầu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng nắm cơm người mẹ đã thổi gói ghém biết bao nhiêu tình thương.
Cũng thế, là những kẻ theo Đức Kitô, chúng ta biết rằng: Tình yêu được ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây và ngay lúc này. Thánh vịnh đã ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban manna, một thứ của ăn lạ lùng của Chúa trong cuộc hành trình trở về đất hứa. Manna là hình ảnh của bánh Thánh Thể.
Chúng ta cũng dùng chính những lời người Do Thái đã dùng khi cảm tạ và ca tụng Chúa, vì bánh Thánh Thể Chúa ban như là manna cho tâm hồn chúng ta được sống trong cuộc lữ thứ trần gian này: Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Ngài làm mưa manna trên họ để trở nên của ăn và Ngài cho họ bánh bởi trời.
Loài người được ăn bánh của Đấng toàn năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Và hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng: Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho những tâm hồn mang thương tích, là ánh sáng và sức mạnh cho những kẻ yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: Thánh Thể là bánh được đem đến từ nhà của chúng ta ở trên trời.
Chúa Giêsu vừa mới nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Lạ lùng thật. Tư: TN 18-B65
Chúa Giêsu vừa mới nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Lạ lùng thật. Từ thời Môsê tới lúc đó người ta chưa hề thấy một điều lạ nào như vậy. Thế là đám đông coi Ngài như vị giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa và họ chuẩn bị tôn vinh Ngài làm vua. Nhưng vô ích thôi, Ngài đã dự đoán trước chuyện này và Ngài rút lui lên núi một mình trong lúc các môn đệ chèo thuyền sang bờ bên kia. Và giữa đêm khuya Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến gặp các ông.
Ngày hôm sau, dân chúng nhận thấy rằng vị vua của họ đã thoát khỏi tay họ. Ngài đã đặt một cái hố ngăn cách giữa họ và Ngài. Nhưng họ không chịu thua. Họ tức tốc lên thuyền và qua bờ bên kia để “tìm kiếm Chúa Giêsu”.
Thật cảm động khi thấy đám đông này theo đuổi Chúa Giêsu. Họ nhìn nhận Ngài là một Đấng cao cả. Họ cảm thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài và thấy Ngài có quyền uy làm cho họ được no nê, thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Một cuộc tìm kiếm thật xúc động và bi đát, vì những người này tỏ ra không thể gặp Ngài đúng nơi Ngài muốn được gặp. Với tất cả tài khéo léo và nỗ lực họ chèo hết tốc độ hướng về Chúa Giêsu, tuy nhiên về mặt thiêng liêng họ vẫn xa cách Ngài. Họ tìm kiếm Ngài và đã gặp được Ngài, nhưng chỉ gặp Ngài ở một bình diện chẳng mang đến một lợi ích nào, và việc khám phá của họ cũng chỉ là uổng công. Họ đứng trước mặt Chúa Giêsu, nhưng không tiếp xúc được với Ngài.
Chúng ta có khác họ lắm không? Đôi khi chúng ta cũng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi không có Ngài và gặp được Ngài nơi Ngài không hiện diện. Thường thường ta chờ đợi nơi Ngài những điều khác hẳn với những gì Ngài muốn ban cho ta và những điều ấy đã đánh lạc hướng tìm kiếm của chúng ta.
Tìm kiếm từ phép lạ.
Chúa Giêsu nói với người Do Thái: “Anh em tìm kiếm tôi không phải vì anh em đã nhìn thấy những dấu lạ, nhưng bởi vì anh em đã được ăn no”. Những người Do Thái nhìn Chúa Giêsu như một người cung cấp lương thực. Họ nhìn đúng. Nhưng Ngài trách họ đã không nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Họ lợi dụng nó, mà không suy nghĩ gì hơn nữa. Họ dừng lại ở mức độ một việc cứu đói và làm cho dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho họ trở nên vô ích.
Xa hơn nữa, khi Chúa Giêsu tuyên bố rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, người Do Thái lại đòi Ngài làm một dấu lạ để họ tin vào Ngài, họ đòi hỏi những bằng chứng: “Ông làm được dấu lạ nào, để khi nhìn thấy, chúng tôi có thể tin?”. Đi xa hơn nữa họ muốn Ngài tái diễn phép lạ manna trong sa mạc, thứ bánh từ trời mà đến.
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa liên lỉ ban cho loài người những dấu lạ để khơi dậy niềm tin của họ. Chính Ngài đưa ra sáng kiến và chọn những dấu chỉ của Ngài. Ngài từ chối không chịu để cho con người áp đặt những dấu chỉ mà họ muốn Ngài phải làm, vì có những dấu chỉ không phục vụ cho đức tin. Vậy nên Chúa Giêsu luôn luôn từ chối những cử chỉ biểu lộ quyền năng. Những phép lạ của Ngài không hề muốn cưỡng ép đức tin của ai cả, nhưng khiến họ tự hỏi về Ngài. Ngài không làm dấu lạ theo đơn đặt hàng. Ngài ban cho dấu lạ của Giona nhưng không phải dấu lạ về con cá voi, nhưng là dấu lạ về việc rao giảng của ông. Dân thành Ninivê không đòi ông Giona phải làm một dấu lạ lẫy lừng: Chỉ nguyên lời rao giảng của ông đã hoán cải họ. Lời của ông đã có được hiệu năng nơi chính nó.
Cũng vậy, người Do Thái phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, bởi uy tín của Lời Ngài. Ngài từ chối thực hiện một dấu lạ từ trời để làm cho họ tin. Chính nơi nội tâm con người mà Lời Chúa phải phát sinh hiệu quả chứ không phải nhờ một dấu lạ làm quáng mắt họ. Tìm kiếm Thiên Chúa qua những dấu lạ lẫy lừng, sẽ không gặp được Ngài. Vì nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã không muốn tỏ ra mình là Đấng quyền năng và thi thố quyền năng bằng những việc lạ lùng, nhưng chỉ là Đấng Cứu Độ con người mà thôi.
Tìm kiếm, tức là tin.
Bị thách thức bởi sự tiếp đón khá lạnh nhạt của Chúa Giêsu, những người Do Thái kia mới hỏi: “Chúng tôi phải làm gì, để gọi là làm công việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu trả lời: “Công việc của Thiên Chúa, là anh em tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
Câu hỏi ở số nhiều. Người Do Thái muốn biết Thiên Chúa chờ đợi nơi họ những công việc nào: Những kinh nguyện nào, những việc bố thí nào, những việc dâng cúng nào, v.v… Họ muốn những chỉ thị cụ thể và chính xác. Chúa Giêsu trả lời họ ở số ít. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nơi họ một việc thôi, đó là tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Thậm chí không phải là một việc làm nữa, nhưng là tin. Và đó là việc của Thiên Chúa hơn là của con người. Đó thực sự là việc của Thiên Chúa, việc phát xuất từ Ngài. Phần của con người là đón nhận hồng ân Thiên Chúa, ban nơi Chúa Giêsu Kitô.
Dĩ nhiên các việc lành không phải là không đáng kể, thậm chí còn cần thiết nữa. Nhưng sự sống đời đời trước hết là tin theo Chúa Giêsu. Sau đó phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.
Ở đây Chúa Giêsu khẳng định vị trí ưu tiên tuyệt đối của đức tin. Tìm kiếm Thiên Chúa, tức là thiết lập với Ngài một mối tương quan sâu xa, tức là cởi mở đối với lời mời gọi mà Ngài gửi đến chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, điều mà thánh Phaolô gọi là sự vâng phục của đức tin. Hôm nay chúng ta đừng khép kín lòng mình lại, và hãy dành chỗ cho Lời Chúa trong đời sống chúng ta.
Vào Chúa Nhật trước chúng ta đã bắt đầu đọc chương 6 của Phúc Âm theo thánh Gioan. Một chương: TN 18-B66
Vào Chúa Nhật trước chúng ta đã bắt đầu đọc chương 6 của Phúc Âm theo thánh Gioan. Một chương gồm có bẩy mươi mốt câu, là chương dài thứ hai trong Tân Ước sau chương thứ nhất của thánh Luca gồm có tám mươi câu.
Chương đầu tiên của thánh Luca nói về những biến cố dẫn đến việc Chúa Giêsu được sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chương thứ sáu của Thánh Gioan hé mở giáo huấn của Chúa Giêsu tuyên xưng mục đích Ngài đến và tỏ hiện những đặc ân của Ngài qua bí tích Thánh Thể.
Chương này của thánh Gioan là chương dài trong phụng vụ, đã được chia làm năm phần qua năm Chúa Nhật. Để thấu hiểu ý nghĩa tuyệt vời của bức ranh mà thánh Gioan đã minh hoạ, thật cần thiết chúng ta phải trở lại nhìn chương này như một tổng thể.
Câu chuyện bắt đầu bằng Chúa Nhật trước với phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và 2 con cá, điều quan trọng của biến cố này được nhìn nơi sự kiện, đây không phải là phép lạ duy nhất của Chúa Giêsu đã được kể lại trong bốn Phúc Âm. Cung cách đã được tường thuật bởi mỗi soạn giả Phúc Âm làm cho người ta tin và nghĩ về Thánh Thể. Thí dụ thánh Gioan trong câu nói rằng, Chúa Giêsu đã dâng lời tạ ơn trước khi Ngài bẻ bánh. Lời nguyện gốc tiếng Hy lạp là: “Dâng lời tạ ơn, là Thánh Thể, là hy tế tạ ơn”. Điểm chính yếu của câu chuyện là Chúa Giêsu đã để tâm đến một điều gì đó hơn là chuyện thực phẩm bình thường.
Chúa Nhật này là một khung cảnh đã xảy ra trên bờ biển Galilê, nơi mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tại hội đường Caphanaum, giảng một bài giảng về hy tế Thánh Thể. Chúa đã bắt đầu bài giảng lời kêu gọi tin vào chính Người, vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến trong trần gian. Đức tin này thật cần thiết để chấp nhận hy tế Thánh Thể tuỳ thuộc hoàn toàn vào lời của Chúa Giêsu.
Vào Chúa Nhật thứ ba bài giảng được tiếp tục, trong phần này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc chuyển đổi từ đức tin vào Người đến đức tin là đặc ân của Người là hy tế tạ ơn. Một đức tin phải dẫn tới một điều khác.
Vào Chúa Nhật thứ bốn Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách công khai và rõ ràng giáo lý của Người, Ngài tuyên bố với lời lẽ xác quyết: “Bánh mà Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống”, sau những phản ứng tiêu cực của đám đông Ngài đã nói một cách mạnh mẽ hơn nữa: “Thịt của Ta thật là thức ăn và Máu Ta thật là của uống”.
Chúa Nhật cuối cùng đã giới thiệu một thách đố. Mọi người có thể không nhiệt tình với lời hứa, với Chúa Giêsu. Một ngày kia họ đã nghe lời giáo huấn của Người, họ phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ nó. Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Nhiều môn đệ đã lấy làm chướng tai và không còn đi theo Ngài nữa” Ngay cả các môn đệ cũng đã có những phân vân giao động trong tâm trí. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Các con có muốn ra đi không? Có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô trả lời: “Lạy Thầy bỏ Ngài chúng con biết đi theo ai, chính Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Cố gắng đọc toàn thể chương sáu trong từ thế ngồi. Điều đó sẽ giúp cho các bạn thấu triệt được hy tế Thánh Thể mà phục vụ đã hé mở cho chúng ta qua ba Chúa Nhật kế tiếp.
7. Chúng ta sống nhờ sự vật hay nhờ một ai?
(Trích trong Lương Thực Ngày Chúa Nhật – Achille Degeest).
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc âm thứ tư. Thánh Gioan đã chuyển những gì Đức Giêsu đã nói trước các thính giả kém cỏi hơn thành những dòng chữ cho thích hợp với các độc giả cuối thế kỷ I. thực tế, những gì Thánh Gioan kể lại, là do Đức Giêsu đã nói thật sự, nhưng với từ ngữ, những công thức, những ráp nối được Thánh Gioan viết lại. Thánh Gioan đã trung thành chuyển đạt lời rao giảng của Đức Giêsu, vì ngài đã viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nhưng chuyển đạt không phải bằng cách thức thâu phát băng nhựa. Với tư cách là một môn đệ trung thành đã suy nghĩ nhiều, ngài đã tiêu hóa lời giảng dạy của Thầy, rồi ngài truyền đạt lại lời giảng dạy này xuyên qua những từ ngữ của riêng ngài, cách thức ngài diễn tả, lề-lối ngài suy tư. Tóm lại ngài vừa là chứng nhân, vừa là người được linh ứng.
Bài giảng về bánh sự sống trình bày ý nghĩa tiềm ẩn trong phép lạ bánh hoá nhiều Đức Giêsu đã muốn cho một dấu hiệu. Ngài đã quyết định làm một công việc với ý muốn chứng minh rằng chính Chúa Cha đã làm công việc này xuyên qua Ngài. Như thế Ngài muốn cho thấy chính Ngài là Đấng đem lại sự sống vĩnh cửu cũng như của ăn cần thiết cho đời sống ấy. Sau Phục Sinh, các Kitô hữu sẽ hiểu rằng của ăn này, bánh sự sống này là Thánh Thể.
Không nhấn mạnh đến lối giải thích Thánh Thể về đoạn văn này, chúng ta hãy xem điều được trình bày như là 1 lời mời gọi chúng ta tin.
1) Chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực.
Người Do thái vừa mới nhắc đến bánh man-na từ trời xuống. Đức Giêsu lợi dụng cơ hội để cho thấy việc ban bánh man-na kia nay đã bị vượt qua bằng một ơn huệ cao cả hơn vô cùng. Từ một của ăn thuần tuý thể xác, nay người ta đến một của ăn thiêng liêng, của ăn đem lại sự sống đời đời. Bánh từ trời xuống, không phải chỉ là cái gì vật chất. Bánh này là Đấng Chúa Cha ban cho nhân loại, chính là Đức Giêsu Ngài không đến qua trung gian Môsê, Ngài trực tiếp là hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đến để ban sự sống cho thế gian và Ngài thật sự là của ăn cho đời sống ấy.
Đời sống thâm sâu của ta làm bằng gì? Của ăn của nó là gì? Chúng ta sống nhờ các sự vật hay nhờ một Con Người? Chân lý của chúng ta là một tổng hợp các ý tưởng hay là một sự dẫn thân cho Đức Giêsu Kitô?
2) Chính Ta là bánh sự sống.
Trong phúc âm Thánh Gioan, Đức Giêsu đã nhiều lần nói Ta là. Ngài nói: Ta là ánh sáng, là kẻ chăn chiên nhân lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và là sự sống, là cây nho đích thật. Tất cả những chỉ dẫn trên dưới con mắt của người Do thái đều có giá trị ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng chính Ngài, hôm nay là ơn huệ đích thật và vĩnh viễn của TC.
Khi nói: Ta là bánh sự sống, chỉ một mình Ta là bánh sự sống. Đức Giêsu biết Ngài sẽ gây ra việc hiểu lầm, cứng lòng tin và ngay cả sự vấp phạm. Thật vậy, cách nói Ta là khi nói đến bánh sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng các thính giả Do thái một ý tưởng tuyệt đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể nói Ta là. Con người chỉ có thể nói: tôi là người này, người nọ, nhưng không ai có thể nói: Ta là bánh, là ánh sáng, là sự thật, là sự sống. Nhưng đó lại là điều Đức Giêsu làm. Một quả quyết như thế gây ra vấp phạm hoặc niềm tin. Chúng ta được may mắn thuộc thành phần những kẻ đáp lại bằng niềm tin.
Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình: TN 18-B67
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng.
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: "Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!" (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?" (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
1.Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy.Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân cứng cổ, tội lỗi, bất trung.
a.Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng lên Thiên Chúa (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với lãnh vực thánh đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là người của Thiên Chúa (Tl 33,1; Gs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân diện đối diện (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa biết đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b.Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ chúng tôi ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Đức Chúa đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng không muốn vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
2.Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về "Vị Tiên Tri" đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh" (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Ga 19,17-30; Rm 8,3; x. Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x. Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
3.Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ xuống thuyền đi sang "bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận". Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: "Chính tôi là Bánh hằng sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh hằng sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống” như manna trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời Chúa: TN 18-B68
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời: TN 18-B68
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất cả các bài đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo viễn cảnh nầy. Như vậy, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy giứp dân Do thái sống còn trong hoang địa. Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu đổi đời triệt để để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ bánh ban sự sống, vào ngày hôm sau của phép lạ bánh hóa nhiều.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa, nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi thử thách nữa.
1. Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để chận đứng mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông luôn luôn chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập: dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); bây giờ họ đi sâu vào trong sa mạc Xin trên đường tiến về sa mạc Xi-nai, ở đây họ lâm vào cảnh đói và khát. Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi”.
2. Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành nầy tập hợp hai biến cố cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Thật ra hai biến cố nầy đã không xảy ra cùng một ngày. Ít ra sách Dân Số trong cùng một câu chuyện cho thấy điều nầy (Ds 11 cho thấy hai truyền thống được trộn lẫn với nhau, trong đó truyền thống Gia-vít chỉ kể ra hiện tượng bánh man-na).
Hiện tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dể bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất thành những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Chúng ta không thể tin rằng trong hoang địa dân Do thái được nuôi dưỡng chỉ bằng bánh man-na; họ còn sống bằng những sản phẩm từ đàn vật của họ và từ những ốc đảo. Nhưng bánh man-na đã là lương thực phụ thêm trong suốt cuộc lữ hành nầy.
Với tư cách là thiên ân, bánh man-na cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không”. Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần từng ngày một”, mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Chúa (từ đó một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa, giữa bánh man-na và Lời Chúa).
Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Ngài khi dạy họ kinh “Lạy Cha”: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
3. Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường được xảy đến vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã lý tưởng hóa và thần thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Rồi, nhà biên soạn sách Xuất Hành nói rằng “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn”. Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời đại thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô xem bánh man-na là “thức ăn linh thiêng” (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ của Ngài về bánh ban sự sống.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết ngài kêu gọi mọi người Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ thị tổng quát: trước hết, đừng ăn ở như dân ngoại, tiếp đó, học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống, và sau cùng, đổi đời tận căn và mặc lấy con người mới.
1. Đừng ăn ở như dân ngoại.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái giáo. Cả thư gởi các tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi các tín hữu Cô-lô-sê cũng đều chứa đựng những cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những cảnh giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi buộc phải thay đổi đời sống.
2. Học biết Đức Giê-su để mà sống như vậy.
Thánh nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su”. Cách dùng động từ “học biết” với túc từ chỉ người thì hiếm, nhưng ý nghĩa thật là đặc biệt: là người Ki-tô hữu, không là gắn bó với một thứ đạo lý trừu tượng, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, “Sự Thật hiện thân”.
3. Đổi đời tận căn và mặc lấy con người mới.
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cỡi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về Phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cỡi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra về phía sự khôn ngoan cao vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà Phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để sống theo sự công chính và thánh thiện đích thật”.
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống mà thánh Gioan định vị vào ngày hôm sau phép lạ bánh hóa nhiều.
Việc định vị diễn từ Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng; phép lạ bánh hóa nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi đi từ đó, thế đôi ngã đòi hỏi phải chọn lựa sắp được nêu lên càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Ngài. Diễn từ Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm có tính quyết định: nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Ngài mà ra đi hay khẳng định niềm tin vào Ngài. Vì thế Đức Giê-su sắp nhấn mạnh, tiên vàn phải “tin” vào Ngài.
Bài diễn từ này bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6: 25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6: 59).
1. Bối cảnh.
Vào buổi chiều phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Ngài thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà đi lên núi một mình, đoạn, giữa đêm Ngài đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức Giê-su không xuống thuyền cùng với các môn đệ (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Ngài (6: 23).
Khi đến thành Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”. Câu hỏi của họ mang đến một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này; Ngài nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám đông mong được gặp lại Ngài: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc trưng nầy: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Ngài là một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Lúc đó cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri.
2. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết rằng Ngài là một con người mầu nhiệm, Ngài có khả năng ban cho nhân loại những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Những lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Ngài lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”. Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ làm là chỉ việc “tin vào Ngài”, nhưng những lời mà Ngài sắp công bố quá mạnh mẽ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Ngài không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Đức tin phải là thái độ đầu tiên mà Ngài đòi hỏi ở nơi họ.
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ Ngài và bắt bẻ Ngài: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ xứ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Với từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại bởi “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật và bằng cách đồng hóa bản thân của Ngài với Bánh Hằng Sống. Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su nói về “bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian”, trong khi bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác Ngài là Mô-sê mới nhưng cao vời vô tận trổi vượt trên ông Mô-sê.
Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy”; cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
3. Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm.
Lúc đó, Đức Giê-su vén mở thêm chút nữa bức màn mầu nhiệm của Ngài: “Chính tôi là bánh ban sự sống”.
Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo sát nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra với các môn đệ của Ngài, họ kinh khiếp khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20).
Biểu thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà Sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến…Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21). Qua hình thức khẳng định, hiền nhân nầy muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là, những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái đói và cái khát tâm linh, từ đây những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ.
Sự sống Đức Giêsu ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người: TN 18-B69
Sự sống Đức Giêsu ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) c- cc. 30-33: Bánh bởi trời c- cc. 34-40: Bánh bởi trời b- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) a- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27); 2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29); 3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33); 4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35). 3.- Vài điểm chú giải
- Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53...). Amên do từ Hípri âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng.
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số nhiều của “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.
(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở giống đực, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái . Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhạn về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như sự Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào… ? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
Đúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không: TN 18-B70
Đúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không ngừng. Điều đáng nói là chúng ta phải làm những việc nào và làm với động cơ nào?
Chúa nhật tuần trước, cùng với Giáo hội chúng ta đã suy niệm đoạn Tin mừng của Thánh Gioan. Đoạn Tin mừng này nói về phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Kể từ phép lạ ấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày càng đông hơn. Thấy họ theo mình đông đảo như thế, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về động cơ đi theo Người: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Người nói tiếp: "Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông" (Ga 6, 27)
Có lẽ, Chúa Giêsu sợ rằng họ nghĩ là theo Người thì khỏi phải làm gì mà vẫn được no nê. Bởi lẽ, nhàn cư vi bất thiện. Do đó, Chúa Giêsu muốn họ có cái nhìn đúng đắn khi đi theo Người. Cái nhìn ấy phát xuất từ lòng tin tưởng vào Chúa. Tin tưởng vào Chúa để lo ưu tiên tìm kiếm Nước Trời là trên hết.
Có lần Chúa Giêsu đã nói: "...Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người" (Mt 6, 31 - 33)
Hằng ngày cực khổ làm việc vất vả nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tôi làm với động cơ gì chăng. Và rồi tôi đã làm việc như thế nào.
Có người làm việc với động cơ hại người. Có người làm việc với động cơ hơn thua nhau
Để rồi họ bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý miễn sao là đạt được mục tiêu đen tối của mình. Thật là nguy hiểm cho những người làm việc như thế. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết làm việc với động cơ thật tốt. Động cơ tốt là để tìm kiếm Nước trời.
Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người: TN 18-B71
Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người đó nói riêng. Tuỳ hoàn cảnh, tuỳ chức vụ, ý muốn ấy sẽ chi phối theo hoàn cảnh và chức vụ ấy. Một người làm lớn mà quyết định chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ còn một người nhỏ dù có quyết định to thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng là bao. Cái nghịch lý trong cuộc đời này vẫn thường xảy ra và xảy ra "như cơm bữa" đó là con người vẫn thường lấy ý của mình và áp đặt cho đó là ý của Thiên Chúa.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay xoay quanh về ý của Thiên Chúa và ý của con người.
Trang sách Xuất hành đã kể lại việc cộng đồng con cái Israel nhớ "củ hành, củ tỏi" ở quê hương để rồi ai oán với cả ân nhân của mình. Thiên Chúa đã quá yêu con người để rồi bằng mọi cách và bằng mọi giá Thiên Chúa muốn cứu nhưng con người thì ngược lại. Nghĩ đi nghĩ lại Thiên Chúa hiền từ và dễ thương thật chứ không phải ở lời của Người nói. Dân chúng Israel kêu ca than thân trách phận và rồi Thiên Chúa đã ban bánh từ trời xuống để nuôi dân. Ý của con người là cứ ở lại với quê cha đất tổ còn ý của Thiên Chúa thì Thiên Chúa muốn cứu con người còn con người thì cứ lầm lũi với những cái lợi trước mắt, với cái gì là sung sướng cho bản thân.
Đó là những gì sách Xuất Hành thuật lại, rồi kế đến là tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô. Không chỉ nói suông mà hôm nay lại còn "có Chúa chứng giám". Khi Ngài nói "có Chúa chứng giám" thì Ngài có ý muốn nhấn mạnh tâm tình của mình và khẳng định tâm tình ấy. Phải nói là nó rất quan trọng và ý nghĩa với cộng đoàn Êphêsô nên Ngài mới nói như vậy. Ngài nói là anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4,20-24).
Hoá ra là Ngài biết dân ngoại từ xưa đã sống theo những tư tưởng phù phiếm, họ nhìn về Thiên Chúa, họ nhìn Chúa Giêsu dưới một lăng kính khác, dưới một chiều kích khác. Nơi Thánh Phaolô, Ngài có kinh nghiệm rõ nét về chuyện này. Ngày xưa, Ngài cũng lần bước trong con người cũ của Ngài là đi tìm vinh danh cho mình và đi bắt bới những người theo Chúa, những ai mang danh là Kitô hữu. Sau một chặng đường dài sống với con người cũ, sống với ý riêng của mình, Thánh Phaolô đã nhận ra rằng Thánh ý Thiên Chúa mới là quan trọng, sống với con người mới theo sự hướng dẫn của Thần Khí mới là điều đáng quan tâm. Ngài khuyên cộng đoàn Êphêsô đừng sống theo cái nhìn như vậy, theo quan niệm như vậy về Thiên Chúa. Quan niệm về Thiên Chúa của con người mới khác con người cũ. Không chỉ thế, Ngài còn nhấn mạnh rằng hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Ý tưởng trang Tin mừng hôm nay đã đẩy chuyện ý Thiên Chúa và ý con người lên một mức cao hơn. Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng với những người đang có mặt ở đó với Chúa: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." (Ga 6, 29).
Vấn đề là ở chỗ đó, là ở chỗ việc Thiên Chúa muốn cho các ông chứ không phải là chuyện các ông muốn. Thường, tâm trạng của con người thì những gì mang lợi lộc, mang sự dễ dãi đến cho mình thì con người đều quy về ý của Chúa, mỗi lúc cuộc đời gặp đau khổ, khó khăn thì sẵn sàng oán trách Chúa không thương tiếc. Nếu Chúa ban cho cuộc sống đầy đủ thì không ngớt lời tôn dương và chúc tụng nhưng khi cuộc đời gặp một chút gì đó thì bỏ Chúa và không tin Chúa nữa. Điều mà Thiên Chúa muốn quá rõ: đó là tin thật vào Ngài chứ không chỉ tin bằng môi bằng miệng. Chúa Giêsu, vì biết rõ lòng dạ của những người có mặt với Chúa ngày hôm đó nên Ngài đã không ngần ngại cảnh tỉnh họ về ý của Thiên Chúa.
Trở lại với trang Tin mừng tuần trước, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê đã tìm cách tôn vinh Chúa Giêsu làm vua. Thế nhưng, Chúa Giêsu biết tỏng tòng tong lòng dạ của họ nên Ngài lánh đi một nơi. Vì những người có mặt ngày hôm ấy cũng như nhiều người khác vẫn sống theo cái ham muốn thể xác của mình là no cơm ấm áo nên tôn vinh Chúa làm vua chứ thật sự lòng của họ không phải như vậy. Thế đấy, ý Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn ý của con người.
Nhắc đến ý Thiên Chúa và ý con người, ta sẽ không khỏi nhịn cười được vì trong chính đời thường của mỗi người chúng ta. Nếu ý nào đó hợp lòng ta, mang lại cho ta thì ta bảo: "ý Chúa" còn nếu ý nào phật lòng ta thì ta lồng lộn lên và thậm chí còn oán trách và bỏ rơi Chúa.
Đôi lúc ngẫm nghĩ thấy thương Chúa thật. Chúa quả là quá hiền từ và dễ thương. Dễ thương đến độ con người dù ca khen, dù oán hờn chửi bới và vu oan cho Chúa thế nào Chúa vẫn lặng lẽ và lặng lẽ. Bi đát nhất đó là những người có chức có quyền và cầm quyền trên người khác. Nhiều và nhiều quyết định mang cảm tính hết sức con người nhưng lại bảo đó là ý Chúa mới chết người.
Một cái ví dụ hết sức nhỏ nhoi và đơn giản. Dưới con mắt của các đấng bậc có trách nhiệm đào tạo và con mắt bình thường của người đời thì những ai ngoan ngoãn, dạ bảo dạ, vâng bảo vâng thì các vị cũng như mọi người đánh giá hết sức là cao về những con người ngoan ngoãn vâng dạ ấy. Mỗi khi nhận xét hay quyết định gì thì không hế ngần ngại "châu phê" là người ấy tốt và người ấy có ơn gọi. Ý Chúa là gười đó có ơn gọi, còn ngược lại, những người không biết "bẩm - dạ" thì cũng sẽ bảo rằng cũng đó là ý Chúa cho kẻ không biết "đi bằng đầu gối" là không có ơn gọi.
Thật ra, chuyện này hết sức tế nhị nhưng phải trả lẽ trước mặt Chúa về những cảm tính hết sức cá nhân mà lại gán cho là "ý Chúa" ! Chúa quá hiền đến độ người ta muốn nói gì thì nói. Người ta nói xuôi Chúa cũng chẳng nói gì và người ta nói ngược ta cũng thấy Chúa chẳng chịu nói gì.
Qua các bài đọc, đặc biệt là Tin mừng hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân nhìn lại từng biến cố trong cuộc đời của ta, từng quyết định của ta. Những biến cố xảy đến và những quyết định của ta như thế nào ? Có phải là của Chúa thật sự hay là của ta rồi ta gán cho Chúa.
Hơn một lần Chúa Giêsu đã nói: Lương thực của ta là thi hành ý muốn của Cha ta.
Quả thế, lương thực thật sự, lương thực trường tồn của Chúa chính là ở chỗ thi hành ý của Cha chứ không phải là theo ý của ta.
Một lần nọ, vào bệnh viện thăm người quen, có một người kia không ngần ngại tâm sự rằng chị ta đã bỏ Chúa 10 năm rồi. Hỏi lý do sao bỏ Chúa thì chị nói là vì mãi mê lo làm ăn kiếm tiền. Tôi bèn hỏi chị là dư được bao nhiêu tiền gửi trong ngân hàng và chị nói là không có đồng nào mà hiện nay nằm bệnh viện còn phải đi vay mượn !?
Thì ra là 10 năm bỏ Chúa để loay hoay với đồng tiền nhưng cuối cùng không có dư đồng nào mà thậm chí còn mang nợ !
Hai vợ chồng kia cũng thật thà tự thú là bỏ Chúa 4 mùa Phục Sinh. 4 mùa Phục Sinh qua đi mà gia đình cứ mãi sống trong vất vả và nay người vợ còn mang trong mình tật bệnh nữa !
Thế đấy ! Người ta đã tước đoạt thánh ý của Chúa trên cuộc đời của người ta, người ta đã đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời người ta để người ta làm theo ý của mình. Thế nhưng, thử hỏi trong những năm tháng dài đẩy thánh ý của Chúa ra khỏi đời mình để mình thực thi ý mình thì mình được gì ?
Quá nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần trong cuộc đời, con người đã bỏ ý Thiên Chúa ra khỏi đời mình để thực thi ý mình. Rốt cuộc như thế nào thì con người đã rõ.
Hôm nay, một lần nữa, đứng trước lời cảnh tỉnh của Chúa với đám đông dân chúng về ý của Thiên Chúa muốn, chúng ta làm gì, chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào ? Chúng ta làm gì, trả lời với Chúa như thế nào đó chính là tuỳ thuộc tự do của mỗi người chúng ta.
Cách đây ít năm, tại bang Ca-li-for-ni-a bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất: TN 18-B72
Cách đây ít năm, tại bang Ca-li-for-ni-a bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Chúa Giêsu đã cảnh báo họ: "Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh". Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên ? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc ? Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Chúa Giêsu Ki-tô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Chúa Giêsu để được ăn bánh. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Chúa Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ áp-ra-ham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ áp-ra-ham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. áp-ra ham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ap-ra-ham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âu-tinh: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa". Amen.
Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Đức: TN 18-B73
Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Đức Giêsu khi thấy dân chúng lũ lượt tuôn đến với Người và Người đã động lòng thương họ. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi họ. Vì thế dân chúng đã đi tìm Người để theo Người, như thánh sử Gioan đã tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, con người dù sống trong thời đại nào đi nữa cũng đều là con người và đều giống nhau: Là luôn tìm mọi cách để được no đủ và để thỏa mãn được những nhu cầu thể xác của mình. Trong cuộc sống hằng ngày của một gia đình hay của một quốc gia vấn đề kinh tế và tài chính luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng có tính cách quyết định. Bởi vậy, tất cả mọi vấn đề, mọi kế hoạch hay mọi lo toan tính toán của một gia đình hay của một quốc gia đều tùy thuộc vào tình trạng kinh tế hay tình trạng ngân sách của gia đình cũng như của quốc gia đó. Các vấn đề có được giải quyết hay không, phần lớn đều lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của đương sự.
Cả trong tôn giáo tình trạng kinh tế cũng có một ảnh huởng rất to lớn. Mọi hoạt động và mọi phương tiện thực hành đạo và sống đạo đều cần đến tài chính. Không có tiền bạc, mọi chuyện sẽ dậm chân tại chỗ hay ít ra sẽ bị giới hạn rất nhiều. Cũng như ngày xưa, động lực đã thúc đẩy người ta đến cùng Đức Giêsu và tuôn đi tìm kiếm Người là vì Người đã cho họ ăn no nê. Đúng là « miếng trầu là đầu chuyện » hay « Có thực mới vực được đạo » !
Nói một cách thành thật, tâm trạng đó vẫn không thay đổi cả trong thời đại của chúng ta ngày nay. Vâng, nếu người ta nghèo hay gặp phải cơn túng quẫn, người ta sẽ sống đạo sốt sắng hơn, sẽ chăm chỉ kinh nguyện hơn, sẽ siêng năng đi nhà thờ xem lễ đọc kinh hơn ! Trái lại khi sống trong giàu sang phồn thịnh, người ta sẽ dễ lơ là với vấn đề tôn giáo, sẽ coi đời sống tôn giáo là việc thứ yếu hay chỉ là việc làm trong khi rảnh rỗi. Vì theo tâm lý của những người giàu có là họ cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ rồi, mọi sự đã được đảm bảo rồi, nên không cần phải nhờ cậy ai nữa, không cần phải nhờ cậy đến Thiên Chúa nữa, không cần phải cầu nguyện nữa.
Nhưng đó là cả một sự lầm lẫn nguy hiểm ! Bởi vậy, Đức Giêsu đã quá thất vọng nói với các thính giả của Người: « Các ngươi tìm Ta vì các ngươi đã được ăn bánh no nê ». Tiếp đến, Người còn thêm: « Các ngươi hãy ra công tìm kiếm không phải vì thứ lương thực mau hư nát, nhưng là thứ lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi ». Và thứ lương thực trường tồn và có thể đưa lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, chính là Người: « Ta là bánh hằng sống ! »
Đúng vậy, tôn giáo không phải là một loại ý thức hệ thuộc lãnh vực thứ yếu hay chỉ là một chuyện làm trong khi nhàn rỗi mà thôi. Tôn giáo cũng không phải là « thuốc phiện mê dân », chỉ có giá trị qua thời, cốt giúp cho con người tạm quên đi những đau khổ hiện tại, hay chỉ dùng để an ủi vuốt ve con người đang trong cơn túng quẫn, nghèo khổ.
Không, đức Giêsu đã nói: « Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai theo Ta sẽ không phải chết, và ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống lại ». Thiên Chúa Giáo không phải là một thứ phương tiện để tạm an ủi và thoa dịu nổi khổ đời này, nhưng là chân lý dẫn đưa con người tới sự cứu rỗi đời đời.
Tuy nhiên, một điều chắc chắn là con người vẫn hoàn toàn được tự do để đến cùng Thiên Chúa, nguồn cứu rỗi vĩnh cửu, hay không ! Thiên Chúa không bao giờ bó buộc ai cả. Nhưng một điều khác cũng rất chắc chắn là qua phương tiện kinh tế và tiền bạc vật chất mà thôi, con người sẽ không thể tìm được lối thoát sau cùng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống, và, cũng không thể làm thỏa mãn hoàn toàn được những băn khoăn khắc khoải của mình bằng « cơm bánh » mà thôi. Bởi vì người Đức cũng đã có câu châm ngôn rất sâu sắc và rất thực tế: « Viel Geld heisst nich viel Gl#ck: Nhiều tiền không có nghĩa là nhiều hạnh phúc ».
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng con đường duy nhất dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật chính là lối đi đưa chúng ta về với Thiên Chúa, vì người chính là « Bánh hằng sống ». Dĩ nhiên, lối đi đó cũng đòi nơi chúng ta sự sẵn sàng nội tâm tự nguyện, sự đổi mới và cải thiện đời sống nội tâm. Chúng ta hãy cố gắng bước đi trên con đường đó, hãy cố gắng mỗi ngày bước đi trên con đường đó, vì nó là con đường cứu rỗi !
Chúa nhật thứ 18 thường niên, năm B, nối tiếp tư tưởng của chúa nhật trước về phép lạ: TN 18-B74
Chúa nhật thứ 18 thường niên, năm B, nối tiếp tư tưởng của chúa nhật trước về phép lạ Chúa làm để nuôi sống dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dậy. Tuy nhiên, lời phán dậy của Chúa trong đoạn Tin Mừng của thánh Gioan 6, 24-35 hôm nay biểu lộ sự mạc khải lớn lao của Chúa về chính Mình và Máu của Chúa. Qua các bài đọc Chúa nhật này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa đích thực của giáo huấn Tin Mừng loan báo.
Con người thường đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ để qua đó, họ nhận ra Đấng có uy quyền trên họ. Những phép lạ Chúa đã làm đều có ý nghĩa nói lên lòng thương xót và quyền uy tuyệt đối của Thiên Chúa. Thường Chúa hay dùng những dấu lạ, những sự việc thực tế, những sự cố xẩy ra trong xã hội con người như làm cho bánh và cá hóa nên nhiều, chữa người đàn bà băng huyết, chữa người mù Bactimê, làm cho kẻ câm nói được, kẻ mù thấy được, kẻ què đi được và những phép lạ lớn lao như làm cho Lazarô sống lại, làm cho con bà goá thành Naim chỗi dậy khỏi quan tài, làm cho cô bé 12 tuổi, con vị bách quản sống lại:" tất cả những phép lạ đó và nhiều phép lạ khác chứng tỏ Chúa Giêsu có toàn quyền trên vạn vật, trên loài người".
