Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-C Bài 151-193 Người Quản Lý bất lương --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {"Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. "Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng. "Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.} "Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". - Ðó là lời Chúa. ----------------------------
1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay của Chúa.
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì? - Về vấn TN 25-C151
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì?
- Về vấn đề tiền bạc của cải trong cuộc sống. - Về vấn đề phải sống cho khôn ngoan. - Về vấn đề phải sử dụng những của cải Chúa ban như thế nào.
+ Rất tốt. Chúng con trả lời rất hay.
Bây giờ chúng ta bắt đầu vào câu chuyện. Cha hỏi chúng con, nếu có thật nhiều tiền chúng con có vui không? - Dạ vui.
+ Vì sao có tiền lại vui? Có tiền thì vui chứ sao. Vì tiền giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấb đề của cuộc sống.
Chúng con có biết bài thơ này không? Đây là một bài thơ cha vô tình nhặt được ở sân nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm sau thánh lễ dành cho giới trẻ. Bài thơ như thế này:
Tiền là tiên là Phật là sức bật của lò xo. Là thước đo lòng người Là nụ cười tuổi trẻ Là sức khỏe của tuổi già Tiền là hy vọng Là cái lọng che thân Là cán cân công lý Tiền là hết ý.
Chà nghe hay quá! Tiền là hết ý.
Đúng là có tiền thì vui nhưng bên cạnh cái vui đó, cha lại cảm thấy sợ. Chúng con có biết tại sao cha lại sợ không.
Đây cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này. Một câu chuyện có thật 100%. Câu chuyện xảy ra ở Mỹ, bang Texas.
Theo báo Weekly Wprld News mới đây thuật lại: tại bang Texas Mỹ, mọi người đã phải bàng hoàng vì một vụ án hết sức nhẫn tâm và vô nhân đạo. Bị cáo là một phụ nữ 32 tuổi có tên là Diana Lunberna. Trong 14 năm qua, bà đã lần lượt giết chết hết 6 đứa con dưới 5 tuổi của mình với một mục đích rất rõ rệt. Đó là để lãnh tiền bảo hiểm. Chuyện những đứa con của bà ta chết lúc đầu tưởng là chuyện thường tình chẳng mầy ai để ý nhưng có ngờ đâu là vừa qua, qua cái chết đứa con thứ sáu của bà, người ta mới phát hiện ra bà chính là thủ phạm đã gây ra những cái chết cho tất cả những đứa con từ 14 năm qua. Luật sư Johny Actkinson cho biết: “Lúc đầu, bà ấy tìm mọi cách để chối tội, nhưng sau khi cảnh sát đưa ra những bằng chứng xác đáng, bà đành thú nhận tất cả”.
Cuộc điều tra còn cho biết: trước khi thực hiện việc làm tán tận lương tâm này, bà Diana đều đã mua phiếu bảo hiểm cho chúng, ví dụ vào năm 1982 trước khi bé Melinda chết 1 ngày, bà đã bỏ ra 15.000 đôla để đóng tiền bảo hiểm với mục đích sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.
Đó chúng con thấy. Chỉ vì ham tiền mà một người mẹ đã đang tâm giết các đứa con do chính mình sinh ra. Cha không thể tưởng tượng nổi thế giới hôm nay lại có một con người như thế. Chính vì thế mà cha sợ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng con thấy cũng chỉ vì tiền bạc, mà người ta đã đánh mất cả phẩm giá làm người của mình.
Người quản lý trong bài Tin Mừng đâu phải là người nghèo khó. Nhưng ông bị đã bị tiền bạc sai khiến và đã trở thành kẻ bất lương.
Những người mắc nợ chủ cũng vì tiền bạc chi phối mà đã trở thành những kẻ đồng loã với tên quản gia gian lận
Ông chủ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vì tiền bạc mà làm một việc chẳng tốt đẹp chút nào khi dám mở miệng khen ngợi người quản lý bất trung của ông ta. Thật là cá mè một lứa!
2. Vậy thì Chúa muốn chúng ta phải làm thế nào?
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đưa ra những chỉ dẫn khá rõ rệt. Chúa bảo: "Hãy dùng tiền bạc"(Lc 16,9) - Dùng là sử dụng nó. Dùng chứ không tôn thờ nó. Hãy dùng nó như một phương tiện chứ đừng coi nó như một mục đích.
Đây là một người biết sử dụng tiền bạc như ý Chúa muốn:
Tiến sĩ Marcello Candia đã dùng tất cả tài sản để xây một bệnh viện chăm sóc bệnh nhân nghèo và người phong cùi tại Amazone ở Ba Tây. Ông tâm sự:
- Khi còn ở bậc trung học, tôi thuộc thành phần của nhóm trẻ được phân công đi thăm các gia đình nghèo. Một hôm thầy Cêciliô nhờ tôi phát thức ăn cho người nghèo. Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng Phanxicô đã chết vì bệnh cùi sau thời gian phục vụ thổ dân ở Ba Tây. Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đau khổ của Ngài. Dần dà hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy. Từ đó tôi muốn phục vụ những người bệnh cùi. Sau khi tốt nghiệp đại học, với tất cả tài sản gia đình để lại, tôi xây một bệnh viện phục vụ bệnh nhân nghèo và những người phong cùi. Đó là một người đã biết dùng tiền.
Nói đến đây tự nhiên cha nghĩ đến một câu châm ngôn của Pháp. "Tiền bạc là một người đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu". Nếu không biết cảnh giác thì con người rất có thể bị tiền bạc chi phối và sai khiến...biến người có nó thành một tên nô lệ chỉ biết dùng tiền vào những việc ăn chơi. phô trương như nhiều người trong xã hội hôm nay. Hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. (Lc 16,9). Biết dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu chúng ta sẽ làm cho cuộc đời của chúng ta có được một điều rất quí giá trong cuộc sống này. Đó là một cuộc đời "có hậu" - Có hậu ngay trong cuộc sống hôm nay và còn có hậu cho cả cuộc sống đời đời mai sau như Chúa đã hứa.
Mẹ thánh Têrêsa Calcuta thuật lại: Trong công việc từ thiện của chúng tôi, có nhiều người chúng tôi gọi là Cộng sự viên và chúng tôi thực sự muốn họ tiếp tay với chúng tôi để phục vụ và yêu thương những con người nghèo khổ. Tại Calcutta nầy, chúng tôi có nhiều người ngoài Thiên Chúa giáo và các anh chị em Thiên Chúa giáo cũng làm việc với chúng tôi tại ngôi nhà Hấp hối và những ngôi nhà bác ái khác. Chúng tôi cũng có những nhóm đi thay băng và phát thuốc cho người cùi.
Điển hình nhất là một người Úc, cách đây không lâu ông đã tới đây. Ông đã dâng cho chúng tô một gia tài lớn. Và sau khi đã dâng hiến tài sản lớn rồi. Ông nói:
- Đó là những của cải bên ngoài tôi, nhưng tôi còn muốn hiến những gì của chính bản thân tôi nữa.
Và bây giờ ông thường xuyên tới phục vụ nhà hấp hối. Ông hớt tóc, cạo mặt và trò chuyện với những người bị bỏ rơi nầy. Bây giờ ông không dùng thời giờ và sức lực của ông để phục vụ bản thân hoặc làm giàu nữa, nhưng ông muốn cho đi những gì của chính ông, và thực sự ông đang dâng hiến.
Cha muốn kết thúc bằng câu nói của George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, ông viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn".
Cha chúc chúng con sống đẹp như ý Chúa muốn để xứng đáng với tình thương Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày. Amen.
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải TN 25-C152
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải để hành động theo của mình, nhưng theo ý muốn của Đấng Tjao Thành. Bởi Thiên Chúa tạo dựng con người là để mong cho con người đạt tới hạnh phúc. Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn cưỡng bức con người hưởng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc con người có được do chính mình tự do chọn lấy. Bởi có tự do chọn lựa như thế con người mới thể hiện lòng mến yêu và sự khao khát hạnh phúc do Thiên Chúa tặng ban.
Tuy nhiên, tội xuất hiện đã làm vẫn đục tâm trí con người, đã làm cho con người biến ân ban tự do trở thành phương tiện phục vụ cho ý riêng của mình. Và oái oăm thay, ý riêng con người nào có chi tốt lành, nó chỉ chứa đây tà ý, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo, ghanh ghét...., Tự do không còn mang đúng ý nghĩa ban đầu của ân ban, đó là cách thế thể hiện lòng mến yêu sự thiện để sống theo sự thiện. Bị chi phối bởi tội, con người lạm dụng tự do để hành động ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa, để rồi tự do trở thành phương thế xô đẩy con người tới chỗ hủy diệt.
Thật vậy, trong thế giới hôm nay, người ta không còn coi Thiên Chúa là cùng đích, là cứu cánh duy nhất của cuộc sống, bên cạnh Thiên Chúa người ta còn tôn thờ một vị Chúa khác, đó là tiền bạc.Quả thật, để hướng dẫn cuộc sống, người ta không còn nói đến một chân lý tối hậu là Thiên Chúa, nhưng người ta còn nói đến nhiều chân lý khác để hình thành một khái niệm tương đối hóa chân lý. Vì thế, Thiên Chúa không còn là Đấng cậy dựa duy nhất của con người, người ta còn tìm thấy một nơi cậy dựa khác chẳng hạn tiền bạc. Đức Phanxico đã nói: “chúng ta đã tạo ra những thần tượng mới. Việc thờ phượng của con bò vàng ngày xưa đã tìm thấy một hình tượng mới và tàn nhẫn vô tâm trong sự sùng bái tiền bạc và các chế độ độc tài của một nền kinh tế không có khuôn mặt và thiếu mục tiêu thực sự nhân đạo.” Vâng, trong một thê giới tục hóa, người ta đặt tiền bạc ngang hàng với với thần thánh, có khi còn đứng cao hơn cả thần thánh:
Ông tiền ông Phật, ông Tiên Ba ông chụm lại, ông tiền cao hơn
Và khi so sánh với thế giới tiên phật, thì một mặt nào đó, con người cũng đang nâng tầm tiền bạc lên bậc thần thánh, và coi đó là ông chủ của mình. Thật vậy, một trong nhức nhối của xã hội hôm nay tại Việt Nam nói riêng, và thế giới nói chung chính là nạn tham nhũng. Điều đó nói lên, con người đã lấy tiền bạc làm mục đích của cuộc sống, và người ta tìm mọi cách thế để đạt mục đích nầy. Với một chọn lựa như thế, con người đã kiến tạo nên một nền văn hóa mới, nền văn hóa của sự vô cảm, để rồi mối tương giao giữa người với người không còn được biểu lộ bằng con tim, nhưng bằng những đồng tiền.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở chúng ta hãy đưa ra một quyết định chọn lựa dứt khoát: ai là ông chủ cuộc đời của chúng ta, Thiên Chúa hay tiền bạc? Và cũng là lời nhắc nhở chúng ta, những Kito hữu, chắc chắn chúng ta tôn thờ một mình Thiên Chúa, ông chủ duy nhất của chúng ta. Nhưng trong thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta cũng đang để Thiên Chúa đứng ra bên lề cuộc sống, và hình như mọi ưu tiên của chúng ta là làm sao kiếm được nhiều tiền hơn là tìm mọi phương thế để đạt nhiều ân sủng của Chúa.
Lạy Chúa, tiền bạc luôn làm cho chúng con chao đảo, và nhiều khi chúng con bán rẻ lương tâm kito hữu để lấy những đồng tiền vo nghĩa. Có lẽ, đôi khi Chúa cũng đau lòng gạt lệ vì sự chọn lựa sai lầm của chúng con khi chúng con bỏ Chúa chạy theo những đồng tiền phù du. Ước mong sao Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở để chúng con ý thức lại về mối tương giao giữa chúng con với Chúa để chúng con can đảm chỉ biết chọn Chúa làm ông chủ của mình. Amen Lm. Antôn Hà Văn Minh
Bạn có nghe nói về một người sắp chết trúng số không? Lo lắng anh ta bị kích động quá mức, gia đình người anh đã xin cha xứ của họ nói cho anh ta biết tin vui. Khi cha nói với anh ta rằng anh ta đã trúng 10.000.000 $, người đàn ông trả lời: “Con muốn dâng một nửa cho Nhà thờ”. Cha xứ quá ngạc nhiên đến nỗi cha đã bị nhồi máu cơ tim. Đây là một chuyện đùa nho nhỏ nhưng cho chúng ta thấy rằng tiền bạc có thể có ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay hỏi chúng ta: “Thái độ của bạn đối với tiền bạc là gì?” Đây là một số ý tưởng có thể giúp bạn trả lời câu hỏi đó.
Thứ nhất, có tiền không phải là một cái tội. Nhưng tội chính là ở chỗ lòng yêu mến tiền bạc chia cắt chúng ta với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn ở chỗ nhất trong cuộc đời của chúng ta – Ngài muốn ở trên tiền bạc và trên những sự sở hữu của chúng ta.
Thứ hai, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy là người quản lý tiền bạc thật tốt. Ngài muốn chúng ta phải khôn ngoan, lương thiện và có trách nhiệm. Chúng ta đừng bao giờ cho phép tính tham lam hay tính bất lương thống trị chúng ta. Thay vào đó, chúng ta hãy sử dụng tiền bạc của chúng ta cách khôn ngoan, hãy đầu tư nó cách khôn ngoan, và hãy quảng đại khi chúng ta có thể.
Thứ ba, hãy dâng hiến cho Giáo Hội và làm những việc bác ái khác, ngay cả nếu chúng ta chỉ cho một số tiền nhỏ, đó là một khía cạnh quan trọng trong cương vị người quản lý. Thánh Kinh mời gọi chúng ta hãy “lắng nghe người nghèo” (Proverbs 12,13). Chúng ta có thể tin chắc rằng bất cứ khi nào chúng ta biết cho đi những của cải ở trần gian của chúng ta, Thiên Chúa sẽ thưởng cho chúng ta những kho tàng trên trời – “chỗ ở vĩnh viễn” (Lc 16,9).
Cuối cùng, hãy nhớ rằng tiền bạc của bạn không phải của bạn; nó thuộc về Thiên Chúa. Giây phút bạn lìa đời, bạn sẽ không còn làm chủ tiền bạc của bạn nữa. Đúng vậy, bạn có thể cho con cái của bạn tiền hay làm việc bác ái. Tuy nhiên, tiền bạc sẽ tuyệt đối vô ích đối với bạn. Cách duy nhất làm cho tiền bạc có giá trị chính là mức độ mà bạn đã sử dụng tiền bạc để giúp đỡ những người khác: gia đình, bạn bè của bạn, Giáo Hội và người nghèo.
Tiền bạc là một đề tài rất phức tạp và mẫn cảm, vì thế hay xin Chúa Thánh Thần giúp bạn học biết cách giữ tiền cho đúng đắn.
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy con làm người quản lý tốt”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu TN 25-C153
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu đời hay không? Thực tế, vì tiền mà người ta xấu đi rất nhiều! Đồng tiền đã làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thùy mị, trở thành kẻ sa đọa, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là Tiên là Phật được, mà phải gọi là Ma, là Quỷ. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên – Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên – Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma quỷ mới làm biến chất con người. Chỉ có ma quỷ mới làm cho con người tha hóa đạo đức. Chỉ có ma quỷ mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao quý của biết bao nền văn hóa nơi các dân tộc.
Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đày đọa lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8:4-7).
Lời cảnh tỉnh của tiên tri Amos xem ra vẫn là lời nhắc nhở cho con người hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma quỷ, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Vẫn còn đó những kẻ buôn thần bán thánh nhân danh nhân nghĩa để biển thủ tư lợi riêng. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý là biết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em của mình, chứ không phải để vun quén cho bản thân.
Trong chuyện cổ Trung Hoa có câu chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là người rất giàu có, tiền bạc dư thừa nên cho người ta vay mượn rất nhiều. Một hôm, ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
– Tiền nợ thu được, ngài định mua gì không?
Mạnh Thường Quân đáp:
– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên gọi dân lại và bảo:
– Công nợ của các ngươi bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.
Nói xong, ông thu các văn tự lại và đốt đi hết.
Lúc về, Phùng Nguyên thưa với Mạnh Thường Quân:
– Nhà của tướng công châu báu đầy kho, gia súc đầy chuồng, tôi tớ đầy nhà, không còn thiếu thứ gì, ngoại trừ “ân nghĩa”. Vì thế, tôi trộm phép tướng công mà mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng không quan tâm nhiều, vì tiền bạc châu báu trong nhà đều dư thừa cả.
Ít năm sau, Mạnh Thường Quân bị bãi nhiệm phải trở về sống ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ, họ ra đón đầy đường. Thấy vậy, ông liền ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
– Trước kia tiên sinh vì ta mà mua “ân nghĩa”. “Ân nghĩa” đó giờ ta đã thấy.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang nói với chúng ta: “Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9).
Xin cho chúng ta biết sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để mua lấy bạn hữu nước trời ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Amen Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
– Suy niệm theo “The Word Among Us” Chúa Nhật 15 TN. Năm C
Suy niệm: Lc 16,1-13
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy TN 25-C154
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy tớ bất lương (không trung thực) trở thành anh hùng của câu chuyện? Có lẽ một bối cảnh nào đó sẽ giúp chúng ta hiểu. Chúa Giêsu vừa kể xong câu chuyện dụ ngôn về đứa con hoang đàng – một câu chuyện về một người cha tha thứ hoàn toàn cho con trai mình và tổ chức một bữa tiệc linh đình để ăn mừng anh ta trở về (x. Lc 15,11-32). Sự hoang phí của người cha quá lạ lùng đến nỗi bạn sẽ khó có thể tìm thấy bất cứ ai hành động như vậy trong cuộc sống thực tế.
Nhưng đó là điểm quan trọng. Đứa con hoang đàng là một câu chuyện dụ ngôn về lòng thương xót quá độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bây giờ, ngược lại, Chúa Giêsu kể một câu chuyện về lòng thương xót có giới hạn, năng động. Chúa Giêsu kể về một người quản gia thất sủng, sử dụng phương tiện mờ ám để tha thứ một phần nợ cho một số người mắc nợ ông chủ của mình.
Điều đó khác xa với người cha hoang phí, phải không? Và Chúa Giêsu biết điều đó. Người biết rằng thế giới này đang thiếu thốn sự tha thứ và lòng thương xót. Nhưng sau đó, trong kết luận của mình với câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu nói rằng những người theo Chúa dường như không thể thích hợp với cái gọi là sự quá thương xót của người quản gia bất lương này. Chúa Giêsu nói: “Con cái đời này… khôn khéo hơn… con cái của ánh sáng” (Lc 16, 8). Người quản lý thực sự khôn ngoan trong việc tha thứ các khoản nợ. Nhưng Chúa Giêsu đang tìm kiếm thứ gì đó vượt lên trên sự khôn ngoan và sắc sảo, và Người muốn thấy nó đến từ chúng ta. Người đang tìm kiếm sự thương xót đích thực, lòng thương xót quá độ để tha thứ mà không kèm theo sự ghi điểm (lấy công) nào.
Bạn có thể vượt qua thách đố của Chúa Giêsu không? Bạn có thể tha thứ, nhất là khi người kia không xứng đáng với lòng thương xót? Điều đó không dễ dàng, nhưng nó có thể. Điều đó sẽ xảy ra khi bạn tiếp tục thực hành nó và cầu xin ân sủng của Chúa để giúp bạn.
Hôm nay trong thánh lễ, bạn sẽ lãnh nhận được sự biểu hiện cao nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa: Mình và Máu Chúa Kitô, được ban cho bạn. Khi bạn lãnh nhận, bạn hãy để cho tình yêu của Chúa chảy vào trong bạn. Bạn hãy để cho tình yêu ấy làm tan chảy trái tim bạn và làm cho bạn nhân từ như Chúa.
“Lạy Chúa, xin dạy con biết tha thứ cách quảng đại như Chúa đã tha thứ cho con.
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền TN 25-C155
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường”, người ta có khuynh hướng biến mọi sự thành hàng hóa trao đổi. Hậu quả là ngày càng có nhiều những nhà đầu tư chỉ lo kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận; những cha mẹ chỉ lo làm giàu mà quên trách nhiệm với gia đình; những tín hữu vì lợi lộc vật chất không ngần ngại vi phạm luật Chúa; những người bạn bè hay họ hàng thân thuộc vì tiền mà coi nhau như kẻ thù. Vì lợi lộc vật chất, người ta không trừ một thủ đoạn nào. Ngôn sứ A-mốt nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn ấy vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.
Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm ra tối tăm. Đó cũng là lý do khiến con người coi thường đạo lý và tiếng nói của lương tâm. Người tín hữu được mời gọi biết dùng của cải cho hợp lý. Lời Chúa giúp cho chúng ta “nghèo mà không hèn”, “giàu mà không sang”.
Một hiện tượng xã hội khá phổ biến hiện nay là sự lãng phí. Người giàu lãng phí, mà người nghèo cũng lãng phí. Người ta lãng phí thời gian, lãng phí vật chất và lãng phí cả sức khỏe và mạng sống. Tại các quốc gia phát triển, mỗi ngày đều có một khối lượng lớn thực phẩm bị đem đi hủy vì hết hạn sử dụng, trong khi ở các nước nghèo, biết bao người lớn và trẻ em không đủ chất dinh dưỡng để có một cuộc sống bình thường. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng của người nghèo, đã khẳng định: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (Huấn từ nhân Ngày Quốc tế về môi trường, 5-6-2013). Có thể chúng ta lập luận: “Của cải tôi làm ra, hoặc tôi mất tiền để mua sắm, tôi có quyền lãng phí!”. Nói như thế, là chúng ta quên rằng, người sở hữu đích thực mọi của cải là Thiên Chúa, chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quản lý. Người quản lý trong lãnh vực nào cũng phải trung thành và tận tâm lo cho việc sử dụng của cải đúng mục đích, tiết kiệm, có ý nghĩa và sinh ích lợi cho mọi người.
Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người hãy sống khó nghèo. Khái niệm “khó nghèo” thường hay bị hiểu sai. Vị Đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải thích với chúng ta: “Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh” (Đường Hy Vọng 412). Như thế, khó nghèo là sự trân trọng với tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng và cố gắng để đừng lãng phí chúng. Đức Hồng Y kết luận: “Không có của mà tham lam vẫn chưa phải là thanh bần; có của mà không dính bén vẫn có thể ‘có lòng khó khăn’ thực sự” (ĐHV 411).
Khó nghèo đích thực còn là khả năng và thiện chí dùng của cải của mình để xây tình liên đới và nối tình đệ huynh, góp phần xây dựng một xã hội an bình. Nhân vật người quản lý trong Tin Mừng hôm nay được chính Chúa Giêsu gán cho một tính từ là “bất lương”. Như thế, anh không thể làm mẫu mực cho chúng ta trong việc quản trị tài sản được. Chúng ta không thể hiểu đúng giáo huấn của Chúa, khi chỉ trích dẫn một câu hay một đoạn Tin Mừng, nhưng cần liên kết với toàn thể để tìm ra ý nghĩa sứ điệp mà câu chuyện muốn diễn tả. Chắc chắn Chúa không không muốn chúng ta mưu mẹo gian lận như người quản lý bất lương này. Điều Chúa dạy ta là hãy dùng những của cải mình có mà giúp đỡ anh em, bởi lẽ sự giàu nghèo chỉ nhất thời, tình huynh đệ mới tồn tại mãi mãi. Giúp người khác khi mình thịnh vượng chính là của để dành phòng khi mình sa cơ lỡ vận thì có người giúp đỡ lại mình. Khi nhắm mắt xuôi tay, để lại của cải chẳng giá trị bằng để lại tình thân nghĩa. Bởi lẽ của cải chỉ một ít người được hưởng, còn tình thân nghĩa thì lưu danh rộng khắp và lâu dài.
Thiên Chúa là Đấng Cứu độ chúng ta. Ngài cũng là Chủ tể của lịch sử và là Đấng sáng tạo muôn loài. Những quyền hành nơi trần gian từ bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải phục quyền Ngài, vì Ngài là Đấng tối cao. Vì vậy, từ bậc vua chúa đến những người bình dân, ai nấy đều phải sống thánh thiện ngay thẳng. Như thế, họ sẽ đẹp lòng Chúa và được Ngài ban ơn (Bài đọc II).
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Sự khó nghèo đích thực còn là tâm tình cậy trông và phó thác nơi Chúa, luôn luôn cảm thấy cần có sự che chở của Ngài. Nếu một giây phút ta bị Thiên Chúa lãng quên, thì ta sẽ không còn hiện hữu trên cõi đời. Nhờ sự hiện diện của Chúa, ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và ta được đong đầy niềm vui.
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà TN 25-C156
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà xây dựng một đất nước văn minh hiện đại, người người, nhà nhà, được sống trong yêu thương, bình đẳng, giầu mạnh cả tinh thần lẫn vật chất ? Thách thức lớn của bậc lãnh đạo không phải chỉ là tiền, quyền, mà còn là tính hợp lý khi sắp đặt, phân chia, đúng vị trí công tác kẻ được giao, người được nhận. Nhờ có bằng cấp, nhiều người được cơ cấu vào sứ vụ quan trọng ; nhờ kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ, cũng không ít người tự tin trong chức quyền đang nắm giữ, sát với câu thành ngữ: có thực mới vực được đạo. Đất mầu mỡ, trời mưa thuận, tình người được giao hoà trổ sinh ơn phúc.
Cọp chết để da, người chết để tiếng, muôn dân thiên hạ tồn tại nhờ bởi tình yêu thương, con cháu thành danh, thành tài, không thể thiếu vắng phúc lộc tổ tiên. Giáo huấn “khôn ngoan và trung tín” của Chúa Giêsu, luôn xác thực cho mọi đối tượng, khi mà người người ý thức việc sử dụng ơn ban để sống, để phát huy tình đồng loại cách hữu hiệu nhất. Khó khăn ở đời này ai cũng có, mơ ước được hạnh phúc thì ai chẳng đầy dư, quá khứ có thể chỉ là giấc mơ, tương lai lẽ nào là ảo tưởng, vậy thì hiện tại phải quan trọng, phải là cơ hội quyết định cho những ai đang muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa. Đói nghèo cần được ấm no, ưu tư cần được giải thoát, tật bệnh sẽ mau được chữa lành, và bình an hạnh phúc thật sẽ không còn nằm trên lý thuyết nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào niềm tín thác rất thiêng liêng và ý chí quyết tâm của ta.
Xác định mục tiêu ở đời là phải khôn ngoan, biết sử dụng lợi thế của mình, và nhanh chóng hành động có lý, có tình, nhất định là ưu tiên số một, không thể chậm trễ. Câu chuyện dụ ngôn về người quản lý bất trung năm xưa mà Chúa Giêsu kể, sẽ vẫn mãi là bài học căn bản, nhằm giúp ta chớ ảo tưởng “mình” là ông chủ. Sông có khúc, người có lúc, sống phải có tình, cư xử phải có nghĩa, vì “tôi” chỉ là quản lý ; “ông chủ” nhất định phải biết tôi đang trung tín ở mức độ nào. Tính nhạy bén của người quản lý khôn ngoan là biết xoay sở, kết quả làm việc tốt hay xấu bao giờ chẳng phơi bày khi đến giờ “chủ nhân” ấn nút gọi tính sổ. Bắn súng không nên phải đền đạn, hình phạt hay phần thưởng, vẫn mãi là ưu tư của người quản lý: mất chức, mất quyền, là lo lắng tự nhiên, nhưng điều khiếp sợ hơn là sợ bị cô đơn, là sợ không được đón tiếp ở tận cùng đầu cầu bên kia cuộc sống.
Nhiều người, nhiều thế hệ chúng ta đã đọc được câu tục ngữ: đời này ai dại ai khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Nhìn xa một chút, ta có thế thấy không ít những người đang đánh lừa cảm giác “sống vô tư”: làm hết sức, ăn nhậu nhiệt tình, và cư xử với anh em bạn hữu như chỉ có ngày hôm nay, mai tận thế ! Trong khi đó, cũng không thiếu những “đại gia hão”, lầm tưởng mình đại đức từ bi: lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi ! Chúa Giêsu thật chí lý khi đưa ra những lý lẽ làm thước đó cho hành động sống ân tình, ân nghĩa, của mỗi người: “Tôi nghe nói anh sao đó ? Hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa”. Sống trên đời với ý tưởng khôn ngoan: mưu cầu hạnh phúc thì đúng, song “hiếu thảo” sai chỗ, rộng rãi hào phóng, thiếu phù hợp, cũng chỉ làm trò hề cho thiên hạ chê cười mà thôi. Đức Giêsu không khen, không chê, người giầu kẻ nghèo, nhưng Ngài có ý nhắc nhớ: người quản lý phải biết thế nào là trung tín, khôn ngoan, và biết sẽ có ngày ông chủ gọi mình tính sổ.
Hoàn cảnh, điều kiện, chắc chắn mỗi người mỗi khác, còn nhu cầu được an bình vinh phúc, ai ai cũng thao thức giống nhau. Tiềm ẩn trong ước muốn sâu xa, nếu mỗi người có tìm hiểu, khám phá, hẳn sẽ thấy ơn ban rất phong phú, hay còn gọi là hồng ân khá nhiệm mầu. Người tài giỏi, người giầu có, người chức quyền, tất cả đều hướng tới sự sống, đôi khi trực tiếp, gián tiếp, Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thiên Chúa, đang kêu gọi chúng ta bổ túc, giúp nhau sống đẹp, sống tốt, và giúp nhau cùng tiến tới hạnh phúc đời đời. Với niềm tin kitô giáo, tình yêu và hạnh phúc thật, chỉ xảy ra khi ta biết sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp, gọi là trung tín, khôn ngoan, nếu không chỉ là hạnh phúc giả, là tên giầu có khờ dại. “Ai trung tín trong việc nhỏ, người ấy sẽ trung tín trong việc lớn”. Sử dụng tài trí thông minh, sống ơn ban thật nghiêm túc, chính là câu trả lời: “hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper TN 25-C157
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper (Ngày xá tội) của người Do Thái hăng năm vẫn thực hành để sám hối. Có lẽ ngày kết sổ, người quản lý bất lương này cũng liên quan cách giải quyết theo tính toán người đời mà không theo ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày Jom Kepper (Ngày Lễ Xá Tội):
Ngày lễ xá tội được ghi trong sách Lêvi, được ghi lại trong (Levi 15, 29 – 30): “”Tháng bảy, mồng mười tháng ấy, các ngươi sẽ hãm mình và không làm việc nào cả, người bản hương cũng như khách ngụ cư giữa các ngươi. Vì trong ngày ấy người ta sẽ làm phép xá tội trên các ngươi, để tẩy uế các ngươi: các ngươi sẽ được sạch trước nhan Yavê về mọi tội lỗi các ngươi đã phạm.”
Ngày lễ này năm nay được tổ chức vào ngày 8 – 9, tháng 10 năm 2019. Trong hai ngày đó họ không ăn uống, tắt hết mọi phương tiện truyền thông, vì là ngày hưu lễ. Họ suy gẫm sách Thánh, cầu nguyện, sám hối về tất cả những gi đã không hoàn thành trong việc khấn hứa và cả những sai lỗi. Cầu xin thành tâm để được tha thứ vì ngày lễ xá tội.
Biết mình cần điều gì trong thực tại này và để điều ấy tồn tại trong tương lai là điều cần thiết. Biết để điều chỉnh và biết để không rơi vào những sai lầm trong đầu tư vĩnh cửu.
Ngày kết sổ.
Người quản lý bất lương được khen theo tính cách người đời là biết tìm cách hạ cánh an toàn. Ghi lại số nợ của người chủ, không mất gì cho mình mà lại được nơi ẩn náu sau khi mất việc. Ngày xá tội như thế đã tự đánh mất chính mình trong ơn tha thứ. Sám hối trước ngày ra đi mời gọi trả lại sự công bằng đã bị đánh mất. Đáng lẽ là thời gian còn lại cần thiết để xin xá tội với lòng sám hối, người quản lý bất lương lại dùng cách để xâm lấn tài sản của chủ, tạo điều kiện cho người mắc nợ thoả lòng tham và anh ta được lại quả nhờ thương vụ đó.
Sắp xếp cho ngày cuối cùng cho cuộc đời mình như thế nào cho đúng nghĩa?
Đầu tư cho cuộc sống đời này như người quản lý khôn ngoan nhưng bất lương này. Là cách đầu tư dại khờ vì chẳng mang theo gì được khi ngày kết sổ đời đã tới.
Đầu tư cho chính mình thôi là một điều ngu ngốc. Tài chính, tiền của được ban cho là làm lợi cho anh chị em mình, như người Samaria nhân hậu, dùng tiền của, sức lực, thời gian để trợ giúp cho người bị nạn (Lc 10, 25 – 37).
Sách châm ngôn cho hay: “Như mặt đáp mặt trong nước, cũng vậy lòng con người đối với con người.” (Cn 27, 19). Các nhà chú giải cho rằng sở dĩ mặt soi mặt không soi bằng gương nhưng phải quỳ gối gần mặt nước mới thấy mặt mình. Hành vi quỳ gối diễn tả lòng khiêm hạ, cúi đầu nhận ra lỗi lầm hoặc như kinh hoà bình dạy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Con người sống với con n gười là quan trọng, sau đó là với thiên nhiên thụ tạo. Sắp xếp tính sổ đời mình là cách xét lại những tương quan đó để có một gia tài không hư mất.
Ngày kết sổ thực hiện đi thực hiện lại trong đời sống là sự cần thiết cho một hành trình ra đi và không con trở về, Ngày chỉ còn hành trang vĩnh cửu tồn tại cùng mang theo.
Xin Chúa giúp con trung tín trong việc tiền của để trung tín trong việc phụng sự Chúa nơi anh chị em.
Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung TN 25-C158
Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung với nước, ca ngợi những tình bạn trung thành,… Người làm vua thích trọng dụng những trung thần nhiều tài nhiều đức, những nhà phú hộ cũng trọng dụng những người quản gia trung tín. Hôm nay, Thầy Giêsu đã khuyên dạy người môn đệ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Lời mời gọi đó nhắc nhở mỗi người môn đệ hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, vì Người là Đấng thành tín yêu thương.
Người quản gia trong câu chuyện mà Thầy Giêsu kể ra hôm nay là một người quản gia bất lương. Anh đã bất lương trong việc phung phí tài sản của chủ và trước khi chủ cất chức quản gia của mình, anh còn bất lương hơn trước. Anh suy tính và hành động hết sức khôn khéo là tự ý giảm nợ cho các con nợ của chủ để được họ đón rước sau khi bị cất chức (x.Lc 16, 1-7). Anh trở thành vị “ân nhân” của các con nợ nhờ hành động của mình. Bởi thế, anh được khen là người khôn khéo. Thầy Giêsu nhìn nhận: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Nếu người đời biết dùng tiền của để có được những đảm bảo cho đời này thì tại sao người môn đệ lại không biết dùng của cải bất chính để mua lấy hạnh phúc đời sau? Điều đó không có nghĩa là ta có thể lấy những gì không thuộc quyền sở hữu của ta, những gì của người này để trao cho người khác như người quản gia bất lương đã làm. Những của cải ta có được ở đời này sẽ là phương tiện tốt để ta có thể chia sẻ cho những người anh chị em. Chính khi chia sẻ với tình hiệp thông như thế và kêu gọi người khác làm là ta đã khôn khéo để mua lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu. Khi biết sử dụng những của chóng qua và trung tín với những của cải của người khác là ta sẽ được Thiên Chúa ban cho của cải dành riêng cho ta. Đó là được trở nên chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, trở nên người Tông đồ đích thực của Chúa cho mọi người (x. Tm 2, 1-8).
Để trung tín với Thiên Chúa, tự sức ta, ta sẽ chẳng thể thực hiện được, nhưng nhờ ơn Chúa giúp và khi biết phó thác đời mình cho Thiên Chúa, ta có thể trở nên người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Như lời Thầy Giêsu đã khẳng định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13), ta cũng không thể “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Cuộc sống cho ta những kinh nghiệm về sự trung thành và sự bất trung của ta với Thiên Chúa. Những lần xưng tội, ta đã dốc lòng chừa bỏ tội lỗi nhưng sau cùng ta lại vấp ngã. Chính khi tự dựa vào sức mình và mải mê tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm của cải đời này, ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung tín, Ngài vẫn trung tín trong tình yêu dành cho ta. Ngài luôn luôn cho ta những cơ hội để trở về. Dần dần, Ngài vén mở cho ta một con đường đầy hy vọng. Đó là luôn trở về với chọn lựa căn bản của đời mình: Chọn Chúa trên hết mọi sự. Nhờ trở về với chọn lựa này mà ta luôn luôn có khả năng tiếp tục trung thành với Thiên Chúa. Mỗi ngày, nhờ bước theo sát dấu chân của Chúa Giêsu, ta được Ngài ban cho ơn trung thành với Thiên Chúa, để phụng sự Ngài suốt cả đời ta, “và dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, để cho tất cả để được ơn cứu độ, vì chính Thiên Chúa muốn cho ai nấy đều được cứu độ” (x. Tm 2, 1-6).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã dạy dỗ con, vì Chúa đã rất yêu thương con, Chúa đã muốn cho con được cứu độ. Xin ban cho con và cho những người môn đệ của Chúa ơn trung thành theo Chúa và luôn chọn “Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng con”. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa và tha thiết xin Chúa biến đổi con mỗi ngày để trở nên giống Chúa hơn. Amen.
“Quả thế, con cái ở đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8b).
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố TN 25-C159
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà mình. Ông đã mời anh đến và yêu cầu tính sổ. Sau khi nghe vậy, anh đã nhanh lẹ suy nghĩ, tính toán và đưa ra hành động là giảm bớt số nợ cho những người nợ ông chủ, hầu đến lúc anh bị đuổi sẽ có người đón anh về. Hành động của anh đã được ông chủ khen là khôn khéo, nhanh trí và nhanh lẹ để xử lý (x. Lc 16,1-8). Chúa Giêsu ước ao phải chi con cái ánh sáng là những Kitô hữu cũng nhanh lẹ và khôn khéo trong việc đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hề hư nát. Ngài không ngừng giảng dạy và trao ban cho tất cả mọi người về cách khôn khéo và đường nhanh lẹ để đạt được điều đó. Ngài nói đến việc sử dụng tiền của thế nào để phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ rước mình về (x.Lc 16,9). Tiền của là phương tiện nuôi dưỡng cho mình và mọi người ở đời này, nhưng cũng là phương tiện cho mình và mọi người đạt đến ở đời sau khi mỗi người cùng biết chia sẻ cho nhau. Đức Cha Lambert, Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá đã đem tài sản mình có góp vào công cuộc truyền giáo trong việc hỗ trợ, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện. Ngoài ra, ngài chia sẻ tài sản cho người nghèo khổ để đem niềm vui cho mọi người ngay cả những người ít thiện cảm với ngài. Ngày nay, cũng không ít người đem tiền của mình có để giúp trẻ em nghèo, người khuyết tật… Sự chia sẻ đó không tự nhiên họ thực hiện được. Đâu đó, họ cảm nhận và nhìn thấy được hạnh phúc đích thực đang ở đây.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy khôn khéo và nhanh lẹ đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hư nát trong Thiên Chúa và qua tha nhân. Nhờ đó, chúng ta trở nên những con cái ánh sáng khôn khéo và nhanh lẹ. Mỗi người chúng ta không thuộc về thế gian vì chúng ta đã được cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, xin giúp con xét lại đường lối con đi và giúp con quay gót trở về cùng thánh ý Chúa. Xin giúp con nhanh lẹ chứ không trì hoãn tuân theo mệnh lệnh Ngài” là chia sẻ những gì mình có cho mọi người. Để con được sống hạnh phúc và trở nên con cái ánh sáng như lòng Chúa ước mong. Amen.
Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng TN 25-C160
Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng nói đến tiền. Vì thế, có người định nghĩa: “Con người là con vật miệng luôn kêu tiền tiền.”
Sự kiện này cho thấy tiền bạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế, người ta nói rằng: “Có tiền mua tiên cũng được.” Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về thói đời: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết ông tôi.”
Quả thế, tiền bạc có một sức mạnh kinh khủng và là một trong những phương tiện giúp chúng ta sống xứng đáng với nhân phẩm, sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Tuy nhiên, tiền bạc cũng có thể là thứ cám dỗ lớn nhất khiến nhiều người làm mọi cách, bằng mọi giá để sao có nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý.
Để hướng dẫn chúng ta có một thái độ đúng đắn đối với tiền của, Chúa Giêsu hôm nay kể dụ ngôn về viên quản lý bất trung. Đây là một dụ ngôn hay nhưng lại khó giải thích. Có lẽ cái hay là cái khó, mà cái khó mới ló cái khôn. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng dụ ngôn này là một “crux interpretum” – thập giá để giải thích. Chúng ta cố gắng giải thích dụ ngôn về viên quản lý để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.” Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.”
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ. Câu chuyện này giúp ta hiểu dụ ngôn trong Tin Mừng.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu văn hóa của Do Thái về việc quản lý. Người quản lý thời đó không được trả lương, nhưng được chủ giao quyền để quản lý tài sản. Nếu ông không quản lý cách ngay thẳng hoặc thua lỗ, thì chủ có thể sa thải ông.
Chúa Giêsu nói đến trường hợp này, người quản lý có vấn đề nên chủ tính sẽ truất phế ông. Ông bắt đầu gọi con nợ đến viết lại biên lai, để sau này người ta rước ông về.
Chúa Giêsu không khuyên chúng ta học sự lưu manh và lừa lọc của ông ta, nhưng học nơi ông là biết khôn ngoan tận dụng mọi hoàn cảnh, biết dùng tiền của để xây dựng các mối tương quan bạn bè và nhất là để tìm kiếm hạnh phúc đời đời.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học phải biết sử dụng của cải. Việc sử dụng của cải có ba mức độ:
1- Biết sinh lợi
Mức độ thứ nhất là biết sinh lợi những gì Chúa ban. Của cải Chúa ban là một hồng ân. Nếu Chúa ban cho chúng ta có của cải thì chúng ta phải biết sinh lời nó. Dụ ngôn về những nén bạc Chúa giao cũng ám chỉ điều đó. Phải làm sinh lời của cải để có thể làm giàu cho gia đình, xã hội. Dùng tiền bạc để tạo nên việc làm, phát triển nghề nghiệp, mang lại lợi tức cho đời. Chúng ta hãy làm giàu cách công chính trước mặt Thiên Chúa.
2- Biết xây dựng
Mức độ thứ hai là biết dùng tiền của để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hơn, nhân bản hơn. Bởi lẽ, người ta nói: có tiền là chuyện kinh tế, nhưng tiêu tiền là chuyện của văn hóa. Nghĩa là biết dùng tiền của để sống cho có tình có nghĩa.
Có người tiền nhiều nhưng chỉ bỏ trong ngân hàng, trong khi cha mẹ già bệnh tật đau yếu mà không bao giờ giúp đỡ.
Có người túi tiền đầy, nhưng tấm lòng thì hẹp và đóng lại trước những nỗi đau của người khác.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết dùng tiền của để đầu tư cho con cái, đào tạo thế hệ trẻ và phát triển các tài năng.
3- Để vào Nước Trời
Mức độ thứ ba cao hơn là dùng tiền của mua Nước Trời.
Triết gia Gariel Marcel phân biệt hai phạm trù: có và là. Chữ “có” bao gồm của cải, sức khỏe và tài năng. Tất cả những điều này là phương tiện để giúp chúng ta sống chữ “là,” nên người hơn, nên thánh thiện hơn. Nghĩa là dùng tiền của để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Không tôn thờ tiền bạc, vì nó là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nếu chúng ta coi tiền bạc là trên hết, khi đó bậc thang giá trị bị đảo lộn, các giá trị đạo đức, luân lý và nhân phẩm trở thành thứ yếu. Chúng ta có thể đánh đổi tất cả để có tiền. Khi đó, tiền bạc trở thành thảm họa cho chúng ta.
Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Khi có tiền của, chúng ta biết chia sẻ với người nghèo khổ, giúp đỡ những ai gặp khó khăn túng thiếu. Sống bác ái và chia sẻ những gì mình có với người khác là con đường dẫn chúng ta vào Nước Trời. Như Chúa dạy, khi Ta đói các người cho ăn, khi Ta khát các ngươi cho uống… Hãy vào mà hưởng niềm vui với chủ ngươi (Mt 25,25-30).
Cho nên, hãy dùng của cải để sống cho có tình nghĩa, nhân ái và tìm kiếm hạnh phúc thiên đàng mai sau. Amen!
Một người phú hộ giầu sang, Có người quản lý, xa đàng thất thu.Tiêu xài phung phí thiếu bù, Đến TN 25-C161
Một người phú hộ giầu sang, Có người quản lý, xa đàng thất thu. Tiêu xài phung phí thiếu bù, Đến khi tính sổ, dự trù trong kho. Sợ rằng sa thải, nên lo, Kêu hai con nợ, sửa cho hợp đồng. Chi bằng rút bớt của công, Ghi vào văn tự, sổ hồng phân đôi. Hai bên có lợi đền bồi, Chủ khen đầy tớ, tham mồi khôn ranh. Bất lương hành động thật nhanh, Dối gian tính toán, tìm danh sau này. Nhỡ cơ đón tiếp có ngày, Người đời khôn khéo, cơ may trong đời. Các con học cách ở đời, Dùng tiền gian dối, sinh lời đời sau. Cuộc đời lữ thứ qua mau, Giữ lòng trung tín, giúp nhau sống đời, Gắng công chiếm lấy Nước Trời, Làm tôi Thiên Chúa, ngàn đời hiển vinh.
Cậu truyện trong bài phúc âm không xa lạ với cách suy nghĩ và hành xử của chúng ta. Chúng ta với trí khôn biết tính toán và sự lanh lợi đã lợi dụng nhiều cơ hội để làm lợi cho riêng mình. Chúng ta nghe dụ ngôn về người quản lý bất lương nhưng hành động khôn khéo sau khi viết lại văn tự cho vay. Anh quản lý này đã khéo léo sửa lại văn tự có lợi cho anh trong cuộc sống đời tạm trong tương lai, nhưng lại thiệt thòi nhiều cho ông chủ.
Truyện kể: Có hai cậu bé chơi ở bãi đậu xe, nhặt được chiếc ví của người đàn bà đánh rơi. Trong ví có tên, địa chỉ và tờ giấy 10 đô la. Một trong hai cậu bé nói: Chúng ta không thể giữ ví tiền lại. Nhưng trước khi trả lại cho bà ta, chúng ta hãy đổi giấy 10 đô ra tiền lẻ, tờ một đô. Chúng ta biết ý đồ của hai cậu. Hai cậu bé khéo xoay sở để tính lợi, kiếm tiền thù lao.
Anh quản lý bất lương đã phung phí của cải vào những trương mục không tốt. Tiền bạc làm mờ mắt con người. Anh đã không ngay thật trong việc quản lý nên bị chủ cách chức. Chúa Giêsu đã nhiều lần phê phán người giầu có chỉ biết dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ. Họ chỉ tìm những vui thích hiện tại mà, không quan tâm đến định mệnh đời sau. Thu tích của cải đời này mà không làm giầu trước mặt Chúa là khờ dại.
Thật ra, Chúa không lên án người giầu có hay tẩy chay họ, Chúa vẫn được họ ân cần tiếp đón và dùng bữa với họ. Chúa chỉ nặng lời kết án những người ích kỷ chỉ bám víu vào tiền bạc và cách sử dụng đồng tiền của họ. Tiền tự nó không xấu, xấu hay tốt tùy ở sự nhận thức và thái độ của người xử dụng nó. Tiền sẽ là phương tiện tốt, có thể dùng để làm điều thiện và giúp đỡ kẻ khốn cùng. Chúa nói rằng: Các con hãy dùng tiền của gian dối mà mua nước trời. Tiền gian dối không phải là tiền ăn trộm, ăn cướp cũng không phải là tiền mua bán đồ quốc cấm. Tiền gian dối là tiền của thế gian. Chúng ta biết rằng cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Chúng ta không thể dùng tiền phi nghĩa mà giúp người nghèo.
Ông quản lý dùng tiền để mua nhân nghĩa, nhưng chỉ là nhân nghĩa đời tạm này. Chúng ta có thể dùng tiền mua Nước Trời. Lấy cái tạm thời biến thành vĩnh cửu. Đó chính là sự ý thức, lòng khao khát và chia xẻ yêu thương trong việc xử dụng đồng tiền. Cuộc đời trần thế là chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu. Hãy dùng tiền giấy đổi tiền thật và dùng tiền thật mua Nước Trời . Công qủa chúng ta làm ra do việc bác ái yêu thương, chúng ta sẽ được an hưởng, được hạnh phúc và an vui muôn đời trong nước Chúa.
Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có TN 25-C162
Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có thái độ nào đối với tiền của mà ta đang có đây? Lời Chúa trong Chúa nhật XXV Thường niên C cho ta câu trả lời về thái độ của con người đối với của cải.
Người quản lý thời Chúa Giêsu bên Do thái có quyền thay mặt ông chủ để quyết định tiền lương cho công nhân. Nếu người quản lý làm thiệt hại tài sản của ông chủ thì luật pháp cũng không buộc ông phải đền trả mà chỉ có thể bị ông chủ sa thải thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể (Lc 16, 10-13) có sự biến đổi nơi thái độ của người quản lý đối với tiền của. Người quản lý trong dụ ngôn bị ông chủ sa thải vì ông đã phung phí tiền bạc của ông chủ. Ông đã tích cóp tiền của cho riêng mình, biển thủ của chủ. Ông thật đáng tội. Thế nhưng đứng trước sự sa thải của chủ, giờ đây ông đã thay đổi thái độ. Ông không tìm cách thu vén cho mình nữa nhưng ông đã tìm cách trao tiền cho người khác. Ông đã biết lấy đồng tiền để mua lấy bạn hữu. Ông không lợi dụng tình người để tích trữ tiền của nữa. Nhưng ông đã lợi dụng tiền của để tích trữ tình người. Và nhờ thái độ biến đổi ấy mà ông được ông chủ khen là khôn khéo.
Kết luận dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra bài học: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Sự an nghỉ đời đời, vinh quang trong Nước Trời, hạnh phúc trường cửu sau cái chết mới là cùng đích của cuộc đời con người. Tiền của chỉ là phương tiện giúp con người trên đường tiến tới Nước Trời. Tiền của được trao vào tay con người và con người có nghĩa vụ quản lý nó mà thôi. Khéo dùng tiền của thì vững bước trên đường đời, vụng dùng tiền của thì đường đời tăm tối.
Con người quản lý tiền của. Con người không phải là ông chủ của tiền của nên bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị tước hết tiền của. Dù có giàu sang quyền quý đến đâu đi nữa thì đứng trước cái chết, không ai còn có thể sở hữu được tài sản nữa. Bởi con người không có toàn quyền sở hữu tài sản mãi mãi, nhưng nó chỉ là người quản lý tài sản trong vài chục năm là cùng.
Chỉ là người quản lý, nên có thể người này được trao cho ít, người kia được trao cho nhiều. Người được trao cho nhiều thì có nghĩa vụ làm lợi nhiều. Và ông chủ là Thiên Chúa có thể đòi ta phải giải trình cả lời lẫn vốn bất cứ lúc nào. Nếu ta chỉ biết thu tích của cải và để vào một chỗ thì lấy đâu ra lãi. Và ông chủ không những sẽ không trao cho ta thêm vốn nữa mà còn lấy đi luôn cả những gì ta đang có.
Thế nhưng tôi phải làm lãi cái gì? Là người quản lý khôn khéo sẽ biết lấy tiền của để lo phần rỗi linh hồn mình. Chúa không dạy ta đi biển thủ của công để chia cho người khác. Làm thế là bất công với cả xã hội. Nhưng Chúa muốn ta có thái độ chính xác đối với của cải trần gian và biết đâu là giá trị thực sự của nó: Tiền của không là cùng đích, nhưng nó chỉ là công cụ, là phương tiện giúp ta đạt tới cùng đích là Nước Trời.
Thái độ như thế đối với tiền bạc không giống với thái độ thường tình của loài người. Tiên tri Amos xưa đã lên án những người vì lợi ích cho túi tiền của mình mà họ sẵn sàng tìm cách tiêu diệt người khác. Để có được lợi nhuận, họ sẵn sàng chà đạp lên đồng loại bất chấp mọi thủ đoạn. Thái độ ấy đem lại cho họ nhiều tiền, nhiều của. Đồng tiền trở thành ông chủ của họ. Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Vì họ không thể vừa làm tôi tiền bạc, vừa làm tôi Thiên Chúa; Vì họ không thể tiếp tục thực hiện cách thức kiếm tiền của mình nếu họ chấp nhận có Thiên Chúa hiện diện bên họ.
Đứng trước một xã hội đầy rẫy sự tham ô, hối lộ, một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận tiền của làm tiêu chuẩn để đo lường mọi giá trị, con cầu xin Chúa hằng soi đường chỉ lối để con biết lựa chọn con đường đưa tới vinh quang Nước Trời, biết lựa chọn thái độ phù hợp với tiền của. Nguyện xin Thần Khí Chúa giúp con biết quản lý tốt những gì Chúa trao phó cho con, biết dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu, mua lấy tình người, mua lấy cho mình sự thanh sạch, sự bình an và thanh thản trong tâm hồn để sẵn sàng chờ ngày Chúa đến.
Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng TN 25-C163
Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng co không biết chọn lựa.Thường con người xây đắp cái gì có thể thấy được, dễ đụng chạm, dễ sờ mó. Có những sự việc khó lường trước khó thấy được. Những chuyện phù hoa, diễm lệ, những cái hào nhoáng bên ngoài dễ làm cho con người choáng ngập. Hầu hết khi sống trong một thế giới văn minh, người ta ít nghĩ tới những điều xa xôi, sự sống đời sau vv…Có những người cho sự sống vĩnh cửu là ảo tưởng, là không có thật. Họ xây dựng, vun đắp cái gì mau qua…Tuy nhiên, xét cho cùng người khôn là người biết xây đắp cuộc đời này với sự khôn ngoan, với ánh sáng dọi soi của Thiên Chúa vì cuộc đời này chuẩn bị và dẫn đưa con người đến sự sống mai sau…
Vâng, sau khi đã kể ra dụ ngôn về người quản lý khôn khéo. Đích thực,Chúa Giêsu phàn nàn, chê trách vì chúng ta là con cái của sự sáng lại không khôn khéo bằng con cái thế gian bởi vì họ chỉ biết có thế gian này !Người quản lý khôn khéo vì ông dám đối diện với thực tế của cuộc đời. Ông biết mình sau khi bị sa thải sẽ không làm vườn, cuốc đất, buôn bán, kinh doanh. Ăn mày, ăn xin thì ông tủi nhục vì ông đã từng là quản lý oai phong, có quyền, có thế của ông chủ. Nên ông đã khôn khéo kiếm cách để khi bị sa thải, sẽ có người còn nghĩ tới ông, mang ơn ông vv…Chúa Giêsu dạy chúng ta phải khôn ngoan, lanh lợi như ông quán lý chứ đừng lươn lẹo, đừng xảo trá. Khôn khéo để xây dựng một tương lai tốt hơn, một cuộc đời đẹp hơn, đặc biệt tìm cho mình một cuộc sống vĩnh cửu.
Có những người cho rằng đời sau xa vời quá…Có ai đã thấy đời sau, có ai đã sống cuộc sồng vĩnh cửu. Cuộc sống mai sau, đời sống đời đời quả không có gì hấp dẫn, có gì thu hút, người ta chỉ hăm hở lao vào việc làm giàu, tìm kiếm hưởng thụ, chạy theo những gì chóng qua ở đời này. Sự giằng co của con người, của chúng ta nằm ở chỗ, chúng ta có biết khôn khéo để quyết định những gì cho cuộc sống hôm nay và ngày mai hay không ?
Chúng ta để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc sống của mình.Tiền bạc, của cải, vật chất là phương tiện để giúp con người, giúp chúng ta sống cuộc sống hôm nay cho tốt đẹp. Chúa không cấm chúng ta giầu có, không bần cùng hóa cuộc sống của chúng ta. Chúa muốn chúng ta biết dùng của cải, vật chất cho phù hợp với cuộc sống của chúng ta vì quê hương của chúng ta ở trên trời. Đời sống trần gian này chỉ là tạm bợ, chỉ là mau qua. Do đó, chúng ta đừng quá ham mê của cải ở đời như ông phú hộ giầu có mà quên đi sự sống vĩnh cửu đang chờ đón chúng ta. Quả vậy, Chúa đã nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ “. Chúa muốn chúng ta, muốn con người dứt khoát chọn Chúa. Tuy Chúa ban cho chúng ta quyền tự do chọn lựa ơn cứu độ hay từ chối ơn cứu độ. Từ chối Chúa hay nhận Chúa, đó là sự tự do của con người,của mỗi người chúng ta.
Qua đoạn Tin Mừng Lc 16,1-13, Chúa Giêsu dạy chúng ta, dạy con người, dạy nhân loại:
1.Chúng ta phải biết khôn ngoan, khôn khéo lanh lợi lo lắng tương lai cho đời sau.Chúa muốn chúng ta khôn khéo dùng tiền của làm việc nghĩa, chia sẻ hầu co được Nước Trời. Sự khôn khéo không phải là lắt léo, lươn lẹo nhưng khôn ngoan theo ý Chúa: dùng khả năng để làm giầu cho Chúa như người trao năm nén làm lợi năm nén khác, người ba nén làm lợi thêm ba nén khác.
2.Chúng ta không được làm tôi hai chủ hoặc ai liều mất mạng sống mình vì Chúa thì sẽ cứu được nó vv…
Lời của Chúa thực đáng cho chúng ta suy nghĩ và thực hành cách sống.Chúng ta có để cho Chúa làm chủ đời ta hay chúng ta thích thờ Ma Môn , Tiền của. Để Chúa hướng dẫn, làm chủ chúng ta sẽ có đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trung thành với việc nhỏ để chúng con được trao việc lớn. Xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con chỉ một lòng yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại. Xin cho chúng con biết khôn khéo để khôn ngoan dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua Nước Thiên Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người quản lý bất lương đã làm gì ? 2.Khôn khéo theo ý Chúa là gì ? 3.Tại sao Chúa không thích sự lắt léo, lươn lẹo ? 4.Vật chất có cần không ? 5.Chúa dạy chúng ta dùng của cải thế nào cho phù hợp ?
Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng TN 25-C164
Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng lại được. Đến ngày Chúa gọi ta về thế giới bên kia, ta không thể nói: “Con không đi! Con không đi! Con phải ở lại đời này, con đang quyến luyến đời này, không đi đâu hết!”
Sức khỏe của ta không do ta mà có, nhưng là do Chúa ban. Về phần ta, lúc nào ta cũng muốn mình được khỏe mạnh, cường tráng, muốn sống lâu trăm tuổi chưa vừa; ngoài ra, ai cũng rất sợ đau ốm, sợ ung thư, sợ đột quỵ… Nhưng không ai có thể duy trì sức khỏe trong tình trạng tốt mãi được. Nay mai, ta phải già đi, phải suy yếu đi, phải mắc hết bệnh này tới bệnh khác, phải nằm liệt giường, phải rên la đau đớn… chẳng còn chút hơi sức nào!
Ngôi nhà của ta, xe cộ, vàng bạc châu báu và rất nhiều đồ dùng của ta… hôm nay, chúng còn thuộc về ta, nhưng mai đây, tất cả những thứ đó đều không còn là của ta nữa mà phải sang tay cho người khác.
“Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”
Đúng vậy, sức khỏe, của cải, vàng bạc, châu báu … đến với ta cũng như luồng gió lùa vào gian nhà trống, chúng chợt đến rồi chúng lại bay đi. Không ai có thể nhốt được gió cho riêng mình. Cũng thế, không ai ôm ghì lấy sức khỏe, tài sản, vàng bạc châu báu cho mình mãi được. Chúng chợt đến rồi chúng chợt đi. Ai khư khư giữ lấy chúng là chưa khôn ngoan sáng suốt.
Tốt nhất là biết cấp tốc chuyển đổi chúng thành tài sản vĩnh cửu cho mình.
Công nghệ năng lượng gió
Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều tua-bin (turbine) gió được lắp đặt nhiều nơi. Những cánh quạt của tua-bin vươn ra đón lấy những làn gió thoảng qua rồi biến chúng thành nguồn năng lượng hữu ích cho muôn người, trước khi để gió thổi vèo qua nơi khác. Biến gió thành điện là một công nghệ tuyệt vời.
Vậy thì chúng ta cũng nên ứng dụng “công nghệ” này vào cuộc sống của mình, bằng cách đón lấy của cải chóng qua đời này, như những cánh quạt của tua-bin đón gió, rồi biến chúng thành kho tàng thiêng liêng cho cuộc sống mai sau.
Người quản lý trong Tin mừng hôm nay đã nắm được “công nghệ” này. Khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, anh nghĩ ra một diệu kế:
Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị sa thải, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” hay nói khác đi, hãy dùng của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.
Đó là một chọn lựa khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì ta mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì !
Vì thế, người khôn ngoan là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời, y như tua-bin của các giàn điện gió chuyển đổi những làn gió thoảng qua thành năng lượng hữu ích cho muôn người.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi quyến luyến của cải đời này, nhưng biết khôn ngoan đánh đổi những tài sản phù du để thu về những lợi ích vĩnh cửu.
Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm .. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc TN 25-C165
Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc chỉ có nơi tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền thế. Đã có một thời Mussolini, Nhật Hoàng, Hitler tưởng rằng thế giới sẽ nằm gọn trong trục tay ba của họ, nhưng họ đã gục ngã thảm bại và lịch sử vẫn xoay theo chiều của nó. Đã có lúc Napoléon Đại đế tưởng rằng sẽ thâu tóm toàn thể Âu châu trong bàn tay bách chiến bách thắng của ông, nhưng rồi ông đã chết cô đơn trên đảo Corse, và Âu châu vẫn xoay theo chiều của nó. Như viên đá ném xuống dòng sông, làm lay động mặt nước trong chốc lát, và rồi dòng sông vẫn im lìm xuôi chảy…Mọi sự đều qua đi… Sách Giảng viên đã viết: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2). Quả là: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).
Chúa Giêsu đã từng phê phán những người giàu chỉ biết cậy dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ là kẻ ngu xuẩn vì chỉ nhìn cái hiện tại chóng qua mà không quan tâm đến định mệnh cuối cùng và không biết tìm hạnh phúc vững bền (Lc 12,13-21). Thu tích của cải đời này mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì quả là ngu xuẩn vì “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm” (Lc 12,15); vả lại sự vướng bận vào của cải cản trở việc tìm kiếm Nước Chúa là cõi phúc thật (x.Lc 18,18-30). Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực? Làm sao có được sự giàu có trước mặt Thiên Chúa?
Tin mừng Chúa nhật hôm nay,Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người quản lý bất lương đã kết luận: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Chúa dạy các môn đệ phải sống trung tín. Một người không trung thực về tiền bạc thì không thể là một người ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Chúa căn dặn: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng nó lại là một ông chủ xấu. Chúa dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền bạc.Nếu “con cái đời này” biết cách làm lợi cho tương lai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này ?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu cho mình, thì tại sao chúng ta lại không biết chia sẻ của cải chóng qua đời này cho tha nhân để mua lấy bạn hữu, để sau này chính họ sẽ đón rước chúng ta vào Nước Trời đời sau ?
Khôn Khéo Con Cái Đời Này
Khôn khéo trong những việc làm của người quản lý bất lương:
– Khôn khi ăn cắp tài sản của chủ mà không bị phát hiện, đến khi có người tố cáo, chủ mới đuổi việc.
– Khôn vì anh ta biết giới hạn của mình: cuốc đất không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
– Khôn vì biết xoay xở, tận dụng chút quyền quản lý cuối cùng để có một chút bảo đảm cho tương lai. Gọi các con nợ của chủ đến làm văn tự lại: 100 thùng dầu ô-liu, viết lại 50 thôi; 1.000 thùng lúa viết lại 800 thôi… hai bên cùng có lợi mà.
