Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 23-C Bài 151-198 Hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình theo Chúa

Thứ bảy - 07/09/2019 10:07
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 23-C Bài 151-198 Hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình theo Chúa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 23-C Bài 151-198 Hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình theo Chúa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 23-C Bài 151-1988 Hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình theo Chúa
-------------------------------
Phúc Âm: Lc 14, 25-33: "Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.
"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'.
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------

TN 23-C151: Tu Nào Dễ Hơn. 2
TN 23-C152: Điều Kiện Để Đi Theo Chúa. 4
TN 23-C153: Thập Giá Đời Tôi 7
TN 23-C154: TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ.. 10
TN 23-C155: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ …... 12
TN 23-C156: Ai không vác Thập Gía mình. . . 13
TN 23-C157: ĐIÊN RỒ VÀ KHÔNG TƯỞNG?. 15
TN 23-C158: Sự khôn ngoan của Tin Mừng. 17
TN 23-C159: Từ bỏ để là môn đệ của Chúa. 25
TN 23-C160: Chúa Nhật 23 Thường Niên. 27
TN 23-C161: Người môn đệ “chất lượng cao”. 35
TN 23-C162: Từ bỏ là quy luật sinh tồn. 38
TN 23-C163: Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng. 40
TN 23-C164: Môn đệ Tôi 43
TN 23-C165: Theo Chúa phải từ bỏ tất cả. 47
TN 23-C166: HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 49
TN 23-C167: TRỞ NGẠI CỦA GIÀU CÓ.. 51
TN 23-C168: ĐƯỜNG CHÚA DẪN LỐI 53
TN 23-C169: SỐNG TRỌN BẬC SỐNG.. 55
TN 23-C170: TỪ BỎ.. 56
TN 23-C171: ĐI THEO CHÚA.. 58
TN 23-C172: BÀI HỌC CHO NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 60
TN 23-C173: LIỆU.. 62
TN 23-C174: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C.. 68
TN 23-C175: ĐẾN VỚI GIÊSU.. 76
TN 23-C176: TỪNG NGÀY THEO CHÚA.. 77
TN 23-C177: TỪ BỎ ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU.. 80
TN 23-C178: YÊU CHÚA TRÊN MỌI SỰ.. 84
TN 23-C179: THẬP GIÁ LÀ GÌ?. 87
TN 23-C180: MINH ĐỊNH LỜI NÓI 89
TN 23-C181: TỪ BỎ NHỮNG GÌ THÂN THIẾT, ĐẶC BIỆT LÀ CỦA CẢI 91
TN 23-C182: CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN. NĂM C.. 96
TN 23-C183: TỪ BỎ ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ.. 98
TN 23-C184: TỪ BỎ HẾT LÀ TỪ BỎ CÁI GÌ?. 100
TN 23-C185: KHÔN NGOAN ĐI THEO CHÚA.. 102
TN 23-C186: ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA KITÔ.. 105
TN 23-C187: ĐI THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC LÀM MÔN ĐỆ.. 108
TN 23-C188:  ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU.. 109
TN 23-C189: TỪ BỎ HẾT ĐỂ CHỈ VÁC THẬP GIÁ.. 111
TN 23-C190: LỜI YÊU THƯƠNG.. 114
TN 23-C191: CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C.. 115
TN 23-C192: ÔM NỖI KHỔ.. 118
TN 23-C193: TỪ BỎ VÀ HY SINH, BẠN CHỌN ĐIỀU NÀO?. 122
TN 23-C194: TỪ BỎ.. 126
TN 23-C195: THEO CHÚA THÌ PHẢI VÁC THÁNH GIÁ.. 128
TN 23-C196: KHÔN NGOAN THẬT.. 132
TN 23-C197: TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH.. 135
TN 23-C198: NGƯỜI TA PHẢI “GHÉT” CHA MẸ MÌNH ĐỂ BƯỚC THEO CHÚA GIÊSU SAO?. 138

------------------------------------

 

TN 23-C151: Tu Nào Dễ Hơn


 – Suy niệm Chúa Nhật 23 TN, Năm C 0

 

Người xưa có câu: Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu Chùa. Tu tại gia là dễ nhất TN 23-C151


Người xưa có câu: Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu Chùa. Tu tại gia là dễ nhất bởi không phải bỏ một cái gì từ nhà cửa, cha mẹ, anh em bạn bè nên không thấy mình mất mát điều chi. Thứ hai là tu chợ nó khó hơn bởi vì chúng ta phải bỏ đi một chút tự ái, một chút tự cao để mua bán sao cho đẹp lòng người. Mua bán giống như làm dâu trăm họ, nếu không khéo một chút thì mất mối làm ăn! Và tu Chùa lại càng khó hơn, bởi vì phải giũ bụi trần, bỏ lại tất cả cuộc vui để sống ăn chay cầu nguyện. . .

Nhìn từ bên ngoài thì ai cũng thấy đi tu là sướng, bởi vì không phải lo chuyện tính kế sinh nhai, không bận rộn kiếm tiền, không bị ô uế, hư danh bởi chuyện thế gian, nhưng đâu ai thấy được những khó khăn trong đời tu khi phải tập từ bỏ hằng ngày, bỏ người thân, bỏ của cải và phải bỏ sự nghiệp cho đến khi không còn vướng bận thế gian thì tâm mới thanh tịnh, đời tu mới trọn niềm vui.

Ngày xưa có một cô gái hỏi tôi: “có phải cha thất tình mới đi tu phải không?”. Tôi mỉm cười bảo rằng: cho dù người kia không thương tôi nhưng lòng tôi còn nặng một mối tình thì tôi vẫn chưa thanh thản để đi tu. Tu mà lòng còn nặng trĩu vậy sao đi hết đoạn đường. Cũng có người lại bảo: “Người đi tu sao vô tình quá! Họ dứt bỏ mọi tình cảm để đi tu thì liệu có quá đáng lắm không?

Thực ra, đi tu không phải là dứt hết tình nghĩa, mà là thay đổi cách sống để không quá ràng buộc bởi tình cảm nhân loại, nhưng vẫn đồng hành và chia sẻ với họ trong mọi vui buồn. Nếu chúng ta dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy là biến mình thành linh hồn tượng đá chăng?