Chúa nhật trước, Chúa đã làm cho cá và bánh hoá nên nhiều để nuôi dân chúng, đoạn Tin Mừng Chúa nhật hôm nay Ga 6, 24-35 không những làm sáng hơn nữa quyền năng của Chúa mà nó còn mạc khải chính con người của Đức Kitô:" Con Người của nguồn sống vĩnh cửu và chân lý tuyệt đối". Với phép la bánh và cá hóa nên nhiều, dân Chúa thời ấy sửng sốt, nhưng họ lại mưu tính hiện thực quan niệm Mêsia trần tục của họ. Một quan niệm coi Chúa như vị vua trần gian tới để thực hiện chí hùng bá, cai trị mọi dân tộc như vua chúa trần gian. Đức Kitô ngang qua các phép lạ, nhất là phép lạ bánh và cá muốn đưa con người trở về nhiệm cục cứu rỗi của Ngài. Ngài là bánh đích thực, con người chịu lấy ăn với lòng tin. Tình yêu thương tuyệt đỉnh của Ngài được thực hiện nơi thập giá mà Bí Tích Thánh Thể hiện tại hóa con người Đức Kitô cho mọi thời. Con người lãnh nhận lấy chính nguồn sống là Đức Kitô, bánh vĩnh cửu họa lại Manna Chúa ban cho dân Israen khi xưa trong sa mạc và bánh hóa nhiều là hình bóng của Ngài. Lời mạc khải của Tin Mừng Ga 6, 35:" Bánh sự sống, chính là Ta" là lời mạc khải rất đặc biệt trong Gioan. Phép lạ Chúa thường làm luôn là lời chứng về quyền năng của Chúa, nhưng chính sự mạc khải về Chúa mới là nguồn sống đích thực cho con người mọi thời. Do đó, phép lạ là bước đầu để con người tin vào quyền năng của Chúa. Qua các phép lạ, con người nhận ra Đấng có toàn quyền trên vũ trụ, vạn vật và loài người. Đấng ấy chính là Môsê mới: Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu qua muôn thời, muôn thế hệ muốn gửi tới nhân loại sứ điệp tình yêu. Tình yêu của Ngài chỉ có thể thực hiện nơi thập giá. Chính nơi thập giá, con người nhận ra mạc khải lớn lao và tuyệt đối của tình yêu Đức Kitô đối với nhân loại. Chúa Giêsu phải ngang qua thập giá mới tới vinh quang. Thập giá không là cây gỗ bất động, mà thập giá là nguồn sống vĩnh cửu tuyệt vời cho con người. Con người không chỉ nguyên sống bởi bánh nhưng còn bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Phần xác đầy đủ, khỏe mạnh, nhưng phần hồn yếu kém, con người sẽ ở thế mất quân bình. Vì thế, sự quân bình của con người toàn diện rất cần thiết để họ sống cuộc đời dương thế này. Hoặc con người với sức mạnh vẫn có, hành động như người máy rôbôt không hồn, hoặc con người chỉ suy tưởng tới một cõi thiêng liêng xa vời mà quên mất thực tế là sự sống trần gian:' cả hai hạng người này đều đáng trách". Có sức khỏe đầy đủ mà đầu óc rỗng tuếch thì chẳng khác gì người gỗ hoặc người máy vặn giây cót, hoặc nạp pin là nó khởi động vv. Có suy tư mà thiếu thực tế thì chẳng khác gì mớ lý thuyết hay nhưng thiếu thực tế hành động. Nói như thánh Phaolô:" Đức tin không có việc làm là đức tin chết". Đức Kitô dậy ta hôm nay: lương thực, cơm bánh ở trần gian cần thật, nhưng còn có gì khác hơn sự sống mỏng manh mau qua ở thế giới, ở gian trần này, đời sống vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô:" Bánh sự sống chính là Ta ! Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ).
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, Mẹ Maria và thánh cả Giuse giúp ta hiểu được sự sống vĩnh cửu là Đức Kitô, Bánh hằng sống dưỡng nuôi con người. Amen .
(Xuất hành 16,2-4.12-15; Thư Êphêsô 4,17.20-24; Tin Mừng Yoan 6,24-35) Phúc Âm: Ga 6, 24-35
"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".
Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến".
Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ". Suy Niệm:
Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm B
Xuất hành 16,2-4.12-15; Thư Êphêsô 4,17.20-24; Tin Mừng Yoan 6,24-35
Lời Chúa hôm nay tiếp nối giáo huấn Chúa nhật trước. Chúng ta hy vọng sẽ lĩnh hội được nhiều: TN 18-B75
Lời Chúa hôm nay tiếp nối giáo huấn Chúa nhật trước. Chúng ta hy vọng sẽ lĩnh hội được nhiều tư tưởng thâm thúy hơn và nhiều ơn cao cả hơn. Cho được như vậy, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu cặn kẽ các bài Kinh Thánh vừa nghe đọc. 1. Một Câu Truyện Ðược Nghiền Ngẫm Lâu Năm
Bài đọc I thuật lại một câu truyện đã xảy ra ở thời Xuất hành, tức là vào buổi dân Chúa mới được ra khỏi Aicập, khoảng năm 1250 trước Chúa Yêsu giáng sinh, cách chúng ta chừng 32 thế kỷ rưỡi. Chúng ta cứ tưởng tượng đoàn người Dothái bấy giờ đang đi theo Môsê nơi hoang địa. Cơm ăn nước uống còn thiếu, huống nữa là những "văn phòng phẩm" để ghi chép các việc xảy ra hằng ngày. Chắc chắn ở thời bấy giờ chẳng ai đã viết nhật ký trên giấy trắng mực đen. Nhưng trái lại, trí nhớ của con người khi ấy lại dính kỹ khác thường. Người ta nhớ hết những gì xảy ra, rồi truyền lại cho hậu thế, từ cha tới con, tới cháu, tới chắt... Phải đợi đến nhiều thế kỷ sau, những truyện ngày xưa ấy mới được viết ra trên các thứ "giấy" của thời bấy giờ. Riêng trong dân Dothái, các tác giả lại không phải là những văn sĩ thường. Họ là những con người đạo đức được Thiên Chúa thúc đẩy và trợ giúp viết lại truyện xưa nhưng để "dạy đạo". Các sự việc, như thế đã được suy nghĩ lại rất nhiều. Nói rằng các tác giả đã mặc cho chúng những bộ áo màu sắc tôn giáo, cũng chưa đủ. Phải nói rằng họ đã dùng ánh sáng đức tin và ơn soi sáng của Thánh Thần để nhìn và đọc lại các biến cố ngày trước, hầu nhận ra được sự can thiệp và bàn tay hướng dẫn lịch sử của Thiên Chúa ở trong các biến cố kia. Do đó, các câu truyện viết về những thời đại xa xưa trong Cựu Ước đều có mục đích huấn giáo hơn là kể truyện.
Câu truyện Manna hôm nay cũng vậy. Nó thuật lại những sự việc xảy ra thời xưa, nhưng đã được suy nghĩ trong nhiều thế kỷ và được viết ra để giáo huấn. Ai không hiểu như vậy sẽ đọc đoạn văn này theo nghĩa đen và không thấy nó nói gì với mình hơn điều này là ngày xưa đã có một chuyện như thế. Nhiều học giả không có đức tin, khi đọc trang Kinh Thánh này, không hiểu theo nghĩa đen, nhưng cũng không thấy nó nói gì cho đời sống của mình. Họ sẽ giải thích rằng: đoàn người Dothái bấy giờ vừa ra khỏi đất Aicập màu mỡ và đang tiến về "Ðất Hứa" chảy sữa và mật. Ở giữa sa mạc hoang vu, họ thiếu lương ăn nước uống. Họ kêu trách Môsê và ông này giới thiệu với họ một thứ phấn cây ăn được để cầm cự cho đến khi ra khỏi sa mạc. Nhưng nếu dừng lại ở chỗ giải thích như vậy, người ta chưa đọc Thánh Kinh, mà mới chỉ đọc truyện. Thánh Kinh là Lời Chúa. Khi đọc Thánh Kinh, người ta phải tự hỏi Chúa muốn nói gì đây? Hay ít ra, tác giả thánh muốn thông đạt tư tưởng nào?
Chúng ta có thể đồng ý với các học giả mà quyết rằng thứ "Manna" mà dân Dothái ăn trong sa mạc là loại "lương thực bất đắc dĩ" cho kẻ chẳng tìm được thức ăn gì khác. Chính sách Dân số (11,4-6; 21,5) cũng coi khinh thứ thực phẩm này. Nhưng điều cốt yếu không ở tại giá trị của Manna. Chính lúc bấy giờ câu truyện đã quan trọng ở điểm khác. Và sau này giá trị của nó còn xê dịch thêm nữa.
Bấy giờ, câu truyện chú ý đến việc dân Dothái kêu trách Môsê và Aaron, tức là kêu trách Thiên Chúa. Có lần họ kêu trách như vậy, Người để rắn độc ra cắn nhiều người. Lần này, Người không phạt, nhưng lại "thử thách" họ. Người cho "mưa" thứ phấn cây ấy xuống và Môsê giới thiệu cho họ đó là thực phẩm mới Chúa ban. Nó chẳng ngon lắm, nhưng ăn được. Chúa đã cho họ ăn như thế để rồi xem họ có trung thành với Chúa không?
Có lẽ thoạt đầu chỉ có như vậy. Nhưng về sau qua nhiều thế kỷ suy nghĩ, trọng tâm của câu truyện xê dịch khác nhiều. Manna trở thành một thực phẩm hi hữu từ trời mưa xuống. Nó là tặng phẩm của Cha nhân ái ban cho thời đại vàng son vì thời gian sống nơi sa mạc gần gũi Chúa và được Chúa dẫn dắt không là vàng son sánh với các thời đại chung chạ với dân ngoại và trở thành dân lưu lạc sao?
Chúng ta cần nhớ lại bối cảnh xuất xứ của bản văn hôm nay để hiểu ý của tác giả. Ông sống nhiều thế kỷ sau biến cố Xuất hành. Ông là người đạo đức thấy dân Chúa càng ngày càng tội lỗi. Vì thế đối với ông, thời Chúa làm cho dân những kỳ công nơi Aicập và trong sa mạc là thời đại vàng son. Tiếng "Manna" thoát ra từ miệng dân khi thấy vật lạ, chỉ có nghiã là: "cái gì vậy". Ðối với ông, nó không còn là một dấu hỏi hay là một giọng nghi nan nữa, mà đã trở thành một ngạc nhiên, ngưỡng mộ: "cái gì (lạ) như vậy!".
Ông kinh ngạc trước lòng tốt và tặng phẩm của Chúa bao nhiêu thì lại càng rầu lòng vì thái độ bất trung, bất hiếu của dân. Ông nhấn mạnh đến ý nghĩa "thử thách" của thứ lương thực mới này. Không những nó được ban để xem dân có biết mở mắt ra mà tin tưởng và trung thành với Chúa không; mà Chúa còn cho kèm nhiều lệnh truyền: không được lấy quá mức ăn một ngày; riêng ngày áp hưu lễ được lấy gấp đôi để ngày Sabat nghỉ ngơi hoàn toàn hầu bắt chước Chúa. Những lệnh này suy ra nữa sẽ thấy tác giả muốn ngụ ý nói rằng: thời gian sa mạc là thời đại lý tưởng; ai ai cũng được nuôi dưỡng theo nhu cầu; nhưng không ai hơn ai và chẳng ai có sở hữu gì; mọi người sống "hằng ngày dùng đủ", hoàn toàn tùy thuộc ơn Chúa và không làm giàu làm có; người ta lại có nếp sống theo thời khóa biểu của Thiên Chúa.
Suy nghĩ như vậy thì đã đi xa cốt truyện lúc đầu. Nhưng đó mới là tư tưởng của tác giả Thánh Kinh và là ý Chúa muốn nói với chúng ta. Nó dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay, vì người Dothái, như ta sẽ thấy, có tư tưởng như thế khi họ gợi lại câu truyện Manna. 2. Một Cuộc Ðối Thoại Gay Go
Theo tác giả Yoan, thì sau khi Ðức Yêsu rút lui lên núi để tránh việc người ta tôn Người làm vua, các môn đệ đã lên thuyền trở về Capharnaum. Nhưng dùng quyền năng, Người cũng đã cùng cập bến với họ. Hôm sau, dân chúng mới về.
Gặp Người, họ muốn hỏi Người đã trở lại Capharnaum bằng cách nào? Nhưng Người đã đọc được tâm tư của họ là lại muốn được nuôi ăn như hôm trước. Người liền dạy bảo: "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời". Có thể nói Người đã chán ngấy với thái độ của người ta chỉ muốn lợi dụng quyền năng của Người để được những sự ở đời này đang khi Người đã giao ước cho họ kho tàng Nước Trời là sự sống đời đời. Thành ra cuộc đời... vô cùng khó khăn.
Vừa nghe Người nói phải "lao công", họ đã nghĩ ngay đến "các việc đạo đức" mà thường tiên tri nào mới cũng đề ra để hứa hẹn hạnh phúc cho những ai thi hành. Cũng có thể họ chờ đợi Người phát biểu ý kiến về các việc đạo đức mà Luật dạy phải làm. Những thứ việc này nhiều lắm, làm không hết; nên người ta thắc mắc không biết phải làm việc nào và có thể bỏ việc nào? Nhưng Ðức Yêsu không phải là luật sĩ để có ý kiến về những vấn đề tỉ mỉ này. Người cũng không phải là tiên tri như mọi tiên tri khác. Người là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến và niêm ấn bằng uy quyền trong lời nói và việc làm. Người đã giới thiệu mình như thế mà người ta vẫn không biết mở mắt ra mà nhìn. Họ cứ hỏi những câu trên để lôi Người xuống ngang hàng với họ và đáp ứng các nhu cầu vật chất của họ. Nhưng Người không thể chiều theo dục vọng của người ta. Người như khẳng định: không có vấn đề nhiều việc đạo đức mà chỉ có một: đó là tin vào Ðấng mà Thiên Chúa sai đến.
Lời tuyên bố rõ rệt quá. Người ta hiểu: Ðức Yêsu bảo họ phải tin vào Người là Ðấng Thiên Sai. Những Ngài đã làm gì để chúng tôi tin? Họ nghĩ như vậy. Tác giả Yoan diễn tả ý họ một cách hơi khác. Ông vốn có óc phụng vụ và thiên về mầu nhiệm, như chúng ta đã có lần nói. Ông đặt những từ ngữ chuyên môn của mầu nhiệm đức tin và bí tích trên môi các diễn viên. Ông viết: họ nói với Ðức Yêsu: "Vậy thì ông làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin ông?". Ðối với Yoan "dấu" là những việc để khơi lên niềm tin và đòi được chấp nhận. Còn đối với người Dothái, những việc khiến họ tin phải vĩ đại kỳ diệu hơn cả những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm trong quá khứ. Chẳng hạn Môsê đã cho dân được Manna thì vị Cứu thế phải cho dân được thứ lương thực mỹ vị và lâu dài hơn... một lần hóa bánh ra nhiều chưa bảo đảm. Hơn nữa họ còn lý tưởng hóa Manna theo các tác giả thời sau (như Tv 105, 40; 78, 24-25; Ne 9, 15.20; Kng 16,20-21) chứ không như tác giả sách Dân số (11,4-6; 21,5). Dù đã bị Ðức Yêsu khước từ cử chỉ của họ muốn tôn Người làm vua và dù đã qua một đêm suy nghĩ, họ vẫn còn mơ ước một vị tiên tri hoàn toàn với những vinh quang của trần gian này.
Một lần nữa, Ðức Yêsu lại phủ nhận lập trường của họ. Ngài vạch cho họ thấy nó sai từ căn bản. Họ nhắc lại truyện Manna, nhưng họ đã không đọc được ý của tác giả thánh trong câu truyện ấy như chúng ta đã trình bày ở trên. Họ chỉ giữ lại cái cốt truyện vật chất; còn tinh thần và ý nghĩa đạo đức sâu xa của nó thì họ bỏ qua. Hơn nữa họ còn "vật chất hóa" lời Thánh Kinh. Thánh vịnh nói: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Câu này họ hiểu về Môsê đã ban Manna cho họ. Ðức Yêsu bảo không phải. Môsê không ban Manna, nhưng chính Thiên Chúa đã ban. Còn nói gì đến việc ông ban bánh bởi trời! Làm sao ông có thể làm được việc đó? Chính Chúa Cha đang ban bánh ấy cho họ đây là chính Người đang nói với họ những lời hằng sống.
Chúng ta có thể chắc chắn rằng: các người Dothái khi nghe nói như vậy đã chẳng hiểu gì. Vì thế Ðức Yêsu còn phải giải thích nhiều nữa như chúng ta sẽ thấy trong Chúa nhật sau.
Hôm nay phụng vụ muốn chúng ta dừng lại ở điểm này để thấy cuộc đối thoại giữa Ðức Yêsu và người Dothái đã tỏ ra gay go. Một bên quá siêu nhiên, một bên quá vật chất. Cũng một câu truyện Manna, người Dothái chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ lợi và thỏa mãn xác thịt. Còn Ðức Yêsu và các tác giả thánh đã nhìn thấy như "dấu" chỉ về niềm tin. Manna gợi lên bánh bởi trời; chứ bánh bởi trời không phải là Manna. Người ta hãy khao khát lương thực linh thiêng ấy, chứ đừng uốn những lời Kinh Thánh trở về thứ thực phẩm tạm bợ của thời gian lữ thứ... 3. Một Cuộc Chuyển Biến Sâu Sắc
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay khuyên tín hữu Ephêsô đừng trở về nếp sống cũ của thời trước khi theo đạo, nhưng hãy mặc lấy con người mới đã được dựng nên trong sự công chính và thánh thiện, bắt nguồn trong sự thật. Lời khuyên ấy còn hợp với chúng ta. Chúng ta hết thảy đã sinh ra trong tội lỗi nhưng đã được tái sinh trong phép Rửa. Nếp sống cũ với con người cũ nơi chúng ta là các khuynh hướng và dục vọng tội lỗi mà đôi khi chúng ta còn cảm thấy mãnh liệt. Còn con người mới với nếp sống mới là sự thánh thiện và các khuynh hướng tốt lành của Chúa đã dựng nên trong chúng ta ngày rửa tội để sống theo tinh thần của Ðức Kitô.
Nếu người Dothái xưa thường có khuynh hướng vật chất hóa đến cả lời Thánh Kinh và chỉ muốn chờ đợi một vị cứu tinh để thỏa mãn những nhu cầu trần thế; nếu thánh Phaolô đã phải cảnh giác giáo dân Ephêsô đừng trở về với nếp sống của dân ngoại, thì chúng ta cũng nên đề phòng sự vùng dậy của con người cũ. Và cho được như vậy, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhớ lại đã được biết Ðức Kitô như thế nào. Cho chắc hơn phải nhìn Ðức Kitô nơi chính Ðức Yêsu.
Tại sao vậy?
Vì người Dothái đã chờ đợi Ðức Kitô, nhưng không muốn nhận Người là chính Ðức Yêsu. Họ đòi Ðức Kitô phải thể khác, vì Ðức Yêsu không chịu đáp lại các nhu cầu thực tiễn của họ. Và ở thời thánh Phaolô, đã bắt đầu có những kẻ xuyên tạc những điều về Ðức Yêsu để, theo ý họ, Người hợp với quan niệm của họ về Ðức Kitô hơn. Nghĩa là nhiều người muốn tôn thờ Ðức Kitô và xưng mình là Kitô hữu, nhưng lại không muốn Người chỉ như Ðức Yêsu đã tử nạn và phục sinh. Họ muốn và ao ước Người "khác" một chút... để cuối cùng đời sống của họ được "lợi" hơn. Họ không muốn lột xác để biến mình nên Kitô hữu tốt hơn, nhưng lại ao ước Kitô giáo đổi đi ít nhiều cho hợp với ước nguyện của họ.
Tâm lý này phát xuất từ con người cũ. Nó đã có nơi người Dothái và Ephêsô. Nó là cám dỗ năng đến với chúng ta. Thánh Phaolô cũng như thánh Yoan và tác giả bài Xuất hành bảo chúng ta phải dẹp đi và mặc lấy con người mới, tâm lý mới, đạo đức mới của Ðức Yêsu Kitô. Chính Người giờ đây muốn trở nên bánh bởi trời nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống muôn đời. Chúng ta hãy rước lễ với niềm tin và lòng mến. Chúng ta tin vào giá trị đường lối Ðức Yêsu đã đi và kêu gọi chúng ta đi vào... Chúng ta nhiệt tình đi vào đường lối đó, đường lối sống theo giáo lý của Chúa và tha thiết phục vụ anh em. Nó đòi hy sinh và có thể thiệt thòi những sự ở đời này; nhưng chấp nhận quảng đại đóng đinh xác thịt vào thánh giá Chúa Yêsu chắc chắn chúng ta sẽ cứu được linh hồn mình và linh hồn anh em. Xin Mình Thánh Chúa là lương thực hành hương về Nước Trời luôn nuôi dưỡng chúng ta. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao: TN 18-B76
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) c- cc. 30-33: Bánh bởi trời c’- cc. 34-40: Bánh bởi trời b’- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) a’- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27); 2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29); 3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33); 4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35). 3.- Vài điểm chú giải
- Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53...). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng.
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số nhiều của “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.