– Khôn khi biết lo xa: liệu sao để khi mất chức thì có người tiếp đón, khi về hưu non thì đã có của dư của để, có nhà cao cửa rộng, có vườn tược…
Hình ảnh của người quản lý khôn khéo bất lương này đầy dẫy trong xã hội hôm nay khi mà tham nhũng đã trở nên “quốc nạn”. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Péru đến nhiệm kỳ thứ 2, vì tham nhũng nên đã trốn chạy về Nhật. Ông Estrađa tổng thống Philippines, phải từ chức vì tham nhũng. Ông Wahid, tổng thống Indonesia sang Mỹ tỵ nạn vì tham nhũng. Việt Nam cũng đang điêu đứng vì quốc nạn tham nhũng… Người ta “hy sinh đời bố để củng cố đời con”, có chút địa vị quyền lực thì lo thu ven cho cá nhân, tham ô, móc ngoặc. Sợ bị bại lộ, sợ bị tố cáo, sợ bị cách chức, sợ bị “về hưu non”, nên khôn khéo mua lấy bằng cấp, mua đất xây biệt thự, lập trang trại… Người ta tìm mọi cách để có tiền của, có địa vị, có quyền lực, bất chấp tiếng nói lương tâm.
Nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay sẽ thấy người đời thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó, Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng và họ làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái, miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Các ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo. Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm, địa vị; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Ngôn sứ Amos kịch liệt lên án. Ông quả xứng danh là nhà ngôn sứ của sự công bằng. Bản cáo trạng của ngôn sứ đối với những người quyền thế, giàu sang bất công vẫn luôn vang vọng và có hiệu lực cho mọi thế hệ.
Khôn Ngoan Con Cái Chúa
-Khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn hướng về Thiên Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa. Vật chất không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.
– Con cái ánh sáng khôn ngoan sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thực tâm thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thực trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc nhỏ cho đến việc lớn. Trung tín với lời hứa Bí Tích đã lãnh nhận. Người chân thật là người trung tín với Thiên Chúa và anh em mình. Bởi vì Thiên Chúa là sự thật, và “chỉ có sự thật mới giải thoát anh em”.
– Khôn ngoan của con cái Chúa là khôn ngoan Thập Giá: “Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù Dothái hay Hylạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 22-25 ). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà thương chủ nọ”. Không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc. Chúng ta tự hỏi chủ nào đang thống lĩnh đời tôi ? Ước gì tôi luôn tự do, chọn lựa làm tôi cho Chúa mà thôi.
Cửa Sổ Hoặc Tấm Gương
Một người Dothái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh ta đến bên cửa sổ và hỏi: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và cho tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ thì ông thấy gì trong tấm gương ?” Người giàu có liền trả lời: “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi.” Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học. Ông nói: “Này nhé, tấm gương soi mặt được làm bằng kính. Kính được phủ ở phía sau bằng một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đằng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ ông đã thấy được những người khác, thấy được cảnh vật…” Nếu tấm kính linh hồn bị lòng tham lam, ích kỷ như lớp bạc mỏng phủ đi thì ta sẽ chỉ thấy có bản thân mình. Chỉ mình ta mới đáng kính đáng trọng, chỉ mình ta là trung tâm để mọi người phục vụ. Tâm hồn con người khi trong suốt không bị che chắn bởi tham, sân, si, sẽ nhìn thấy mọi người là anh em, nhìn thấy những điều hay, những điều tốt, những gì đáng quý, đáng mến nơi tha nhân. Tâm hồn trong sáng đó nhờ biết mỗi ngày soi vào Chúa Kitô, sống theo lời dạy của Ngài.
Sự khôn ngoan đích thực đúng như lời Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê: “Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,18).
Của cải vật chất chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, chúng ta sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để TN 25-C166
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để đạt được ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Amos là người chăn chiên được Chúa chọn làm tiên tri. Chúa sai ông đi rao giảng trong một xã hội lúc bấy giờ bon chen tranh giành tiền bạc, đàn áp những người nghèo khổ, họ dùng tiền mua nô lệ, coi tiền của là trên hết. Và lối sống sa hoa những kẻ giàu có bên cạnh những người túng nghèo.
Trong bối cảnh đó, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa lên án mạnh mẽ cách đối xử bất công và tiên báo sự trừng phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc làm của chúng”.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho mọi người được an cư lạc nghiệp, sống đẹp lòng Chúa, để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Còn bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người quản lý bất trung, để dạy chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà đạt được Nước trời mai sau.
Chúng ta thấy người quản lý trong dụ ngôn ứng xử rất khôn ranh. Trước khi biết mình sẽ mất chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số nợ. Anh lợi dụng tài sản của chủ để mua lấy ơn nghĩa cho mình. Hành vi đó, chủ khen anh ta hành động khôn khéo, biết lo cho tương lai.
Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ta noi gương cách ứng xử khôn ranh này, nhưng Chúa dạy chúng ta là con cái của sự sáng, hãy biết lợi dụng của cải chóng qua đời này để mua lấy Nước trời. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, phục vụ trong tinh thần quảng đại và yêu thương.
Bởi vì, cốt lõi của đạo Công giáo chúng ta là chia sẻ và ban phát. Như Mẹ thánh Têrêsa Calcuta đã nói: “Đặc tính của đạo Công giáo là ban phát và cho đi”. Vì thế, khi gặp một người nghèo khổ đưa tay xin chúng ta giúp đỡ, chúng ta đừng bao giờ từ chối hay dửng dưng. Không ai trong chúng ta nghèo đến độ không có gì để cho. Chẳng hạn như: chúng ta cho nhau một nụ cười, một lời thăm hỏi, một nghĩa cử yêu thương, một sự quan tâm giúp đỡ… Nếu Chúa cho chúng ta làm ăn khấm khá, biết rộng lòng chia cơm xẻ áo cho người nghèo, là chúng ta biết tích trữ của cải thiêng liêng, nơi mối mọt không hề phá hủy, trộm cướp không thể nào chiếm lấy được”.
Anh chị em thân mến,
Khi đưa ra dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta cần phải khôn ngoan và trung thành trong khi sử dụng những ân huệ Chúa ban.
Thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc… tự ta không thể làm ra được, nhưng tất cả đều là ân ban của Chúa. Chúng ta chỉ là người quản lý thôi. Thế thì, chúng ta quản lý những ân huệ đó như thế nào?
Nếu anh chị em quan niệm thời giờ quý như vàng bạc, thì chúng ta có biết dùng thời giờ để siêng năng đến nhà thờ làm những việc đạo đức. Hay có thể chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bất hạnh, đang chết dần trong cô đơn thiếu vắng tình thương không?
Nếu anh chị em quan niệm sức khoẻ là vàng, thì chúng ta có biết giữ gìn sức khoẻ để cộng tác với ơn Chúa mà làm những việc lành phúc đức không? Hay là có một số người cứ ăn chơi nhảy nhót, xì ke ma tuý, sáng xỉn chiều say… làm cho thân tàn ma dại.
Về tài năng Chúa ban tựa như những nén bạc. Người thì Chúa cho 5 nén, kẻ khác 2 nén, người kia 1 nén. Chúng ta có tích cực làm phát triển những nén bạc đó để lo xây dựng Nước Chúa và lo phần rỗi của mình không?.
Về tiền bạc cũng vậy. Chúa ban cho thời giờ, sức khoẻ và trí thông minh để làm ra tiền bạc mà sinh sống, vậy chúng ta sử dụng đồng tiền đó như thế nào?
Ai càng sống rộng rãi biết cho đi, biết nghĩ đến người khác hơn bản thân mình, thì người đó sẽ càng giàu công phúc ở đời sau.
Ngược lại, có một số người làm mất đi hạnh phúc gia đình, mất đi tình nghĩa anh em, chỉ vì một chút tài sản cha mẹ để lại mà không nhường nhịn nhau.
Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè”, nghĩa là hãy dùng tiền của mà mua lấy Nước trời. Cụ thể như việc cầu hồn xin lễ, giúp đỡ những người nghèo khổ, đóng góp vào những việc chung.
Được như thế, ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, ước mong sẽ được nghe những lời mời gọi của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ. Hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.
Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử TN 25-C167
Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Lời Chúa dạy bắt đầu ngay từ bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt. Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Cứu Thế giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng không có tinh thần đạo đức, công bằng, bác ái và quảng đại. Họ sống ích kỷ và nhất là không còn chú ý đến đời sống tôn giáo và trung thành với Chúa. Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày nghỉ lễ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Trong bối cảnh này, ngôn sứ A-mốt được Chúa chọn và sai đi giảng dạy và khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như cho họ biết những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại. Ngôn sứ A-mốt cảnh báo rằng ngày Sa-bát và những ngày lễ là những ngày nghỉ, dành cho việc cầu nguyện và thờ phượng. Dân buôn bán và thương mại thù ghét lời khuyến cáo của ông, và nổi lên chống đối vì họ nghĩ sẽ bị thiệt thòi về tài chánh. Thậm chí họ còn có một thái độ bực bội và khó chịu vì họ cho rằng ngôn sứ làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ. Họ bỏ không đến đền thờ để thờ phượng, và chỉ chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền bất cứ dưới hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa và bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, ngôn sứ A-mốt cho họ biết nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì sẽ lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm như lời Chúa đã nói: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.”
Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý bất lương. Chúng ta sẽ thấy bài học chính và quan trọng không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên dạy của Chúa về thái độ và cách sử dụng của chúng ta đối với tiền bạc. Chúa khuyên chúng ta khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này, biết lo xa đầu tư cho cuộc sống đời sau, nhất là phải hướng cuộc sống về Nước Trời. Thật vậy, tác giả Lu-ca không quan tâm đến chi tiết của câu chuyện người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí tiền của chủ. Và ông chủ đã gọi anh ta đến để báo cho anh ta một tin xấu bị đuổi. Bàng hoàng, thình lình và bất ngờ như sét đánh! Bị tống ra khỏi nhà anh nghĩ sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Vì thế anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến, làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh. Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó lại là sự khôn ngoan tính toán thế gian. Chúa khen sự khôn ngoan tính toán mau lẹ đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa cảm thấy buồn lòng về những người tin vào Chúa, họ không tính toán khôn khéo mau lẹ như vậy về Nước Trời.
Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vâng lời và khiêm nhường sinh xuống trần để loan báo về hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Qua lời giảng dạy và những phép lạ lớn lao, Chúa đã biểu lộ tình yêu, lòng nhân từ và thương xót, nhưng câu hỏi là: “Tại sao con người hững hờ, lạnh nhạt và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy?” Thánh Gioan Tẩy giả, vị tiên tri tiền hô cho Chúa, đã cảnh báo: “Rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người” thế mà con người vẫn hờ hững. Họ đã không chuẩn bị sẵn sàng và mau lẹ đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương đã nhanh trí sắp sếp công việc cho cuộc sống ở đời này.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và cách nào đối với tiền bạc để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta, “con cái sự sáng”, lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại ở đời này để lo cho hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời của mình ở đời sau? Nếu căn cứ vào cách sử dụng tiền bạc để biết được có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không thể hiện lòng trung tín với Chúa để bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã quảng đại chia sẻ. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, hy sinh và phục vụ, chúng ta mới thực là những quản gia trung tín và khôn ngoan làm theo ý chủ. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền bạc là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa.”
Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà quan trọng hơn, còn cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền bạc đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước lời Chúa dạy về tiền bạc và thái độ của chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta tấm lòng chân thành lắng nghe lời Chúa dạy, và khôn ngoan sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này, là phương cách đưa chúng ta đến gần, sống mật thiết với Chúa, và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời đời sau.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy TN 25-C168
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8: 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2: 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16: 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).
Ơn gọi
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
Bối cảnh vương quốc miền Bắc
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng này. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bóc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp này huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
Nhân cách ngôn sứ của A-mốt
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8: 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8: 7).
Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gửi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gửi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gửi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
Ơn cứu độ phổ quát
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng, lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền
Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7).
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Au-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.
Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
Vấn đề
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến inh tai nhức óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
Bận lòng đến tương lai trần thế
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nỗ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu
Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua TN 25-C169
Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua dối trá, vua mánh lới, vua xảo quyệt, vua quảng cáo, vua xạo, vua lưu manh,… Thật vậy, nó đã tỉ tê khiến bà Eva bùi tai nên siêu lòng, và rồi ông Adam cũng nghe vợ mà chịu chung số phận. Tiêu tùng! Ngày nay, không ít người cũng đã “chết dở” vì chiêu bài quảng cáo – bí quyết nói láo ăn tiền, nhưng được người ta khoái và công nhận. Thế mới chết!
Mưu phải có mẹo. Mẹo càng tinh xảo thì mưu càng thâm độc, khiến người ta càng dễ mắc lừa. Vì thế, rất cần sự khôn ngoan để trước tiên là “tự vệ” (bảo vệ mình), rồi mới có thể bảo vệ người khác. Khôn ngoan là điều rất cần thiết trong cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Bởi vì “tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa.” (Cn 1:1a)
Thật ngạc nhiên với nhận định của Robert A. Heinlein (1907-1988, văn sĩ về khoa học viễn tưởng, người Mỹ) nói: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo luôn luôn chẳng khác gì cái ác”. Còn kịch tác gia Menander (324-291 trước công nguyên, người Hy-lạp) nhận xét: “Tóc bạc không sinh ra khôn ngoan”. Ôi, vậy ư? Thông thường, tuổi già thì khôn ngoan, nhưng điều đó chưa chắc là mẫu số chung, tuy nhiên có điều chắc chắn: Càng nhiều tuổi càng nhiều tội. Thế thì lại càng sự khôn ngoan hơn nữa.
Nhưng có những trường hợp “đầu bạc” thực sự khôn ngoan, vì đó không chỉ là “vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20:29) mà còn là “triều thiên vinh hiển được tặng ban cho người sống công chính” (Cn 16:31).
Khôn ngoan cũng liên quan nhiều thứ. Biết mình là sáng, biết người là khôn. Khổng Minh Gia Cát Lượng (Zhuge Liang, 181-234) nói: “Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ chí” – Muốn xem xét chí hướng của một người thì phải hỏi họ về điều phải trái, đúng sai. Mạnh mẽ hơn, Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.” Thế mới là khôn ngoan – nghĩa là cũng cần có lòng can đảm.
KHÔN TỘI
Cũng có năm bảy đường khôn ngoan – khôn tội hóa khốn. Dễ lầm nên phải phân biệt rạch ròi: Khôn lỏi, khôn đểu, khéo léo, mánh khóe hay tinh quái? Lạnh lẹ hay ranh mãnh? Linh động hay mưu chước? Việt ngữ độc đáo lắm: Chữ KHÔN rất gần chữ KHÔNG, cả cách viết và cách phát âm – chỉ khác nhau mẫu tự G. Đúng là “sai một ly đi một dặm”, vì KHÔN ngoan cũng dễ biến thành KHÔNG ngoan như thường. Thật vậy, sách Khôn Ngoan nói: “Những lý luận quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa.” (Kn 1:3) Lươn lẹo thì người đời cũng chẳng ai ưa chứ nói chi Thiên Chúa. Nhưng xã hội Việt Nam ngày nay có vẻ người ta thích lươn lẹo, ăn không nói có, lọc lừa người khác để mình được sống vinh thân phì da.
Kẻ ác là kẻ hèn. Càng hèn thì càng nhát, càng nhát thì càng ác, càng ác thì càng độc, càng độc thì càng ngốc, càng ngốc thì càng dại, càng dại thì càng khờ, càng khờ thì càng ngu, càng ngu thì càng ác. Đúng theo quy trình khép kín của cái vòng lẩn quẩn. Thật khủng khiếp, đáng sợ!
Thời nào cũng có người khôn, kẻ khốn. Ngôn sứ A-mốt xuất thân là một mục đồng ở miền Nam Belem, thuộc chi tộc Giu-đa. Ông được Thiên Chúa sai đi tuyên sấm cho vương quốc Israel, và ông đã can đảm hành động. Ông kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: ‘Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?’. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ” (Am 8:4-5). Người ta thường nói: “Vải thưa che mắt thánh”, hoặc: “Chiếc kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Với người đời còn chưa lừa được thì nói chi đối phó với Thiên Chúa, vì Ngài toàn năng và thấu suốt mọi bí ẩn.
Đôi khi Ngài im lặng chứ không phải Ngài không biết. Đừng ngu xuẩn mà suy nghĩ theo kiểu vô thần. Thánh Vịnh gia nói: “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thiên Chúa như vậy thì chúng ta còn có thể dùng mánh khóe nào mà trốn thoát Ngài chứ?
Trong cuộc sống đời thường, người ta ngông cuồng khi tìm đủ mưu mẹo để “đè bẹp” hoặc “chà đạp” người khác – nhất là đối với người dưới quyền hoặc người yếu thế hơn mình. Và còn hơn thế nữa, người ta tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo người khác, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cuộc sống hằng ngày vẫn xảy ra những chuyện như thế ở khắp nơi – thậm chí ngay trong các gia đình, giáo xứ, cộng đoàn,… Người nghèo còn bị người ta đàn áp và bóc lột đến cả chiếc áo rách họ đang mặc, thế mà người ta vẫn ra vẻ nhân đạo mà “ngọt ngào” nói đến nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Giả hình rõ nét! Đó là cách “lấy vải thưa che mắt thánh” mà thôi. Tức nước thì vỡ bờ, đó là điều tất yếu. Con chó bị dồn vào góc tường thì nó cũng phải cắn lại. Con vật mà còn như vậy huống chi con người.
Thật đúng như Thánh Vịnh gia đã xác định: “Ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh; lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.” (Tv 55:21-22) Lưỡi còn hơn gươm sắc bén, mà nó có thể như lửa thiêu rụi mọi thứ. Sống hay chết đều do cái lưỡi, (Cn 18:21) và nó chính là mối họa cho con người. (Hc 5:13) Ngay cả bốn thứ Thiện – Ác và Sinh – Tử cũng bị cái lưỡi chi phối. (Hc 37:18)
Lời khuyến cáo của tiền nhân rất chí lý: “Cẩn tắc vô ưu.” Chính Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề lời này: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” (Am 8:6-7) Thiên Chúa đã thề hứa thì không chút sai lệch. Ngài luôn thương xót trọn tình, sẵn sàng tha thứ, nhưng cũng rất công minh và chính trực, nếu không thì người nghèo và người thấp cổ bé miệng thiệt thòi quá. Vấn đề độc đáo là thế.
Là Đấng từ bi và nhân hậu, Thiên Chúa đặc biệt quan tâm những người nghèo khổ, cô thân, góa bụa, tù đày, tội nhân,… Ngài sẵn sàng bỏ tất cả mọi thứ để đi tìm cho bằng được những con chiên lạc. Bằng chứng là Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo, sống nghèo, và chết nghèo. Ngài làm thật chứ không nói suông. Còn chúng ta có được chút nào, hay là chỉ khéo dạy người khác làm, còn mình thì “cứ vô tư”? Nếu thế thì… Ôi thôi!
KHÔN PHÚC
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, thế nên chẳng ai có thể giấu giếm hoặc tự biện hộ. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Ngài là Thiên Chúa độc nhất, quyền phép vô song, các thần linh khác cũng chỉ là thụ tạo của Ngài mà thôi: “Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển, trước thánh nhan Chúa Trời nhà Gia-cóp, Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.” (Tv 113:7-8)
Không có Ngài, chúng ta chỉ là hư vô. Ngài không chỉ tạo dựng chúng ta mà còn là sự sống của chúng ta, vì chính “thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63) Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4) Rất mạch lạc, yêu thương, hiệp thông và hiệp nhất.
Để minh định mạnh mẽ hơn, thánh nhân cho biết thêm: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:5-8) Cũng rất rạch ròi, không hề có gì văn hoa bóng bẩy, thế nên bất cứ tầng lớp nào cũng có thể hiểu. Chịu hiểu là khôn – khôn phúc. Không hiểu là vì không muốn hiểu, gọi là cố chấp – khôn tội.
Bóng tối cả thế gian này cũng không dập tắt được một đốm lửa nhỏ, nhưng bóng tối nguy hiểm vì khó có thể phân biệt chính xác. Không sợ kẻ xấu nhưng nó rình rập làm hại thì khó tránh, dễ bị nó hại – vì nó ở trong bóng tối nên khó nhận biết. Ma quỷ là “chuyên gia đen” như vậy.
Và rồi vào một ngày nọ, Thầy Giêsu nói với các đệ tử về chuyện người quản gia bất lương, lươn lẹo và mưu mô. Người ta tố cáo với ông chủ về việc hắn đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản gia lưu manh liền tìm mánh khóe cho cuộc sống tương lai. Bụng bảo dạ: “Ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:3-4) Thế rồi hắn mưu mô tính toán, liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ 100 thùng dầu ô-liu thì được giảm còn 50 thùng; người nợ một ngàn giạ lúa thì được giảm còn 80 giạ. Rất mánh khóe, khôn lỏi và ranh mãnh. Cũng chỉ vì kế sinh nhai, vì miếng ăn mà tự giẫm đạp nhân cách và nhân phẩm của mình. Nhục nhã quá! Không chỉ vì miếng cơm, manh áo, hắn còn vì tự ái mà dám làm bất cứ điều gì, kể cả điều độc ác nhất. Nỗi nhục nhã nhân đôi!
Miếng ăn liên quan sự sống, dù chỉ là sự sống phần xác, thế nhưng kẻ hèn thì chỉ biết đến thế thôi, không thoát khỏi cái bóng của mình. Sự ăn uống là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của nhân phàm. Miếng ăn có thể rất lớn và rất quý, nhất là khi đói. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bản năng sinh tồn của con người rất mạnh, người ta sẵn sàng hạ sát lẫn nhau vì miếng ăn. Thằng Bờm không cần bất kỳ thứ gì khác, dù những thứ rất mắc tiền và rất giá trị, lúc đó nó chỉ cần “nắm xôi” mà thôi. Thế như chuyện Thằng Bờm không đơn giản như thế, mà có điều thâm thúy hơn: Nó biết chắc có nhận những thứ kia thì gã quan tham kia cũng chẳng cho, thế nên cứ lấy nắm xôi cho chắc ăn. Kẻ đểu mưu mô thâm độc lắm!
Cuộc sống đơn giản mà nhiêu khê, không khéo mắc bẫy kẻ ác. Ca dao Việt Nam mỉa mai: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.” Cũng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể dùng mọi thủ đoạn thâm độc, có khi giết chết một người chỉ vì một số tiền nhỏ – mà người bị hại không là người xa, kẻ lạ, có thể là thân nhân, thậm chí là cha mẹ. Thật đáng sợ thế thái nhân tình! Đồng tiền “nhỏ” thôi (mảnh giấy rộng vài chục cm) nhưng “giá trị” to lắm (theo cách hiểu của lòng tham).
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu lắc đầu nên Ngài nói thẳng: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” (Lc 16:8) Thật hay khi người Việt gọi là “tiền tệ” hoặc “tiền bạc”. Nó chẳng là gì, chỉ là tờ giấy với những con số được người ta quy ước khác nhau, thế nhưng nó có mãnh lực kỳ lạ, thậm chí là ma lực khiến người ta khó cưỡng lại, sẵn sàng xử tệ và xử bạc với nhau. Người ta dễ sa đọa vì tiền trong chốc lát mà không biết.
Bản chất đồng tiền không xấu, mà nó hóa xấu vì người dùng nó. Chúa Giêsu dạy bài học quan trọng về cách sử dụng đồng tiền qua lời căn dặn – và cũng là lời khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” (Lc 16:9-12)
Và Ngài xác định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16:13) Tiền không phải là Tiên, nhưng biết sử dụng khéo léo thì nó giúp thăng Tiến và rất Tiện (thuận tiện), không khéo thì nó hóa bần Tiện, và nó sẽ Tiễn biệt chính mình.
Tiền bạc không là gì, nhưng nó có thể xác định một con người thực chất là tốt hay xấu, Khổng Minh Gia Cát Lượng nói: “Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ liêm” – Dùng lợi lộc, tiền bạc, công danh để xem sự liêm chính của một người. Người liêm chính thì không đánh mất mình vì lợi lộc, tiền bạc, công danh. Một tay giơ cao hô hào “liêm chính, chí công, vô tư” nhưng tay kia thò ra sau “kiếm chác” bằng mọi mánh khóe. Vô cùng hèn hạ!
Giữa Thiên Chúa và tiền bạc, chắc chắn ai cũng phải tự quyết định chọn một trong hai, vì Ngài cho phép chúng ta sự tự do. Vì thế, hãy cẩn trọng kẻo hối hận không kịp, và phải luôn cảnh giác kẻo “thần khẩu hại xác phàm” (nói bậy hại thân). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Với cách dịch ngày xưa cũng có cái hay: “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ.” Có lẽ “cách xin” này hay hơn, bởi vì giàu quá hay nghèo quá cũng có thể xa Chúa, chỉ cần ĐỦ là được.
Sống cho đúng Đạo Trung Dung khó lắm. Thật tuyệt vời với lời cầu xin của tác giả sách Châm Ngôn: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:8-9)
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí thánh, xin ban đức khôn ngoan để chúng con biết luôn luôn chọn Chúa và tuân theo Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh; xin Ngài đặc biệt thương xót những người thiếu thốn – trong đời thường và tâm linh, xin ban ơn thông minh để họ chân nhận chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh; xin giúp mọi người hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống mà Ngài muốn; xin ban bình an cho Giáo Hội và thế giới, cách riêng với Việt Nam và những quốc gia chịu nhiều đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Những gì đã và đang xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy đồng tiền có một ma lực ghê gớm: Ngày TN 25-C170
Những gì đã và đang xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy đồng tiền có một ma lực ghê gớm: Ngày 29-6-2016, tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh đã kết án tử hình một cụ bà 73 tuổi quốc tịch Úc gốc Việt, vì mang theo 2,8 kg ma túy ở phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày 9-9-2016, cũng tòa án này, đã kết án ông Phạm Công Danh 30 năm tù vì làm thất thoát của nhà nước 9,000 tỷ đồng. Nếu liệt kê những vụ việc liên quan đến sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta vướng vào vòng lao lý, thì danh sách các vụ việc sẽ dường như vô tận. Tiền bạc khiến người ta liều mình, chấp nhận mất tương lai, mất danh dự và mất cả mạng sống. Tiền bạc cũng làm người ta trở nên táng tận lương tâm, làm những điều phi nghĩa, kể cả liều lĩnh đoạt mạng sống và người khác. Đối với những người này, tiền bạc là “thượng đế” mà họ tôn thờ, đồng thời chi phối mọi suy nghĩ tính toán cũng như hành động của họ.
Ngôn sứ A-mốt, ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, đã gay gắt lên án những người giàu có vì ham tiền bạc mà khinh dể và bóc lột người nghèo (Bài đọc I). Ông đã nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn được ngôn sứ A-mốt liệt kê vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm con người ra tối tăm, đạo lý và tiếng nói của lương tâm bị coi thường. Vị ngôn sứ khẳng định: Thiên Chúa sẽ không quên những hành động bất lương của kẻ tham lam. Người sẽ bảo vệ người cùng khổ và trừng phạt những người áp bức.
Lời Chúa hôm nay giúp cho chúng ta biết dùng của cải cho hợp lý, để rồi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tuy “nghèo mà không hèn”. Những tài sản mà chúng ta đang có, suy cho cùng, là của Chúa. Ngài trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người khôn ngoan cần mẫn làm cho số vốn liếng đã nhận sinh sôi nảy nở, nhưng cũng có những người lười biếng, làm cho số vốn đã trao bị mòn cụt dần đi. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh người quản gia để truyền đạt giáo huấn của Người. Chính Chúa gọi ông quản gia này là bất lương, vì thế, hình ảnh người quản gia này không thể là mẫu mực cho chúng ta. Chúa cũng không dạy chúng ta lươn lẹo gian dối như người quản gia đã làm. Giáo huấn của Chúa rất rõ ràng: Hãy dùng của cải đời này mà tạo thêm tình bạn và thực thi bác ái. Bởi lẽ, tiền bạc của cải sẽ có lúc hết, nhưng tình bạn chân chính thì tồn tại lâu dài. Những nghĩa cử bác ái không đi vào quên lãng với thời gian, nhưng được Chúa biết đến và thưởng công bội hậu. Sự sẻ chia, dù đơn giản, thậm chí chỉ như một chén nước lã, cũng được Chúa ghi nhận.
Khi ý thức mình chỉ là những người quản lý, chúng ta nghe lời Chúa mời gọi hãy sống trung tín. Người trung tín là người ý thức mình chỉ là người được trao trách nhiệm quản lý tài sản, để rồi mọi việc chi tiêu đều phải theo ý của Chúa, chứ không phải lấn át quyền hành để lợi dụng trục lợi riêng. Thiên Chúa là chủ đích thực và là Đấng cai quản mọi sự mọi loài. Người sống trung tín còn là người luôn tìm ý Chúa trong đời sống, để thực hành. Đức Giê-su là mẫu mực cho sự trung tín và vâng lời. Người đã chu toàn thánh ý Chúa Cha, dù phải chấp nhận thập giá hy sinh và sự chết.
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Khi sống ngay thẳng và công chính, chúng ta đạt được niềm vui, vì chắc chắn rằng Chúa thấu hiểu con tim chân thành của chúng ta. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta, dù là vua chúa hay dân thường, hãy sống đạo đức và nghiêm chỉnh, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài sẽ trả công và chúc lành cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đang đặt lý tưởng đời mình nơi Thiên Chúa tối cao, hay tiền bạc vật chất? Chúa đã phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Đức tin và kinh nghiệm cuộc sống đều bảo đảm cho chúng ta điều ấy. Xin Chúa cho chúng ta luôn khôn ngoan để không bị ma lực của tiền bạc lôi kéo, làm mờ con mắt và lương tâm mà lãng quên Thiên Chúa.
Người ta nói tham lam chính là một loại độc dược khiến dục vọng, ham muốn của con người không TN 25-C171
Người ta nói tham lam chính là một loại độc dược khiến dục vọng, ham muốn của con người không bao giờ có điểm dừng. Tham lam thường dẫn đến keo kiệt, bủn xỉn. Lòng tham sẽ khiến họ chỉ lo vun quén đến độ đánh mất đi sức khỏe, sự sống và niềm vui. Đối với người tham lam chỉ cần tiền, không cần tình và sẵn sàng bán mạng để lấy tiền!
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giàu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông ta hỏi: “Nhưng giá bao nhiêu ?” Bác sĩ trả lời: “Chữa mỗi mắt là 100 đô.” Ông nhà giàu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !”
Có thể nói đồng tiền là người bạn tâm giao mà mình không bao giờ muốn rời xa. Đồng tiền khiến người ta dám đánh đổi tất cả để có được nó. Dường như kiếm tiền và giữ tiền đã chiếm hết thời gian và sức lực của con người. Đồng t
iền tuy lạnh lùng nhưng lại quyến rũ mọi người. Đồng tiền có thể đánh gục nhà tu cũng như thường dân. Đồng tiền luôn mang lại niềm vui cho con trẻ cũng như người già. Con người xấu đẹp còn có kẻ khen người chê, riêng đồng tiền to nhỏ, xấu đẹp miễn là tiền thì chẳng ai chê!
Đồng tiền được đề cao vì nó là thành quả lao động của con người. Người nhiều tiền đương nhiên là giỏi, là cần cù, là chịu khó làm ăn. Nghề lắm tiền là nghề “hot” được nhiều người bon chen. Nhưng hôm nay đồng tiền bị hoen ố bởi những người lười lao động mà vẫn có tiền bởi mánh mung, bởi chạy chọt, tham nhũng, tham ô. . . Có người còn kiếm đồng tiền bất chính bằng buôn phấn bán hương, bán thân xác để kiếm tiền. . .
Thế nên, đồng tiền luôn có hai mặt. Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt trái và phải của đồng tiền được đúc kết như sau:
+ Con người dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được tuổi trẻ.
+ Con người dùng sức khỏe để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được sức khỏe.
+ Con người dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền không mua lại được hạnh phúc.
+ Con người dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được thời gian.
Cần tiền là việc không ai chê trách. Lao động chính đáng để có tiền là việc đáng tự hào, nên cổ động. Giàu có, hướng tới cuộc sống dư giả luôn là đích đến của con người cũng như mong muốn của xã hội. Nhưng mê tiền đến độ mù quáng, bất chấp đạo lý thì xã hội sẽ lắm những thị phi. Mê tiền đến mù quáng sẽ đánh mất lương tri và bán linh hồn cho ma quỷ.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy dùng tiền mà mua lấy sự sống đời đời bằng việc chia sẻ giúp đỡ tha nhân. Đừng hà khắc với anh em. Đừng vun quén đồng tiền bất chính. Hãy dùng khả năng của mình mà giúp đỡ tha nhân. Đó là cách chúng ta mua lấy sự sống đời đời. Vì chưng, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý tiền của mà Thiên Chúa đã ban. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý luôn rộng rãi với tha nhân, hay bị đau khổ muôn đời vì những thất thoát ân ban của Chúa và thất tín trong bổn phận với Chúa và tha nhân. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để thi thố tình thương cho những mảnh đời bất hạnh chung quanh.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sử dụng ân huệ Chúa ban để mua lấy hạnh phúc Nước Trời bằng một cuộc đời bác ái yêu thương dành cho những anh em nghèo khó, bất hạnh mà Chúa gởi tới với chúng ta. Amen.
Theo thói đời, cách cư xử của viên quản gia trong bài Tin Mừng, cho dầu đầy vẻ trục lợi và TN 25-C172
Theo thói đời, cách cư xử của viên quản gia trong bài Tin Mừng, cho dầu đầy vẻ trục lợi và không trong sáng chút nào, nhưng ai ai cũng đều phải công nhận: hắn ta quả là người khôn khéo và thông minh. Vấn đề ở đây là: khi kể câu chuyện dụ ngôn này Đức Giê-su thật sự muốn nói với chúng ta điều gì? Người đang dạy chúng ta áp dụng thói đời mánh mung để sống Tin Mừng hay sao? Hay là dùng của cải tiền bạc bất luận từ nguồn nào để lập công nghiệp cho bằng được, hầu bảo đảm cho đời sau hay mua chuộc Nước Trời? Thú thật: đã từ lâu lắm rồi, tôi vẫn luôn có cảm giác ngắc ngứ với đoạn Tin Mừng này; rồi khi đọc diễn giải của một số tác giả, tôi có cảm tưởng rằng, ít nhiều họ cũng ngắc ngứ như tôi. Nói chung, cách diễn giải phổ thông vẫn cho là Đức Giê-su dạy chúng ta sử dụng tiền bạc của cải trần thế (của chóng qua, dầu chính đáng hay bất chính tới mấy) để chiếm hữu cho bằng được Thiên Đàng. Giải thích kiểu này, tuy có dễ hiểu thật đấy, nhưng không đủ sức thuyết phục! Đức Giê-su không thể khuyên các môn đệ hãy cố kinh doanh để có dư giả tiền của mà làm từ thiện, vì Nước Trời là gì mà có thể bị mua chuộc bằng tiền của, dầu có dưới dạng làm việc lành phước đức?
Riêng về chuyện tiền bạc và của cải vật chất thì: Đức Giê-su luôn coi nó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều là ‘tiền của bất chính, của cải của người khác’. Điều này được học thuyết kinh doanh ngày nay thẳng thắn đề cập tới không hề dấu diếm: xét về mặt luân lý xã hội thì tiền của luôn tiềm tàng vấn đề công bằng xã hội, vì nó được điều hành dựa trên một hệ thống xã hội không công bẳng. Tuy nhiên tôi không hề nghĩ: ở đây Đức Giê-su muốn nêu lên một vấn đề luân lý xã hội nóng bỏng cần giải quyết. Điều Người muốn nói phải liên quan tới việc chấp nhận và sống Tin Mừng Người đang rao giảng đó là: làm sao để con người có thể đón nhận lòng nhân ái của một Thiên Chúa đầy lòng xót thương, trong bối cảnh cụ thể của cuộc sống trần gian này?
Hành động của người quản gia bất chính, dầu không xuất phát chút nào từ lòng nhân đích thực, nhưng vẫn được các con nợ coi là hành vi nhân lành đối với họ; hành động của ông tuy bất chính, nhưng vì mang cái vỏ từ nhân, nên vẫn có thể tránh cho ông một tương lai mù mịt. Đức Giê-su xem ra muốn tô đậm cái nét rất dễ gây tranh cãi này: “Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào ở nơi vĩnh cửu”. Nói như thế vì Người cho rằng: bất cứ ai dù đầy dẫy những bất chính và tội lỗi, vẫn có thể được coi là công chính trước Tin Mừng chỉ vì họ hướng tới, đón nhận và thi thố lòng nhân từ xót thương, dầu là nhỏ mọn nhất. Ngược lại, dầu có công chính tới mấy, vẫn có thể bị coi là bất lương: “Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. Hầu như Người muốn khảng định rằng: đối với Tin Mừng của một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, thì trung tín chính là đón nhận, là thực thi lòng thương xót. Nếu trung tín (= sống xót thương) trong việc nhỏ, tức là ngay trong đời thường, thì mới có thể trung tín trong việc lớn, tức là đón nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa trong giờ chết, và trong cõi vĩnh hằng. Nếu đã ‘Bất lương trong việc nhỏ’, tức là không biết đón nhận và thực thi lòng từ ái của Thiên Chúa trong đời thường, thì cũng sẽ ‘bất lương trong việc lớn’, tức là không có khả năng đón nhận lòng thương xót Chúa đến muôn đời.
Và cũng trong nội dung Tin Mừng cứu độ đó, Đức Giê-su còn xác định thêm một điều khác nữa vô cùng quan trọng đối với các Ki-tô hữu chúng ta: ‘của cải chân thật’, ‘của cải dành riêng cho anh em’ chỉ có thể là lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa mà các môn đệ là những người duy nhất được hồng phúc biết tới và mở lòng đón nhận. Đây mới chính là ‘của cải’ mà mọi Ki-tô hữu phải sở hữu cho bằng được, ngay trong cuộc sống hiện tại của một xã hội chưa hoàn chỉnh còn đầy dẫy những bất công xảo trá! Trong bất cứ một cơ cấu xã hội nào, dầu được cho là tốt đẹp lý tưởng hay áp bức bóc lột (thường vẫn được biện minh bằng các lý lẽ cao thượng), người Ki-tô hữu vẫn không ngừng xây dựng và vun đắp lòng xót thương là tâm điểm niềm tin của họ, trước cả khi tìm cách cải tạo xã hội đó cho hoàn thiện hơn. Nói tóm lại, công tác tiên quyết của Ki-tô hữu không phải nhằm kiến tạo một xã hội hoàn hảo, mà là xây dựng ngay từ thực tế xã hội họ đang sinh sống, ngay từ cõi lòng họ, điều mà, trong niềm tin vào Tin Mừng, họ cho là ‘của cải chân thật’ nhất, ‘của cái dành riêng’ nhất cho người môn đệ. Phải chăng đó chính là điều Đức Giê-su đang muốn khuyên cáo các môn đệ của Người: “Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em”?
Như vậy thì: trong niềm tin của Tin Mừng, Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót sẽ quả là tuyệt đối, không gì có thể sánh ngang bằng; và tiền của (trong cả nội dung nghĩa bóng của nó) dầu chính đáng hay bất chính, sẽ lộ rõ hơn bao giờ hết bản chất phù phiếm đích thực của nó một khi giáp mặt Con Người xót thương. Giữa một Lòng Thương Xót luôn trao ban và phân phát, với một tiền của có khuynh hướng khuynh đảo dưới mọi hình thức, người Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải có một chọn lựa đúng đắn và dứt khoát không thể đảo ngược; “không ai có thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài”. ‘Của cải dành riêng’ cho ki-tô hữu chính là: nhận biết lòng nhân ái của Thiên Chúa và sống lòng nhân ái này ngay trong đời sống thường ngày.
Tin Mừng hôm nay quả là một bài học căn bản nhất, phải không bạn?
Lạy Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, xin cho con nhận thức được rằng: ‘của cải chân thật’ ‘của cải dành riêng cho con’ không thể là gì khác hơn lòng nhân từ của Chúa. Xin cho con ngay từ trong cuộc sống trần gian đầy tham lam và gian dối này, nhờ Tin Mừng cứu độ, biết mở rộng cõi lòng để đón nhận lòng thương xót vô biên Chúa, thông qua các hành vi nhân từ và bác ái cụ thể, trong giới hạn của đời sống con. Xin cho con không bao giờ đánh mất ‘của cải chân thực’ này, nhưng hằng biết chiếm hữu và thu quén nó cho cuộc sống trường sinh trong lòng nhân ái Chúa. A-men.
Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã TN 25-C173
Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã hội Mỹ, đã nhận định: “Triết lý của một người không được thể hiện tốt nhất bằng ngôn từ, mà được thể hiện trong cách chọn lựa. Cách chọn lựa của chúng ta chính là trách nhiệm của chúng ta”. Chọn lựa rồi thì phải sống điều đó, chứ không thể chọn lựa cho xong lần rồi thôi.
Thiên Chúa cho con người có quyền tự do chọn lựa, đó là niềm vui mừng và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta chọn lựa.
Muốn chọn lựa phải có ít nhất hai cái – cái này hoặc cái kia, cách này hoặc cách nọ. Có một thứ thì không thể có sự chọn lựa. Tư tưởng dẫn tới hành động, đó là sự chọn lựa. Cách chúng ta chọn lựa có thể trở nên “số phận” của chúng ta – an vui hạnh phúc hoặc nghiệt ngã khổ đau. Đó là điều tất yếu từ sự tự do của chúng ta!
Ngôn sứ A-mốt đã có thị kiến thứ tư, Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói ông thấy “giỏ trái cây mùa hạ”. Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ không tha thứ cho dân Ít-ra-en nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Ít-ra-en đã bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Họ không nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là điều tất yếu. Chúng ta cũng vậy mà thôi!
Ngôn sứ A-mốt truyền lại lời của Thiên Chúa: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ” (Am 8:4). Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán” (Am 8:5-6).
Người ta nói “buôn gian, bán lận”, nghề nào cũng có mánh lới của nghề đó, càng ngày càng tinh vi hơn: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, giai cấp nào hoặc ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số “ông trùm” của xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Thảo nào, một nữ kế toán về chương trình cứu trợ của nhà nước ở Bình Phước mà mưu mô chiếm đoạt đến hơn 3 tỷ đồng. Quả thật, “thường nhân” chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi sự lươn lẹo của các “siêu nhân” theo phe ma quỷ!
Và rồi ngôn sứ A-mốt đã xác định rằng “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:7). Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết mà… làm tới, hoặc dám lấy vải thưa che mắt thánh!
Kinh Thánh cũng đã cảnh cáo thẳng thắn: “Này kẻ gian, chớ rình rập nhà người công chính, cũng đừng phá phách nơi họ ở. Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được, còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong cảnh tai ương” (Cn 24:15-16). Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích ánh sáng và cũng chẳng thấy được ánh sáng.
Còn những người công chính, dù có những lúc đã trượt té – thậm chí là “té đau”, nhưng họ quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” (Tv 113:1-2).
Thiên Chúa vô cùng nhân từ, nhưng Ngài cũng rất mực công minh. Ai có công được thưởng, ai có tội bị phạt. Chúng ta chỉ là như những “bức tượng” được Điêu khắc gia Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không thể biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Ngài: “Chúa siêu việt trên hết mọi dân, vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113:4-6).
Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như tác giả Thánh Vịnh đã minh định: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người” (Tv 113:7-8). Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng”, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta cần phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.
Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện và tạ ơn: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:1-4). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình chứ không xin theo ý Chúa.
Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chính chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Không thể hiểu nổi!
Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – theo phàm ngôn, chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa, là Đức Chúa Trời, là Deus, là Dieu, là Dios, là Dio, là God, là Gott,… (theo ngôn ngữ của dân tộc mình). Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích và trần tình: “Chỉ có một Thiên Chúa, CHỈ CÓ MỘT Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời, đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2:5-7).
Các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật thật kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất, con người không thể nào hiểu hết. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Chữa được bệnh này thì sinh bệnh khác. Y học không ngừng tìm tòi xưa nay mà vẫn không ngăn cản được sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Kiêu ngạo quá đỗi!
Thiên Chúa đã ra quy luật đời đời dành cho phàm nhân: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Thực tế đã chứng minh chân lý đó: Socrates chết, Sigmund Freud chết, Khổng Tử chết, Lão Tử chết, Thích Ca Mâu Ni chết,… kể cả những người tự nhận mình là “sống mãi trong lòng mọi người”. Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TỰ TÁI SINH. Sự thật minh nhiên đó đã được Thánh Phaolô xác định: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).
Chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét mà giết chết nhưng Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật là hạnh phúc và cũng thật là “may mắn” vì chúng ta nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài. Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (1 Tm 2:8). Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ.
Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là NÓI VỚI CHÚA, điều này quan trọng hơn là NÓI VỀ CHÚA. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin. Thật vậy, học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, người Pháp) đã xác định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Bác học Louis Pasteur (1822-1895, người Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Hai con người giỏi giang này đáng để chúng ta xem lại đức tin của mình lắm đấy!
Trình thuật Lc 16:1-13 nói về dụ ngôn “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Tiền chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác được ghi giá trị bằng những con số do con người quy ước. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị tiền mỗi nước khác nhau xa. Chúng ta phải làm chủ nó, nếu nó làm chủ chúng ta thì sinh nhiều “phiền toái”.
Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng đừng để lòng “dính líu” tới nó. Nhóm Pharisêu vì mê tiền bạc mà sống giả nhân giả nghĩa. Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).
Người Việt có câu: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa tình mẹ con, cha con, anh chị em ruột, họ hàng, xóm giềng,…
Thật là đáng sợ! Rõ ràng tiền bạc có mãnh lực làm lệch lạc lý trí của con người, ngay cả các giáo sĩ cũng bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, nếu họ mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Có một số linh mục coi xứ chỉ “quen” với những ai cung phụng cho họ. Thiên Chúa rất đau lòng!
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Những người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa, chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì” (Is 56:10-11). Các câu Kinh Thánh đại loại như vậy khiến người ta khó chịu, tránh né, và họ ghét ai đề cập.
Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình có nhòa nhạt hay không. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, có khi họ ở ngay bên chúng ta! Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ thay cho đoàn chiên nào “bị gặp” loại mục tử dỏm như thế!
Đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người đối với tiền bạc. Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” – ngược với Ngài (Mt 20:28).
Đức Giêsu nói về nhà phú hộ kia có người quản gia lươn lẹo, mánh khóe, qua mặt chủ. Người ta tố cáo với ông chủ về việc anh ta phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến mà bảo anh ta tính sổ và sa thải anh ta. Vốn tính giao xảo, anh ta tìm mưu kế, vì anh ta nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất về món nợ với chủ, người ấy nói là “một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết năm chục. Rồi anh ta hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là “một ngàn giạ lúa”. Anh ta cũng bảo người ấy viết lại giấy sợ là “tám trăm giạ lúa”. Biết được thâm kế của tên quản gia bất lương, ông chủ khen anh ta đã hành động khôn khéo. Chúa Giêsu nói rõ: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Ngày nay, người ta giả dối tinh vi lắm. Các công trình vừa được khánh thành chưa được bao lâu đã hư hỏng, tình trạng này người ta gọi là “rút ruột công trình”. Thật không thể tưởng tượng được khi người ta đành lòng làm những cột điện rỗng, vỏ xi-măng mỏng và lót bao ni-lông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, thế thì tiêu! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn” thì còn gì để nói nữa chứ? Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Thật khốn nạn!
Nói là vì công ích nhưng thật ra chỉ vì tư lợi. Nhiều cơ sở tôn giáo hoặc nơi tu trì đều bị người ta tìm cách chiếm giữ: Đan viện Thiên An (Huế), Nữ tu viện Phaolô (Hà Nội), Nữ tu viện MTG Thủ Thiêm (Q.2, Saigon),… và mới nhất là Chùa Liên Trì (Q.2, Saigon). Đáng quan ngại hơn là vấn đề môi trường, người ta dám coi rẻ sự sinh tồn của hàng triệu người mà làm ngơ trước cách làm ô nhiễm môi trường của Formosa, và rồi chấp nhận sự bồi thường rẻ mạt: 500 triệu USD. Mà dân nghèo có được đồng bạc lẻ nào không? Người ta thích cách chọn lựa như thế. Tội ác!
Ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của – cả vật chất và tâm linh. Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Và rồi Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn”. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Tại sao? Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?”.
Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn mà súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà cũng khó hiểu – vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất, đó là dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về điều vô cùng quan trọng: Thời Cuối Cùng, Thời Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô cho biết thêm nhiều dấu hiệu khác: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2 Tm 3:2-5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chấp nhận và biết cách quản lý những gì con được sở hữu từ cách làm việc lương thiện. Con cầu xin Ngài tha thứ những khi lòng con hướng về vật chất, xin thương cho con được hóa đá và được nằm trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sự cuốn hút ở đời mà người ta thường bị thuyết phục đó là xinh đẹp, mạnh khỏe, biết cư xử TN 25-C174
Sự cuốn hút ở đời mà người ta thường bị thuyết phục đó là xinh đẹp, mạnh khỏe, biết cư xử có lý có tình. Để làm kinh tế hiệu quả, đối tượng tài giỏi, khôn ngoan, luôn được trọng dụng, ưu ái hơn. Bậc làm cha mẹ thời nào cũng vất vả nuôi dạy con cháu, không những cần có tâm có đức, có phương pháp giáo dục, mà cần cả kỹ năng sống nữa. Trong khi cộng đồng xã hội phát triển, mở ra nhiều con đường, nhiều cơ hội dẫn tới thành công, quân sư ‘Khổng Minh’ lại quả quyết rằng: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Lạc quan một chút chúng ta vẫn thấy có người nhờ biết đầu tư theo kiểu: mượn đầu heo nấu cháo, cuộc sống khó khăn của họ sớm được cải thiện. Do hoàn cảnh không thuận lợi, không ít người nhờ biết xoay sở tình thế: giật đầu cá, vá đầu tôm, niềm vui của họ mau chóng được ổn định. Biết để né tránh đau khổ, giảm bớt rủi ro, hay biết để có cuộc sống tốt đẹp, có tương lại huy hoàng rực rỡ hơn, nhiều người vẫn đang chung mơ ước đó. Tính hấp dẫn của thị trường không phải là có các sản phẩm rẻ tiền, nhưng là có nhiều khách hàng ưa thích, hàng hóa tiêu thụ tốt hơn.
Khởi đi từ quan niệm: quan nhất thời, dân vạn đại, nhiều người đã co cụm lại, không muốn dấn thân phục vụ công ích xã hội, lên án công kích cả những ai tham gia hoạt động tôn giáo. Đồng ý rằng, chủ trương làm tà tà ăn cơm cà với muối, không phải do bất mãn hay suy nghĩ tiêu cực giầu nghèo gì cũng khổ, tài giỏi bằng cấp rồi cũng đến ngày quy tiên. Ngay từ khi còn tấm bé, mỗi người đều được khích lệ để ý thức: học ăn, học nói, học gói học mở, tiếp thu kiến thức, và mai này biết chia sẻ, xây dựng xã hội phồn vinh. Rõ ràng biết để sống tốt, biết để được hạnh phúc, luôn cần đến yếu tố thời gian.
Bài học khôn ngoan và trung tín của Chúa Giêsu thật là một bất ngờ, khó hiểu đối với các môn đệ, với nhiều người chúng ta hôm nay. Trong khi xã hội nào cũng chủ trương chống thất thoát, công minh sổ sách giấy tờ, phải kiểm soát chặt chẽ thu chi… Thế mà mà Chúa Giêsu lại nói, “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà mua lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón anh em vào nơi vĩnh cửu”. Khôn ngoan, biết tính toán, nhằm mưu ích cho chủ, cho mình thì dễ hiểu ; nhưng biết sử dụng tốt nhất điều kiện, khả năng, mình đang có để chiếm lấy hạnh phúc Nước Trời, không hề dễ dàng.
Biết rằng có sinh thì có tử, có học phải có hành, được chủ tín nhiệm, giao phó chức quyền, phải có lúc báo cáo cho chủ về việc làm của mình, đó là quy luật. Nhưng để có thời gian như người quản lý nhanh chóng tận dụng tốt nhất cơ hội của mình, thật là quý báu. Biết lấy ngắn nuôi dài, biết tính toán để thu lợi nhuận, thì người ta cũng phải biết đầu tư cho tương lai, biết tìm kiếm hạnh phúc hiện tại, hẳn cũng phải biết xây dựng hạnh phúc bền vững mai sau. Kinh nghiệm tiền nhân cũng nói rằng: thế gian chuộng của chuộng công, nào có ai chuộng người không bao giờ. Nếu không đóng góp công sức, không chung tay xây dựng giang sơn, sẽ chẳng ai lưu truyền danh phận ta cho hậu thế làm gì.
Chúa Giêsu cũng gián tiếp nhắc nhớ chúng ta như người quản lý, rất cần biết đến nghệ thuật sử dụng tiền của, như một minh chứng cho sự khôn ngoan và trung tín về tình yêu của ta đối với Ngài. Để biết công việc quản lý hiện tại của mình là linh mục, tu sĩ, là cha mẹ, ông bà…, hoặc biết số tài sản, khả năng hiểu biết của mình, không khó. Nhưng để biết những gì ta đang có là ơn ban, là trách nhiệm, cần sử dụng cách khôn ngoan, hợp lý với thời gian, rất cần đến sự nhanh nhạy như Chúa nói: “ai trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn”.
Tục ngữ có câu: không tiền không gạo, mạnh bạo xó bếp. Đúng là nghèo hèn thì chẳng làm gì được, người nhà khinh trước, làng nước khinh sau. Không tài giỏi, không đức độ, cũng trở nên vô dụng trước xã hội trần thế này. Nhưng không phải thế, với niềm tin Kitô giáo, được sinh ra làm người, mỗi chúng ta đã là một công trình của Thiên Chúa. Ngài trao ban chức quản lý, và môi trường gia đình, xã hội, chính là điều kiện để nuôi dưỡng đức tin, và phát triển ơn ban, chu toàn bổn phận của ta với Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Mỗi người Kitô hữu chính là những quản gia, chúng ta phải biết để sống cho hạnh phúc tương lai, để trả lẽ về ơn ban, về quỹ thời gian mà mỗi chúng ta đang trung tín sử dụng nhưng thế nào rồi. Amen.
Sống là một hành trình luôn chuyển động, như tiết trời mưa nắng bốn mùa: xuân, hạ, thu đông TN 25-C175
Sống là một hành trình luôn chuyển động, như tiết trời mưa nắng bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Con người là một hữu thể xác hồn. Đa chiều và đa phức. Ngoài nhu cầu ăn uống, hưởng thụ, con người còn cần đến nhu cầu tâm linh. Trong thực tế, nhất là trong một thế giới phát triển cực độ của ngày hôm nay. Hình như người ta chỉ nghĩ đến một phần của thân xác, còn phần tinh thần đôi khi bị xem nhẹ hay thậm chí bị bỏ rơi. Đức Giê-su muốn mỗi người hãy có những cách thức hành xử khôn khéo, để chẳng những mang lại lợi ích cho trần đời, mà cũng không mất phần thưởng Nước Trời.
Đừng vội vã để cho rằng, Chúa Giê-su khen anh Quản gia bất lương, vì bất lương làm sao để làm gương được cho mọi người. Chúa Giê-su khen cái cách mà anh ta hành xử, khi phải đối diện với thực tế đe dọa đến vận mệnh, và tương lai của mình: mất việc, mất hết tất cả, thay đổi sẽ vô vàn khó khăn, vì cuốc đất thì không nổi, ăn mày hổ ngươi. Trước tình cảnh này, như người ta hay bảo: “
Cái khó, ló cái khôn”, và cái khôn của anh Quản gia là cách nhạy bén để có lối hành xử hết sức khôn ngoan, để một khi không còn được sự tín nhiệm của ông chủ, thì lại được bạn hữu tiếp rước, và vẫn có thể sống sung túc có khi còn hơn lúc đang làm quản lý. Từ câu chuyện thực tế của người Quản gia, Chúa Giê-su muốn dạy mỗi người, hãy có những cách thức khôn ngoan để thoát ra những cạm bẫy, những cám dỗ, làm tổn hại đến đời sống tâm linh của con người. Khi chúng ta rơi vào những hoàn cảnh éo le, hay những tình huống đe dọa nghiêm trọng đến đời sống luân lý hay đức tin, chúng ta sẽ làm gì để thoát ra? Đứng trước những chọn lựa: phá thai, ngoại tình, giết người, trộm cắp, thờ ngẫu tượng…Lương tâm chúng ta sẽ có những lối hành xử sao cho không rơi vào tội lỗi. Nhiều lúc chúng ta ngụy biện hay cảm thấy bình an với lương tâm sai lầm, hoặc đã chai lì như: cứ phạm tội rồi xưng tội, hay điều tôi làm là đúng mà. Thật khó để biện phân cho những việc làm cụ thể, và cũng khó tách rời giữa một đàng là thân xác, cùng với những nhu cầu, xem ra đôi khi hết sức là bản năng. Trong khi những phẩm giá cao cả của con người luôn được mời gọi, để không ngừng hoàn thiện như Đấng vốn vô cùng trọn hảo, tốt lành. Chúa không cấm làm giàu, nhưng làm giàu để sống có mục đích, như người quản lý khôn ngoan, dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, để khi mất hết thì còn có người tiếp
đón mình. Hay khi cuộc sống trần gian không còn nữa thì cánh cửa nước Trời lại mở ra, và ông chủ là Thiên Chúa cùng với các bạn hữu là những Thánh nhân sẽ đón tiếp chúng ta.
Không ai có thể làm tôi hai chủ, mỗi người có tự do để chọn lựa cho mình một lối đi riêng. Sao cho có thể nhạy bén để thích nghi, và khôn ngoan để tìm kiếm những chân lý trường tồn, cho mình và cho tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su, xin ban ơn soi sáng để giúp chúng con thực thi lời dạy của Chúa một cách đúng với thánh ý Chúa và đẹp lòng Ngài. Amen.
Ông chủ khen anh quản gia .... Đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong dụ ngôn mà Tin Mừng theo TN 25-C176
“Ông chủ khen anh quản gia bất lương đã hành động khôn khéo”. Đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong dụ ngôn mà Tin Mừng theo thánh Luca (16, 1-13) ghi lại. Ông chủ là ai? Chúa dùng hình ảnh ông chủ để ám chỉ chính Chúa. Hóa ra, Chúa Giêsu lại khen ngợi kẻ bất lương? Hay chúng ta phải hiểu thế nào?
Thật ra, Chúa không khen người quản gia bất lương vì chính sự bất lương. Chúa chỉ khen vì tính toán của anh ta nhanh nhạy, hành động của anh ta khéo léo. Dù gian lận, nhưng trong việc làm gian lận, anh ta xử lý hoàn cảnh của mình hết sức hợp lý, đúng thời điểm, đúng đối tượng cần thiết.
Khi anh quản gia đối diện với tình huống đe dọa sự sống của mình: sắp bị đuổi việc, bản thân tự biết rõ: cuốc đất không nổi vì không quen lao động chân tay. Nhưng đi ăn mày thì xấu hổ, vì từng làm việc quan trọng, ai cũng biết tiếng. Anh ta nhanh nhạy tạo tương quan, nhỡ sau khi mất việc, anh ta có thể có điều kiện để sống. Biết đâu anh còn được người ta đón tiếp, coi như ân nhân của họ. Chúa khen là khen điều ấy.
Ngay sau khi khen người quản gia bất lương khéo léo, Chúa Giêsu trao cho dụ ngôn một cái kết: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Dựa vào câu nói của Chúa, chúng ta bàn về sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa, bởi họ phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa. Họ trở thành con của sự sáng.
Khi cho biết con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng, là Chúa muốn nói rằng: Chúng ta không biết tính toán, thậm chí không thèm phản ứng để hành động chống trả những chước cám dỗ, những hoàn cảnh có thể làm cho bản thân sai đường.
Thực tế đời sống chứng minh: Đã quá nhiều lần, ta không nhanh nhạy để gìn giữ sự sống đời đời của mình. Những khi đồi diện với cám dỗ, nhất là những cơn cám dỗ về tội trọng đe dọa sự sống đời đời, dù biết mình là con cái sự sáng, ta đâu có tìm cách gấp rút thoát ra. Có khi ta lại còn muốn ở lỳ trong tội. Chính vì thế, ta đâu chỉ một lần phạm tội. Có thể nói, dấu ấn về tội lỗi là điều rất thật trên cuộc đời của từng con người.
Sở dĩ những con cái sự sáng không phản ứng đủ, kịp lúc để bảo vệ sự sống đời đời, là do ta ít để ý đến sự sống ấy, ít để nó lưu trú trong tâm trí ta. Trong cuộc đời, có quá nhiều thứ để con người quan tâm. Nhưng lý tưởng đời sống thiêng liêng để vươn tới sự sống đời đời, lẽ ra phải là mối quan tâm trên hết mọi quan tâm, dù là con cái sự sáng, nhưng lại không quan tâm, không thèm đếm xỉa, không tha thiết với nó.
Một trong những mối bận tâm, thậm chí trở thành đam mê, gây nên tội lỗi mà những con cái sự sáng vướng vào, đó là tham lam của cải. Chính trong bài Tin Mừng, Chúa trách thói tham lam này: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”.
Hơn bao giờ hết, thời đại mà mỗi chúng ta cùng đồng hành, đang bị nền kinh tế thị trường cuốn hút và vạch lối. Con người dễ có khuynh hướng tập trung vào sự sống thân xác, quên đi sự sống tinh thần. Lắm khi người ta còn sẵn sàng hủy diệt cả sự sống tinh thần, để phục vụ sự sống thân xác, nhằm tạo cảm giác sung sướng hơn, thỏa mãn nhiều hơn.
Đồng tiền dễ xâm lăng, chiếm ngôi “ông chủ” trong tâm trí nhiều người. Bởi thế, người ta dễ đánh giá nhau dựa trên giá trị vật chất. Người ta yêu nhau cũng nhìn vào túi tiền của nhau. Cha mẹ lập gia đình cho con cũng nhắm sự giàu có của kẻ sẽ phối ngẫu với con mình. Lập bè lập bạn, người ta cũng tìm sự tương đồng vật chất. Kẻ giàu tìm cách trưng bày sự giàu có. Kẻ nghèo cảm thấy mặc cảm, xa lánh nhiều người, nhiều hoàn cảnh…
Ước gì chúa ban cho ta giàu có, nói theo ngôn ngữ của Chúa: mua lấy bạn hữu đời này, để đời sau, có cả một đoàn thánh nhân đón nhận ta vào Nước Chúa.
Và nếu ta chưa giàu như người, ta cũng không lấy đó làm bức bối, tủi thân, mặc cảm, nhưng luôn biết hiến dâng sự thiếu thốn, sống tinh thần của mối Phúc đầu tiên: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Trong chính sự nghèo khó của mình, càng là điều kiện tốt để ta đồng cảm, yêu thương, chia sớt, trải lòng với anh chị em bên cạnh hơn.
Đừng để mình sống rồi cuối cùng phải xa Nước Chúa, bị đuổi khỏi tôn nhan Chúa đời đời. Có mấy điểm chúng ta cần rút ra cho chọn lựa để bảo vệ sự sống đời đời, để trở thành con cái sự sáng:
– Luôn hướng về Chúa, luôn để Chúa làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa, không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.
– Sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thật trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc trau dồi những nhân đức, tập sống vươn lên trong sự thánh thiện, trong lòng yêu mến Chúa.
– Khôn ngoan Thập Giá. Họ chấp nhận thập giá và hiến mình cho Thiên Chúa để mang lại lợi ích cứu độ cho chính họ và cho muôn người.
Vậy, trong từng ngày sống, chúng ta hãy thường xuyên tập luyện cho mình ngày càng biết khôn ngoan để thờ phượng Chúa, khôn ngoan luôn luôn để Chúa hướng dẫn và điều khiển đời mình.