Tu là sửa, là hoàn thiện, là thay đổi mình nên tốt hơn trong yêu thương. Từ tình thương yêu ích kỷ thành tình thương yêu hiến dâng và phục vụ quên mình. Đây là cách sống mà Chúa Giê-su đòi hỏi mỗi người đi theo Chúa phải sống và thực hành suốt cuộc đời. Dầu là tu nhà, tu chợ hay sống đời tận hiến đều phải biết từ bỏ cái tôi của mình để nên hoàn thiện giống như Chúa hơn.

Cuộc sống của người môn đệ Chúa là phải cố gắng tập luyện từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.

Là người ai cũng ham sướng sợ khổ, nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người Ki-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vì chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta quyết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Đôi khi “lực bất tòng tâm”, khiến chúng ta lưỡng lự, chần chừ trong việc từ bỏ, có khi còn thiếu quảng đại để bỏ lại sau lưng những niềm vui trần thế. Chúa Giê-su luôn mời gọi chúng ta hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta. Hãy để Chúa dìu chúng ta qua những cám dỗ trần thế, còn chúng ta cứ vững bước theo Thầy.

Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

------------------------------------

 

TN 23-C152: Điều Kiện Để Đi Theo Chúa


 – Suy niệm Chúa Nhật 23 TN, Năm C

 

Sứ điệp Lời Chúa tuần 21 : “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúa Giêsu đã đi con đường hẹp và TN 23-C152


Sứ điệp Lời Chúa tuần 21 : “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúa Giêsu đã đi con đường hẹp và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.

Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó?

Sứ điệp Lời Chúa tuần 22 cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên, nói đến những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.

Chúa nhật 22, với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường và đức bác ái.
Chúa nhật 23, chính là từ bỏ và vác thập giá đi theo Chúa.

1. Từ bỏ

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như thế làm sao mà sống được ? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Từ bỏ không phải là không quý những điều mình từ bỏ, mà là không quý bằng một cái khác quý hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quý nhỏ cho cái quý lớn hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”.

Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ của cải bằng cách chỉ coi mình như người quản lý thôi; từ bỏ tình cảm, ngay cả với những người thân thiết nhất bằng cách không bao giờ ưu tiên cho họ hơn Chúa; từ bỏ chính bản thân, những ý thích cá nhân, từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.

Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.

Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma túy, trụy lạc, trộm cắp…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…

Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập.

Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khỏe, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hòa và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

2. Vác thập giá

Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”. Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.

Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

------------------------------------

 

TN 23-C153: Thập Giá Đời Tôi


 – Suy niệm Chúa Nhật 23 TN, Năm C 0

Suy niệm: Lc 14, 25 – 33

 

Ông cha ta thường nói: “Một người cười, mười người khóc” hay câu: “Ruột đau nỗi ruột, gan mòn TN 23-C153


Ông cha ta thường nói: “Một người cười, mười người khóc” hay câu: “Ruột đau nỗi ruột, gan mòn nỗi gan” để chỉ cuộc đời đầy khổ đau mà con người đã bộc bạch diễn tả nó dưới nhiều hình thức. Đau khổ của gia đình, của bản thân, nỗi đau về cơm áo gạo tiền… Cái khổ của cuộc sống ba chìm bảy nổi  chín cái lênh đênh ấy luôn bám sát cuộc sống này, cái nỗi đắng cay không hẹn mà đến ấy làm chúng ta choáng váng. Chúng ta sợ hãi né tránh nhưng nó vẫn đến đến nỗi người ta đã thầm trách Chúa sao Chúa quyền năng và yêu thương Ngài không ra tay ngăn chặn chúng để đời chúng con bớt cay đắng. Và Chúa đã trả lời chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Chúa không muốn hành hạ, nhưng vì yêu thương, Ngài muốn chúng ta được hạnh phúc viên mãn đời sau chứ không phải hạnh phúc tạm bợ đời này. Để đạt được điều này, thì đây là con đường cần thiết để dẫn tới vinh quang mà hôm nay Chúa mời chúng ta bước theo Ngài: “Ai không vác thập giá mà theo Tôi thì không thể là môn đệ Tôi được.”

Dẫu thuộc lòng lời mời gọi của Chúa nhưng chúng ta thật khó đón nhận nó. Khi đến thăm các anh em, tôi luôn được nghe những dòng tâm sự đầy nước mắt, có khi hàm ý sự thất vọng. Những câu chuyện không mong muốn này diễn đi diễn lại trong cuộc sống: người khổ vì chồng, người đau vì con, người thất bại trong công việc làm ăn…Tất cả như một dòng thác lũ dập dồn trên cuộc sống của con người không phân biệt người giàu người nghèo nên một cuốn phim kia đã mang tựa đề: “người giàu cũng khóc” là vậy.

Tôi còn nhớ mãi cái bài học bố dạy trước khi đi tu. Khi chiều buông, bóng tối bao phủ, bố tôi đến đầu giường tôi trao cho tôi những bài học quí giá về thập giá vì ngài biết khi vào dòng tôi sẽ được thử luyện như vàng trong lửa. Ngài không muốn tôi quên bài học này để phải mang số phận: “Đứt gánh giữa đường” như Chúa nói hôm nay: người xây tháp không toan tính trước nên bỏ cuộc. Một ông vua sắp giao chiến mà không bàn tính xem mình có thể đối đầu với đối phương được không thì sẽ thất bại.

Còn tôi thì rất khổ sở khi phải đón nhận bài học đắng đót từ lòng yêu thương của bố. Bài học này đã theo tôi trong suốt cuộc đời tu hành đến nỗi tôi luôn thưa với Chúa: Sao Chúa không để con lặng yên mà cứ khuấy lên những cơn bão tố vậy. Chúa vẫn thì thầm bên tai tôi: hãy nhìn xuống dấu chân của con, có phải Ta đang bế con trên tay Ta đó sao? Thế nhưng trong lúc thử thách tôi không dễ nhận ra điều này, ngọn đèn đức tin lúc này hầu như mờ nhạt để nhận ra đây là con đường tình yêu Chúa muốn tôi đi. Tôi chưa cảm nghiệm được vị ngọt sau vị đắng.  Chắc chắn chúng ta từng có cái kinh nghiệm khi ăn mướp đắng rừng hay rau đắng đồng: sau khi nuốt cái đắng rồi thì một vị ngọt thanh mát đọng lại nơi cửa họng.