(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở giống đực, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái . Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27) Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người. * Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhạn về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như sự Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào… ? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
Đói khát vẫn là nỗi ám ánh của con người trên trái đất này. Do đó, mỗi người đều phải làm ăn: TN 18-B77
Đói khát vẫn là nỗi ám ánh của con người trên trái đất này. Do đó, mỗi người đều phải làm ăn, đều phải lao động để kiếm sống, để sinh tồn. Nơi mỗi con người đều có một cơn đói khát mà mỗi mình Chúa Giêsu mới có thể làm no thỏa nỗi lòng của con người…
Tin Mừng thuật lại dân chúng vẫn còn hào hứng, hồ hỡi sau phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa nên nhiều. Chính vì thế, ngay ngày hôm sau, dân chúng lên thuyền qua bên bờ bên kia để đi tìm Đức Giêsu. Họ tìm Chúa chỉ vì họ đã được ăn bánh no nê ngày hôm qua. Chúa hiểu rất rõ dân chúng tìm Ngài để hy vọng được ăn bánh tương tự như ngày hôm qua. Miếng cơm, manh áo là nỗi lo, nỗi ám ảnh của những người nghèo vùng Galilê khi xưa. Tuy nhiên, nó cũng là nỗi lo âu của biết bao nhiêu người trên thế giới. Con người sống ở trần gian nếu không đủ lương thực nuôi sống thì quả thực họ sống triền miên trong lo âu, ám ảnh, sợ hãi. Đức Giêsu không trách cứ dân chúng về chuyện tìm kiếm lương thực và đợi trông phép lạ Chúa nuôi dưỡng họ. Bởi vì, Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10). Chúa luôn quan tâm, lưu ý tới nhu cầu của con người, đặc biệt Ngài chú tâm tới lương thực dưỡng nuôi sự sống con người. Chúa muốn nâng con người lên cao hơn cơm bánh họ tìm kiếm hằng ngày. Chúa cho họ hiểu con người sống không chỉ là thân xác. Chúa muốn họ tìm kiếm thứ lương thực vĩnh cửu, không phải chỉ là thứ lương thực mau qua như họ đã được ăn bánh và ăn cá mà hôm qua Chúa đã làm phép lạ để nuôi họ. Dân chúng Galilêa chỉ nghĩ đến chiếc bánh mau qua mà họ mới được ăn hôm qua. Họ bị mê hoặc và chỉ ngừng lại trong phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho bánh và cá hóa nên nhiều. Họ không đi xa hơn việc được ăn bánh mau qua và không còn mong ước gì hơn nữa.
Nhân loại và con người hôm nay có những điểm, những nét thật giống đám đông ngày xưa. Những người nghèo thì cặm cụi, mải mê đi tìm miếng cơm, manh áo.Họ bị thu hút vào công việc nhằm thỏa mãn nhu cầu đói khát tạm bợ, chóng qua. Những người giầu lại mong giầu hơn và mải mê với phong cách mới của những đua đòi mới của thời đại. Rốt cuộc những người nghèo và những người giầu đều không vượt ra khỏi cái tầm thường của cuộc sống tạm bợ của con người, hài lòng với bụng no và hạnh phúc với quần áo, nữ trang có được.
Chỉ có một điều là con người dù giầu hay nghèo vẫn còn bám víu lấy của cải hay hư nát mà quên đi còn một cái gì đó cao quí hơn, đời đời hơn, đó là lương thực vĩnh cửu mà Chúa hứa ban. Vâng, mọi thứ trần gian con người không bao giờ cảm thấy đủ. Những người nghèo tìm được cơm bánh, nhưng họ lại rất cần tình thương. Những người giầu dư lương thực, dư cơm bánh nhưng lại cần lẽ sống. Nói tóm lại, con người dù nghèo dù giầu nhưng vẫn cần một cái gì đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc. Thiếu gì người giầu có dư của ăn của để lại rơi vào thất vọng, chán nản, ê chề. Thiếu gì người nghèo tìm ra được lương thực đủ ăn nhưng lại đi đến chỗ chán chường, buông thả vv…Tất cả vẫn đang tìm kiếm và mãi mãi tìm kiếm.
Chúa Giêsu luôn khơi lên trong lòng con người những khát vọng, những ước mong đang tiềm ẩn trong tận đáy sâu của con người. Chúa không làm cho Manna từ trời rơi xuống và chim cút từ trên sà xuống, để con người lượm bắt mà ăn cho qua ngày qua tháng. Chính Chúa Giêsu sẽ ban cho con người, ban cho mỗi người ăn bánh bởi trời, ăn bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống thế gian ( Ga 6, 32-33 ). Người Do Thái lúc đó chợt tỉnh thức và mong mỏi được Chúa ban bánh trường sinh. Họ thưa với Đức Giêsu:” Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy “ ( Ga 6, 34 ). Đức Giêsu bảo họ:” Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” ( Ga 6, 35 ).
Các bài đọc trong Chúa nhật hôm nay đem lại cho chúng ta sứ điệp thật đơn giản:” Nơi mỗi con người chúng ta đều ẩn tàng một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể khỏa lấp, làm thỏa mãn cơn đói khát của chúng ta. Chúng ta hãy chạy tới với Chúa Giêsu, hãy phó thác nơi Ngài. Chúng ta tin rằng chỉ có Chúa Giêsu mới làm no thỏa con người chúng ta bằng chính Mình Máu của Người “.
Lạy Chúa Giêsu, con chẳng biết phải tìm Chúa làm sao, và tìm Chúa ở đâu ! Tuy nhiên, con vẫn cố gắng tìm Chúa. Xin Chúa hãy nhận lấy con. Xin Chúa hãy ôm con vào lòng Chúa. Xin Chúa hãy tha thứ cho con và đưa con vào Thiên Đàng với Chúa như Chúa đã thưởng người trộm lành khi xưa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sau khi Chua Giêsu làm phép lạ cho Banh và Cá hóa nhiều để cho dân chúng ăn no nê, dân chúng định tìm Chúa để làm gì ? 2.Bánh đích thực là bánh gì ? 3.Ai có thể làm thỏa mãn cơn đói khát sâu xa của con người ? 4.Chúa thiết lập Bí Tích Thánh Thể khi nào ? 5.Chúng ta tìm Chúa ở đâu ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 6:24-35)
Trong khi các thánh sử khác sử dụng từ “phép lạ” thì thánh Gio-an sử dụng từ “dấu lạ” để nói về: TN 18-B78
Trong khi các thánh sử khác sử dụng từ “phép lạ” thì thánh Gio-an sử dụng từ “dấu lạ” để nói về những việc lạ lùng Chúa Giê-su đã thực hiện. Dấu lạ rõ ràng là phương tiện để nói lên một thực tại khác. Dấu lạ càng lớn thì thực tại càng quan trọng. Chẳng lẽ dấu lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi hơn năm ngàn người không phải là lớn lao hay sao? Vậy dấu lạ này muốn nói lên điều gì nếu chẳng phải là nói về Chúa Giê-su, “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” và là “Đấng Người đã sai đến”. Chính vì thế, khi dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giê-su, Người đã thẳng thắn cho họ biết: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Chắc chắn điều Chúa nói ở đây đòi chúng ta phải đặt lại vấn đề cho chính mình: Tôi đi tìm chính Chúa hay tôi đi tìm những gì mình cần?
Người Do-thái đi kiếm Chúa là để tìm cơm bánh, thứ lương thực mau hư nát, chứ không tìm kiếm thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là Chúa Giê-su. Thực ra cả hai thứ lương thực này đều do Thiên Chúa Cha từ trời ban xuống cho nhân loại: một đàng man-na được ban xuống để duy trì sự sống phần xác và một đàng Con Thiên Chúa được sai xuống để nuôi dưỡng sự sống thiêng liêng của nhân loại. Man-na là thứ lương thực tạm thời, ngày nào dùng cho ngày ấy (Xuất Hành 16:11). Còn Chúa Giê-su, “bánh ban sự sống”, là để cho những ai tin vào Người thì được sống đời đời (Gio-an 3:16). Man-na thì dân Ít-ra-en chỉ việc mỗi sáng sớm ra ngoài trại thu góp lại. Còn chúng ta muốn tìm gặp Đấng là “bánh bởi trời” do Chúa Cha sai đến, sẽ phải “ra công làm việc”, nghĩa là phải cố gắng đáp lời Chúa Giê-su mời gọi và xây dựng một mối tương quan cá nhân với Người.
Có lẽ chúng ta lấy làm lạ tại sao Chúa Giê-su làm một dấu lạ lớn lao và tỏ tường như thế mà người Do-thái vẫn cứng lòng không muốn nhìn nhận sứ mệnh của Người. Đó là vì họ muốn ngoan cố bám chặt lấy quá khứ, muốn kiêu hãnh về tổ tiên họ và về man-na là thứ bánh bởi trời chỉ có thể giúp họ sống ngày qua ngày trong hoang địa. Sự ngoan cố ấy còn biểu lộ qua việc họ chất vấn Chúa: “Vậy ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” Thật là nực cười! Một dấu lạ lớn lao chính họ vừa mới chứng kiến khi họ ăn những miếng bánh và cá được Chúa cho hóa ra nhiều, vậy mà họ còn đòi dấu lạ nào nữa? Rõ ràng ngoan cố và kiêu hãnh luôn là trở ngại lớn nhất để người ta tin vào Chúa vậy. Chúa Giê-su đã hết lời giải thích cho họ biết ngày xưa bánh bởi trời, tức man-na, là do Thiên Chúa ban cho họ chứ không phải ông Mô-sê. Người còn cho họ biết giờ đây Thiên Chúa ban cho họ thứ bánh khác cũng là bánh bởi trời. Nghe vậy, họ xin Chúa Giê-su cho họ bánh ấy, thì Người trả lời: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Rõ ràng phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều muốn nói cho dân Do-thái biết rằng Chúa Giê-su là bánh ban sự sống đời đời và nhắm mục đích kêu gọi họ hãy tin vào Chúa Giê-su là Đấng do Thiên Chúa Cha sai đến. Những gì ngăn cản họ không muốn hiểu ý nghĩa phép lạ và không muốn tin vào Chúa Giê-su cũng có thể là chính những gì ngăn cản chúng ta hôm nay. Lấy một thí dụ cụ thể: chỉ khi nào gặp khó khăn chúng ta mới chạy đến với Chúa. Làm như thế, chúng ta có khác gì người Do-thái ngày xưa. Chúa cũng sẽ nói với chúng ta: Các ngươi kiếm Ta là để tìm điều gì có lợi cho mình, chứ đâu phải đến với Ta vì nhận biết Ta là Đấng nào.
Thánh Thể là một phép lạ về sự hiện diện của Chúa Giê-su ở giữa chúng ta cho tới tận thế, vì vậy sự hiện diện thật của Chúa mới là tâm điểm. Cũng thế, việc rước lễ chỉ là phương tiện để chúng ta đến với Chúa và kết hiệp với Người. Nhưng có nhiều khi việc rước lễ đã trở thành phương tiện để chúng ta phô trương với người khác lòng “đạo đức” của mình. Cách nào đó, chúng ta đến với Chúa không phải vì chúng ta “đói” Chúa; chúng ta tin vào Chúa chẳng phải vì chúng ta “khát” Chúa. Vậy chúng ta có khác gì người Do-thái ngày xưa đi tìm Chúa chỉ vì được ăn bánh no nê?
Thiên Chúa đã dựng nên con người “Giống Hình Ảnh Chúa.” (Khởi Nguyên 1: 27). Vì thế, con: TN 18-B79
Thiên Chúa đã dựng nên con người “Giống Hình Ảnh Chúa.” (Khởi Nguyên 1: 27). Vì thế, con người trổi vượt hơn mọi loài thọ tạo khác vì vừa có thể xác, vừa có Linh Hồn, và biết suy tư, lý luận, lại có tự do đích thực để trách nhiệm và quyết định cuộc sống của mình.
Thân xác cần ‘của ăn’ để sống và tăng triển; đó là đời sống thể xác, đời sống vật chất. Linh hồn cũng cần ‘của ăn’ để sống và phát triển, đó là đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Xưa kia, khi dân Do Thái đã được Thiên Chúa giúp thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để tiến về Đất Hứa, họ đã phải đi qua sa mạc Sainai khô cằn trong 40 năm. Thời gian ở trong sa mạc dân chúng thiếu của ăn, thì Thiên Chúa đã cho chim cút bay đến và mưa Manna để họ có của ăn. “Manna” nguyên ngữ của người Do Thái thời đó là “Man-hu” có nghĩa là “cái gì vậy?”. Vì khi nhìn thấy Manna rơi xuống, người Do Thái thường hỏi nhau “cái gì vậy?” và Ông Môsê đã trả lời họ: “Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em (Bài Đọc I: Sách Xuất Hành 16: 2-4, 12-15). Người Do Thái đã sống nhờ Manna này trong suốt cuộc hành trình 40 năm để có thể vượt qua sa mạc, và về tới phần đất Chúa đã hứa ban cho cha ông của họ là vùng đất Palestina, nơi người Do Thái đã thành lập nước Israel bây giờ.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Bài Phúc Âm (Gioan 6: 1-15) nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ “Năm chiếc bánh và hai con cá” để nuôi đám đông dân chúng sau một ngày dài đến nghe Chúa giảng dạy trong nơi thanh vắng mà không có gì ăn. Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Gioan 6: 24-35), khi dân chúng lại kéo đến nghe Chúa giảng dạy, Ngài đã hướng tâm trí họ từ “của ăn hay hư nát” đến “của ăn được tồn tại đến muôn đời”. Chúa Giêsu muốn nói đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc đời sống trần gian để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trên trời; vì “con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa giảng dạy!” Chúa Giêsu cũng cho biết là Manna không phải do ông Moisê ban, nhưng là “Cha Ta đã ban!” Từ đó, Chúa Giêsu hướng tâm hồn các Môn đệ về Bí Tích Thánh Thể là của nuôi linh hồn cùng với Lời Chúa: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ!” Nhưng để hiểu được Lời Chúa, chúng ta cần có Đức Tin: “Tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến” để cứu chuộc chúng ta, để ban chính Mình và Máu Thánh Ngài làm của ăn thiêng liêng cho linh hồn chúng ta.
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay là phần mở đầu của Bài Giảng của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống”. Nhưng Chúa Nhật XIX, XX và XXI (Năm B) tiếp theo, chúng ta sẽ được nghe những Lời Chúa nhấn mạnh hơn để hướng tâm trí chúng ta về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Ăn Tình Thương cùng với Bí Tích Truyền chức Thánh để ban Chức Linh Mục với quyền tế lễ cho các Tông đồ và những người Chúa chọn qua các thế hệ tiếp theo.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho mỗi người chúng ta được luôn giữ vững niềm tin nơi Lời Chúa đã giảng dạy về Bí Tích Thánh Thể, về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu để luôn ở giữa chúng ta và nuôi sống đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Qua Phép Rửa Tội, chúng ta đã được thoát ách nô lệ của tội lỗi, chúng ta cũng hãy hiệp lời cầu nguyện cho chúng ta luôn biết thắng vượt những đam mê tội lỗi theo tính xác thịt để “mặc lấy con người đã được tác thành theo Thánh Ý Chúa” như lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 4: 17, 20-24), và để chúng ta có thể xứng đáng cùng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa, và hiệp thông trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa ngự thật rong Bí Tích Thánh Thể. Cũng xin tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này để các Linh Mục được ơn Chúa sống xứng đáng ơn gọi cao qúy Chúa đã thương ban và hàng ngày xứng đáng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa và ban phát của ăn thiêng liêng cho dân Chúa.
Qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương yêu chăm sóc ta. Phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều là dấu chỉ của việc biểu lộ ấy. Tuy nhiên Chúa Giê-su còn dùng dấu chỉ ấy để mặc khải cho ta một chân lý vô cùng quan trọng: Người là bánh ban sự sống đời đời. Từ man-na trong Cựu Ước tiến đến bánh trường sinh trong Tân Ước, đó là đề tài chính của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
1. Câu hỏi của dân Ít-ra-en và nhân loại: “Manhu?”, nghĩa là “Cái gì đây?” (Bài đọc Cựu Ước – Xuất Hành 16:2-4.12-15)
Khi Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en một của ăn bất ngờ trong sa mạc, họ không biết đó là gì nên hỏi nhau: “Man-hu?”, nghĩa là “Cái gì đây?” Câu truyện được kể lại để cho ta hiểu nguồn gốc của từ “man-na”. “Cái gì đây?” không chỉ là câu hỏi về một của ăn người ta không biết gọi là gì, nhưng còn là câu hỏi về tất cả ý nghĩa của sự kiện Chúa ban “bánh bởi trời” thời Cựu Ước là man-na và câu hỏi về “bánh bởi trời” thời Tân Ước là Chúa Giê-su Ki-tô nữa.
Man-na là “bánh bởi trời” vì nó không phải là sản phẩm từ bàn tay trồng cấy của con người, nhưng là ân huệ từ bàn tay quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa. Man-na cũng không phải từ đất mọc lên, nhưng là được ban từ trời xuống. Thiên Chúa đã quả quyết về những điều ấy khi Người phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn” (Xh 16:4). Những ý nghĩa này hẳn phải đưa ta đến một thực tại cao cả mà Thiên Chúa muốn thực hiện trong tương lai. Từ “bánh bởi trời” nuôi dưỡng một đoàn dân lang thang trong sa mạc để duy trì sự sống thể xác, Thiên Chúa muốn chuẩn bị cho nhân loại một thứ bánh nuôi dưỡng linh hồn họ và đem họ vào cõi sống đời đời. Tất cả những điều ấy phải là nội dung của câu hỏi “Man-hu? Cái gì đây?”, để những người con cái Chúa mọi thời suy nghĩ và tìm thấy câu trả lời thiết thực cho đời sống thiêng liêng của họ.
“Man-hu?” Đó là man-na, “bánh bởi trời” do Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en để thỏa đáng nhu cầu thể chất và khỏi chết đói qua những ngày họ lang thang trong sa mạc. Tuy nhiên man-na còn là dấu chỉ để Thiên Chúa “thử lòng” dân Chúa xem “họ có tuân theo Luật của Người” không, đồng thời cũng để họ nhận biết “Người là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en”. (Xh 16:4.12). Như vậy, “man-hu” trở thành câu hỏi căn bản của con người, khởi đầu cho một hành trình đức tin gắn bó dân Ít-ra-en với Thiên Chúa, nhưng cũng là hành trình của bất cứ ai bước đi theo khát vọng tìm về Đấng tạo dựng, hành trình của “những tâm hồn chỉ được an vui cho đến khi nào được nghỉ ngơi trong Chúa” (thánh Augustinô). Nhưng đâu là con đường dẫn ta đến gặp và an vui trong Chúa? Man-na chỉ là lương thực cho dân Chúa trong hành trình về đất hứa ở trần gian, chứ không thể giúp họ vượt được khoảng cách vô biên giữa Thiên Chúa và nhân loại. Như thế khát vọng tìm đến Thiên Chúa vẫn không sao thực hiện được. Cho nên man-na là hình bóng báo trước một sáng kiến táo bạo Thiên Chúa sẽ đích thân thực hiện trong lịch sử nhân loại, là sai Con Một, Chúa Giê-su Ki-tô, xuống trần gian để làm Man-na Mới, “bánh bởi trời”, ‘bánh trường sinh” cho nhân loại hành trình đến với Thiên Chúa. Câu hỏi “Man-hu? Cái gì đây?” của nhân loại thời Tân Ước là câu hỏi về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, về con người và sứ mệnh của Chúa Ki-tô và về quan hệ giữa ta với Chúa Ki-tô đồng hành đến với Thiên Chúa Cha.
2. Câu trả lời của Chúa Giê-su: “Chính tôi là bánh trường sinh” (bài Tin Mừng – Gio-an 6:24-35)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là một sự kiện vĩ đại, nhưng quan trọng hơn chính là bài giảng về ý nghĩa của “bánh trường sinh”. Quan trọng đến độ hoặc là ta không muốn chấp nhận chân lý về bánh trường sinh nên “rút lui, không còn đi với Chúa Ki-tô nữa”, hoặc là “tin và nhận biết chính Chúa Ki-tô là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:66.68), một thái độ dứt khoát chứ không thể lưng chừng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ là đoạn mở đầu bài giảng, khẳng định chân tính và vai trò của Chúa Giê-su đối với cuộc hành trình của nhân loại tìm về Thiên Chúa. Khẳng định rất đơn sơ, rõ ràng. Trước hết là một chân lý về nguồn gốc và mục đích của bánh đã được ban cho Ít-ra-en. Bánh ấy đã được Thiên Chúa là “Cha của Đức Ki-tô” ban cho dân Ít-ra-en, bánh từ trời xuống và bánh đem lại sự sống cho thế gian. Đáp lời Chúa Giê-su giới thiệu về bánh, người Do-thái đã khẩn cầu Người ban cho họ thứ bánh đó, như Người đã làm phép lạ ban bánh cho họ. Lời khẩn cầu của họ vẫn quanh quẩn trong những nhu cầu vật chất hằng ngày, chứ chưa vươn tới thực tại thiêng liêng của khát vọng tâm hồn. Đây chính là lúc Chúa Giê-su muốn đưa họ sang phạm trù thiêng liêng, tới với nhu cầu đích thực và quan trọng hơn nhu cầu vật chất. Cho nên Người trả lời cho khẩn cầu của họ, cũng là khẩn cầu của toàn thể nhân loại: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35).