Chúng ta cần sống siêu thoát với mọi của cải thế gian, để luôn đẹp lòng Chúa, luôn trung thành với lề luật Chúa suốt cả đời mình. Có như thế, chúng ta sẽ thật sự trở thành con cái của Sự Sáng, con cái của chính Thiên Chúa, Đấng luôn muốn ta thuộc về Người, Đấng sẽ ban sự sống đời đời cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết học đòi bắt chước nơi Chúa về sự khôn ngoan chọn lựa sống theo chân lý Chúa ban, để luôn luôn đứng trên mọi thứ cám dỗ trần thế gây bất lợi cho ơn phần rỗi của chúng con. Amen.
Theo Từ nguyên thì “đầu cơ” là hành vi của chủ thể, lợi dụng cơ hội của thị trường đi xuống để TN 25-C177
Theo Từ nguyên thì “đầu cơ” là hành vi của chủ thể, lợi dụng cơ hội của thị trường đi xuống để tích lũy sản phẩm, hàng hóa và sau khi thị trường ổn định trở lại thì bán ra để thu lợi. Đầu cơ chủ yếu là thu lợi nhờ chênh lệch về giá. Đầu cơ thường đi liền với tích trữ là hành động mua rất nhiều những hàng hóa, đồ dùng có giá trị, đợi nó lên giá rồi bán ra để kiếm lợi nhuận. Cứ tưởng cái cảnh gian lận và đầu cơ chỉ có ở thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, thật không ngờ cách đây hơn 2.000 năm đã diễn ra tai It-ra-en. Bài đọc 1 hôm nay (CN XXV/TN-C – Am 8, 4-7) trình thuật cơn giận của Đức Chúa đối với “bọn người gian lận và đầu cơ, đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ”. Đầu óc bọn họ luôn luôn “thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.”
Vấn đề gian lận trong việc cân đong mua bán (“lường thưng, tráo đấu”) ở Việt Nam đã có từ khuya. Về “cân” thi dùng loại quả cân nặng khi đi mua gom, tới lúc bán lẻ cho người tiêu dùng thì lại dùng loại quả cân nhẹ. Đến việc “đong” như đong thóc, gạo, ngô (bắp). đỗ (đậu), thì khoét những cái đấu, cái thưng (bằng gỗ xoan, gỗ mít) tuy rất đúng kích cỡ với khuôn mẫu, nhưng lòng đấu (thưng) nông hơn khiến dung tích (sức chứa) ít hơn. Ở miền Nam VN, thì dân có thói quen dùng lít để đong thóc, đong gạo. Khuôn mẫu là một lon sắt có dung tích 1 lít nước, khi đong thóc hay gạo thì xúc cho đầy, rồi dùng một khúc cây (gỗ hoặc tre, dài khoảng 20 cm) gạt miệng lon. Nguyên tắc thì khúc cây này phải thật thẳng, nhưng thường bị chuốt hai đầu (gần giống hình con thoi dệt cửi) để khi gạt thì mặt gạo ở miệng lon bị trũng xuống; ngoài ra, còn dùng búa hoặc chày đóng vào đáy lon cho lồi lên. Mặt gạo (thóc) ở phía trên miệng lon bị trũng xuống. ở dưới đáy bị trồi lên, khiến dung tích bị giảm bớt, mỗi lon gian lận được một ít gạo thóc, bán số lượng nhiều sẽ gian lận được số lượng lớn (“tích tiểu thành đại”). Thời gian gần đây sử dụng cân bàn thì tìm cách sửa lò xo cho kim chỉ nặng hoá nhẹ (khi mua) hoặc nhẹ hoá nặng (khi bán) xảy ra nhan nhản.
Đến bài Tin Mừng hôm nay (CN XXV/TN-C – Lc 16, 1-13) thì lại trình thuật cái tính gian lận của một người quản gia. Đó là dụ ngôn “Người quản gia bất lương”. Anh ta bị mất vịêc chỉ vì bản tính “là anh này đã phung phí của cải nhà ông chủ”. Nghĩ đến cái tương lai đen tối của mình, với bản tính bất lương ấy, anh ta lên kế hoạch bằng cách giảm nợ cho các con nợ của chủ, nhằm mục đích được hưởng sự đền ơn đáp nghĩa của họ (“để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 4). Hành động ấy đến tai chủ, ai cũng tin chắc chủ sẽ nổi cơn thịnh nộ, không ngờ chủ lại khen là khôn khéo. Cổ học tinh hoa Việt Nam cũng có một truyện kể về người quản gia có hành động tương tự (xoá nợ cho những con nợ của chủ mình), nhưng mang một ý nghĩa khác, đó là truyện “MUA NGHĨA”:
“Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?” Mạnh Thường Quân nói: “Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì, thì mua.”
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại, bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả.” Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: ‘”Nhà tướng quân châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép Tướng quân, đã mua về.”
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau, Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh vì tôi mua ‘nghĩa’, cái nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.” (Quốc Sách – “Cổ học tinh hoa”, quyển Thượng, tr. 157).
Hai con người có cùng một cương vị (quản gia), cùng một việc làm, nhưng ý nghĩa khác hẳn nhau, ấy cũng chỉ vì mục đích của vịêc làm trái ngược nhau. Người quản gia trong “Cổ học tinh hoa” xoá nợ cho các con nợ của chủ, vì nghĩ đến tương lai khi chủ mình không còn đắc thế như hiện tại, sẽ không bị lâm vào cảnh “giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, chẳng ai đoái hoài. Tất nhiên khi làm việc này, người quản gia cũng không quên nghĩ rằng lúc chủ được hưởng kết quả việc làm của mình sẽ không quên ơn mình (“vinh cùng hưởng, hoạ cùng chịu” là vậy). Còn người quản gia trong bài Tin Mừng thì hoàn toàn khác hẳn. Anh ta chỉ nghĩ đến cá nhân mình (“Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 3-4).
Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Đức Giê-su Ki-tô muốn dạy môn đệ nên làm theo việc làm của người quản gia bất lương (vì được chủ khen). Thực chất, nếu đọc kỹ câu nhận định của Đức Ki-tô khi kết thúc dụ ngôn (“Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” – Lc 16, 8), thì vấn đề sáng tỏ ngay. Có thể diễn nôm câu này: Con cái trần gian ranh ma quỷ quyệt hơn con cái Thiên Chúa. Rõ ràng Đức Ki-tô không dạy nên bắt chước làm theo tên quản gia bất lương. Bởi tiếp liền sau dụ ngôn này, Người dạy “trung tín trong việc sử dụng tiền của” (“Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” – Lc 16, 10-12).
Cái hấp lực (sức quyến rũ) của tiền bạc quả thực là ghê gớm. Có nó là có tất cả, bởi “Đồng tiền liền khúc ruột”, và cũng bởi “Đồng tiền là tiên lả phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khoẻ của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân”. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” là vì thế. “Có tiền mua tiên cũng được” cũng là vì thế! Đến như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn phải thốt lên: “Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử, Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi”, hoặc như Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.” Thật đúng là “Hoàng kim hắc thế tâm” (tiền vàng làm đen tối lòng người). Vì tiền bạc mà vợ chồng lục đục, cha mẹ con cái bất hoà, anh em chia rẽ, gia đình ly tán. Rộng ra hơn nữa, trong hội đoàn, làng xóm thì chia bè kết phái tranh giành đấu đá nhau. Đến như một quốc gia, hay trên thế giới, các cuộc chiến tranh (tuy có nhiều hình thái và khoác nhiều bộ mặt khác nhau), nhưng chung quy phần lớn đều do tiền bạc của cải mà ra cả.
Suy cho cùng, tiền của là do con người sáng tạo ra để trao đổi mua bán thực phẩm, vật dụng phục vụ cho đời sống, đáng lẽ ra con người phải làm chủ và dùng nó như một phương tiện mưu sinh. Không dè đến một lúc nào đó, nó lại quay ngược làm chủ con người, khiến con người trở nên như một đầy tớ, và từ đó sinh ra đủ thứ chuyện, đủ thứ tội ác. Vâng, của cải tiền bạc thế gian có thể là một tên đầy tớ trung thành, nhưng cũng có thể trở thành một ông chủ bất lương. Ăn thua là người có nhiều tiền của đã coi nó như một phương tiện sống, hay quỵ luỵ nó và coi nó như một ông chủ với thế lực vạn năng. Chính vì thế, Đức Giê-su mới dạy: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 13).
Nói về tiền của thì không biết thế nào là cùng, dù ai cũng luôn miệng bô bô “tiển của chỉ là phù vân”. Trong kinh Lạy Cha, lời cầu xin đầu tiên cho bản thân là “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Muốn có lương thực thì phải lao động, phải vã mồ hôi, vắt sức ra, chớ không thể “há miệng chờ sung rụng”. Có thể không trực tiếp làm ra lúa gạo lương thực, nhưng vẫn có thể làm công việc khác kiếm tiền để mua lương thực. Kiếm tiền mưu sinh là lẽ đương nhiên, Chúa không cấm cản, nhưng kiếm tiền theo kiểu bất lương như anh chàng quản gia trong bài Tin Mừng thì dứt khoát không được.
Nếu là dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của trở nên những phú gia địch quốc, những đại gia vô địch thì đó không phải là một cái tội; nhưng khi sử dụng những tiền của ấy thì phải biết cách sử dụng, phải coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không thể coi nó như một ông chủ, một bà chúa. Làm giàu bằng chính mồ hôi nước mắt của mình thì chẳng có gì đáng trách, nhưng làm giàu bất chấp thủ đoạn, làm giàu theo kiểu “ích kỷ hại nhân”, thì dứt khoát không chấp nhận. Khi sử dụng tiền của của chính mình thì không xa hoa phung phì, phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”. Của cải dư thừa thì phải nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Chỉ có như thế, vâng, thực sự chỉ có như vậy mới xứng đáng “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô”. Vẫn còn đó tấm gương tổ phụ Ap-ra-ham (St 13, 1-4); ông Gia-cóp (St 13, 1-43); ông Gióp (1, 1-3; 42,10-15); vua Sa-lô-môn (2Sb 9, 22; Gv 2, 9) là những người giàu có nhưng khôn ngoan biết nghe Lời Đức Chúa mà thương người nghèo khổ, hoạn nạn.
Tóm lại người Ki-tô hữu chân chính hãy khắc ghi trong lòng Lời dạy: “Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn… Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 9-13).
Vâ nếu có đầu cơ tích trữ thì xin hãy dùng những tiền của mình tích trữ được mà gửi vào kho tàng Nước Trời, như Lời dạy của Đấng rất nghèo ở trần thế nhưng lại rất giàu – giàu vô kể – tại Nước Trời. Đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, Người đã dạy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6,19-20; Lc 12, 33-34). Nói cách cụ thể là hãy đến với “những kẻ đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội”, mà chia sẻ những của cải mình đã tích trữ được (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus” số 15). Ước được như vậy. Amen.
Là một lựa chọn sau một lúc khẩn trương suy nghĩ đi đến quyết định gắn với hành động. Hành động TN 25-C178
Là một lựa chọn sau một lúc khẩn trương suy nghĩ đi đến quyết định gắn với hành động. Hành động nhằm vượt qua bước ngoặc đang rối bời, đối phó với khủng hoảng trầm trọng bất lợi cho bản thân đang xảy đến. Lời như thế không ai cũng có thể dễ dàng nói được.
Phần ĐGS, sau khi giải bày thiên ý Chúa Cha cho những người Pharisêu và kinh sư phải có tâm tình và ứng xử thế nào dành cho tội nhân, họ đã rõ. Người quay lại nội bộ nói với các môn đệ về vai trò người phục vụ, phục vụ như một người làm công cho ông chủ phú gia. Điều này ĐGS đã không ít lần giáo huấn các môn đệ. Như trước đây ở chương 12, nói về tác phong trọn hảo đáng thưởng của người đầy tớ tín trung, sẵn sàng gác cửa luôn trong tư thế gìn giữ bản thân thật tốt chờ đợi ông chủ đi ăn cưới về. Phêrô lên tiếng hỏi: ‘Thầy nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người’? Người đáp: ‘Vậy ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc’? Chủ bao giờ cũng dạy bảo và nhắc nhở người quản gia phân phát phần cho mỗi người phải chính xác đúng người đúng công, không mưu tính thêm bớt gây uy thế hay lợi lộc về phía mình.
Với ba bài đọc của CN hôm nay, có nội dung hòa quyện làm tăng lực xác tín giáo huấn của ĐGS.
Bài đọc 1, trích sách Amos. Ở đây Amos nhận lệnh Chúa sai đi đến với mọi người cảnh báo họ để phòng về cách sống thao túng lạm quyền của một số người vô đạo. Là những người đáng ra phải rất trân trọng những ngày truyền thống cố hữu thì lại coi thường, còn mong cho những ngày ấy chóng qua để được tự do hành động tránh phạm luật, như những ngày mồng một đầu năm, ngày Sabat trong tuần. Với người nghèo khó, cô thế cô thân, họ dùng đủ mọi chiêu trò bóp chẹt, ăn chận mà không hề nghĩ lại để còn dành chút thương xót. Chúa thề với Amos: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng’ (c.7).
Bài đọc 2, Phaolô trong tư cách người được Chúa chọn đặt làm người rao giảng và làm tông đồ, nghĩa là Chúa đặt ngài làm Thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý (c.7), Ngài truyền cho Timôthê hãy khuyên bảo mọi người: ‘Ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh’ (cc.1-2). Với Phaolô, ngài không chỉ khuyên dạy mà còn làm tất cả mọi sự nơi bản thân ngài như một gương sáng đỉnh cao dành cho hết mọi người để mọi người trở nên đẹp ý Chúa.
Bài đọc 3, ĐGS trong Tin Mừng Luca, đã kể cho các môn đệ câu chuyện về người quản gia giúp việc ông chủ siêu phú gia. Ông này, sau một thời gian làm việc ở nhà ông chủ, tai tiếng xấu về hành vi quản gia đã đồn thổi đến tai ông chủ. Ông chủ cho gọi lên và cho biết ông bị cách chức quản gia. Từ đầu câu chuyện đến kết thúc, không nghe thấy một lời hạch tội, phê phán chỉ trích. Chỉ đơn giản gọi bằng một danh gọi tổng quát, một thuật ngữ ‘quản gia bất lương’. Thế mà ông lại được chủ ngợi khen là ‘quản gia khôn khéo’. Đức tính ‘khôn khéo’ ở đây là trọng tâm giáo huấn của ĐGS dành cho các môn đệ. Người muốn các môn đệ có được và trở nên như vậy.
Ở lãnh vực nào ĐGS ngợi khen ông là khôn khéo? Khôn khéo: ưu tiên là tự biết mình. Ông biết ông là ai ở giữa đời này với bao khó khăn chồng chất: ăn mày thì hổ ngươi, cuốc đất không sức làm. Ông nhìn về tương lai tìm ra ánh sáng giữa hàng trăm hằng ngàn con nợ của chủ mà ông thừa biết đã qua, sống chết còn dan díu, từ hôm nay nữa, dưới năm ngón tay cầm bút ký của ông. Ông nhận ra tương lai ông còn tràn hi vọng từ những người nợ ông chủ ấy. Ông hiểu ra cách để có được cuộc sống an thân những ngày tương lai ấy bằng xóa giảm nợ của chính ông áp đặt cho mỗi người tùy theo trước đây ông đã tính toán và ghi sổ làm bằng chứng để trả. Kẻ ít người nhiều miễn sao không phải lo hậu sự vì xâm hại đến tài sản và quyền lợi của chủ. Khám phá ra ánh sáng, lấy phần mình, áp dụng thiết thực hiện tại nhắm đến hạnh phúc tương lai như thế là bài học khôn khéo của người quản gia bất lương mà ĐGS muốn các môn đệ khắc ghi vào tâm khảm. Người quản gia còn quẩn quanh vì một tương lai trên cõi thế. Phần các môn đệ thì giải pháp đó là liệu pháp ưu việt để đối phó với tương lai trong mỗi bước thẳng tiến về Nước trời, cõi phúc đời đời. Người môn đệ đích thực là lữ khách muôn phương, ra đi chỉ để, thao tác bất cầu lợi, gieo hạt yêu thương vào đời như Thầy chí Thánh làm người trên dương thế. Có như thế mới xứng với lời TM từ miệng ĐGS đúc kết, đã nên danh ngôn TM: ‘Anh em không trung tín trong việc xử dụng tiền của bất chính, ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em’? (c.11).
Đến dây, thử nhìn về những kết quả từ giáo huấn của ĐGS vừa suy niệm, kết quả thấy được từ các môn đệ? Và ngày nay từ GH và Kitô hữu nói chung? Chắc ít nhiều cũng có. Nhưng thiết thân cũng có lắm lắm cá nhân thiếu thấm nhuần. Chẳng bao lâu khi này những ngày tới đây, Giuda cho thấy bài giáo huấn của Thầy không hiệu quả, vì ông ham tiền mà phản bội, bán Thầy để lấy tiền. Tệ hơn người quản gia bất lương. Với Kitô hữu ở thời đại nỗi trội về một nên văn minh tin học ngày nay, không bao người bằng lòng với lời cầu xin như Thầy đã dạy: ‘Hằng ngày dùng đủ’ hay tin vào lời TV 126: ‘Dù bạn có thức khuya hay dậy sóm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Người được Chúa thương dầu có ngủ, cũng được Chúa ban đủ tiêu dùng’ (c.3-4). Bởi gốc cội vấn đề là ở lòng muốn của con người. Không ai không muốn có. Có những gì mình chưa có hay đã có, nhưng khổ nỗi có ít không thỏa. Vì lòng muốn như vậy, nên lòng trong sạch dù có muốn giữ lấy, thật cũng khó: Phải chăng ‘Giáo huấn bất tòng tâm’?
Lạy ĐGS Thầy chí thánh. Con yêu mến Người. Con hằng khát khao chăm học với Người. Xin cho con đủ can đảm thực hành giáo huấn ‘tẩy trắng, trong sạch’ lòng trước mọi hình thức cám dỗ từ vật chất để được nhẹ bước tiến theo Thầy về cõi trời vinh quang.
Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng.... Đức Thánh Cha đã nói thứ thế với mấy chục TN 25-C179
“Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng ta hãy nhớ lời Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài để đuợc nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Đôi khi sự mệt mỏi của chúng ta phát xuất từ việc tin tưởng nơi các sự vật không phải là điều nòng cốt, và vì chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống”. Đức Thánh Cha đã nói thứ thế với mấy chục ngàn tín hữu hành hương sáng thứ Tư 14/09/2016 vừa qua tại Vatican.
Thực vậy, đến với Đức Giêsu để chúng ta được sự sáng của Ngài hướng dẫn cho chúng ta biết mình là con cái Ánh Sáng. Một cách đặc biệt trong năm nay, chúng ta mong ước sự sáng của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Ánh sáng đó được thể hiện một cách cụ thể qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay để chúng ta biết “điều nào là điều nòng cốt và thực sự có giá trị trong cuộc sống”.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Am 8, 4-7
Đoạn này Amos lên án những kẻ ham mê tiền bạc và những sự thuộc về thế gian này. Họ vẫn giữ luật lệ của cha ông họ trong những “ngày mồng một, ngày sabat”, nhưng họ cứ mong cho những ngày ấy mau qua để họ làm những việc sai trái: “Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”. Họ mua nô lệ, tuy giá của họ chỉ bằng một đôi dép, nhưng họ cũng không có tiền để chuộc… Những người này không mến Chúa cũng chẳng yêu người. Vì vậy Thiên Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. Chúng không thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về con cái ánh sáng.
Tin Mừng: Lc 16, 1-13
Câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của anh quản gia bất lương mà Đức Giêsu khen là hành động khôn khéo. Sự khôn khéo của anh ở chỗ biết sắp xếp “để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà”. Anh ta đã dùng chính những đồng tiền của ông chủ để bảo đảm đời sống cho mình. Qua đó Đức Giêsu dạy cho các môn đệ: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Sự khôn ngoan của con cái ánh sáng là biết sử dụng tiền của, mà họ chỉ là người quản lý như một phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng sự hiệp thông giữa con người với nhau… chứ đừng để nó trở thành một sức mạnh thống trị họ.
Đức Giêsu kết luận những lời huấn dụ hôm nay bằng một triết lý để con cái ánh sáng phải chọn làm châm ngôn sống cho mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. H. Cousin đã nhận định: “Qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi”.
Lời Chúa hôm nay là ánh sáng để chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô là Đấng đến thế gian này mà không bị lệ thuộc bởi những giá trị vật chất: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Ngài rao giảng và làm chứng cho một giá trị cao cả, đó là tình yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương chính là giá trị cốt lõi của Nước Trời mà suốt cuộc đời Đức Giêsu đã sống và rao giảng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải biết chọn lựa “giá trị nào là nòng cốt và thực sự có giá trị của cuộc sống”. Qua những giáo huấn và thực tế của cuộc sống, con cái ánh sáng phải biết rằng đó không phải là đồng tiền, là của cải vật chất, mà: “yêu thương là điều duy nhất để cho con vuông tròn nghĩa ân”.
II. LÀ CON CÁI ÁNH SÁNG
Chúng ta bước đi theo Đức Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian này, nhờ vậy chúng ta cũng được trở thành con cái Ánh Sáng. Vì vậy chúng ta phải cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền, đồng thời phải biết sống chia sẻ với nhau theo gương của Đức Giêsu là Ánh Sáng thật và là hình ảnh của lòng thương xót.
Cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền
Phải cảnh giác vì “đồng tiền là ông chủ xấu, nhưng lại là tên nô lệ tốt”. Cho nên phải luôn luôn ý thức để sử dụng đồng tiền đúng đắn, kẻo chính nó sẽ điều khiển cuộc đời chúng ta.
Có những người vì lý do làm ăn kiếm tiền mà không thể đến nhà thờ dự lễ; có những người để có tiền, họ sẵn sàng làm những nghề bất chính như thầu số đề, cò cá độ, hay chứa chấp mại dâm… Hơn thế nữa, để có tiền, có những người trộm cắp, cướp giật, gian lận… Đối với những người đó, họ đã tôn thờ đồng tiền, nó đã trở thành ngẫu tượng, đã trở thành ông chủ điều khiển cả cuộc đời của họ…
Trong khi đó có những người đã bắt đồng tiền trở thành nô lệ để phục vụ cho những giá trị tốt đẹp.
Người ta truyền tai nhau thông tin có một Công ty ở Sài Gòn, không rõ làm gì, nhưng điều người ta để ý là trong công ty đó có một ngôi nhà nguyện thật đẹp dành cho công nhân và những ai có nhu cầu tâm linh đến viếng Chúa, cầu nguyện, hoặc tĩnh tâm. Điều này làm cho tôi phải suy nghĩ đến việc giữa một xã hội mà người ta tận dụng mọi thời gian, mọi cơ hội để kiếm tiền, thì vẫn còn có người quan tâm đến nhu cầu tâm linh của chính mình và người khác. Thái độ đó cho thấy kiếm tiền là điều cần thiết (mới lập Công ty), nhưng không để đồng tiền chi phối cuộc sống mình (vẫn dành không gian và thời gian cho Chúa).
Chính khi người môn đệ Đức Giêsu dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, cho những giá trị tinh thần, cho việc thờ phượng Chúa, thì họ thực sự trở thành ánh sáng cho xã hội hôm nay.
Tuy nhiên điều quan trọng là làm sao để họ đừng để sức mạnh của đồng tiền chi phối đời sống của họ. Thế cho nên cần phải có sự cảnh tỉnh luôn luôn để đừng bị đồng tiền chi phối.
Sống chia sẻ với nhau
Ngoài việc cảnh tỉnh với sức mạnh của đồng tiền, ánh sáng Tin Mừng hôm nay còn đòi hỏi con cái Ánh Sáng phải biết sống chia sẻ với nhau.
Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè”, Người cắt nghĩa: “Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đây không chỉ là lời khuyên đạo đức, mà nó còn là cách sử dụng của cải trong mối tương quan với sự sống vĩnh cửu. Hành động của người quản gia là lấy phần lợi của mình để san sẻ cho người khác, hầu mai này họ tiếp đón mình. Đức Giêsu không kêu các môn đệ học hỏi thái độ của người quản gia bất lương, nhưng hãy bắt chước cái nhìn và ý hướng của anh ta, tìm cách để được bảo đảm cho sự sống mình, và đó là cách biết cho đi. Khi chúng ta biết chia sẻ, nó không chỉ là một cách ăn ở tốt, mà còn là chứng tá cho đời sống đức tin, vì chúng ta tin tưởng vào sự sống đời sau.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy cho con cái ánh sáng phải biết đề phòng trước sức mạnh đồng tiền, phải biết sử dụng đồng tiền cho đúng đắn hầu mưu ích cho cuộc sống đời này và cả cuộc sống đời sau. Đồng thời phải biết chia sẻ, cho đi để làm nên ý nghĩa của cuộc đời.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý mà TN 25-C180
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý mà chúng ta gọi là bất lương, để khuyên dạy chúng ta là những người tin mến Người, biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Thế nhưng chúng ta phải đặt dụ ngôn này vào giữa những bài Kinh thánh Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe để chúng ta có thể nhận ra và hiểu rõ ràng điều gì Chúa muốn nói hay muốn dạy chúng ta.
Vì vậy chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt, thật vậy, giáo huấn của Chúa dạy nằm ngay trong bài đọc này. Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Giê-su Ki-tô giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế và tài chánh phát triển mạnh và rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng đời sống và những sinh hoạt buôn bán, thương mại không còn tinh thần đạo đức, công bằng và bác ái gì cả. Họ không còn chú ý đến đời sống tôn giáo, tinh thần và không còn trung thành với Chúa. Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày lễ và những ngày nghỉ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Trong bối cảnh này, A-mốt được Chúa chọn làm tiên tri sai đi rao giảng lời Chúa dạy dỗ dân chúng. Ông lên tiếng khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại. A-mốt cho họ biết ngày Sa-bát, bây giờ là ngày Chúa nhật và những ngày lễ là những ngày nghỉ, họ phải đóng cửa tiệm và không được buôn bán, để dành thời giờ cầu nguyện và thờ phượng. Dân làm ăn, buôn bán, thương mại thù ghét ông và họ ghét những ngày như vậy, vì họ nghĩ bị thiệt thòi không buôn bán được gì. Thậm chí họ tỏ ra rất bực bội và khó chịu vì họ cho rằng làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ. Họ sốt ruột chờ những ngày ấy qua đi để mở lại cửa tiệm. Họ chỉ ao ước chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền không trừ bất cứ hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa. Họ đã bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, A-mốt cho họ biết, nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì như lời Chúa đã thề: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.” Tiên tri cảnh báo họ sẽ phải lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm.
Ðó là ý nghĩa và là bài học của lời Chúa trong bài đọc 1 cho chúng ta hôm nay, và đưa chúng ta đến bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Chúng ta sẽ thấy ở đây bài học chính không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên, lời dạy bảo của Chúa về thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, nhất là phải biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống đời sau. Thật vậy, tác giả Lu-ca thường hay dùng một câu chuyện để đưa vào một bài học. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Vì là điều phụ thuộc, nên Luca không quan tâm cho chúng ta biết đầy đủ mọi chi tiết của câu chuyện. Người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chúng ta không được rõ. Chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí, phá tiền của chủ. Ông chủ gọi anh ta đến để báo tin ông ta sẽ cho anh nghỉ việc. Thật là một tin bất ngờ sét đánh. Bị tống ra khỏi nhà anh sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Cuốc mướn thì không có sức, đi ăn mày thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách tìm được người để nhờ vả. Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh. Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó là sự khôn ngoan thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Người đã không khen các việc làm của người quản lý kia vì anh ta là kẻ bất lương mà! Nhưng Chúa phải nhận rằng anh ta khôn khéo và mau lẹ. Và chúng ta nhận thấy Chúa cảm thấy đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời và khi người ta, nhất là những người tin vào Chúa, không mau lẹ và khôn khéo như vậy.
Ông bà anh chị em thân mến.
Vì yêu thương Chúa Giê-su đã vâng lời Thiên Chúa Cha và khiêm nhường hạ mình sinh xuống trần, đem ơn cứu độ đến trong lời giảng dạy, qua những phép lạ lớn lao, biểu lộ lòng thương nhân từ và thương xót, cũng như gương sáng của Người, nhưng tại sao người ta hững hờ, lạnh nhạt, thờ ơ và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy! Gioan tẩy giả vị tiên tri tiền hô cho Chúa đã nói rằng: rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người, thế mà người ta vẫn lững thững. Họ không chuẩn bị sẵn sàng, mau lẹ sử trí đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương kia đã mau trí lanh lẹ đối với sự việc ở đời này. Và đó là điều đau lòng và đáng trách!
Ông bà anh chị em thân mến. Nếu “con cái đời này“ biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta là những người có đức tin, là những Ki-tô hữu và cũng là “con cái sự sáng“ lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai? Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, sao chúng ta lại không biết sử dụng của cải tạm bợ, chia sẻ với người nghèo khó, hay quảng đại làm sáng danh Chúa để mua lấy Nước Trời! Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ“ là sử dụng tiền của để bảo đảm cho chúng ta của cải chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã trao ban, chúng ta chia sẻ, chúng ta quảng đại. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa“.
Chúng ta khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà còn phải cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền của vật chất đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước những giá trị tinh thần lời Chúa dạy bảo. Chúng ta phải chú ý, những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này phải là phương cách đưa chúng ta đến gần, hay sống mật thiết với Chúa, đừng để tiền bạc, của cải, vật chất trở thành ông chủ và làm cho chúng ta xa Chúa.
Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện; dùng Tiền Của như phương thế, bởi TN 25-C181
TMĐP- Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện; dùng Tiền Của như phương thế, bởi đó là sự khôn ngoan của người không chọn Tiền Của nhưng chọn Thiên Chúa làm chủ đời mình.
Tin Mừng của hai chúa nhật 18 và 23 vừa qua đã đề cập đến việc sử dụng tiền của. Chúa nhật này, một lần nữa Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa quytế liệt hơn: hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của, mà không thể cả hai, vì “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”(Lc 16,13).
Khi nói điều này, ít nhiều Đức Giêsu đã làm chúng ta ngạc nhiên khi cho Tiền Của một vị thế quan trọng ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài còn làm chúng ta sững sờ khi tỏ ra ủng hộ “tên quản gia bất lương đã hành động khôn khéo”(Lc 16,8), khi biết mình sắp mất việc, vì bị tố cáo đã phung phí tài sản của chủ.
Biết mình “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”(Lc 16,3), anh ta liền gọi các con nợ của chủ đến mà bớt nợ cho họ bằng chiêu thức: người mắc nợ ông chủ một trăm thùng dầu, anh ta bảo viết lại giấy nợ năm chục thùng thôi; kẻ khác mắc nợ một ngàn gịa lúa, anh bảo chỉ viết tám trăm thôi (x; Lc 16,5-7) với hy vọng “sẽ có người đón rước mình về nhà họ”(Lc 16,4) sau khi bị đuổi việc.
Thực ra, khi làm chúng ta ngạc nhiên và sững sờ như thế, Đức Giêsu muốn đánh thức chúng ta ra khỏi cơn mê Tiền Của, bởi Tiền Của có sức ma mị làm chúng ta mù quáng trở thành nô lệ của nó, khi thoái hóa thành những kẻ lưu manh lừa đảo, và tàn ác bóc lột, “đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ”(Am 8,4). Tiền Của còn là cạm bẫy làm cạn kiệt lòng nhân ái, phá hủy nhân cách, hạ thấp nhân phẩm khi biến trái tim ta trở nên chai đá, vô cảm như người phú hộ đã không chút chạnh lòng thương xót Ladarô, người ăn mày cùng khốn ngày này qua tháng nọ nằm vất vưởng, mình mẩy đầy mụn nhọt, đói khát, rách rưới trước cổng nhà ông cho đến chết (x. Lc 16, 20-22).
Làm ngạc nhiên, sững sờ các môn đệ khi kể cho các ông dụ ngôn người quản gia bất lương, Đức Giêsu hoàn toàn không đồng tình ủng hộ chiêu trò ma mãnh bất chính của người qủan gia này, nhưng qua hành động khôn khéo của con cái thế gian của người ấy, Ngài dậy các môn đệ phải khôn ngoan xử dụng Tiền Của để mua lấy bạn hữu là những con người thiếu thốn, nghèo khó như những con nợ của ông chủ, hay như người ăn mày Ladarô ở đời này, nhưng sẽ là những hoàng tử ở đời sau trong Nước Thiên Chúa như thánh vịnh nói về họ: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người “(Tv 112, 7-8). Nói cách khác, Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện chứ không như ông chủ thống trị ta để làm bạn với những người nghèo bằng giúp đỡ họ; dùng Tiền Của như phương thế, mà không như mục đích để làm thân với những người kém may mắn bằng chia sẻ với họ, bởi đó là sự khôn ngoan của người không chọn Tiền Của nhưng chọn Thiên Chúa làm chủ đời mình.
Quả thực, mãnh lực của Tiền Của thì luôn dữ dội và có sức cuốn trôi, vùi lấp chúng ta xuống tận vực sâu đời sau bất hạnh, như người phú hộ không có lòng thương xót từ “âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm “(Lc 16,23-24), nhưng đã chẳng ai làm được gì cho ông ta, vì một vực thẳm lớn đã ngăn cách hai bên, không bên nào qua được bên nào (x. Lc 16, 26).
Người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể không đáng tin tưởng và không thật thà. Rõ ràng TN 25-C182
Người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể không đáng tin tưởng và không thật thà. Rõ ràng là ông ta đã sống như thế trong một thời gian khá lâu. Điều đó có thể lúc đầu nó không thể hiện rõ ràng, nhưng sau cùng lại trở thành cách sống của ông ta. Ông ta lẽ ra phải biết là mình đang sống trong tình trạng nguy hiểm. Nhưng ông đã mặc kệ nó suốt một thời gian dài, vì thế ông lẩn tránh những cuộc xét mình chung và ngay cả việc tự kiểm điểm bản thân mình. Tuy nhiên, dù có xảo quyệt đến đâu, cuối cùng ông cũng bị phát hiện, và ông chủ đã đối chất với ông về công việc quản lý tồi tệ của ông.
Điều đó hẳn làm ông đau lòng và nhục nhã. Không chỉ có nguy cơ bị mất việc, mà ông còn mất cả danh dự nữa. Ông đã làm cho chính bản thân ông và gia đình phải nhục nhã và xấu hổ, nếu ông ta có gia đình. Tuy nhiên, đó lại là khoảnh khắc của sự thật và đã vén lên bức màn bí mật, bởi vì nó cho ông thấy rõ ràng sự gian dối mà ông ta đang phạm phải trong cuộc sống. Nó cho ông cơ hội để lại sau lưng mọi ảo tưởng và dối trá. Từ đó, nó có thể là cột mốc thay đổi cuộc đời ông.
Nhưng rồi điều gì đã xảy ra ? Ông chẳng học được điều gì từ sự kiện đó. Ngay cả sau khi bị đuổi việc, ông ta vẫn tiếp tục duy trì sự gian dối của mình. Không có một chút thay đổi nào trong tính cách của ông ta. Ông đã từ chối lãnh trách nhiệm về quá trình hình thành bản tính nơi con người của ông.
Thật là khó khăn để thay đổi những thói quen trong cuộc sống. Dostoyevsky nói: “Phân nửa đời sau của con người được hình thành từ những thói quen ta có từ phân nửa cuộc sống đầu đời của ta.” Đây là một tư tưởng đáng sợ hãi.
Những khoảnh khắc đến trong cuộc sống của chúng ta, ví như đất sét một khi đã nắn thành hình và được nung trong lò thì hình thể của nó không thể biến đổi. Người gian dối sẽ mãi là người gian dối. Người tham lam sẽ mãi là người tham lam.
Một câu chuyện minh hoạ. Lần kia, vị ẩn sĩ đã truyền dạy cho các môn đệ một bài học khi đi ngang qua một khu rừng. Ông chỉ một cây sồi non và bảo môn đệ nhổ nó lên. Người môn đệ đó đã nhổ cây non lên với một tay. Sau đó ông chỉ một cây khác, lớn hơn cây đầu tiên một chút và nói người môn đệ hãy nhổ nó lên. Anh ta nhổ nó nhưng phải dùng cả hai tay. Sau đó ông chỉ một cây thứ ba lớn hơn và nói người môn đệ nhổ lên. Anh ta chỉ làm được điều đó khi nhờ một môn đệ khác giúp sức. Cuối cùng ông chỉ một cây khác lớn hơn và sai người môn đệ nhổ lên. Cho dẫu có sự trợ giúp của tất cả các môn đệ, anh ta cũng không thể làm được điều đó.
Vị ẩn sĩ kết luận: “Thói quen và đam mê cũng thế. Thời gian đầu tiên, trước khi nó kịp bắt rễ, ta có thể nhổ nó lên dễ dàng. Nhưng nếu ta cho phép nó bám rễ sâu, nó nghiễm nhiên trở thành những điều mà ta không thể nào nhổ nó ra khỏi bản thân được.”
Điều đó có lẽ cũng đã xảy ra với người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể. Ông đã trở nên quá quen với thói gian dối, vì thế ông không thay đổi được. Tuy nhiên, những gì không thể đối với chúng ta đều trở nên có thể với sự trợ giúp trong ân sủng của Thiên Chúa.
Câu chuyện cho thấy sự nguy hiểm của những thói quen xấu, đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của việc hình thành nên những đức tính tốt. Nếu sự gian dối có thể trở thành thói quen trong cuộc sống, thì đức tính thành thật cũng vậy. Tính thành thật có thể trở thành thói quen tự phát, bản chất thứ hai của chúng ta.
Làm sao một người có thể đạt tới được trạng thái hạnh phúc này ? Ta không thể qua một đêm mà có được nó, điều đó phải được học bằng luyện tập lâu dài. Ta không thể có được nó sau vài hành động tốt lớn lao, mà phải được hình thành từ những hành động nhỏ. Phần thưởng đích thật cho một việc làm tốt là ta có thể làm những việc tốt kế tiếp một cách dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ bé của đời thường có thể góp phần hình thành hoặc phá huỷ tính cách của một con người.
Nhiều loại chim có bản năng mạnh trong việc xác định tổ của mình. Chim hải âu là một ví dụ TN 25-C183
Nhiều loại chim có bản năng mạnh trong việc xác định tổ của mình. Chim hải âu là một ví dụ điển hình. Một con hải âu được bắt và đánh dấu bằng cách đeo vòng tại Wales. Sau đó nó được đem tới Boston, cách đó ba ngàn dặm, và thả tại đó. Hai tuần sau, nó đã trở về Wales, chính xác nơi nó bị bắt.
Bản năng này cũng được thấy ở con người, không chỉ về mặt thể xác. Con người biết trở về sau những kinh nghiệm đau thương, không phải chỉ về quê nhà mà là trở về với chính con người của họ. Trở về để cải thiện con người trước đây của mình. Bản chất bên trong của họ hầu như khó mà đụng đến. Thế mà, một số lại được trở nên phong phú thêm.
Nhà văn Ý, Primo Levi, trải qua một năm ở Auschwitz. Ông là một trong ba người đã trở về trong số 123 người trên chuyến tàu đó. Sau đó ông nói: “Giá như tôi đã không ở một nơi như thế, có lẽ tôi đã hạnh phúc hơn và bình an hơn, nhưng tôi sẽ không giàu có”, dĩ nhiên là ông không nói đến sự giàu có về tiền bạc.
Nói chung, bản năng trở về là một nhân tố tích cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang yếu tố tiêu cực. Sự thôi thúc trở về đã chặn đứng con người trước những cơ hội và khả năng mới, và đòi hỏi thực hiện cuộc hoán cải cuộc sống với những khó khăn và đau đớn. Con người phải biết trở về từ những cuộc chạm trán gần kề với cái chết nơi cuộc sống nông cạn, tầm thường, thậm chí cả ngay khi sống trong tội ác và lỗi lầm.
Chúng ta lấy ví dụ điển hình trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người quản lý. Khi bị phát hiện, điều đó hẳn là điều đau lòng và nhục nhã đối với ông, nhưng đó cũng có thể là khoảnh khắc của sự cứu độ, bởi vì nó cho ông thấy thực tại đầy gian dối mà ông đang phạm phải trong cuộc sống, nó có thể là thời điểm để ông hoán cải. Nhưng điều gì đã xảy ra ? Ông vẫn tiếp tục lối sống gian dối trước đây của mình. Không một chút thay đổi trong tính cách của ông.
Bản năng quay trở về là lối thoát hoặc gây cản trở tuỳ thuộc vào ‘ngôi nhà’ thực sự của chúng ta đặt nơi đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ trở về với ánh sáng và những người sống trong bóng tối hầu như sẽ trở về với bóng tối.
Một cội rễ vững chắc, từ đó vươn lên một thân cây thẳng đứng thì vẫn đứng vững sau bão tố ; trong khi một cội rễ vững chắc, vươn lên một thân cây cong queo thì nó cũng sẽ bị cong xoắn như vậy. Khi chúng ta làm tổn thương tính chính trực, mặc dù chúng ta không mất đi nhân tính của mình, nhưng chúng ta mất đi cảm thức của chúng ta về sự toàn vẹn. Chúa Giêsu không đề cao người quản lý đồi bại như một mẫu gương. Người nói rằng con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Con cái thế gian thì siêng năng, chuyên tâm để đạt tới điều kết thúc xấu xa của chúng. Con cái ánh sáng, ngược lại, thường không làm gì cả. Và tất cả những gì mà con cái thế gian thực hiện để nhằm đạt được chiến thắng, lại là những điều con cái sự sáng sẽ không làm như thế.
Lòng tham tiền đã đưa đến sự huỷ hoại biết bao nhiêu người. Hầu như mỗi ngày chúng ta đều TN 25-C184
Lòng tham tiền đã đưa đến sự huỷ hoại biết bao nhiêu người. Hầu như mỗi ngày chúng ta đều đọc được trên báo chí về một số vị bộ trưởng cấp cao, hoặc một số vị trong những nhà lãnh đạo kinh doanh lại là những bị cáo trong những vụ án tham nhũng. Một trong những trường hợp khét tiếng nhất trong thời gian gần đây đó là Nicholas Leeson, kẻ đã lũng đoạn ngân hàng Barings tại Luân Đôn.
Là con trai của một thợ hồ ở vùng Watford, ngoại ô Luân Đôn, Leeson chưa từng được đến trường đại học. Anh ta làm việc tại ngân hàng Barings với chức danh thư ký quèn, nhưng đã phất lên nhanh khi được giao cho việc trông coi hoạt động kinh doanh tài chính của ngân hàng tại Signapore. Anh ta làm việc rất chăm chỉ với nhiều tham vọng. Mức lương hằng năm của anh là 350.000 USD, cùng với những khoản lợi tức được chia thêm.
Nhưng anh vẫn không bằng lòng. Anh bắt đầu phát sinh việc buôn bán, và anh đã kiếm được những món lợi kếch sù tại ngân hàng. Lòng tham mỗi ngày càng tăng lên, anh ta che giấu một số vụ giao dịch kinh doanh với những ông chủ của anh. Cuối cùng, anh thực hiện canh bạc lớn ‘được ăn cả, ngã về không’ ; để rồi anh bị thất bại, và phá sản toàn bộ ngân hàng.
Trong những tình huống tương tự, người ta thường phải trả giá cho những hành động sai trái của mình những giá trị còn lớn hơn cả tiền. Họ phải trả với giá là bị đánh mất lòng tự trọng, phẩm giá và niềm hy vọng. Tất cả những phẩm giá có được trước đó, từ nay họ đều bị giảm thiểu.
Leeson nhắc cho chúng ta về người quản lý trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể. Hắn xem chừng giống như Leeson, một quản lý bị hư hỏng vì tiền. Trong thế giới chúng ta sống, coi trọng đồng tiền, nó sẽ dễ dàng trở nên thần thánh của ta. Chúng ta có thể đặt đồng tiền trước cả tính lương thiện, sự công bằng, thậm chí cả đời sống gia đình. Người ta bị tẩy não để rồi tin rằng càng sở hữu nhiều thì càng tốt. Con người bình thường bị sương mù che phủ đến độ không còn nhận ra đâu là tầm quan trọng thực sự hơn.
Ngôn sứ Amốt lên án những kẻ thờ lạy, ca ngợi Thiên Chúa trong ngày hưu lễ, nhưng lại bóc lột kẻ nghèo khó trong những ngày còn lại. Chúa Giêsu nói chúng ta không thể vừa phục vụ Thiên Chúa lại vừa phục vụ tiền của được. Cũng thế, chúng ta không thể vừa phục vụ người anh chị em chúng ta lại vừa phục vụ tiền bạc.
Lần kia, một người đàn ông giàu có nhưng keo kiệt đi đến vị thầy rabbi của ông để xin được chúc lành. Thầy rabbi chào hỏi ông ta một cách thân thiện và mời ông ta vào phòng. Sau đó đưa ông ta tiến đến khung kính cửa sổ, nhìn ra đường và nói: “Nhìn xem và nói cho tôi biết ông thấy gì ?”
Người đàn ông giàu có trả lời: “Tôi nhìn thấy một người đang đi bộ.”
Sau đó, thầy rabbi dẫn anh đến chỗ đặt một tấm gương lớn, và hỏi: “Nhìn vào tấm gương và nói cho tôi biết anh thấy gì ?” Người đàn ông trả lời: “Tôi thấy chính tôi”.
“Này ông bạn thân mến, tôi sẽ giải thích điều này cho ông bạn hiểu. Cửa sổ được làm bằng kính, và tấm gương soi cũng thế. Tuy nhiên, lớp kính của tấm gương soi đã được tráng thêm một lớp bạc. Khi bạn nhìn xuyên qua tấm kính trong suốt, bạn sẽ thấy người ta ; còn khi bạn phủ lên nó một lớp bạc thì bạn sẽ không còn thấy người khác nữa, lúc ấy bạn chỉ thấy có chính mình. Cũng thế, khi bạn chỉ quan tâm đến tiền, bạn sẽ chẳng còn thấy ai nữa và bạn chỉ thấy có chính mình.”
Chúng ta không thể có được sự mãn nguyện hoặc tìm được ý nghĩa nơi vật chất. Nhưng khi chúng ta hiến dâng chính mình để phục vụ người khác, điều đó sẽ đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc sống. Trao ban cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình được hiện hữu.
“Tiền có thể mua được cái vỏ bọc của mọi thứ nhưng không thể mua được cái cốt yếu bên trong. Nó có thể đem lại cho bạn thực phẩm nhưng không đem lại sự ngon miệng, đem lại cho bạn dược phẩm nhưng không đem lại sức khoẻ, đem lại sự quen biết nhưng không đem lại bạn hữu, đem lại sự phục vụ mà không đem lại trung thành, đem lại những ngày vui thích nhưng không đem lại bình an và hạnh phúc” (Henrik Ibsen).
Tin mừng Lc 16:1-13: Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Suy niệm:
Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh TN 25-C185
Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, con người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền, đến nỗi đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ. Thậm chí người ta coi lương tâm không bằng lương tháng, nên để cho đồng tiền lèo lái và quy định cả cách sống. Khi đó, họ xem Thiên Chúa như vắng bóng, nhân cách, lương tâm và liêm sỉ bị gạt sang một bên, con người ta sẵn sàng làm bất cứ việc gì thậm chí trái với luân thường đạo lý, với công bình bác ái. Lòng tham của con người không bao giờ cùng. Chính vì thế, trích sách tiên tri Amos đã phản ánh những kẻ đàn áp người nghèo khó: ngay trong những ngày lễ theo luật định như Mồng Một và Sabáth, những người tham lam chỉ giữ luật hình thức, mong cho ngày lễ ấy qua lẹ mau chóng để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm nhiều tiền. Họ dùng đủ cách gian lận "giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả". Họ còn khai thác và bóc lột những người nghèo. Những việc làm sai trái của họ đã bị Chúa lên án rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”.
Chỉ trong vòng hai tuần đầu tháng 9/2019, đã xảy ra hai vụ thảm sát rất man rợ tại miền Bắc Việt Nam. Nguyên nhân cũng vì tranh chấp đất đai, tiền bạc đã khiến trường hợp thứ nhất là người anh tuổi ngũ tuần sát hại cả nhà đứa em mình; trường hợp thứ hai người anh tuổi lục tuần thảm sát cả nhà em gái. Quả là đồng tiền nó bạc bẽo lắm, và khiến người ta trở nên lạnh như tiền. Mãnh lực đồng tiền đã khiến huynh đệ tương tàn, thủ phạm thậm chí đoạt mạng ngay cả người cùng máu mủ. Đâu rồi “Anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc dỡ hay đỡ đần”, đâu rồi “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”?
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn kể về viên quản lý. Quản lý là người mà chủ rất tin tưởng, giao cho việc thay mặt chủ để thu xếp nhà cửa trong ngoài, ngay cả tài sản của chủ, miễn sao sinh lợi cho chủ là được. Thế rồi có người tố cáo với ông chủ về anh quản lý đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản lý nặn đầu bóp trán tìm cách lo cho cuộc sống tương lai vì anh sắp bị mất chức, nhưng cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Anh nghĩ ra một mánh lới có thể vớt vát để sau khi mất chức quản lý, sẽ có người đối đãi tử tế với anh. “Thế rồi anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ một trăm thùng dầu thì anh bảo người ấy lấy văn tự, ngồi xuống và mau viết lại: năm mươi. Người nợ một trăm giạ lúa miến thì anh bảo người ấy viết lại: tám mươi.”
Chúa Giêsu gọi anh là người quản lý bất lương chính bởi bản chất con người của anh đã phơi bày công khai. Những người mắc nợ chủ phải trả phần vốn và phần lãi là chuyện đương nhiên, nhưng anh lại ăn lời cắt cổ trên xương máu người nghèo lên tới 20% lãi suất; ai mà anh thấy chém đẹp được thì anh tăng lên tới 50%. Anh qua mặt chủ mà tự đặt giá, qui định những tiêu chuẩn, mặc kệ tai tiếng cho chủ bị xem là tay cường hào ác bá, anh thậm chí bán rẻ danh dự ông chủ để mua lấy lợi lộc cho cá nhân và gia đình.
Nhưng Chúa Giêsu cũng phải phục sự suy tính của anh khi Người bảo: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Người quản lý đã khôn lõi theo kiểu thế gian, anh luôn biết đón hướng gió mà nương. Anh vận dụng tất cả sự khôn ngoan và sắc bén trong làm ăn để biến tiền của thành một phương tiện, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp anh về nhà họ, vì anh được tiếng là biết thương người anh em, giảm cho các con nợ tới cả một nửa.
Vậy chúng ta là con cái nước trời, chúng ta dược mời gọi nhận ra những người đói khổ quanh chúng ta là anh chị em mình. Vậy còn chờ chi khi chúng ta chưa dùng tiền của giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, dùng tiền của để sống bác ái, vì khi cho một người nghèo, mình sẽ học được sự quảng đại bằng hành động, tinh thần biết sẻ chia, lấy tiền bạc mua lấy bằng hữu. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tiền của còn có thể giúp chúng ta loan báo Tin Mừng khi người khác tìm thấy Chúa Kitô nơi các Kitô hữu, vì chỉ có Chúa, con người ta mới sống tốt hơn, mới sống xem nhẹ tiền bạc, mới vượt qua những ích kỷ nhỏ nhen trong cuộc sống con người để sẻ chia cho anh chị em ngay cả khi mình chưa có khá giả gì.
Để có thể sống đức Ái cách tốt đẹp, thánh Phaolô còn dạy chúng ta cầu xin cho những người đứng đầu và những nhà lãnh đạo quốc gia luôn đối xử công chính liêm minh để dân chúng được an cư lạc nghiệp, làm ăn lương thiện, khi ngài gởi những dòng sau đây cho môn đệ Timôthê rất chân thành: “Hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.” Vâng, khi một chính quyền biết lo lắng cho quyền lợi của dân chúng một cách đúng mức, người dân sẽ ý thức sống đúng pháp luật, không làm ăn gian dối, không mua gian bán lận, không bất chấp mọi cách để có đồng tiền.
Lạy Chúa, mỗi khi con cầm một đồng tiền trên tay, xin cho con ý thức xem đồng tiền chỉ là một công cụ để con sống xứng danh con Chúa, không quên nâng đỡ hoàn cảnh của anh chị em đang sống quanh con. Amen.
Người đời hôm nay cho rằng tiền bạc là những thứ đem lại cho cuộc sống giàu sang, sung sướng TN 25-C186
Người đời hôm nay cho rằng tiền bạc là những thứ đem lại cho cuộc sống giàu sang, sung sướng, muốn gì được nấy, “có tiền mua tiên cũng được” nên họ coi “Tiền là tiên là phật, là sức bật của thanh niên, là sức khỏe của tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng che thân”. Tuy nhiên, đó chỉ nhận định phiến diện về giá trị của đồng tiền vì trong thực tế, chúng ta vẫn thấy nhan nhãn có những người giàu có nhưng họ sống siêu thoát với đồng tiền, họ không tiếc xót bỏ ra từ vài đồng bạc cho đến hàng tỷ đồng để giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật, những người vô gia cư, những trung tâm nuôi các cô gái lầm lỡ, hay những người lo chôn cất hàng trăm ngàn thai nhi vô tội sát hại hằng ngày…
Ngược lại, trong xã hội cũng có những người dùng tiền của để ăn chới phung phí sa đọa, tội lỗi, hư hỏng. Hoặc có những gia đình giàu có nhưng cuộc sống hôn nhân thì ngột ngạt, vợ chồng xào xáo, đưa nhau ra tòa ly dị, chẳng hạn vợ chồng ông vua cà phê Trung Nguyên đến nỗi ông phải đau đớn nói giữa phiên tòa rằng: “Nhiều tiền để làm gì để bây giờ phải đưa nhau ra tòa ly dị nhục nhã vô cùng”. Cho nên, tục ngữ Việt Nam có câu: “Tiền bạc giết tâm hồn nhiều hơn là gươm giáo giết thể xác”. Vì vậy, ông bà ta nói chữ tiền luôn gắn liền với chữ bạc là đúng. Bạc không chỉ là một loại kim qúi, mà còn có nghĩa là bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền họ sẵn sàng họ đánh cha, mẹ, bỏ chồng, bỏ vợ con, vì tiền gian dối trong tình bạn hữu, lọc lừa họ hàng bà con lối xóm. Vì vậy, Trong tác phẩm “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Còn Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Chính vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta: “Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ không thể là ông chủ tốt được. Anh em hãy dùng tiền của mà mua lấy tình bạn hữu”. Qủa thế, tiền của chỉ là những thứ vô tri vô giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến đời sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương nhau, làm cho tình nghĩa anh chị em với nhau thêm đậm đà thắm thiết và dài lâu. Vì vậy, tiền chỉ là phương tiện giúp con người tạo tình nghĩa và hạnh phúc ở đời này, nhất là đạt tới Nước Trời, là sự sống vĩnh hằng mai sau. Cụ thể, Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh quản lý bất lương làm mẫu mực cho đời sống đức tin cho chúng ta. Nhưng có người hỏi rằng tên đầy tớ kia bất lương mà làm mẫu mực cái gì? Hắn gian dối như thế mà Chúa Giêsu khen, vậy Chúa Giêsu khuyến khích mình bất lương sao?
Không, Chúa Giêsu khen cung cách ứng xử của anh ta khi đối diện với mối nguy đe doạ đến sự sống còn của mình sau này. Anh ta giảm số nợ cho những con nợ để sau này có sa cơ thất thế, nghèo rớt mùng tơi thì họ sẽ cứu vãn mạng sống của anh. Nhưng mà sự sống anh tìm cách cứu vãn là sự sống nào? Nếu xét sự sống vật chất, cơm ăn áo mặc, thân xác này, anh thành công rực rỡ; còn nếu xét đến sự sống tâm linh, đời sống đức tin, anh ta thất bại vì anh bất lương thiện, thiếu trung thực, gian dối. Cho nên, Chúa Giêsu dạy không ai làm tôi hai chủ, vì nó yêu chủ này thì nó ghét chủ kia! Vâng, tiền bạc tự nó không tốt không xấu. Giá trị tốt hay xấu tuỳ thái độ của chúng ta khi sử dụng nó. Nếu tôi lấy sự sống thân xác làm giá trị tuyệt đối, thì tôi phải lao vào kiếm tiền cho nhiều dù phải gian xảo, mánh mung, lọc lừa, đàn áp hay bót lột, như thế thì sự sống tâm linh, lương tâm tôi bị đe doạ dễ trở thành người bất nhân bất nghĩa, bất hiếu và lương. Vì vậy, tiên tri Amos trong bài đọc 1 nói rằng Thiên Chúa lên án người có tiền của mà đối xử thậm tệ người nghèo, Ngài sẽ kết án những việc làm của họ trong ngày sau hết. Vì vậy, trong cuộc sống đời này, nếu chúng ta lấy Chúa là gia nghiệp, lấy Lời Chúa làm lễ sống, và lấy giá trị tình nghĩa con người làm tuyệt đối thì tiền bạc trở thành phương tiện phục vụ Thiên Chúa, làm rạng danh Thiên Chúa qua việc đóng góp theo khả năng cho nhu cầu vật chất của giáo Hội (điều răn Thứ 5 trong 5 điều răn Hội Thánh dạy). Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết dùng tiền của đệ tạo tình nghĩa con người với nhau qua việc giúp đỡ, sẻ chia tinh thần cũng như vật chất cho những người nghèo hơn chúng ta, đau yếu hơn chúng ta và tội lỗi hơn chúng ta…, chính lúc ấy, chúng ta đã đem lại hạnh phúc, bình an cho mình và cho tha nhân, đặc biệt là đem lại sự sống vĩnh hằng mai sau như Lời Chúa nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-36).
Vì yêu thương, Thiên Chúa giao cho chúng ta quản lý vũ trụ này, Ngài cho chúng ta quyền quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa, tức là không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát chúng theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới mọi người mọi nơi qua việc từ bi bác ái của chúng ta. Cho nên, chúng ta phải làm tôi Thiên Chúa vì Chúa là Đường, là Sự thật và là Sự sống và chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời và dẫn đưa chúng ta vào đường nẻo bình an. Ngược lại, nếu chúng ta làm tôi cho tiền của, cho qủy dữ chắc chắn chúng sẽ dẫn dắt chúng ta vào đường nẻo gian dối, tham lam, ích kỷ hưởng thụ, cuối cùng phải đau khổ và chết đời đời.
Vì vậy, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình khi sử dụng tiền bạc như thế nào, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn biết chế ngự được ma lực hấp dẫn của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc để tạo tình thương, tình nghĩa với nhau bằng việc bác ái và chia sẻ. Vì thế, hãy coi trọng con người và tình người hơn tiền bạc của cải vật chất. Bởi vì tiền bạc không tồn tồn mãi mà chỉ có tình nghĩa con người. Cho nên, nhạc sĩ Beethoven xác tín rằng “Chỉ có Đạo mới làm chúng ta hạnh phúc sung sướng, chứ không phải là vàng bạc”. Còn Chúa Giêsu quả quyết được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, mất tha nhân và mất Chúa thì nào có ích gì. Cho nên, Đức Thánh Cha Phanxicô dạy rằng: “Sự giàu có đích thực là tình yêu Thiên Chúa, được chia sẻ cho anh chị em mình. Tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa và làm cho chúng ta biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Ai có kinh nghiệm này thì được bình an trong tâm hồn và không sợ chết”.
Ước gì, Lời Chúa hôm nay thách bách chúng ta sử dụng tiền bạc đúng ý Chúa ngay trong môi trường mình đang sống để xã hội này đầy ấp tình người và tình Chúa. Amen.
Tin mừng Lc 16:1-13: Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của".
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi TN 25-C187
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”, nhưng Tiền Của lại là một cái gì luôn gắn liền với cuộc sống chúng ta:
“Người công nhân đổ mồ hôi để có được nó Kẻ hoang phí thì đốt nó Chủ ngân hàng đem nó cho vay Kẻ lưu manh làm giả nó Nhân viên thuế vụ lấy nó Người hấp hối lìa bỏ nó Kẻ thừa kế tiếp thu nó Người tiết kiệm để dành nó Người keo kiệt thèm khát nó Kẻ ăn trộm chộp lấy nó Người giàu gia tăng nó Người cờ bạc làm mất nó Phần tôi thì dùng nó” (Quote)
Quả thật, Tiền Của là những thứ cần thiết cho con người, là những thứ đem lại giàu sang, hạnh phúc cho con người, nhưng cũng là nguyên nhân của những phản bội, tráo trở, thất nhân thất đức, bôi đen lòng người. Vì thế, là những người theo Chúa, chúng ta không thể tôn thờ thần ‘Tiền Của’ - thần Mammon - ngày nay là Thần Đôla - tôn đồng tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng.
Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”. Không thể để Tiền Của làm chủ đồng thời cũng để Thiên Chúa làm chủ. Không thể làm tôi hai chủ cùng một lúc, vì mỗi chủ có những đòi hỏi khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chính vì vậy trong con người chúng ta luôn xảy ra những tranh chấp, những đối kháng nhiều khi không hóa giải được, làm chúng ta bất an, không được hạnh phúc. Chính vì vậy Chúa đòi chúng ta phải có một lựa chọn dứt khoát: hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của và chúng ta quá biết: Tiền Của là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu, nên Tiền Của dù có cần thiết tới đâu thì cũng chỉ là phương tiện để chúng ta đạt tới mục đích đời người. Nếu xác định được như thế thì Tiền Của không trở thành ông chủ của chúng ta. Biết thế, nhưng trong thực tế, Tiền Của lại chi phối và nhiều khi, đối với một số người, nó đã trở thành mục đích tối hậu, làm chúng ta lo âu mất ăn mất ngủ.
Có câu chuyện kể rằng: thời buổi làm ăn khó khăn, sức khỏe lại có hạn, ông lão luyện kim chuyển sang nghề kinh doanh dây xích chó, mục đích chỉ là kiếm đủ tiền để sống qua ngày.
Một hôm, một thương nhân buôn bán đồ cổ đi ngang qua, bất chợt nhìn thấy cái ấm trà bên cạnh ông lão. Thấy cái ấm trà có vẻ đẹp cổ xưa, mang phong cách của một nghệ nhân gốm sứ thời nhà Thanh, ông ta liền vào xin coi cho biết. Quả nhiên, trên miệng ấm có con dấu của nghệ nhân nổi tiếng. Hết sức vui mừng, người thương nhân hỏi mua chiếc ấm với giá cao nhưng nào ngờ, ông lão từ chối. Đây là chiếc ấm trà do tổ tiên ông để lại, con cháu ba đời nay đều uống nước trong ấm trà này. Người thương gia thế là đành thất vọng ra về.
Nhưng cũng từ sau hôm ấy, ông lão đêm nào cũng mất ngủ. Chiếc ấm trà quen thuộc suốt 60 năm nay lại thành mối lo lắng trong lòng ông. Đi đâu, làm gì, ông cũng luôn phải để mắt canh chừng chiếc ấm, thành ra mất ăn mất ngủ. Khó chịu hơn cả là thái độ của mọi người xung quanh. Biết chuyện về cái ấm trà quý của ông, họ ùn ùn kéo đến, người lân la hỏi về những báu vật khác trong nhà ông, người thì hỏi mượn tiền ông, lại có người đang đêm hôm đến gõ cửa ầm ầm.
Rồi người thương nhân kia trở lại, nâng giá mua lên gấp đôi cái giá ban đầu khiến ông càng hoang mang.
Cuối cùng, ông gọi hàng xóm láng giềng đến, và trước mặt mọi người, ông cầm rìu đập nát cái ấm trà quý. Cuộc sống của ông trở lại bình thường. Ông tiếp tục làm nghề bán xích chó, và sống rất bình an hạnh phúc.