 Thập giá cũng tương tự như cái đắng ấy. Thập giá mà tôi vừa chạm phải cũng giống như cái đắng của rau đắng nó rất khó nuốt đấy, nhưng khi chấp nhận, chịu đựng, thì tôi cảm được một sự bình an sâu lắng của tình yêu Chúa ân thưởng cho tôi. Cái đắng của thập giá vẫn rất đắng đót nhưng tình yêu sẽ cho người mang nó được mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn, Chúa nói: “Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng”.

Nói thế không phải là tôi thuộc trường phái thích đau khổ hay là người thích làm cho người khác đau khổ. Đau khổ vẫn là đau khổ và tự bản chất nó đã làm cho nhiều người sợ hãi. Từ ngàn xưa người ta vẫn thắc mắc tại sao Thiên Chúa tình yêu muốn cho con người hạnh phúc mà sao đau khổ vẫn tồn tại?

 Triết gia Epicure đã lý luận như sau: “Thiên Chúa muốn khai trừ sự dữ và Ngài không thể, thì Ngài không quyền năng. Hay Thiên Chúa không muốn và Ngài cũng không có thể, như thế Ngài không phải là Thiên Chúa. Hay Ngài có thể hủy diệt nó nhưng Ngài không muốn, thế thì Ngài là kẻ gian ác. Hay Ngài có thể và Ngài muốn, thế thì Thiên Chúa đó ở đâu và sự dữ từ đâu đến?

Con người có đức tin trả lời: “ Đau khổ là do tội lỗi con người gây ra như chiến tranh, khủng bố, ô nhiễm v.v…” Nhưng còn biết bao đau khổ thiên tai, hạn hán v.v… không do con người gây ra thì sao?

Cha Rey Mermet nói: “Chúa Kitô, người công chính , Ngài không đến để chiến đấu chống lại nó. Ngài đến để hủy diệt nó. Ngài chiến thắng nó. Sự nổi loạn của con người cũng chính là sự nổi loạn của Ngài. Ngài chữa bệnh, phục sinh kẻ chết, tha tội là nguồn gốc mọi đau khổ”. Nhưng Ngài nhìn đau khổ dưới khía cạnh tích cực và Ngài đi vào đau khổ như một con đường cần thiết để cứu độ nhân loại và đi vào vinh quang: “ Thật, Ta nói cho các con biết: Nếu hạt lúa miến không rơi xuống đất và không chết đi, nó sẽ trơ trụi một mình, nhưng nếu nó chết đi nó sẽ mang nhiều bông hạt khác” (Ga 12, 24).

Như thế con đường thập giá mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước theo Ngài không phải là ngõ cụt nhưng là cửa bước vào vinh quang. Chúa muốn những người theo Chúa phải lựa chọn rõ ràng và dứt khoát. Phải mang thập giá và đi vào con đường của Ngài. Ngài không muốn chúng ta ảo tưởng vì chúng ta không thể hơn Thầy mình được. Con đường tước bỏ mà Chúa Giêsu đòi hỏi không phải để làm chúng ta đau khổ hay nghèo nàn nhưng  để cho chúng ta được giầu có, sự giàu có của Nước Trời.

Thập giá và vinh quang là hai mặt của một thực tại. Thập giá là con đường duy nhất để đến vinh quang.

Thế nên đau khổ không phải là một hình phạt, là một sự kết án, nhưng nó là một sự chuyển hóa, một luật chung… Con sâu róm phải lột cái ghê gớm của mình để biến thành con bướm đẹp. Quả trứng phải vỡ ra để cho gà con xuất hiện. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi luôn luôn mang trong mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu được biểu lộ trong thân xác hay chết của chúng tôi”. (Cr 4, 10-11)

Thiên Chúa không làm khổ chúng ta nhưng không còn con đường nào khác để đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Ngài biết tất cả những nghiệt ngã của con đường này nên đã phải đi trước để làm gương và dẫn bước chúng ta vượt qua những đường hầm tăm tối mà tự sức chúng ta không nuốt nổi.

Xin Đấng đã tự nguyện đi vào con đường thập giá cách hiên ngang và can đảm giúp chúng ta đi trọn đường Thập giá mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo với lòng tin yêu và phó thác, để cây đắng kia trở nên nguồn cứu độ cho chính chúng ta và cho toàn thế giới.

Nữ tu Faustina Lý Thị Báu

------------------------------------

 

TN 23-C154: TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ


(Lc 14,25-33)

Minh An

 

Có người đặt câu hỏi thế này: Tại sao Chúa dạy người ta phải mến Chúa yêu người, nhưng rồi lại TN 23-C154


Có người đặt câu hỏi thế này: Tại sao Chúa dạy người ta phải mến Chúa yêu người, nhưng rồi lại bắt người ta bỏ mọi sự để theo Chúa? Và đương nhiên, đi theo Chúa thì phải bỏ luôn cả tình người thì luật mến Chúa yêu người để ở đâu?

Nếu người ta đọc Lời Chúa mà chỉ dừng lại ở nghĩa thực (nghĩa đen) thì hòan tòan chưa đúng lắm. Người đi theo Chúa thì Chúa đòi hỏi phải có sự tự do lựa chọn cách dứt khoát, phải từ bỏ mọi sự và vác thập giá để theo Chúa là đúng.

Từ bỏ mọi sự, vác thập giá để đi theo Chúa có nghĩa là người ta phải từ bỏ cái tôi của mình, phải có trách nhiệm với mình, với gia đình mình, phải trung với sự lựa chọn của mình... Với tư cách là linh mục, tu sĩ thì phải có trách nhiệm và trung thành với ơn gọi thánh hiến của mình; với tư cách là người chồng, người cha thì phải có trách nhiệm và bổn phận trong việc bảo vệ gia đình, nuôi dạy con cái; với tư cách là người con, phải có trách nhiệm và bổn phận hiếu kính với ông bà, cha mẹ… Ngày nào người Kitô hữu không trung thành với những công việc bổn phận, thì ngày đó họ chưa thật sự bỏ mình, và chưa vác thập giá của mình để theo Chúa Kitô. Và như thế, họ không xứng đáng là môn đệ Chúa Kitô, nghĩa là họ đã không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa.

Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay là lời giáo huấn của Chúa Giêsu về việc bỏ mình, vác thập giá mình để theo Ngài: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 1,26-27). Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Người phải có một sự lựa chọn mạnh mẽ và dứt khoát. Dứt khoát trong việc bỏ mình và vác thập giá của mình, chứ không phải vác thập giá cho ai cả. Nếu vác thập giá của chính mình mà còn chưa vác được, thì làm sao người ta có thể vác thập giá cho ai đựơc?

Thật thế, khi gia nhập Giáo hội, qua bí tích Thanh Tẩy là chúng ta trở thành Kitô hữu, thành môn đệ theo Chúa Kitô ngay từ giờ phút đó và được mời gọi trung thành với đời sống đức tin của mình.

Cách riêng, những người sống trong ơn gọi thánh hiến (linh mục, tu sĩ) thì việc theo Chúa không phải là chuyện dễ dàng, bởi vậy phải suy nghĩ, phải tính tóan kỹ càng xem mình có đủ sức và đáp ứng được những đòi hỏi của Chúa hay không. Điều này được Chúa Giêsu trưng dẫn hai dụ ngôn “xây tháp” và “ra trận”. Nếu không suy xét, không tính tóan thì dễ bị đứt gánh giữa đường: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng?”.

Thực ra, ý của Chúa Giêsu ở trong bài Tin Mừng này là người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu khác. Hay nói khác đi, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu, nghĩa là tình yêu dành cho Chúa phải vượt trên tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính bản thân mình.

Tất nhiên rằng, người môn đệ theo Chúa cũng được mời gọi phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình và quý mến của cải như là những ơn lành Chúa ban để làm phát triển cho chính mình, tha nhân, Giáo hội và xã hội. Nhưng tình yêu đó không phải là duy nhất và trên hết, vì chính Chúa mới là nhất, là trên hết của người môn đệ. Mọi việc làm của người môn đệ luôn quy hướng về Chúa thì mới đúng là môn đệ thật, môn đệ chân chính, môn đệ trung thành với Chúa trong ơn gọi mà mình đã lựa chọn.

Tuy nhiên, một sự thật mà ai cũng có thể cảm nhận được là Chúa thì thiêng liêng, vô hình, còn những thứ khác như: tình cảm, phái tính, của cải vật chất... thì luôn hiện hữu trước mắt con người, hấp dẫn con người, nên người ta dễ dàng đặt lại giá trị ưu tiên hơn Chúa. Khi người ta đã đặt những thứ giá trị “chúa” cao hơn Thiên Chúa thật thì đương nhiên Thiên Chúa dễ bị loại ra ngoài cuộc sống của họ mà có khi họ cũng không hay biết.

Do đó, người môn đệ tức là các Kitô hữu đã đi theo Chúa thì hãy luôn tín thác vào Chúa, để Người tăng thêm sức mạnh của lòng trung thành và dám sống chết với ơn gọi mà mình đã lựa chọn. Có như thế, chúng ta mới vượt qua được những thử thách cam go để bền đỗ với ý tưởng ban đầu là theo Chúa, và sống trọn vẹn đời sống đức tin của mình.

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa đã theo Chúa, trong đời sống Kitô hữu của mình, nhưng biết bao nhiêu lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là những mất mát. Xin Chúa đừng để chúng con nản chí, bỏ cuộc... nhưng qua những thử thách đó, giúp chúng con tiến lên mạnh mẽ hơn trong đời sống đức tin bằng tình yêu của Chúa. Amen.

------------------------------------

 

TN 23-C155: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ …


thì không thể làm môn đệ tôi được – Suy niệm theo “The Word Among Us” Chúa Nhật 23 TN, Năm C”

Suy niệm: Lc 14,25-33

 

Ghét bố mẹ của bạn ư? Ghét cuộc sống của chính bạn ư? Vác thập giá ư? Điều đó dường như quá TN 23-C155


Ghét bố mẹ của bạn ư? Ghét cuộc sống của chính bạn ư? Vác thập giá ư? Điều đó dường như quá khắt khe! Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã nói những lời này với “rất đông người”, những người đã ở với Người (Lc 14,25). Lưu ý rằng đám đông không nhất thiết phải “đi theo” Người; họ chỉ đi cùng đường với Chúa Giêsu, để xem Người sẽ làm gì tiếp theo. Chúa Giêsu biết động cơ của họ là ô hợp, vì thế Người dừng lại và nói với họ với những lời thách thức này.

Chúa Giêsu biết nơi mỗi người trong đám đông đó tự đặt một giới hạn. Có lẽ một người đã không muốn rời khỏi sự an toàn nơi nhà của cha mẹ mình. Hoặc người khác lo lắng về việc trở thành một người vô gia cư nếu đi theo Chúa Giêsu. Có lẽ một phần ba đám đông đã háo hức để bắt đầu cuộc hành trình với Chúa Giêsu nhưng sẽ không giữ được khi gặp khó khăn. Hoặc một người khác chỉ đi với Chúa Giêsu vì tính tò mò.

Chúa Giêsu dừng lại và nói chuyện với những đám đông này vì Người muốn lay động họ một chút và giúp họ vượt qua bất kỳ chướng ngại vật nào có thể ngăn cản họ đi theo Người. Chúa Giêsu muốn họ thấy rằng trở nên một môn đệ là một quyết định nghiêm túc, một quyết định mà Người không thể làm cho họ. Họ phải tự quyết định xem Chúa Giêsu có đáng để họ đi theo không.

Mỗi người chúng ta giống như những người đi cùng với Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta đều có những lĩnh vực trong cuộc sống của mình, có lẽ liên quan đến một tội lỗi hoặc một mối ác cảm (hận thù) hoặc sự thiếu tin tưởng, mà chúng ta dường như không thể giải thoát. Nhưng Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đi xa hơn trên con đường làm môn đệ. Do vậy, bạn hãy nhắm mắt lại một lúc và tưởng tượng Chúa đang gọi bạn. Chúa Giêsu đang nói gì?