Còn lời nào rõ ràng hơn được không? Tuyên bố mình chính là bánh trường sinh, Chúa Giê-su đã khẳng định nguồn gốc và sứ mệnh của Người. Người được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian. Sứ mệnh của Người là thỏa đáng cơn đói và khát thiêng liêng của nhân loại. Đói và khát là dấu hiệu nhu cầu thiết yếu của con người. Về thể xác, người ta chỉ có thể sống nếu thỏa đáng được cơn đói và khát. Tuy nhiên đời sống tâm lý và thiêng liêng cũng chỉ tồn tại khi thỏa đang được nhu cầu đói khát. Đây chính là điều Chúa Giê-su nói tới: đến với Người, ta sẽ không phải đói; tin vào Người, ta sẽ không phải khát. Đã có lần các môn đệ mời Chúa Giê-su dùng bữa, Người trả lời họ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4:34). Cơn đói của ta là làm sao thi hành ý Chúa và hoàn thành sứ mệnh Chúa trao cho ta. Đến với Chúa Giê-su, Người sẽ dạy ta phải làm gì để sống theo ý Thiên Chúa và phải làm thế nào để chu toàn sứ mệnh của ta. Bên bờ giếng tổ phụ Gia-cóp, Chúa Giê-su đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14). Uống nước khôn ngoan của Thần Khí Chúa Ki-tô, ta sẽ không còn phải khát vọng một sức mạnh nào khác ngoài quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực của Tình Yêu đích thực. Sức mạnh ấy nảy sinh từ lòng tin của ta vào Chúa Ki-tô là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa nhập thể và ở lại với ta.
Lời giới thiệu của Chúa Giê-su về chính Người mời gọi ta mỗi ngày khám phá Mầu nhiệm Chúa Ki-tô để biết Người rõ hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người trung thành hơn.
3. “Nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người” (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 4:17.20-24)
Đáp lời gọi của Chúa Ki-tô, môn đệ Phao-lô đã đến với Người và tin vào Người, mong được Người thỏa đáng cơn đói và khát của ngài. Thực vậy, Phao-lô đã tìm hiểu Mầu nhiệm Chúa Ki-tô và nhất là đã sống Mầu nhiệm ấy để cho cuộc sống ngài hoàn toàn bị Ki-tô hóa. Giờ đây ngài chia sẻ kinh nghiệm sống Mầu nhiệm Chúa Ki-tô cho anh chị em tín hữu Ê-phê-xô. Chính ngài đã rao giảng cho họ biết về Chúa Ki-tô là ai và dạy dỗ họ phải sống thế nào theo tinh thần Chúa Ki-tô (Ep 4:20). Ngài nói với họ về Chúa Ki-tô như là “sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13), tỏ ra cho ta tất cả những gì Thiên Chúa muốn mặc khải cho loài người (Ep 4:21c). Tuy nhiên biết Chúa Ki-tô không hẳn chỉ là mớ kiến thức trong đầu, nhưng phải được thể hiện qua lối sống theo tinh thần của Người. Muốn làm được những điều này, ta cần phải “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” để “mặc lấy con người mới”, nghĩa là ta hãy từ bỏ “những tư tưởng phù phiếm” và “những ham muốn lừa dối” để “thực sự sống công chính và thánh thiện”.
Lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho thấy đã có lúc anh chị em tín hữu Ê-phê-xô đã không sống theo sự dạy dỗ của ngài. Nhưng đó cũng là tình trạng chung của mọi người. Ta luôn bị cám dỗ trở lại sống theo con người cũ tội lỗi và không chịu thay đổi để mặc lấy con người mới thánh thiện công chính. Ta luôn bị cám dỗ ngăn cản diễn trình Ki-tô hóa đã bắt đầu nơi ta từ sau khi ta được nhận làm con cái Chúa và làm chi thể của Nhiệm thể Chúa Ki-tô. Hành trình học biết Chúa Ki-tô và sống theo lối sống của Người đòi hỏi nhiều cố gắng và nhất là lòng tin yêu của ta nơi Người. Noi gương thánh Phao-lô và biết bao anh chị em Ki-tô hữu, ta hãy để cho Thần Khí Chúa Ki-tô “đổi mới tâm trí”, biến ta thành “con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:24).
4. Sống Lời Chúa
Mở đầu bài giảng về Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giê-su tự giới thiệu Người là bánh trường sinh Thiên Chúa ban cho nhân loại. Người mời gọi ta hãy đến với Người và tin vào Người. Đến với Người để nhận ra sự thật về tình yêu Thiên Chúa dành cho ta và tin vào Người để sống theo lối sống của Người, vì Người là con đường, sự thật và sự sống. Ta hãy đáp lại lời mời gọi của Người theo sự hướng dẫn của thánh Phao-lô, cố gắng học biết Mầu nhiệm Chúa Ki-tô và sống theo những điều Chúa Ki-tô dạy dỗ ta qua những giá trị Tin Mừng.
Suy nghĩ: Tôi đã làm gì để “học biết về Đức Ki-tô” và “sống theo tinh thần của Người”? Nói khác đi, tôi đã học hỏi Lời Chúa và sống Lời Chúa như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con tự hào vì được Chúa dựng nên và hướng dẫn; xin Chúa hằng dủ thương nâng đỡ chúng con, cùng ban ơn đổi mới và gìn giữ mọi loài Chúa dựng nên cho chúng con được hưởng nhờ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 18 mùa Thường niên). Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nếu được núp sau tượng Chúa, ta sẽ nghe được những lời cầu xin của mọi người. Ta sẽ không ngạc nhiên: TN 18-B81
Nếu được núp sau tượng Chúa, ta sẽ nghe được những lời cầu xin của mọi người. Ta sẽ không ngạc nhiên, khi khám phá ra rằng: Hầu hết những lời cầu, đều là những lời xin ơn. Và trong những lời cầu xin ấy, có đến 90%, là về những nhu cầu của thân xác, như: tiền bạc, làm ăn, bệnh tật. Hình như là, trong tâm thức của những tín hữu, họ chỉ coi Chúa như là một người quản lý dễ tính và quyền năng. Chúa không trách điều ấy, nhưng Chúa buồn. Ngài buồn về hai lý do:
1- Các ngươi tìm Ta, không phải vì đã thấy những phép lạ Ta làm, mà vì đã được ăn bánh no nê. Nghĩa là, ta đến với Chúa, chỉ mang tính cách lợi dụng. Và mối quan tâm của ta, là một mối quan tâm tầm thường: lo cho miếng cơm manh áo. Dĩ nhiên, là một sinh vật, như mọi sinh vật khác, con người phải lo kiếm sống. Nhưng cái sống cần thiết của thân xác, chưa đủ để là cái sống của con người. Nơi con người, có hai phần. Xác và hồn. Chỉ loay hoay lo lắng cho thân xác, mà lãng quên, đời sống của linh hồn, là một thiếu sót vô cùng to lớn. Một người, khi gia đình hết gạo, heo chết, thì cuống cuồng lo lắng, chạy đôn chạy đáo, kể cả đến với Chúa. Nhưng khi hồn mình vướng tội trọng, linh hồn khô khan héo úa, thì vẫn cứ tỉnh bơ, bình thường. Chúa không phẩm bình gì về cách chạy đôn chạy đáo ấy, nhưng Chúa trách, là việc bỏ quên phần linh hồn; không quan tâm đến đời sống của linh hồn. Buồn thật đấy! Khi con đau răng, nhức đầu, thì đi hết bác sĩ này, y sĩ nọ. Còn khi con đã lâu không xưng tội, chẳng bao giờ rước lễ, thì cứ tỉnh bơ như không, chẳng băn khoăn lo lắng tí nào.
2- Lý do thứ hai Chúa buồn. Bởi người ta đã bỏ quên mất một chân lý quan trọng: Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi, không khát bao giờ. Một nhận thức quan trọng, mà Chúa muốn mọi người, đừng bao giờ quên. Đó là Thiên Chúa là người cha toàn năng và nhân ái. Phải nhận thức rõ ràng điều này: Ngài là cha, vì Ngài đã dựng nên mình, Ngài luôn chăm sóc từng li từng tí cuộc đời mình. Vì vậy, với tính cách là con, ta phải luôn gắn bó, cậy dựa vào Ngài; phải có một tình yêu hiếu thảo nồng nàn. Như một em bé, luôn phải tin tưởng tuyệt đối nơi cha mình. Hãy đến với Chúa, với cung cách của một người con; chứ không phải của một người đi xin. Ngài là tình yêu, cho nên, Ngài chỉ thích tình yêu thôi. Và khi đã có một tình yêu thơm nồng, và một niềm tin phó thác, thì tất cả mọi nhu cầu của ta, chỉ là chuyện quá nhỏ.
Câu hỏi:
1- Bạn thường xin gì khi đến với Chúa? 2- Có khi nào bạn cầu xin cho những nhu cầu của linh hồn mình. Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Con người chúng ta gồm có hồn và xác. Thân xác của chúng ta đôi khi lâm vào tình trạng đói khát. TN 18-B82
Con người chúng ta gồm có hồn và xác. Thân xác của chúng ta đôi khi lâm vào tình trạng đói khát. Linh hồn chúng ta cũng vậy. Nhu cầu mà linh hồn đói khát không gì khác hơn là chính Thiên Chúa, như lời thánh Augustinô đã viết: Linh hồn tôi sẽ mãi mãi khắc khoải tìm kiếm cho đến khi được nghỉ yên trong bàn tay của Chúa.
Tom Phillips là một thanh niên thành đạt. Năm 40 tuổi, anh đã làm tới chức giám đốc một công ty lớn. Nhà có, xe có, và gia đình ấm cúng. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy không được hạnh phúc, vì còn thiếu sót một điều gì đó. Và rồi một đêm nọ, trên chuyến tàu đi Nữu Ước, anh đã khám phá ra điều mình còn thiếu sót, đó chính là Đức Kitô. Và từ đêm định mệnh ấy, cuộc đời anh đã đổi thay và anh mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực.
Charles Colson cũng vậy. Ông là một người thành đạt. Có một văn phòng rêng cạnh toà Bạch Ốc. Tuy nhiên, ông luôn cảm thấy một hố thẳm trong tâm hồn, và dường như còn thiếu một điều gì đó trong cuộc đời. Qua cuộc gặp gỡ với một người bạn thân. Nghe người bạn này kể lại sự trở về của mình. Ông đã khám phá điều mình còn thiếu. Và thế là lần đầu tiên trong đời, ông đã cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, con không biết làm cách nào để tìm kiếm Chúa, nhưng con sẽ cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận ấy con. Và từ đó cho đến ngày hôm nay, ông đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, nhất là trong các trại giam và các trường đại học.
Từ hai câu chuyện trên, chúng ta hãy tự hỏi: Có bao giờ tâm hồn chúng ta cảm thấy đói khát hay không. Có bao giờ bản thân chúng ta khắc khoải tìm kiếm Chúa hay không? Có bao giờ con người chúng ta mong muốn được gắn bó với Chúa hay không? Nếu chúng ta trả lời có, thì lời Chúa hôm nay đã đem lại cho chúng ta đáp số để giải quyết: Ta là bánh Hằng Sống. Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin vào Ta sẽ chẳng bị khát bao giờ. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi.
Tóm lại, sứ điệp Chúa muốn gởi đến với mỗi người chúng ta hôm nay thật đơn giản. Sứ điệp ấy như thế này: Tận thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng đều chất chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mình Chúa mới có thể thoả mãn. Chính sứ điệp này đã đem lại cho con người và cuộc đời chúng ta một ý nghĩa mới, miễn là chúng ta biết chấp nhận nó. Và để kết luận chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện của Charles Colson: Lạy Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa thế nào, nhưng con luôn cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn hiến dâng cho Chúa. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy con. Xin hãy nhận lấy con luôn mãi.
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm TN 18-B83
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.
I. Cơ cấu vật chất- tinh thần
Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.
Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.
Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.
II. Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình
Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.
Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.
III. Thiên Chúa là Cha của tất cả
Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.
Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ. 2. Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu TN 18-B84
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.
1. Tấm bánh thần thiêng
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?
Chúa Giêsu đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giêsu, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giêsu được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.
Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giêsu, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.
Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giêsu biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giêsu chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.
2. Sống định luật về bánh.
Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.
Con đường theo Đức Ki-tô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giêsu. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.
3. Ví dụ cụ thể.
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã yêu thương và phục vụ chúng ta”.
Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giêsu cho những người cùng khổ.”
Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.
Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn TN 18-B85
Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.
Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.
Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.
Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: "Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.
Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.
Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.
Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.
Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.
Sách Xuất hành là sự tích của dân tộc Chúa được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và lưu hành TN 18-B86
Sách Xuất hành là sự tích của dân tộc Chúa được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và lưu hành trong 40 năm qua sa mạc để về đất Chúa hứa. Trong cuộc hành trình lâu dài ấy, vấn đề ẩm thực là mối lo hằng ngày. Nhưng Thiên Chúa là tình thương hằng lo lắng cho dân Người. Đành rằng suốt cuộc hành trình, không phải họ chỉ ăn chim cút và manna, mà còn nhiều thứ khác nữa như súc vật họ chăn nuôi và hoa quả cây rừng. Nhưng chim cút và manna là hai thực vật làm cho họ ngỡ ngàng và ghi nhớ hơn cả và họ coi đó là ơn Trời, là dấu chỉ hồng ân của Chúa.
Trong khi họ kêu rên, nhớ lại những “nồi thịt ở Ai cập” thì chiều hôm ấy có bầy chim cút bay tới rợp trời và sáng hôm sau, xung quanh trại, có những vật gì nhỏ nhỏ tròn tròn như bột sương đông đặc. Dân thấy vậy hỏi nhau: “man-hu” (cái gì vậy?) và Môsê nói: “Đó là bánh Chúa ban cho anh em ăn”. Từ đó, dân chúng gọi bánh ấy là manna, “bánh bởi trời”, bánh đó còn được lưu giữ trong hòm bia Nhà Tạm, như một tang chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người. Bánh đó còn được gọi là “bánh ban sức mạnh”, “bánh các Thiên Thần”, hình ảnh mà Phaolô sẽ gọi là “của ăn thiêng liêng” ám chỉ phép Thánh Thể (Icor. 10,3).
Phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều xảy ra trên cánh đồng “đầy cỏ xanh” phía đông bắc biển hồ. Sáng hôm sau, dân chúng đi tìm Chúa, nhưng không gặp, họ liền xuống thuyền trở về Caphanaum và gặp Ngài ở đó.
Họ đi tìm, nhưng người ta đi tìm gì? Người ta hay đi tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nước uống, sức khỏe và đặt tất cả thời giờ vào việc ấy. Họ không đi tìm “điều cần thiết độc nhất” là Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến để làm cho họ hiểu điều đó. Họ lầm tưởng rằng Chúa đang còn ở bờ hồ bên này, nơi họ vừa được ăn no nê. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia rồi, nơi Chúa sẽ nuôi họ bằng của ăn thiêng liêng. Đành rằng Chúa không quên đời sống vật chất, cũng cần thiết, nên Chúa dạy phải xin của ăn lương thực hằng ngày. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia để dạy cho họ biết tìm kiếm một của ăn cần thiết hơn.
Vì thế, khi gặp lại họ, Gioan thuật lại bài giảng của Chúa về Bánh hằng sống: “Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng là vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu”.
Của ăn cuộc sống muôn đời mà Chúa muốn nói là của ăn gì? Hẳn là Gioan đã suy nghĩ và ghi sâu vào tâm khảm ý nghĩa đích thực Chúa muốn nói. Mấy lúc này, Chúa đã chuẩn bị tâm hồn các Môn đệ để họ chấp nhận cái chết của Ngài sắp xảy ra, để làm giá cứu chuộc nhân loại, như một của lễ hy sinh. Để cụ thể hóa việc sắp xảy ra, Ngài sẽ lập nên phép Thánh Thể trước mặt các ông. Thánh Thể và Thánh Giá gắn liền với nhau như hình với bóng không tách rời được. Vì thế, hôm nay Chúa nói rõ: “Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống Máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ…, một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Chúa kết kuận: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
Trong trại cải tạo Cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, có một ông già trạc 40 tuổi tên là Shah. Mọi người biết ông là một linh mục dòng Kitô. Ông rất có lòng bác ái thương người, giúp đỡ các bạn tù, trong số có một người ký giả Anh, Công giáo nhưng không giữ đạo. Một hôm giữa trời đông rét. Ông Shah kéo người bạn tóc vàng ra một nơi và hỏi:
- Anh là người Công giáo phải không? - Phải - Hôm nay là lễ Giáng Sinh, anh quên rồi! Thôi đi theo tôi, xuống hố đất đàng kia, tôi sẽ cùng anh dâng Thánh lễ.
Cả hai xuống một hố sâu có bờ đắp cao. Ông Shah giấu ở đó một mẩu bánh mì và một cái tô nhỏ có ít rượu nho. Giữa cảnh hoang lạnh, vị linh mục làm lễ… Người bạn tù cảm động, tự nhiên khịu xuống, ăn năn sám hối và được chịu lễ. Cả hai vội vàng bước lên khỏi hố. Một tên lính hỏi cha Shah:
- Mày đi đâu đàng kia?
- Hôm nay, lễ Giáng Sinh, giờ giải lao, tôi đi cầu nguyện!
Người lính dẫn ông đi và từ đó, người ta không còn gặp lại ông nữa! Người bạn tóc vàng sau đó được trả tự do và đã thuật lại thánh lễ Giáng Sinh của vị linh mục tên Shah, đã đưa ông trở lại với Chúa. “Con người được ăn bánh của những vị hùng anh. Người ban cho họ được bánh bởi trời”. (Tv. 77 – Đáp ca)
Sau phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, dân chúng bủa đi kiếm tìm Người; họ thật khẩn khoản, “Thưa TN 18-B87
Sau phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, dân chúng bủa đi kiếm tìm Người; họ thật khẩn khoản, “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Tuy nhiên điều này không làm cho Người hài lòng, vì Người biết quá rõ, họ kiếm tìm Người chỉ để được ăn bánh; “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng… vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Sau phép lạ, Đức Giêsu đã phải ‘lánh mặt, đi lên núi một mình’ vì biết rằng: cho dầu họ có muốn tôn Người lên làm vua đi nữa, thì chẳng qua cũng chỉ vì muốn được tiếp tục ăn bánh, chứ chẳng phải vì muốn chấp nhận Người, lắng nghe lời Người, và còn xa lạ hơn nữa, nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ.
“Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc như có lời chép: người đã cho họ ăn bánh bởi trời… ” còn ông “ông sẽ làm gì đây?” Vấn đề được người Do Thái đặt ra đã rõ: ông cho chúng tôi ăn thứ bánh gì? Đúng là phần lớn diễn từ sau đó (đúng hơn, một cuộc tranh luận) sẽ xoay quanh vấn đề thứ bánh gì, thứ ‘bánh hay hư nát’ hay ‘bánh trường sinh’ đơn giản là vì, đó là mối quan tâm - thắc mắc hàng đầu họ đặt ra cho Người. Tuy nhiên hầu như ngay lập tức và xuyên suốt trong cuộc trao đổi tiếp theo, Đức Giêsu luôn gợi cho họ nhớ về ‘người ban bánh và kẻ cho họ ăn’; “Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời”. Ngay cả sau đó, khi tự giới thiệu mình là ‘bánh trường sinh’, thì Người cũng không quên nhắc nhở rằng, Người đồng thời cũng là đấng ban tặng, vì được Chúa Cha sai đến.
Nếu chỉ nhìn vào bánh như một thứ thức ăn, người ta sẽ dễ dàng có những đánh giá khác nhau. Man-na không được sách Xuất Hành (chương 16) xác định rõ là thức ăn gì (nếu có chút đề cập thì cũng rất chung chung (xem Xh 16:31)). Sách chỉ nhấn mạnh trên sự kiện, nó được Gia-vê ban cho dân làm của ăn hàng ngày suốt hành trình gian khổ trong sa mạc. Man-na trước hết là dấu chỉ Gia-vê ân cần chăm sóc dân riêng trong thời gian xuất hành giải thoát; “Vào buổi chiều các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng các ngươi sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi’ (câu 12). Ngược lại, trong sách Dân Số (chương 11), khi dân ta lên tiếng ta thán Mô-sê, thì Man-na bị chê là không ra gì hết, ‘… bây giờ chỉ thấy toàn Man-na thôi… nó như hạt ngô, trông như nhựa hương… xay ra nấu bánh thì mùi vị nó chẳng khác gì mùi vị bánh chiên dầu…’ (câu 7 và 8).