Anh chị em thân mến,
Ông làm nghề bán xích chó sẵn sàng đập vỡ chiếc bình trà cổ để được bình an. Đây chỉ là một thứ bình an trong cuộc sống đời thường mà ông ta còn dám hy sinh như vậy, phương chi đối với thứ bình an của Chúa, một thứ bình an của riêng Người, một thứ bình an mà ngay khi Chúa sinh ra ca đoàn thiên thần đã vang hát: vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm, rồi khi Người từ cõi chết sống lại thì lời chúc đầu tiên vẫn là “bình an cho anh em”, thì chúng ta phải có thái độ như thế nào?
Chính vì vậy lời Chúa hôm nay đến với chúng ta: “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của (Lc 16,13). Amen.
Cha ông ta có những câu nói huề vốn, đầy ẩn ý: của thiên trả địa. Chính chuyên chết cũng ra ma TN 25-C188
Giuse Dương Đức Hưng
Cha ông ta có những câu nói huề vốn, đầy ẩn ý: của thiên trả địa. Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng mang ra ngoài đồng. Một quy luật hết sức công minh: có vay có trả, giầu nghèo, khôn hay khờ, rồi cũng đến ngày thân nhân đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng với đôi bàn tay trắng. Ở đời luôn cho thấy sự công bằng ngay trong hiện tại này: quan nhất thời, dân vạn đại, quy luật sẽ làm rõ tính hợp lý khi ta đi lên các bậc thang, rồi phải bước xuống bằng những bậc thang đó. Đồng ý rằng, ở đời có vui buồn, có sướng khổ, có nhiều người đầy tâm huyết, nhưng không phải là không có những kẻ tiêu cực. Một trong những nét đẹp mà chúng ta cần nghĩ tới, thiết thực hơn, đó là tình người, bởi khi ta được quan tâm, yêu thương, ta được khích lệ, cảm thông, giá trị cuộc đời sẽ thật ấm áp hạnh phúc.
Đức Giêsu chia sẻ câu truyện người quản lý bất lương, nhằm nói lên tính nhất thời của tiền, quyền, người ta trắng tay khi hết chức quyền, người ta bị coi là khờ dại, nếu 90, 100 năm, làm người, làm con Chúa mà chưa sống chữ tình. Người quản lý thiếu trung thành, dễ dàng bị chủ phát hiện, sa thải, nặng hơn phải đền bù hậu quả tội lỗi mình gây ra. Ai trung tín trong trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn; ai biết sử dụng tiền của, người ấy sẽ khôn ngoan trong việc sống ơn ban của Chúa. Con cái biết lưu tâm để ý đến nỗi vất vả của cha mẹ, người con ấy sẽ dễ dàng sống chữ hiếu chữ thảo. Ai lắng nghe, người ấy có cơ hội hiểu tốt, sống đúng, sống đẹp, trước các tương quan với Chúa và tha nhân. Khôn và ngoan, trung tín, thời nào, kiếp nào, bậc sống nào, cũng đáng tuyên dương khen thưởng, dù khái niệm hạnh phúc ở hiện tại và tương lai không giống nhau.
Phận người mong manh, nhưng đáng yêu, khi mở mắt chào đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, tuổi nào ta cũng là đối tượng của lòng Chúa xót thương, giai đoạn nào ta cũng được gọi là người quản lý mà Chúa yêu thương, tin tưởng. Đức Giêsu nói: con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng, con cái đời này biết tự vệ với khẩu hiệu: quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy. Nếu con cái thế gian biết nói: thả tép bắt tôm, hẳn con cái ở đời mới thành công ở khía cạnh vật chất mà thôi. Thao thức của Đức Giêsu là tất cả phải nhận ra mình được yêu thương, được biến đổi, hầu mỗi ngày được trở nên trung tín và khôn ngoan. Chắc chắn một ngày đi tu, chưa ai trở thành chánh quả, một vài năm theo Chúa, không ai cho rằng ta đã hoàn hảo, thiện toàn, nhưng một ngày yêu Chúa, yêu người, ai cũng có cơ hội để trở thành chứng nhân tình yêu Đức Kitô.
Mong manh phận người, tuy nhiên, không có gì là không thể, đối với những ai biết nỗ lực, và xác tín trong ơn gọi theo Đức Giêsu làm môn đệ. Tiền nhân nói rằng: chiều con quá, con hư, tiền của dư, con hỏng, giầu mạnh thường thao túng, vụng, nghèo dễ theo đuổi. Thực ra thì cứng rắn quá, con cái sẽ lẩn tránh cha mẹ, mềm yếu quá, không thể đủ uy lực giáo dục dạy dỗ con cháu. Người quản lý hết sức tinh tế với chức quyền: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Anh ta biết xoá nợ, biết mua lấy bạn hữu, biết việc phải làm khi còn có thể, khi chủ chưa cắt chức, bãi quyền. Người quản lý quả là khôn khéo với bài học của thế gian, hầu mưu ích cho hạnh phúc ở tương lai. Đức Giêsu không khen việc làm gian dối, nhưng đề cao sự khôn ngoan của người quản lý qua việc hành xử hết sức thức thời. Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu, ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn.
Mong manh phận người, không phải là lời ai oán và bi quan về sự giới hạn kiếp nhân sinh, mà còn cho thấy phận người đáng thương hơn đáng trách. Người quản lý khéo ăn khéo ở trong ứng xử, nhưng Đức Giêsu ý thức những ai thuộc về Ngài phải thực sự hiểu về giá trị của tình yêu: khôn ngoan và trung tín, không mưu mô tính toán, tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa. Đúng, nếu thứ gì giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề, mà đó chỉ gọi là chi phí thôi. Mỗi người ở đời đều được ban phát cho sự tự do, đều được soi sáng dẫn dắt thực hành việc mến Chúa yêu người, gọi là có cơ hội để thành toàn, để đạt tới hạnh phúc thật. Tình, tiền, tù, tội, vẫn là lời cảnh báo về sự mong manh của phận người có thể rơi, ngã vào vòng lao lý bất cứ lúc nào.
Người ta có kể câu truyện “giấc mơ hạnh phúc” như sau: có một chú tiểu tu luyện với sư phụ rất tốt trên núi cao. Vào một hôm, sư phụ nói chú tiểu: mai ta có việc phải xuống núi, con ở lại tu luyện, đừng xao lãng bổn phận. Ngay tối hôm đó, chú tiểu cứ miên man suy nghĩ về “chức quyền”, rồi chú suy tưởng xa hơn, phóng khoáng hơn, chú được mọi người quý mến và trở thành vị vua bởi tài năng của chú. Vâng, mỗi người sẽ được ơn ban, đủ để sống và trưởng thành với hạnh phúc ở phía trước. Giấc mơ hạnh phúc của “chú tiểu”, của mỗi chúng ta chỉ đúng, đẹp, khi tư tưởng và hành động có sự trung tín và khôn ngoan của Chúa. Công bằng xã hội hay công bằng yêu thương, chính là tư tưởng, là thực hành bài học mến Chúa yêu người theo tinh thần trung tín và khôn ngoan. Amen.
Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi…”. Có thực sự đồng tiền có một sức mạnh vạn năng như TN 25-C189
“Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, có tiền là có lý, lời nói sẽ rất ư là nặng ký,” Có thực sự đồng tiền có một sức mạnh vạn năng như vậy không? Có đấy! Đồng tiền có một sức hút và có sự hấp dẫn rất lạ lùng, nó đã và đang trở thành thần thánh và là vua chúa của khá nhiều người, kể cả những người trong đời tu trì nữa! Nhưng coi chừng, đồng tiền còn làm cho cuộc đời ta bị bẹp dí, khiến ta mất cả lý trí, và kéo ta xuống âm ty!
Đây là chuyện có thật, vào dòng tu, thầy Joseph được bề trên và anh em thương mến vì tính tình hiền hòa, vui vẻ, chịu khó, đạo đức…Sau ba năm, bề trên tín nhiệm và giao cho thầy công việc quản lý tài sản của nhà dòng, thầy lại có chút kiến thức về kinh doanh, và thầy biết làm thế nào để cho tiền đẻ ra tiền. Thầy mua bán cổ phiếu, đầu tư vào chỗ này chỗ nọ. Công việc của thầy lúc đầu rất thuận lợi, nhưng dần dần thầy bỏ kinh sáng, rồi bỏ cả lễ, rồi bỏ cả kinh chiều, bỏ không sinh hoạt với anh em, suốt ngày anh em chỉ thấy thầy lui cui bận rộn với chiếc computer làm việc kinh tài cho nhà dòng. Cuối cùng, thầy Joseph bị stress, mất ăn mất ngủ và lâm trọng bịnh vì giá cổ phiếu bị tuột dốc. Cuối cùng tiền mất tật mang, thầy Joseph bị ĐÔ nó VẬT cho thất điên bát đảo, bơ phờ bạc nhược, bao nhiêu tiền bạc của nhà dòng chỉ qua một đêm tan thành mây khói. Thầy từ giã đời tu, ra đi và để lại cho nhà dòng số tiền thâm thủng lên đến gần nửa triệu bạc.
Bạn thân mến, qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, tôi học được hai bài học này:
• Thứ nhất, phải biết dùng tiền của như là một phương tiện để chiếm hữu lấy Nước Trời, bởi chính Chúa đã dạy: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.”
• Thứ hai, chỉ có một mình Thiên Chúa là Vua, và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Chính Chúa Giê-su đã cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được…” Tiền bạc chỉ là một tên đầy tớ, nó không phải là Chúa, đừng bao giờ thờ lạy nó. Cúi mình xuống thờ lạy nó, là tiêu ngay!
Nhìn lại trường hợp của thầy Joseph, bạn có nghĩ rằng thầy có chủ trương bỏ Chúa để thờ lạy kim tiền không? No! Tôi nghĩ thầy không bao giờ có ý nghĩ hay chủ trương như vậy đâu! Thế nhưng thần tài nó khôn ngoan và ma le lắm, nó dụ dỗ thầy Joseph mỗi ngày một tí, nó cứ đem đồng tiền ra nhử nhử, nhắp nhắp, cứ chài mồi, và thế là thầy Joseph cứ dần dần xa Chúa, và cúi gập người xuống thờ lạy nó mà thầy vẫn không hay không biết. Và đến khi thầy phát hiện ra rằng mình đang là nô lệ của tiền tài, danh vọng và của cải vật chất thì đã quá muộn. Mặc dù thầy Joseph vẫn còn mạng sống đó, nhưng trong thực tế, thầy đã mất tất cả. Mất niềm tin, mất lòng dạo đức, mất hạnh phúc, mất ơn gọi, và tôi sợ rằng thầy còn mất nhiều thứ khác nữa kìa!
Bạn có muốn bị ĐÔ nó VẬT bạn giống như thầy Joseph từng bị không? Chớ có dại, tiền là một ông chủ rất ác độc và tàn nhẫn, nó không có lòng thương xót bạn một chút nào cả! Bạn mà cúi xuống thờ nó, để nó đè lên mình, lên cuộc đời, lên gia đình của mình là kể như…tiêu đời! Bạn sẽ mất hết tất cả, kể cả…linh hồn nữa!
Còn nếu bạn không muốn bị ĐÔ nó VẬT thì bạn hãy lắng nghe và thực thi lời của Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay. “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu… [và đừng bao giờ] làm tôi Tiền Của” (Lc 16:9). Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè bằng cách làm việc bác ái, giúp đỡ, bố thí, ra tay cứu giúp trẻ mồ côi, nạn nhân thiên tai bão lụt, những người kém may mắn, bất hạnh và nghèo khó hơn mình. Đến thăm viếng và an ủi những người già lão, bệnh tật ở tư gia, ở bệnh viện hoặc trong các nhà dưỡng lão…
Đừng bao giờ làm tôi Tiền Của, nhưng xin hãy rộng rãi quảng đại trong việc giúp đỡ cho các dòng tu trong việc đào tạo chủng sinh và tu sĩ, cho những công việc truyền giáo, cho việc bảo trì, xây dựng cũng như phát triển giáo xứ của bạn.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban cho chúng mình ơn khôn ngoan, để bạn và tôi biết kiếm tiền một cách chính đáng, luôn sử dụng tiền của vào những việc mang lại lợi ích cho mình và cho tha nhân, và nhất là chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa chứ không bao giờ tôn thờ tiền của! Amen! mục lục.
Hôm nay Chúa Giêsu kể một câu chuyện dụ ngôn ngắn gọn với những hình ảnh liên quan đến TN 25-C190
Hôm nay Chúa Giêsu kể một câu chuyện dụ ngôn ngắn gọn với những hình ảnh liên quan đến thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, khiến chúng ta bị đụng chạm - bởi vì tất cả chúng ta, giầu hay nghèo, nhiều hay ít tiền của, đều là người quản lý cuộc sống của mình. Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta là cố tình gây sốc, nhắm thẳng vào mối bận tâm thường xuyên, “sát sườn” trong từng ngày sống và suốt cuộc đời của mỗi người: tiền bạc và của cải vật chất.
Dụ ngôn nhằm mục đích thách thức chúng ta bằng cách đưa ra một tình huống không hề là kiểu mẫu. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng tiền bạc hoàn toàn có thể làm lòng người ra gian dối, biến tiền bạc thành ông chủ tối cao dẫn đến việc tôn thờ tiền bạc như ngẫu tượng, vì lợi nhuận làm chai sạn tâm hồn dẫn đến coi khinh Thiên Chúa đích thực và người lân cận, như tiên tri Amốt đã cảnh báo trong Cựu ước: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sabát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.” Thiên Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Giacóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:4-7).
Câu chuyện dụ ngôn này đặt câu hỏi cho chúng ta, là những người quản lý Nước Thiên Chúa: “Mình sẽ làm gì đây?” (Lc 16:3). Thiên Chúa cho chúng ta sinh ra làm con người, giao thời gian và mọi điều kiện vật chất, tinh thần, gia đình, xã hội, nghề nghiệp… cho chúng ta và mời gọi chúng ta làm cho nó sinh hoa kết quả. Chúng ta phải làm việc thế nào để của cải của chúng ta, tức là mọi điều kiện Thiên Chúa ban không trở nên cớ cho “Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông” (Lc 16: 1). Dụ ngôn này khiến chúng ta liên tưởng đến dụ ngôn người con hoang đàng của tuần trước: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (Lc 15,12-13). Rồi giống như trong dụ ngôn này, chúng ta phải đối mặt với một tình huống nguy cấp “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16:2). Chúng ta trước sau sớm muộn gì thì cũng phải “tính sổ” với Thiên Chúa về cung cách quản lý đời mình “để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ” (Lc 16:4). Thế thì, điều gì là thực sự căn bản trong cuộc đời của chúng ta?
Trong dụ ngôn, người quản gia, dù đang ở một tình huống khó khăn, nhưng bằng một hành động lanh ý biết tận dụng các mối quan hệ, đã lèo lái xoay chuyển tình thế, lấy lại sự tự tin để bằng một cách khác huy động những gì anh ta sẽ mất. “Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:4). Người ấy có một ý tưởng khôn khéo, một hành động táo bạo và mau lẹ đáng kể: “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ôliu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi” (Lc 16:5-7).
Một số nhà chú giải đã giải thích cho điều có vẻ rất ngạc nhiên đối với chúng ta. Đối với một số nhà chú giải, người quản gia này biết nhận ra các trường hợp khẩn cấp và đối mặt với chúng bằng sự quyết đoán. Anh ta đã sử dụng quyền lực tạm thời của mình để tạo ra một sự an toàn lâu dài mai sau cho bản thân. Theo những nhà chú giải khác, anh ta đã trả lại công bằng xã hội cho các con nợ của ông chủ và tạo nên các mối quan hệ bạn bè cho mình.
Tất nhiên, đây là chuyện “không trung thực”, nhưng nhà phú hộ vẫn khen ngợi người ấy: “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (chứ không phải khôn ngoan! Lc 16:8).
Nhưng sự ngưỡng mộ của người chủ, và của Chúa Giêsu, không phải vì hành động bất lương của người quản gia, mà là vì tính cách khôn khéo và phản ứng mau lẹ tức thời của người bị dồn vào đường cùng, khiến anh ta dám sử dụng phung phí của cải của ông chủ để tạo ra các mối quan hệ bạn bè vốn có thể sẽ đem lại lợi ích cho bản thân, bằng việc sử dụng quyền hành vẫn còn trong tầm tay của mình.
Chúa Giêsu nhận thấy rằng “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16:8). Đối với chúng ta, những người mà Ngài đang ngỏ lời, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta biết áp dụng sự khôn khéo của con cái đời này khi họ giải quyết một vấn đề nhỏ, vốn chỉ là những gì bên ngoài, vào lãnh vực tinh thần, là của cải đích thật của chúng ta: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè” (Lc 16:9).
Dựa trên lời này của Chúa Giêsu, có thể một số người sẽ nói ngay:
Kim ngân phá luật lệ - Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Giàu tiền tài, nhân nghĩa tận - Của làm hại người. Chị em hiền thật là hiền, động đến đồng tiền mất cả chị em.
Có thể là Chúa Giêsu sẽ không đồng ý với họ. Vì Chúa Giêsu khi còn ở Nadarét, tiếp nối công việc thợ mộc của cha nuôi mình là Thánh Giuse, hẳn biết rõ sự tự hào chính đáng của người kiếm sống bằng công việc tay mình làm ra. Ngài biết cái giá xứng đáng của một công việc được hoàn thành tốt, và giống như bất cứ người thợ thủ công tận tâm nào, Ngài trông đợi vào tiền công của mình và biết rõ rằng Mẹ Maria cũng đang trông đợi vào tiền công đó dù Mẹ không nói một lời nào.
Hơn nữa, khi một nhóm đệ tử được lập ra: họ phải chi tiêu dè sẻn, gần như dựa vào mấy đồng xu của Ngài, đó là sự thật. Chúng ta cũng hãy nhớ đến những người phụ nữ ít ỏi đã theo Đức Giêsu, từ thuở ban đầu ở Galilê, và “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Mười ba người đàn ông, không thể sống mà không có nhu cầu thiết thực hàng ngày! Chắc chắn, Chúa Giêsu đánh giá cao sự giúp đỡ của những người phụ nữ này, và không bao giờ nói với họ: “Tiền của các bà, cứ giữ lấy đi, nó bất chính, của làm hại người!”
Vậy, trong mắt Chúa Giêsu, “tiền của bất chính” là gì? Tất nhiên, đó là sự chiếm đoạt không trung thực; tiền đó trở thành một thứ quyền lực mù quáng của sự bất công hoặc áp bức, và trên hết tiền bất chính làm cho những người sở hữu nó hoặc những người ham muốn nó thành nô lệ cho nó. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu không dùng từ bình thường để gọi tên tiền bạc, mà dùng từ mâmôn, mà trong đạo Do Thái vào thời Chúa Giêsu dùng để chỉ của cải, những gì đạt được nhưng thường là lợi bất cập hại, nhưng cũng dùng để chỉ những sự an toàn ảo tưởng của thế gian, đối nghịch với lòng tin tưởng của “những người nghèo” của Israel vào Thiên Chúa của họ.
Theo nghĩa đó, đoạn Tin mừng này cho chúng ta một bản tóm tắt về tất cả lời dạy của Chúa Giêsu về tiền bạc.
Trước hết, tiền bạc phải được sử dụng để tạo nên bạn hữu cho chúng ta, những người sẽ tiếp đón chúng ta như anh em trong cuộc sống mai sau, nơi tiền bạc sẽ không còn cần thiết, đối với chúng ta cũng như đối với họ. Điều này có lẽ kết hợp với một lời khác của Chúa Giêsu: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,19-21).
Rồi thì, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng sự lương thiện của chúng ta trong những việc trần thế cho phép Thiên Chúa tin tưởng giao phó cho chúng ta những việc thuộc về Nước Trời: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?” (Lc 16:10-11). Trước tiên, là những người quản lý của cải của trần thế này, chúng ta dần dần cộng tác với Thiên Chúa trong công việc cứu chuộc vĩ đại. Đây là “của cải chân thật”, tài sản của chúng ta, là con cái, những người thừa tự của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Chúa Kitô.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nói: “không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ” (Lc 16:13). Không thể làm tôi hai chủ: bởi vì lòng dạ con người sẽ không thể quy hướng trọn vẹn về cả hai chủ. Lời cảnh báo của Chúa Giêsu rất thông thường: hai chủ có thể vừa là Thiên Chúa vừa là vinh quang của con người, Thiên Chúa và lòng tự yêu bản thân, Thiên Chúa và tính ích kỷ, Thiên Chúa và lạc thú, Thiên chúa và cuộc sống dễ dãi, hoặc lại là Thiên Chúa và thói ham quyền lực; nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh vào một ví dụ cụ thể: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16:13), nghĩa là vừa làm tôi Thiên Chúa vừa chạy theo những mối lợi bất cập hại, những sự an thân nhất thời.
Một ngày nào đó chắc chắn tất cả tài sản của chúng ta sẽ trở nên vô dụng, và tất cả những gì phục vụ cho tiền bạc đều không nghĩa lý gì; nhưng điều này không được làm giảm lòng tin cậy của chúng ta nơi Thiên Chúa hoặc lòng nhiệt thành của chúng ta phục vụ Ngài trong cuộc sống hàng ngày mà Ngài ban cho chúng ta. Điều quan trọng là “dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật thứ 21) .
Chúa Giêsu đã nói: “Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34). Khi chúng ta ý thức được rằng lòng mình không còn ở với Chúa, không còn thuộc về Chúa, hoặc chỉ còn thuộc về Chúa một cách thoáng qua, câu hỏi tự đặt ra cho bản thân sẽ là: đâu là điều khát khao đang chiếm giữ lòng tôi? Kho tàng khác của tôi ở đâu?
Có hai đứa trẻ lượm được một ví tiền trên đường. Trong ví chứa đựng danh thiếp của người chủ TN 25-C191
Có hai đứa trẻ lượm được một ví tiền trên đường. Trong ví chứa đựng danh thiếp của người chủ và một tờ trăm đô-la. Một đứa nói: “Chúng ta không có quyền giữ lại cái ví và số tiền này. Nhưng trước khi trả lại cho chủ, hãy đổi tờ trăm này thành mười tờ chục đô” (!?!).
Hồi Đức Phaolô VI viếng thăm Ấn Độ năm 1964, ngài có tặng cho Mẹ Têrêxa chiếc xe hơi màu trắng mà hãng xe Fiat (của Ý) đã chế riêng, tặng cho ngài để ngài đem qua Ấn Độ dùng trong chuyến công du. Đức Giáo hoàng cho phép Mẹ toàn quyền xử lý chiếc xe ấy. Dĩ nhiên chị em trong dòng khuyên nên bán đi để lấy tiền giúp người nghèo. Mẹ không bán nhưng… đem xổ số. Vì là một chiếc xe đặc biệt về kỹ thuật lẫn lịch sử, nên rất nhiều người giàu có ao ước trúng nó cho được. Thế là Mẹ Têrêxa tha hồ hốt bạc. Số tiền thu được gấp mấy lần giá cả chiếc xe!
Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (1921-1988), chủ chăn Tổng Giáo phận Huế, có lần đã đem xổ số chiếc dây chuyền và cây Thánh giá Giám mục bằng vàng của ngài để có tiền giúp nạn nhân một trận lũ lụt tại Thừa Thiên. Việc này khiến rất nhiều giáo dân cảm động và mua vé ủng hộ, dù chẳng mong trúng số. Số tiền Đức TGM thu được không phải nhỏ. Riêng kẻ may mắn trúng độc đắc nghe nói đã đem tặng dây chuyền và Thánh giá lại cho ngài.
1. Phải khôn khéo hơn con cái đời này
Ba câu chuyện vắn vỏi trên đây giúp ta hiểu hơn phần nào dụ ngôn của bài đọc. Dụ ngôn này trong quá khứ đã gây nhiều phiền toái cho các nhà chú giải. Ngày nay người ta cũng không mấy đồng ý với nhau về cách giải thích nó. Để hiểu rõ nó và những áp dụng của nó, điểm cốt yếu phải làm sáng tỏ là tính chất luân lý trong cách hành động của viên quản gia; các chuyện khác chỉ là phụ thuộc.
Quan niệm xưa nay cho rằng viên quản gia trong quá khứ đã hành động cách gian xảo đối với chủ bằng cách phung phí tài sản của chủ, bây giờ lại tỏ ra bất lương hơn nữa khi làm những biên lai giả tạo gây thiệt hại thêm cho ông ta. Nếu đấy là ý nghĩa của dụ ngôn thì làm sao ông chủ lại có thể tán dương viên quản gia, và làm sao Đức Giê-su có thể rút ra từ hành động đó một kết luận chấp nhận được, nếu không muốn nói là một kết luận đối nghịch với hành động này (xem Lc 22,25-26). Ngoài khó khăn ấy ra, còn có sự kiện là hành động gán cho viên quản gia tự nó cũng khó chấp nhận. Dù giả thiết là ông ta đã bỏ túi hay phung phí một phần tài sản của chủ bằng cách này hay cách khác, thì việc ông khấu trừ cho các con nợ bây giờ -nếu thật sự là từ tài sản của chủ- chỉ làm cho địa vị của ông đã bấp bênh, nay lại càng bấp bênh hơn, không khéo lại phải trả giá. Bởi ông ta không thể nào hy vọng giữ kín hành vi này, vì sau đó phải tính sổ với chủ, mà theo dụ ngôn thì chủ biết ngay sự việc. Khó mà hiểu được hành động của việc quản lý đáng khen là “khôn khéo” ở chỗ nào. Quả không phù hợp với thực tế gì cả. Và cũng ít hữu lý khi nghĩ rằng tác giả dụ ngôn lại có thể tưởng tượng ra một hành vi khó có thực như vậy. Mà đừng quên chính Đức Giê-su chẳng đưa ra một phê phán luân lý nào về cách hành động của viên quản lý. Người chỉ bảo là “khôn khéo” thôi. Ngay câu 8 (“Ông chủ khen tên quản gia bất lương”) cũng không nhất thiết ngụ ý viên quản gia đã thiếu thành thực trong hành động được mô tả. Tĩnh từ “bất lương” đúng ra chỉ đánh giá quá khứ của ông: ông đã bất lương trước khi làm hành vi dụ ngôn mô tả, nhưng hành vi này không vì thế mà trở nên tội lỗi. Ta có một trường hợp tương tự trong dụ ngôn vị thẩm phán bất chính bị bà góa quấy rầy (Lc 18, 2-8): Đức Giê-su cũng vẫn gọi ông này là “bất chính” (vì quá khứ của ông) ngay trong lúc ông xử đúng cho bà góa.
Thật ra, dụ ngôn này ám chỉ một phương cách chiếm hữu rất quen thuộc với người Đông phương và như thế là với thính giả của Đức Giê-su cũng như các Ki-tô hữu ban đầu. Trong bối cảnh Palestina của dụ ngôn, trường hợp viên quản lý phải được đánh giá theo luật Do-thái liên quan đến vai trò quản trị. Người quản lý không phải là nhân viên được trả công hay “tay cò” dẫn mối, nhưng là kẻ toàn quyền thay mặt chủ đến nỗi chủ phải tôn trọng các thương vụ của anh ta. Gặp trường hợp quản lý lừa bịp chủ, luật pháp cũng chẳng có biện pháp nào bắt y phải hoàn lại; có chăng chỉ là trách mắng, hạ uy tín và sa thải. Sau khi nhận được giấy bãi nhiệm, viên quản lý phải làm sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian, và cho đến lúc đó, ông vẫn đại diện chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Do đó, việc giảm nợ nói trong dụ ngôn nên được giải thích như là việc viên quản lý từ khước không nhận tiền hoa hồng (có khi rất cao tùy loại hàng hóa) mà bình thường ông có quyền hưởng. Đây là một hình thức mưu lợi vẫn còn thịnh hành ở khắp nơi: người trung gian (lãnh thầu, đại lý thương mại, quản trị viên) giữ lại cho mình một phần hoa lợi thu được trong một thương vụ với danh nghĩa tiền hoa hồng. Trường hợp viên quản lý đây, có lẽ ông chỉ từ khước tiền đó, để như thế lấy lòng các con nợ của chủ (hầu mưu lợi cho mình về sau) mà không gây thiệt hại gì cho chủ. Con cái đời này quả thật biết khi nào phải làm điều nên làm, tại sao phải làm và làm cách nào để được lợi trong những chuyện trần tục. Con cái ánh sáng cần phải chứng tỏ óc sáng kiến và óc quyết định như thế hoặc hơn thế, khi làm các việc của Thiên Chúa Cha mình. Đó là điều Đức Giê-su muốn dạy.
2. Phải biết sử dụng của cải cho nên
Phần hai của bài Tin Mừng, gồm các câu 9-13, là những ngôn từ rời rạc, được Luca gom lại để bình luận dụ ngôn và đưa ra bài học về những khía cạnh của tiền bạc của cải: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Tạo lấy bạn bè! Phát triển tình bằng hữu! Đó là lý do của lời khen trong dụ ngôn. Qua kiểu nói này, Đức Giê-su muốn đưa ra cho ta bài học chủ yếu: tạo thêm bạn bè, đem tình yêu vào mọi tương quan, đó là dùng nên của cải. Đây còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc: sử dụng nó như một dụng cụ để chia sẻ và sống lòng thương! Tự nó tiền bạc không xấu. Nó có thể tạo nên niềm vui cho kẻ khác… thành thử cũng cho kẻ đóng góp vào niềm vui đó bằng cách “tặng ban”. Trong Tin Mừng của mình, hơn mọi thánh sử khác, Lu-ca đã từng nêu bật kẻ nghèo. Nước Trời thuộc về họ đến độ những người giàu sẽ chỉ vào được đó nhờ sự bảo vệ và giới thiệu của các kẻ nghèo họ sẽ lấy làm bạn, như một câu châm ngôn từng nói: “Dưới đất, kẻ giàu giúp người nghèo. Trên trời, người nghèo giúp kẻ giàu lại”. Trong ý định của Thiên Chúa, người giàu chỉ là “thủ quỹ của người nghèo” (Augier) và ta chỉ gởi tiền được vào ngân hàng của Thiên Chúa qua tay kẻ nghèo thôi. Đây quả là “Tin Mừng” cho những người giàu. Bây giờ họ biết họ có thể tự cứu mình ra sao, biết làm sao đi vào “nơi ở vĩnh cửu” khi tiền bạc chẳng còn trong tay họ nữa.
Tiếp đến là vài châm ngôn về của cải, những châm ngôn hết sức biểu lộ tư tưởng của Đức Giê-su: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. “Việc nhỏ” là tiền bạc, “việc lớn” là Nước Trời. Ai lem nhem trong chuyện tiền bạc thì cũng khó có đủ tinh thần tông đồ và tận hiến. Trong khẳng định thứ hai (câu 11), Đức Giê-su bảo rằng tiền bạc là “bất chính”. Nó là một cái bẫy, chỉ cho ta một sự an toàn giả tạo, chớ nên tin vào (1Tm 6,17). Dẫu hữu ích, có thể sử dụng tốt là tạo bạn bè, tiền bạc cũng có thể là một sức mạnh quỷ quái. Nó hoặc là đầy tớ tốt hoặc là ông chủ xấu. Nên phải cẩn thận khi quản lý nó. Bao cộng đoàn đã sa sút, bao tông đồ đã hư đi vì tiền bạc của cải. Khẳng định thứ ba (câu 12) có một âm sắc hiện đại đáng kinh ngạc. Rất lâu trước K. Marx, Đức Giê-su đã lên án sự “tha hóa” con người: tiền bạc đâu phải là sự thiện đích thực của chúng ta. Của cải chẳng khiến một con người nên thông minh, hạnh phúc, tốt hảo. Giá trị đích thật nằm ở chỗ khác. Do đó “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”. Bạn có phải là tù nhân của tiền bạc không? Có bị những lo lắng về chuyện “làm ăn” trói buộc, chiếm đoạt không? Có thường bị cám dỗ phụng sự luân phiên hai ông chủ này không: Thiên Chúa ngày chủ nhật và Thần Tài trong những ngày khác?
Quản Gia Bất Lương Lắm Mưu Mẹo Người Ác Lươn Lẹo Nhiều Kế Gian. Thánh Phaolô xác định TN 25-C192
Quản Gia Bất Lương Lắm Mưu Mẹo Người Ác Lươn Lẹo Nhiều Kế Gian.
Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc.” (1 Tm 6:10) Tiền bạc
Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc.” (1 Tm 6:10) Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng phải cảnh giác cao độ kẻo “dính” mùi của nó rồi thì khó có thể tẩy hết. Vì mê tiền bạc mà Nhóm Biệt Phái sống giả nhân giả nghĩa, giống như bệnh mãn tính của họ vậy.
Kinh Thánh cho biết: “Người thích tiền bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ; kẻ bo bo giữ của chẳng thu được lợi lộc gì. Điều ấy cũng chỉ là phù vân! Của càng nhiều, người ăn càng lắm. Người có của được lợi lộc gì, ngoài thú vui được nhìn thấy của cải? Làm việc vất vả thì ngủ ngon: ăn ít hay nhiều thì cũng vậy; lắm bạc nhiều tiền đâu được ngủ yên!” (Gv 5:9-10) Văn hào Shakespeare xác định: “Tiền là thế lực hữu hình chống lại Thiên Chúa vô hình.” Không chỉ rắc rối mà còn rất nguy hiểm!
Năm 2021, ký ức đại dịch Covid-19 còn đó, vết thương chưa lành hẳn, nỗi đau vẫn âm ỉ. Và có liên quan tiền bạc. Có tiền cũng không làm được gì. Tất cả đều vô ích khi virus tử thần hoành hành khắp nơi. Tuy nhiên, có những người biết chia sẻ với người khác bằng những đồng tiền riêng của họ với tình yêu đồng loại, nhưng cũng có những người thừa nước đục thả câu, lạm dụng mọi thứ mà không chút xót thương. Nhiều kẻ to làm láo. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Rất ranh mãnh!
Qua trình thuật Lc 16:1-13, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Ai cũng biết rằng tiền là một quy ước trong xã hội loài người để trao đổi hoặc mua bán với nhau. Nó chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác, giá trị cao hay thấp được ấn định bằng những con số. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị của nó ở mỗi nước khác nhau, thậm chí chênh lệch quá xa.
Dù sao, con người phải làm chủ nó. Lệ thuộc nó là bị nó làm chủ, chắc chắn người ta gặp nhiều rắc rối – cả vật chất lẫn tinh thần. Nhưng đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người. Thiên Chúa cho con người tự do, đó là niềm vui và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta quyết định và chọn lựa.
Dụ ngôn kể rằng ông chủ có một quản gia lươn lẹo, mánh khóe, dám qua mặt chủ. Ông nghe người ta tố cáo hắn phung phí của cải nhà ông. Ông gọi hắn đến, bảo tính sổ và quyết định sa thải hắn. Vốn tính giao xảo, hắn tìm mưu kế, vì hắn nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Kẻ dài lưng tốn vải và lười biếng là thế.
Rồi hắn cho gọi từng con nợ của chủ đến. Hắn hỏi người thứ nhất về món nợ, người ấy nói là trăm thùng dầu ôliu. Hắn bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết 50. Hắn hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là ngàn giạ lúa. Hắn bảo người ấy viết 800 giạ lúa. Ông chủ khen hắn hành động khôn khéo. Và Chúa Giêsu cho biết: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.”
Khôn mà không ngoan. Càng ngày người ta càng giả dối tinh vi, khó phát hiện. Hàng giả mà có những thứ “đẹp” hơn hàng thật. Các công trình vừa được khánh thành thì hư hỏng liền, người ta rất quỷ quyệt “rút ruột” mọi công trình, bất kể to – nhỏ. Chắc hẳn không thể tưởng tượng được khi người ta làm những cột điện rỗng, vỏ lát ximăng mỏng và lót bao nilông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, tiêu hết! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn chặn” thì không còn gì để nói! Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Tận cùng khốn nạn!
Ngày xưa, ngôn sứ Amốt có thị kiến. Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói thấy “giỏ trái cây mùa hạ.” Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ KHÔNG tha thứ cho dân Israel nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Israel bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Vì thế, họ KHÔNG nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là tất yếu. Chúng ta cũng chẳng khác dân xưa – ngang ngược, ỷ lại, lộng hành.
Truyền lại lời Thiên Chúa, ngôn sứ Amốt kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ.” (Am 8:4) Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sabát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.” (Am 8:5-6)
Lĩnh vực nào cũng vậy, càng ngày càng tinh vi. Người ta nói “buôn gian, bán lận” vì nghề nào cũng có mánh lới riêng: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số ông trùm xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Tin tức hằng ngày cho thấy nơi nào cũng có những “siêu nhân” ranh ma chiếm đoạt tài sản của người khác tới hàng trăm triệu, hàng tỷ.
Ngôn sứ Amốt xác định: “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Giacóp mà thề: Ta sẽ CHẲNG BAO GIỜ QUÊN một hành vi nào của chúng.” (Am 8:7) Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) Đừng lấy vải thưa che mắt thánh! Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết.
Kinh Thánh đã từng cảnh cáo thẳng thắn: “Này kẻ gian, chớ rình rập nhà người công chính, cũng đừng phá phách nơi họ ở. Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được, còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong cảnh tai ương.” (Cn 24:15-16) Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích và cũng chẳng muốn thấy ánh sáng.
Ngược lại, những người công chính dù có lúc trượt té – thậm chí là “té đau,” nhưng họ vẫn quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” (Tv 113:1-2)
Vô cùng nhân từ nhưng Thiên Chúa cũng rất mực công minh. Ai có công, được thưởng; ai có tội, bị phạt. Chúng ta chỉ như những “bức tượng” được Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa: “Chúa siêu việt trên hết mọi dân, vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113:4-6)
Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như Thánh Vịnh gia đã minh định: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người.” (Tv 113:7-8) Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng,” nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.
Đề cập việc cầu nguyện và tạ ơn, Thánh Phaolô nói: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4)
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình chứ không xin theo ý Chúa. Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Khó hiểu hay kỳ quặc?
Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “CHỈ CÓ MỘT Thiên Chúa, CHỈ CÓ MỘT Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời, đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý.” (1 Tm 2:5-7)
Như chúng ta biết, các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật rất kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Nhưng cứ chữa được bệnh này thì lại sinh bệnh khác. Y học miệt mài tìm hiểu mà vẫn không thể ngăn cản sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Không là kiêu ngạo thì là gì?
Quy luật đời đời Thiên Chúa dành cho phàm nhân: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:19) Chân lý đó đã được chứng minh: Socrates, Sigmund Freud, Voltaire, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni, Mohammed,... Tất cả đều đã chết, kể cả những kẻ mạo nhận mình “sống mãi.” Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TÁI SINH. Thánh Phaolô xác định sự thật minh nhiên đó: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9:27) Chắc chắn và bất biết.
Tuy nhiên, chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét và giết chết mà Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật hạnh phúc và thật “may mắn” vì chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài.
Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:8) Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là nói với Chúa và nói về Chúa. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin.
Lạ thay, bác học Louis Pasteur (1822-1895, Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Còn học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, Pháp) xác định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện.” Hai con người giỏi giang này thực sự là gương sáng đối với mọi tín nhân.
“Đồng tiền liền khúc ruột.” Người Việt nói giản dị mà chí lý. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa mẹ con, cha con, anh chị em, họ hàng, làng xóm,… Ngay cả giáo sĩ cũng có người bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Rõ ràng tiền bạc có ma lực khiến lý trí con người lệch lạc!
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Những người canh gác Israel đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa, chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì.” (Is 56:10-11)
Các câu Kinh Thánh như vậy gây khó chịu, vì chạm vào nhược điểm của người ta. Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giuđa Ítcariốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình thế nào. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, ở ngay bên chúng ta. Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ cho đoàn chiên nào “gặp” phải loại thợ chăn kiếu đó!
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” thì hoàn toàn trái ngược với Ngài. (x. Mt 20:28)
Bất cứ ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn.” Một hệ lụy tất yếu!
Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn, súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà khó thông: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” Tại sao vậy? Bởi vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu.
Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất – dấu hiệu nhắc nhở về điều vô cùng quan trọng: Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô còn cho biết nhiều dấu hiệu khác: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ.” (2 Tm 3:2-5)
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết khéo quản lý những gì được sở hữu từ việc lương thiện. Xin tha thứ những khi lòng hướng về vật chất, xin thương cho chúng con được an toàn trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Dư luận thế giới đôi khi vẫn nhắc lại nỗi đau cho khoảng 1.000 nạn nhân trong các vụ bắt cóc TN 25-C193
Dư luận thế giới đôi khi vẫn nhắc lại nỗi đau cho khoảng 1.000 nạn nhân trong các vụ bắt cóc tàn nhẫn diễn ra tại Cộng hòa Ossetia thuộc Liên bang Nga bắt hơn người làm con tin dạo đầu tháng 9.2004.
Xót xa nhất là cuộc tấn công vào một trường học ở Nga, làm thiệt mạng quá nhiều người, trong đó có trên 330 trẻ em phải chết cách dã man.
Những kẻ giết người là ai? Họ là những kẻ rất khôn ngoan, biết suy nghĩ, khả năng tính toán rất cao. Vì thế họ biết cách chọn lựa những phương án hành động tội ác, nhưng kín đáo, không ai có thể phát hiện. Rất tiếc sự khôn ngoan ấy đã bị lạm dụng, đã đặt sai chỗ, vì thế trở nên quá nguy hiểm cho nền hòa bình của thế giới, nguy hiểm cho sự sống của con người.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn nghe nói nhiều đến sự khôn ngoan. Một người ăn nên làm ra, người ta bảo anh ta là người khôn ngoan. Ai đó ăn nói lợi khẩu, nói những lời duyên dáng, khoan thai, nói những lời hay, ý đẹp không làm phật ý người nghe, họ được gọi là khôn ngoan.
Hay ai đó có thể đoán biết ý đồ xấu của người khác, và tránh né được sự hãm hại dành cho mình, cũng là người khôn ngoan. Một em học sinh khôn ngoan biết chăm lo cho việc học tập của mình, học ngày một tiến tới. Ngay cả một người giỏi mánh khóe, xu nịnh, làm giàu bằng móc ngoặc, ăn cắp của công, hối lộ, tham nhũng… cũng được gọi là khôn ngoan.
Cũng vậy, hôm nay trong dụ ngôn Người quản lý, một bên Chúa Giêsu gọi anh ta là bất lương, bên kia Chúa cũng dùng một kiểu nói mà thói thường người đời vẫn nói: Đó là gọi người quản lý bất lương kia đã hành động khôn khéo. Vì anh ta đã sử dụng trí thông minh, sự gian dối, xảo quyệt của mình để hưởng lợi, để thỏa mãn những tính toán vụ lợi cho riêng mình.
Vấn đề được đặt ra là: Chúa khen ngợi người quản lý bị coi là bất lương ấy? Bởi đó cũng sẽ là bài học cho chúng ta?
Chắc không ai ngây thơ đến nổi nghĩ như thế. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã phân biệt rạch ròi: “con cái thế gian” và “con cái sự sáng”.
Đã gọi là con cái thế gian, nó chẳng bao giờ thuộc về thế giới của con cái sự sáng, nhưng nó chỉ thuộc về cuộc đời này, đi xa hơn, nó tắm mình và chìm đắm trong cuộc đời này.
Vì thuộc về thế gian, con cái thế gian sẽ giỏi mọi ngóc ngách, mọi luồn lách để có thể có được càng nhiều, càng tốt những bảo đảm cho bản thân khi sống trong cuộc đời này.
Bởi vậy, nếu chỉ nhìn ở phía thế gian với tâm hồn chỉ toàn chiếm hữu, vụ lợi, ích kỷ…, thì đúng là “con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”.
Phân biệt rạch ròi giữa “sự sáng” và “thế gian” cho thấy sự tối tăm của thế gian là đêm tối giăng mắc đầy hiểm nguy. Do đó làm sao bóng tối ấy lại có thể là bài học cho chúng ta!
Chúa Giêsu cũng không khen ngợi việc làm bất lương của người quản lý. Đúng hơn, Chúa chỉ nhắm đến việc sử dụng trí thông minh, sự khôn ngoan sao cho phù hợp, đúng nơi, đúng lúc, nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho đời sống của mình.
Và trên hết, ta phải hiểu đây là một so sánh, Chúa đưa ra để giúp ta chọn lựa thái độ sống theo đòi hỏi của đức tin. Vì nếu nơi thế gian, con cái thế gian dùng sự khôn ngoan của nó để sống, thì con cái của ánh sáng hãy dùng sự khôn ngoan trong đức tin để đạt đến sự sống đời đời.
Qua câu chuyện Người quản lý bất lương, Chúa kêu mời ta hãy rút ra từ đó những ý nghĩa, những bài học cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Vì có khi đổ vỡ của người khác, ngay cả tội lỗi của chính mình hay của ai đó, cũng có thể là bài học kinh nghiệm cần thiết cho chúng ta sống tốt hơn, đến gần Chúa hơn, biết xa tránh mọi dịp tội hơn. Nếu chiếc xe trước đã đổ trên lối mòn, thì xe sau phải tìm lối khác mà đi cách đường hoàng hơn, an toàn hơn.
Đó là sự khôn ngoan. Đó cũng chính là “con cái của sự sáng”. Vì sự khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn biết nhận ra chính mình, để không bao giờ tự biến mình thành mối nguy cho mình hay cho anh chị em.
Hơn thế, sự khôn ngoan của con cái sự sáng sẽ dẫn họ đi trên con đường có tên Giêsu để mỗi ngày tự hoàn bị mình nhờ chính mẫu gương sống của Chúa Giêsu và Lời Chúa dẫn lối. Tắt một lời, sự khôn ngoan của người tín hữu Kitô là đi trên Chính Lộ mà chính Chúa Giêsu đã vạch ra.
Chính Lộ ấy, sự khôn ngoan ấy là một lối sống được tóm gọn trong Tám mối Phúc thật như sống nghèo khó, hiền lành, chấp nhận Thánh giá, khao khát sự công chính, thương yêu anh chị em, giữ tâm hồn thanh sạch để sống thánh thiện, biết gây bầu khí hòa bình, chấp nhận mọi thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đi trên chính lộ do Chúa khai mở, ta sẽ chẳng bao giờ phải lo lạc lối.
Bạn thân mến, là Kitô hữu, bạn và tôi có chính đời sống của Chúa Kitô làm mẫu mực và có chính Lời của Chúa làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, hành vi, lối sống của mình.
Là Kitô hữu, sự khôn ngoan của bạn và tôi, không phải là sự không ngoan mà ta vẫn nghe thấy trong đời thường quanh mình, càng không thể chấp nhận thái độ chỉ chọn lựa sống khôn ngoan theo thói đời mà làm cho đời sống đức tin trở thành tăm tối.
Sự khôn ngoan của Kitô hữu chỉ có một con đường, đó là ướm mình theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô và sống theo Lời Người dạy mà Tám mối phúc thật là bảng tóm gọn của những lời dạy ấy.
Từ những hình ảnh cụ thể của tội ác khủng bố, đến hình ảnh của một người khéo vun quén cho đời sống trần gian của mình mà Chúa Giêsu cho thấy trong vụ ngôn Người quản lý bất lương, chúng ta rút ra bài học đáng giá cho mình: sự khôn ngoan của người tín hữu là trở nên giống Chúa Kitô để được Thiên Chúa yêu thương, đón nhận.
Đời sống Kitô hữu có một nỗi giằng co lớn. Đó là vì ta cũng giống như anh chị em mình: rất say mê cuộc đời, say mê không thua bất kỳ ai. Nhưng ta cũng lại rất say mê vĩnh cửu, say mê đến tận cùng.
Bởi vậy chúng ta hãy để có thể gặp cái vĩnh cửu trong cái mau qua; vui chơi như mọi người nhưng vẫn tìm niềm vui thiên quốc; làm việc và sống trong cuộc đời, nhưng cũng thăng tiến Nước Trời trong chính cuộc đời ấy.
Sự khôn ngoan chúng ta, những người Kitô hữu đó là sự khôn ngoan biết để Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời mình.
1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay của Chúa.
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì? - Về vấn TN 25-C151
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì?
- Về vấn đề tiền bạc của cải trong cuộc sống. - Về vấn đề phải sống cho khôn ngoan. - Về vấn đề phải sử dụng những của cải Chúa ban như thế nào.
+ Rất tốt. Chúng con trả lời rất hay.
Bây giờ chúng ta bắt đầu vào câu chuyện. Cha hỏi chúng con, nếu có thật nhiều tiền chúng con có vui không? - Dạ vui.
+ Vì sao có tiền lại vui? Có tiền thì vui chứ sao. Vì tiền giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấb đề của cuộc sống.
Chúng con có biết bài thơ này không? Đây là một bài thơ cha vô tình nhặt được ở sân nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm sau thánh lễ dành cho giới trẻ. Bài thơ như thế này:
Tiền là tiên là Phật là sức bật của lò xo. Là thước đo lòng người Là nụ cười tuổi trẻ Là sức khỏe của tuổi già Tiền là hy vọng Là cái lọng che thân Là cán cân công lý Tiền là hết ý.
Chà nghe hay quá! Tiền là hết ý.
Đúng là có tiền thì vui nhưng bên cạnh cái vui đó, cha lại cảm thấy sợ. Chúng con có biết tại sao cha lại sợ không.
Đây cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này. Một câu chuyện có thật 100%. Câu chuyện xảy ra ở Mỹ, bang Texas.
Theo báo Weekly Wprld News mới đây thuật lại: tại bang Texas Mỹ, mọi người đã phải bàng hoàng vì một vụ án hết sức nhẫn tâm và vô nhân đạo. Bị cáo là một phụ nữ 32 tuổi có tên là Diana Lunberna. Trong 14 năm qua, bà đã lần lượt giết chết hết 6 đứa con dưới 5 tuổi của mình với một mục đích rất rõ rệt. Đó là để lãnh tiền bảo hiểm. Chuyện những đứa con của bà ta chết lúc đầu tưởng là chuyện thường tình chẳng mầy ai để ý nhưng có ngờ đâu là vừa qua, qua cái chết đứa con thứ sáu của bà, người ta mới phát hiện ra bà chính là thủ phạm đã gây ra những cái chết cho tất cả những đứa con từ 14 năm qua. Luật sư Johny Actkinson cho biết: “Lúc đầu, bà ấy tìm mọi cách để chối tội, nhưng sau khi cảnh sát đưa ra những bằng chứng xác đáng, bà đành thú nhận tất cả”.
Cuộc điều tra còn cho biết: trước khi thực hiện việc làm tán tận lương tâm này, bà Diana đều đã mua phiếu bảo hiểm cho chúng, ví dụ vào năm 1982 trước khi bé Melinda chết 1 ngày, bà đã bỏ ra 15.000 đôla để đóng tiền bảo hiểm với mục đích sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.
Đó chúng con thấy. Chỉ vì ham tiền mà một người mẹ đã đang tâm giết các đứa con do chính mình sinh ra. Cha không thể tưởng tượng nổi thế giới hôm nay lại có một con người như thế. Chính vì thế mà cha sợ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng con thấy cũng chỉ vì tiền bạc, mà người ta đã đánh mất cả phẩm giá làm người của mình.
Người quản lý trong bài Tin Mừng đâu phải là người nghèo khó. Nhưng ông bị đã bị tiền bạc sai khiến và đã trở thành kẻ bất lương.
Những người mắc nợ chủ cũng vì tiền bạc chi phối mà đã trở thành những kẻ đồng loã với tên quản gia gian lận
Ông chủ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vì tiền bạc mà làm một việc chẳng tốt đẹp chút nào khi dám mở miệng khen ngợi người quản lý bất trung của ông ta. Thật là cá mè một lứa!
2. Vậy thì Chúa muốn chúng ta phải làm thế nào?
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đưa ra những chỉ dẫn khá rõ rệt. Chúa bảo: "Hãy dùng tiền bạc"(Lc 16,9) - Dùng là sử dụng nó. Dùng chứ không tôn thờ nó. Hãy dùng nó như một phương tiện chứ đừng coi nó như một mục đích.
Đây là một người biết sử dụng tiền bạc như ý Chúa muốn:
Tiến sĩ Marcello Candia đã dùng tất cả tài sản để xây một bệnh viện chăm sóc bệnh nhân nghèo và người phong cùi tại Amazone ở Ba Tây. Ông tâm sự:
- Khi còn ở bậc trung học, tôi thuộc thành phần của nhóm trẻ được phân công đi thăm các gia đình nghèo. Một hôm thầy Cêciliô nhờ tôi phát thức ăn cho người nghèo. Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng Phanxicô đã chết vì bệnh cùi sau thời gian phục vụ thổ dân ở Ba Tây. Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đau khổ của Ngài. Dần dà hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy. Từ đó tôi muốn phục vụ những người bệnh cùi. Sau khi tốt nghiệp đại học, với tất cả tài sản gia đình để lại, tôi xây một bệnh viện phục vụ bệnh nhân nghèo và những người phong cùi. Đó là một người đã biết dùng tiền.
Nói đến đây tự nhiên cha nghĩ đến một câu châm ngôn của Pháp. "Tiền bạc là một người đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu". Nếu không biết cảnh giác thì con người rất có thể bị tiền bạc chi phối và sai khiến...biến người có nó thành một tên nô lệ chỉ biết dùng tiền vào những việc ăn chơi. phô trương như nhiều người trong xã hội hôm nay. Hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. (Lc 16,9). Biết dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu chúng ta sẽ làm cho cuộc đời của chúng ta có được một điều rất quí giá trong cuộc sống này. Đó là một cuộc đời "có hậu" - Có hậu ngay trong cuộc sống hôm nay và còn có hậu cho cả cuộc sống đời đời mai sau như Chúa đã hứa.
Mẹ thánh Têrêsa Calcuta thuật lại: Trong công việc từ thiện của chúng tôi, có nhiều người chúng tôi gọi là Cộng sự viên và chúng tôi thực sự muốn họ tiếp tay với chúng tôi để phục vụ và yêu thương những con người nghèo khổ. Tại Calcutta nầy, chúng tôi có nhiều người ngoài Thiên Chúa giáo và các anh chị em Thiên Chúa giáo cũng làm việc với chúng tôi tại ngôi nhà Hấp hối và những ngôi nhà bác ái khác. Chúng tôi cũng có những nhóm đi thay băng và phát thuốc cho người cùi.
Điển hình nhất là một người Úc, cách đây không lâu ông đã tới đây. Ông đã dâng cho chúng tô một gia tài lớn. Và sau khi đã dâng hiến tài sản lớn rồi. Ông nói:
- Đó là những của cải bên ngoài tôi, nhưng tôi còn muốn hiến những gì của chính bản thân tôi nữa.
Và bây giờ ông thường xuyên tới phục vụ nhà hấp hối. Ông hớt tóc, cạo mặt và trò chuyện với những người bị bỏ rơi nầy. Bây giờ ông không dùng thời giờ và sức lực của ông để phục vụ bản thân hoặc làm giàu nữa, nhưng ông muốn cho đi những gì của chính ông, và thực sự ông đang dâng hiến.
Cha muốn kết thúc bằng câu nói của George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, ông viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn".
Cha chúc chúng con sống đẹp như ý Chúa muốn để xứng đáng với tình thương Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày. Amen.
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải TN 25-C152
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải để hành động theo của mình, nhưng theo ý muốn của Đấng Tjao Thành. Bởi Thiên Chúa tạo dựng con người là để mong cho con người đạt tới hạnh phúc. Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn cưỡng bức con người hưởng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc con người có được do chính mình tự do chọn lấy. Bởi có tự do chọn lựa như thế con người mới thể hiện lòng mến yêu và sự khao khát hạnh phúc do Thiên Chúa tặng ban.
Tuy nhiên, tội xuất hiện đã làm vẫn đục tâm trí con người, đã làm cho con người biến ân ban tự do trở thành phương tiện phục vụ cho ý riêng của mình. Và oái oăm thay, ý riêng con người nào có chi tốt lành, nó chỉ chứa đây tà ý, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo, ghanh ghét...., Tự do không còn mang đúng ý nghĩa ban đầu của ân ban, đó là cách thế thể hiện lòng mến yêu sự thiện để sống theo sự thiện. Bị chi phối bởi tội, con người lạm dụng tự do để hành động ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa, để rồi tự do trở thành phương thế xô đẩy con người tới chỗ hủy diệt.
Thật vậy, trong thế giới hôm nay, người ta không còn coi Thiên Chúa là cùng đích, là cứu cánh duy nhất của cuộc sống, bên cạnh Thiên Chúa người ta còn tôn thờ một vị Chúa khác, đó là tiền bạc.Quả thật, để hướng dẫn cuộc sống, người ta không còn nói đến một chân lý tối hậu là Thiên Chúa, nhưng người ta còn nói đến nhiều chân lý khác để hình thành một khái niệm tương đối hóa chân lý. Vì thế, Thiên Chúa không còn là Đấng cậy dựa duy nhất của con người, người ta còn tìm thấy một nơi cậy dựa khác chẳng hạn tiền bạc. Đức Phanxico đã nói: “chúng ta đã tạo ra những thần tượng mới. Việc thờ phượng của con bò vàng ngày xưa đã tìm thấy một hình tượng mới và tàn nhẫn vô tâm trong sự sùng bái tiền bạc và các chế độ độc tài của một nền kinh tế không có khuôn mặt và thiếu mục tiêu thực sự nhân đạo.” Vâng, trong một thê giới tục hóa, người ta đặt tiền bạc ngang hàng với với thần thánh, có khi còn đứng cao hơn cả thần thánh:
Ông tiền ông Phật, ông Tiên Ba ông chụm lại, ông tiền cao hơn
Và khi so sánh với thế giới tiên phật, thì một mặt nào đó, con người cũng đang nâng tầm tiền bạc lên bậc thần thánh, và coi đó là ông chủ của mình. Thật vậy, một trong nhức nhối của xã hội hôm nay tại Việt Nam nói riêng, và thế giới nói chung chính là nạn tham nhũng. Điều đó nói lên, con người đã lấy tiền bạc làm mục đích của cuộc sống, và người ta tìm mọi cách thế để đạt mục đích nầy. Với một chọn lựa như thế, con người đã kiến tạo nên một nền văn hóa mới, nền văn hóa của sự vô cảm, để rồi mối tương giao giữa người với người không còn được biểu lộ bằng con tim, nhưng bằng những đồng tiền.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở chúng ta hãy đưa ra một quyết định chọn lựa dứt khoát: ai là ông chủ cuộc đời của chúng ta, Thiên Chúa hay tiền bạc? Và cũng là lời nhắc nhở chúng ta, những Kito hữu, chắc chắn chúng ta tôn thờ một mình Thiên Chúa, ông chủ duy nhất của chúng ta. Nhưng trong thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta cũng đang để Thiên Chúa đứng ra bên lề cuộc sống, và hình như mọi ưu tiên của chúng ta là làm sao kiếm được nhiều tiền hơn là tìm mọi phương thế để đạt nhiều ân sủng của Chúa.
Lạy Chúa, tiền bạc luôn làm cho chúng con chao đảo, và nhiều khi chúng con bán rẻ lương tâm kito hữu để lấy những đồng tiền vo nghĩa. Có lẽ, đôi khi Chúa cũng đau lòng gạt lệ vì sự chọn lựa sai lầm của chúng con khi chúng con bỏ Chúa chạy theo những đồng tiền phù du. Ước mong sao Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở để chúng con ý thức lại về mối tương giao giữa chúng con với Chúa để chúng con can đảm chỉ biết chọn Chúa làm ông chủ của mình. Amen Lm. Antôn Hà Văn Minh
Bạn có nghe nói về một người sắp chết trúng số không? Lo lắng anh ta bị kích động quá mức, gia đình người anh đã xin cha xứ của họ nói cho anh ta biết tin vui. Khi cha nói với anh ta rằng anh ta đã trúng 10.000.000 $, người đàn ông trả lời: “Con muốn dâng một nửa cho Nhà thờ”. Cha xứ quá ngạc nhiên đến nỗi cha đã bị nhồi máu cơ tim. Đây là một chuyện đùa nho nhỏ nhưng cho chúng ta thấy rằng tiền bạc có thể có ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay hỏi chúng ta: “Thái độ của bạn đối với tiền bạc là gì?” Đây là một số ý tưởng có thể giúp bạn trả lời câu hỏi đó.
Thứ nhất, có tiền không phải là một cái tội. Nhưng tội chính là ở chỗ lòng yêu mến tiền bạc chia cắt chúng ta với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn ở chỗ nhất trong cuộc đời của chúng ta – Ngài muốn ở trên tiền bạc và trên những sự sở hữu của chúng ta.
Thứ hai, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy là người quản lý tiền bạc thật tốt. Ngài muốn chúng ta phải khôn ngoan, lương thiện và có trách nhiệm. Chúng ta đừng bao giờ cho phép tính tham lam hay tính bất lương thống trị chúng ta. Thay vào đó, chúng ta hãy sử dụng tiền bạc của chúng ta cách khôn ngoan, hãy đầu tư nó cách khôn ngoan, và hãy quảng đại khi chúng ta có thể.
Thứ ba, hãy dâng hiến cho Giáo Hội và làm những việc bác ái khác, ngay cả nếu chúng ta chỉ cho một số tiền nhỏ, đó là một khía cạnh quan trọng trong cương vị người quản lý. Thánh Kinh mời gọi chúng ta hãy “lắng nghe người nghèo” (Proverbs 12,13). Chúng ta có thể tin chắc rằng bất cứ khi nào chúng ta biết cho đi những của cải ở trần gian của chúng ta, Thiên Chúa sẽ thưởng cho chúng ta những kho tàng trên trời – “chỗ ở vĩnh viễn” (Lc 16,9).
Cuối cùng, hãy nhớ rằng tiền bạc của bạn không phải của bạn; nó thuộc về Thiên Chúa. Giây phút bạn lìa đời, bạn sẽ không còn làm chủ tiền bạc của bạn nữa. Đúng vậy, bạn có thể cho con cái của bạn tiền hay làm việc bác ái. Tuy nhiên, tiền bạc sẽ tuyệt đối vô ích đối với bạn. Cách duy nhất làm cho tiền bạc có giá trị chính là mức độ mà bạn đã sử dụng tiền bạc để giúp đỡ những người khác: gia đình, bạn bè của bạn, Giáo Hội và người nghèo.
Tiền bạc là một đề tài rất phức tạp và mẫn cảm, vì thế hay xin Chúa Thánh Thần giúp bạn học biết cách giữ tiền cho đúng đắn.
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy con làm người quản lý tốt”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu TN 25-C153
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu đời hay không? Thực tế, vì tiền mà người ta xấu đi rất nhiều! Đồng tiền đã làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thùy mị, trở thành kẻ sa đọa, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là Tiên là Phật được, mà phải gọi là Ma, là Quỷ. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên – Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên – Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma quỷ mới làm biến chất con người. Chỉ có ma quỷ mới làm cho con người tha hóa đạo đức. Chỉ có ma quỷ mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao quý của biết bao nền văn hóa nơi các dân tộc.
Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đày đọa lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8:4-7).
Lời cảnh tỉnh của tiên tri Amos xem ra vẫn là lời nhắc nhở cho con người hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma quỷ, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Vẫn còn đó những kẻ buôn thần bán thánh nhân danh nhân nghĩa để biển thủ tư lợi riêng. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý là biết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em của mình, chứ không phải để vun quén cho bản thân.
Trong chuyện cổ Trung Hoa có câu chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là người rất giàu có, tiền bạc dư thừa nên cho người ta vay mượn rất nhiều. Một hôm, ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
– Tiền nợ thu được, ngài định mua gì không?
Mạnh Thường Quân đáp:
– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên gọi dân lại và bảo:
– Công nợ của các ngươi bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.
Nói xong, ông thu các văn tự lại và đốt đi hết.
Lúc về, Phùng Nguyên thưa với Mạnh Thường Quân:
– Nhà của tướng công châu báu đầy kho, gia súc đầy chuồng, tôi tớ đầy nhà, không còn thiếu thứ gì, ngoại trừ “ân nghĩa”. Vì thế, tôi trộm phép tướng công mà mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng không quan tâm nhiều, vì tiền bạc châu báu trong nhà đều dư thừa cả.