Khi bạn lắng nghe bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, hãy chú ý xem có gì đặc biệt với bạn không. Có phải Chúa Giêsu đang yêu cầu bạn đến gần Người hơn? Có phải Chúa Giêsu chiếu sáng vào một cái gì đó đang giữ bạn xa khỏi Người? Nếu vậy, hãy mang theo cái nhìn sâu sắc này với bạn khi bạn rước lễ và hãy cầu xin Chúa Giêsu viết nó lên trái tim của bạn. Hãy tin tưởng rằng Chúa sẽ chỉ cho bạn làm thế nào để sống hết mình trong tuần này.

 “Lạy Chúa Giêsu, con muốn đi theo Chúa cách sâu sát hơn!”

Theo The Word Among Us
Chuyển ngữ:  Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương

------------------------------------

 

TN 23-C156: Ai không vác Thập Gía mình. . .


Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 23 Thường niên, năm C, của Đỗ Công Minh
( Lc 14,25-27)

 

Chuyện mới nghe qua khi đọc đọan Tin Mừng hôm nay,  con cảm thấy hơi bị. . . sốc: “ Ai đến TN 23-C156


Chuyện mới nghe qua khi đọc đọan Tin Mừng hôm nay,  con cảm thấy hơi bị. . . sốc: “ Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được”. Sao Chúa lại đem so sánh Người với cha mẹ con, anh em con. . . là những con người trần thế với một Đấng thiêng liêng, cao cả. Nhưng được những lời giáo huấn của Hội Thánh, con hiểu ra rằng, Lời Chúa hôm nay giúp con nhận ra được đối tượng lớn nhất và duy nhất của cuộc đời con, chính là Đức Giêsu Kitô. Cha Mẹ, anh em, vợ con, những người thân hiện đang sống bên con, một ngày nào đó sẽ xa con, sẽ không thể gắn bó suốt cuộc đời với con. Dù những người thân thiết ấy luôn dành sự thương yêu cho con, nhưng không thể nào giúp con thỏa mãn tất cả những nhu cầu, những tâm tư,  nguyện ước từ cõi thẳm sâu của tâm hồn, đáp ứng được niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuộc đời con. Đàng khác, Chúa không hề dạy con phải từ bỏ tất cả những người thân nhất để đi theo Chúa, theo nghĩa đen của đọan trích, hay theo ý nghĩ của con trước đây : Những người theo Chúa thật, đó  là các Linh Mục, tu sĩ. Chỉ  họ mới dám rời bỏ cửa nhà, cha mẹ, anh em , bạn hữu, xóm giềng để . . . đi tu, mới là môn đệ Người. Hiểu như thế làm sao có con trên cuộc đời này, nếu bố mẹ con nhất quyết theo Chúa theo ý nghĩa  ấy. Làm sao Ông Abraham  có thể có con cháu đông đúc như “sao trên trời, cát dưới biển” như lời hứa của Thiên Chúa ?

     Cha mẹ, anh em, bạn bè thân hữu, những người đang sống bên con, có cùng giúp con theo Chúa, theo Đức Kitô,  Người là Đường là sự thật và là sự sống? Theo Chúa là phải “vác thập giá mình mà theo”. Chúa cũng còn mong muốn con phải “Tìm nước Thiên Chúa và sự công chính Người” trước, bằng sự khôn ngoan, liệu sức mình trên con đường theo Chúa. Con không thể theo Chúa mà vẫn vướng víu đến những vặt vãnh bên đường : Những mong muốn làm giàu bất chính, những  ước ao trần tục, những đua chen tìm cách hơn người, vun vào,  ích kỷ. Theo Chúa mà vẫn đong đưa với đời, theo Chúa mà vẫn níu kéo bởi tình cảm gia đình, anh em , bè bạn. Theo Chúa mà đến nhà thờ dâng lễ chờ cha giảng xong mới vào, chờ con giải quyết xong việc nhà, chờ con gọi xong cuộc điên thọai. . . Không từ bỏ được những điều ấy, con không thể theo Chúa .

     Lạy Chúa,

     Quả thật như lời Chúa phán :” các con hãy chiến đấu mà vào qua cửa hẹp “, con hiểu rằng theo Chúa là không dễ dàng, nếu con cứ sống cuộc sống buông thả , dễ dãi như con đang sống. Nhưng theo Chúa, con cũng không dễ dàng vác Thánh giá Chúa ngay được, bởi còn biết bao ràng buộc đang níu chân con. Con chưa mạnh dạn dứt ra được, con chưa dứt khóat được với những mời mọc lôi cuốn của đam mê thế tục, chưa hãm dẹp mình bằng những hy sinh, hãm mình, khiêm tốn, hiền hòa. Chính vì thế con cần đến Chúa .

       Mẹ Thánh Têrêxa Can- Quýt -Ta mà ngày 4 tháng 9 năm 2016 được Hội Thánh tôn vinh lên bậc hiển Thánh là một mẫu gương về việc từ bỏ mọi sự, vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa.

         Xin Chúa giúp con, mỗi ngày, từng ngày, tập vác Thánh giá mình. Con sẽ có thể vấp ngã như Chúa đã từng ngã, nhưng xin Chúa giúp con biết đứng dậy, và nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ vác tiếp như Chúa trên đường khổ giá. Rồi một lúc nào đó, con sẽ nhận ra “Ách của Thầy thì êm ái, gánh của Thầy thì nhẹ nhàng”, con sẽ nếm được “Chúa ngọt ngào dường bao”.  AMEN.

 Fx Đỗ Công Minh.

------------------------------------

 

TN 23-C157: ĐIÊN RỒ VÀ KHÔNG TƯỞNG?

 

Xin Chúa ban cho chúng con ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để đức tin chúng con “không dựa vào TN 23-C157


TMĐP- Xin Chúa ban cho chúng con ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để đức tin chúng con “không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa“ (1 Cr 1, 5) để “chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con“ (Tv 89, 17).