Thế đấy, người Do Thái thời Đức Giêsu chưa tới nỗi chê bánh và cá mà Người đã hóa ra nhiều cho họ được ăn no nê, dầu có thể thức ăn bình dân đó chẳng ngon lành gì cho lắm (nếu là ngày nay, nhất là trong một xã hội sung túc hưởng thụ, có lẽ chúng ta sẽ lên tiếng ta thán vì bánh đó nhàm chán nhạt nhẽo quá chăng). Tuy nhiên phát biểu của họ cho thấy, họ đã hoàn toàn quên mất việc nhận biết ai đã cho họ ăn, và tại sao lại cho. Họ lầm tưởng vào thời cha ông họ, Mô-sê đã cho Man-na là để… tiếp tục lãnh đạo dân, thì nay ông Giêsu cũng làm vì một lý do tương tự; ‘Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây?’ (Ds 11:4) Đức Giêsu đã muốn gợi cho họ nhớ lại mục tiêu chính mà sách Xuất Hành nhắm tới khi tường thuật về Man-na: ‘chính Cha tôi đã cho…’ Tiếp theo đó, khi khảng định chính mình là bánh bởi trời, bánh trường sinh, thì đồng thời Đức Giêsu cũng xác định luôn, Người cũng chính là Đấng ban bánh cho họ, “bánh tôi sẽ ban tặng…” (câu 51), và Người kêu gọi họ không những chỉ đón nhận bánh, mà còn hãy đến với ‘người cho’, đồng thời với Đấng đàng sau ‘người cho’ đó nữa; “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và sẽ không bị loại ra ngoài… Ý của Cha là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời…” (câu 37 và 40). Mục đích tối hậu của việc ăn bánh trường sinh chính là: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Ăn bánh trường sinh là tin và tiếp nhận trọn vẹn Thiên Chúa tình yêu trao hiến mình cho con người; là hành vi chạm sâu sát nhất tới sự chăm sóc tuyệt diệu của Thiên Chúa đối với con người yếu hèn tội lỗi. Tương tự như khi xưa, dân Do Thái thu gom Man-na để “biết rằng Ta là Đức Chúa”, thì nay Kit-tô hữu rước Mình Máu Thánh Chúa để tuyên xưng: Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo, là tình yêu nhân từ và thương xót, là tình yêu cứu chuộc và trao ban. Mô-sê đã lưu trữ một đấu Man-na trong bình và đặt nó trong cung thánh ‘để giữ lại cho con cháu anh em…’ (Xh 16:53). Cũng thế nếu Bánh Thánh ngày nay có được giữ lại trong nhà tạm, mục đích chính cũng là để gợi nhớ về tình yêu nhân ái này, hơn là chỉ để được thờ lạy kính tôn.
Lạy Bánh Trường Sinh nhiệm mầu, xin cho con hiểu: nếu bánh và người cho bánh chỉ là một, thế có nghĩa là người đó đã trao ban hết, trao ban trọn vẹn chính mình. Bây giờ thì con đã rõ hơn: Thánh Thể và Thập Giá chỉ là một, vì đều là tình yêu tự trao ban đến cạn kiệt. Xin cho con rước lễ sốt sáng như con đường độc đạo đưa con vào chính tình yêu trao ban đó, để rước lễ trở nên cho con nguồn dâng hiến và phục vụ, trọn vẹn và mãi mãi. Amen.
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng TN 18-B88 Lượng
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến"(Ga 6, 29).
Đức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin nơi Đấng Thiên Chúa đã sai đến" (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô: "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới" (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15. Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu TN 18-B89
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) c- cc. 30-33: Bánh bởi trời c’- cc. 34-40: Bánh bởi trời b’- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa) a’- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27); 2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29); 3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33); 4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53...). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu (amen amen...) có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng[1].
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số phức “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.
(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở nam tính, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái. Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; x. 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là Sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhận về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như Đức Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào… ? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
4. Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, đang nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Bí tích trong các cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta có biết chính Người là Đấng chúng ta đang tìm kiếm và không phải là dấu chỉ của sự thỏa mãn vật chất nào khác? Cơn đói mãnh liệt nhất của chúng ta là sự mật thiết với Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta, thứ mà Đức Giêsu hôm nay gọi là “sự sống đời đời”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người với tất cả con người, tâm hồn và thân xác của ta.
“Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
Trên đường về đi Lễ về, bà Tư ngồi sau xe ông Tư cứ lắc qua lắc lại không yên, rồi ngoái đầu dài TN 18-B90
Trên đường về đi Lễ về, bà Tư ngồi sau xe ông Tư cứ lắc qua lắc lại không yên, rồi ngoái đầu dài nhằng ra phía sau, làm ông Tư khó chịu.
“Bà làm sao thế ? Có ngồi cho yên được không ?” - “Chị em con bà M. làm mấy cái nhà to khủng mà đẹp quá ông ơi” - “Mấy cái nhà đó không có phục sinh đâu bà. Sao mà bà ham hố quá vậy ?” Ông Tư trả lời rất nhanh. Vâng, trong suy nghĩ của ông Tư từ bao đời, và ngay trong câu cửa miệng ông thường nhắc tới với bạn bè rằng: “Cái này không sống lại”; “Cái kia không phục sinh”.
Đối với ông, nhà cửa không phục sinh, của cải không sống lại, phương tiện không phục sinh, quyền lực không sống lại, tên tuổi danh vọng không phục sinh, và nhất là của ăn của uống ở trần thế này lại càng không sống lại, nếu không nói là chính những thứ ấy là thứ tiêu tan chóng vánh nhất. Tất cả những gì bởi cõi đất thì chắc chắn sẽ trở về với bụi đất, không sớm thì muộn, không nay thì mai, có tồn tại cũng không thể tồn tại đến một vài thế kỷ.
Bạn bè người lương của ông thấy ông nhìn mọi thứ mọi sự trên đời nầy có vẻ bi quan, yếm thế, nên đã hỏi ông xem ông bị ảnh hưởng tư tưởng nào mà như vậy. Ông trả lời: “Tôi không bi quan yếm thế. Tôi quý chuộng của cải vật chất, nhưng không bị ràng buộc. Bởi vì, từ thuở nhỏ, cha tôi đã nhắc đi, nhắc lại với tôi rằng: không có thứ gì trên trần gian này có khả năng sống lại, chỉ có con người. Và cũng không có thứ gì trên trần gian này có thể làm cho con người sống lại, chỉ có Thánh Thể Chúa Giêsu… Từ bài Giáo Lý của cha tôi, đã hình thành trong tôi một cái nhìn, một khái niệm, một ý nghĩa, một mục đích cho đời tôi. Và đến hôm nay, hơn 60 tuổi đầu, và qua bao nhiêu điều trông thấy, đã chứng minh cho tôi rằng, bài Giáo Lý của cha tôi dạy là đúng đắn, là chính xác.”
Nghe câu trả lời của ông Tư, hẳn nhiên là có nhiều hướng suy tư nơi các bạn ông. Cũng không tránh khỏi câu nói thầm của một ông bạn nào đó: “Nghèo mạt rệp mà sung sướng cái nỗi gì với chuyện phục sinh hay sống lại !”
Vẫn biết cái thời hạn ngắn ngủi, cái tiêu tan của mọi thứ vật chất trên cõi đất này, vậy mà ai cũng lao mình vào để tìm cho bằng được. Đã vậy, khi có được chút chút của cải chẳng đáng vào đâu so với ai cả, thì cho là chúng ta đã đạt đến Thiên Đường Hạnh Phúc. Rồi sao nữa ? Rồi phủ nhận Thiên Đường của những kẻ có Đức Tin vào Thiên Chúa, Đức Tin vào đời sau, lại còn xem họ là những kẻ bị phê thuốc phiện, ảo giác. Rồi ra, ai ảo giác ? ai phê thuốc phiện ? Đến một lúc rồi ai cũng phải hiểu ra thứ hạnh phúc trần gian này, thiên đường hạnh phúc trần gian này là một loại hạnh phúc ảo tưởng có chủ định của Satan và những người theo chúng chống lại Thiên Chúa. Satan luôn sợ con người ta thuộc về Thiên Chúa, nên đã vẽ ra cho con người những phương cách tìm hạnh phúc nhanh nhất, sớm nhất, không đợi hạnh phúc phục sinh sau cuộc đời này…
Tôi còn nhớ câu nói của cha Gioan Nguyễn Văn Hảo, cha sở một Giáo Xứ vùng quê: “Nguy hiểm rồi ông Hoàng ơi. Giáo Xứ mình sắp có điện”. Tôi chẳng hiểu nguy hiểm thế nào khi Giáo Xứ cha bắt đầu có điện. Một tháng sau ngày có điện, tôi gặp lại cha, mới hay là cả tháng vừa qua, số người đi Lễ tối sáng giảm đi rất nhiều. Bà con thi nhau sắm tivi, giàn máy karaoke, và các thứ phương tiện khác. Làm sao mà bỏ được cuốn phim tình cảm đương theo từ tập đầu, tivi phát thường lệ vào đúng ngay giờ Lễ tối ? Làm sao mà bỏ được những cuộc nhậu nhoẹt dưới ánh điện hấp dẫn ? Làm sao mà hoãn lại cuộc hẹn karaoke với chị em ? Tự hồi nào chưa có, ai dại gì mà hoãn lại sự sung sướng này ! Thật tội nghiệp cho cha, người mục tử ước muốn đoàn chiên mình được sống, sống dồi dào và bảo đảm một Sự Sống phục sinh vĩnh cửu nơi Thánh Thế Chúa Giêsu. Cha tâm sự: “Phải mất hơn một năm sau ngày có điện mới thấy được có đông người trở lại với Thánh Lễ, nhưng cũng không thể nào bằng hồi trước”.
Mới chỉ là chuyện “có điện” đã là như thế ấy, huống nữa khi có cả khối của cải vật chất thì sao ?!? Thiết tưởng, nếu không có cái nhìn “xuyên suốt thời gian” như ông Tư kia, thì khó lòng tránh khỏi những ràng buộc đến chỗ vong thân, nô lệ cho vật chất chóng vánh.
Đừng đổ thừa cho chuyện có điện, đừng đổ thừa cho những thứ sơn hào hải vị mỹ tửu kia, cũng đừng đổ thừa cho những đồng tiền, những thẻ vàng ròng óng ánh đầy quyền năng kia có sức quyến rũ làm lòng mình không cưỡng nổi, nhưng hãy khiêm tốn nhận ra sự vô ơn của mình đối với Của Ăn Thường Sinh mà Chúa Giêsu đã dọn sẵn: Thánh Thể Chúa, Bánh bởi Trời, Bánh ban Sự Sống đời đời.
Chuyện vô lý mà hiển nhiên đến mức đáng sợ, đáng trách, là đã ăn Bánh bởi Trời mà vẫn còn đói bánh bởi đất, vẫn còn thèm khát tất cả những thứ “không có khả năng phục sinh, không làm cho ai phục sinh” đến mức không thể không có. Tình trạng này cho thấy việc ăn Bánh bởi Trời không phát xuất từ một niềm tin, từ một lòng yêu mến, nhưng phát xuất từ một ý cầu lợi theo kiểu phàm tục.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một lần nữa với chúng ta: “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".
Hãy làm việc của Thiên Chúa là TIN vào Đấng Người sai đến, Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu là bánh ban Sự Sống. Ai đến với Đức Giêsu, sẽ không hề đói; ai tin vào Đức Giêsu, sẽ không hề khát bao giờ".
Hãy ngộ cho ra một chân lý gần gũi nhất là: không có thứ vật chất nào, không có con người phàm tục nào sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, bởi vì vật chất nào cũng tiêu tan, con người nào rồi cũng ra tro bụi, sự nghiệp bất chính nào rồi cũng bị tàn hoang sụp đổ… Chỉ có Chúa Giêsu, chỉ có Thánh Thể Chúa Giêsu mới là sự sống đích thực của chúng ta trong cõi đời này và đến muôn muôn đời sau nữa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ra công làm một việc quan trọng nhất trong đời người, là TIN vào Đức Giêsu, Con Chúa; và biết yêu mến, khao khát, thưởng nếm một của ăn duy nhất có thể cho chúng con được trường sinh là chính Thánh Thể Đức Giêsu. Amen.
Cửa hàng thức ăn nhanh McDonalds ở quận 1, Sàigòn tổ chức chương trình phát những phần ăn nhanh TN 18-B91
Cửa hàng thức ăn nhanh McDonalds ở quận 1, Sàigòn tổ chức chương trình phát những phần ăn nhanh miễn phí, diễn ra từ 20 giờ tối 23.3.2015 đến 20 giờ tối 24.3. Quà tặng bao gồm một phần bánh burger, khoai tây, nước ngọt và áo thun. Người tham gia nhận quà phải đi xe máy hoặc xe đạp, xếp hàng để đến quầy bán thức ăn của cửa hàng.
Nằm trong chuỗi sự kiện này, trưa nay, 24 tháng 3, cửa hàng tiếp tục phát những phần ăn miễn phí cho khách hàng, kèm theo đó là chương trình cơn mưa đồ chơi gồm huy hiệu, râu giả, mắt kính... được ban tổ chức ném từ sân thượng cửa hàng cho người chơi nhặt lấy. Rất nhiều người không ngại trưa nắng đã đứng chờ hàng giờ trước cửa hàng để được nhận quà miễn phí, nhưng rất lâu vẫn chưa đến lượt. Thỉnh thoảng trong đám đông xuất hiện nhiều đợt cãi vã chen lấn, khiến lực lượng bảo vệ phải đến can thiệp. Nhiều người mặt đỏ gay, mệt mỏi khi đứng đợi chờ trong khói xe, nắng nóng. Đoạn đường bên ngoài cũng xảy ra tình trạng ùn tắc vì số người chờ đợi tràn ra cả ngoài.
Khoảng 11 giờ 30, trong lúc dòng người đang xếp hàng, những món đồ chơi từ trên cao ồ ạt rơi xuống. Cảnh hỗn loạn diễn ra, nhiều người vứt xe máy, xe đạp ùa vào tranh nhau lấy quà. Anh Trần Hữu, ngụ quận Bình Thạnh, nói: “Tôi không đồng tình cách làm của cửa hàng khi ném đồ chơi xuống để mọi người giành, giẫm nhau để nhận quà. Sao không tặng kèm trong gói thức ăn ?" Đại diện cửa hàng trên cho biết đây là hoạt động mang tên “I’m lovin’ it” nhằm kết nối 24 thành phố trên khắp thế giới có cửa hàng McDonalds. Đã có trên 16.000 phần thức ăn được phát ra. ( Lê Phong, NLĐ, Hàng ngàn người đội nắng nhận thức ăn nhanh, giành giật đồ chơi ).
Hình ảnh cả ngàn người rồng rắn, hem hễ dưới trời nắng gắt, chờ được McDonalds phát chẩn, có lẽ phản ảnh được phần nào chuyện ngày xưa dân chúng Do Thái lũ lượt kéo nhau đi tìm Đức Giêsu để được no thỏa.
Nhân chuyện này, ở trong hội đường Capharnaum, Đức Giêsu giảng dạy cho dân chúng về hai thứ lương thực hư nát và trường sinh. Tuy nhiên, phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi ăn cả vạn người vẫn còn quá ấn tượng đối với dân chúng, khiến họ không thể nào suy nghĩ xa hơn, hay cao hơn chiếc bánh lúa mạch và cá muối đậm đà.
Bờ bên này: Lương thực hư nát
Vào thuở lữ hành trong sa mạc, dân Do Thái tuy thoát khỏi ách cai trị hà khắc của Ai Cập, nhưng vẫn còn bị ám ảnh kiếp đọa đầy nô lệ, vong thân, trong suốt cuộc hành trình ròng rã 40 năm. Qua lời khẩn cầu của Ngôn Sứ Môsê, Thiên Chúa đã ban Manna để nuôi sống họ. Hôm qua, dân chúng lại được ăn no, nên hôm nay càng thêm đông người tìm đến với Đức Giêsu. Tuy họ đã cố gắng theo Đức Giêsu, đi sang bờ bên kia Biển Hồ, nhưng tâm hồn vẫn còn nặng lòng với những gì xảy ra ở bờ bên này.
Ở bờ bên này, họ đã được Đức Giêsu đáp ứng nhu cầu thể xác, đã no thỏa, dư đầy bánh và cá. Cho nên, họ tiếp tục tìm kiếm Chúa, đi theo Chúa với nguyện vọng, khát khao, mong đợi có thể hưởng phúc hơn thế nữa. Nhân dịp này, Đức Giêsu đã mượn việc hóa bánh ra nhiều để kín đáo hướng họ lên tầm cao mới, không phải Người chỉ đáp ứng nhu cầu căn bản thể lý, bản năng, mà còn phục vụ nhu cầu tâm linh. Nỗi khao khát muôn thuở của tạo vật muốn tìm về cội nguồn, Đấng Tạo Hóa. Người muốn tâm hồn họ mở rộng, hướng thượng, tân trang, biến đổi, theo bước chân họ khi sang bờ bên kia. Thế nhưng, Người đành phải bất bình thốt lên:“Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Rồi Đức Giêsu khuyên nhủ họ đừng chỉ làm vì lương thực mau hư nát, mà vì lương thực thường tồn, trường sinh, do chính Người ban tặng. Dân chúng thì vô tình, chỉ đơn sơ hiểu chữ“làm” theo nghĩa đen, nên hỏi lại: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” Họ nghĩ Đức Giêsu sẽ kể ra một loạt các việc làm cụ thể, như các thầy luật sĩ, tư tế vẫn thường dạy bảo. Đức Giêsu vẫn nhẫn nại, vắt tắt, ôn tồn trả lời, đó là tin vào Đấng Người đã sai đến. Nhưng với não trạng thực dụng, tham lam, lợi dụng, hưởng thụ, chai lỳ, họ ra điều kiện, thách đố, mới chịu tin Người, yêu cầu Người tiếp tục làm phép lạ, cũng gợi ý Người hãy tiếp tục chiêu đãi họ ăn no nê, như xưa cha ông họ được ăn Manna phủ phê.“Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? Tổ tiên chúng tôi đã ăn Manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời.”
Quanh đi quẩn lại, dân chúng vẫn lấy cái bụng làm trọng tâm câu chuyện. Họ vẫn chưa thoát ra khỏi bờ bên này dư đầy bánh và cá. Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn tiếp tục đào sâu ý nghĩa quan trọng của bánh bởi trời. Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian. Họ liền hớn hở, mừng rỡ cầu xin ngay:“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy !”
Bờ bên kia: Lương thực Trường Sinh
Tuy đang ở cùng không gian là hội đường Capharnaum, nhưng giữa Đức Giêsu và dân chúng vẫn xa cách nhau vời vợi. Đức Giêsu đã sang bờ bên kia, trong khi tâm hồn dân chúng vẫn cố chấp, bảo thủ, đóng đô ở bờ bên này.Cuộc đối thoại cuối cùng bế tắc, vì mâu thuẫn ý tưởng dị biệt hai bên bờ, mặc dù nghe rất xuôi tai, thuận chiều.
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay nhắc đến một cơ hội thích hợp cho Đức Giêsu giảng dạy về bánh hằng sống, khi dân chúng vừa chứng kiến phép lạ hóa bánh, đã được ăn no thỏa thuê, bèn kéo nhau tìm đến Người.
“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Từ chuyện lao động, làm việc mưu sinh, Đức Giêsu nhẹ nhàng chuyển qua thái độ, lẽ sống, ứng xử, tâm hồn, phải linh hoạt làm sao thủ đắc được lương thực thường tồn. Mà lương thực đó do chính Người trao ban. Hơn nữa Người lại được chính Thiên Chúa Cha đóng dấu xác nhận. Với người Do Thái xưa, con dấu, con triện luôn luôn có giá trị cao nhất trong mọi giao dịch trong xã hội.
Để nhận được lương thực thường tồn đó chỉ có cách duy nhất là tin vào Đức Giêsu, nghe theo, tuân giữ và sống Lời Người. Bởi chưng chính Người là Bánh Đem Lại Sự Sống: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
“Mặt trời sáng và tung tỏa ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống Thần Linh cho nhân loại, sự hòa hợp cho các dân tộc: “Bánh Ta sẽ ban ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” ( Ga 6, 51 ) ( Đường Hy Vọng, số 361 )
Lạy Chúa Giêsu, xưa dân Do Thái được Chúa nuôi bằng Manna, nay chúng con vô cùng vinh dự được Chúa nuôi bằng Thánh Thể, bằng chính Máu Thịt Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân hàng ngày, cũng như khao khát, dọn mình xứng đáng để đón rước Chúa ngự vào lòng.