Ít năm sau, Mạnh Thường Quân bị bãi nhiệm phải trở về sống ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ, họ ra đón đầy đường. Thấy vậy, ông liền ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
– Trước kia tiên sinh vì ta mà mua “ân nghĩa”. “Ân nghĩa” đó giờ ta đã thấy.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang nói với chúng ta: “Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9).
Xin cho chúng ta biết sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để mua lấy bạn hữu nước trời ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Amen Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
– Suy niệm theo “The Word Among Us” Chúa Nhật 15 TN. Năm C
Suy niệm: Lc 16,1-13
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy TN 25-C154
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy tớ bất lương (không trung thực) trở thành anh hùng của câu chuyện? Có lẽ một bối cảnh nào đó sẽ giúp chúng ta hiểu. Chúa Giêsu vừa kể xong câu chuyện dụ ngôn về đứa con hoang đàng – một câu chuyện về một người cha tha thứ hoàn toàn cho con trai mình và tổ chức một bữa tiệc linh đình để ăn mừng anh ta trở về (x. Lc 15,11-32). Sự hoang phí của người cha quá lạ lùng đến nỗi bạn sẽ khó có thể tìm thấy bất cứ ai hành động như vậy trong cuộc sống thực tế.
Nhưng đó là điểm quan trọng. Đứa con hoang đàng là một câu chuyện dụ ngôn về lòng thương xót quá độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bây giờ, ngược lại, Chúa Giêsu kể một câu chuyện về lòng thương xót có giới hạn, năng động. Chúa Giêsu kể về một người quản gia thất sủng, sử dụng phương tiện mờ ám để tha thứ một phần nợ cho một số người mắc nợ ông chủ của mình.
Điều đó khác xa với người cha hoang phí, phải không? Và Chúa Giêsu biết điều đó. Người biết rằng thế giới này đang thiếu thốn sự tha thứ và lòng thương xót. Nhưng sau đó, trong kết luận của mình với câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu nói rằng những người theo Chúa dường như không thể thích hợp với cái gọi là sự quá thương xót của người quản gia bất lương này. Chúa Giêsu nói: “Con cái đời này… khôn khéo hơn… con cái của ánh sáng” (Lc 16, 8). Người quản lý thực sự khôn ngoan trong việc tha thứ các khoản nợ. Nhưng Chúa Giêsu đang tìm kiếm thứ gì đó vượt lên trên sự khôn ngoan và sắc sảo, và Người muốn thấy nó đến từ chúng ta. Người đang tìm kiếm sự thương xót đích thực, lòng thương xót quá độ để tha thứ mà không kèm theo sự ghi điểm (lấy công) nào.
Bạn có thể vượt qua thách đố của Chúa Giêsu không? Bạn có thể tha thứ, nhất là khi người kia không xứng đáng với lòng thương xót? Điều đó không dễ dàng, nhưng nó có thể. Điều đó sẽ xảy ra khi bạn tiếp tục thực hành nó và cầu xin ân sủng của Chúa để giúp bạn.
Hôm nay trong thánh lễ, bạn sẽ lãnh nhận được sự biểu hiện cao nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa: Mình và Máu Chúa Kitô, được ban cho bạn. Khi bạn lãnh nhận, bạn hãy để cho tình yêu của Chúa chảy vào trong bạn. Bạn hãy để cho tình yêu ấy làm tan chảy trái tim bạn và làm cho bạn nhân từ như Chúa.
“Lạy Chúa, xin dạy con biết tha thứ cách quảng đại như Chúa đã tha thứ cho con.
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền TN 25-C155
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường”, người ta có khuynh hướng biến mọi sự thành hàng hóa trao đổi. Hậu quả là ngày càng có nhiều những nhà đầu tư chỉ lo kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận; những cha mẹ chỉ lo làm giàu mà quên trách nhiệm với gia đình; những tín hữu vì lợi lộc vật chất không ngần ngại vi phạm luật Chúa; những người bạn bè hay họ hàng thân thuộc vì tiền mà coi nhau như kẻ thù. Vì lợi lộc vật chất, người ta không trừ một thủ đoạn nào. Ngôn sứ A-mốt nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn ấy vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.
Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm ra tối tăm. Đó cũng là lý do khiến con người coi thường đạo lý và tiếng nói của lương tâm. Người tín hữu được mời gọi biết dùng của cải cho hợp lý. Lời Chúa giúp cho chúng ta “nghèo mà không hèn”, “giàu mà không sang”.
Một hiện tượng xã hội khá phổ biến hiện nay là sự lãng phí. Người giàu lãng phí, mà người nghèo cũng lãng phí. Người ta lãng phí thời gian, lãng phí vật chất và lãng phí cả sức khỏe và mạng sống. Tại các quốc gia phát triển, mỗi ngày đều có một khối lượng lớn thực phẩm bị đem đi hủy vì hết hạn sử dụng, trong khi ở các nước nghèo, biết bao người lớn và trẻ em không đủ chất dinh dưỡng để có một cuộc sống bình thường. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng của người nghèo, đã khẳng định: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (Huấn từ nhân Ngày Quốc tế về môi trường, 5-6-2013). Có thể chúng ta lập luận: “Của cải tôi làm ra, hoặc tôi mất tiền để mua sắm, tôi có quyền lãng phí!”. Nói như thế, là chúng ta quên rằng, người sở hữu đích thực mọi của cải là Thiên Chúa, chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quản lý. Người quản lý trong lãnh vực nào cũng phải trung thành và tận tâm lo cho việc sử dụng của cải đúng mục đích, tiết kiệm, có ý nghĩa và sinh ích lợi cho mọi người.
Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người hãy sống khó nghèo. Khái niệm “khó nghèo” thường hay bị hiểu sai. Vị Đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải thích với chúng ta: “Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh” (Đường Hy Vọng 412). Như thế, khó nghèo là sự trân trọng với tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng và cố gắng để đừng lãng phí chúng. Đức Hồng Y kết luận: “Không có của mà tham lam vẫn chưa phải là thanh bần; có của mà không dính bén vẫn có thể ‘có lòng khó khăn’ thực sự” (ĐHV 411).
Khó nghèo đích thực còn là khả năng và thiện chí dùng của cải của mình để xây tình liên đới và nối tình đệ huynh, góp phần xây dựng một xã hội an bình. Nhân vật người quản lý trong Tin Mừng hôm nay được chính Chúa Giêsu gán cho một tính từ là “bất lương”. Như thế, anh không thể làm mẫu mực cho chúng ta trong việc quản trị tài sản được. Chúng ta không thể hiểu đúng giáo huấn của Chúa, khi chỉ trích dẫn một câu hay một đoạn Tin Mừng, nhưng cần liên kết với toàn thể để tìm ra ý nghĩa sứ điệp mà câu chuyện muốn diễn tả. Chắc chắn Chúa không không muốn chúng ta mưu mẹo gian lận như người quản lý bất lương này. Điều Chúa dạy ta là hãy dùng những của cải mình có mà giúp đỡ anh em, bởi lẽ sự giàu nghèo chỉ nhất thời, tình huynh đệ mới tồn tại mãi mãi. Giúp người khác khi mình thịnh vượng chính là của để dành phòng khi mình sa cơ lỡ vận thì có người giúp đỡ lại mình. Khi nhắm mắt xuôi tay, để lại của cải chẳng giá trị bằng để lại tình thân nghĩa. Bởi lẽ của cải chỉ một ít người được hưởng, còn tình thân nghĩa thì lưu danh rộng khắp và lâu dài.
Thiên Chúa là Đấng Cứu độ chúng ta. Ngài cũng là Chủ tể của lịch sử và là Đấng sáng tạo muôn loài. Những quyền hành nơi trần gian từ bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải phục quyền Ngài, vì Ngài là Đấng tối cao. Vì vậy, từ bậc vua chúa đến những người bình dân, ai nấy đều phải sống thánh thiện ngay thẳng. Như thế, họ sẽ đẹp lòng Chúa và được Ngài ban ơn (Bài đọc II).
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Sự khó nghèo đích thực còn là tâm tình cậy trông và phó thác nơi Chúa, luôn luôn cảm thấy cần có sự che chở của Ngài. Nếu một giây phút ta bị Thiên Chúa lãng quên, thì ta sẽ không còn hiện hữu trên cõi đời. Nhờ sự hiện diện của Chúa, ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và ta được đong đầy niềm vui.
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà TN 25-C156
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà xây dựng một đất nước văn minh hiện đại, người người, nhà nhà, được sống trong yêu thương, bình đẳng, giầu mạnh cả tinh thần lẫn vật chất ? Thách thức lớn của bậc lãnh đạo không phải chỉ là tiền, quyền, mà còn là tính hợp lý khi sắp đặt, phân chia, đúng vị trí công tác kẻ được giao, người được nhận. Nhờ có bằng cấp, nhiều người được cơ cấu vào sứ vụ quan trọng ; nhờ kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ, cũng không ít người tự tin trong chức quyền đang nắm giữ, sát với câu thành ngữ: có thực mới vực được đạo. Đất mầu mỡ, trời mưa thuận, tình người được giao hoà trổ sinh ơn phúc.
Cọp chết để da, người chết để tiếng, muôn dân thiên hạ tồn tại nhờ bởi tình yêu thương, con cháu thành danh, thành tài, không thể thiếu vắng phúc lộc tổ tiên. Giáo huấn “khôn ngoan và trung tín” của Chúa Giêsu, luôn xác thực cho mọi đối tượng, khi mà người người ý thức việc sử dụng ơn ban để sống, để phát huy tình đồng loại cách hữu hiệu nhất. Khó khăn ở đời này ai cũng có, mơ ước được hạnh phúc thì ai chẳng đầy dư, quá khứ có thể chỉ là giấc mơ, tương lai lẽ nào là ảo tưởng, vậy thì hiện tại phải quan trọng, phải là cơ hội quyết định cho những ai đang muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa. Đói nghèo cần được ấm no, ưu tư cần được giải thoát, tật bệnh sẽ mau được chữa lành, và bình an hạnh phúc thật sẽ không còn nằm trên lý thuyết nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào niềm tín thác rất thiêng liêng và ý chí quyết tâm của ta.
Xác định mục tiêu ở đời là phải khôn ngoan, biết sử dụng lợi thế của mình, và nhanh chóng hành động có lý, có tình, nhất định là ưu tiên số một, không thể chậm trễ. Câu chuyện dụ ngôn về người quản lý bất trung năm xưa mà Chúa Giêsu kể, sẽ vẫn mãi là bài học căn bản, nhằm giúp ta chớ ảo tưởng “mình” là ông chủ. Sông có khúc, người có lúc, sống phải có tình, cư xử phải có nghĩa, vì “tôi” chỉ là quản lý ; “ông chủ” nhất định phải biết tôi đang trung tín ở mức độ nào. Tính nhạy bén của người quản lý khôn ngoan là biết xoay sở, kết quả làm việc tốt hay xấu bao giờ chẳng phơi bày khi đến giờ “chủ nhân” ấn nút gọi tính sổ. Bắn súng không nên phải đền đạn, hình phạt hay phần thưởng, vẫn mãi là ưu tư của người quản lý: mất chức, mất quyền, là lo lắng tự nhiên, nhưng điều khiếp sợ hơn là sợ bị cô đơn, là sợ không được đón tiếp ở tận cùng đầu cầu bên kia cuộc sống.
Nhiều người, nhiều thế hệ chúng ta đã đọc được câu tục ngữ: đời này ai dại ai khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Nhìn xa một chút, ta có thế thấy không ít những người đang đánh lừa cảm giác “sống vô tư”: làm hết sức, ăn nhậu nhiệt tình, và cư xử với anh em bạn hữu như chỉ có ngày hôm nay, mai tận thế ! Trong khi đó, cũng không thiếu những “đại gia hão”, lầm tưởng mình đại đức từ bi: lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi ! Chúa Giêsu thật chí lý khi đưa ra những lý lẽ làm thước đó cho hành động sống ân tình, ân nghĩa, của mỗi người: “Tôi nghe nói anh sao đó ? Hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa”. Sống trên đời với ý tưởng khôn ngoan: mưu cầu hạnh phúc thì đúng, song “hiếu thảo” sai chỗ, rộng rãi hào phóng, thiếu phù hợp, cũng chỉ làm trò hề cho thiên hạ chê cười mà thôi. Đức Giêsu không khen, không chê, người giầu kẻ nghèo, nhưng Ngài có ý nhắc nhớ: người quản lý phải biết thế nào là trung tín, khôn ngoan, và biết sẽ có ngày ông chủ gọi mình tính sổ.
Hoàn cảnh, điều kiện, chắc chắn mỗi người mỗi khác, còn nhu cầu được an bình vinh phúc, ai ai cũng thao thức giống nhau. Tiềm ẩn trong ước muốn sâu xa, nếu mỗi người có tìm hiểu, khám phá, hẳn sẽ thấy ơn ban rất phong phú, hay còn gọi là hồng ân khá nhiệm mầu. Người tài giỏi, người giầu có, người chức quyền, tất cả đều hướng tới sự sống, đôi khi trực tiếp, gián tiếp, Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thiên Chúa, đang kêu gọi chúng ta bổ túc, giúp nhau sống đẹp, sống tốt, và giúp nhau cùng tiến tới hạnh phúc đời đời. Với niềm tin kitô giáo, tình yêu và hạnh phúc thật, chỉ xảy ra khi ta biết sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp, gọi là trung tín, khôn ngoan, nếu không chỉ là hạnh phúc giả, là tên giầu có khờ dại. “Ai trung tín trong việc nhỏ, người ấy sẽ trung tín trong việc lớn”. Sử dụng tài trí thông minh, sống ơn ban thật nghiêm túc, chính là câu trả lời: “hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper TN 25-C157
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper (Ngày xá tội) của người Do Thái hăng năm vẫn thực hành để sám hối. Có lẽ ngày kết sổ, người quản lý bất lương này cũng liên quan cách giải quyết theo tính toán người đời mà không theo ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày Jom Kepper (Ngày Lễ Xá Tội):
Ngày lễ xá tội được ghi trong sách Lêvi, được ghi lại trong (Levi 15, 29 – 30): “”Tháng bảy, mồng mười tháng ấy, các ngươi sẽ hãm mình và không làm việc nào cả, người bản hương cũng như khách ngụ cư giữa các ngươi. Vì trong ngày ấy người ta sẽ làm phép xá tội trên các ngươi, để tẩy uế các ngươi: các ngươi sẽ được sạch trước nhan Yavê về mọi tội lỗi các ngươi đã phạm.”
Ngày lễ này năm nay được tổ chức vào ngày 8 – 9, tháng 10 năm 2019. Trong hai ngày đó họ không ăn uống, tắt hết mọi phương tiện truyền thông, vì là ngày hưu lễ. Họ suy gẫm sách Thánh, cầu nguyện, sám hối về tất cả những gi đã không hoàn thành trong việc khấn hứa và cả những sai lỗi. Cầu xin thành tâm để được tha thứ vì ngày lễ xá tội.
Biết mình cần điều gì trong thực tại này và để điều ấy tồn tại trong tương lai là điều cần thiết. Biết để điều chỉnh và biết để không rơi vào những sai lầm trong đầu tư vĩnh cửu.
Ngày kết sổ.
Người quản lý bất lương được khen theo tính cách người đời là biết tìm cách hạ cánh an toàn. Ghi lại số nợ của người chủ, không mất gì cho mình mà lại được nơi ẩn náu sau khi mất việc. Ngày xá tội như thế đã tự đánh mất chính mình trong ơn tha thứ. Sám hối trước ngày ra đi mời gọi trả lại sự công bằng đã bị đánh mất. Đáng lẽ là thời gian còn lại cần thiết để xin xá tội với lòng sám hối, người quản lý bất lương lại dùng cách để xâm lấn tài sản của chủ, tạo điều kiện cho người mắc nợ thoả lòng tham và anh ta được lại quả nhờ thương vụ đó.
Sắp xếp cho ngày cuối cùng cho cuộc đời mình như thế nào cho đúng nghĩa?
Đầu tư cho cuộc sống đời này như người quản lý khôn ngoan nhưng bất lương này. Là cách đầu tư dại khờ vì chẳng mang theo gì được khi ngày kết sổ đời đã tới.
Đầu tư cho chính mình thôi là một điều ngu ngốc. Tài chính, tiền của được ban cho là làm lợi cho anh chị em mình, như người Samaria nhân hậu, dùng tiền của, sức lực, thời gian để trợ giúp cho người bị nạn (Lc 10, 25 – 37).
Sách châm ngôn cho hay: “Như mặt đáp mặt trong nước, cũng vậy lòng con người đối với con người.” (Cn 27, 19). Các nhà chú giải cho rằng sở dĩ mặt soi mặt không soi bằng gương nhưng phải quỳ gối gần mặt nước mới thấy mặt mình. Hành vi quỳ gối diễn tả lòng khiêm hạ, cúi đầu nhận ra lỗi lầm hoặc như kinh hoà bình dạy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Con người sống với con n gười là quan trọng, sau đó là với thiên nhiên thụ tạo. Sắp xếp tính sổ đời mình là cách xét lại những tương quan đó để có một gia tài không hư mất.
Ngày kết sổ thực hiện đi thực hiện lại trong đời sống là sự cần thiết cho một hành trình ra đi và không con trở về, Ngày chỉ còn hành trang vĩnh cửu tồn tại cùng mang theo.
Xin Chúa giúp con trung tín trong việc tiền của để trung tín trong việc phụng sự Chúa nơi anh chị em.
Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung TN 25-C158
Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung với nước, ca ngợi những tình bạn trung thành,… Người làm vua thích trọng dụng những trung thần nhiều tài nhiều đức, những nhà phú hộ cũng trọng dụng những người quản gia trung tín. Hôm nay, Thầy Giêsu đã khuyên dạy người môn đệ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Lời mời gọi đó nhắc nhở mỗi người môn đệ hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, vì Người là Đấng thành tín yêu thương.
Người quản gia trong câu chuyện mà Thầy Giêsu kể ra hôm nay là một người quản gia bất lương. Anh đã bất lương trong việc phung phí tài sản của chủ và trước khi chủ cất chức quản gia của mình, anh còn bất lương hơn trước. Anh suy tính và hành động hết sức khôn khéo là tự ý giảm nợ cho các con nợ của chủ để được họ đón rước sau khi bị cất chức (x.Lc 16, 1-7). Anh trở thành vị “ân nhân” của các con nợ nhờ hành động của mình. Bởi thế, anh được khen là người khôn khéo. Thầy Giêsu nhìn nhận: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Nếu người đời biết dùng tiền của để có được những đảm bảo cho đời này thì tại sao người môn đệ lại không biết dùng của cải bất chính để mua lấy hạnh phúc đời sau? Điều đó không có nghĩa là ta có thể lấy những gì không thuộc quyền sở hữu của ta, những gì của người này để trao cho người khác như người quản gia bất lương đã làm. Những của cải ta có được ở đời này sẽ là phương tiện tốt để ta có thể chia sẻ cho những người anh chị em. Chính khi chia sẻ với tình hiệp thông như thế và kêu gọi người khác làm là ta đã khôn khéo để mua lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu. Khi biết sử dụng những của chóng qua và trung tín với những của cải của người khác là ta sẽ được Thiên Chúa ban cho của cải dành riêng cho ta. Đó là được trở nên chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, trở nên người Tông đồ đích thực của Chúa cho mọi người (x. Tm 2, 1-8).
Để trung tín với Thiên Chúa, tự sức ta, ta sẽ chẳng thể thực hiện được, nhưng nhờ ơn Chúa giúp và khi biết phó thác đời mình cho Thiên Chúa, ta có thể trở nên người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Như lời Thầy Giêsu đã khẳng định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13), ta cũng không thể “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Cuộc sống cho ta những kinh nghiệm về sự trung thành và sự bất trung của ta với Thiên Chúa. Những lần xưng tội, ta đã dốc lòng chừa bỏ tội lỗi nhưng sau cùng ta lại vấp ngã. Chính khi tự dựa vào sức mình và mải mê tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm của cải đời này, ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung tín, Ngài vẫn trung tín trong tình yêu dành cho ta. Ngài luôn luôn cho ta những cơ hội để trở về. Dần dần, Ngài vén mở cho ta một con đường đầy hy vọng. Đó là luôn trở về với chọn lựa căn bản của đời mình: Chọn Chúa trên hết mọi sự. Nhờ trở về với chọn lựa này mà ta luôn luôn có khả năng tiếp tục trung thành với Thiên Chúa. Mỗi ngày, nhờ bước theo sát dấu chân của Chúa Giêsu, ta được Ngài ban cho ơn trung thành với Thiên Chúa, để phụng sự Ngài suốt cả đời ta, “và dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, để cho tất cả để được ơn cứu độ, vì chính Thiên Chúa muốn cho ai nấy đều được cứu độ” (x. Tm 2, 1-6).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã dạy dỗ con, vì Chúa đã rất yêu thương con, Chúa đã muốn cho con được cứu độ. Xin ban cho con và cho những người môn đệ của Chúa ơn trung thành theo Chúa và luôn chọn “Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng con”. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa và tha thiết xin Chúa biến đổi con mỗi ngày để trở nên giống Chúa hơn. Amen.
“Quả thế, con cái ở đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8b).
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố TN 25-C159
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà mình. Ông đã mời anh đến và yêu cầu tính sổ. Sau khi nghe vậy, anh đã nhanh lẹ suy nghĩ, tính toán và đưa ra hành động là giảm bớt số nợ cho những người nợ ông chủ, hầu đến lúc anh bị đuổi sẽ có người đón anh về. Hành động của anh đã được ông chủ khen là khôn khéo, nhanh trí và nhanh lẹ để xử lý (x. Lc 16,1-8). Chúa Giêsu ước ao phải chi con cái ánh sáng là những Kitô hữu cũng nhanh lẹ và khôn khéo trong việc đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hề hư nát. Ngài không ngừng giảng dạy và trao ban cho tất cả mọi người về cách khôn khéo và đường nhanh lẹ để đạt được điều đó. Ngài nói đến việc sử dụng tiền của thế nào để phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ rước mình về (x.Lc 16,9). Tiền của là phương tiện nuôi dưỡng cho mình và mọi người ở đời này, nhưng cũng là phương tiện cho mình và mọi người đạt đến ở đời sau khi mỗi người cùng biết chia sẻ cho nhau. Đức Cha Lambert, Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá đã đem tài sản mình có góp vào công cuộc truyền giáo trong việc hỗ trợ, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện. Ngoài ra, ngài chia sẻ tài sản cho người nghèo khổ để đem niềm vui cho mọi người ngay cả những người ít thiện cảm với ngài. Ngày nay, cũng không ít người đem tiền của mình có để giúp trẻ em nghèo, người khuyết tật… Sự chia sẻ đó không tự nhiên họ thực hiện được. Đâu đó, họ cảm nhận và nhìn thấy được hạnh phúc đích thực đang ở đây.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy khôn khéo và nhanh lẹ đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hư nát trong Thiên Chúa và qua tha nhân. Nhờ đó, chúng ta trở nên những con cái ánh sáng khôn khéo và nhanh lẹ. Mỗi người chúng ta không thuộc về thế gian vì chúng ta đã được cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, xin giúp con xét lại đường lối con đi và giúp con quay gót trở về cùng thánh ý Chúa. Xin giúp con nhanh lẹ chứ không trì hoãn tuân theo mệnh lệnh Ngài” là chia sẻ những gì mình có cho mọi người. Để con được sống hạnh phúc và trở nên con cái ánh sáng như lòng Chúa ước mong. Amen.
Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng TN 25-C160
Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng nói đến tiền. Vì thế, có người định nghĩa: “Con người là con vật miệng luôn kêu tiền tiền.”
Sự kiện này cho thấy tiền bạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế, người ta nói rằng: “Có tiền mua tiên cũng được.” Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về thói đời: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết ông tôi.”
Quả thế, tiền bạc có một sức mạnh kinh khủng và là một trong những phương tiện giúp chúng ta sống xứng đáng với nhân phẩm, sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Tuy nhiên, tiền bạc cũng có thể là thứ cám dỗ lớn nhất khiến nhiều người làm mọi cách, bằng mọi giá để sao có nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý.
Để hướng dẫn chúng ta có một thái độ đúng đắn đối với tiền của, Chúa Giêsu hôm nay kể dụ ngôn về viên quản lý bất trung. Đây là một dụ ngôn hay nhưng lại khó giải thích. Có lẽ cái hay là cái khó, mà cái khó mới ló cái khôn. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng dụ ngôn này là một “crux interpretum” – thập giá để giải thích. Chúng ta cố gắng giải thích dụ ngôn về viên quản lý để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.” Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.”
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ. Câu chuyện này giúp ta hiểu dụ ngôn trong Tin Mừng.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu văn hóa của Do Thái về việc quản lý. Người quản lý thời đó không được trả lương, nhưng được chủ giao quyền để quản lý tài sản. Nếu ông không quản lý cách ngay thẳng hoặc thua lỗ, thì chủ có thể sa thải ông.
Chúa Giêsu nói đến trường hợp này, người quản lý có vấn đề nên chủ tính sẽ truất phế ông. Ông bắt đầu gọi con nợ đến viết lại biên lai, để sau này người ta rước ông về.
Chúa Giêsu không khuyên chúng ta học sự lưu manh và lừa lọc của ông ta, nhưng học nơi ông là biết khôn ngoan tận dụng mọi hoàn cảnh, biết dùng tiền của để xây dựng các mối tương quan bạn bè và nhất là để tìm kiếm hạnh phúc đời đời.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học phải biết sử dụng của cải. Việc sử dụng của cải có ba mức độ:
1- Biết sinh lợi
Mức độ thứ nhất là biết sinh lợi những gì Chúa ban. Của cải Chúa ban là một hồng ân. Nếu Chúa ban cho chúng ta có của cải thì chúng ta phải biết sinh lời nó. Dụ ngôn về những nén bạc Chúa giao cũng ám chỉ điều đó. Phải làm sinh lời của cải để có thể làm giàu cho gia đình, xã hội. Dùng tiền bạc để tạo nên việc làm, phát triển nghề nghiệp, mang lại lợi tức cho đời. Chúng ta hãy làm giàu cách công chính trước mặt Thiên Chúa.
2- Biết xây dựng
Mức độ thứ hai là biết dùng tiền của để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hơn, nhân bản hơn. Bởi lẽ, người ta nói: có tiền là chuyện kinh tế, nhưng tiêu tiền là chuyện của văn hóa. Nghĩa là biết dùng tiền của để sống cho có tình có nghĩa.
Có người tiền nhiều nhưng chỉ bỏ trong ngân hàng, trong khi cha mẹ già bệnh tật đau yếu mà không bao giờ giúp đỡ.
Có người túi tiền đầy, nhưng tấm lòng thì hẹp và đóng lại trước những nỗi đau của người khác.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết dùng tiền của để đầu tư cho con cái, đào tạo thế hệ trẻ và phát triển các tài năng.
3- Để vào Nước Trời
Mức độ thứ ba cao hơn là dùng tiền của mua Nước Trời.
Triết gia Gariel Marcel phân biệt hai phạm trù: có và là. Chữ “có” bao gồm của cải, sức khỏe và tài năng. Tất cả những điều này là phương tiện để giúp chúng ta sống chữ “là,” nên người hơn, nên thánh thiện hơn. Nghĩa là dùng tiền của để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Không tôn thờ tiền bạc, vì nó là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nếu chúng ta coi tiền bạc là trên hết, khi đó bậc thang giá trị bị đảo lộn, các giá trị đạo đức, luân lý và nhân phẩm trở thành thứ yếu. Chúng ta có thể đánh đổi tất cả để có tiền. Khi đó, tiền bạc trở thành thảm họa cho chúng ta.
Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Khi có tiền của, chúng ta biết chia sẻ với người nghèo khổ, giúp đỡ những ai gặp khó khăn túng thiếu. Sống bác ái và chia sẻ những gì mình có với người khác là con đường dẫn chúng ta vào Nước Trời. Như Chúa dạy, khi Ta đói các người cho ăn, khi Ta khát các ngươi cho uống… Hãy vào mà hưởng niềm vui với chủ ngươi (Mt 25,25-30).
Cho nên, hãy dùng của cải để sống cho có tình nghĩa, nhân ái và tìm kiếm hạnh phúc thiên đàng mai sau. Amen!
Một người phú hộ giầu sang, Có người quản lý, xa đàng thất thu.Tiêu xài phung phí thiếu bù, Đến TN 25-C161
Một người phú hộ giầu sang, Có người quản lý, xa đàng thất thu. Tiêu xài phung phí thiếu bù, Đến khi tính sổ, dự trù trong kho. Sợ rằng sa thải, nên lo, Kêu hai con nợ, sửa cho hợp đồng. Chi bằng rút bớt của công, Ghi vào văn tự, sổ hồng phân đôi. Hai bên có lợi đền bồi, Chủ khen đầy tớ, tham mồi khôn ranh. Bất lương hành động thật nhanh, Dối gian tính toán, tìm danh sau này. Nhỡ cơ đón tiếp có ngày, Người đời khôn khéo, cơ may trong đời. Các con học cách ở đời, Dùng tiền gian dối, sinh lời đời sau. Cuộc đời lữ thứ qua mau, Giữ lòng trung tín, giúp nhau sống đời, Gắng công chiếm lấy Nước Trời, Làm tôi Thiên Chúa, ngàn đời hiển vinh.
Cậu truyện trong bài phúc âm không xa lạ với cách suy nghĩ và hành xử của chúng ta. Chúng ta với trí khôn biết tính toán và sự lanh lợi đã lợi dụng nhiều cơ hội để làm lợi cho riêng mình. Chúng ta nghe dụ ngôn về người quản lý bất lương nhưng hành động khôn khéo sau khi viết lại văn tự cho vay. Anh quản lý này đã khéo léo sửa lại văn tự có lợi cho anh trong cuộc sống đời tạm trong tương lai, nhưng lại thiệt thòi nhiều cho ông chủ.
Truyện kể: Có hai cậu bé chơi ở bãi đậu xe, nhặt được chiếc ví của người đàn bà đánh rơi. Trong ví có tên, địa chỉ và tờ giấy 10 đô la. Một trong hai cậu bé nói: Chúng ta không thể giữ ví tiền lại. Nhưng trước khi trả lại cho bà ta, chúng ta hãy đổi giấy 10 đô ra tiền lẻ, tờ một đô. Chúng ta biết ý đồ của hai cậu. Hai cậu bé khéo xoay sở để tính lợi, kiếm tiền thù lao.
Anh quản lý bất lương đã phung phí của cải vào những trương mục không tốt. Tiền bạc làm mờ mắt con người. Anh đã không ngay thật trong việc quản lý nên bị chủ cách chức. Chúa Giêsu đã nhiều lần phê phán người giầu có chỉ biết dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ. Họ chỉ tìm những vui thích hiện tại mà, không quan tâm đến định mệnh đời sau. Thu tích của cải đời này mà không làm giầu trước mặt Chúa là khờ dại.
Thật ra, Chúa không lên án người giầu có hay tẩy chay họ, Chúa vẫn được họ ân cần tiếp đón và dùng bữa với họ. Chúa chỉ nặng lời kết án những người ích kỷ chỉ bám víu vào tiền bạc và cách sử dụng đồng tiền của họ. Tiền tự nó không xấu, xấu hay tốt tùy ở sự nhận thức và thái độ của người xử dụng nó. Tiền sẽ là phương tiện tốt, có thể dùng để làm điều thiện và giúp đỡ kẻ khốn cùng. Chúa nói rằng: Các con hãy dùng tiền của gian dối mà mua nước trời. Tiền gian dối không phải là tiền ăn trộm, ăn cướp cũng không phải là tiền mua bán đồ quốc cấm. Tiền gian dối là tiền của thế gian. Chúng ta biết rằng cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Chúng ta không thể dùng tiền phi nghĩa mà giúp người nghèo.
Ông quản lý dùng tiền để mua nhân nghĩa, nhưng chỉ là nhân nghĩa đời tạm này. Chúng ta có thể dùng tiền mua Nước Trời. Lấy cái tạm thời biến thành vĩnh cửu. Đó chính là sự ý thức, lòng khao khát và chia xẻ yêu thương trong việc xử dụng đồng tiền. Cuộc đời trần thế là chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu. Hãy dùng tiền giấy đổi tiền thật và dùng tiền thật mua Nước Trời . Công qủa chúng ta làm ra do việc bác ái yêu thương, chúng ta sẽ được an hưởng, được hạnh phúc và an vui muôn đời trong nước Chúa.
Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có TN 25-C162
Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có thái độ nào đối với tiền của mà ta đang có đây? Lời Chúa trong Chúa nhật XXV Thường niên C cho ta câu trả lời về thái độ của con người đối với của cải.
Người quản lý thời Chúa Giêsu bên Do thái có quyền thay mặt ông chủ để quyết định tiền lương cho công nhân. Nếu người quản lý làm thiệt hại tài sản của ông chủ thì luật pháp cũng không buộc ông phải đền trả mà chỉ có thể bị ông chủ sa thải thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể (Lc 16, 10-13) có sự biến đổi nơi thái độ của người quản lý đối với tiền của. Người quản lý trong dụ ngôn bị ông chủ sa thải vì ông đã phung phí tiền bạc của ông chủ. Ông đã tích cóp tiền của cho riêng mình, biển thủ của chủ. Ông thật đáng tội. Thế nhưng đứng trước sự sa thải của chủ, giờ đây ông đã thay đổi thái độ. Ông không tìm cách thu vén cho mình nữa nhưng ông đã tìm cách trao tiền cho người khác. Ông đã biết lấy đồng tiền để mua lấy bạn hữu. Ông không lợi dụng tình người để tích trữ tiền của nữa. Nhưng ông đã lợi dụng tiền của để tích trữ tình người. Và nhờ thái độ biến đổi ấy mà ông được ông chủ khen là khôn khéo.
Kết luận dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra bài học: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Sự an nghỉ đời đời, vinh quang trong Nước Trời, hạnh phúc trường cửu sau cái chết mới là cùng đích của cuộc đời con người. Tiền của chỉ là phương tiện giúp con người trên đường tiến tới Nước Trời. Tiền của được trao vào tay con người và con người có nghĩa vụ quản lý nó mà thôi. Khéo dùng tiền của thì vững bước trên đường đời, vụng dùng tiền của thì đường đời tăm tối.
Con người quản lý tiền của. Con người không phải là ông chủ của tiền của nên bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị tước hết tiền của. Dù có giàu sang quyền quý đến đâu đi nữa thì đứng trước cái chết, không ai còn có thể sở hữu được tài sản nữa. Bởi con người không có toàn quyền sở hữu tài sản mãi mãi, nhưng nó chỉ là người quản lý tài sản trong vài chục năm là cùng.
Chỉ là người quản lý, nên có thể người này được trao cho ít, người kia được trao cho nhiều. Người được trao cho nhiều thì có nghĩa vụ làm lợi nhiều. Và ông chủ là Thiên Chúa có thể đòi ta phải giải trình cả lời lẫn vốn bất cứ lúc nào. Nếu ta chỉ biết thu tích của cải và để vào một chỗ thì lấy đâu ra lãi. Và ông chủ không những sẽ không trao cho ta thêm vốn nữa mà còn lấy đi luôn cả những gì ta đang có.
Thế nhưng tôi phải làm lãi cái gì? Là người quản lý khôn khéo sẽ biết lấy tiền của để lo phần rỗi linh hồn mình. Chúa không dạy ta đi biển thủ của công để chia cho người khác. Làm thế là bất công với cả xã hội. Nhưng Chúa muốn ta có thái độ chính xác đối với của cải trần gian và biết đâu là giá trị thực sự của nó: Tiền của không là cùng đích, nhưng nó chỉ là công cụ, là phương tiện giúp ta đạt tới cùng đích là Nước Trời.
Thái độ như thế đối với tiền bạc không giống với thái độ thường tình của loài người. Tiên tri Amos xưa đã lên án những người vì lợi ích cho túi tiền của mình mà họ sẵn sàng tìm cách tiêu diệt người khác. Để có được lợi nhuận, họ sẵn sàng chà đạp lên đồng loại bất chấp mọi thủ đoạn. Thái độ ấy đem lại cho họ nhiều tiền, nhiều của. Đồng tiền trở thành ông chủ của họ. Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Vì họ không thể vừa làm tôi tiền bạc, vừa làm tôi Thiên Chúa; Vì họ không thể tiếp tục thực hiện cách thức kiếm tiền của mình nếu họ chấp nhận có Thiên Chúa hiện diện bên họ.
Đứng trước một xã hội đầy rẫy sự tham ô, hối lộ, một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận tiền của làm tiêu chuẩn để đo lường mọi giá trị, con cầu xin Chúa hằng soi đường chỉ lối để con biết lựa chọn con đường đưa tới vinh quang Nước Trời, biết lựa chọn thái độ phù hợp với tiền của. Nguyện xin Thần Khí Chúa giúp con biết quản lý tốt những gì Chúa trao phó cho con, biết dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu, mua lấy tình người, mua lấy cho mình sự thanh sạch, sự bình an và thanh thản trong tâm hồn để sẵn sàng chờ ngày Chúa đến.
Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng TN 25-C163
Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng co không biết chọn lựa.Thường con người xây đắp cái gì có thể thấy được, dễ đụng chạm, dễ sờ mó. Có những sự việc khó lường trước khó thấy được. Những chuyện phù hoa, diễm lệ, những cái hào nhoáng bên ngoài dễ làm cho con người choáng ngập. Hầu hết khi sống trong một thế giới văn minh, người ta ít nghĩ tới những điều xa xôi, sự sống đời sau vv…Có những người cho sự sống vĩnh cửu là ảo tưởng, là không có thật. Họ xây dựng, vun đắp cái gì mau qua…Tuy nhiên, xét cho cùng người khôn là người biết xây đắp cuộc đời này với sự khôn ngoan, với ánh sáng dọi soi của Thiên Chúa vì cuộc đời này chuẩn bị và dẫn đưa con người đến sự sống mai sau…
Vâng, sau khi đã kể ra dụ ngôn về người quản lý khôn khéo. Đích thực,Chúa Giêsu phàn nàn, chê trách vì chúng ta là con cái của sự sáng lại không khôn khéo bằng con cái thế gian bởi vì họ chỉ biết có thế gian này !Người quản lý khôn khéo vì ông dám đối diện với thực tế của cuộc đời. Ông biết mình sau khi bị sa thải sẽ không làm vườn, cuốc đất, buôn bán, kinh doanh. Ăn mày, ăn xin thì ông tủi nhục vì ông đã từng là quản lý oai phong, có quyền, có thế của ông chủ. Nên ông đã khôn khéo kiếm cách để khi bị sa thải, sẽ có người còn nghĩ tới ông, mang ơn ông vv…Chúa Giêsu dạy chúng ta phải khôn ngoan, lanh lợi như ông quán lý chứ đừng lươn lẹo, đừng xảo trá. Khôn khéo để xây dựng một tương lai tốt hơn, một cuộc đời đẹp hơn, đặc biệt tìm cho mình một cuộc sống vĩnh cửu.
Có những người cho rằng đời sau xa vời quá…Có ai đã thấy đời sau, có ai đã sống cuộc sồng vĩnh cửu. Cuộc sống mai sau, đời sống đời đời quả không có gì hấp dẫn, có gì thu hút, người ta chỉ hăm hở lao vào việc làm giàu, tìm kiếm hưởng thụ, chạy theo những gì chóng qua ở đời này. Sự giằng co của con người, của chúng ta nằm ở chỗ, chúng ta có biết khôn khéo để quyết định những gì cho cuộc sống hôm nay và ngày mai hay không ?
Chúng ta để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc sống của mình.Tiền bạc, của cải, vật chất là phương tiện để giúp con người, giúp chúng ta sống cuộc sống hôm nay cho tốt đẹp. Chúa không cấm chúng ta giầu có, không bần cùng hóa cuộc sống của chúng ta. Chúa muốn chúng ta biết dùng của cải, vật chất cho phù hợp với cuộc sống của chúng ta vì quê hương của chúng ta ở trên trời. Đời sống trần gian này chỉ là tạm bợ, chỉ là mau qua. Do đó, chúng ta đừng quá ham mê của cải ở đời như ông phú hộ giầu có mà quên đi sự sống vĩnh cửu đang chờ đón chúng ta. Quả vậy, Chúa đã nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ “. Chúa muốn chúng ta, muốn con người dứt khoát chọn Chúa. Tuy Chúa ban cho chúng ta quyền tự do chọn lựa ơn cứu độ hay từ chối ơn cứu độ. Từ chối Chúa hay nhận Chúa, đó là sự tự do của con người,của mỗi người chúng ta.
Qua đoạn Tin Mừng Lc 16,1-13, Chúa Giêsu dạy chúng ta, dạy con người, dạy nhân loại:
1.Chúng ta phải biết khôn ngoan, khôn khéo lanh lợi lo lắng tương lai cho đời sau.Chúa muốn chúng ta khôn khéo dùng tiền của làm việc nghĩa, chia sẻ hầu co được Nước Trời. Sự khôn khéo không phải là lắt léo, lươn lẹo nhưng khôn ngoan theo ý Chúa: dùng khả năng để làm giầu cho Chúa như người trao năm nén làm lợi năm nén khác, người ba nén làm lợi thêm ba nén khác.
2.Chúng ta không được làm tôi hai chủ hoặc ai liều mất mạng sống mình vì Chúa thì sẽ cứu được nó vv…
Lời của Chúa thực đáng cho chúng ta suy nghĩ và thực hành cách sống.Chúng ta có để cho Chúa làm chủ đời ta hay chúng ta thích thờ Ma Môn , Tiền của. Để Chúa hướng dẫn, làm chủ chúng ta sẽ có đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trung thành với việc nhỏ để chúng con được trao việc lớn. Xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con chỉ một lòng yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại. Xin cho chúng con biết khôn khéo để khôn ngoan dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua Nước Thiên Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người quản lý bất lương đã làm gì ? 2.Khôn khéo theo ý Chúa là gì ? 3.Tại sao Chúa không thích sự lắt léo, lươn lẹo ? 4.Vật chất có cần không ? 5.Chúa dạy chúng ta dùng của cải thế nào cho phù hợp ?
Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng TN 25-C164
Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng lại được. Đến ngày Chúa gọi ta về thế giới bên kia, ta không thể nói: “Con không đi! Con không đi! Con phải ở lại đời này, con đang quyến luyến đời này, không đi đâu hết!”
Sức khỏe của ta không do ta mà có, nhưng là do Chúa ban. Về phần ta, lúc nào ta cũng muốn mình được khỏe mạnh, cường tráng, muốn sống lâu trăm tuổi chưa vừa; ngoài ra, ai cũng rất sợ đau ốm, sợ ung thư, sợ đột quỵ… Nhưng không ai có thể duy trì sức khỏe trong tình trạng tốt mãi được. Nay mai, ta phải già đi, phải suy yếu đi, phải mắc hết bệnh này tới bệnh khác, phải nằm liệt giường, phải rên la đau đớn… chẳng còn chút hơi sức nào!
Ngôi nhà của ta, xe cộ, vàng bạc châu báu và rất nhiều đồ dùng của ta… hôm nay, chúng còn thuộc về ta, nhưng mai đây, tất cả những thứ đó đều không còn là của ta nữa mà phải sang tay cho người khác.
“Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”
Đúng vậy, sức khỏe, của cải, vàng bạc, châu báu … đến với ta cũng như luồng gió lùa vào gian nhà trống, chúng chợt đến rồi chúng lại bay đi. Không ai có thể nhốt được gió cho riêng mình. Cũng thế, không ai ôm ghì lấy sức khỏe, tài sản, vàng bạc châu báu cho mình mãi được. Chúng chợt đến rồi chúng chợt đi. Ai khư khư giữ lấy chúng là chưa khôn ngoan sáng suốt.
Tốt nhất là biết cấp tốc chuyển đổi chúng thành tài sản vĩnh cửu cho mình.
Công nghệ năng lượng gió
Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều tua-bin (turbine) gió được lắp đặt nhiều nơi. Những cánh quạt của tua-bin vươn ra đón lấy những làn gió thoảng qua rồi biến chúng thành nguồn năng lượng hữu ích cho muôn người, trước khi để gió thổi vèo qua nơi khác. Biến gió thành điện là một công nghệ tuyệt vời.
Vậy thì chúng ta cũng nên ứng dụng “công nghệ” này vào cuộc sống của mình, bằng cách đón lấy của cải chóng qua đời này, như những cánh quạt của tua-bin đón gió, rồi biến chúng thành kho tàng thiêng liêng cho cuộc sống mai sau.
Người quản lý trong Tin mừng hôm nay đã nắm được “công nghệ” này. Khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, anh nghĩ ra một diệu kế:
Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị sa thải, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” hay nói khác đi, hãy dùng của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.
Đó là một chọn lựa khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì ta mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì !
Vì thế, người khôn ngoan là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời, y như tua-bin của các giàn điện gió chuyển đổi những làn gió thoảng qua thành năng lượng hữu ích cho muôn người.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi quyến luyến của cải đời này, nhưng biết khôn ngoan đánh đổi những tài sản phù du để thu về những lợi ích vĩnh cửu.
Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm .. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc TN 25-C165
Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc chỉ có nơi tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền thế. Đã có một thời Mussolini, Nhật Hoàng, Hitler tưởng rằng thế giới sẽ nằm gọn trong trục tay ba của họ, nhưng họ đã gục ngã thảm bại và lịch sử vẫn xoay theo chiều của nó. Đã có lúc Napoléon Đại đế tưởng rằng sẽ thâu tóm toàn thể Âu châu trong bàn tay bách chiến bách thắng của ông, nhưng rồi ông đã chết cô đơn trên đảo Corse, và Âu châu vẫn xoay theo chiều của nó. Như viên đá ném xuống dòng sông, làm lay động mặt nước trong chốc lát, và rồi dòng sông vẫn im lìm xuôi chảy…Mọi sự đều qua đi… Sách Giảng viên đã viết: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2). Quả là: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).
Chúa Giêsu đã từng phê phán những người giàu chỉ biết cậy dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ là kẻ ngu xuẩn vì chỉ nhìn cái hiện tại chóng qua mà không quan tâm đến định mệnh cuối cùng và không biết tìm hạnh phúc vững bền (Lc 12,13-21). Thu tích của cải đời này mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì quả là ngu xuẩn vì “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm” (Lc 12,15); vả lại sự vướng bận vào của cải cản trở việc tìm kiếm Nước Chúa là cõi phúc thật (x.Lc 18,18-30). Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực? Làm sao có được sự giàu có trước mặt Thiên Chúa?
Tin mừng Chúa nhật hôm nay,Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người quản lý bất lương đã kết luận: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Chúa dạy các môn đệ phải sống trung tín. Một người không trung thực về tiền bạc thì không thể là một người ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Chúa căn dặn: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng nó lại là một ông chủ xấu. Chúa dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền bạc.Nếu “con cái đời này” biết cách làm lợi cho tương lai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này ?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu cho mình, thì tại sao chúng ta lại không biết chia sẻ của cải chóng qua đời này cho tha nhân để mua lấy bạn hữu, để sau này chính họ sẽ đón rước chúng ta vào Nước Trời đời sau ?
Khôn Khéo Con Cái Đời Này
Khôn khéo trong những việc làm của người quản lý bất lương:
– Khôn khi ăn cắp tài sản của chủ mà không bị phát hiện, đến khi có người tố cáo, chủ mới đuổi việc.
– Khôn vì anh ta biết giới hạn của mình: cuốc đất không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
– Khôn vì biết xoay xở, tận dụng chút quyền quản lý cuối cùng để có một chút bảo đảm cho tương lai. Gọi các con nợ của chủ đến làm văn tự lại: 100 thùng dầu ô-liu, viết lại 50 thôi; 1.000 thùng lúa viết lại 800 thôi… hai bên cùng có lợi mà.
– Khôn khi biết lo xa: liệu sao để khi mất chức thì có người tiếp đón, khi về hưu non thì đã có của dư của để, có nhà cao cửa rộng, có vườn tược…
Hình ảnh của người quản lý khôn khéo bất lương này đầy dẫy trong xã hội hôm nay khi mà tham nhũng đã trở nên “quốc nạn”. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Péru đến nhiệm kỳ thứ 2, vì tham nhũng nên đã trốn chạy về Nhật. Ông Estrađa tổng thống Philippines, phải từ chức vì tham nhũng. Ông Wahid, tổng thống Indonesia sang Mỹ tỵ nạn vì tham nhũng. Việt Nam cũng đang điêu đứng vì quốc nạn tham nhũng… Người ta “hy sinh đời bố để củng cố đời con”, có chút địa vị quyền lực thì lo thu ven cho cá nhân, tham ô, móc ngoặc. Sợ bị bại lộ, sợ bị tố cáo, sợ bị cách chức, sợ bị “về hưu non”, nên khôn khéo mua lấy bằng cấp, mua đất xây biệt thự, lập trang trại… Người ta tìm mọi cách để có tiền của, có địa vị, có quyền lực, bất chấp tiếng nói lương tâm.
Nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay sẽ thấy người đời thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó, Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng và họ làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái, miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Các ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo. Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm, địa vị; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Ngôn sứ Amos kịch liệt lên án. Ông quả xứng danh là nhà ngôn sứ của sự công bằng. Bản cáo trạng của ngôn sứ đối với những người quyền thế, giàu sang bất công vẫn luôn vang vọng và có hiệu lực cho mọi thế hệ.
Khôn Ngoan Con Cái Chúa
-Khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn hướng về Thiên Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa. Vật chất không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.
– Con cái ánh sáng khôn ngoan sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thực tâm thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thực trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc nhỏ cho đến việc lớn. Trung tín với lời hứa Bí Tích đã lãnh nhận. Người chân thật là người trung tín với Thiên Chúa và anh em mình. Bởi vì Thiên Chúa là sự thật, và “chỉ có sự thật mới giải thoát anh em”.
– Khôn ngoan của con cái Chúa là khôn ngoan Thập Giá: “Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù Dothái hay Hylạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 22-25 ). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà thương chủ nọ”. Không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc. Chúng ta tự hỏi chủ nào đang thống lĩnh đời tôi ? Ước gì tôi luôn tự do, chọn lựa làm tôi cho Chúa mà thôi.
Cửa Sổ Hoặc Tấm Gương
Một người Dothái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh ta đến bên cửa sổ và hỏi: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và cho tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ thì ông thấy gì trong tấm gương ?” Người giàu có liền trả lời: “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi.” Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học. Ông nói: “Này nhé, tấm gương soi mặt được làm bằng kính. Kính được phủ ở phía sau bằng một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đằng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ ông đã thấy được những người khác, thấy được cảnh vật…” Nếu tấm kính linh hồn bị lòng tham lam, ích kỷ như lớp bạc mỏng phủ đi thì ta sẽ chỉ thấy có bản thân mình. Chỉ mình ta mới đáng kính đáng trọng, chỉ mình ta là trung tâm để mọi người phục vụ. Tâm hồn con người khi trong suốt không bị che chắn bởi tham, sân, si, sẽ nhìn thấy mọi người là anh em, nhìn thấy những điều hay, những điều tốt, những gì đáng quý, đáng mến nơi tha nhân. Tâm hồn trong sáng đó nhờ biết mỗi ngày soi vào Chúa Kitô, sống theo lời dạy của Ngài.
Sự khôn ngoan đích thực đúng như lời Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê: “Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,18).
Của cải vật chất chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, chúng ta sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để TN 25-C166
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để đạt được ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Amos là người chăn chiên được Chúa chọn làm tiên tri. Chúa sai ông đi rao giảng trong một xã hội lúc bấy giờ bon chen tranh giành tiền bạc, đàn áp những người nghèo khổ, họ dùng tiền mua nô lệ, coi tiền của là trên hết. Và lối sống sa hoa những kẻ giàu có bên cạnh những người túng nghèo.
Trong bối cảnh đó, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa lên án mạnh mẽ cách đối xử bất công và tiên báo sự trừng phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc làm của chúng”.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho mọi người được an cư lạc nghiệp, sống đẹp lòng Chúa, để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Còn bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người quản lý bất trung, để dạy chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà đạt được Nước trời mai sau.
Chúng ta thấy người quản lý trong dụ ngôn ứng xử rất khôn ranh. Trước khi biết mình sẽ mất chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số nợ. Anh lợi dụng tài sản của chủ để mua lấy ơn nghĩa cho mình. Hành vi đó, chủ khen anh ta hành động khôn khéo, biết lo cho tương lai.
Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ta noi gương cách ứng xử khôn ranh này, nhưng Chúa dạy chúng ta là con cái của sự sáng, hãy biết lợi dụng của cải chóng qua đời này để mua lấy Nước trời. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, phục vụ trong tinh thần quảng đại và yêu thương.
Bởi vì, cốt lõi của đạo Công giáo chúng ta là chia sẻ và ban phát. Như Mẹ thánh Têrêsa Calcuta đã nói: “Đặc tính của đạo Công giáo là ban phát và cho đi”. Vì thế, khi gặp một người nghèo khổ đưa tay xin chúng ta giúp đỡ, chúng ta đừng bao giờ từ chối hay dửng dưng. Không ai trong chúng ta nghèo đến độ không có gì để cho. Chẳng hạn như: chúng ta cho nhau một nụ cười, một lời thăm hỏi, một nghĩa cử yêu thương, một sự quan tâm giúp đỡ… Nếu Chúa cho chúng ta làm ăn khấm khá, biết rộng lòng chia cơm xẻ áo cho người nghèo, là chúng ta biết tích trữ của cải thiêng liêng, nơi mối mọt không hề phá hủy, trộm cướp không thể nào chiếm lấy được”.
Anh chị em thân mến,
Khi đưa ra dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta cần phải khôn ngoan và trung thành trong khi sử dụng những ân huệ Chúa ban.
Thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc… tự ta không thể làm ra được, nhưng tất cả đều là ân ban của Chúa. Chúng ta chỉ là người quản lý thôi. Thế thì, chúng ta quản lý những ân huệ đó như thế nào?
Nếu anh chị em quan niệm thời giờ quý như vàng bạc, thì chúng ta có biết dùng thời giờ để siêng năng đến nhà thờ làm những việc đạo đức. Hay có thể chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bất hạnh, đang chết dần trong cô đơn thiếu vắng tình thương không?
Nếu anh chị em quan niệm sức khoẻ là vàng, thì chúng ta có biết giữ gìn sức khoẻ để cộng tác với ơn Chúa mà làm những việc lành phúc đức không? Hay là có một số người cứ ăn chơi nhảy nhót, xì ke ma tuý, sáng xỉn chiều say… làm cho thân tàn ma dại.
Về tài năng Chúa ban tựa như những nén bạc. Người thì Chúa cho 5 nén, kẻ khác 2 nén, người kia 1 nén. Chúng ta có tích cực làm phát triển những nén bạc đó để lo xây dựng Nước Chúa và lo phần rỗi của mình không?.
Về tiền bạc cũng vậy. Chúa ban cho thời giờ, sức khoẻ và trí thông minh để làm ra tiền bạc mà sinh sống, vậy chúng ta sử dụng đồng tiền đó như thế nào?
Ai càng sống rộng rãi biết cho đi, biết nghĩ đến người khác hơn bản thân mình, thì người đó sẽ càng giàu công phúc ở đời sau.
Ngược lại, có một số người làm mất đi hạnh phúc gia đình, mất đi tình nghĩa anh em, chỉ vì một chút tài sản cha mẹ để lại mà không nhường nhịn nhau.
Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè”, nghĩa là hãy dùng tiền của mà mua lấy Nước trời. Cụ thể như việc cầu hồn xin lễ, giúp đỡ những người nghèo khổ, đóng góp vào những việc chung.
Được như thế, ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, ước mong sẽ được nghe những lời mời gọi của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ. Hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.
Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử TN 25-C167
Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Lời Chúa dạy bắt đầu ngay từ bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt. Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Cứu Thế giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng không có tinh thần đạo đức, công bằng, bác ái và quảng đại. Họ sống ích kỷ và nhất là không còn chú ý đến đời sống tôn giáo và trung thành với Chúa. Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày nghỉ lễ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Trong bối cảnh này, ngôn sứ A-mốt được Chúa chọn và sai đi giảng dạy và khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như cho họ biết những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại. Ngôn sứ A-mốt cảnh báo rằng ngày Sa-bát và những ngày lễ là những ngày nghỉ, dành cho việc cầu nguyện và thờ phượng. Dân buôn bán và thương mại thù ghét lời khuyến cáo của ông, và nổi lên chống đối vì họ nghĩ sẽ bị thiệt thòi về tài chánh. Thậm chí họ còn có một thái độ bực bội và khó chịu vì họ cho rằng ngôn sứ làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ. Họ bỏ không đến đền thờ để thờ phượng, và chỉ chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền bất cứ dưới hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa và bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, ngôn sứ A-mốt cho họ biết nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì sẽ lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm như lời Chúa đã nói: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.”
Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý bất lương. Chúng ta sẽ thấy bài học chính và quan trọng không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên dạy của Chúa về thái độ và cách sử dụng của chúng ta đối với tiền bạc. Chúa khuyên chúng ta khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này, biết lo xa đầu tư cho cuộc sống đời sau, nhất là phải hướng cuộc sống về Nước Trời. Thật vậy, tác giả Lu-ca không quan tâm đến chi tiết của câu chuyện người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí tiền của chủ. Và ông chủ đã gọi anh ta đến để báo cho anh ta một tin xấu bị đuổi. Bàng hoàng, thình lình và bất ngờ như sét đánh! Bị tống ra khỏi nhà anh nghĩ sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Vì thế anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến, làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh. Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó lại là sự khôn ngoan tính toán thế gian. Chúa khen sự khôn ngoan tính toán mau lẹ đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa cảm thấy buồn lòng về những người tin vào Chúa, họ không tính toán khôn khéo mau lẹ như vậy về Nước Trời.
Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vâng lời và khiêm nhường sinh xuống trần để loan báo về hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Qua lời giảng dạy và những phép lạ lớn lao, Chúa đã biểu lộ tình yêu, lòng nhân từ và thương xót, nhưng câu hỏi là: “Tại sao con người hững hờ, lạnh nhạt và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy?” Thánh Gioan Tẩy giả, vị tiên tri tiền hô cho Chúa, đã cảnh báo: “Rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người” thế mà con người vẫn hờ hững. Họ đã không chuẩn bị sẵn sàng và mau lẹ đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương đã nhanh trí sắp sếp công việc cho cuộc sống ở đời này.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và cách nào đối với tiền bạc để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta, “con cái sự sáng”, lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại ở đời này để lo cho hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời của mình ở đời sau? Nếu căn cứ vào cách sử dụng tiền bạc để biết được có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không thể hiện lòng trung tín với Chúa để bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã quảng đại chia sẻ. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, hy sinh và phục vụ, chúng ta mới thực là những quản gia trung tín và khôn ngoan làm theo ý chủ. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền bạc là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa.”
Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà quan trọng hơn, còn cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền bạc đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước lời Chúa dạy về tiền bạc và thái độ của chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta tấm lòng chân thành lắng nghe lời Chúa dạy, và khôn ngoan sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này, là phương cách đưa chúng ta đến gần, sống mật thiết với Chúa, và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời đời sau.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy TN 25-C168
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8: 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2: 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16: 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).
Ơn gọi
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
Bối cảnh vương quốc miền Bắc
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng này. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bóc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp này huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
Nhân cách ngôn sứ của A-mốt
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8: 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8: 7).
Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gửi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gửi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gửi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
Ơn cứu độ phổ quát
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng, lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền
Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7).
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Au-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.
Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
Vấn đề
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến inh tai nhức óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
Bận lòng đến tương lai trần thế
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nỗ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu
Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua TN 25-C169
Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua dối trá, vua mánh lới, vua xảo quyệt, vua quảng cáo, vua xạo, vua lưu manh,… Thật vậy, nó đã tỉ tê khiến bà Eva bùi tai nên siêu lòng, và rồi ông Adam cũng nghe vợ mà chịu chung số phận. Tiêu tùng! Ngày nay, không ít người cũng đã “chết dở” vì chiêu bài quảng cáo – bí quyết nói láo ăn tiền, nhưng được người ta khoái và công nhận. Thế mới chết!
Mưu phải có mẹo. Mẹo càng tinh xảo thì mưu càng thâm độc, khiến người ta càng dễ mắc lừa. Vì thế, rất cần sự khôn ngoan để trước tiên là “tự vệ” (bảo vệ mình), rồi mới có thể bảo vệ người khác. Khôn ngoan là điều rất cần thiết trong cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Bởi vì “tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa.” (Cn 1:1a)
Thật ngạc nhiên với nhận định của Robert A. Heinlein (1907-1988, văn sĩ về khoa học viễn tưởng, người Mỹ) nói: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo luôn luôn chẳng khác gì cái ác”. Còn kịch tác gia Menander (324-291 trước công nguyên, người Hy-lạp) nhận xét: “Tóc bạc không sinh ra khôn ngoan”. Ôi, vậy ư? Thông thường, tuổi già thì khôn ngoan, nhưng điều đó chưa chắc là mẫu số chung, tuy nhiên có điều chắc chắn: Càng nhiều tuổi càng nhiều tội. Thế thì lại càng sự khôn ngoan hơn nữa.
Nhưng có những trường hợp “đầu bạc” thực sự khôn ngoan, vì đó không chỉ là “vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20:29) mà còn là “triều thiên vinh hiển được tặng ban cho người sống công chính” (Cn 16:31).
Khôn ngoan cũng liên quan nhiều thứ. Biết mình là sáng, biết người là khôn. Khổng Minh Gia Cát Lượng (Zhuge Liang, 181-234) nói: “Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ chí” – Muốn xem xét chí hướng của một người thì phải hỏi họ về điều phải trái, đúng sai. Mạnh mẽ hơn, Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.” Thế mới là khôn ngoan – nghĩa là cũng cần có lòng can đảm.
KHÔN TỘI
Cũng có năm bảy đường khôn ngoan – khôn tội hóa khốn. Dễ lầm nên phải phân biệt rạch ròi: Khôn lỏi, khôn đểu, khéo léo, mánh khóe hay tinh quái? Lạnh lẹ hay ranh mãnh? Linh động hay mưu chước? Việt ngữ độc đáo lắm: Chữ KHÔN rất gần chữ KHÔNG, cả cách viết và cách phát âm – chỉ khác nhau mẫu tự G. Đúng là “sai một ly đi một dặm”, vì KHÔN ngoan cũng dễ biến thành KHÔNG ngoan như thường. Thật vậy, sách Khôn Ngoan nói: “Những lý luận quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa.” (Kn 1:3) Lươn lẹo thì người đời cũng chẳng ai ưa chứ nói chi Thiên Chúa. Nhưng xã hội Việt Nam ngày nay có vẻ người ta thích lươn lẹo, ăn không nói có, lọc lừa người khác để mình được sống vinh thân phì da.
Kẻ ác là kẻ hèn. Càng hèn thì càng nhát, càng nhát thì càng ác, càng ác thì càng độc, càng độc thì càng ngốc, càng ngốc thì càng dại, càng dại thì càng khờ, càng khờ thì càng ngu, càng ngu thì càng ác. Đúng theo quy trình khép kín của cái vòng lẩn quẩn. Thật khủng khiếp, đáng sợ!
Thời nào cũng có người khôn, kẻ khốn. Ngôn sứ A-mốt xuất thân là một mục đồng ở miền Nam Belem, thuộc chi tộc Giu-đa. Ông được Thiên Chúa sai đi tuyên sấm cho vương quốc Israel, và ông đã can đảm hành động. Ông kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: ‘Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?’. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ” (Am 8:4-5). Người ta thường nói: “Vải thưa che mắt thánh”, hoặc: “Chiếc kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Với người đời còn chưa lừa được thì nói chi đối phó với Thiên Chúa, vì Ngài toàn năng và thấu suốt mọi bí ẩn.