Đám đông hôm ấy sau khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26) chắc chắn đã có nhiều người giật mình vì những lời khó nghe của Đức Giêsu và xầm xì, kháo láo với nhau khi cho điều Ngài nói, điều kiện Ngài đòi hỏi đối với những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là điên rồ và không tưởng.

Điên rồ vì trái ngược với điều răn thứ tư Thiên Chúa truyền: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ” (Mt 19,19); “kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ … để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-2) ; không tưởng vì ai có thể thực hiện được đòi hỏi qúa khó khăn, gắt gao và quyết liệt là từ bỏ mọi người thân yêu, và  giũ bỏ mọi sự thuộc về mình để đi theo Đức Giêsu.

Mặc cho nhiều người cho là điên rồ và không tưởng, Đức Giêsu vẫn không thay đổi điều kiện phải từ bỏ cha mẹ, anh chị em và mạng sống, lại còn nhấn mạnh: “Ai không vác thập gía mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,24).

Ngài đã nói như Đấng có quyền, như thầy dạy sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mà loài người không thể hiểu thấu, vì “nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? (Kn 9, 13), bởi loài người là loài phải chết, “tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (Kn 9, 14).

Vì thế, đòi hỏi phải từ bỏ tất cả và vác thập giá mình để đi theo làm môn đệ Đức Giêsu đối với thế gian là điên rồ và không tưởng, cũng như việc “rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận và dân ngoại cho là  điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-25).

Tuy thế, Đức Giêsu không làm áp lực trên ai, cũng không bắt buộc, khống chế  người nào phải đi theo Ngài, nhưng tôn trọng tự do và quyền chọn lựa, quyết định của mỗi người khi khuyên chúng ta phải suy nghĩ, bàn bạc cẩn thận, kỹ lưỡng, kẻo như người “muốn xây một cây tháp, mà trước tiên không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đăt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc” (Lc 14, 28-30).

Tin Mừng đã làm chứng: có rất nhiều người được Ngài mời gọi, nhưng đã không chấp nhận đi theo làm môn đệ Ngài, lại có những người đã đi theo, nhưng bỏ Ngài sau đó, vì không tin, không hiểu nổi những điều Ngài nói, không đáp ứng được những điều kiện Ngài đòi hỏi, như Tin Mừng Gioan đã kể lại: sau khi “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”, “Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6, 66).

Quả thực không dễ chút nào để sống sự khôn ngoan của Thiên Chúa, cũng như rất cam go để lựa chọn giữa thánh ý Thiên Chúa và thực tại, giữa đòi hỏi quyết liệt ở người môn đệ Đức Giêsu và hoàn cảnh thực tế. Vì thế mà người môn đệ chỉ còn biết như Đức Maria trong buổi sáng Truyền Tin khiêm hạ cậy dựa với niềm tin yêu vào ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ làm cho mọi sự tưởng như không thể trở thành có thể, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Và một khi dám liều lĩnh đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa và chọn Chúa, người môn đệ sẽ được nhận về  cho mình tất cả và trọn vẹn những gì mình đã sẵn sàng cho đi, từ bỏ vì Nước Trời, như Đức Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ,  hay con cái, vì Nước Thiên Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu đời sau” (Lc 18,29-30), khi trả lời câu hỏi của Phêrô: “Thưa Thầy, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27).

Nhưng cũng chính Phêrô, người môn đệ bồng bột, năng nổ nhưng cương quyết và khiêm tốn đã thưa với Đức Giêsu, khi nhận ra sư khôn ngoan của Thiên Chúa ở Thầy mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có  những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”(Ga 6, 68-69).

Xin Chúa ban cho chúng con ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để đức tin chúng con “không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa ” (1 Cr 1, 5) để “chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con” (Tv 89, 17).

Jorathe Nắng Tím

---------------------------

 

TN 23-C158: Sự khôn ngoan của Tin Mừng


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan)

 

Các bài đọc và bài tin Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan. I- Sách Khôn Ngoan nêu một TN 23-C158


Các bài đọc và bài tin Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan.

I- Sách Khôn Ngoan nêu một thực tế: tại sao con người “mất khôn” và làm sao có thể trở nên khôn?

Con người mất khôn vì: “ Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.

Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng nhắc các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).

Thân phận con người là như thế. Bao nhiêu lần chúng ta tự đấm ngực sau khi đã làm một chuyện đáng tiếc: “Sao lúc đó mình không nghĩ ra… Sao lúc đó mình ngu thế!”…

Đó là cái giới hạn thứ nhất. Cái giới hạn thứ hai càng khó vượt qua:
“Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai do thấu nổi hay chăng?”

Chúa Giêsu cũng nói với ông Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin,thì giả như tôi nói nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?”(Ga 3,12).

Câu trả lời rất rõ ràng và dứt khóat: “Ý định của Chúa, nào ai bíết được, nếu tự chốn cao vời, Ngài chẳng ban Đức khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho bíết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”

Các tông đồ đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để ở với Chúa và được Chúa đích thân dạy dỗ suốt ba năm trời, mà càng học càng ngu, khiến Chúa phải than: “Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao? Lòng anh em chai đá thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao” (x. Mc 8,17-18).

Rút cục thì phải chờ đến khi Chúa đã vào trong vinh quang Phục Sinh, Chúa mới giải được cái huyệt ngu cho các ông: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45).

Tin Mừng Gioan nói rõ hơn: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16,13).Vậy ra Thánh Thần là “ngón tay”của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Vinh Quang dùng để giải huyệt ngu và giúp trí nhớ cho các môn đệ.

Môn đệ thuộc thế hệ thứ hai, tức là các tín hữu do các Tông Đồ dạy dỗ cũng vẫn còn bị “điểm huyệt” cho hóa ngu. Trong bức thư đầu tiên gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và là bản văn xưa nhất trong sách Tân Ước, thánh Phao lô diễn tả cách thức ngài dạy dỗ tín hữu: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ… Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào Nước và vào vinh quang của Người” (I Th 2,7.11-12).

Cuối thư, ngài khuyên họ: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ coi thường ơn làm ngôn sứ. Hãy cân nhắc mọi sự, điều tốt hãy giữ lấy, mọi thứ xấu hãy lánh xa” (5,18-22).