Lạy Mẹ Maria, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Mẹ một danh hiệu mới, là Người Nữ Thánh Thể. Qua lời “Xin Vâng,” Mẹ đã cưu mang và dưỡng nuôi Đức Giêsu trong cung lòng. Mẹ chuyển thông cho Đức Giêsu chính thịt máu Mẹ, cũng là Mình Máu Thánh Chúa. Kính xin Mẹ cầu bầu, cảm hóa và thánh hóa chúng con, để chúng con luôn khát khao tìm đến, tin cậy và đón rước Thánh Thể, hầu được sống viên mãn. Amen.
Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chỉ mặc khải về nguồn lương thực Trường Sinh nhưng Ngài TN 18-B92
Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chỉ mặc khải về nguồn lương thực Trường Sinh nhưng Ngài còn dạy cho dân chúng phải biết lao động kiếm sống bằng chính đôi tay và sức lực của mình. Quả vậy, đám đông dân chúng đã đi theo Ngài, tìm kiếm Ngài chỉ vì được ăn bánh no nê: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn mang lại phúc trường sinh" ( Ga 6, 26-27 ).
Quả thật, dân chúng đi theo Đức Giêsu chỉ vì được của nuôi phần xác, không cần phải lo toan, làm lụng vất vả nữa. Họ lầm tưởng Ngài là vị vua có thể cho họ cơm ăn, áo mặc. Nhưng mục đích của Ngài khi đến thế gian này đâu phải giải quyết chuyện cơm áo gạo tiền cho nhân loại, mà Ngài muốn dạy họ trước hết cần phải tham gia lao động để cộng tác vào chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài. Hơn nữa, qua việc cộng tác ấy, Ngài mặc khải cho thế giới hiểu rằng nguồn lương thực mau hư nát, không thường tồn ấy chẳng thể nào có giá trị vĩnh cửu. Thế nhưng thông qua lao động con người sẽ tìm ra được ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa của ăn thiêng liêng mà Thiên Chúa đã tặng ban nhưng-không qua Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài chính là nguồn lương thực không bao giờ hư nát và mang lại giá trị Sự Sống vĩnh cửu cho con người: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” ( Ga 6, 35 ).
Nếu đi theo Đức Giêsu mà được no thỏa cơm ăn áo mặc, chắc có lẽ người ta sẽ theo đông lắm, không ít ỏi như bây giờ. Nhưng khổ nỗi Ngài không hứa hẹn lo cho họ cơm dư gạo thừa, Ngài không phải đến để giái quyết cơm no áo ấm, nhưng Ngài đến là để mặc khải một nguồn lương thực khác. Chỉ có nguồn lương thực ấy mới thưc sự cho con người sự sống không bao giờ hư mất. Còn nguồn lương thực mà nhân loại đang kiếm tìm từng ngày thì chóng qua mau tàn, không cho họ no thỏa mãi, không thể nuôi họ sống mãi.
Như vậy, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ lo cho nhân loại cơm ăn áo mặc nhưng Ngài còn lo cho họ thứ lương thực quan trọng, cần thiết hơn gấp bội chính là chính Máu Thịt Ngài. Đó là nguồn lương thực trường sinh từ Trời mà Thiên Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Khổ nỗi con người chỉ thích thực tế, suy nghĩ của họ hẹp hòi và nông cạn. Cho nên đã bao ngàn năm qua rồi, họ vẫn lầm lũi đi vào con đường diệt vong vì chỉ lo đến của ăn vật chất mà quên đi nguồn lương thực đích thực cho mình Sự Sống vĩnh cửu. Sự lầm tưởng, sự sai lạc lớn lao ấy đã khiến con người không thể thăng hoa và phát triển.
Lạy Chúa, hiến thân mình làm của nuôi nhân loại là cả một sự hy sinh lớn lao của Thiên Chúa, vậy mà nhân loại vẫn coi thường. Chính vì để của nuôi vật chất mê hoặc nên con người không màng đến của nuôi linh hồn. Thế giới đã tìm và chọn sai cùng đích đời mình, cho nên khước từ Thiên Chúa.
Bản thân con cũng thế, ngày ngày miệt mài bôn ba lo tìm của ăn vật chất, con đã quên đi việc tìm ra ý nghĩa cuộc sống ngay chính trong cuộc đời mình. Vì quá nô lệ vào chúng cho nên con đã bỏ qua những cơ hội giúp con có được của ăn trường tồn.
Xin giúp con biết trọn niềm tín thác vào Chúa, chỉ cần biết cộng tác với công cuộc lao động của Ngài trong niềm tin và lòng mến, con sẽ nhận được của nuôi linh hồn giúp bản thân và gia đình mình có thể sống hoài, sống mãi và sống vĩnh cửu.
Xin giúp con trong lúc ra công làm việc vì cuộc sống, con cũng sẽ nhận được của nuôi linh hồn bằng phúc lành Đức Chúa ân ban.
Chương 6 của Tin Mừng theo Thánh Gioan được đưa vào giữa Năm Phụng Vụ, làm gián đoạn Tin TN 18-B93
Chương 6 của Tin Mừng theo Thánh Gioan được đưa vào giữa Năm Phụng Vụ, làm gián đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô đang được đọc trong Mùa Thường Niên năm B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Nhưng vì họ chỉ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" ( Ga 6, 26 ). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người ( x. Ga 6 ).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man-hu ?" Nghĩa là: "Cái gì đây ?" ( Xh 16, 14 ). Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì ?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai Cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" ( Xh 16, 16 ), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" ( Ga 6, 27 ). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa ?" ( Ga 6, 28 ) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến"( Ga 6, 29 ).
Ðức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin nơi Ðấng Thiên Chúa đã sai đến" ( Ga 6, 29 ). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ Manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống ( x. Ga 6, 41 ) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn.
Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ Trời xuống là Manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ). Người là bánh từ Trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo Thánh Agustinô: "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới" ( Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1 ).
Thánh Thể, thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới Quê Trời vinh phúc.
Trong sa mạc, Manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong Bí Tích Thánh Thể. Nhờ Bí Tích Thánh Thể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau yếu tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, Manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Rất giả nai và làm ra cái vẻ quan tâm và yêu thương Thầy lắm. Thánh Gioan vừa thuật lại cho chúng TN 18-B94 VL
Rất giả nai và làm ra cái vẻ quan tâm và yêu thương Thầy lắm. Thánh Gioan vừa thuật lại cho chúng ta: Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? "
Thay vì trả lời cho họ, Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt của đám đông dân chúng: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận."
Và, cuộc tranh luận ta thấy càng lúc càng sôi nổi hơn. Trong cuộc tranh luận đó, ta thấy một bên cố tình nói điều cần thiết cho người ta hiểu nhưng rồi một bên cứ mãi không tin. Nghe Chúa nói quá họ đành xuống nước là xin Chúa cho họ thứ bánh mà Chúa Giêsu nói. Và ta thấy, câu trả lời sau cùng là Chúa Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!"
"Tôi là bánh trường sinh" ! Nghe qua thật sự khó mà tin được vào cái con người đang nói chuyện với đám đông dân chúng. Đơn giản là trong cái đám đông dân chúng đó cũng có những người cùng quê với Chúa Giêsu và đã hơn một lần người ta đã xầm xì với nhau "Ông ấy không phải là con bác thợ, là hàng xóm với chúng ta đó sao ?"
Và rồi, thái độ cứng tin cứ lớn dần, lớn dần trong đầu của họ, trong não trạng của họ.
Cũng dễ hiểu bởi lẽ cái nhìn của họ là cái nhìn xôi thịt, cái nhìn thực dụng mà người ta vẫn thường ví von là những người "não to nhưng óc ngắn".
Họ không tin cũng dễ hiểu vì họ cứ đinh ninh trong đầu họ Đấng Cứu Độ trần gian là Chúa Giêsu đó đến trong thế gian phải hoành tráng, phải làm cho dân tộc của họ nở mặt nở mày, dân tộc của họ hơn các dân tộc khác. Nhưng, trong thực tế, Chúa Giêsu lại đến trong cuộc đời này với cái vẻ chẳng ra làm sao cả. Chúa Giêsu đến không như bình thường mà còn dưới mức bình thường nữa để rồi người ta dù có thấy Chúa đó nhưng rồi như người ta vẫn không thấy.
Xem chừng ra thì tội nghiệp cho những người Do Thái thời bấy giờ là họ dù thấy Chúa đó nhưng họ không tin và họ cứ mãi đi tìm.
Phần chúng ta, nhờ các tông đồ, nhờ những chứng nhân đã minh chứng về một Bánh Trường Sinh đến trong thế gian này nhưng ta ta vẫn cứng lòng tin. Nếu như ta tin nhận rằng Chúa chính là Bánh Hằng Sống, Bánh Trường Sinh thì ắt hẳn cuộc đời của ta sẽ khác.
Cũng dễ hiểu bởi lẽ đầu của ta tuy lớn đó nhưng óc của ta vẫn cứ ngắn. Chính vì ngắn nên không đủ nhìn, không đủ tin vào Bánh Trường Sinh.
Trong những lần thi hoa hậu, có phần thi ứng xử, ai nào đó đã xem thi hoa hậu thì đã hơn một lần chứng kiến những cô gái trông thật đẹp và đủ chuẩn là hoa hậu đó nhưng trả lời những câu hỏi thật vô duyên. Với những câu trả lời như vậy, công chúng thường gán cho những cô đẹp sắc đẹp người đó bằng cái tên "óc ngắn". Muốn nói "óc ngắn" là vì đầu của cô ta, tạng người của cô ta nhìn bên ngoài thật hấp dẫn, bắt mắt nhưng não của cô có chút xíu, óc của cô chỉ có vậy.
Nhìn lại ta cũng thế, ta, có khi dưới con mắt người đời ta có nhiều bằng cấp, ta thông minh hơn nhiều người khác nhưng đứng trước Bánh Trường Sinh chính là Mình và Máu Chúa đó ta cảm được như thế nào ? Ta có cảm nhận và xác tín đó là Bánh Trường Sinh của đời ta hay không ?
Thực tại của cuộc sống ngày hôm nay, có lẽ cũng chẳng khác dân chúng ngày xưa thời của Chúa Giêsu là mấy, thậm chí còn tệ hơn nữa. Ngày xưa, có thể nói đám đông dân chúng đi theo Chúa là những người "xôi thịt" vì lẽ họ đi theo Chúa để tìm dấu lạ, tìm của ăn và ít ra còn lui tới để nghe Chúa giảng, Chúa nói về Nước Trời.
Ngày nay, người ta không còn sốt sắng, không con mau mắn, không còn nhiệt tình để đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể, trong Lời Chúa nữa. Cứ nhìn vào cung cách sống đạo và giữ đạo ngày nay ta sẽ rõ phần nào về niềm tin vào Bánh Trường Sinh.
Ngày nay, nói có quá đáng chăng khi con người quá dửng dưng với Bánh Trường Sinh. Ngày nay, con người chìm đắm trong thực dụng nghĩa là đắm đuối trong chuyện kiếm tiền. Hẳn nhiên, có tiền, có vật chất mới nuôi được bản thân và như người ta nói "có thực mới vực được đạo !". Đúng chứ không sai nhưng thử hỏi ngày hôm nay có ai chết vì đói hay không hay là chết vì no ? Chết vì no bởi lẽ người ta ăn nhiều quá, người ta dung nạp vào trong mình nhiều hóa chất quá !
Chưa bao giờ mà ngày hôm nay người ta lại đưa vấn đề sạch ra để bàn luận như thế này ! Tất cả những món trên bàn ăn được dọn ra đều được hình thành từ hóa chất ! Gạo cũng hóa chất, rau cũng hóa chất, thịt cũng hóa chất ... mà cả cá cũng hóa chất ... tất cả dung nạp vào nhưng không phải người ta tăng thêm sự sống cho mình mà chỉ làm cho đời sống của họ giảm lại mà thôi.
Cùng với lẽ đó, Bánh Trường Sinh đã không còn là quan trọng trong đời sống của con người. Bánh Trường Sinh mà Chúa ban cho con người có chăng trừu tượng quá, mơ hồ quá, mông lung quá. Điều mà con người cần tìm là thực tại ở trần gian, là cơm bánh nuôi bản thân, là thỏa mãn những nhu cầu, khát vọng của con người.
Chính vì mãi mê đi tìm những thứ không phải là Bánh Trường Sinh đó để rồi ngày mỗi ngày, con người càng lún sâu vào của cải trần gian và cứ mãi đi tìm của cải trần gian. Ngày hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu nhắc nhớ cho mỗi người chúng ta rằng chính Ngài là Bánh Trường Sinh chứ không phải là thứ gì khác. Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta tin nhận cũng như ngày mỗi ngày biết chạy đến với Chúa để kín múc nguồn mạch trường sinh là Bánh Trường Sinh mà Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa thêm ơn cho ta để óc ta không còn ngắn nữa để ta nhận ra chỉ có Chúa mới là lương thực trường tồn, là Bánh Hằng Sống trong đời sống của ta.
Đề tài bánh luôn gây tò mò và thắc mắc cho con người, đặc biệt khi nói về Bánh Trường Sinh, vấn nạn TN 18-B95 Simon Hoà
Đề tài bánh luôn gây tò mò và thắc mắc cho con người, đặc biệt khi nói về Bánh Trường Sinh, vấn nạn ấy luôn nổi cộm đối với những người kém lòng tin, không có đức tin. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu rõ về Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống mà Chúa Giêsu tặng ban cho nhân loại, cho con người…
Vâng, có lẽ người Do Thái xưa khi đi trong sa mạc vào Đất Hứa, đã cảm nghiệm sâu xa, cái đói, cái khát và Manna, chim cút qua lời khẩn cầu của Môsê, Thiên Chúa đã gửi xuống hằng ngày cho họ…Có lẽ ngày nay nhiều người sẽ tự đặt vấn đề không hiểu: Chúa Giêsu, Môsê mới có nuôi họ và giải thoát họ ra khỏi nô lệ như ông Môsê xưa không ? Trước thắc mắc đó, Chúa Giêsu càng kích thích tính tò mò của con người, gợi lên lòng tin vô điều kiện của họ vào Người. Đối với Chúa Giêsu:” của ăn đích thực của con người là đức tin “. Người Do Thái khi xưa đâu có hiểu được ! Ngày nay nhờ Lời Chúa, nhờ Giáo lý, các lời Giáo huấn của Giáo Hội và nhất là đức tin, nhiều người đã nhận ra Chúa và tin vào Chúa, tin Mình Máu Thánh của Chúa. Ngược lại dòng lịch sử, đọc lại Tin Mừng, ngay tuần trước, chúng ta nhận ra khi Chúa làm phép lạ hóa “ Bánh và Cá “ ra nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn, no nê, thỏa thích. Biết dân chúng muốn tôn mình lên làm vua theo ý nghĩ nhân loại, Chúa Giêsu đã lẻn lên núi môt mình để lánh mặt họ…Tuy nhiên, hôm nay khi gặp đám đông hôm trước, Chúa Giêsu đã tấn công họ ngay “…các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê “. Xem ra câu nói của Chúa Giêsu có vẻ rất cứng cỏi.
Thực ra, Chúa Giêsu đang nói với đám nông dân Galilê, đám dân chân lấm tay bùn chỉ mong được mùa để họ có thể nuôi sống họ, nuôi sống gia đình của họ. Đám nông dân đã hiểu thế nào là no, thế nào là đói, thế nào là khát…Nhu cầu vật chất luôn là nhu cầu số một đối với họ. Do đó, nói ngay về những sự mầu nhiệm, những sự cao siêu, chắc chắn họ sẽ rất khó lãnh hội được. Như người phụ nữ bên thành giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã đi từ cái khát bình thường, đến nước uống không bao giờ khát nữa để kích thích sự ước muốn của chị và rồi Chúa đã giải thích cho chị về Nước Thiên Chúa: “ thứ nước không hề khát chỉ có Ngài mới ban được mà thôi!” Chúa đã đi từ những nhu cầu thực tế hằng ngày để dẫn họ tới mầu nhiệm mà chỉ có đức tin họ mới nhận ra được. Đối với con người ngày nay cũng vậy, cơm, bánh, gạo, tiền, danh vọng, quyền lực là những nhu cầu, khuynh hướng thực tế của con người, nếu chỉ nói tới những thực tại cao siêu mà quên đi những điều, những nhu cầu trần gian, chắc chắn nhiều người sẽ bỏ Chúa, như xưa khi nghe nói về “ Bánh Trường Sinh “, nói về Mình Máu Chúa, nhiều môn đệ đã bỏ Ngài mà đi nơi khác…
Chúa Giêsu không dạy con người biếng nhác, không chịu lao động, làm ăn, Ngài không dạy con người “ ngồi chờ sung rụng “, vì lương thực, vật chất hằng ngày vẫn luôn cần thiết…Nhưng Ngài hướng con người lên cao hơn, lương thực, vật chất cần thiết thật nhưng còn có một thứ lương thực không hề hư mất, đó là Bánh Trường Sinh: “ Mình Máu Thánh của Ngài “, chính Ngài: Đức Kitô Giêsu.
Chúa Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống để con người phải lượm, phải nhặt hằng ngày mà nuôi thân. Nhưng Chúa ban cho con người Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống để những ai tin và ăn Bánh ấy thì có sự sống đời đời:” Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ “ ( Ga 6, 35 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa vì Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Đám đông tìm lại gặp Chúa để làm gì ? 2.Ai đã cho dân Do Thái đi trong sa mạc về Đất Hứa ăn Manna ? 3.Manna có nuôi sống con người mãi không ? 4.Bánh Trường Sinh là gì ? 5.Con người cần có điều kiện gì mới chấp nhận Bánh Trường Sinh ?
Đây là huấn dụ thứ nhất (4:17-24) trong ba huấn dụ ngắn. Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “TN 18-B96
Đây là huấn dụ thứ nhất (4:17-24) trong ba huấn dụ ngắn. Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “đừng ăn ở như dân ngoại nữa.” Quả thực là nói thẳng nói thật, không chút kiêng nể, mặc dù tín hữu Ê-phê-xô gốc gác là dân ngoại! Tuy nhiên chúng ta không quên là Phao-lô cư xử cứng rắn như người cha, nhưng lại có trái tim thật mềm của một bà mẹ. Theo quan điểm của Phao-lô, giờ đây tín hữu Ê-phê-xô đã được tháp nhập vào Giáo Hội rồi thì họ phải sống con người mới. Trong Đức Ki-tô không có Dân ngoại hay Do-thái, cho nên nói thẳng như vậy không có nghĩa là mạt sát mà là chân tình nhủ bảo. Thánh Phao-lô thấy họ cần phải nhận ra đâu là quá khứ và đâu là hiện tại. Phụng vụ Lời Chúa bỏ đi từ câu 18-19 nói về lối sống thường tình của Dân ngoại, và bắt đầu lại từ câu 20-24 đề cập đến đời sống mới theo Thần Khí của Đức Ki-tô. Như vậy, những bài đọc của các Chúa Nhật trước cho chúng ta cái nhìn về bản chất Hội Thánh Chúa Ki-tô, thì bắt đầu từ Chúa Nhật này, thư Ê-phê-xô sẽ nói đến bản chất của các phần tử trong Hội Thánh tức là Ki-tô hữu. a) Ki-tô hữu là ai?
Thánh Phao-lô không định nghĩa Ki-tô hữu theo xã hội học, tức là những thành phần thuộc về một tổ chức được gọi là Giáo Hội. Nhưng ngài hiểu Ki-tô hữu là ai theo ý nghĩa kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, tức con người đang ở trong tiến trình cứu chuộc để đi tới quê hương vĩnh cửu Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ. Như vậy, Ki-tô hữu là “con người mới, con người đã được sáng tạo để thật sự sống công chính và thánh thiện” (4:24).
Đã nói tới con người mới tức là ngầm hiểu có con người cũ. Dòng tư tưởng của Phao-lô ở đây khiến chúng ta liên tưởng đến việc ngài so sánh Chúa Ki-tô là A-đam Mới trong thư Rô-ma chương 5. A-đam cũ sản sinh một nhân loại cũ bị tội lỗi khống chế, còn A-đam Mới sinh ra một nhân loại mới được giải phóng khỏi hậu quả tai hại của tội lỗi và được ơn trở nên công chính. Thuở sáng thế, Thiên Chúa tạo nên con người là nhắm mục đích cho họ sống “công chính và thánh thiện.” Nhưng tội nguyên tổ đã làm cho họ mất đi khả năng sống công chính và thánh thiện, chỉ còn biết sống theo những khuynh hướng xấu xa tội lỗi. Khi chết đi cho tội lỗi chúng ta, Đức Ki-tô đã tái tạo nơi chúng ta con người thuở sáng thế, tức là phục hồi nơi chúng ta cái khả năng đã bị tội lỗi tước đoạt xưa kia. Vậy Ki-tô hữu phải là con người như con người trước khi xảy ra tội nguyên tổ, “được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” Vậy phải sống thế nào để làm Ki-tô hữu đích thực? b) Thế nào là Ki-tô hữu?