Đôi khi Ngài im lặng chứ không phải Ngài không biết. Đừng ngu xuẩn mà suy nghĩ theo kiểu vô thần. Thánh Vịnh gia nói: “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thiên Chúa như vậy thì chúng ta còn có thể dùng mánh khóe nào mà trốn thoát Ngài chứ?
Trong cuộc sống đời thường, người ta ngông cuồng khi tìm đủ mưu mẹo để “đè bẹp” hoặc “chà đạp” người khác – nhất là đối với người dưới quyền hoặc người yếu thế hơn mình. Và còn hơn thế nữa, người ta tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo người khác, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cuộc sống hằng ngày vẫn xảy ra những chuyện như thế ở khắp nơi – thậm chí ngay trong các gia đình, giáo xứ, cộng đoàn,… Người nghèo còn bị người ta đàn áp và bóc lột đến cả chiếc áo rách họ đang mặc, thế mà người ta vẫn ra vẻ nhân đạo mà “ngọt ngào” nói đến nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Giả hình rõ nét! Đó là cách “lấy vải thưa che mắt thánh” mà thôi. Tức nước thì vỡ bờ, đó là điều tất yếu. Con chó bị dồn vào góc tường thì nó cũng phải cắn lại. Con vật mà còn như vậy huống chi con người.
Thật đúng như Thánh Vịnh gia đã xác định: “Ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh; lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.” (Tv 55:21-22) Lưỡi còn hơn gươm sắc bén, mà nó có thể như lửa thiêu rụi mọi thứ. Sống hay chết đều do cái lưỡi, (Cn 18:21) và nó chính là mối họa cho con người. (Hc 5:13) Ngay cả bốn thứ Thiện – Ác và Sinh – Tử cũng bị cái lưỡi chi phối. (Hc 37:18)
Lời khuyến cáo của tiền nhân rất chí lý: “Cẩn tắc vô ưu.” Chính Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề lời này: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” (Am 8:6-7) Thiên Chúa đã thề hứa thì không chút sai lệch. Ngài luôn thương xót trọn tình, sẵn sàng tha thứ, nhưng cũng rất công minh và chính trực, nếu không thì người nghèo và người thấp cổ bé miệng thiệt thòi quá. Vấn đề độc đáo là thế.
Là Đấng từ bi và nhân hậu, Thiên Chúa đặc biệt quan tâm những người nghèo khổ, cô thân, góa bụa, tù đày, tội nhân,… Ngài sẵn sàng bỏ tất cả mọi thứ để đi tìm cho bằng được những con chiên lạc. Bằng chứng là Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo, sống nghèo, và chết nghèo. Ngài làm thật chứ không nói suông. Còn chúng ta có được chút nào, hay là chỉ khéo dạy người khác làm, còn mình thì “cứ vô tư”? Nếu thế thì… Ôi thôi!
KHÔN PHÚC
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, thế nên chẳng ai có thể giấu giếm hoặc tự biện hộ. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Ngài là Thiên Chúa độc nhất, quyền phép vô song, các thần linh khác cũng chỉ là thụ tạo của Ngài mà thôi: “Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển, trước thánh nhan Chúa Trời nhà Gia-cóp, Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.” (Tv 113:7-8)
Không có Ngài, chúng ta chỉ là hư vô. Ngài không chỉ tạo dựng chúng ta mà còn là sự sống của chúng ta, vì chính “thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63) Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4) Rất mạch lạc, yêu thương, hiệp thông và hiệp nhất.
Để minh định mạnh mẽ hơn, thánh nhân cho biết thêm: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:5-8) Cũng rất rạch ròi, không hề có gì văn hoa bóng bẩy, thế nên bất cứ tầng lớp nào cũng có thể hiểu. Chịu hiểu là khôn – khôn phúc. Không hiểu là vì không muốn hiểu, gọi là cố chấp – khôn tội.
Bóng tối cả thế gian này cũng không dập tắt được một đốm lửa nhỏ, nhưng bóng tối nguy hiểm vì khó có thể phân biệt chính xác. Không sợ kẻ xấu nhưng nó rình rập làm hại thì khó tránh, dễ bị nó hại – vì nó ở trong bóng tối nên khó nhận biết. Ma quỷ là “chuyên gia đen” như vậy.
Và rồi vào một ngày nọ, Thầy Giêsu nói với các đệ tử về chuyện người quản gia bất lương, lươn lẹo và mưu mô. Người ta tố cáo với ông chủ về việc hắn đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản gia lưu manh liền tìm mánh khóe cho cuộc sống tương lai. Bụng bảo dạ: “Ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:3-4) Thế rồi hắn mưu mô tính toán, liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ 100 thùng dầu ô-liu thì được giảm còn 50 thùng; người nợ một ngàn giạ lúa thì được giảm còn 80 giạ. Rất mánh khóe, khôn lỏi và ranh mãnh. Cũng chỉ vì kế sinh nhai, vì miếng ăn mà tự giẫm đạp nhân cách và nhân phẩm của mình. Nhục nhã quá! Không chỉ vì miếng cơm, manh áo, hắn còn vì tự ái mà dám làm bất cứ điều gì, kể cả điều độc ác nhất. Nỗi nhục nhã nhân đôi!
Miếng ăn liên quan sự sống, dù chỉ là sự sống phần xác, thế nhưng kẻ hèn thì chỉ biết đến thế thôi, không thoát khỏi cái bóng của mình. Sự ăn uống là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của nhân phàm. Miếng ăn có thể rất lớn và rất quý, nhất là khi đói. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bản năng sinh tồn của con người rất mạnh, người ta sẵn sàng hạ sát lẫn nhau vì miếng ăn. Thằng Bờm không cần bất kỳ thứ gì khác, dù những thứ rất mắc tiền và rất giá trị, lúc đó nó chỉ cần “nắm xôi” mà thôi. Thế như chuyện Thằng Bờm không đơn giản như thế, mà có điều thâm thúy hơn: Nó biết chắc có nhận những thứ kia thì gã quan tham kia cũng chẳng cho, thế nên cứ lấy nắm xôi cho chắc ăn. Kẻ đểu mưu mô thâm độc lắm!
Cuộc sống đơn giản mà nhiêu khê, không khéo mắc bẫy kẻ ác. Ca dao Việt Nam mỉa mai: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.” Cũng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể dùng mọi thủ đoạn thâm độc, có khi giết chết một người chỉ vì một số tiền nhỏ – mà người bị hại không là người xa, kẻ lạ, có thể là thân nhân, thậm chí là cha mẹ. Thật đáng sợ thế thái nhân tình! Đồng tiền “nhỏ” thôi (mảnh giấy rộng vài chục cm) nhưng “giá trị” to lắm (theo cách hiểu của lòng tham).
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu lắc đầu nên Ngài nói thẳng: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” (Lc 16:8) Thật hay khi người Việt gọi là “tiền tệ” hoặc “tiền bạc”. Nó chẳng là gì, chỉ là tờ giấy với những con số được người ta quy ước khác nhau, thế nhưng nó có mãnh lực kỳ lạ, thậm chí là ma lực khiến người ta khó cưỡng lại, sẵn sàng xử tệ và xử bạc với nhau. Người ta dễ sa đọa vì tiền trong chốc lát mà không biết.
Bản chất đồng tiền không xấu, mà nó hóa xấu vì người dùng nó. Chúa Giêsu dạy bài học quan trọng về cách sử dụng đồng tiền qua lời căn dặn – và cũng là lời khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” (Lc 16:9-12)
Và Ngài xác định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16:13) Tiền không phải là Tiên, nhưng biết sử dụng khéo léo thì nó giúp thăng Tiến và rất Tiện (thuận tiện), không khéo thì nó hóa bần Tiện, và nó sẽ Tiễn biệt chính mình.
Tiền bạc không là gì, nhưng nó có thể xác định một con người thực chất là tốt hay xấu, Khổng Minh Gia Cát Lượng nói: “Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ liêm” – Dùng lợi lộc, tiền bạc, công danh để xem sự liêm chính của một người. Người liêm chính thì không đánh mất mình vì lợi lộc, tiền bạc, công danh. Một tay giơ cao hô hào “liêm chính, chí công, vô tư” nhưng tay kia thò ra sau “kiếm chác” bằng mọi mánh khóe. Vô cùng hèn hạ!
Giữa Thiên Chúa và tiền bạc, chắc chắn ai cũng phải tự quyết định chọn một trong hai, vì Ngài cho phép chúng ta sự tự do. Vì thế, hãy cẩn trọng kẻo hối hận không kịp, và phải luôn cảnh giác kẻo “thần khẩu hại xác phàm” (nói bậy hại thân). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Với cách dịch ngày xưa cũng có cái hay: “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ.” Có lẽ “cách xin” này hay hơn, bởi vì giàu quá hay nghèo quá cũng có thể xa Chúa, chỉ cần ĐỦ là được.
Sống cho đúng Đạo Trung Dung khó lắm. Thật tuyệt vời với lời cầu xin của tác giả sách Châm Ngôn: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:8-9)
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí thánh, xin ban đức khôn ngoan để chúng con biết luôn luôn chọn Chúa và tuân theo Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh; xin Ngài đặc biệt thương xót những người thiếu thốn – trong đời thường và tâm linh, xin ban ơn thông minh để họ chân nhận chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh; xin giúp mọi người hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống mà Ngài muốn; xin ban bình an cho Giáo Hội và thế giới, cách riêng với Việt Nam và những quốc gia chịu nhiều đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Những gì đã và đang xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy đồng tiền có một ma lực ghê gớm: Ngày TN 25-C170
Những gì đã và đang xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy đồng tiền có một ma lực ghê gớm: Ngày 29-6-2016, tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh đã kết án tử hình một cụ bà 73 tuổi quốc tịch Úc gốc Việt, vì mang theo 2,8 kg ma túy ở phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày 9-9-2016, cũng tòa án này, đã kết án ông Phạm Công Danh 30 năm tù vì làm thất thoát của nhà nước 9,000 tỷ đồng. Nếu liệt kê những vụ việc liên quan đến sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta vướng vào vòng lao lý, thì danh sách các vụ việc sẽ dường như vô tận. Tiền bạc khiến người ta liều mình, chấp nhận mất tương lai, mất danh dự và mất cả mạng sống. Tiền bạc cũng làm người ta trở nên táng tận lương tâm, làm những điều phi nghĩa, kể cả liều lĩnh đoạt mạng sống và người khác. Đối với những người này, tiền bạc là “thượng đế” mà họ tôn thờ, đồng thời chi phối mọi suy nghĩ tính toán cũng như hành động của họ.
Ngôn sứ A-mốt, ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, đã gay gắt lên án những người giàu có vì ham tiền bạc mà khinh dể và bóc lột người nghèo (Bài đọc I). Ông đã nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn được ngôn sứ A-mốt liệt kê vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm con người ra tối tăm, đạo lý và tiếng nói của lương tâm bị coi thường. Vị ngôn sứ khẳng định: Thiên Chúa sẽ không quên những hành động bất lương của kẻ tham lam. Người sẽ bảo vệ người cùng khổ và trừng phạt những người áp bức.
Lời Chúa hôm nay giúp cho chúng ta biết dùng của cải cho hợp lý, để rồi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tuy “nghèo mà không hèn”. Những tài sản mà chúng ta đang có, suy cho cùng, là của Chúa. Ngài trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người khôn ngoan cần mẫn làm cho số vốn liếng đã nhận sinh sôi nảy nở, nhưng cũng có những người lười biếng, làm cho số vốn đã trao bị mòn cụt dần đi. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh người quản gia để truyền đạt giáo huấn của Người. Chính Chúa gọi ông quản gia này là bất lương, vì thế, hình ảnh người quản gia này không thể là mẫu mực cho chúng ta. Chúa cũng không dạy chúng ta lươn lẹo gian dối như người quản gia đã làm. Giáo huấn của Chúa rất rõ ràng: Hãy dùng của cải đời này mà tạo thêm tình bạn và thực thi bác ái. Bởi lẽ, tiền bạc của cải sẽ có lúc hết, nhưng tình bạn chân chính thì tồn tại lâu dài. Những nghĩa cử bác ái không đi vào quên lãng với thời gian, nhưng được Chúa biết đến và thưởng công bội hậu. Sự sẻ chia, dù đơn giản, thậm chí chỉ như một chén nước lã, cũng được Chúa ghi nhận.
Khi ý thức mình chỉ là những người quản lý, chúng ta nghe lời Chúa mời gọi hãy sống trung tín. Người trung tín là người ý thức mình chỉ là người được trao trách nhiệm quản lý tài sản, để rồi mọi việc chi tiêu đều phải theo ý của Chúa, chứ không phải lấn át quyền hành để lợi dụng trục lợi riêng. Thiên Chúa là chủ đích thực và là Đấng cai quản mọi sự mọi loài. Người sống trung tín còn là người luôn tìm ý Chúa trong đời sống, để thực hành. Đức Giê-su là mẫu mực cho sự trung tín và vâng lời. Người đã chu toàn thánh ý Chúa Cha, dù phải chấp nhận thập giá hy sinh và sự chết.
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Khi sống ngay thẳng và công chính, chúng ta đạt được niềm vui, vì chắc chắn rằng Chúa thấu hiểu con tim chân thành của chúng ta. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta, dù là vua chúa hay dân thường, hãy sống đạo đức và nghiêm chỉnh, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài sẽ trả công và chúc lành cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đang đặt lý tưởng đời mình nơi Thiên Chúa tối cao, hay tiền bạc vật chất? Chúa đã phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Đức tin và kinh nghiệm cuộc sống đều bảo đảm cho chúng ta điều ấy. Xin Chúa cho chúng ta luôn khôn ngoan để không bị ma lực của tiền bạc lôi kéo, làm mờ con mắt và lương tâm mà lãng quên Thiên Chúa.
Người ta nói tham lam chính là một loại độc dược khiến dục vọng, ham muốn của con người không TN 25-C171
Người ta nói tham lam chính là một loại độc dược khiến dục vọng, ham muốn của con người không bao giờ có điểm dừng. Tham lam thường dẫn đến keo kiệt, bủn xỉn. Lòng tham sẽ khiến họ chỉ lo vun quén đến độ đánh mất đi sức khỏe, sự sống và niềm vui. Đối với người tham lam chỉ cần tiền, không cần tình và sẵn sàng bán mạng để lấy tiền!
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giàu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông ta hỏi: “Nhưng giá bao nhiêu ?” Bác sĩ trả lời: “Chữa mỗi mắt là 100 đô.” Ông nhà giàu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !”
Có thể nói đồng tiền là người bạn tâm giao mà mình không bao giờ muốn rời xa. Đồng tiền khiến người ta dám đánh đổi tất cả để có được nó. Dường như kiếm tiền và giữ tiền đã chiếm hết thời gian và sức lực của con người. Đồng t
iền tuy lạnh lùng nhưng lại quyến rũ mọi người. Đồng tiền có thể đánh gục nhà tu cũng như thường dân. Đồng tiền luôn mang lại niềm vui cho con trẻ cũng như người già. Con người xấu đẹp còn có kẻ khen người chê, riêng đồng tiền to nhỏ, xấu đẹp miễn là tiền thì chẳng ai chê!
Đồng tiền được đề cao vì nó là thành quả lao động của con người. Người nhiều tiền đương nhiên là giỏi, là cần cù, là chịu khó làm ăn. Nghề lắm tiền là nghề “hot” được nhiều người bon chen. Nhưng hôm nay đồng tiền bị hoen ố bởi những người lười lao động mà vẫn có tiền bởi mánh mung, bởi chạy chọt, tham nhũng, tham ô. . . Có người còn kiếm đồng tiền bất chính bằng buôn phấn bán hương, bán thân xác để kiếm tiền. . .
Thế nên, đồng tiền luôn có hai mặt. Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt trái và phải của đồng tiền được đúc kết như sau:
+ Con người dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được tuổi trẻ.
+ Con người dùng sức khỏe để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được sức khỏe.
+ Con người dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền không mua lại được hạnh phúc.
+ Con người dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được thời gian.
Cần tiền là việc không ai chê trách. Lao động chính đáng để có tiền là việc đáng tự hào, nên cổ động. Giàu có, hướng tới cuộc sống dư giả luôn là đích đến của con người cũng như mong muốn của xã hội. Nhưng mê tiền đến độ mù quáng, bất chấp đạo lý thì xã hội sẽ lắm những thị phi. Mê tiền đến mù quáng sẽ đánh mất lương tri và bán linh hồn cho ma quỷ.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy dùng tiền mà mua lấy sự sống đời đời bằng việc chia sẻ giúp đỡ tha nhân. Đừng hà khắc với anh em. Đừng vun quén đồng tiền bất chính. Hãy dùng khả năng của mình mà giúp đỡ tha nhân. Đó là cách chúng ta mua lấy sự sống đời đời. Vì chưng, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý tiền của mà Thiên Chúa đã ban. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý luôn rộng rãi với tha nhân, hay bị đau khổ muôn đời vì những thất thoát ân ban của Chúa và thất tín trong bổn phận với Chúa và tha nhân. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để thi thố tình thương cho những mảnh đời bất hạnh chung quanh.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sử dụng ân huệ Chúa ban để mua lấy hạnh phúc Nước Trời bằng một cuộc đời bác ái yêu thương dành cho những anh em nghèo khó, bất hạnh mà Chúa gởi tới với chúng ta. Amen.
Theo thói đời, cách cư xử của viên quản gia trong bài Tin Mừng, cho dầu đầy vẻ trục lợi và TN 25-C172
Theo thói đời, cách cư xử của viên quản gia trong bài Tin Mừng, cho dầu đầy vẻ trục lợi và không trong sáng chút nào, nhưng ai ai cũng đều phải công nhận: hắn ta quả là người khôn khéo và thông minh. Vấn đề ở đây là: khi kể câu chuyện dụ ngôn này Đức Giê-su thật sự muốn nói với chúng ta điều gì? Người đang dạy chúng ta áp dụng thói đời mánh mung để sống Tin Mừng hay sao? Hay là dùng của cải tiền bạc bất luận từ nguồn nào để lập công nghiệp cho bằng được, hầu bảo đảm cho đời sau hay mua chuộc Nước Trời? Thú thật: đã từ lâu lắm rồi, tôi vẫn luôn có cảm giác ngắc ngứ với đoạn Tin Mừng này; rồi khi đọc diễn giải của một số tác giả, tôi có cảm tưởng rằng, ít nhiều họ cũng ngắc ngứ như tôi. Nói chung, cách diễn giải phổ thông vẫn cho là Đức Giê-su dạy chúng ta sử dụng tiền bạc của cải trần thế (của chóng qua, dầu chính đáng hay bất chính tới mấy) để chiếm hữu cho bằng được Thiên Đàng. Giải thích kiểu này, tuy có dễ hiểu thật đấy, nhưng không đủ sức thuyết phục! Đức Giê-su không thể khuyên các môn đệ hãy cố kinh doanh để có dư giả tiền của mà làm từ thiện, vì Nước Trời là gì mà có thể bị mua chuộc bằng tiền của, dầu có dưới dạng làm việc lành phước đức?
Riêng về chuyện tiền bạc và của cải vật chất thì: Đức Giê-su luôn coi nó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều là ‘tiền của bất chính, của cải của người khác’. Điều này được học thuyết kinh doanh ngày nay thẳng thắn đề cập tới không hề dấu diếm: xét về mặt luân lý xã hội thì tiền của luôn tiềm tàng vấn đề công bằng xã hội, vì nó được điều hành dựa trên một hệ thống xã hội không công bẳng. Tuy nhiên tôi không hề nghĩ: ở đây Đức Giê-su muốn nêu lên một vấn đề luân lý xã hội nóng bỏng cần giải quyết. Điều Người muốn nói phải liên quan tới việc chấp nhận và sống Tin Mừng Người đang rao giảng đó là: làm sao để con người có thể đón nhận lòng nhân ái của một Thiên Chúa đầy lòng xót thương, trong bối cảnh cụ thể của cuộc sống trần gian này?
Hành động của người quản gia bất chính, dầu không xuất phát chút nào từ lòng nhân đích thực, nhưng vẫn được các con nợ coi là hành vi nhân lành đối với họ; hành động của ông tuy bất chính, nhưng vì mang cái vỏ từ nhân, nên vẫn có thể tránh cho ông một tương lai mù mịt. Đức Giê-su xem ra muốn tô đậm cái nét rất dễ gây tranh cãi này: “Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào ở nơi vĩnh cửu”. Nói như thế vì Người cho rằng: bất cứ ai dù đầy dẫy những bất chính và tội lỗi, vẫn có thể được coi là công chính trước Tin Mừng chỉ vì họ hướng tới, đón nhận và thi thố lòng nhân từ xót thương, dầu là nhỏ mọn nhất. Ngược lại, dầu có công chính tới mấy, vẫn có thể bị coi là bất lương: “Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. Hầu như Người muốn khảng định rằng: đối với Tin Mừng của một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, thì trung tín chính là đón nhận, là thực thi lòng thương xót. Nếu trung tín (= sống xót thương) trong việc nhỏ, tức là ngay trong đời thường, thì mới có thể trung tín trong việc lớn, tức là đón nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa trong giờ chết, và trong cõi vĩnh hằng. Nếu đã ‘Bất lương trong việc nhỏ’, tức là không biết đón nhận và thực thi lòng từ ái của Thiên Chúa trong đời thường, thì cũng sẽ ‘bất lương trong việc lớn’, tức là không có khả năng đón nhận lòng thương xót Chúa đến muôn đời.
Và cũng trong nội dung Tin Mừng cứu độ đó, Đức Giê-su còn xác định thêm một điều khác nữa vô cùng quan trọng đối với các Ki-tô hữu chúng ta: ‘của cải chân thật’, ‘của cải dành riêng cho anh em’ chỉ có thể là lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa mà các môn đệ là những người duy nhất được hồng phúc biết tới và mở lòng đón nhận. Đây mới chính là ‘của cải’ mà mọi Ki-tô hữu phải sở hữu cho bằng được, ngay trong cuộc sống hiện tại của một xã hội chưa hoàn chỉnh còn đầy dẫy những bất công xảo trá! Trong bất cứ một cơ cấu xã hội nào, dầu được cho là tốt đẹp lý tưởng hay áp bức bóc lột (thường vẫn được biện minh bằng các lý lẽ cao thượng), người Ki-tô hữu vẫn không ngừng xây dựng và vun đắp lòng xót thương là tâm điểm niềm tin của họ, trước cả khi tìm cách cải tạo xã hội đó cho hoàn thiện hơn. Nói tóm lại, công tác tiên quyết của Ki-tô hữu không phải nhằm kiến tạo một xã hội hoàn hảo, mà là xây dựng ngay từ thực tế xã hội họ đang sinh sống, ngay từ cõi lòng họ, điều mà, trong niềm tin vào Tin Mừng, họ cho là ‘của cải chân thật’ nhất, ‘của cái dành riêng’ nhất cho người môn đệ. Phải chăng đó chính là điều Đức Giê-su đang muốn khuyên cáo các môn đệ của Người: “Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em”?
Như vậy thì: trong niềm tin của Tin Mừng, Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót sẽ quả là tuyệt đối, không gì có thể sánh ngang bằng; và tiền của (trong cả nội dung nghĩa bóng của nó) dầu chính đáng hay bất chính, sẽ lộ rõ hơn bao giờ hết bản chất phù phiếm đích thực của nó một khi giáp mặt Con Người xót thương. Giữa một Lòng Thương Xót luôn trao ban và phân phát, với một tiền của có khuynh hướng khuynh đảo dưới mọi hình thức, người Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải có một chọn lựa đúng đắn và dứt khoát không thể đảo ngược; “không ai có thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài”. ‘Của cải dành riêng’ cho ki-tô hữu chính là: nhận biết lòng nhân ái của Thiên Chúa và sống lòng nhân ái này ngay trong đời sống thường ngày.
Tin Mừng hôm nay quả là một bài học căn bản nhất, phải không bạn?
Lạy Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, xin cho con nhận thức được rằng: ‘của cải chân thật’ ‘của cải dành riêng cho con’ không thể là gì khác hơn lòng nhân từ của Chúa. Xin cho con ngay từ trong cuộc sống trần gian đầy tham lam và gian dối này, nhờ Tin Mừng cứu độ, biết mở rộng cõi lòng để đón nhận lòng thương xót vô biên Chúa, thông qua các hành vi nhân từ và bác ái cụ thể, trong giới hạn của đời sống con. Xin cho con không bao giờ đánh mất ‘của cải chân thực’ này, nhưng hằng biết chiếm hữu và thu quén nó cho cuộc sống trường sinh trong lòng nhân ái Chúa. A-men.
Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã TN 25-C173
Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã hội Mỹ, đã nhận định: “Triết lý của một người không được thể hiện tốt nhất bằng ngôn từ, mà được thể hiện trong cách chọn lựa. Cách chọn lựa của chúng ta chính là trách nhiệm của chúng ta”. Chọn lựa rồi thì phải sống điều đó, chứ không thể chọn lựa cho xong lần rồi thôi.
Thiên Chúa cho con người có quyền tự do chọn lựa, đó là niềm vui mừng và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta chọn lựa.
Muốn chọn lựa phải có ít nhất hai cái – cái này hoặc cái kia, cách này hoặc cách nọ. Có một thứ thì không thể có sự chọn lựa. Tư tưởng dẫn tới hành động, đó là sự chọn lựa. Cách chúng ta chọn lựa có thể trở nên “số phận” của chúng ta – an vui hạnh phúc hoặc nghiệt ngã khổ đau. Đó là điều tất yếu từ sự tự do của chúng ta!
Ngôn sứ A-mốt đã có thị kiến thứ tư, Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói ông thấy “giỏ trái cây mùa hạ”. Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ không tha thứ cho dân Ít-ra-en nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Ít-ra-en đã bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Họ không nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là điều tất yếu. Chúng ta cũng vậy mà thôi!
Ngôn sứ A-mốt truyền lại lời của Thiên Chúa: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ” (Am 8:4). Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán” (Am 8:5-6).
Người ta nói “buôn gian, bán lận”, nghề nào cũng có mánh lới của nghề đó, càng ngày càng tinh vi hơn: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, giai cấp nào hoặc ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số “ông trùm” của xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Thảo nào, một nữ kế toán về chương trình cứu trợ của nhà nước ở Bình Phước mà mưu mô chiếm đoạt đến hơn 3 tỷ đồng. Quả thật, “thường nhân” chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi sự lươn lẹo của các “siêu nhân” theo phe ma quỷ!
Và rồi ngôn sứ A-mốt đã xác định rằng “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:7). Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết mà… làm tới, hoặc dám lấy vải thưa che mắt thánh!
Kinh Thánh cũng đã cảnh cáo thẳng thắn: “Này kẻ gian, chớ rình rập nhà người công chính, cũng đừng phá phách nơi họ ở. Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được, còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong cảnh tai ương” (Cn 24:15-16). Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích ánh sáng và cũng chẳng thấy được ánh sáng.
Còn những người công chính, dù có những lúc đã trượt té – thậm chí là “té đau”, nhưng họ quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” (Tv 113:1-2).
Thiên Chúa vô cùng nhân từ, nhưng Ngài cũng rất mực công minh. Ai có công được thưởng, ai có tội bị phạt. Chúng ta chỉ là như những “bức tượng” được Điêu khắc gia Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không thể biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Ngài: “Chúa siêu việt trên hết mọi dân, vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113:4-6).
Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như tác giả Thánh Vịnh đã minh định: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người” (Tv 113:7-8). Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng”, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta cần phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.
Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện và tạ ơn: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:1-4). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình chứ không xin theo ý Chúa.
Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chính chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Không thể hiểu nổi!
Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – theo phàm ngôn, chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa, là Đức Chúa Trời, là Deus, là Dieu, là Dios, là Dio, là God, là Gott,… (theo ngôn ngữ của dân tộc mình). Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích và trần tình: “Chỉ có một Thiên Chúa, CHỈ CÓ MỘT Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời, đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2:5-7).
Các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật thật kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất, con người không thể nào hiểu hết. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Chữa được bệnh này thì sinh bệnh khác. Y học không ngừng tìm tòi xưa nay mà vẫn không ngăn cản được sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Kiêu ngạo quá đỗi!
Thiên Chúa đã ra quy luật đời đời dành cho phàm nhân: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Thực tế đã chứng minh chân lý đó: Socrates chết, Sigmund Freud chết, Khổng Tử chết, Lão Tử chết, Thích Ca Mâu Ni chết,… kể cả những người tự nhận mình là “sống mãi trong lòng mọi người”. Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TỰ TÁI SINH. Sự thật minh nhiên đó đã được Thánh Phaolô xác định: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).
Chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét mà giết chết nhưng Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật là hạnh phúc và cũng thật là “may mắn” vì chúng ta nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài. Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (1 Tm 2:8). Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ.
Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là NÓI VỚI CHÚA, điều này quan trọng hơn là NÓI VỀ CHÚA. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin. Thật vậy, học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, người Pháp) đã xác định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Bác học Louis Pasteur (1822-1895, người Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Hai con người giỏi giang này đáng để chúng ta xem lại đức tin của mình lắm đấy!
Trình thuật Lc 16:1-13 nói về dụ ngôn “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Tiền chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác được ghi giá trị bằng những con số do con người quy ước. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị tiền mỗi nước khác nhau xa. Chúng ta phải làm chủ nó, nếu nó làm chủ chúng ta thì sinh nhiều “phiền toái”.
Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng đừng để lòng “dính líu” tới nó. Nhóm Pharisêu vì mê tiền bạc mà sống giả nhân giả nghĩa. Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).
Người Việt có câu: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa tình mẹ con, cha con, anh chị em ruột, họ hàng, xóm giềng,…
Thật là đáng sợ! Rõ ràng tiền bạc có mãnh lực làm lệch lạc lý trí của con người, ngay cả các giáo sĩ cũng bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, nếu họ mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Có một số linh mục coi xứ chỉ “quen” với những ai cung phụng cho họ. Thiên Chúa rất đau lòng!
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Những người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa, chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì” (Is 56:10-11). Các câu Kinh Thánh đại loại như vậy khiến người ta khó chịu, tránh né, và họ ghét ai đề cập.
Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình có nhòa nhạt hay không. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, có khi họ ở ngay bên chúng ta! Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ thay cho đoàn chiên nào “bị gặp” loại mục tử dỏm như thế!
Đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người đối với tiền bạc. Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” – ngược với Ngài (Mt 20:28).
Đức Giêsu nói về nhà phú hộ kia có người quản gia lươn lẹo, mánh khóe, qua mặt chủ. Người ta tố cáo với ông chủ về việc anh ta phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến mà bảo anh ta tính sổ và sa thải anh ta. Vốn tính giao xảo, anh ta tìm mưu kế, vì anh ta nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất về món nợ với chủ, người ấy nói là “một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết năm chục. Rồi anh ta hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là “một ngàn giạ lúa”. Anh ta cũng bảo người ấy viết lại giấy sợ là “tám trăm giạ lúa”. Biết được thâm kế của tên quản gia bất lương, ông chủ khen anh ta đã hành động khôn khéo. Chúa Giêsu nói rõ: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Ngày nay, người ta giả dối tinh vi lắm. Các công trình vừa được khánh thành chưa được bao lâu đã hư hỏng, tình trạng này người ta gọi là “rút ruột công trình”. Thật không thể tưởng tượng được khi người ta đành lòng làm những cột điện rỗng, vỏ xi-măng mỏng và lót bao ni-lông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, thế thì tiêu! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn” thì còn gì để nói nữa chứ? Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Thật khốn nạn!
Nói là vì công ích nhưng thật ra chỉ vì tư lợi. Nhiều cơ sở tôn giáo hoặc nơi tu trì đều bị người ta tìm cách chiếm giữ: Đan viện Thiên An (Huế), Nữ tu viện Phaolô (Hà Nội), Nữ tu viện MTG Thủ Thiêm (Q.2, Saigon),… và mới nhất là Chùa Liên Trì (Q.2, Saigon). Đáng quan ngại hơn là vấn đề môi trường, người ta dám coi rẻ sự sinh tồn của hàng triệu người mà làm ngơ trước cách làm ô nhiễm môi trường của Formosa, và rồi chấp nhận sự bồi thường rẻ mạt: 500 triệu USD. Mà dân nghèo có được đồng bạc lẻ nào không? Người ta thích cách chọn lựa như thế. Tội ác!
Ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của – cả vật chất và tâm linh. Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Và rồi Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn”. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Tại sao? Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?”.
Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn mà súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà cũng khó hiểu – vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất, đó là dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về điều vô cùng quan trọng: Thời Cuối Cùng, Thời Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô cho biết thêm nhiều dấu hiệu khác: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2 Tm 3:2-5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chấp nhận và biết cách quản lý những gì con được sở hữu từ cách làm việc lương thiện. Con cầu xin Ngài tha thứ những khi lòng con hướng về vật chất, xin thương cho con được hóa đá và được nằm trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sự cuốn hút ở đời mà người ta thường bị thuyết phục đó là xinh đẹp, mạnh khỏe, biết cư xử TN 25-C174
Sự cuốn hút ở đời mà người ta thường bị thuyết phục đó là xinh đẹp, mạnh khỏe, biết cư xử có lý có tình. Để làm kinh tế hiệu quả, đối tượng tài giỏi, khôn ngoan, luôn được trọng dụng, ưu ái hơn. Bậc làm cha mẹ thời nào cũng vất vả nuôi dạy con cháu, không những cần có tâm có đức, có phương pháp giáo dục, mà cần cả kỹ năng sống nữa. Trong khi cộng đồng xã hội phát triển, mở ra nhiều con đường, nhiều cơ hội dẫn tới thành công, quân sư ‘Khổng Minh’ lại quả quyết rằng: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Lạc quan một chút chúng ta vẫn thấy có người nhờ biết đầu tư theo kiểu: mượn đầu heo nấu cháo, cuộc sống khó khăn của họ sớm được cải thiện. Do hoàn cảnh không thuận lợi, không ít người nhờ biết xoay sở tình thế: giật đầu cá, vá đầu tôm, niềm vui của họ mau chóng được ổn định. Biết để né tránh đau khổ, giảm bớt rủi ro, hay biết để có cuộc sống tốt đẹp, có tương lại huy hoàng rực rỡ hơn, nhiều người vẫn đang chung mơ ước đó. Tính hấp dẫn của thị trường không phải là có các sản phẩm rẻ tiền, nhưng là có nhiều khách hàng ưa thích, hàng hóa tiêu thụ tốt hơn.
Khởi đi từ quan niệm: quan nhất thời, dân vạn đại, nhiều người đã co cụm lại, không muốn dấn thân phục vụ công ích xã hội, lên án công kích cả những ai tham gia hoạt động tôn giáo. Đồng ý rằng, chủ trương làm tà tà ăn cơm cà với muối, không phải do bất mãn hay suy nghĩ tiêu cực giầu nghèo gì cũng khổ, tài giỏi bằng cấp rồi cũng đến ngày quy tiên. Ngay từ khi còn tấm bé, mỗi người đều được khích lệ để ý thức: học ăn, học nói, học gói học mở, tiếp thu kiến thức, và mai này biết chia sẻ, xây dựng xã hội phồn vinh. Rõ ràng biết để sống tốt, biết để được hạnh phúc, luôn cần đến yếu tố thời gian.
Bài học khôn ngoan và trung tín của Chúa Giêsu thật là một bất ngờ, khó hiểu đối với các môn đệ, với nhiều người chúng ta hôm nay. Trong khi xã hội nào cũng chủ trương chống thất thoát, công minh sổ sách giấy tờ, phải kiểm soát chặt chẽ thu chi… Thế mà mà Chúa Giêsu lại nói, “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà mua lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón anh em vào nơi vĩnh cửu”. Khôn ngoan, biết tính toán, nhằm mưu ích cho chủ, cho mình thì dễ hiểu ; nhưng biết sử dụng tốt nhất điều kiện, khả năng, mình đang có để chiếm lấy hạnh phúc Nước Trời, không hề dễ dàng.
Biết rằng có sinh thì có tử, có học phải có hành, được chủ tín nhiệm, giao phó chức quyền, phải có lúc báo cáo cho chủ về việc làm của mình, đó là quy luật. Nhưng để có thời gian như người quản lý nhanh chóng tận dụng tốt nhất cơ hội của mình, thật là quý báu. Biết lấy ngắn nuôi dài, biết tính toán để thu lợi nhuận, thì người ta cũng phải biết đầu tư cho tương lai, biết tìm kiếm hạnh phúc hiện tại, hẳn cũng phải biết xây dựng hạnh phúc bền vững mai sau. Kinh nghiệm tiền nhân cũng nói rằng: thế gian chuộng của chuộng công, nào có ai chuộng người không bao giờ. Nếu không đóng góp công sức, không chung tay xây dựng giang sơn, sẽ chẳng ai lưu truyền danh phận ta cho hậu thế làm gì.
Chúa Giêsu cũng gián tiếp nhắc nhớ chúng ta như người quản lý, rất cần biết đến nghệ thuật sử dụng tiền của, như một minh chứng cho sự khôn ngoan và trung tín về tình yêu của ta đối với Ngài. Để biết công việc quản lý hiện tại của mình là linh mục, tu sĩ, là cha mẹ, ông bà…, hoặc biết số tài sản, khả năng hiểu biết của mình, không khó. Nhưng để biết những gì ta đang có là ơn ban, là trách nhiệm, cần sử dụng cách khôn ngoan, hợp lý với thời gian, rất cần đến sự nhanh nhạy như Chúa nói: “ai trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn”.
Tục ngữ có câu: không tiền không gạo, mạnh bạo xó bếp. Đúng là nghèo hèn thì chẳng làm gì được, người nhà khinh trước, làng nước khinh sau. Không tài giỏi, không đức độ, cũng trở nên vô dụng trước xã hội trần thế này. Nhưng không phải thế, với niềm tin Kitô giáo, được sinh ra làm người, mỗi chúng ta đã là một công trình của Thiên Chúa. Ngài trao ban chức quản lý, và môi trường gia đình, xã hội, chính là điều kiện để nuôi dưỡng đức tin, và phát triển ơn ban, chu toàn bổn phận của ta với Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Mỗi người Kitô hữu chính là những quản gia, chúng ta phải biết để sống cho hạnh phúc tương lai, để trả lẽ về ơn ban, về quỹ thời gian mà mỗi chúng ta đang trung tín sử dụng nhưng thế nào rồi. Amen.
Sống là một hành trình luôn chuyển động, như tiết trời mưa nắng bốn mùa: xuân, hạ, thu đông TN 25-C175
Sống là một hành trình luôn chuyển động, như tiết trời mưa nắng bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Con người là một hữu thể xác hồn. Đa chiều và đa phức. Ngoài nhu cầu ăn uống, hưởng thụ, con người còn cần đến nhu cầu tâm linh. Trong thực tế, nhất là trong một thế giới phát triển cực độ của ngày hôm nay. Hình như người ta chỉ nghĩ đến một phần của thân xác, còn phần tinh thần đôi khi bị xem nhẹ hay thậm chí bị bỏ rơi. Đức Giê-su muốn mỗi người hãy có những cách thức hành xử khôn khéo, để chẳng những mang lại lợi ích cho trần đời, mà cũng không mất phần thưởng Nước Trời.
Đừng vội vã để cho rằng, Chúa Giê-su khen anh Quản gia bất lương, vì bất lương làm sao để làm gương được cho mọi người. Chúa Giê-su khen cái cách mà anh ta hành xử, khi phải đối diện với thực tế đe dọa đến vận mệnh, và tương lai của mình: mất việc, mất hết tất cả, thay đổi sẽ vô vàn khó khăn, vì cuốc đất thì không nổi, ăn mày hổ ngươi. Trước tình cảnh này, như người ta hay bảo: “
Cái khó, ló cái khôn”, và cái khôn của anh Quản gia là cách nhạy bén để có lối hành xử hết sức khôn ngoan, để một khi không còn được sự tín nhiệm của ông chủ, thì lại được bạn hữu tiếp rước, và vẫn có thể sống sung túc có khi còn hơn lúc đang làm quản lý. Từ câu chuyện thực tế của người Quản gia, Chúa Giê-su muốn dạy mỗi người, hãy có những cách thức khôn ngoan để thoát ra những cạm bẫy, những cám dỗ, làm tổn hại đến đời sống tâm linh của con người. Khi chúng ta rơi vào những hoàn cảnh éo le, hay những tình huống đe dọa nghiêm trọng đến đời sống luân lý hay đức tin, chúng ta sẽ làm gì để thoát ra? Đứng trước những chọn lựa: phá thai, ngoại tình, giết người, trộm cắp, thờ ngẫu tượng…Lương tâm chúng ta sẽ có những lối hành xử sao cho không rơi vào tội lỗi. Nhiều lúc chúng ta ngụy biện hay cảm thấy bình an với lương tâm sai lầm, hoặc đã chai lì như: cứ phạm tội rồi xưng tội, hay điều tôi làm là đúng mà. Thật khó để biện phân cho những việc làm cụ thể, và cũng khó tách rời giữa một đàng là thân xác, cùng với những nhu cầu, xem ra đôi khi hết sức là bản năng. Trong khi những phẩm giá cao cả của con người luôn được mời gọi, để không ngừng hoàn thiện như Đấng vốn vô cùng trọn hảo, tốt lành. Chúa không cấm làm giàu, nhưng làm giàu để sống có mục đích, như người quản lý khôn ngoan, dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, để khi mất hết thì còn có người tiếp
đón mình. Hay khi cuộc sống trần gian không còn nữa thì cánh cửa nước Trời lại mở ra, và ông chủ là Thiên Chúa cùng với các bạn hữu là những Thánh nhân sẽ đón tiếp chúng ta.
Không ai có thể làm tôi hai chủ, mỗi người có tự do để chọn lựa cho mình một lối đi riêng. Sao cho có thể nhạy bén để thích nghi, và khôn ngoan để tìm kiếm những chân lý trường tồn, cho mình và cho tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su, xin ban ơn soi sáng để giúp chúng con thực thi lời dạy của Chúa một cách đúng với thánh ý Chúa và đẹp lòng Ngài. Amen.
Ông chủ khen anh quản gia .... Đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong dụ ngôn mà Tin Mừng theo TN 25-C176
“Ông chủ khen anh quản gia bất lương đã hành động khôn khéo”. Đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong dụ ngôn mà Tin Mừng theo thánh Luca (16, 1-13) ghi lại. Ông chủ là ai? Chúa dùng hình ảnh ông chủ để ám chỉ chính Chúa. Hóa ra, Chúa Giêsu lại khen ngợi kẻ bất lương? Hay chúng ta phải hiểu thế nào?
Thật ra, Chúa không khen người quản gia bất lương vì chính sự bất lương. Chúa chỉ khen vì tính toán của anh ta nhanh nhạy, hành động của anh ta khéo léo. Dù gian lận, nhưng trong việc làm gian lận, anh ta xử lý hoàn cảnh của mình hết sức hợp lý, đúng thời điểm, đúng đối tượng cần thiết.
Khi anh quản gia đối diện với tình huống đe dọa sự sống của mình: sắp bị đuổi việc, bản thân tự biết rõ: cuốc đất không nổi vì không quen lao động chân tay. Nhưng đi ăn mày thì xấu hổ, vì từng làm việc quan trọng, ai cũng biết tiếng. Anh ta nhanh nhạy tạo tương quan, nhỡ sau khi mất việc, anh ta có thể có điều kiện để sống. Biết đâu anh còn được người ta đón tiếp, coi như ân nhân của họ. Chúa khen là khen điều ấy.
Ngay sau khi khen người quản gia bất lương khéo léo, Chúa Giêsu trao cho dụ ngôn một cái kết: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Dựa vào câu nói của Chúa, chúng ta bàn về sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa, bởi họ phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa. Họ trở thành con của sự sáng.
Khi cho biết con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng, là Chúa muốn nói rằng: Chúng ta không biết tính toán, thậm chí không thèm phản ứng để hành động chống trả những chước cám dỗ, những hoàn cảnh có thể làm cho bản thân sai đường.
Thực tế đời sống chứng minh: Đã quá nhiều lần, ta không nhanh nhạy để gìn giữ sự sống đời đời của mình. Những khi đồi diện với cám dỗ, nhất là những cơn cám dỗ về tội trọng đe dọa sự sống đời đời, dù biết mình là con cái sự sáng, ta đâu có tìm cách gấp rút thoát ra. Có khi ta lại còn muốn ở lỳ trong tội. Chính vì thế, ta đâu chỉ một lần phạm tội. Có thể nói, dấu ấn về tội lỗi là điều rất thật trên cuộc đời của từng con người.
Sở dĩ những con cái sự sáng không phản ứng đủ, kịp lúc để bảo vệ sự sống đời đời, là do ta ít để ý đến sự sống ấy, ít để nó lưu trú trong tâm trí ta. Trong cuộc đời, có quá nhiều thứ để con người quan tâm. Nhưng lý tưởng đời sống thiêng liêng để vươn tới sự sống đời đời, lẽ ra phải là mối quan tâm trên hết mọi quan tâm, dù là con cái sự sáng, nhưng lại không quan tâm, không thèm đếm xỉa, không tha thiết với nó.
Một trong những mối bận tâm, thậm chí trở thành đam mê, gây nên tội lỗi mà những con cái sự sáng vướng vào, đó là tham lam của cải. Chính trong bài Tin Mừng, Chúa trách thói tham lam này: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”.
Hơn bao giờ hết, thời đại mà mỗi chúng ta cùng đồng hành, đang bị nền kinh tế thị trường cuốn hút và vạch lối. Con người dễ có khuynh hướng tập trung vào sự sống thân xác, quên đi sự sống tinh thần. Lắm khi người ta còn sẵn sàng hủy diệt cả sự sống tinh thần, để phục vụ sự sống thân xác, nhằm tạo cảm giác sung sướng hơn, thỏa mãn nhiều hơn.
Đồng tiền dễ xâm lăng, chiếm ngôi “ông chủ” trong tâm trí nhiều người. Bởi thế, người ta dễ đánh giá nhau dựa trên giá trị vật chất. Người ta yêu nhau cũng nhìn vào túi tiền của nhau. Cha mẹ lập gia đình cho con cũng nhắm sự giàu có của kẻ sẽ phối ngẫu với con mình. Lập bè lập bạn, người ta cũng tìm sự tương đồng vật chất. Kẻ giàu tìm cách trưng bày sự giàu có. Kẻ nghèo cảm thấy mặc cảm, xa lánh nhiều người, nhiều hoàn cảnh…
Ước gì chúa ban cho ta giàu có, nói theo ngôn ngữ của Chúa: mua lấy bạn hữu đời này, để đời sau, có cả một đoàn thánh nhân đón nhận ta vào Nước Chúa.
Và nếu ta chưa giàu như người, ta cũng không lấy đó làm bức bối, tủi thân, mặc cảm, nhưng luôn biết hiến dâng sự thiếu thốn, sống tinh thần của mối Phúc đầu tiên: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Trong chính sự nghèo khó của mình, càng là điều kiện tốt để ta đồng cảm, yêu thương, chia sớt, trải lòng với anh chị em bên cạnh hơn.
Đừng để mình sống rồi cuối cùng phải xa Nước Chúa, bị đuổi khỏi tôn nhan Chúa đời đời. Có mấy điểm chúng ta cần rút ra cho chọn lựa để bảo vệ sự sống đời đời, để trở thành con cái sự sáng:
– Luôn hướng về Chúa, luôn để Chúa làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa, không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.
– Sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thật trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc trau dồi những nhân đức, tập sống vươn lên trong sự thánh thiện, trong lòng yêu mến Chúa.
– Khôn ngoan Thập Giá. Họ chấp nhận thập giá và hiến mình cho Thiên Chúa để mang lại lợi ích cứu độ cho chính họ và cho muôn người.
Vậy, trong từng ngày sống, chúng ta hãy thường xuyên tập luyện cho mình ngày càng biết khôn ngoan để thờ phượng Chúa, khôn ngoan luôn luôn để Chúa hướng dẫn và điều khiển đời mình.
Chúng ta cần sống siêu thoát với mọi của cải thế gian, để luôn đẹp lòng Chúa, luôn trung thành với lề luật Chúa suốt cả đời mình. Có như thế, chúng ta sẽ thật sự trở thành con cái của Sự Sáng, con cái của chính Thiên Chúa, Đấng luôn muốn ta thuộc về Người, Đấng sẽ ban sự sống đời đời cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết học đòi bắt chước nơi Chúa về sự khôn ngoan chọn lựa sống theo chân lý Chúa ban, để luôn luôn đứng trên mọi thứ cám dỗ trần thế gây bất lợi cho ơn phần rỗi của chúng con. Amen.
Theo Từ nguyên thì “đầu cơ” là hành vi của chủ thể, lợi dụng cơ hội của thị trường đi xuống để TN 25-C177
Theo Từ nguyên thì “đầu cơ” là hành vi của chủ thể, lợi dụng cơ hội của thị trường đi xuống để tích lũy sản phẩm, hàng hóa và sau khi thị trường ổn định trở lại thì bán ra để thu lợi. Đầu cơ chủ yếu là thu lợi nhờ chênh lệch về giá. Đầu cơ thường đi liền với tích trữ là hành động mua rất nhiều những hàng hóa, đồ dùng có giá trị, đợi nó lên giá rồi bán ra để kiếm lợi nhuận. Cứ tưởng cái cảnh gian lận và đầu cơ chỉ có ở thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, thật không ngờ cách đây hơn 2.000 năm đã diễn ra tai It-ra-en. Bài đọc 1 hôm nay (CN XXV/TN-C – Am 8, 4-7) trình thuật cơn giận của Đức Chúa đối với “bọn người gian lận và đầu cơ, đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ”. Đầu óc bọn họ luôn luôn “thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.”
Vấn đề gian lận trong việc cân đong mua bán (“lường thưng, tráo đấu”) ở Việt Nam đã có từ khuya. Về “cân” thi dùng loại quả cân nặng khi đi mua gom, tới lúc bán lẻ cho người tiêu dùng thì lại dùng loại quả cân nhẹ. Đến việc “đong” như đong thóc, gạo, ngô (bắp). đỗ (đậu), thì khoét những cái đấu, cái thưng (bằng gỗ xoan, gỗ mít) tuy rất đúng kích cỡ với khuôn mẫu, nhưng lòng đấu (thưng) nông hơn khiến dung tích (sức chứa) ít hơn. Ở miền Nam VN, thì dân có thói quen dùng lít để đong thóc, đong gạo. Khuôn mẫu là một lon sắt có dung tích 1 lít nước, khi đong thóc hay gạo thì xúc cho đầy, rồi dùng một khúc cây (gỗ hoặc tre, dài khoảng 20 cm) gạt miệng lon. Nguyên tắc thì khúc cây này phải thật thẳng, nhưng thường bị chuốt hai đầu (gần giống hình con thoi dệt cửi) để khi gạt thì mặt gạo ở miệng lon bị trũng xuống; ngoài ra, còn dùng búa hoặc chày đóng vào đáy lon cho lồi lên. Mặt gạo (thóc) ở phía trên miệng lon bị trũng xuống. ở dưới đáy bị trồi lên, khiến dung tích bị giảm bớt, mỗi lon gian lận được một ít gạo thóc, bán số lượng nhiều sẽ gian lận được số lượng lớn (“tích tiểu thành đại”). Thời gian gần đây sử dụng cân bàn thì tìm cách sửa lò xo cho kim chỉ nặng hoá nhẹ (khi mua) hoặc nhẹ hoá nặng (khi bán) xảy ra nhan nhản.
Đến bài Tin Mừng hôm nay (CN XXV/TN-C – Lc 16, 1-13) thì lại trình thuật cái tính gian lận của một người quản gia. Đó là dụ ngôn “Người quản gia bất lương”. Anh ta bị mất vịêc chỉ vì bản tính “là anh này đã phung phí của cải nhà ông chủ”. Nghĩ đến cái tương lai đen tối của mình, với bản tính bất lương ấy, anh ta lên kế hoạch bằng cách giảm nợ cho các con nợ của chủ, nhằm mục đích được hưởng sự đền ơn đáp nghĩa của họ (“để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 4). Hành động ấy đến tai chủ, ai cũng tin chắc chủ sẽ nổi cơn thịnh nộ, không ngờ chủ lại khen là khôn khéo. Cổ học tinh hoa Việt Nam cũng có một truyện kể về người quản gia có hành động tương tự (xoá nợ cho những con nợ của chủ mình), nhưng mang một ý nghĩa khác, đó là truyện “MUA NGHĨA”:
“Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?” Mạnh Thường Quân nói: “Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì, thì mua.”
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại, bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả.” Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: ‘”Nhà tướng quân châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép Tướng quân, đã mua về.”
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau, Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh vì tôi mua ‘nghĩa’, cái nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.” (Quốc Sách – “Cổ học tinh hoa”, quyển Thượng, tr. 157).
Hai con người có cùng một cương vị (quản gia), cùng một việc làm, nhưng ý nghĩa khác hẳn nhau, ấy cũng chỉ vì mục đích của vịêc làm trái ngược nhau. Người quản gia trong “Cổ học tinh hoa” xoá nợ cho các con nợ của chủ, vì nghĩ đến tương lai khi chủ mình không còn đắc thế như hiện tại, sẽ không bị lâm vào cảnh “giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, chẳng ai đoái hoài. Tất nhiên khi làm việc này, người quản gia cũng không quên nghĩ rằng lúc chủ được hưởng kết quả việc làm của mình sẽ không quên ơn mình (“vinh cùng hưởng, hoạ cùng chịu” là vậy). Còn người quản gia trong bài Tin Mừng thì hoàn toàn khác hẳn. Anh ta chỉ nghĩ đến cá nhân mình (“Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 3-4).
Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Đức Giê-su Ki-tô muốn dạy môn đệ nên làm theo việc làm của người quản gia bất lương (vì được chủ khen). Thực chất, nếu đọc kỹ câu nhận định của Đức Ki-tô khi kết thúc dụ ngôn (“Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” – Lc 16, 8), thì vấn đề sáng tỏ ngay. Có thể diễn nôm câu này: Con cái trần gian ranh ma quỷ quyệt hơn con cái Thiên Chúa. Rõ ràng Đức Ki-tô không dạy nên bắt chước làm theo tên quản gia bất lương. Bởi tiếp liền sau dụ ngôn này, Người dạy “trung tín trong việc sử dụng tiền của” (“Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” – Lc 16, 10-12).
Cái hấp lực (sức quyến rũ) của tiền bạc quả thực là ghê gớm. Có nó là có tất cả, bởi “Đồng tiền liền khúc ruột”, và cũng bởi “Đồng tiền là tiên lả phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khoẻ của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân”. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” là vì thế. “Có tiền mua tiên cũng được” cũng là vì thế! Đến như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn phải thốt lên: “Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử, Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi”, hoặc như Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.” Thật đúng là “Hoàng kim hắc thế tâm” (tiền vàng làm đen tối lòng người). Vì tiền bạc mà vợ chồng lục đục, cha mẹ con cái bất hoà, anh em chia rẽ, gia đình ly tán. Rộng ra hơn nữa, trong hội đoàn, làng xóm thì chia bè kết phái tranh giành đấu đá nhau. Đến như một quốc gia, hay trên thế giới, các cuộc chiến tranh (tuy có nhiều hình thái và khoác nhiều bộ mặt khác nhau), nhưng chung quy phần lớn đều do tiền bạc của cải mà ra cả.
Suy cho cùng, tiền của là do con người sáng tạo ra để trao đổi mua bán thực phẩm, vật dụng phục vụ cho đời sống, đáng lẽ ra con người phải làm chủ và dùng nó như một phương tiện mưu sinh. Không dè đến một lúc nào đó, nó lại quay ngược làm chủ con người, khiến con người trở nên như một đầy tớ, và từ đó sinh ra đủ thứ chuyện, đủ thứ tội ác. Vâng, của cải tiền bạc thế gian có thể là một tên đầy tớ trung thành, nhưng cũng có thể trở thành một ông chủ bất lương. Ăn thua là người có nhiều tiền của đã coi nó như một phương tiện sống, hay quỵ luỵ nó và coi nó như một ông chủ với thế lực vạn năng. Chính vì thế, Đức Giê-su mới dạy: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 13).
Nói về tiền của thì không biết thế nào là cùng, dù ai cũng luôn miệng bô bô “tiển của chỉ là phù vân”. Trong kinh Lạy Cha, lời cầu xin đầu tiên cho bản thân là “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Muốn có lương thực thì phải lao động, phải vã mồ hôi, vắt sức ra, chớ không thể “há miệng chờ sung rụng”. Có thể không trực tiếp làm ra lúa gạo lương thực, nhưng vẫn có thể làm công việc khác kiếm tiền để mua lương thực. Kiếm tiền mưu sinh là lẽ đương nhiên, Chúa không cấm cản, nhưng kiếm tiền theo kiểu bất lương như anh chàng quản gia trong bài Tin Mừng thì dứt khoát không được.
Nếu là dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của trở nên những phú gia địch quốc, những đại gia vô địch thì đó không phải là một cái tội; nhưng khi sử dụng những tiền của ấy thì phải biết cách sử dụng, phải coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không thể coi nó như một ông chủ, một bà chúa. Làm giàu bằng chính mồ hôi nước mắt của mình thì chẳng có gì đáng trách, nhưng làm giàu bất chấp thủ đoạn, làm giàu theo kiểu “ích kỷ hại nhân”, thì dứt khoát không chấp nhận. Khi sử dụng tiền của của chính mình thì không xa hoa phung phì, phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”. Của cải dư thừa thì phải nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Chỉ có như thế, vâng, thực sự chỉ có như vậy mới xứng đáng “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô”. Vẫn còn đó tấm gương tổ phụ Ap-ra-ham (St 13, 1-4); ông Gia-cóp (St 13, 1-43); ông Gióp (1, 1-3; 42,10-15); vua Sa-lô-môn (2Sb 9, 22; Gv 2, 9) là những người giàu có nhưng khôn ngoan biết nghe Lời Đức Chúa mà thương người nghèo khổ, hoạn nạn.
Tóm lại người Ki-tô hữu chân chính hãy khắc ghi trong lòng Lời dạy: “Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn… Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 9-13).
Vâ nếu có đầu cơ tích trữ thì xin hãy dùng những tiền của mình tích trữ được mà gửi vào kho tàng Nước Trời, như Lời dạy của Đấng rất nghèo ở trần thế nhưng lại rất giàu – giàu vô kể – tại Nước Trời. Đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, Người đã dạy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6,19-20; Lc 12, 33-34). Nói cách cụ thể là hãy đến với “những kẻ đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội”, mà chia sẻ những của cải mình đã tích trữ được (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus” số 15). Ước được như vậy. Amen.
Là một lựa chọn sau một lúc khẩn trương suy nghĩ đi đến quyết định gắn với hành động. Hành động TN 25-C178
Là một lựa chọn sau một lúc khẩn trương suy nghĩ đi đến quyết định gắn với hành động. Hành động nhằm vượt qua bước ngoặc đang rối bời, đối phó với khủng hoảng trầm trọng bất lợi cho bản thân đang xảy đến. Lời như thế không ai cũng có thể dễ dàng nói được.
Phần ĐGS, sau khi giải bày thiên ý Chúa Cha cho những người Pharisêu và kinh sư phải có tâm tình và ứng xử thế nào dành cho tội nhân, họ đã rõ. Người quay lại nội bộ nói với các môn đệ về vai trò người phục vụ, phục vụ như một người làm công cho ông chủ phú gia. Điều này ĐGS đã không ít lần giáo huấn các môn đệ. Như trước đây ở chương 12, nói về tác phong trọn hảo đáng thưởng của người đầy tớ tín trung, sẵn sàng gác cửa luôn trong tư thế gìn giữ bản thân thật tốt chờ đợi ông chủ đi ăn cưới về. Phêrô lên tiếng hỏi: ‘Thầy nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người’? Người đáp: ‘Vậy ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc’? Chủ bao giờ cũng dạy bảo và nhắc nhở người quản gia phân phát phần cho mỗi người phải chính xác đúng người đúng công, không mưu tính thêm bớt gây uy thế hay lợi lộc về phía mình.
Với ba bài đọc của CN hôm nay, có nội dung hòa quyện làm tăng lực xác tín giáo huấn của ĐGS.
Bài đọc 1, trích sách Amos. Ở đây Amos nhận lệnh Chúa sai đi đến với mọi người cảnh báo họ để phòng về cách sống thao túng lạm quyền của một số người vô đạo. Là những người đáng ra phải rất trân trọng những ngày truyền thống cố hữu thì lại coi thường, còn mong cho những ngày ấy chóng qua để được tự do hành động tránh phạm luật, như những ngày mồng một đầu năm, ngày Sabat trong tuần. Với người nghèo khó, cô thế cô thân, họ dùng đủ mọi chiêu trò bóp chẹt, ăn chận mà không hề nghĩ lại để còn dành chút thương xót. Chúa thề với Amos: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng’ (c.7).
Bài đọc 2, Phaolô trong tư cách người được Chúa chọn đặt làm người rao giảng và làm tông đồ, nghĩa là Chúa đặt ngài làm Thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý (c.7), Ngài truyền cho Timôthê hãy khuyên bảo mọi người: ‘Ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh’ (cc.1-2). Với Phaolô, ngài không chỉ khuyên dạy mà còn làm tất cả mọi sự nơi bản thân ngài như một gương sáng đỉnh cao dành cho hết mọi người để mọi người trở nên đẹp ý Chúa.
Bài đọc 3, ĐGS trong Tin Mừng Luca, đã kể cho các môn đệ câu chuyện về người quản gia giúp việc ông chủ siêu phú gia. Ông này, sau một thời gian làm việc ở nhà ông chủ, tai tiếng xấu về hành vi quản gia đã đồn thổi đến tai ông chủ. Ông chủ cho gọi lên và cho biết ông bị cách chức quản gia. Từ đầu câu chuyện đến kết thúc, không nghe thấy một lời hạch tội, phê phán chỉ trích. Chỉ đơn giản gọi bằng một danh gọi tổng quát, một thuật ngữ ‘quản gia bất lương’. Thế mà ông lại được chủ ngợi khen là ‘quản gia khôn khéo’. Đức tính ‘khôn khéo’ ở đây là trọng tâm giáo huấn của ĐGS dành cho các môn đệ. Người muốn các môn đệ có được và trở nên như vậy.
Ở lãnh vực nào ĐGS ngợi khen ông là khôn khéo? Khôn khéo: ưu tiên là tự biết mình. Ông biết ông là ai ở giữa đời này với bao khó khăn chồng chất: ăn mày thì hổ ngươi, cuốc đất không sức làm. Ông nhìn về tương lai tìm ra ánh sáng giữa hàng trăm hằng ngàn con nợ của chủ mà ông thừa biết đã qua, sống chết còn dan díu, từ hôm nay nữa, dưới năm ngón tay cầm bút ký của ông. Ông nhận ra tương lai ông còn tràn hi vọng từ những người nợ ông chủ ấy. Ông hiểu ra cách để có được cuộc sống an thân những ngày tương lai ấy bằng xóa giảm nợ của chính ông áp đặt cho mỗi người tùy theo trước đây ông đã tính toán và ghi sổ làm bằng chứng để trả. Kẻ ít người nhiều miễn sao không phải lo hậu sự vì xâm hại đến tài sản và quyền lợi của chủ. Khám phá ra ánh sáng, lấy phần mình, áp dụng thiết thực hiện tại nhắm đến hạnh phúc tương lai như thế là bài học khôn khéo của người quản gia bất lương mà ĐGS muốn các môn đệ khắc ghi vào tâm khảm. Người quản gia còn quẩn quanh vì một tương lai trên cõi thế. Phần các môn đệ thì giải pháp đó là liệu pháp ưu việt để đối phó với tương lai trong mỗi bước thẳng tiến về Nước trời, cõi phúc đời đời. Người môn đệ đích thực là lữ khách muôn phương, ra đi chỉ để, thao tác bất cầu lợi, gieo hạt yêu thương vào đời như Thầy chí Thánh làm người trên dương thế. Có như thế mới xứng với lời TM từ miệng ĐGS đúc kết, đã nên danh ngôn TM: ‘Anh em không trung tín trong việc xử dụng tiền của bất chính, ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em’? (c.11).