Trong bức thư thứ hai gởi cho cùng một cộng đoàn này, thánh Phaolô đã phải cảnh giác họ: “Về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, chúng tôi xin anh em điều này: anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hỏang sợ vì một mặc khải của thần khí, một lời nói hay một bức thư được coi như là do chúng tôi và làm cho anh em tưởng là ngày của Chúa đã đến. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Th 2,1-3).

Như vậy là sớm có những ngón tay khác tìm cách điểm huyệt làm cho ngu! Sư phụ của cái ngón điểm huyệt làm cho ngu vẫn là kẻ thù truyền kiếp: Xa-tan. Trong thư thứ hai gởi tín hữu Corintô, thành Phaolô vạch mặt chỉ tên nó: “… kẻo chúng ta bị Xa-tan lường gạt, vì không phải chúng ta không biết ý đồ của nó”(2Cr 2,11); “Lạ gì đâu, chính Xa-tan cũng giả dạng thiên thần” (11,14).

Trong thư gởi tín hữu Ga-lát, [là thư thứ hai, về thời gian, sau thư I Th], thánh Phaolô quở trách họ cũng giống Chúa Giêsu quở trách các tông đồ: “Hỡi những người Ga-lat ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em… Anh em ngu xuẩn như thế sao?” (Gl 3,1.3). Rồi trong phần khuyên bảo, thánh Phaolô nhắc lại điều sách Khôn Ngoan đã nói: “Thật thế, tính xác thịt đam mê những điều trái ngược với Thần Khí… khiến anh em không làm được những điều anh em muốn” (5,17).

Cái nọc độc của Xa-tan thấm sâu đến nỗi người ta lừa dối chính mình: “Nếu ai tưởng mình là cái gì mà chẳng là cái gì cả, thì lừa gạt chính mình” (6,3). Nó có thể trở thành một thứ bệnh dịch: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo huấn lành mạnh, nhưng theo những đam mê của chính mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa ngáy muốn nghe. Họ sẽ ngỏanh tai đi không nghe sự thật, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2Tm 4,3-4).

Cuối cùng thánh Phaolô còn gặp phải một “Anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian” (2Tm 4,10).

Xa-tan có trăm nghìn ngón để điểm vào cái huỵêt làm cho hóa ngu. Nó có nội gián ngay trong lòng ta, nó có đồng minh và tay chân bao vây ta. Thánh Phaolô bíêt thế, nên từ trong tù, ngài đã viết cho tín hữu Ephêsô: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha… Nguyện xin Chúa ban cho anh em được mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người… để cùng các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết lòng yêu mến của Đức Kitô” (Ep 3,14-19).

II. Bài đọc thư Philêmon cho chúng ta thấy thánh Phaolô đã vận dụng sự Khôn Ngoan của tin Mừng để giải quyết một vấn đề xã hội của thời ngài: vần đề nô lệ.

Philêmon là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là “người bạn yêu quý và cộng sự viên”.

Không hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon, tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Nhưng anh ta rất khôn, tìm đến gặp thánh Phaolô đang ở trong tù. Và đối với thánh Phaolô anh ta đã trở thành “đứa con tôi sinh ra trong cảnh xiềng xích…nó là ruột thịt của tôi”. Anh ta trở nên người hữu ích đến nỗi thánh Phaolô ngỏ ý: “Tôi muốn giữ nó ở bên tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi không muốn làm gì mà không có sự ưng thuận của anh…”.

Tương quan giữa Ônêximô, người nô lệ đã bỏ trốn, và Philêmon, ông chủ, bây giờ thế nào?

“Có lẽ nó đã rời xa anh một thời gian, chính là để anh vĩnh viễn được lại nó, không phải như một người nô lệ nữa, nhưng còn hơn một người nô lệ, như một người anh em yêu quý: đặc bíệt yêu quý đối với tôi, phương chi đối với anh lại còn hơn bíêt mấy, xét cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”.

Sự biến đổi tuyệt vời: người nô lệ trở thành người anh em trong Chúa của ông chủ.

Cách mạng kiểu Mac-xít thay đổi bằng cách lật ngược trật tự xã hội, đổi vai: chủ xuống làm nô lệ, nô lệ lên làm chủ. Ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975, còn đi tới khẩu hiệu: “thằng trời kia xuống làm dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”, bởi vì nông hội có thể “thay trời làm mưa” và có thể “nghiêng đồng tát nước ra sông”. Cách mạng triệt để tới thế là cùng!

Sự Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em của chủ, “cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả anh lẫn tôi”.

Tin Mừng không chủ trương lật đổ, nhưng biến đổi các tương quan từ bên trong:

“Thưa anh em, mỗi người đang ở địa vị nào khi được kêu gọi thì cứ ở địa vị đó. Bạn là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm, dù có thể được tự do, tốt hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. Thật thế, người nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Kitô. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (I Cr 7,20-23).

Sự thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa để kết hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28).

Xã hội tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).

III. Sự Khôn Ngoan Chúa dạy trong bài Tin Mừng.

Sách Tin Mừng Luca nói “dai” nhất và “triệt để” nhất về những điều kiện để làm môn đệ.

Nói “dai” nhất:

Sau lần thứ nhất Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó, Lc không kể gì về phản ứng của các tông đồ, mà để cho Chúa Giêsu tuyên bố liền điều kiện làm môn đệ. Sau lần thứ hai, Chúa ân cần sửa dạy cách hành xử “chống thập giá” của các tông đồ, rồi “cương quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Vừa lên đường thì lại xảy ra chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan muốn làm môn đệ Elia, khiến lửa từ trời xuống đột người ta, rồi chuyện ba người lần lượt xin theo Chúa hoặc được gọi theo Chúa, và được nghe những điều kiện một cách cụ thể.

Đến chương 14 thì Lc lại kể những lời Chúa nói về điều kiện làm môn đệ.

Sau lần thứ ba loan báo cuộc thương khó thì chỉ thấy “một sự im lặng đáng sợ” từ phía các môn đệ.