Là Ki-tô hữu không hoàn toàn giống như là công dân của một quốc gia, hoặc là thành viên của một tổ chức, nhưng muốn là Ki-tô hữu thì phải làm sao trở thanh một Ki-tô hữu đích thực. Đúng thế, có nhiều người mang danh Ki-tô hữu, nhưng không phải là Ki-tô hữu đích thực. Điều này thánh Phao-lô đã cảm nghiệm ngay trong các cộng đoàn của mình. Cho nên ngài rất thực tế. Mặc dù khẳng định rõ căn tính của những người đọc thư ngài là những người được Thiên Chúa tuyển chọn trong Đức Ki-tô, nhưng ngài vẫn nhận thức là họ chưa hoàn toàn loại bỏ lối sống cũ. Có nhiều người vẫn còn chân nọ chân kia, nửa muốn trung thành với A-đam, nửa muốn trung thành với Đức Ki-tô. Cho nên thánh Phao-lô nhấn mạnh đến thái độ dứt khoát. Họ chỉ hướng về một lẽ sống mới là chính Đức Ki-tô.
Do đó, làm Ki-tô hữu trước hết là phải “học biết về Đức Ki-tô,” tức là phải sống theo những điều họ đã được nghe rao giảng về Đức Giê-su và sống theo tinh thần của Người. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Phao-lô đổi cách gọi tên của Đức Ki-tô, thay bằng Đức Giê-su. Ý hẳn ngài muốn ám chỉ đến Đức Giê-su là một người giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, là một nhân vật lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh, chứ không phải là một nhân vật tưởng tưởng. Hàm ý ấy có nghĩa là nếu Đức Giê-su làm người, sống như chúng ta, là để chúng ta cũng có thể sống giống như Người. Hoặc nói khác đi, Đức Giê-su là Ki-tô hữu gương mẫu để tất cả chúng ta noi gương Người mà sống nếu chúng ta muốn là Ki-tô hữu đích thực.
Trở nên Ki-tô hữu không phải là công việc đơn thuần tự sức riêng chúng ta có thể làm. Nhưng chúng ta phải có sự giúp đỡ của Thánh Thần. Thánh Phao-lô căn dặn: “Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em.” Đây là một công việc song hành: muốn đổi mới thì phải cởi bỏ con người cũ và nếp sống xưa, giống như khi chúng ta muốn tập một nhân đức thì đồng thời phải cố bỏ đi một nết xấu đối nghịch. Vai trò của Thánh Thần là canh tân đổi mới. Người đã đổi mới bộ mặt của Giáo Hội, từ khi còn là một nhóm Tông đồ nhát sợ và không biết phải làm gì. Người vẫn tiếp tục đổi mới Giáo Hội qua mọi thời đại, mỗi thời có một đặc điểm nói lên sự can thiệp của Người vào sự sống và phát triển của Giáo Hội. Cứ nhìn vào Công Đồng Vatican II, chúng ta có thể nhận ra biết bao đổi mới được suy tư, bàn luận và quyết định. Aggiornamento (canh tân tinh thần) là khẩu hiệu của Công Đồng, đề cao vai trò canh tân của Chúa Thánh Thần. Câu hỏi gợi ý chia sẻ Những gì đang là “con người cũ” nơi tôi? Đã làm mất căn tính Ki-tô hữu của tôi đến mức độ nào? Chia sẻ một vài nét thực tế của con người mới tôi cần phải thực hiện. Tôi đã làm gì để “học biết về Đức Ki-tô”? Từ học đi đến hành, tôi đã thành công hay thất bại? Tại sao? Tôi có thể hiểu đoạn thư cho Chúa Nhật 16 nói về tính công giáo của Giáo Hội, Chúa Nhật 17 nói về tính duy nhất của Giáo Hội. Vậy đoạn thư hôm nay có thể hiểu về sự thánh thiện của Giáo Hội không? Nếu đúng như vậy, thì sự thánh thiện ấy, ngoài Thiên Chúa ra, tôi phải làm sao đóng góp vào sự thánh thiện ấy? Cầu nguyện kết thúc Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc kinh Tin Kính của Công Đồng Ni-xê-a. Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
“Hãy ra công làm việc ... vì lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu” (Ga 6,27)
Sự sống vĩnh cửu không thể có được do tậu mãi mua sắm hay do công đức, nhưng nhận được như TN 18-B97
Sự sống vĩnh cửu không thể có được do tậu mãi mua sắm hay do công đức, nhưng nhận được như một ân huệ Thiên Chúa ban cho.
Những nỗ lực vô hiệu mong tìm kiếm sự sống vĩnh cửu: người ta có thể học hiểu Thánh Kinh theo chữ viết mà không biết tiến tới mục tiêu là Chúa Giêsu Kitô. “Các ông nghiên cứu Thánh Kinh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời.. Mà chính Thánh Kinh lại làm chứng về tôi. Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống” (Ga 5,39-40). “Không ai được nên công chính nhờ lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3,11-12 x. Rm 3,20.28).
Chúa Giêsu Kitô là nguồn sự sống vĩnh cửu: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống ...” (1Ga 5,11-12). Chính Chúa Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26) “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6 x.Rm 5,21 Dt 5,9 9,12 2Tm 1,10 1Ga 5,20).
Sự sống vĩnh cửu là một ân ban: “ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô Giêsu. Chúa chúng ta” (Rm 6,13). “Hãy ra công làm việc ... vì lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6,27). “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10,28 x. Rm 2,7 5,15-17 Ep 2,8-9 1Pr 3,7 2Pr 1,3).
- Người ta lãnh nhận sự sống vĩnh cửu nhờ đức tin: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa là đường duy nhất để được sự sống vĩnh cửu: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời, còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36 5,24 6,40 20,31 1Tm1,16).
- Niềm tin đòi phải là một sự cam kết cá nhân: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời ...” (Ga 12,25-26). “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống” (Mt 7,14), “Giữa thế hệ ngoại tình sẽ hổ thẹn và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8,38). Sám hối là bước đầu của sự cam kết: “Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sống” (Cv 11,18). “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người ... hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6,8-11).
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giêsu có một đường lối huấn luyện rất đặc TN 18-B98 LX
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giêsu có một đường lối huấn luyện rất đặc biệt. Đường lối ấy, nói theo ngôn ngữ hiện nay, là rất sư phạm. Ngài đi từ các việc cụ thể, từ cái mắt thấy tai nghe, từ cái mà người ta cảm nghiệm được để nói về những thực tại siêu nhiên.
Thực vậy, để nói cho ông Nicôđêmô hiểu về sự cần thiết phải được tái sinh để được vào Nước Trời, Ngài bắt đầu nói về nước và Thần khí. Ai sinh ra cũng từ trong một bọc nước và phải thở. Kẻ tái sinh bởi ơn trên cũng phải sinh ra từ nước và thần khí. Đó là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra khi Ngài đã trao thần khí.
Để làm cho người ta hiểu Ngài là ánh sáng thế gian, Ngài đã mở mắt cho một người mù từ khi mới sinh. Và Hôm nay để mạc khải cho chúng ta biết Ngài chính là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian, Ngài đã làm phép lạ bánh hoá nhiều, cho năm ngàn người được no nê.
Con người sinh ra cần phải có ánh sáng, không khí, nước và bánh. Kẻ được tái sinh làm con Thiên Chúa, cũng cần đến Đức Kitô, là ánh sáng, là Thần khí, là nước hằng sống và là bánh bởi trời. Ánh sáng ấy bùng lên trên thập giá. Thần khí ấy là hơi thở của Đức Kitô được trao ban khi Ngài tắt hơi thở. Nước hằng sống là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra và bánh bởi trời chính là thịt của Ngài. Khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó trở nên thịt máu của chúng ta. Khi chúng ta ăn thịt của Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, thì Ngài sẽ trở thành thịt máu chúng ta. Và bằng cách đó, Ngài thực sự ở trong chúng ta. Ngài và chúng ta chỉ còn là một, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Vì chính Đức Kitô sống trong chúng ta, nên chúng ta mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Mầu nhiệm thật cao siêu, nhưng ngôn ngữ và cách diễn tả của Chúa thật cụ thể và đơn sơ đến sống sượng, bởi vì Ngài không ngại nói đến việc phải ăn thịt và uống máu Ngài, khiến cho nhiều người lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, nên đã bỏ đi, không còn tin theo Ngài nữa.
Đó chính là lý do Chúa đòi hỏi niềm tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra Ngài là Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến. Và cái chết của Ngài mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự chết đời đời và đem lại cho chúng ta hạnh phúc trường sinh. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay có thể ăn thịt và uống máu Chúa hằng ngày, nhưng mấy ai thực sự ý thức rằng mình đang sống bởi chính thịt máu của Ngài? Đây không chỉ là chuyện thần học hay huyền bí, mà là chuyện thực tế, chuyện cũng thật như khi chúng ta ăn cơm, ăn bánh vì chúng ta không chịu lễ thiêng liêng, mà thực sự ăn bánh đã trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu. Thật đúng là mầu nhiệm đức tin.
Nhưng ý thức được như thế mà thôi chưa đủ, chuyện quan trọng đó là làm thế nào để chúng ta sống xứng đáng với Đấng đã thực sự trở nên thịt máu, tức là sự sống của chúng ta. Thực vậy, nếu chúng ta tin rằng: Thịt máu của chúng ta là chính thịt máu Đức Kitô, sự sống của chúng ta chính là sự sống Ngài tạo ra, thì chúng ta không còn được sống theo tính tự nhiên của mình, sống cho mình, mà trái lại, phải sống như Ngài đã sống. Và sống cho anh em mình, như Ngài đang sống cho chúng ta.
------------------------------
TN 18-B99: Hãy tìm lương thực trường sinh – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng TN 18-B99
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng họ chẳng sống được muôn năm, mà nấm mồ chôn vùi họ thối nát dưới lòng đất. Lãnh tụ nổi tiếng nhất trong loài người muốn sống muôn năm và lo tìm thuốc trường sinh bất tử, có lẽ là Tần thủy Hoàng của nước Tầu, đã sống trước Chúa Giáng sinh hơn 200 năm. Ông tự phong là Nhất Thế, nghĩa là vô địch nhất thế gian này về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Thủy Hoàng còn muốn được trường sinh trẻ mãi, nên tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai phái quần thần đi khắp mọi nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt làm theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta như bảo ông phú hộ rằng: “Đồ ngốc ! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc. 12, 20). Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi. Khi chết, thây ma của ông thối tha ghê tởm đến nỗi phải gánh cá thối đi trước kẻo dân chúng nguyền rủa: “Ác giả ác báo”.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy dân chúng đi tìm Chúa Giêsu để được bánh ăn như hôm qua họ mới được ăn bánh hóa nhiều. Nhưng Chúa đã nhắc nhở họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông”. Họ tưởng Người sẽ ban cho họ thứ bánh như Môisen đã cho tổ tiên họ ăn man na trong sa mạc suốt thời gian bốn mươi năm về đất hứa. Họ vội vàng xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”. Họ sẽ sống sung sướng biết bao, không phải làm ăn cực khổ.
Trước đó mấy ngày, người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp lấy nước. Chị được gặp Chúa Giêsu. Người cũng nói với chị: “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Chị đã mau lẹ xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga. 4, 13-15).
Thời nào con người cũng chỉ biết tham muốn đòi hỏi những của ăn vật chất hay hư nát như vậy. Tần thủy Hoàng, dân Do thái, dân Samari và cả chúng ta nữa: “được voi đòi tiên”, không bao giờ được thỏa mãn. Lòng tham con người không đáy. Ở nước nghèo đòi ăn no mặc ấm, có nhà ở. Ở nước giàu ăn dư thừa lại luôn xuống đường đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi bớt ngày làm việc, từ bảy ngày xuống năm ngày, từ 48 giờ xuống 40 giờ, 30 giờ, còn để giờ đi xả hơi, đi chơi, coi phim, du lịch đua xe, đấu bóng, đấu võ, tới chỗ đánh nhau, chửi nhau, gây rối, rượu chè, cờ bạc, nghiện ma túy, phá hoại, chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nhàn cư vi bất thiện. Không ở đâu trên thế gian làm cho người ta được bằng lòng ! Ở Việt Nam đòi sang Mỹ, ở Mỹ lại đòi về ! Càng giàu càng lắm nhu cầu. Càng nhiều nhu cầu càng khổ vì chẳng bao giờ được thỏa mãn.
Người ta chỉ biết tìm những của hư nát và chết theo của hư nát đó thôi.
Chúa Giêsu thấy con người sống trong cảnh hư nát bi đát tội nghiệp đó, đã kêu gọi ta: “Hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, để có lương thực không hư nát. Việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Đấng ấy chính là Tôi”, “Chính Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ nữa”. “Đến với Tôi, tin vào Tôi” là sống như chính Chúa Giêsu sống, sống với tâm tình và hành động như Người. Sống bằng sức sống của Người đã sống và đã chết để hy sinh lấy thịt máu mình cho con người được sống và được sống dồi dào. Sống như thế sẽ không còn đói, hy sinh như thế sẽ không còn khát, không còn lòng tham không đáy nữa, không còn đau khổ, nhưng được sống trường sinh hạnh phúc muôn đời
Thánh Ignatiô, Đấng sáng lập Dòng Tên, một dòng trí thức nhất của Hội thánh, Ignatiô lúc còn là đại úy, là quan, là hiệp sĩ anh dũng đầy những tham vọng, đòi giàu sang, khát danh tiếng, mê lạc thú, khát khao đủ mọi của hư nát thế gian. Chẳng may, Ignatiô bị thương nặng, què cẳng, phải nằm nhà thương lâu dài. Ông có dịp đọc sách “Gương Chúa Giêsu”, ông cảm thấy tâm hồn thanh thoát, phấn khởi chan chứa niềm vui. Ông thấy niềm vui thánh thiện này khác hẳn với thú vui dục vọng, danh vọng, giàu sang. Niềm vui thế tục như của ăn hư nát, vui chút là hết, lại sinh ra buồn chán, khổ sở, cắn rứt bất mãn như kẻ say rượu, mê cờ bạc, nghiện ngập. Niềm vui nhân đức, thánh thiện, việc lành, tồn tại mãi, an tâm, phấn khởi, thanh thoát, giống như niềm vui của tuần tĩnh tâm, của mùa thương khó, của lễ Phục sinh và Giáng sinh.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ignatiô tìm được lương thực trường sinh vinh phúc, xin cho chúng con luôn luôn làm việc của Thiên Chúa là tin mến vàsống theo Đức Giêsu để được Thịt và Máu Thánh Người bổ dưỡng chúng con bây giờ và cho đến muôn đời.
Đức Tổng GM Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ từ năm 1950 tới năm 1979. TN 18-B100
Đức Tổng GM Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ từ năm 1950 tới năm 1979. Ít ngày trước khi qua đời trong năm 1979, một nhà báo hỏi ngài "Thưa Đức Cha, ai đã tạo động lực cho Đức Cha về việc chầu Thánh Thể mỗi ngày, có phải vị thánh nào hay Đức Giáo Hoàng nào chăng?" Ngài trả lời: "Không phải từ vị thánh hay Giáo Hoàng nào cả nhưng là từ một cô bé người Tàu 11 tuổi" Ngài kể: Khi Trung cộng xâm chiếm Trung Hoa, lính Trung cộng đã đến 1 giáo xứ kia bắt giam Linh mục xứ trong nhà xứ, kế bên nhà thờ, rồi họ hung hăng tiến vào Thánh Đường phá vỡ Bàn Thờ và Nhà Tạm, đổ tung Mình Thánh ra. Qua khung kiếng cửa sổ vị Linh mục này nhìn thấy tất cả, và ngài còn nhớ rõ là trong Nhà Tạm bấy giờ có 32 Mình Thánh. Rồi lính Trung Cộng bỏ đi để lại 1 lính gác nhà thờ và 1 lính gác nhà xứ. Họ không ngờ bấy giờ có 1 cô bé đang cầu nguyện trong góc tối của nhà thờ. Cô nhìn thấy mọi sự. Đêm hôm ấy cô lẻn vào Nhà Thờ bằng cánh cửa riêng. Cô qùi chầu Chúa 1 giờ đền bù lại hành vi xúc phạm đó, rồi cô cúi xuống dùng lưỡi chịu lấy Mình Thánh Chúa vương vãi trên nền nhà thờ. Và cứ thế mỗi đêm cô đều tới chầu Chúa và chịu Lễ như vậy. Đến ngày thứ 32 sau khi chịu xong Mình Thánh cuối cùng cô lẻn ra, không may gây tiếng động khiến tên lính nghe được, đuổi theo và dùng báng súng đập chết cô. Cha xứ kể lại câu chuyện cảm động trên, Đức Tổng GM Fulton Sheen biết được và từ đó Ngài hứa với Chúa, bắt chước gương can đảm của cô bé và dù bận rộn đến đâu đi nữa Ngài vẫn giữ thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể 1 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ăn là một nhu cầu và là một tác động rất quen thuộc với con người. Có ai sống mà không ăn. Chúa Giêsu không ngoại lệ. Phúc Âm nhiều lần kể Chúa Giêsu được mời tới nhà người ta ăn. Vì ăn là một sinh hoạt quen thuộc và quan trọng như vậy nên từ đó Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại một Của Ăn thiêng liêng là Thịt Máu Ngài. Đoạn Phúc Âm hôm nay kể lại chính Chúa tuyên bố, Thịt và Máu Chúa là Của Ăn cho nhân lọai. Đây không phải là câu nói chơi vì nó liên quan đến hạnh phúc đời đời của biết bao nhiêu người nên không nói chơi được. Đây cũng không phải là câu nói do cảm hứng hay tình cờ. Thiên Chúa không làm việc theo cảm hứng hay tình cờ nhưng có chương trình rỏ ràng, vả lại Chúa lập đi lập lại nhiều lần và cho dù nhiều người chống đối hay có nhiều môn đệ bỏ đi, Ngài vẫn cứ giữ nguyên câu nói đó.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố Bánh Thiên Chúa ban là bánh bởi trời xuống và đem sự sống cho thế gian thì người Do Thái xin Chúa cho ăn mãi thứ Bánh đó. Chúa mới hướng họ về chính Chúa: Ta là Bánh trường sinh. Bánh thỏa mãn cơn đói và cơn khát của con ngưòi.
Ước mong hạnh phúc đời đời đó là niềm khát vọng sâu xa nhất của con người vì chúng ta được dựng nên có hạn nhưng lại khao khát sự vô hạn, chúng ta được dựng nên trong thời gian nhưng lại khao khát sự vĩnh cữu, chúng ta được dựng nên tại trái đất này nhưng chẳng có thứ gì ở trái đất này làm mình thõa mãn. Bởi vì linh hồn con người rất cao qúi nên chỉ có Đấng dựng nên nó mới làm nó thõa mãn mà thôi. Thịt Máu của Đấng vĩnh cữu sẽ ban cho con người sự sống vĩnh cữu, vì có được cái gì thì mới có thể ban ra cái đó, người ta không thể cho cái mà mình không có. Khi xưa Nã phá Luân, Hoàng đế nước Pháp, vinh quang tỏa sáng, danh tiếng khắp nơi. Một hôm có người đánh bạo hỏi vua "Thưa đức vua, đối với Ngài thì đâu là ngày đẹp nhất và qúi báu nhất trong đời Ngài?" Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Ngày đẹp nhất và qúi trọng nhất trong đời Ta đó là ngày Ta được Rước Lễ Lần Đầu."
Cơm bánh nuôi dưỡng thân xác chúng ta điều đó cần thiết nhưng chưa đủ vì chúng ta chỉ sống một thời gian nào đó trên trần gian này. Điều quan trọng là chúng ta không nhắm tới cái tạm thời mà trông vào cái vĩnh cữu. Chúng ta không muốn mình sống có 100 năm mà sống đời đời. Hãy rước Chúa vào lòng. Đó là sự nuôi dưỡng cao cả nhất và bền vững nhất vì được chính Chúa thì được hơn mọi thứ trong trần gian này. Đừng coi việc Rước Lễ là một sự thông thường, cũng đừng làm như một hành vi máy móc, vì thông thường sẽ dẫn tới coi thường, và máy móc thì không có mến yêu.
Xin Mẹ Maria, là Đấng ban Thịt Máu cho Chúa Giêsu, giúp chúng ta yêu mến Thánh Thể và dọn linh hồn đón nhận Lương Thực Vĩnh cửu này.