Đến dây, thử nhìn về những kết quả từ giáo huấn của ĐGS vừa suy niệm, kết quả thấy được từ các môn đệ? Và ngày nay từ GH và Kitô hữu nói chung? Chắc ít nhiều cũng có. Nhưng thiết thân cũng có lắm lắm cá nhân thiếu thấm nhuần. Chẳng bao lâu khi này những ngày tới đây, Giuda cho thấy bài giáo huấn của Thầy không hiệu quả, vì ông ham tiền mà phản bội, bán Thầy để lấy tiền. Tệ hơn người quản gia bất lương. Với Kitô hữu ở thời đại nỗi trội về một nên văn minh tin học ngày nay, không bao người bằng lòng với lời cầu xin như Thầy đã dạy: ‘Hằng ngày dùng đủ’ hay tin vào lời TV 126: ‘Dù bạn có thức khuya hay dậy sóm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Người được Chúa thương dầu có ngủ, cũng được Chúa ban đủ tiêu dùng’ (c.3-4). Bởi gốc cội vấn đề là ở lòng muốn của con người. Không ai không muốn có. Có những gì mình chưa có hay đã có, nhưng khổ nỗi có ít không thỏa. Vì lòng muốn như vậy, nên lòng trong sạch dù có muốn giữ lấy, thật cũng khó: Phải chăng ‘Giáo huấn bất tòng tâm’?
Lạy ĐGS Thầy chí thánh. Con yêu mến Người. Con hằng khát khao chăm học với Người. Xin cho con đủ can đảm thực hành giáo huấn ‘tẩy trắng, trong sạch’ lòng trước mọi hình thức cám dỗ từ vật chất để được nhẹ bước tiến theo Thầy về cõi trời vinh quang.
Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng.... Đức Thánh Cha đã nói thứ thế với mấy chục TN 25-C179
“Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng ta hãy nhớ lời Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài để đuợc nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Đôi khi sự mệt mỏi của chúng ta phát xuất từ việc tin tưởng nơi các sự vật không phải là điều nòng cốt, và vì chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống”. Đức Thánh Cha đã nói thứ thế với mấy chục ngàn tín hữu hành hương sáng thứ Tư 14/09/2016 vừa qua tại Vatican.
Thực vậy, đến với Đức Giêsu để chúng ta được sự sáng của Ngài hướng dẫn cho chúng ta biết mình là con cái Ánh Sáng. Một cách đặc biệt trong năm nay, chúng ta mong ước sự sáng của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Ánh sáng đó được thể hiện một cách cụ thể qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay để chúng ta biết “điều nào là điều nòng cốt và thực sự có giá trị trong cuộc sống”.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Am 8, 4-7
Đoạn này Amos lên án những kẻ ham mê tiền bạc và những sự thuộc về thế gian này. Họ vẫn giữ luật lệ của cha ông họ trong những “ngày mồng một, ngày sabat”, nhưng họ cứ mong cho những ngày ấy mau qua để họ làm những việc sai trái: “Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”. Họ mua nô lệ, tuy giá của họ chỉ bằng một đôi dép, nhưng họ cũng không có tiền để chuộc… Những người này không mến Chúa cũng chẳng yêu người. Vì vậy Thiên Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. Chúng không thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về con cái ánh sáng.
Tin Mừng: Lc 16, 1-13
Câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của anh quản gia bất lương mà Đức Giêsu khen là hành động khôn khéo. Sự khôn khéo của anh ở chỗ biết sắp xếp “để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà”. Anh ta đã dùng chính những đồng tiền của ông chủ để bảo đảm đời sống cho mình. Qua đó Đức Giêsu dạy cho các môn đệ: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Sự khôn ngoan của con cái ánh sáng là biết sử dụng tiền của, mà họ chỉ là người quản lý như một phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng sự hiệp thông giữa con người với nhau… chứ đừng để nó trở thành một sức mạnh thống trị họ.
Đức Giêsu kết luận những lời huấn dụ hôm nay bằng một triết lý để con cái ánh sáng phải chọn làm châm ngôn sống cho mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. H. Cousin đã nhận định: “Qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi”.
Lời Chúa hôm nay là ánh sáng để chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô là Đấng đến thế gian này mà không bị lệ thuộc bởi những giá trị vật chất: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Ngài rao giảng và làm chứng cho một giá trị cao cả, đó là tình yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương chính là giá trị cốt lõi của Nước Trời mà suốt cuộc đời Đức Giêsu đã sống và rao giảng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải biết chọn lựa “giá trị nào là nòng cốt và thực sự có giá trị của cuộc sống”. Qua những giáo huấn và thực tế của cuộc sống, con cái ánh sáng phải biết rằng đó không phải là đồng tiền, là của cải vật chất, mà: “yêu thương là điều duy nhất để cho con vuông tròn nghĩa ân”.
II. LÀ CON CÁI ÁNH SÁNG
Chúng ta bước đi theo Đức Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian này, nhờ vậy chúng ta cũng được trở thành con cái Ánh Sáng. Vì vậy chúng ta phải cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền, đồng thời phải biết sống chia sẻ với nhau theo gương của Đức Giêsu là Ánh Sáng thật và là hình ảnh của lòng thương xót.
Cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền
Phải cảnh giác vì “đồng tiền là ông chủ xấu, nhưng lại là tên nô lệ tốt”. Cho nên phải luôn luôn ý thức để sử dụng đồng tiền đúng đắn, kẻo chính nó sẽ điều khiển cuộc đời chúng ta.
Có những người vì lý do làm ăn kiếm tiền mà không thể đến nhà thờ dự lễ; có những người để có tiền, họ sẵn sàng làm những nghề bất chính như thầu số đề, cò cá độ, hay chứa chấp mại dâm… Hơn thế nữa, để có tiền, có những người trộm cắp, cướp giật, gian lận… Đối với những người đó, họ đã tôn thờ đồng tiền, nó đã trở thành ngẫu tượng, đã trở thành ông chủ điều khiển cả cuộc đời của họ…
Trong khi đó có những người đã bắt đồng tiền trở thành nô lệ để phục vụ cho những giá trị tốt đẹp.
Người ta truyền tai nhau thông tin có một Công ty ở Sài Gòn, không rõ làm gì, nhưng điều người ta để ý là trong công ty đó có một ngôi nhà nguyện thật đẹp dành cho công nhân và những ai có nhu cầu tâm linh đến viếng Chúa, cầu nguyện, hoặc tĩnh tâm. Điều này làm cho tôi phải suy nghĩ đến việc giữa một xã hội mà người ta tận dụng mọi thời gian, mọi cơ hội để kiếm tiền, thì vẫn còn có người quan tâm đến nhu cầu tâm linh của chính mình và người khác. Thái độ đó cho thấy kiếm tiền là điều cần thiết (mới lập Công ty), nhưng không để đồng tiền chi phối cuộc sống mình (vẫn dành không gian và thời gian cho Chúa).
Chính khi người môn đệ Đức Giêsu dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, cho những giá trị tinh thần, cho việc thờ phượng Chúa, thì họ thực sự trở thành ánh sáng cho xã hội hôm nay.
Tuy nhiên điều quan trọng là làm sao để họ đừng để sức mạnh của đồng tiền chi phối đời sống của họ. Thế cho nên cần phải có sự cảnh tỉnh luôn luôn để đừng bị đồng tiền chi phối.
Sống chia sẻ với nhau
Ngoài việc cảnh tỉnh với sức mạnh của đồng tiền, ánh sáng Tin Mừng hôm nay còn đòi hỏi con cái Ánh Sáng phải biết sống chia sẻ với nhau.
Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè”, Người cắt nghĩa: “Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đây không chỉ là lời khuyên đạo đức, mà nó còn là cách sử dụng của cải trong mối tương quan với sự sống vĩnh cửu. Hành động của người quản gia là lấy phần lợi của mình để san sẻ cho người khác, hầu mai này họ tiếp đón mình. Đức Giêsu không kêu các môn đệ học hỏi thái độ của người quản gia bất lương, nhưng hãy bắt chước cái nhìn và ý hướng của anh ta, tìm cách để được bảo đảm cho sự sống mình, và đó là cách biết cho đi. Khi chúng ta biết chia sẻ, nó không chỉ là một cách ăn ở tốt, mà còn là chứng tá cho đời sống đức tin, vì chúng ta tin tưởng vào sự sống đời sau.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy cho con cái ánh sáng phải biết đề phòng trước sức mạnh đồng tiền, phải biết sử dụng đồng tiền cho đúng đắn hầu mưu ích cho cuộc sống đời này và cả cuộc sống đời sau. Đồng thời phải biết chia sẻ, cho đi để làm nên ý nghĩa của cuộc đời.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý mà TN 25-C180
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý mà chúng ta gọi là bất lương, để khuyên dạy chúng ta là những người tin mến Người, biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Thế nhưng chúng ta phải đặt dụ ngôn này vào giữa những bài Kinh thánh Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe để chúng ta có thể nhận ra và hiểu rõ ràng điều gì Chúa muốn nói hay muốn dạy chúng ta.
Vì vậy chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt, thật vậy, giáo huấn của Chúa dạy nằm ngay trong bài đọc này. Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Giê-su Ki-tô giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế và tài chánh phát triển mạnh và rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng đời sống và những sinh hoạt buôn bán, thương mại không còn tinh thần đạo đức, công bằng và bác ái gì cả. Họ không còn chú ý đến đời sống tôn giáo, tinh thần và không còn trung thành với Chúa. Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày lễ và những ngày nghỉ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Trong bối cảnh này, A-mốt được Chúa chọn làm tiên tri sai đi rao giảng lời Chúa dạy dỗ dân chúng. Ông lên tiếng khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại. A-mốt cho họ biết ngày Sa-bát, bây giờ là ngày Chúa nhật và những ngày lễ là những ngày nghỉ, họ phải đóng cửa tiệm và không được buôn bán, để dành thời giờ cầu nguyện và thờ phượng. Dân làm ăn, buôn bán, thương mại thù ghét ông và họ ghét những ngày như vậy, vì họ nghĩ bị thiệt thòi không buôn bán được gì. Thậm chí họ tỏ ra rất bực bội và khó chịu vì họ cho rằng làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ. Họ sốt ruột chờ những ngày ấy qua đi để mở lại cửa tiệm. Họ chỉ ao ước chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền không trừ bất cứ hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa. Họ đã bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, A-mốt cho họ biết, nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì như lời Chúa đã thề: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.” Tiên tri cảnh báo họ sẽ phải lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm.
Ðó là ý nghĩa và là bài học của lời Chúa trong bài đọc 1 cho chúng ta hôm nay, và đưa chúng ta đến bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Chúng ta sẽ thấy ở đây bài học chính không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên, lời dạy bảo của Chúa về thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, nhất là phải biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống đời sau. Thật vậy, tác giả Lu-ca thường hay dùng một câu chuyện để đưa vào một bài học. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Vì là điều phụ thuộc, nên Luca không quan tâm cho chúng ta biết đầy đủ mọi chi tiết của câu chuyện. Người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chúng ta không được rõ. Chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí, phá tiền của chủ. Ông chủ gọi anh ta đến để báo tin ông ta sẽ cho anh nghỉ việc. Thật là một tin bất ngờ sét đánh. Bị tống ra khỏi nhà anh sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Cuốc mướn thì không có sức, đi ăn mày thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách tìm được người để nhờ vả. Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh. Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó là sự khôn ngoan thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Người đã không khen các việc làm của người quản lý kia vì anh ta là kẻ bất lương mà! Nhưng Chúa phải nhận rằng anh ta khôn khéo và mau lẹ. Và chúng ta nhận thấy Chúa cảm thấy đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời và khi người ta, nhất là những người tin vào Chúa, không mau lẹ và khôn khéo như vậy.
Ông bà anh chị em thân mến.
Vì yêu thương Chúa Giê-su đã vâng lời Thiên Chúa Cha và khiêm nhường hạ mình sinh xuống trần, đem ơn cứu độ đến trong lời giảng dạy, qua những phép lạ lớn lao, biểu lộ lòng thương nhân từ và thương xót, cũng như gương sáng của Người, nhưng tại sao người ta hững hờ, lạnh nhạt, thờ ơ và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy! Gioan tẩy giả vị tiên tri tiền hô cho Chúa đã nói rằng: rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người, thế mà người ta vẫn lững thững. Họ không chuẩn bị sẵn sàng, mau lẹ sử trí đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương kia đã mau trí lanh lẹ đối với sự việc ở đời này. Và đó là điều đau lòng và đáng trách!
Ông bà anh chị em thân mến. Nếu “con cái đời này“ biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta là những người có đức tin, là những Ki-tô hữu và cũng là “con cái sự sáng“ lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai? Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, sao chúng ta lại không biết sử dụng của cải tạm bợ, chia sẻ với người nghèo khó, hay quảng đại làm sáng danh Chúa để mua lấy Nước Trời! Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ“ là sử dụng tiền của để bảo đảm cho chúng ta của cải chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã trao ban, chúng ta chia sẻ, chúng ta quảng đại. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa“.
Chúng ta khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà còn phải cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền của vật chất đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước những giá trị tinh thần lời Chúa dạy bảo. Chúng ta phải chú ý, những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này phải là phương cách đưa chúng ta đến gần, hay sống mật thiết với Chúa, đừng để tiền bạc, của cải, vật chất trở thành ông chủ và làm cho chúng ta xa Chúa.
Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện; dùng Tiền Của như phương thế, bởi TN 25-C181
TMĐP- Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện; dùng Tiền Của như phương thế, bởi đó là sự khôn ngoan của người không chọn Tiền Của nhưng chọn Thiên Chúa làm chủ đời mình.
Tin Mừng của hai chúa nhật 18 và 23 vừa qua đã đề cập đến việc sử dụng tiền của. Chúa nhật này, một lần nữa Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa quytế liệt hơn: hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của, mà không thể cả hai, vì “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”(Lc 16,13).
Khi nói điều này, ít nhiều Đức Giêsu đã làm chúng ta ngạc nhiên khi cho Tiền Của một vị thế quan trọng ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài còn làm chúng ta sững sờ khi tỏ ra ủng hộ “tên quản gia bất lương đã hành động khôn khéo”(Lc 16,8), khi biết mình sắp mất việc, vì bị tố cáo đã phung phí tài sản của chủ.
Biết mình “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”(Lc 16,3), anh ta liền gọi các con nợ của chủ đến mà bớt nợ cho họ bằng chiêu thức: người mắc nợ ông chủ một trăm thùng dầu, anh ta bảo viết lại giấy nợ năm chục thùng thôi; kẻ khác mắc nợ một ngàn gịa lúa, anh bảo chỉ viết tám trăm thôi (x; Lc 16,5-7) với hy vọng “sẽ có người đón rước mình về nhà họ”(Lc 16,4) sau khi bị đuổi việc.
Thực ra, khi làm chúng ta ngạc nhiên và sững sờ như thế, Đức Giêsu muốn đánh thức chúng ta ra khỏi cơn mê Tiền Của, bởi Tiền Của có sức ma mị làm chúng ta mù quáng trở thành nô lệ của nó, khi thoái hóa thành những kẻ lưu manh lừa đảo, và tàn ác bóc lột, “đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ”(Am 8,4). Tiền Của còn là cạm bẫy làm cạn kiệt lòng nhân ái, phá hủy nhân cách, hạ thấp nhân phẩm khi biến trái tim ta trở nên chai đá, vô cảm như người phú hộ đã không chút chạnh lòng thương xót Ladarô, người ăn mày cùng khốn ngày này qua tháng nọ nằm vất vưởng, mình mẩy đầy mụn nhọt, đói khát, rách rưới trước cổng nhà ông cho đến chết (x. Lc 16, 20-22).
Làm ngạc nhiên, sững sờ các môn đệ khi kể cho các ông dụ ngôn người quản gia bất lương, Đức Giêsu hoàn toàn không đồng tình ủng hộ chiêu trò ma mãnh bất chính của người qủan gia này, nhưng qua hành động khôn khéo của con cái thế gian của người ấy, Ngài dậy các môn đệ phải khôn ngoan xử dụng Tiền Của để mua lấy bạn hữu là những con người thiếu thốn, nghèo khó như những con nợ của ông chủ, hay như người ăn mày Ladarô ở đời này, nhưng sẽ là những hoàng tử ở đời sau trong Nước Thiên Chúa như thánh vịnh nói về họ: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người “(Tv 112, 7-8). Nói cách khác, Đức Giêsu muốn chúng ta dùng Tiền Của như phương tiện chứ không như ông chủ thống trị ta để làm bạn với những người nghèo bằng giúp đỡ họ; dùng Tiền Của như phương thế, mà không như mục đích để làm thân với những người kém may mắn bằng chia sẻ với họ, bởi đó là sự khôn ngoan của người không chọn Tiền Của nhưng chọn Thiên Chúa làm chủ đời mình.
Quả thực, mãnh lực của Tiền Của thì luôn dữ dội và có sức cuốn trôi, vùi lấp chúng ta xuống tận vực sâu đời sau bất hạnh, như người phú hộ không có lòng thương xót từ “âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm “(Lc 16,23-24), nhưng đã chẳng ai làm được gì cho ông ta, vì một vực thẳm lớn đã ngăn cách hai bên, không bên nào qua được bên nào (x. Lc 16, 26).
Người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể không đáng tin tưởng và không thật thà. Rõ ràng TN 25-C182
Người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể không đáng tin tưởng và không thật thà. Rõ ràng là ông ta đã sống như thế trong một thời gian khá lâu. Điều đó có thể lúc đầu nó không thể hiện rõ ràng, nhưng sau cùng lại trở thành cách sống của ông ta. Ông ta lẽ ra phải biết là mình đang sống trong tình trạng nguy hiểm. Nhưng ông đã mặc kệ nó suốt một thời gian dài, vì thế ông lẩn tránh những cuộc xét mình chung và ngay cả việc tự kiểm điểm bản thân mình. Tuy nhiên, dù có xảo quyệt đến đâu, cuối cùng ông cũng bị phát hiện, và ông chủ đã đối chất với ông về công việc quản lý tồi tệ của ông.
Điều đó hẳn làm ông đau lòng và nhục nhã. Không chỉ có nguy cơ bị mất việc, mà ông còn mất cả danh dự nữa. Ông đã làm cho chính bản thân ông và gia đình phải nhục nhã và xấu hổ, nếu ông ta có gia đình. Tuy nhiên, đó lại là khoảnh khắc của sự thật và đã vén lên bức màn bí mật, bởi vì nó cho ông thấy rõ ràng sự gian dối mà ông ta đang phạm phải trong cuộc sống. Nó cho ông cơ hội để lại sau lưng mọi ảo tưởng và dối trá. Từ đó, nó có thể là cột mốc thay đổi cuộc đời ông.
Nhưng rồi điều gì đã xảy ra ? Ông chẳng học được điều gì từ sự kiện đó. Ngay cả sau khi bị đuổi việc, ông ta vẫn tiếp tục duy trì sự gian dối của mình. Không có một chút thay đổi nào trong tính cách của ông ta. Ông đã từ chối lãnh trách nhiệm về quá trình hình thành bản tính nơi con người của ông.
Thật là khó khăn để thay đổi những thói quen trong cuộc sống. Dostoyevsky nói: “Phân nửa đời sau của con người được hình thành từ những thói quen ta có từ phân nửa cuộc sống đầu đời của ta.” Đây là một tư tưởng đáng sợ hãi.
Những khoảnh khắc đến trong cuộc sống của chúng ta, ví như đất sét một khi đã nắn thành hình và được nung trong lò thì hình thể của nó không thể biến đổi. Người gian dối sẽ mãi là người gian dối. Người tham lam sẽ mãi là người tham lam.
Một câu chuyện minh hoạ. Lần kia, vị ẩn sĩ đã truyền dạy cho các môn đệ một bài học khi đi ngang qua một khu rừng. Ông chỉ một cây sồi non và bảo môn đệ nhổ nó lên. Người môn đệ đó đã nhổ cây non lên với một tay. Sau đó ông chỉ một cây khác, lớn hơn cây đầu tiên một chút và nói người môn đệ hãy nhổ nó lên. Anh ta nhổ nó nhưng phải dùng cả hai tay. Sau đó ông chỉ một cây thứ ba lớn hơn và nói người môn đệ nhổ lên. Anh ta chỉ làm được điều đó khi nhờ một môn đệ khác giúp sức. Cuối cùng ông chỉ một cây khác lớn hơn và sai người môn đệ nhổ lên. Cho dẫu có sự trợ giúp của tất cả các môn đệ, anh ta cũng không thể làm được điều đó.
Vị ẩn sĩ kết luận: “Thói quen và đam mê cũng thế. Thời gian đầu tiên, trước khi nó kịp bắt rễ, ta có thể nhổ nó lên dễ dàng. Nhưng nếu ta cho phép nó bám rễ sâu, nó nghiễm nhiên trở thành những điều mà ta không thể nào nhổ nó ra khỏi bản thân được.”
Điều đó có lẽ cũng đã xảy ra với người quản lý trong câu chuyện Chúa Giêsu kể. Ông đã trở nên quá quen với thói gian dối, vì thế ông không thay đổi được. Tuy nhiên, những gì không thể đối với chúng ta đều trở nên có thể với sự trợ giúp trong ân sủng của Thiên Chúa.
Câu chuyện cho thấy sự nguy hiểm của những thói quen xấu, đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của việc hình thành nên những đức tính tốt. Nếu sự gian dối có thể trở thành thói quen trong cuộc sống, thì đức tính thành thật cũng vậy. Tính thành thật có thể trở thành thói quen tự phát, bản chất thứ hai của chúng ta.
Làm sao một người có thể đạt tới được trạng thái hạnh phúc này ? Ta không thể qua một đêm mà có được nó, điều đó phải được học bằng luyện tập lâu dài. Ta không thể có được nó sau vài hành động tốt lớn lao, mà phải được hình thành từ những hành động nhỏ. Phần thưởng đích thật cho một việc làm tốt là ta có thể làm những việc tốt kế tiếp một cách dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ bé của đời thường có thể góp phần hình thành hoặc phá huỷ tính cách của một con người.
Nhiều loại chim có bản năng mạnh trong việc xác định tổ của mình. Chim hải âu là một ví dụ TN 25-C183
Nhiều loại chim có bản năng mạnh trong việc xác định tổ của mình. Chim hải âu là một ví dụ điển hình. Một con hải âu được bắt và đánh dấu bằng cách đeo vòng tại Wales. Sau đó nó được đem tới Boston, cách đó ba ngàn dặm, và thả tại đó. Hai tuần sau, nó đã trở về Wales, chính xác nơi nó bị bắt.
Bản năng này cũng được thấy ở con người, không chỉ về mặt thể xác. Con người biết trở về sau những kinh nghiệm đau thương, không phải chỉ về quê nhà mà là trở về với chính con người của họ. Trở về để cải thiện con người trước đây của mình. Bản chất bên trong của họ hầu như khó mà đụng đến. Thế mà, một số lại được trở nên phong phú thêm.
Nhà văn Ý, Primo Levi, trải qua một năm ở Auschwitz. Ông là một trong ba người đã trở về trong số 123 người trên chuyến tàu đó. Sau đó ông nói: “Giá như tôi đã không ở một nơi như thế, có lẽ tôi đã hạnh phúc hơn và bình an hơn, nhưng tôi sẽ không giàu có”, dĩ nhiên là ông không nói đến sự giàu có về tiền bạc.
Nói chung, bản năng trở về là một nhân tố tích cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang yếu tố tiêu cực. Sự thôi thúc trở về đã chặn đứng con người trước những cơ hội và khả năng mới, và đòi hỏi thực hiện cuộc hoán cải cuộc sống với những khó khăn và đau đớn. Con người phải biết trở về từ những cuộc chạm trán gần kề với cái chết nơi cuộc sống nông cạn, tầm thường, thậm chí cả ngay khi sống trong tội ác và lỗi lầm.
Chúng ta lấy ví dụ điển hình trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người quản lý. Khi bị phát hiện, điều đó hẳn là điều đau lòng và nhục nhã đối với ông, nhưng đó cũng có thể là khoảnh khắc của sự cứu độ, bởi vì nó cho ông thấy thực tại đầy gian dối mà ông đang phạm phải trong cuộc sống, nó có thể là thời điểm để ông hoán cải. Nhưng điều gì đã xảy ra ? Ông vẫn tiếp tục lối sống gian dối trước đây của mình. Không một chút thay đổi trong tính cách của ông.
Bản năng quay trở về là lối thoát hoặc gây cản trở tuỳ thuộc vào ‘ngôi nhà’ thực sự của chúng ta đặt nơi đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ trở về với ánh sáng và những người sống trong bóng tối hầu như sẽ trở về với bóng tối.
Một cội rễ vững chắc, từ đó vươn lên một thân cây thẳng đứng thì vẫn đứng vững sau bão tố ; trong khi một cội rễ vững chắc, vươn lên một thân cây cong queo thì nó cũng sẽ bị cong xoắn như vậy. Khi chúng ta làm tổn thương tính chính trực, mặc dù chúng ta không mất đi nhân tính của mình, nhưng chúng ta mất đi cảm thức của chúng ta về sự toàn vẹn. Chúa Giêsu không đề cao người quản lý đồi bại như một mẫu gương. Người nói rằng con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Con cái thế gian thì siêng năng, chuyên tâm để đạt tới điều kết thúc xấu xa của chúng. Con cái ánh sáng, ngược lại, thường không làm gì cả. Và tất cả những gì mà con cái thế gian thực hiện để nhằm đạt được chiến thắng, lại là những điều con cái sự sáng sẽ không làm như thế.
Lòng tham tiền đã đưa đến sự huỷ hoại biết bao nhiêu người. Hầu như mỗi ngày chúng ta đều TN 25-C184
Lòng tham tiền đã đưa đến sự huỷ hoại biết bao nhiêu người. Hầu như mỗi ngày chúng ta đều đọc được trên báo chí về một số vị bộ trưởng cấp cao, hoặc một số vị trong những nhà lãnh đạo kinh doanh lại là những bị cáo trong những vụ án tham nhũng. Một trong những trường hợp khét tiếng nhất trong thời gian gần đây đó là Nicholas Leeson, kẻ đã lũng đoạn ngân hàng Barings tại Luân Đôn.
Là con trai của một thợ hồ ở vùng Watford, ngoại ô Luân Đôn, Leeson chưa từng được đến trường đại học. Anh ta làm việc tại ngân hàng Barings với chức danh thư ký quèn, nhưng đã phất lên nhanh khi được giao cho việc trông coi hoạt động kinh doanh tài chính của ngân hàng tại Signapore. Anh ta làm việc rất chăm chỉ với nhiều tham vọng. Mức lương hằng năm của anh là 350.000 USD, cùng với những khoản lợi tức được chia thêm.
Nhưng anh vẫn không bằng lòng. Anh bắt đầu phát sinh việc buôn bán, và anh đã kiếm được những món lợi kếch sù tại ngân hàng. Lòng tham mỗi ngày càng tăng lên, anh ta che giấu một số vụ giao dịch kinh doanh với những ông chủ của anh. Cuối cùng, anh thực hiện canh bạc lớn ‘được ăn cả, ngã về không’ ; để rồi anh bị thất bại, và phá sản toàn bộ ngân hàng.
Trong những tình huống tương tự, người ta thường phải trả giá cho những hành động sai trái của mình những giá trị còn lớn hơn cả tiền. Họ phải trả với giá là bị đánh mất lòng tự trọng, phẩm giá và niềm hy vọng. Tất cả những phẩm giá có được trước đó, từ nay họ đều bị giảm thiểu.
Leeson nhắc cho chúng ta về người quản lý trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể. Hắn xem chừng giống như Leeson, một quản lý bị hư hỏng vì tiền. Trong thế giới chúng ta sống, coi trọng đồng tiền, nó sẽ dễ dàng trở nên thần thánh của ta. Chúng ta có thể đặt đồng tiền trước cả tính lương thiện, sự công bằng, thậm chí cả đời sống gia đình. Người ta bị tẩy não để rồi tin rằng càng sở hữu nhiều thì càng tốt. Con người bình thường bị sương mù che phủ đến độ không còn nhận ra đâu là tầm quan trọng thực sự hơn.
Ngôn sứ Amốt lên án những kẻ thờ lạy, ca ngợi Thiên Chúa trong ngày hưu lễ, nhưng lại bóc lột kẻ nghèo khó trong những ngày còn lại. Chúa Giêsu nói chúng ta không thể vừa phục vụ Thiên Chúa lại vừa phục vụ tiền của được. Cũng thế, chúng ta không thể vừa phục vụ người anh chị em chúng ta lại vừa phục vụ tiền bạc.
Lần kia, một người đàn ông giàu có nhưng keo kiệt đi đến vị thầy rabbi của ông để xin được chúc lành. Thầy rabbi chào hỏi ông ta một cách thân thiện và mời ông ta vào phòng. Sau đó đưa ông ta tiến đến khung kính cửa sổ, nhìn ra đường và nói: “Nhìn xem và nói cho tôi biết ông thấy gì ?”
Người đàn ông giàu có trả lời: “Tôi nhìn thấy một người đang đi bộ.”
Sau đó, thầy rabbi dẫn anh đến chỗ đặt một tấm gương lớn, và hỏi: “Nhìn vào tấm gương và nói cho tôi biết anh thấy gì ?” Người đàn ông trả lời: “Tôi thấy chính tôi”.
“Này ông bạn thân mến, tôi sẽ giải thích điều này cho ông bạn hiểu. Cửa sổ được làm bằng kính, và tấm gương soi cũng thế. Tuy nhiên, lớp kính của tấm gương soi đã được tráng thêm một lớp bạc. Khi bạn nhìn xuyên qua tấm kính trong suốt, bạn sẽ thấy người ta ; còn khi bạn phủ lên nó một lớp bạc thì bạn sẽ không còn thấy người khác nữa, lúc ấy bạn chỉ thấy có chính mình. Cũng thế, khi bạn chỉ quan tâm đến tiền, bạn sẽ chẳng còn thấy ai nữa và bạn chỉ thấy có chính mình.”
Chúng ta không thể có được sự mãn nguyện hoặc tìm được ý nghĩa nơi vật chất. Nhưng khi chúng ta hiến dâng chính mình để phục vụ người khác, điều đó sẽ đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc sống. Trao ban cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình được hiện hữu.
“Tiền có thể mua được cái vỏ bọc của mọi thứ nhưng không thể mua được cái cốt yếu bên trong. Nó có thể đem lại cho bạn thực phẩm nhưng không đem lại sự ngon miệng, đem lại cho bạn dược phẩm nhưng không đem lại sức khoẻ, đem lại sự quen biết nhưng không đem lại bạn hữu, đem lại sự phục vụ mà không đem lại trung thành, đem lại những ngày vui thích nhưng không đem lại bình an và hạnh phúc” (Henrik Ibsen).
Tin mừng Lc 16:1-13: Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Suy niệm:
Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh TN 25-C185
Tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, con người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền, đến nỗi đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ. Thậm chí người ta coi lương tâm không bằng lương tháng, nên để cho đồng tiền lèo lái và quy định cả cách sống. Khi đó, họ xem Thiên Chúa như vắng bóng, nhân cách, lương tâm và liêm sỉ bị gạt sang một bên, con người ta sẵn sàng làm bất cứ việc gì thậm chí trái với luân thường đạo lý, với công bình bác ái. Lòng tham của con người không bao giờ cùng. Chính vì thế, trích sách tiên tri Amos đã phản ánh những kẻ đàn áp người nghèo khó: ngay trong những ngày lễ theo luật định như Mồng Một và Sabáth, những người tham lam chỉ giữ luật hình thức, mong cho ngày lễ ấy qua lẹ mau chóng để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm nhiều tiền. Họ dùng đủ cách gian lận "giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả". Họ còn khai thác và bóc lột những người nghèo. Những việc làm sai trái của họ đã bị Chúa lên án rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”.
Chỉ trong vòng hai tuần đầu tháng 9/2019, đã xảy ra hai vụ thảm sát rất man rợ tại miền Bắc Việt Nam. Nguyên nhân cũng vì tranh chấp đất đai, tiền bạc đã khiến trường hợp thứ nhất là người anh tuổi ngũ tuần sát hại cả nhà đứa em mình; trường hợp thứ hai người anh tuổi lục tuần thảm sát cả nhà em gái. Quả là đồng tiền nó bạc bẽo lắm, và khiến người ta trở nên lạnh như tiền. Mãnh lực đồng tiền đã khiến huynh đệ tương tàn, thủ phạm thậm chí đoạt mạng ngay cả người cùng máu mủ. Đâu rồi “Anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc dỡ hay đỡ đần”, đâu rồi “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”?
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn kể về viên quản lý. Quản lý là người mà chủ rất tin tưởng, giao cho việc thay mặt chủ để thu xếp nhà cửa trong ngoài, ngay cả tài sản của chủ, miễn sao sinh lợi cho chủ là được. Thế rồi có người tố cáo với ông chủ về anh quản lý đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản lý nặn đầu bóp trán tìm cách lo cho cuộc sống tương lai vì anh sắp bị mất chức, nhưng cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Anh nghĩ ra một mánh lới có thể vớt vát để sau khi mất chức quản lý, sẽ có người đối đãi tử tế với anh. “Thế rồi anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ một trăm thùng dầu thì anh bảo người ấy lấy văn tự, ngồi xuống và mau viết lại: năm mươi. Người nợ một trăm giạ lúa miến thì anh bảo người ấy viết lại: tám mươi.”
Chúa Giêsu gọi anh là người quản lý bất lương chính bởi bản chất con người của anh đã phơi bày công khai. Những người mắc nợ chủ phải trả phần vốn và phần lãi là chuyện đương nhiên, nhưng anh lại ăn lời cắt cổ trên xương máu người nghèo lên tới 20% lãi suất; ai mà anh thấy chém đẹp được thì anh tăng lên tới 50%. Anh qua mặt chủ mà tự đặt giá, qui định những tiêu chuẩn, mặc kệ tai tiếng cho chủ bị xem là tay cường hào ác bá, anh thậm chí bán rẻ danh dự ông chủ để mua lấy lợi lộc cho cá nhân và gia đình.
Nhưng Chúa Giêsu cũng phải phục sự suy tính của anh khi Người bảo: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Người quản lý đã khôn lõi theo kiểu thế gian, anh luôn biết đón hướng gió mà nương. Anh vận dụng tất cả sự khôn ngoan và sắc bén trong làm ăn để biến tiền của thành một phương tiện, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp anh về nhà họ, vì anh được tiếng là biết thương người anh em, giảm cho các con nợ tới cả một nửa.
Vậy chúng ta là con cái nước trời, chúng ta dược mời gọi nhận ra những người đói khổ quanh chúng ta là anh chị em mình. Vậy còn chờ chi khi chúng ta chưa dùng tiền của giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, dùng tiền của để sống bác ái, vì khi cho một người nghèo, mình sẽ học được sự quảng đại bằng hành động, tinh thần biết sẻ chia, lấy tiền bạc mua lấy bằng hữu. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tiền của còn có thể giúp chúng ta loan báo Tin Mừng khi người khác tìm thấy Chúa Kitô nơi các Kitô hữu, vì chỉ có Chúa, con người ta mới sống tốt hơn, mới sống xem nhẹ tiền bạc, mới vượt qua những ích kỷ nhỏ nhen trong cuộc sống con người để sẻ chia cho anh chị em ngay cả khi mình chưa có khá giả gì.
Để có thể sống đức Ái cách tốt đẹp, thánh Phaolô còn dạy chúng ta cầu xin cho những người đứng đầu và những nhà lãnh đạo quốc gia luôn đối xử công chính liêm minh để dân chúng được an cư lạc nghiệp, làm ăn lương thiện, khi ngài gởi những dòng sau đây cho môn đệ Timôthê rất chân thành: “Hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.” Vâng, khi một chính quyền biết lo lắng cho quyền lợi của dân chúng một cách đúng mức, người dân sẽ ý thức sống đúng pháp luật, không làm ăn gian dối, không mua gian bán lận, không bất chấp mọi cách để có đồng tiền.
Lạy Chúa, mỗi khi con cầm một đồng tiền trên tay, xin cho con ý thức xem đồng tiền chỉ là một công cụ để con sống xứng danh con Chúa, không quên nâng đỡ hoàn cảnh của anh chị em đang sống quanh con. Amen.
Người đời hôm nay cho rằng tiền bạc là những thứ đem lại cho cuộc sống giàu sang, sung sướng TN 25-C186
Người đời hôm nay cho rằng tiền bạc là những thứ đem lại cho cuộc sống giàu sang, sung sướng, muốn gì được nấy, “có tiền mua tiên cũng được” nên họ coi “Tiền là tiên là phật, là sức bật của thanh niên, là sức khỏe của tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng che thân”. Tuy nhiên, đó chỉ nhận định phiến diện về giá trị của đồng tiền vì trong thực tế, chúng ta vẫn thấy nhan nhãn có những người giàu có nhưng họ sống siêu thoát với đồng tiền, họ không tiếc xót bỏ ra từ vài đồng bạc cho đến hàng tỷ đồng để giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật, những người vô gia cư, những trung tâm nuôi các cô gái lầm lỡ, hay những người lo chôn cất hàng trăm ngàn thai nhi vô tội sát hại hằng ngày…
Ngược lại, trong xã hội cũng có những người dùng tiền của để ăn chới phung phí sa đọa, tội lỗi, hư hỏng. Hoặc có những gia đình giàu có nhưng cuộc sống hôn nhân thì ngột ngạt, vợ chồng xào xáo, đưa nhau ra tòa ly dị, chẳng hạn vợ chồng ông vua cà phê Trung Nguyên đến nỗi ông phải đau đớn nói giữa phiên tòa rằng: “Nhiều tiền để làm gì để bây giờ phải đưa nhau ra tòa ly dị nhục nhã vô cùng”. Cho nên, tục ngữ Việt Nam có câu: “Tiền bạc giết tâm hồn nhiều hơn là gươm giáo giết thể xác”. Vì vậy, ông bà ta nói chữ tiền luôn gắn liền với chữ bạc là đúng. Bạc không chỉ là một loại kim qúi, mà còn có nghĩa là bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền họ sẵn sàng họ đánh cha, mẹ, bỏ chồng, bỏ vợ con, vì tiền gian dối trong tình bạn hữu, lọc lừa họ hàng bà con lối xóm. Vì vậy, Trong tác phẩm “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Còn Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Chính vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta: “Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ không thể là ông chủ tốt được. Anh em hãy dùng tiền của mà mua lấy tình bạn hữu”. Qủa thế, tiền của chỉ là những thứ vô tri vô giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến đời sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương nhau, làm cho tình nghĩa anh chị em với nhau thêm đậm đà thắm thiết và dài lâu. Vì vậy, tiền chỉ là phương tiện giúp con người tạo tình nghĩa và hạnh phúc ở đời này, nhất là đạt tới Nước Trời, là sự sống vĩnh hằng mai sau. Cụ thể, Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh quản lý bất lương làm mẫu mực cho đời sống đức tin cho chúng ta. Nhưng có người hỏi rằng tên đầy tớ kia bất lương mà làm mẫu mực cái gì? Hắn gian dối như thế mà Chúa Giêsu khen, vậy Chúa Giêsu khuyến khích mình bất lương sao?
Không, Chúa Giêsu khen cung cách ứng xử của anh ta khi đối diện với mối nguy đe doạ đến sự sống còn của mình sau này. Anh ta giảm số nợ cho những con nợ để sau này có sa cơ thất thế, nghèo rớt mùng tơi thì họ sẽ cứu vãn mạng sống của anh. Nhưng mà sự sống anh tìm cách cứu vãn là sự sống nào? Nếu xét sự sống vật chất, cơm ăn áo mặc, thân xác này, anh thành công rực rỡ; còn nếu xét đến sự sống tâm linh, đời sống đức tin, anh ta thất bại vì anh bất lương thiện, thiếu trung thực, gian dối. Cho nên, Chúa Giêsu dạy không ai làm tôi hai chủ, vì nó yêu chủ này thì nó ghét chủ kia! Vâng, tiền bạc tự nó không tốt không xấu. Giá trị tốt hay xấu tuỳ thái độ của chúng ta khi sử dụng nó. Nếu tôi lấy sự sống thân xác làm giá trị tuyệt đối, thì tôi phải lao vào kiếm tiền cho nhiều dù phải gian xảo, mánh mung, lọc lừa, đàn áp hay bót lột, như thế thì sự sống tâm linh, lương tâm tôi bị đe doạ dễ trở thành người bất nhân bất nghĩa, bất hiếu và lương. Vì vậy, tiên tri Amos trong bài đọc 1 nói rằng Thiên Chúa lên án người có tiền của mà đối xử thậm tệ người nghèo, Ngài sẽ kết án những việc làm của họ trong ngày sau hết. Vì vậy, trong cuộc sống đời này, nếu chúng ta lấy Chúa là gia nghiệp, lấy Lời Chúa làm lễ sống, và lấy giá trị tình nghĩa con người làm tuyệt đối thì tiền bạc trở thành phương tiện phục vụ Thiên Chúa, làm rạng danh Thiên Chúa qua việc đóng góp theo khả năng cho nhu cầu vật chất của giáo Hội (điều răn Thứ 5 trong 5 điều răn Hội Thánh dạy). Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết dùng tiền của đệ tạo tình nghĩa con người với nhau qua việc giúp đỡ, sẻ chia tinh thần cũng như vật chất cho những người nghèo hơn chúng ta, đau yếu hơn chúng ta và tội lỗi hơn chúng ta…, chính lúc ấy, chúng ta đã đem lại hạnh phúc, bình an cho mình và cho tha nhân, đặc biệt là đem lại sự sống vĩnh hằng mai sau như Lời Chúa nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-36).
Vì yêu thương, Thiên Chúa giao cho chúng ta quản lý vũ trụ này, Ngài cho chúng ta quyền quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa, tức là không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát chúng theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới mọi người mọi nơi qua việc từ bi bác ái của chúng ta. Cho nên, chúng ta phải làm tôi Thiên Chúa vì Chúa là Đường, là Sự thật và là Sự sống và chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời và dẫn đưa chúng ta vào đường nẻo bình an. Ngược lại, nếu chúng ta làm tôi cho tiền của, cho qủy dữ chắc chắn chúng sẽ dẫn dắt chúng ta vào đường nẻo gian dối, tham lam, ích kỷ hưởng thụ, cuối cùng phải đau khổ và chết đời đời.
Vì vậy, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình khi sử dụng tiền bạc như thế nào, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn biết chế ngự được ma lực hấp dẫn của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc để tạo tình thương, tình nghĩa với nhau bằng việc bác ái và chia sẻ. Vì thế, hãy coi trọng con người và tình người hơn tiền bạc của cải vật chất. Bởi vì tiền bạc không tồn tồn mãi mà chỉ có tình nghĩa con người. Cho nên, nhạc sĩ Beethoven xác tín rằng “Chỉ có Đạo mới làm chúng ta hạnh phúc sung sướng, chứ không phải là vàng bạc”. Còn Chúa Giêsu quả quyết được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, mất tha nhân và mất Chúa thì nào có ích gì. Cho nên, Đức Thánh Cha Phanxicô dạy rằng: “Sự giàu có đích thực là tình yêu Thiên Chúa, được chia sẻ cho anh chị em mình. Tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa và làm cho chúng ta biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Ai có kinh nghiệm này thì được bình an trong tâm hồn và không sợ chết”.
Ước gì, Lời Chúa hôm nay thách bách chúng ta sử dụng tiền bạc đúng ý Chúa ngay trong môi trường mình đang sống để xã hội này đầy ấp tình người và tình Chúa. Amen.
Tin mừng Lc 16:1-13: Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của".
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi TN 25-C187
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”, nhưng Tiền Của lại là một cái gì luôn gắn liền với cuộc sống chúng ta:
“Người công nhân đổ mồ hôi để có được nó Kẻ hoang phí thì đốt nó Chủ ngân hàng đem nó cho vay Kẻ lưu manh làm giả nó Nhân viên thuế vụ lấy nó Người hấp hối lìa bỏ nó Kẻ thừa kế tiếp thu nó Người tiết kiệm để dành nó Người keo kiệt thèm khát nó Kẻ ăn trộm chộp lấy nó Người giàu gia tăng nó Người cờ bạc làm mất nó Phần tôi thì dùng nó” (Quote)
Quả thật, Tiền Của là những thứ cần thiết cho con người, là những thứ đem lại giàu sang, hạnh phúc cho con người, nhưng cũng là nguyên nhân của những phản bội, tráo trở, thất nhân thất đức, bôi đen lòng người. Vì thế, là những người theo Chúa, chúng ta không thể tôn thờ thần ‘Tiền Của’ - thần Mammon - ngày nay là Thần Đôla - tôn đồng tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng.
Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”. Không thể để Tiền Của làm chủ đồng thời cũng để Thiên Chúa làm chủ. Không thể làm tôi hai chủ cùng một lúc, vì mỗi chủ có những đòi hỏi khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chính vì vậy trong con người chúng ta luôn xảy ra những tranh chấp, những đối kháng nhiều khi không hóa giải được, làm chúng ta bất an, không được hạnh phúc. Chính vì vậy Chúa đòi chúng ta phải có một lựa chọn dứt khoát: hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của và chúng ta quá biết: Tiền Của là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu, nên Tiền Của dù có cần thiết tới đâu thì cũng chỉ là phương tiện để chúng ta đạt tới mục đích đời người. Nếu xác định được như thế thì Tiền Của không trở thành ông chủ của chúng ta. Biết thế, nhưng trong thực tế, Tiền Của lại chi phối và nhiều khi, đối với một số người, nó đã trở thành mục đích tối hậu, làm chúng ta lo âu mất ăn mất ngủ.
Có câu chuyện kể rằng: thời buổi làm ăn khó khăn, sức khỏe lại có hạn, ông lão luyện kim chuyển sang nghề kinh doanh dây xích chó, mục đích chỉ là kiếm đủ tiền để sống qua ngày.
Một hôm, một thương nhân buôn bán đồ cổ đi ngang qua, bất chợt nhìn thấy cái ấm trà bên cạnh ông lão. Thấy cái ấm trà có vẻ đẹp cổ xưa, mang phong cách của một nghệ nhân gốm sứ thời nhà Thanh, ông ta liền vào xin coi cho biết. Quả nhiên, trên miệng ấm có con dấu của nghệ nhân nổi tiếng. Hết sức vui mừng, người thương nhân hỏi mua chiếc ấm với giá cao nhưng nào ngờ, ông lão từ chối. Đây là chiếc ấm trà do tổ tiên ông để lại, con cháu ba đời nay đều uống nước trong ấm trà này. Người thương gia thế là đành thất vọng ra về.
Nhưng cũng từ sau hôm ấy, ông lão đêm nào cũng mất ngủ. Chiếc ấm trà quen thuộc suốt 60 năm nay lại thành mối lo lắng trong lòng ông. Đi đâu, làm gì, ông cũng luôn phải để mắt canh chừng chiếc ấm, thành ra mất ăn mất ngủ. Khó chịu hơn cả là thái độ của mọi người xung quanh. Biết chuyện về cái ấm trà quý của ông, họ ùn ùn kéo đến, người lân la hỏi về những báu vật khác trong nhà ông, người thì hỏi mượn tiền ông, lại có người đang đêm hôm đến gõ cửa ầm ầm.
Rồi người thương nhân kia trở lại, nâng giá mua lên gấp đôi cái giá ban đầu khiến ông càng hoang mang.
Cuối cùng, ông gọi hàng xóm láng giềng đến, và trước mặt mọi người, ông cầm rìu đập nát cái ấm trà quý. Cuộc sống của ông trở lại bình thường. Ông tiếp tục làm nghề bán xích chó, và sống rất bình an hạnh phúc.
Anh chị em thân mến,
Ông làm nghề bán xích chó sẵn sàng đập vỡ chiếc bình trà cổ để được bình an. Đây chỉ là một thứ bình an trong cuộc sống đời thường mà ông ta còn dám hy sinh như vậy, phương chi đối với thứ bình an của Chúa, một thứ bình an của riêng Người, một thứ bình an mà ngay khi Chúa sinh ra ca đoàn thiên thần đã vang hát: vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm, rồi khi Người từ cõi chết sống lại thì lời chúc đầu tiên vẫn là “bình an cho anh em”, thì chúng ta phải có thái độ như thế nào?
Chính vì vậy lời Chúa hôm nay đến với chúng ta: “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của (Lc 16,13). Amen.
Cha ông ta có những câu nói huề vốn, đầy ẩn ý: của thiên trả địa. Chính chuyên chết cũng ra ma TN 25-C188
Giuse Dương Đức Hưng
Cha ông ta có những câu nói huề vốn, đầy ẩn ý: của thiên trả địa. Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng mang ra ngoài đồng. Một quy luật hết sức công minh: có vay có trả, giầu nghèo, khôn hay khờ, rồi cũng đến ngày thân nhân đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng với đôi bàn tay trắng. Ở đời luôn cho thấy sự công bằng ngay trong hiện tại này: quan nhất thời, dân vạn đại, quy luật sẽ làm rõ tính hợp lý khi ta đi lên các bậc thang, rồi phải bước xuống bằng những bậc thang đó. Đồng ý rằng, ở đời có vui buồn, có sướng khổ, có nhiều người đầy tâm huyết, nhưng không phải là không có những kẻ tiêu cực. Một trong những nét đẹp mà chúng ta cần nghĩ tới, thiết thực hơn, đó là tình người, bởi khi ta được quan tâm, yêu thương, ta được khích lệ, cảm thông, giá trị cuộc đời sẽ thật ấm áp hạnh phúc.
Đức Giêsu chia sẻ câu truyện người quản lý bất lương, nhằm nói lên tính nhất thời của tiền, quyền, người ta trắng tay khi hết chức quyền, người ta bị coi là khờ dại, nếu 90, 100 năm, làm người, làm con Chúa mà chưa sống chữ tình. Người quản lý thiếu trung thành, dễ dàng bị chủ phát hiện, sa thải, nặng hơn phải đền bù hậu quả tội lỗi mình gây ra. Ai trung tín trong trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn; ai biết sử dụng tiền của, người ấy sẽ khôn ngoan trong việc sống ơn ban của Chúa. Con cái biết lưu tâm để ý đến nỗi vất vả của cha mẹ, người con ấy sẽ dễ dàng sống chữ hiếu chữ thảo. Ai lắng nghe, người ấy có cơ hội hiểu tốt, sống đúng, sống đẹp, trước các tương quan với Chúa và tha nhân. Khôn và ngoan, trung tín, thời nào, kiếp nào, bậc sống nào, cũng đáng tuyên dương khen thưởng, dù khái niệm hạnh phúc ở hiện tại và tương lai không giống nhau.
Phận người mong manh, nhưng đáng yêu, khi mở mắt chào đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, tuổi nào ta cũng là đối tượng của lòng Chúa xót thương, giai đoạn nào ta cũng được gọi là người quản lý mà Chúa yêu thương, tin tưởng. Đức Giêsu nói: con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng, con cái đời này biết tự vệ với khẩu hiệu: quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy. Nếu con cái thế gian biết nói: thả tép bắt tôm, hẳn con cái ở đời mới thành công ở khía cạnh vật chất mà thôi. Thao thức của Đức Giêsu là tất cả phải nhận ra mình được yêu thương, được biến đổi, hầu mỗi ngày được trở nên trung tín và khôn ngoan. Chắc chắn một ngày đi tu, chưa ai trở thành chánh quả, một vài năm theo Chúa, không ai cho rằng ta đã hoàn hảo, thiện toàn, nhưng một ngày yêu Chúa, yêu người, ai cũng có cơ hội để trở thành chứng nhân tình yêu Đức Kitô.
Mong manh phận người, tuy nhiên, không có gì là không thể, đối với những ai biết nỗ lực, và xác tín trong ơn gọi theo Đức Giêsu làm môn đệ. Tiền nhân nói rằng: chiều con quá, con hư, tiền của dư, con hỏng, giầu mạnh thường thao túng, vụng, nghèo dễ theo đuổi. Thực ra thì cứng rắn quá, con cái sẽ lẩn tránh cha mẹ, mềm yếu quá, không thể đủ uy lực giáo dục dạy dỗ con cháu. Người quản lý hết sức tinh tế với chức quyền: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Anh ta biết xoá nợ, biết mua lấy bạn hữu, biết việc phải làm khi còn có thể, khi chủ chưa cắt chức, bãi quyền. Người quản lý quả là khôn khéo với bài học của thế gian, hầu mưu ích cho hạnh phúc ở tương lai. Đức Giêsu không khen việc làm gian dối, nhưng đề cao sự khôn ngoan của người quản lý qua việc hành xử hết sức thức thời. Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu, ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn.
Mong manh phận người, không phải là lời ai oán và bi quan về sự giới hạn kiếp nhân sinh, mà còn cho thấy phận người đáng thương hơn đáng trách. Người quản lý khéo ăn khéo ở trong ứng xử, nhưng Đức Giêsu ý thức những ai thuộc về Ngài phải thực sự hiểu về giá trị của tình yêu: khôn ngoan và trung tín, không mưu mô tính toán, tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa. Đúng, nếu thứ gì giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề, mà đó chỉ gọi là chi phí thôi. Mỗi người ở đời đều được ban phát cho sự tự do, đều được soi sáng dẫn dắt thực hành việc mến Chúa yêu người, gọi là có cơ hội để thành toàn, để đạt tới hạnh phúc thật. Tình, tiền, tù, tội, vẫn là lời cảnh báo về sự mong manh của phận người có thể rơi, ngã vào vòng lao lý bất cứ lúc nào.
Người ta có kể câu truyện “giấc mơ hạnh phúc” như sau: có một chú tiểu tu luyện với sư phụ rất tốt trên núi cao. Vào một hôm, sư phụ nói chú tiểu: mai ta có việc phải xuống núi, con ở lại tu luyện, đừng xao lãng bổn phận. Ngay tối hôm đó, chú tiểu cứ miên man suy nghĩ về “chức quyền”, rồi chú suy tưởng xa hơn, phóng khoáng hơn, chú được mọi người quý mến và trở thành vị vua bởi tài năng của chú. Vâng, mỗi người sẽ được ơn ban, đủ để sống và trưởng thành với hạnh phúc ở phía trước. Giấc mơ hạnh phúc của “chú tiểu”, của mỗi chúng ta chỉ đúng, đẹp, khi tư tưởng và hành động có sự trung tín và khôn ngoan của Chúa. Công bằng xã hội hay công bằng yêu thương, chính là tư tưởng, là thực hành bài học mến Chúa yêu người theo tinh thần trung tín và khôn ngoan. Amen.
Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi…”. Có thực sự đồng tiền có một sức mạnh vạn năng như TN 25-C189
“Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, có tiền là có lý, lời nói sẽ rất ư là nặng ký,” Có thực sự đồng tiền có một sức mạnh vạn năng như vậy không? Có đấy! Đồng tiền có một sức hút và có sự hấp dẫn rất lạ lùng, nó đã và đang trở thành thần thánh và là vua chúa của khá nhiều người, kể cả những người trong đời tu trì nữa! Nhưng coi chừng, đồng tiền còn làm cho cuộc đời ta bị bẹp dí, khiến ta mất cả lý trí, và kéo ta xuống âm ty!
Đây là chuyện có thật, vào dòng tu, thầy Joseph được bề trên và anh em thương mến vì tính tình hiền hòa, vui vẻ, chịu khó, đạo đức…Sau ba năm, bề trên tín nhiệm và giao cho thầy công việc quản lý tài sản của nhà dòng, thầy lại có chút kiến thức về kinh doanh, và thầy biết làm thế nào để cho tiền đẻ ra tiền. Thầy mua bán cổ phiếu, đầu tư vào chỗ này chỗ nọ. Công việc của thầy lúc đầu rất thuận lợi, nhưng dần dần thầy bỏ kinh sáng, rồi bỏ cả lễ, rồi bỏ cả kinh chiều, bỏ không sinh hoạt với anh em, suốt ngày anh em chỉ thấy thầy lui cui bận rộn với chiếc computer làm việc kinh tài cho nhà dòng. Cuối cùng, thầy Joseph bị stress, mất ăn mất ngủ và lâm trọng bịnh vì giá cổ phiếu bị tuột dốc. Cuối cùng tiền mất tật mang, thầy Joseph bị ĐÔ nó VẬT cho thất điên bát đảo, bơ phờ bạc nhược, bao nhiêu tiền bạc của nhà dòng chỉ qua một đêm tan thành mây khói. Thầy từ giã đời tu, ra đi và để lại cho nhà dòng số tiền thâm thủng lên đến gần nửa triệu bạc.
Bạn thân mến, qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, tôi học được hai bài học này:
• Thứ nhất, phải biết dùng tiền của như là một phương tiện để chiếm hữu lấy Nước Trời, bởi chính Chúa đã dạy: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.”
• Thứ hai, chỉ có một mình Thiên Chúa là Vua, và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Chính Chúa Giê-su đã cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được…” Tiền bạc chỉ là một tên đầy tớ, nó không phải là Chúa, đừng bao giờ thờ lạy nó. Cúi mình xuống thờ lạy nó, là tiêu ngay!
Nhìn lại trường hợp của thầy Joseph, bạn có nghĩ rằng thầy có chủ trương bỏ Chúa để thờ lạy kim tiền không? No! Tôi nghĩ thầy không bao giờ có ý nghĩ hay chủ trương như vậy đâu! Thế nhưng thần tài nó khôn ngoan và ma le lắm, nó dụ dỗ thầy Joseph mỗi ngày một tí, nó cứ đem đồng tiền ra nhử nhử, nhắp nhắp, cứ chài mồi, và thế là thầy Joseph cứ dần dần xa Chúa, và cúi gập người xuống thờ lạy nó mà thầy vẫn không hay không biết. Và đến khi thầy phát hiện ra rằng mình đang là nô lệ của tiền tài, danh vọng và của cải vật chất thì đã quá muộn. Mặc dù thầy Joseph vẫn còn mạng sống đó, nhưng trong thực tế, thầy đã mất tất cả. Mất niềm tin, mất lòng dạo đức, mất hạnh phúc, mất ơn gọi, và tôi sợ rằng thầy còn mất nhiều thứ khác nữa kìa!
Bạn có muốn bị ĐÔ nó VẬT bạn giống như thầy Joseph từng bị không? Chớ có dại, tiền là một ông chủ rất ác độc và tàn nhẫn, nó không có lòng thương xót bạn một chút nào cả! Bạn mà cúi xuống thờ nó, để nó đè lên mình, lên cuộc đời, lên gia đình của mình là kể như…tiêu đời! Bạn sẽ mất hết tất cả, kể cả…linh hồn nữa!
Còn nếu bạn không muốn bị ĐÔ nó VẬT thì bạn hãy lắng nghe và thực thi lời của Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay. “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu… [và đừng bao giờ] làm tôi Tiền Của” (Lc 16:9). Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè bằng cách làm việc bác ái, giúp đỡ, bố thí, ra tay cứu giúp trẻ mồ côi, nạn nhân thiên tai bão lụt, những người kém may mắn, bất hạnh và nghèo khó hơn mình. Đến thăm viếng và an ủi những người già lão, bệnh tật ở tư gia, ở bệnh viện hoặc trong các nhà dưỡng lão…
Đừng bao giờ làm tôi Tiền Của, nhưng xin hãy rộng rãi quảng đại trong việc giúp đỡ cho các dòng tu trong việc đào tạo chủng sinh và tu sĩ, cho những công việc truyền giáo, cho việc bảo trì, xây dựng cũng như phát triển giáo xứ của bạn.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban cho chúng mình ơn khôn ngoan, để bạn và tôi biết kiếm tiền một cách chính đáng, luôn sử dụng tiền của vào những việc mang lại lợi ích cho mình và cho tha nhân, và nhất là chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa chứ không bao giờ tôn thờ tiền của! Amen! mục lục.
Hôm nay Chúa Giêsu kể một câu chuyện dụ ngôn ngắn gọn với những hình ảnh liên quan đến TN 25-C190
Hôm nay Chúa Giêsu kể một câu chuyện dụ ngôn ngắn gọn với những hình ảnh liên quan đến thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, khiến chúng ta bị đụng chạm - bởi vì tất cả chúng ta, giầu hay nghèo, nhiều hay ít tiền của, đều là người quản lý cuộc sống của mình. Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta là cố tình gây sốc, nhắm thẳng vào mối bận tâm thường xuyên, “sát sườn” trong từng ngày sống và suốt cuộc đời của mỗi người: tiền bạc và của cải vật chất.
Dụ ngôn nhằm mục đích thách thức chúng ta bằng cách đưa ra một tình huống không hề là kiểu mẫu. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng tiền bạc hoàn toàn có thể làm lòng người ra gian dối, biến tiền bạc thành ông chủ tối cao dẫn đến việc tôn thờ tiền bạc như ngẫu tượng, vì lợi nhuận làm chai sạn tâm hồn dẫn đến coi khinh Thiên Chúa đích thực và người lân cận, như tiên tri Amốt đã cảnh báo trong Cựu ước: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sabát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.” Thiên Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Giacóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:4-7).
Câu chuyện dụ ngôn này đặt câu hỏi cho chúng ta, là những người quản lý Nước Thiên Chúa: “Mình sẽ làm gì đây?” (Lc 16:3). Thiên Chúa cho chúng ta sinh ra làm con người, giao thời gian và mọi điều kiện vật chất, tinh thần, gia đình, xã hội, nghề nghiệp… cho chúng ta và mời gọi chúng ta làm cho nó sinh hoa kết quả. Chúng ta phải làm việc thế nào để của cải của chúng ta, tức là mọi điều kiện Thiên Chúa ban không trở nên cớ cho “Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông” (Lc 16: 1). Dụ ngôn này khiến chúng ta liên tưởng đến dụ ngôn người con hoang đàng của tuần trước: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (Lc 15,12-13). Rồi giống như trong dụ ngôn này, chúng ta phải đối mặt với một tình huống nguy cấp “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16:2). Chúng ta trước sau sớm muộn gì thì cũng phải “tính sổ” với Thiên Chúa về cung cách quản lý đời mình “để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ” (Lc 16:4). Thế thì, điều gì là thực sự căn bản trong cuộc đời của chúng ta?
Trong dụ ngôn, người quản gia, dù đang ở một tình huống khó khăn, nhưng bằng một hành động lanh ý biết tận dụng các mối quan hệ, đã lèo lái xoay chuyển tình thế, lấy lại sự tự tin để bằng một cách khác huy động những gì anh ta sẽ mất. “Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:4). Người ấy có một ý tưởng khôn khéo, một hành động táo bạo và mau lẹ đáng kể: “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ôliu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi” (Lc 16:5-7).
Một số nhà chú giải đã giải thích cho điều có vẻ rất ngạc nhiên đối với chúng ta. Đối với một số nhà chú giải, người quản gia này biết nhận ra các trường hợp khẩn cấp và đối mặt với chúng bằng sự quyết đoán. Anh ta đã sử dụng quyền lực tạm thời của mình để tạo ra một sự an toàn lâu dài mai sau cho bản thân. Theo những nhà chú giải khác, anh ta đã trả lại công bằng xã hội cho các con nợ của ông chủ và tạo nên các mối quan hệ bạn bè cho mình.
Tất nhiên, đây là chuyện “không trung thực”, nhưng nhà phú hộ vẫn khen ngợi người ấy: “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (chứ không phải khôn ngoan! Lc 16:8).
Nhưng sự ngưỡng mộ của người chủ, và của Chúa Giêsu, không phải vì hành động bất lương của người quản gia, mà là vì tính cách khôn khéo và phản ứng mau lẹ tức thời của người bị dồn vào đường cùng, khiến anh ta dám sử dụng phung phí của cải của ông chủ để tạo ra các mối quan hệ bạn bè vốn có thể sẽ đem lại lợi ích cho bản thân, bằng việc sử dụng quyền hành vẫn còn trong tầm tay của mình.
Chúa Giêsu nhận thấy rằng “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16:8). Đối với chúng ta, những người mà Ngài đang ngỏ lời, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta biết áp dụng sự khôn khéo của con cái đời này khi họ giải quyết một vấn đề nhỏ, vốn chỉ là những gì bên ngoài, vào lãnh vực tinh thần, là của cải đích thật của chúng ta: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè” (Lc 16:9).
Dựa trên lời này của Chúa Giêsu, có thể một số người sẽ nói ngay:
Kim ngân phá luật lệ - Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Giàu tiền tài, nhân nghĩa tận - Của làm hại người. Chị em hiền thật là hiền, động đến đồng tiền mất cả chị em.
Có thể là Chúa Giêsu sẽ không đồng ý với họ. Vì Chúa Giêsu khi còn ở Nadarét, tiếp nối công việc thợ mộc của cha nuôi mình là Thánh Giuse, hẳn biết rõ sự tự hào chính đáng của người kiếm sống bằng công việc tay mình làm ra. Ngài biết cái giá xứng đáng của một công việc được hoàn thành tốt, và giống như bất cứ người thợ thủ công tận tâm nào, Ngài trông đợi vào tiền công của mình và biết rõ rằng Mẹ Maria cũng đang trông đợi vào tiền công đó dù Mẹ không nói một lời nào.
Hơn nữa, khi một nhóm đệ tử được lập ra: họ phải chi tiêu dè sẻn, gần như dựa vào mấy đồng xu của Ngài, đó là sự thật. Chúng ta cũng hãy nhớ đến những người phụ nữ ít ỏi đã theo Đức Giêsu, từ thuở ban đầu ở Galilê, và “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Mười ba người đàn ông, không thể sống mà không có nhu cầu thiết thực hàng ngày! Chắc chắn, Chúa Giêsu đánh giá cao sự giúp đỡ của những người phụ nữ này, và không bao giờ nói với họ: “Tiền của các bà, cứ giữ lấy đi, nó bất chính, của làm hại người!”
Vậy, trong mắt Chúa Giêsu, “tiền của bất chính” là gì? Tất nhiên, đó là sự chiếm đoạt không trung thực; tiền đó trở thành một thứ quyền lực mù quáng của sự bất công hoặc áp bức, và trên hết tiền bất chính làm cho những người sở hữu nó hoặc những người ham muốn nó thành nô lệ cho nó. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu không dùng từ bình thường để gọi tên tiền bạc, mà dùng từ mâmôn, mà trong đạo Do Thái vào thời Chúa Giêsu dùng để chỉ của cải, những gì đạt được nhưng thường là lợi bất cập hại, nhưng cũng dùng để chỉ những sự an toàn ảo tưởng của thế gian, đối nghịch với lòng tin tưởng của “những người nghèo” của Israel vào Thiên Chúa của họ.
Theo nghĩa đó, đoạn Tin mừng này cho chúng ta một bản tóm tắt về tất cả lời dạy của Chúa Giêsu về tiền bạc.
Trước hết, tiền bạc phải được sử dụng để tạo nên bạn hữu cho chúng ta, những người sẽ tiếp đón chúng ta như anh em trong cuộc sống mai sau, nơi tiền bạc sẽ không còn cần thiết, đối với chúng ta cũng như đối với họ. Điều này có lẽ kết hợp với một lời khác của Chúa Giêsu: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,19-21).
Rồi thì, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng sự lương thiện của chúng ta trong những việc trần thế cho phép Thiên Chúa tin tưởng giao phó cho chúng ta những việc thuộc về Nước Trời: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?” (Lc 16:10-11). Trước tiên, là những người quản lý của cải của trần thế này, chúng ta dần dần cộng tác với Thiên Chúa trong công việc cứu chuộc vĩ đại. Đây là “của cải chân thật”, tài sản của chúng ta, là con cái, những người thừa tự của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Chúa Kitô.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nói: “không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ” (Lc 16:13). Không thể làm tôi hai chủ: bởi vì lòng dạ con người sẽ không thể quy hướng trọn vẹn về cả hai chủ. Lời cảnh báo của Chúa Giêsu rất thông thường: hai chủ có thể vừa là Thiên Chúa vừa là vinh quang của con người, Thiên Chúa và lòng tự yêu bản thân, Thiên Chúa và tính ích kỷ, Thiên Chúa và lạc thú, Thiên chúa và cuộc sống dễ dãi, hoặc lại là Thiên Chúa và thói ham quyền lực; nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh vào một ví dụ cụ thể: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16:13), nghĩa là vừa làm tôi Thiên Chúa vừa chạy theo những mối lợi bất cập hại, những sự an thân nhất thời.
Một ngày nào đó chắc chắn tất cả tài sản của chúng ta sẽ trở nên vô dụng, và tất cả những gì phục vụ cho tiền bạc đều không nghĩa lý gì; nhưng điều này không được làm giảm lòng tin cậy của chúng ta nơi Thiên Chúa hoặc lòng nhiệt thành của chúng ta phục vụ Ngài trong cuộc sống hàng ngày mà Ngài ban cho chúng ta. Điều quan trọng là “dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật thứ 21) .
Chúa Giêsu đã nói: “Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34). Khi chúng ta ý thức được rằng lòng mình không còn ở với Chúa, không còn thuộc về Chúa, hoặc chỉ còn thuộc về Chúa một cách thoáng qua, câu hỏi tự đặt ra cho bản thân sẽ là: đâu là điều khát khao đang chiếm giữ lòng tôi? Kho tàng khác của tôi ở đâu?
Có hai đứa trẻ lượm được một ví tiền trên đường. Trong ví chứa đựng danh thiếp của người chủ TN 25-C191
Có hai đứa trẻ lượm được một ví tiền trên đường. Trong ví chứa đựng danh thiếp của người chủ và một tờ trăm đô-la. Một đứa nói: “Chúng ta không có quyền giữ lại cái ví và số tiền này. Nhưng trước khi trả lại cho chủ, hãy đổi tờ trăm này thành mười tờ chục đô” (!?!).
Hồi Đức Phaolô VI viếng thăm Ấn Độ năm 1964, ngài có tặng cho Mẹ Têrêxa chiếc xe hơi màu trắng mà hãng xe Fiat (của Ý) đã chế riêng, tặng cho ngài để ngài đem qua Ấn Độ dùng trong chuyến công du. Đức Giáo hoàng cho phép Mẹ toàn quyền xử lý chiếc xe ấy. Dĩ nhiên chị em trong dòng khuyên nên bán đi để lấy tiền giúp người nghèo. Mẹ không bán nhưng… đem xổ số. Vì là một chiếc xe đặc biệt về kỹ thuật lẫn lịch sử, nên rất nhiều người giàu có ao ước trúng nó cho được. Thế là Mẹ Têrêxa tha hồ hốt bạc. Số tiền thu được gấp mấy lần giá cả chiếc xe!
Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (1921-1988), chủ chăn Tổng Giáo phận Huế, có lần đã đem xổ số chiếc dây chuyền và cây Thánh giá Giám mục bằng vàng của ngài để có tiền giúp nạn nhân một trận lũ lụt tại Thừa Thiên. Việc này khiến rất nhiều giáo dân cảm động và mua vé ủng hộ, dù chẳng mong trúng số. Số tiền Đức TGM thu được không phải nhỏ. Riêng kẻ may mắn trúng độc đắc nghe nói đã đem tặng dây chuyền và Thánh giá lại cho ngài.
1. Phải khôn khéo hơn con cái đời này
Ba câu chuyện vắn vỏi trên đây giúp ta hiểu hơn phần nào dụ ngôn của bài đọc. Dụ ngôn này trong quá khứ đã gây nhiều phiền toái cho các nhà chú giải. Ngày nay người ta cũng không mấy đồng ý với nhau về cách giải thích nó. Để hiểu rõ nó và những áp dụng của nó, điểm cốt yếu phải làm sáng tỏ là tính chất luân lý trong cách hành động của viên quản gia; các chuyện khác chỉ là phụ thuộc.
Quan niệm xưa nay cho rằng viên quản gia trong quá khứ đã hành động cách gian xảo đối với chủ bằng cách phung phí tài sản của chủ, bây giờ lại tỏ ra bất lương hơn nữa khi làm những biên lai giả tạo gây thiệt hại thêm cho ông ta. Nếu đấy là ý nghĩa của dụ ngôn thì làm sao ông chủ lại có thể tán dương viên quản gia, và làm sao Đức Giê-su có thể rút ra từ hành động đó một kết luận chấp nhận được, nếu không muốn nói là một kết luận đối nghịch với hành động này (xem Lc 22,25-26). Ngoài khó khăn ấy ra, còn có sự kiện là hành động gán cho viên quản gia tự nó cũng khó chấp nhận. Dù giả thiết là ông ta đã bỏ túi hay phung phí một phần tài sản của chủ bằng cách này hay cách khác, thì việc ông khấu trừ cho các con nợ bây giờ -nếu thật sự là từ tài sản của chủ- chỉ làm cho địa vị của ông đã bấp bênh, nay lại càng bấp bênh hơn, không khéo lại phải trả giá. Bởi ông ta không thể nào hy vọng giữ kín hành vi này, vì sau đó phải tính sổ với chủ, mà theo dụ ngôn thì chủ biết ngay sự việc. Khó mà hiểu được hành động của việc quản lý đáng khen là “khôn khéo” ở chỗ nào. Quả không phù hợp với thực tế gì cả. Và cũng ít hữu lý khi nghĩ rằng tác giả dụ ngôn lại có thể tưởng tượng ra một hành vi khó có thực như vậy. Mà đừng quên chính Đức Giê-su chẳng đưa ra một phê phán luân lý nào về cách hành động của viên quản lý. Người chỉ bảo là “khôn khéo” thôi. Ngay câu 8 (“Ông chủ khen tên quản gia bất lương”) cũng không nhất thiết ngụ ý viên quản gia đã thiếu thành thực trong hành động được mô tả. Tĩnh từ “bất lương” đúng ra chỉ đánh giá quá khứ của ông: ông đã bất lương trước khi làm hành vi dụ ngôn mô tả, nhưng hành vi này không vì thế mà trở nên tội lỗi. Ta có một trường hợp tương tự trong dụ ngôn vị thẩm phán bất chính bị bà góa quấy rầy (Lc 18, 2-8): Đức Giê-su cũng vẫn gọi ông này là “bất chính” (vì quá khứ của ông) ngay trong lúc ông xử đúng cho bà góa.
Thật ra, dụ ngôn này ám chỉ một phương cách chiếm hữu rất quen thuộc với người Đông phương và như thế là với thính giả của Đức Giê-su cũng như các Ki-tô hữu ban đầu. Trong bối cảnh Palestina của dụ ngôn, trường hợp viên quản lý phải được đánh giá theo luật Do-thái liên quan đến vai trò quản trị. Người quản lý không phải là nhân viên được trả công hay “tay cò” dẫn mối, nhưng là kẻ toàn quyền thay mặt chủ đến nỗi chủ phải tôn trọng các thương vụ của anh ta. Gặp trường hợp quản lý lừa bịp chủ, luật pháp cũng chẳng có biện pháp nào bắt y phải hoàn lại; có chăng chỉ là trách mắng, hạ uy tín và sa thải. Sau khi nhận được giấy bãi nhiệm, viên quản lý phải làm sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian, và cho đến lúc đó, ông vẫn đại diện chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Do đó, việc giảm nợ nói trong dụ ngôn nên được giải thích như là việc viên quản lý từ khước không nhận tiền hoa hồng (có khi rất cao tùy loại hàng hóa) mà bình thường ông có quyền hưởng. Đây là một hình thức mưu lợi vẫn còn thịnh hành ở khắp nơi: người trung gian (lãnh thầu, đại lý thương mại, quản trị viên) giữ lại cho mình một phần hoa lợi thu được trong một thương vụ với danh nghĩa tiền hoa hồng. Trường hợp viên quản lý đây, có lẽ ông chỉ từ khước tiền đó, để như thế lấy lòng các con nợ của chủ (hầu mưu lợi cho mình về sau) mà không gây thiệt hại gì cho chủ. Con cái đời này quả thật biết khi nào phải làm điều nên làm, tại sao phải làm và làm cách nào để được lợi trong những chuyện trần tục. Con cái ánh sáng cần phải chứng tỏ óc sáng kiến và óc quyết định như thế hoặc hơn thế, khi làm các việc của Thiên Chúa Cha mình. Đó là điều Đức Giê-su muốn dạy.
2. Phải biết sử dụng của cải cho nên
Phần hai của bài Tin Mừng, gồm các câu 9-13, là những ngôn từ rời rạc, được Luca gom lại để bình luận dụ ngôn và đưa ra bài học về những khía cạnh của tiền bạc của cải: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Tạo lấy bạn bè! Phát triển tình bằng hữu! Đó là lý do của lời khen trong dụ ngôn. Qua kiểu nói này, Đức Giê-su muốn đưa ra cho ta bài học chủ yếu: tạo thêm bạn bè, đem tình yêu vào mọi tương quan, đó là dùng nên của cải. Đây còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc: sử dụng nó như một dụng cụ để chia sẻ và sống lòng thương! Tự nó tiền bạc không xấu. Nó có thể tạo nên niềm vui cho kẻ khác… thành thử cũng cho kẻ đóng góp vào niềm vui đó bằng cách “tặng ban”. Trong Tin Mừng của mình, hơn mọi thánh sử khác, Lu-ca đã từng nêu bật kẻ nghèo. Nước Trời thuộc về họ đến độ những người giàu sẽ chỉ vào được đó nhờ sự bảo vệ và giới thiệu của các kẻ nghèo họ sẽ lấy làm bạn, như một câu châm ngôn từng nói: “Dưới đất, kẻ giàu giúp người nghèo. Trên trời, người nghèo giúp kẻ giàu lại”. Trong ý định của Thiên Chúa, người giàu chỉ là “thủ quỹ của người nghèo” (Augier) và ta chỉ gởi tiền được vào ngân hàng của Thiên Chúa qua tay kẻ nghèo thôi. Đây quả là “Tin Mừng” cho những người giàu. Bây giờ họ biết họ có thể tự cứu mình ra sao, biết làm sao đi vào “nơi ở vĩnh cửu” khi tiền bạc chẳng còn trong tay họ nữa.
Tiếp đến là vài châm ngôn về của cải, những châm ngôn hết sức biểu lộ tư tưởng của Đức Giê-su: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. “Việc nhỏ” là tiền bạc, “việc lớn” là Nước Trời. Ai lem nhem trong chuyện tiền bạc thì cũng khó có đủ tinh thần tông đồ và tận hiến. Trong khẳng định thứ hai (câu 11), Đức Giê-su bảo rằng tiền bạc là “bất chính”. Nó là một cái bẫy, chỉ cho ta một sự an toàn giả tạo, chớ nên tin vào (1Tm 6,17). Dẫu hữu ích, có thể sử dụng tốt là tạo bạn bè, tiền bạc cũng có thể là một sức mạnh quỷ quái. Nó hoặc là đầy tớ tốt hoặc là ông chủ xấu. Nên phải cẩn thận khi quản lý nó. Bao cộng đoàn đã sa sút, bao tông đồ đã hư đi vì tiền bạc của cải. Khẳng định thứ ba (câu 12) có một âm sắc hiện đại đáng kinh ngạc. Rất lâu trước K. Marx, Đức Giê-su đã lên án sự “tha hóa” con người: tiền bạc đâu phải là sự thiện đích thực của chúng ta. Của cải chẳng khiến một con người nên thông minh, hạnh phúc, tốt hảo. Giá trị đích thật nằm ở chỗ khác. Do đó “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”. Bạn có phải là tù nhân của tiền bạc không? Có bị những lo lắng về chuyện “làm ăn” trói buộc, chiếm đoạt không? Có thường bị cám dỗ phụng sự luân phiên hai ông chủ này không: Thiên Chúa ngày chủ nhật và Thần Tài trong những ngày khác?
Quản Gia Bất Lương Lắm Mưu Mẹo Người Ác Lươn Lẹo Nhiều Kế Gian. Thánh Phaolô xác định TN 25-C192
Quản Gia Bất Lương Lắm Mưu Mẹo Người Ác Lươn Lẹo Nhiều Kế Gian.
Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc.” (1 Tm 6:10) Tiền bạc
Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc.” (1 Tm 6:10) Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng phải cảnh giác cao độ kẻo “dính” mùi của nó rồi thì khó có thể tẩy hết. Vì mê tiền bạc mà Nhóm Biệt Phái sống giả nhân giả nghĩa, giống như bệnh mãn tính của họ vậy.
Kinh Thánh cho biết: “Người thích tiền bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ; kẻ bo bo giữ của chẳng thu được lợi lộc gì. Điều ấy cũng chỉ là phù vân! Của càng nhiều, người ăn càng lắm. Người có của được lợi lộc gì, ngoài thú vui được nhìn thấy của cải? Làm việc vất vả thì ngủ ngon: ăn ít hay nhiều thì cũng vậy; lắm bạc nhiều tiền đâu được ngủ yên!” (Gv 5:9-10) Văn hào Shakespeare xác định: “Tiền là thế lực hữu hình chống lại Thiên Chúa vô hình.” Không chỉ rắc rối mà còn rất nguy hiểm!
Năm 2021, ký ức đại dịch Covid-19 còn đó, vết thương chưa lành hẳn, nỗi đau vẫn âm ỉ. Và có liên quan tiền bạc. Có tiền cũng không làm được gì. Tất cả đều vô ích khi virus tử thần hoành hành khắp nơi. Tuy nhiên, có những người biết chia sẻ với người khác bằng những đồng tiền riêng của họ với tình yêu đồng loại, nhưng cũng có những người thừa nước đục thả câu, lạm dụng mọi thứ mà không chút xót thương. Nhiều kẻ to làm láo. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Rất ranh mãnh!
Qua trình thuật Lc 16:1-13, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Ai cũng biết rằng tiền là một quy ước trong xã hội loài người để trao đổi hoặc mua bán với nhau. Nó chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác, giá trị cao hay thấp được ấn định bằng những con số. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị của nó ở mỗi nước khác nhau, thậm chí chênh lệch quá xa.
Dù sao, con người phải làm chủ nó. Lệ thuộc nó là bị nó làm chủ, chắc chắn người ta gặp nhiều rắc rối – cả vật chất lẫn tinh thần. Nhưng đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người. Thiên Chúa cho con người tự do, đó là niềm vui và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta quyết định và chọn lựa.
Dụ ngôn kể rằng ông chủ có một quản gia lươn lẹo, mánh khóe, dám qua mặt chủ. Ông nghe người ta tố cáo hắn phung phí của cải nhà ông. Ông gọi hắn đến, bảo tính sổ và quyết định sa thải hắn. Vốn tính giao xảo, hắn tìm mưu kế, vì hắn nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Kẻ dài lưng tốn vải và lười biếng là thế.
Rồi hắn cho gọi từng con nợ của chủ đến. Hắn hỏi người thứ nhất về món nợ, người ấy nói là trăm thùng dầu ôliu. Hắn bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết 50. Hắn hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là ngàn giạ lúa. Hắn bảo người ấy viết 800 giạ lúa. Ông chủ khen hắn hành động khôn khéo. Và Chúa Giêsu cho biết: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.”
Khôn mà không ngoan. Càng ngày người ta càng giả dối tinh vi, khó phát hiện. Hàng giả mà có những thứ “đẹp” hơn hàng thật. Các công trình vừa được khánh thành thì hư hỏng liền, người ta rất quỷ quyệt “rút ruột” mọi công trình, bất kể to – nhỏ. Chắc hẳn không thể tưởng tượng được khi người ta làm những cột điện rỗng, vỏ lát ximăng mỏng và lót bao nilông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, tiêu hết! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn chặn” thì không còn gì để nói! Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Tận cùng khốn nạn!
Ngày xưa, ngôn sứ Amốt có thị kiến. Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói thấy “giỏ trái cây mùa hạ.” Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ KHÔNG tha thứ cho dân Israel nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Israel bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Vì thế, họ KHÔNG nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là tất yếu. Chúng ta cũng chẳng khác dân xưa – ngang ngược, ỷ lại, lộng hành.
Truyền lại lời Thiên Chúa, ngôn sứ Amốt kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ.” (Am 8:4) Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sabát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.” (Am 8:5-6)
Lĩnh vực nào cũng vậy, càng ngày càng tinh vi. Người ta nói “buôn gian, bán lận” vì nghề nào cũng có mánh lới riêng: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số ông trùm xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Tin tức hằng ngày cho thấy nơi nào cũng có những “siêu nhân” ranh ma chiếm đoạt tài sản của người khác tới hàng trăm triệu, hàng tỷ.
Ngôn sứ Amốt xác định: “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Giacóp mà thề: Ta sẽ CHẲNG BAO GIỜ QUÊN một hành vi nào của chúng.” (Am 8:7) Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) Đừng lấy vải thưa che mắt thánh! Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết.
Kinh Thánh đã từng cảnh cáo thẳng thắn: “Này kẻ gian, chớ rình rập nhà người công chính, cũng đừng phá phách nơi họ ở. Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được, còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong cảnh tai ương.” (Cn 24:15-16) Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích và cũng chẳng muốn thấy ánh sáng.
Ngược lại, những người công chính dù có lúc trượt té – thậm chí là “té đau,” nhưng họ vẫn quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” (Tv 113:1-2)
Vô cùng nhân từ nhưng Thiên Chúa cũng rất mực công minh. Ai có công, được thưởng; ai có tội, bị phạt. Chúng ta chỉ như những “bức tượng” được Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa: “Chúa siêu việt trên hết mọi dân, vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113:4-6)
Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như Thánh Vịnh gia đã minh định: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người.” (Tv 113:7-8) Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng,” nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.
Đề cập việc cầu nguyện và tạ ơn, Thánh Phaolô nói: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4)
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình chứ không xin theo ý Chúa. Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Khó hiểu hay kỳ quặc?
Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “CHỈ CÓ MỘT Thiên Chúa, CHỈ CÓ MỘT Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời, đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý.” (1 Tm 2:5-7)
Như chúng ta biết, các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật rất kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Nhưng cứ chữa được bệnh này thì lại sinh bệnh khác. Y học miệt mài tìm hiểu mà vẫn không thể ngăn cản sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Không là kiêu ngạo thì là gì?
Quy luật đời đời Thiên Chúa dành cho phàm nhân: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:19) Chân lý đó đã được chứng minh: Socrates, Sigmund Freud, Voltaire, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni, Mohammed,... Tất cả đều đã chết, kể cả những kẻ mạo nhận mình “sống mãi.” Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TÁI SINH. Thánh Phaolô xác định sự thật minh nhiên đó: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9:27) Chắc chắn và bất biết.
Tuy nhiên, chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét và giết chết mà Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật hạnh phúc và thật “may mắn” vì chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài.
Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:8) Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là nói với Chúa và nói về Chúa. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin.
Lạ thay, bác học Louis Pasteur (1822-1895, Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Còn học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, Pháp) xác định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện.” Hai con người giỏi giang này thực sự là gương sáng đối với mọi tín nhân.
“Đồng tiền liền khúc ruột.” Người Việt nói giản dị mà chí lý. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa mẹ con, cha con, anh chị em, họ hàng, làng xóm,… Ngay cả giáo sĩ cũng có người bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Rõ ràng tiền bạc có ma lực khiến lý trí con người lệch lạc!
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Những người canh gác Israel đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa, chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì.” (Is 56:10-11)
Các câu Kinh Thánh như vậy gây khó chịu, vì chạm vào nhược điểm của người ta. Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giuđa Ítcariốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình thế nào. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, ở ngay bên chúng ta. Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ cho đoàn chiên nào “gặp” phải loại thợ chăn kiếu đó!
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” thì hoàn toàn trái ngược với Ngài. (x. Mt 20:28)
Bất cứ ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn.” Một hệ lụy tất yếu!
Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn, súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà khó thông: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” Tại sao vậy? Bởi vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu.
Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất – dấu hiệu nhắc nhở về điều vô cùng quan trọng: Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô còn cho biết nhiều dấu hiệu khác: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ.” (2 Tm 3:2-5)
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết khéo quản lý những gì được sở hữu từ việc lương thiện. Xin tha thứ những khi lòng hướng về vật chất, xin thương cho chúng con được an toàn trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Dư luận thế giới đôi khi vẫn nhắc lại nỗi đau cho khoảng 1.000 nạn nhân trong các vụ bắt cóc TN 25-C193
Dư luận thế giới đôi khi vẫn nhắc lại nỗi đau cho khoảng 1.000 nạn nhân trong các vụ bắt cóc tàn nhẫn diễn ra tại Cộng hòa Ossetia thuộc Liên bang Nga bắt hơn người làm con tin dạo đầu tháng 9.2004.
Xót xa nhất là cuộc tấn công vào một trường học ở Nga, làm thiệt mạng quá nhiều người, trong đó có trên 330 trẻ em phải chết cách dã man.
Những kẻ giết người là ai? Họ là những kẻ rất khôn ngoan, biết suy nghĩ, khả năng tính toán rất cao. Vì thế họ biết cách chọn lựa những phương án hành động tội ác, nhưng kín đáo, không ai có thể phát hiện. Rất tiếc sự khôn ngoan ấy đã bị lạm dụng, đã đặt sai chỗ, vì thế trở nên quá nguy hiểm cho nền hòa bình của thế giới, nguy hiểm cho sự sống của con người.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn nghe nói nhiều đến sự khôn ngoan. Một người ăn nên làm ra, người ta bảo anh ta là người khôn ngoan. Ai đó ăn nói lợi khẩu, nói những lời duyên dáng, khoan thai, nói những lời hay, ý đẹp không làm phật ý người nghe, họ được gọi là khôn ngoan.
Hay ai đó có thể đoán biết ý đồ xấu của người khác, và tránh né được sự hãm hại dành cho mình, cũng là người khôn ngoan. Một em học sinh khôn ngoan biết chăm lo cho việc học tập của mình, học ngày một tiến tới. Ngay cả một người giỏi mánh khóe, xu nịnh, làm giàu bằng móc ngoặc, ăn cắp của công, hối lộ, tham nhũng… cũng được gọi là khôn ngoan.
Cũng vậy, hôm nay trong dụ ngôn Người quản lý, một bên Chúa Giêsu gọi anh ta là bất lương, bên kia Chúa cũng dùng một kiểu nói mà thói thường người đời vẫn nói: Đó là gọi người quản lý bất lương kia đã hành động khôn khéo. Vì anh ta đã sử dụng trí thông minh, sự gian dối, xảo quyệt của mình để hưởng lợi, để thỏa mãn những tính toán vụ lợi cho riêng mình.
Vấn đề được đặt ra là: Chúa khen ngợi người quản lý bị coi là bất lương ấy? Bởi đó cũng sẽ là bài học cho chúng ta?
Chắc không ai ngây thơ đến nổi nghĩ như thế. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã phân biệt rạch ròi: “con cái thế gian” và “con cái sự sáng”.
Đã gọi là con cái thế gian, nó chẳng bao giờ thuộc về thế giới của con cái sự sáng, nhưng nó chỉ thuộc về cuộc đời này, đi xa hơn, nó tắm mình và chìm đắm trong cuộc đời này.
Vì thuộc về thế gian, con cái thế gian sẽ giỏi mọi ngóc ngách, mọi luồn lách để có thể có được càng nhiều, càng tốt những bảo đảm cho bản thân khi sống trong cuộc đời này.
Bởi vậy, nếu chỉ nhìn ở phía thế gian với tâm hồn chỉ toàn chiếm hữu, vụ lợi, ích kỷ…, thì đúng là “con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”.
Phân biệt rạch ròi giữa “sự sáng” và “thế gian” cho thấy sự tối tăm của thế gian là đêm tối giăng mắc đầy hiểm nguy. Do đó làm sao bóng tối ấy lại có thể là bài học cho chúng ta!
Chúa Giêsu cũng không khen ngợi việc làm bất lương của người quản lý. Đúng hơn, Chúa chỉ nhắm đến việc sử dụng trí thông minh, sự khôn ngoan sao cho phù hợp, đúng nơi, đúng lúc, nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho đời sống của mình.
Và trên hết, ta phải hiểu đây là một so sánh, Chúa đưa ra để giúp ta chọn lựa thái độ sống theo đòi hỏi của đức tin. Vì nếu nơi thế gian, con cái thế gian dùng sự khôn ngoan của nó để sống, thì con cái của ánh sáng hãy dùng sự khôn ngoan trong đức tin để đạt đến sự sống đời đời.
Qua câu chuyện Người quản lý bất lương, Chúa kêu mời ta hãy rút ra từ đó những ý nghĩa, những bài học cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Vì có khi đổ vỡ của người khác, ngay cả tội lỗi của chính mình hay của ai đó, cũng có thể là bài học kinh nghiệm cần thiết cho chúng ta sống tốt hơn, đến gần Chúa hơn, biết xa tránh mọi dịp tội hơn. Nếu chiếc xe trước đã đổ trên lối mòn, thì xe sau phải tìm lối khác mà đi cách đường hoàng hơn, an toàn hơn.
Đó là sự khôn ngoan. Đó cũng chính là “con cái của sự sáng”. Vì sự khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn biết nhận ra chính mình, để không bao giờ tự biến mình thành mối nguy cho mình hay cho anh chị em.
Hơn thế, sự khôn ngoan của con cái sự sáng sẽ dẫn họ đi trên con đường có tên Giêsu để mỗi ngày tự hoàn bị mình nhờ chính mẫu gương sống của Chúa Giêsu và Lời Chúa dẫn lối. Tắt một lời, sự khôn ngoan của người tín hữu Kitô là đi trên Chính Lộ mà chính Chúa Giêsu đã vạch ra.
Chính Lộ ấy, sự khôn ngoan ấy là một lối sống được tóm gọn trong Tám mối Phúc thật như sống nghèo khó, hiền lành, chấp nhận Thánh giá, khao khát sự công chính, thương yêu anh chị em, giữ tâm hồn thanh sạch để sống thánh thiện, biết gây bầu khí hòa bình, chấp nhận mọi thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đi trên chính lộ do Chúa khai mở, ta sẽ chẳng bao giờ phải lo lạc lối.
Bạn thân mến, là Kitô hữu, bạn và tôi có chính đời sống của Chúa Kitô làm mẫu mực và có chính Lời của Chúa làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, hành vi, lối sống của mình.
Là Kitô hữu, sự khôn ngoan của bạn và tôi, không phải là sự không ngoan mà ta vẫn nghe thấy trong đời thường quanh mình, càng không thể chấp nhận thái độ chỉ chọn lựa sống khôn ngoan theo thói đời mà làm cho đời sống đức tin trở thành tăm tối.
Sự khôn ngoan của Kitô hữu chỉ có một con đường, đó là ướm mình theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô và sống theo Lời Người dạy mà Tám mối phúc thật là bảng tóm gọn của những lời dạy ấy.
Từ những hình ảnh cụ thể của tội ác khủng bố, đến hình ảnh của một người khéo vun quén cho đời sống trần gian của mình mà Chúa Giêsu cho thấy trong vụ ngôn Người quản lý bất lương, chúng ta rút ra bài học đáng giá cho mình: sự khôn ngoan của người tín hữu là trở nên giống Chúa Kitô để được Thiên Chúa yêu thương, đón nhận.
Đời sống Kitô hữu có một nỗi giằng co lớn. Đó là vì ta cũng giống như anh chị em mình: rất say mê cuộc đời, say mê không thua bất kỳ ai. Nhưng ta cũng lại rất say mê vĩnh cửu, say mê đến tận cùng.
Bởi vậy chúng ta hãy để có thể gặp cái vĩnh cửu trong cái mau qua; vui chơi như mọi người nhưng vẫn tìm niềm vui thiên quốc; làm việc và sống trong cuộc đời, nhưng cũng thăng tiến Nước Trời trong chính cuộc đời ấy.
Sự khôn ngoan chúng ta, những người Kitô hữu đó là sự khôn ngoan biết để Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời mình.
1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay của Chúa.
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì? - Về vấn TN 25-C151
Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì?
- Về vấn đề tiền bạc của cải trong cuộc sống. - Về vấn đề phải sống cho khôn ngoan. - Về vấn đề phải sử dụng những của cải Chúa ban như thế nào.
+ Rất tốt. Chúng con trả lời rất hay.
Bây giờ chúng ta bắt đầu vào câu chuyện. Cha hỏi chúng con, nếu có thật nhiều tiền chúng con có vui không? - Dạ vui.
+ Vì sao có tiền lại vui? Có tiền thì vui chứ sao. Vì tiền giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấb đề của cuộc sống.
Chúng con có biết bài thơ này không? Đây là một bài thơ cha vô tình nhặt được ở sân nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm sau thánh lễ dành cho giới trẻ. Bài thơ như thế này:
Tiền là tiên là Phật là sức bật của lò xo. Là thước đo lòng người Là nụ cười tuổi trẻ Là sức khỏe của tuổi già Tiền là hy vọng Là cái lọng che thân Là cán cân công lý Tiền là hết ý.
Chà nghe hay quá! Tiền là hết ý.
Đúng là có tiền thì vui nhưng bên cạnh cái vui đó, cha lại cảm thấy sợ. Chúng con có biết tại sao cha lại sợ không.
Đây cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này. Một câu chuyện có thật 100%. Câu chuyện xảy ra ở Mỹ, bang Texas.
Theo báo Weekly Wprld News mới đây thuật lại: tại bang Texas Mỹ, mọi người đã phải bàng hoàng vì một vụ án hết sức nhẫn tâm và vô nhân đạo. Bị cáo là một phụ nữ 32 tuổi có tên là Diana Lunberna. Trong 14 năm qua, bà đã lần lượt giết chết hết 6 đứa con dưới 5 tuổi của mình với một mục đích rất rõ rệt. Đó là để lãnh tiền bảo hiểm. Chuyện những đứa con của bà ta chết lúc đầu tưởng là chuyện thường tình chẳng mầy ai để ý nhưng có ngờ đâu là vừa qua, qua cái chết đứa con thứ sáu của bà, người ta mới phát hiện ra bà chính là thủ phạm đã gây ra những cái chết cho tất cả những đứa con từ 14 năm qua. Luật sư Johny Actkinson cho biết: “Lúc đầu, bà ấy tìm mọi cách để chối tội, nhưng sau khi cảnh sát đưa ra những bằng chứng xác đáng, bà đành thú nhận tất cả”.
Cuộc điều tra còn cho biết: trước khi thực hiện việc làm tán tận lương tâm này, bà Diana đều đã mua phiếu bảo hiểm cho chúng, ví dụ vào năm 1982 trước khi bé Melinda chết 1 ngày, bà đã bỏ ra 15.000 đôla để đóng tiền bảo hiểm với mục đích sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.
Đó chúng con thấy. Chỉ vì ham tiền mà một người mẹ đã đang tâm giết các đứa con do chính mình sinh ra. Cha không thể tưởng tượng nổi thế giới hôm nay lại có một con người như thế. Chính vì thế mà cha sợ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng con thấy cũng chỉ vì tiền bạc, mà người ta đã đánh mất cả phẩm giá làm người của mình.
Người quản lý trong bài Tin Mừng đâu phải là người nghèo khó. Nhưng ông bị đã bị tiền bạc sai khiến và đã trở thành kẻ bất lương.
Những người mắc nợ chủ cũng vì tiền bạc chi phối mà đã trở thành những kẻ đồng loã với tên quản gia gian lận
Ông chủ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vì tiền bạc mà làm một việc chẳng tốt đẹp chút nào khi dám mở miệng khen ngợi người quản lý bất trung của ông ta. Thật là cá mè một lứa!
2. Vậy thì Chúa muốn chúng ta phải làm thế nào?
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đưa ra những chỉ dẫn khá rõ rệt. Chúa bảo: "Hãy dùng tiền bạc"(Lc 16,9) - Dùng là sử dụng nó. Dùng chứ không tôn thờ nó. Hãy dùng nó như một phương tiện chứ đừng coi nó như một mục đích.
Đây là một người biết sử dụng tiền bạc như ý Chúa muốn:
Tiến sĩ Marcello Candia đã dùng tất cả tài sản để xây một bệnh viện chăm sóc bệnh nhân nghèo và người phong cùi tại Amazone ở Ba Tây. Ông tâm sự:
- Khi còn ở bậc trung học, tôi thuộc thành phần của nhóm trẻ được phân công đi thăm các gia đình nghèo. Một hôm thầy Cêciliô nhờ tôi phát thức ăn cho người nghèo. Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng Phanxicô đã chết vì bệnh cùi sau thời gian phục vụ thổ dân ở Ba Tây. Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đau khổ của Ngài. Dần dà hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy. Từ đó tôi muốn phục vụ những người bệnh cùi. Sau khi tốt nghiệp đại học, với tất cả tài sản gia đình để lại, tôi xây một bệnh viện phục vụ bệnh nhân nghèo và những người phong cùi. Đó là một người đã biết dùng tiền.
Nói đến đây tự nhiên cha nghĩ đến một câu châm ngôn của Pháp. "Tiền bạc là một người đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu". Nếu không biết cảnh giác thì con người rất có thể bị tiền bạc chi phối và sai khiến...biến người có nó thành một tên nô lệ chỉ biết dùng tiền vào những việc ăn chơi. phô trương như nhiều người trong xã hội hôm nay. Hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. (Lc 16,9). Biết dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu chúng ta sẽ làm cho cuộc đời của chúng ta có được một điều rất quí giá trong cuộc sống này. Đó là một cuộc đời "có hậu" - Có hậu ngay trong cuộc sống hôm nay và còn có hậu cho cả cuộc sống đời đời mai sau như Chúa đã hứa.
Mẹ thánh Têrêsa Calcuta thuật lại: Trong công việc từ thiện của chúng tôi, có nhiều người chúng tôi gọi là Cộng sự viên và chúng tôi thực sự muốn họ tiếp tay với chúng tôi để phục vụ và yêu thương những con người nghèo khổ. Tại Calcutta nầy, chúng tôi có nhiều người ngoài Thiên Chúa giáo và các anh chị em Thiên Chúa giáo cũng làm việc với chúng tôi tại ngôi nhà Hấp hối và những ngôi nhà bác ái khác. Chúng tôi cũng có những nhóm đi thay băng và phát thuốc cho người cùi.
Điển hình nhất là một người Úc, cách đây không lâu ông đã tới đây. Ông đã dâng cho chúng tô một gia tài lớn. Và sau khi đã dâng hiến tài sản lớn rồi. Ông nói:
- Đó là những của cải bên ngoài tôi, nhưng tôi còn muốn hiến những gì của chính bản thân tôi nữa.
Và bây giờ ông thường xuyên tới phục vụ nhà hấp hối. Ông hớt tóc, cạo mặt và trò chuyện với những người bị bỏ rơi nầy. Bây giờ ông không dùng thời giờ và sức lực của ông để phục vụ bản thân hoặc làm giàu nữa, nhưng ông muốn cho đi những gì của chính ông, và thực sự ông đang dâng hiến.
Cha muốn kết thúc bằng câu nói của George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, ông viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn".
Cha chúc chúng con sống đẹp như ý Chúa muốn để xứng đáng với tình thương Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày. Amen.
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải TN 25-C152
Tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho con người chính là sự tự do. Tự do không phải để hành động theo của mình, nhưng theo ý muốn của Đấng Tjao Thành. Bởi Thiên Chúa tạo dựng con người là để mong cho con người đạt tới hạnh phúc. Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn cưỡng bức con người hưởng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc con người có được do chính mình tự do chọn lấy. Bởi có tự do chọn lựa như thế con người mới thể hiện lòng mến yêu và sự khao khát hạnh phúc do Thiên Chúa tặng ban.
Tuy nhiên, tội xuất hiện đã làm vẫn đục tâm trí con người, đã làm cho con người biến ân ban tự do trở thành phương tiện phục vụ cho ý riêng của mình. Và oái oăm thay, ý riêng con người nào có chi tốt lành, nó chỉ chứa đây tà ý, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo, ghanh ghét...., Tự do không còn mang đúng ý nghĩa ban đầu của ân ban, đó là cách thế thể hiện lòng mến yêu sự thiện để sống theo sự thiện. Bị chi phối bởi tội, con người lạm dụng tự do để hành động ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa, để rồi tự do trở thành phương thế xô đẩy con người tới chỗ hủy diệt.
Thật vậy, trong thế giới hôm nay, người ta không còn coi Thiên Chúa là cùng đích, là cứu cánh duy nhất của cuộc sống, bên cạnh Thiên Chúa người ta còn tôn thờ một vị Chúa khác, đó là tiền bạc.Quả thật, để hướng dẫn cuộc sống, người ta không còn nói đến một chân lý tối hậu là Thiên Chúa, nhưng người ta còn nói đến nhiều chân lý khác để hình thành một khái niệm tương đối hóa chân lý. Vì thế, Thiên Chúa không còn là Đấng cậy dựa duy nhất của con người, người ta còn tìm thấy một nơi cậy dựa khác chẳng hạn tiền bạc. Đức Phanxico đã nói: “chúng ta đã tạo ra những thần tượng mới. Việc thờ phượng của con bò vàng ngày xưa đã tìm thấy một hình tượng mới và tàn nhẫn vô tâm trong sự sùng bái tiền bạc và các chế độ độc tài của một nền kinh tế không có khuôn mặt và thiếu mục tiêu thực sự nhân đạo.” Vâng, trong một thê giới tục hóa, người ta đặt tiền bạc ngang hàng với với thần thánh, có khi còn đứng cao hơn cả thần thánh:
Ông tiền ông Phật, ông Tiên Ba ông chụm lại, ông tiền cao hơn
Và khi so sánh với thế giới tiên phật, thì một mặt nào đó, con người cũng đang nâng tầm tiền bạc lên bậc thần thánh, và coi đó là ông chủ của mình. Thật vậy, một trong nhức nhối của xã hội hôm nay tại Việt Nam nói riêng, và thế giới nói chung chính là nạn tham nhũng. Điều đó nói lên, con người đã lấy tiền bạc làm mục đích của cuộc sống, và người ta tìm mọi cách thế để đạt mục đích nầy. Với một chọn lựa như thế, con người đã kiến tạo nên một nền văn hóa mới, nền văn hóa của sự vô cảm, để rồi mối tương giao giữa người với người không còn được biểu lộ bằng con tim, nhưng bằng những đồng tiền.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở chúng ta hãy đưa ra một quyết định chọn lựa dứt khoát: ai là ông chủ cuộc đời của chúng ta, Thiên Chúa hay tiền bạc? Và cũng là lời nhắc nhở chúng ta, những Kito hữu, chắc chắn chúng ta tôn thờ một mình Thiên Chúa, ông chủ duy nhất của chúng ta. Nhưng trong thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta cũng đang để Thiên Chúa đứng ra bên lề cuộc sống, và hình như mọi ưu tiên của chúng ta là làm sao kiếm được nhiều tiền hơn là tìm mọi phương thế để đạt nhiều ân sủng của Chúa.
Lạy Chúa, tiền bạc luôn làm cho chúng con chao đảo, và nhiều khi chúng con bán rẻ lương tâm kito hữu để lấy những đồng tiền vo nghĩa. Có lẽ, đôi khi Chúa cũng đau lòng gạt lệ vì sự chọn lựa sai lầm của chúng con khi chúng con bỏ Chúa chạy theo những đồng tiền phù du. Ước mong sao Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở để chúng con ý thức lại về mối tương giao giữa chúng con với Chúa để chúng con can đảm chỉ biết chọn Chúa làm ông chủ của mình. Amen Lm. Antôn Hà Văn Minh
Bạn có nghe nói về một người sắp chết trúng số không? Lo lắng anh ta bị kích động quá mức, gia đình người anh đã xin cha xứ của họ nói cho anh ta biết tin vui. Khi cha nói với anh ta rằng anh ta đã trúng 10.000.000 $, người đàn ông trả lời: “Con muốn dâng một nửa cho Nhà thờ”. Cha xứ quá ngạc nhiên đến nỗi cha đã bị nhồi máu cơ tim. Đây là một chuyện đùa nho nhỏ nhưng cho chúng ta thấy rằng tiền bạc có thể có ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay hỏi chúng ta: “Thái độ của bạn đối với tiền bạc là gì?” Đây là một số ý tưởng có thể giúp bạn trả lời câu hỏi đó.
Thứ nhất, có tiền không phải là một cái tội. Nhưng tội chính là ở chỗ lòng yêu mến tiền bạc chia cắt chúng ta với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn ở chỗ nhất trong cuộc đời của chúng ta – Ngài muốn ở trên tiền bạc và trên những sự sở hữu của chúng ta.
Thứ hai, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy là người quản lý tiền bạc thật tốt. Ngài muốn chúng ta phải khôn ngoan, lương thiện và có trách nhiệm. Chúng ta đừng bao giờ cho phép tính tham lam hay tính bất lương thống trị chúng ta. Thay vào đó, chúng ta hãy sử dụng tiền bạc của chúng ta cách khôn ngoan, hãy đầu tư nó cách khôn ngoan, và hãy quảng đại khi chúng ta có thể.
Thứ ba, hãy dâng hiến cho Giáo Hội và làm những việc bác ái khác, ngay cả nếu chúng ta chỉ cho một số tiền nhỏ, đó là một khía cạnh quan trọng trong cương vị người quản lý. Thánh Kinh mời gọi chúng ta hãy “lắng nghe người nghèo” (Proverbs 12,13). Chúng ta có thể tin chắc rằng bất cứ khi nào chúng ta biết cho đi những của cải ở trần gian của chúng ta, Thiên Chúa sẽ thưởng cho chúng ta những kho tàng trên trời – “chỗ ở vĩnh viễn” (Lc 16,9).
Cuối cùng, hãy nhớ rằng tiền bạc của bạn không phải của bạn; nó thuộc về Thiên Chúa. Giây phút bạn lìa đời, bạn sẽ không còn làm chủ tiền bạc của bạn nữa. Đúng vậy, bạn có thể cho con cái của bạn tiền hay làm việc bác ái. Tuy nhiên, tiền bạc sẽ tuyệt đối vô ích đối với bạn. Cách duy nhất làm cho tiền bạc có giá trị chính là mức độ mà bạn đã sử dụng tiền bạc để giúp đỡ những người khác: gia đình, bạn bè của bạn, Giáo Hội và người nghèo.
Tiền bạc là một đề tài rất phức tạp và mẫn cảm, vì thế hay xin Chúa Thánh Thần giúp bạn học biết cách giữ tiền cho đúng đắn.
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy con làm người quản lý tốt”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu TN 25-C153
Người ta nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu đời hay không? Thực tế, vì tiền mà người ta xấu đi rất nhiều! Đồng tiền đã làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thùy mị, trở thành kẻ sa đọa, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là Tiên là Phật được, mà phải gọi là Ma, là Quỷ. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên – Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên – Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma quỷ mới làm biến chất con người. Chỉ có ma quỷ mới làm cho con người tha hóa đạo đức. Chỉ có ma quỷ mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao quý của biết bao nền văn hóa nơi các dân tộc.
Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đày đọa lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8:4-7).
Lời cảnh tỉnh của tiên tri Amos xem ra vẫn là lời nhắc nhở cho con người hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma quỷ, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Vẫn còn đó những kẻ buôn thần bán thánh nhân danh nhân nghĩa để biển thủ tư lợi riêng. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý là biết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em của mình, chứ không phải để vun quén cho bản thân.
Trong chuyện cổ Trung Hoa có câu chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là người rất giàu có, tiền bạc dư thừa nên cho người ta vay mượn rất nhiều. Một hôm, ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
– Tiền nợ thu được, ngài định mua gì không?
Mạnh Thường Quân đáp:
– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên gọi dân lại và bảo:
– Công nợ của các ngươi bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.
Nói xong, ông thu các văn tự lại và đốt đi hết.
Lúc về, Phùng Nguyên thưa với Mạnh Thường Quân:
– Nhà của tướng công châu báu đầy kho, gia súc đầy chuồng, tôi tớ đầy nhà, không còn thiếu thứ gì, ngoại trừ “ân nghĩa”. Vì thế, tôi trộm phép tướng công mà mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng không quan tâm nhiều, vì tiền bạc châu báu trong nhà đều dư thừa cả.
Ít năm sau, Mạnh Thường Quân bị bãi nhiệm phải trở về sống ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ, họ ra đón đầy đường. Thấy vậy, ông liền ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
– Trước kia tiên sinh vì ta mà mua “ân nghĩa”. “Ân nghĩa” đó giờ ta đã thấy.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang nói với chúng ta: “Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9).
Xin cho chúng ta biết sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để mua lấy bạn hữu nước trời ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Amen Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
– Suy niệm theo “The Word Among Us” Chúa Nhật 15 TN. Năm C
Suy niệm: Lc 16,1-13
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy TN 25-C154
Đây là một chuyện dụ ngôn rắc rối, đúng không? Tại sao Chúa Giêsu khiến cho một người đầy tớ bất lương (không trung thực) trở thành anh hùng của câu chuyện? Có lẽ một bối cảnh nào đó sẽ giúp chúng ta hiểu. Chúa Giêsu vừa kể xong câu chuyện dụ ngôn về đứa con hoang đàng – một câu chuyện về một người cha tha thứ hoàn toàn cho con trai mình và tổ chức một bữa tiệc linh đình để ăn mừng anh ta trở về (x. Lc 15,11-32). Sự hoang phí của người cha quá lạ lùng đến nỗi bạn sẽ khó có thể tìm thấy bất cứ ai hành động như vậy trong cuộc sống thực tế.
Nhưng đó là điểm quan trọng. Đứa con hoang đàng là một câu chuyện dụ ngôn về lòng thương xót quá độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bây giờ, ngược lại, Chúa Giêsu kể một câu chuyện về lòng thương xót có giới hạn, năng động. Chúa Giêsu kể về một người quản gia thất sủng, sử dụng phương tiện mờ ám để tha thứ một phần nợ cho một số người mắc nợ ông chủ của mình.
Điều đó khác xa với người cha hoang phí, phải không? Và Chúa Giêsu biết điều đó. Người biết rằng thế giới này đang thiếu thốn sự tha thứ và lòng thương xót. Nhưng sau đó, trong kết luận của mình với câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu nói rằng những người theo Chúa dường như không thể thích hợp với cái gọi là sự quá thương xót của người quản gia bất lương này. Chúa Giêsu nói: “Con cái đời này… khôn khéo hơn… con cái của ánh sáng” (Lc 16, 8). Người quản lý thực sự khôn ngoan trong việc tha thứ các khoản nợ. Nhưng Chúa Giêsu đang tìm kiếm thứ gì đó vượt lên trên sự khôn ngoan và sắc sảo, và Người muốn thấy nó đến từ chúng ta. Người đang tìm kiếm sự thương xót đích thực, lòng thương xót quá độ để tha thứ mà không kèm theo sự ghi điểm (lấy công) nào.
Bạn có thể vượt qua thách đố của Chúa Giêsu không? Bạn có thể tha thứ, nhất là khi người kia không xứng đáng với lòng thương xót? Điều đó không dễ dàng, nhưng nó có thể. Điều đó sẽ xảy ra khi bạn tiếp tục thực hành nó và cầu xin ân sủng của Chúa để giúp bạn.
Hôm nay trong thánh lễ, bạn sẽ lãnh nhận được sự biểu hiện cao nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa: Mình và Máu Chúa Kitô, được ban cho bạn. Khi bạn lãnh nhận, bạn hãy để cho tình yêu của Chúa chảy vào trong bạn. Bạn hãy để cho tình yêu ấy làm tan chảy trái tim bạn và làm cho bạn nhân từ như Chúa.
“Lạy Chúa, xin dạy con biết tha thứ cách quảng đại như Chúa đã tha thứ cho con.
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền TN 25-C155
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường”, người ta có khuynh hướng biến mọi sự thành hàng hóa trao đổi. Hậu quả là ngày càng có nhiều những nhà đầu tư chỉ lo kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận; những cha mẹ chỉ lo làm giàu mà quên trách nhiệm với gia đình; những tín hữu vì lợi lộc vật chất không ngần ngại vi phạm luật Chúa; những người bạn bè hay họ hàng thân thuộc vì tiền mà coi nhau như kẻ thù. Vì lợi lộc vật chất, người ta không trừ một thủ đoạn nào. Ngôn sứ A-mốt nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn ấy vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.
Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm ra tối tăm. Đó cũng là lý do khiến con người coi thường đạo lý và tiếng nói của lương tâm. Người tín hữu được mời gọi biết dùng của cải cho hợp lý. Lời Chúa giúp cho chúng ta “nghèo mà không hèn”, “giàu mà không sang”.
Một hiện tượng xã hội khá phổ biến hiện nay là sự lãng phí. Người giàu lãng phí, mà người nghèo cũng lãng phí. Người ta lãng phí thời gian, lãng phí vật chất và lãng phí cả sức khỏe và mạng sống. Tại các quốc gia phát triển, mỗi ngày đều có một khối lượng lớn thực phẩm bị đem đi hủy vì hết hạn sử dụng, trong khi ở các nước nghèo, biết bao người lớn và trẻ em không đủ chất dinh dưỡng để có một cuộc sống bình thường. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng của người nghèo, đã khẳng định: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (Huấn từ nhân Ngày Quốc tế về môi trường, 5-6-2013). Có thể chúng ta lập luận: “Của cải tôi làm ra, hoặc tôi mất tiền để mua sắm, tôi có quyền lãng phí!”. Nói như thế, là chúng ta quên rằng, người sở hữu đích thực mọi của cải là Thiên Chúa, chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quản lý. Người quản lý trong lãnh vực nào cũng phải trung thành và tận tâm lo cho việc sử dụng của cải đúng mục đích, tiết kiệm, có ý nghĩa và sinh ích lợi cho mọi người.
Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người hãy sống khó nghèo. Khái niệm “khó nghèo” thường hay bị hiểu sai. Vị Đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải thích với chúng ta: “Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh” (Đường Hy Vọng 412). Như thế, khó nghèo là sự trân trọng với tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng và cố gắng để đừng lãng phí chúng. Đức Hồng Y kết luận: “Không có của mà tham lam vẫn chưa phải là thanh bần; có của mà không dính bén vẫn có thể ‘có lòng khó khăn’ thực sự” (ĐHV 411).
Khó nghèo đích thực còn là khả năng và thiện chí dùng của cải của mình để xây tình liên đới và nối tình đệ huynh, góp phần xây dựng một xã hội an bình. Nhân vật người quản lý trong Tin Mừng hôm nay được chính Chúa Giêsu gán cho một tính từ là “bất lương”. Như thế, anh không thể làm mẫu mực cho chúng ta trong việc quản trị tài sản được. Chúng ta không thể hiểu đúng giáo huấn của Chúa, khi chỉ trích dẫn một câu hay một đoạn Tin Mừng, nhưng cần liên kết với toàn thể để tìm ra ý nghĩa sứ điệp mà câu chuyện muốn diễn tả. Chắc chắn Chúa không không muốn chúng ta mưu mẹo gian lận như người quản lý bất lương này. Điều Chúa dạy ta là hãy dùng những của cải mình có mà giúp đỡ anh em, bởi lẽ sự giàu nghèo chỉ nhất thời, tình huynh đệ mới tồn tại mãi mãi. Giúp người khác khi mình thịnh vượng chính là của để dành phòng khi mình sa cơ lỡ vận thì có người giúp đỡ lại mình. Khi nhắm mắt xuôi tay, để lại của cải chẳng giá trị bằng để lại tình thân nghĩa. Bởi lẽ của cải chỉ một ít người được hưởng, còn tình thân nghĩa thì lưu danh rộng khắp và lâu dài.
Thiên Chúa là Đấng Cứu độ chúng ta. Ngài cũng là Chủ tể của lịch sử và là Đấng sáng tạo muôn loài. Những quyền hành nơi trần gian từ bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải phục quyền Ngài, vì Ngài là Đấng tối cao. Vì vậy, từ bậc vua chúa đến những người bình dân, ai nấy đều phải sống thánh thiện ngay thẳng. Như thế, họ sẽ đẹp lòng Chúa và được Ngài ban ơn (Bài đọc II).
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Sự khó nghèo đích thực còn là tâm tình cậy trông và phó thác nơi Chúa, luôn luôn cảm thấy cần có sự che chở của Ngài. Nếu một giây phút ta bị Thiên Chúa lãng quên, thì ta sẽ không còn hiện hữu trên cõi đời. Nhờ sự hiện diện của Chúa, ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và ta được đong đầy niềm vui.
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà TN 25-C156
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà xây dựng một đất nước văn minh hiện đại, người người, nhà nhà, được sống trong yêu thương, bình đẳng, giầu mạnh cả tinh thần lẫn vật chất ? Thách thức lớn của bậc lãnh đạo không phải chỉ là tiền, quyền, mà còn là tính hợp lý khi sắp đặt, phân chia, đúng vị trí công tác kẻ được giao, người được nhận. Nhờ có bằng cấp, nhiều người được cơ cấu vào sứ vụ quan trọng ; nhờ kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ, cũng không ít người tự tin trong chức quyền đang nắm giữ, sát với câu thành ngữ: có thực mới vực được đạo. Đất mầu mỡ, trời mưa thuận, tình người được giao hoà trổ sinh ơn phúc.
Cọp chết để da, người chết để tiếng, muôn dân thiên hạ tồn tại nhờ bởi tình yêu thương, con cháu thành danh, thành tài, không thể thiếu vắng phúc lộc tổ tiên. Giáo huấn “khôn ngoan và trung tín” của Chúa Giêsu, luôn xác thực cho mọi đối tượng, khi mà người người ý thức việc sử dụng ơn ban để sống, để phát huy tình đồng loại cách hữu hiệu nhất. Khó khăn ở đời này ai cũng có, mơ ước được hạnh phúc thì ai chẳng đầy dư, quá khứ có thể chỉ là giấc mơ, tương lai lẽ nào là ảo tưởng, vậy thì hiện tại phải quan trọng, phải là cơ hội quyết định cho những ai đang muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa. Đói nghèo cần được ấm no, ưu tư cần được giải thoát, tật bệnh sẽ mau được chữa lành, và bình an hạnh phúc thật sẽ không còn nằm trên lý thuyết nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào niềm tín thác rất thiêng liêng và ý chí quyết tâm của ta.
Xác định mục tiêu ở đời là phải khôn ngoan, biết sử dụng lợi thế của mình, và nhanh chóng hành động có lý, có tình, nhất định là ưu tiên số một, không thể chậm trễ. Câu chuyện dụ ngôn về người quản lý bất trung năm xưa mà Chúa Giêsu kể, sẽ vẫn mãi là bài học căn bản, nhằm giúp ta chớ ảo tưởng “mình” là ông chủ. Sông có khúc, người có lúc, sống phải có tình, cư xử phải có nghĩa, vì “tôi” chỉ là quản lý ; “ông chủ” nhất định phải biết tôi đang trung tín ở mức độ nào. Tính nhạy bén của người quản lý khôn ngoan là biết xoay sở, kết quả làm việc tốt hay xấu bao giờ chẳng phơi bày khi đến giờ “chủ nhân” ấn nút gọi tính sổ. Bắn súng không nên phải đền đạn, hình phạt hay phần thưởng, vẫn mãi là ưu tư của người quản lý: mất chức, mất quyền, là lo lắng tự nhiên, nhưng điều khiếp sợ hơn là sợ bị cô đơn, là sợ không được đón tiếp ở tận cùng đầu cầu bên kia cuộc sống.
Nhiều người, nhiều thế hệ chúng ta đã đọc được câu tục ngữ: đời này ai dại ai khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Nhìn xa một chút, ta có thế thấy không ít những người đang đánh lừa cảm giác “sống vô tư”: làm hết sức, ăn nhậu nhiệt tình, và cư xử với anh em bạn hữu như chỉ có ngày hôm nay, mai tận thế ! Trong khi đó, cũng không thiếu những “đại gia hão”, lầm tưởng mình đại đức từ bi: lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi ! Chúa Giêsu thật chí lý khi đưa ra những lý lẽ làm thước đó cho hành động sống ân tình, ân nghĩa, của mỗi người: “Tôi nghe nói anh sao đó ? Hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa”. Sống trên đời với ý tưởng khôn ngoan: mưu cầu hạnh phúc thì đúng, song “hiếu thảo” sai chỗ, rộng rãi hào phóng, thiếu phù hợp, cũng chỉ làm trò hề cho thiên hạ chê cười mà thôi. Đức Giêsu không khen, không chê, người giầu kẻ nghèo, nhưng Ngài có ý nhắc nhớ: người quản lý phải biết thế nào là trung tín, khôn ngoan, và biết sẽ có ngày ông chủ gọi mình tính sổ.
Hoàn cảnh, điều kiện, chắc chắn mỗi người mỗi khác, còn nhu cầu được an bình vinh phúc, ai ai cũng thao thức giống nhau. Tiềm ẩn trong ước muốn sâu xa, nếu mỗi người có tìm hiểu, khám phá, hẳn sẽ thấy ơn ban rất phong phú, hay còn gọi là hồng ân khá nhiệm mầu. Người tài giỏi, người giầu có, người chức quyền, tất cả đều hướng tới sự sống, đôi khi trực tiếp, gián tiếp, Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thiên Chúa, đang kêu gọi chúng ta bổ túc, giúp nhau sống đẹp, sống tốt, và giúp nhau cùng tiến tới hạnh phúc đời đời. Với niềm tin kitô giáo, tình yêu và hạnh phúc thật, chỉ xảy ra khi ta biết sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp, gọi là trung tín, khôn ngoan, nếu không chỉ là hạnh phúc giả, là tên giầu có khờ dại. “Ai trung tín trong việc nhỏ, người ấy sẽ trung tín trong việc lớn”. Sử dụng tài trí thông minh, sống ơn ban thật nghiêm túc, chính là câu trả lời: “hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper TN 25-C157
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper (Ngày xá tội) của người Do Thái hăng năm vẫn thực hành để sám hối. Có lẽ ngày kết sổ, người quản lý bất lương này cũng liên quan cách giải quyết theo tính toán người đời mà không theo ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày Jom Kepper (Ngày Lễ Xá Tội):
Ngày lễ xá tội được ghi trong sách Lêvi, được ghi lại trong (Levi 15, 29 – 30): “”Tháng bảy, mồng mười tháng ấy, các ngươi sẽ hãm mình và không làm việc nào cả, người bản hương cũng như khách ngụ cư giữa các ngươi. Vì trong ngày ấy người ta sẽ làm phép xá tội trên các ngươi, để tẩy uế các ngươi: các ngươi sẽ được sạch trước nhan Yavê về mọi tội lỗi các ngươi đã phạm.”
Ngày lễ này năm nay được tổ chức vào ngày 8 – 9, tháng 10 năm 2019. Trong hai ngày đó họ không ăn uống, tắt hết mọi phương tiện truyền thông, vì là ngày hưu lễ. Họ suy gẫm sách Thánh, cầu nguyện, sám hối về tất cả những gi đã không hoàn thành trong việc khấn hứa và cả những sai lỗi. Cầu xin thành tâm để được tha thứ vì ngày lễ xá tội.
Biết mình cần điều gì trong thực tại này và để điều ấy tồn tại trong tương lai là điều cần thiết. Biết để điều chỉnh và biết để không rơi vào những sai lầm trong đầu tư vĩnh cửu.
Ngày kết sổ.
Người quản lý bất lương được khen theo tính cách người đời là biết tìm cách hạ cánh an toàn. Ghi lại số nợ của người chủ, không mất gì cho mình mà lại được nơi ẩn náu sau khi mất việc. Ngày xá tội như thế đã tự đánh mất chính mình trong ơn tha thứ. Sám hối trước ngày ra đi mời gọi trả lại sự công bằng đã bị đánh mất. Đáng lẽ là thời gian còn lại cần thiết để xin xá tội với lòng sám hối, người quản lý bất lương lại dùng cách để xâm lấn tài sản của chủ, tạo điều kiện cho người mắc nợ thoả lòng tham và anh ta được lại quả nhờ thương vụ đó.
Sắp xếp cho ngày cuối cùng cho cuộc đời mình như thế nào cho đúng nghĩa?