Tới bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng, sau khi Chúa đã lập bí tích Thánh Thể, trao Mình và Máu làm của ăn của uống và tuyên bố “bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”, thì Lc kể” “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong các ông được coi là người lớn nhất”, khiến Chúa Giêsu phải lặp lại một cách quyết liệt hơn bài học đã dạy sau lần thứ hai và đặt chính mình Chúa làm gương mẫu: “Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,21-27àso với Ga 13).

Luca nói “triệt để” nhất:

lần thứ nhất nói về điều kiện làm môn đệ: “Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo…” (9,23-26).

Lần thứ hai” “Ai đến với tôi mà không… thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình và đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi (14,26-27).

Tình triệt để hiện rõ trước tiên ở cụm từ “thập giá hàng ngày”, chứ không phải lâu lâu gặp một lần!

Cách phát biểu lần thứ hai thì như một “định lý đảo” trong tóan học, so với lần thứ nhất là “định lý thuận”. Trong tóan học, khi một định lý thuận có định lý đảo thì không có cách nào thóat được!

Chúa nói với mọi người: Cái phiền là Chúa không nói riêng với các môn đệ vẫn theo Chúa hay với các vị trong nhóm Mười Hai, mà nói với mọi người (9,23 và 14,25). Vậy thì điều kiện này không chỉ dành cho ông cha, bà phước hay ông thầy khổ tu, mà dành cho mọi người.

Làm sao Chúa có thể đòi mọi người như thế được? Ở lần thứ nhất, Chúa giải thích: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất…”. Rõ ràng là khi bị đặt trong một hoàn cảnh phải chọn lựa quyết liệt, thì phải chọn Chúa hơn chính mạng sống mình, hơn mọi của cải trần gian, hơn danh vọng. Đó là trường hợp các thánh tử đạo, tổ tiên chúng ta và những người tử đạo đương thời…

Nhưng Lc Chúa nói đến “thập giá hàng ngày” kia mà! Sách Tin Mừng này đặc biệt thích “hàng ngày” và “hôm nay”. Thiên thần báo tin cho các người chăn chiên: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (2,11). Chúa Giêsu trong Hội Đường Nadaret: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai quý vị vừa nghe” (4,21). Khi Chúa vào nhà ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Và trên thập giá, Chúa đáp lời người trộm cướp kêu xin: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Trong kinh Lạy Cha, “Xin cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (11,3).

Ngày nào cũng là “Hôm nay” của ơn cứu độ, ngày nào cũng cần lương thực ngày ấy. Vì thế mà thập giá là nơi treo ơn cứu độ cũng hiện diện hàng ngày như lương thực.

“Thập giá hàng ngày” trở nên khó hiểu vì chúng ta thường hỉểu thập giá là cái gì đau khổ lắm, nên chỉ khi nào gặp chuyện đau khổ lắm mới đem lời “thập giá” ra an ủi nhau!

Trong lời Chúa tuyên bố, chúng ta có thể thấy “từ bỏ chính mình” là nói một cách trừu tượng, “vác thập giá mình hàng ngày” là kiểu nói bằng hình ảnh. Ở thời Chúa Giêsu hai chữ thập giá gợi lên cái gì thì ai cũng biết, và cảnh người bị treo trên thập giá không phải là họa hiếm. Có lẽ những người nghe Chúa cũng đã từng thấy cảnh đó rồi. Bị treo lên thập giá thì chẳng còn gì cả, trần truồng trước con mắt mọi người, ai đi qua cũng có thể phỉ báng, chim trời xuống mổ hay muỗi cắn cũng không đuổi được nữa. Một người bị kết án tử hình đã vác lấy thập giá của mình mà đi thì không còn gì là của mình nữa rồi.

Như vậy hình ảnh “vác thập giá mình hàng ngày” diễn tả trọn vẹn nhất sự từ bỏ, giống như Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11). Chính lời giáo huấn trong bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng cho chúng ta hiểu vác thập gia hàng ngày là đem bản thân và những gì mình có ra phục vụ anh chị em.

Cái khôn của Tin Mừng là “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”, bỏ cái giới hạn để được cái vô hạn, bỏ cái mau qua để được cái vĩnh cửu. Bỏ bóng bắt mồi chứ không bỏ mồi bắt bóng! Có nhiều cách bỏ.

Trong Tin Mừng Lc có các môn đệ “bỏ mọi sự mà đi theo Chúa” (5,11), lại có các phụ nữ giầu có ôm hết của cải mà đi theo Chúa: “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (8,3). Có ông Da-kêu vừa được Chúa gọi và xin cho vào trọ ở nhà ông, ông đã thưa: “Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài của tôi, tôi cho người nghèo”(19,8). Có ông Giuse Arimathê dùng uy tín của mình để đơn thân đi gặp Philatô xin xác Chúa Giêsu và chôn trong ngôi mộ mới (23,59-53).

Trong sách Công Vụ và các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy nhiều người như ông Philêmon, biến nhà mình thành nơi hội họp cho cộng đoàn tín hữu. Cặp vợ chồng Pơ-rit-ki-la và A-qui-la liên kết với thánh Phaolô phục vụ các cộng đoàn ở Corintô, Ephesô, Rôma.

Quả thật điều kiện làm môn đệ áp dụng cho mọi người, mọi bậc sống. Làm môn đệ của Chúa không phải là một nếp sống dành riêng cho một số người, nhưng cho mọi người. Ai cũng được mời gọi làm môn đệ của Chúa cả.

Cái trớ trêu của cuộc đời là có những người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên” một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao giờ thấy mình hạnh phúc.

Trong chuyện “Bao Công xử án”, có chuyện một ông trong hoàng tộc bị kết tội mưu phản và bị chém đầu. Nhưng tòa án có ba con dao khác nhau: con dao có đầu con chó để chém dân đen (Cẩu đầu trảm), con dao có đầu con hổ để chém quan chức (Hổ đầu trảm) và con dao có đầu con rồng để chém người hoàng tộc (Long đầu trảm). Đáng lẽ theo đúng tội thì phải giáng xuống hàng dân đen. Nhưng Bao Công nể mặt hoàng tộc, ra lệnh “Hổ đầu trảm”. Ông hoàng đòi “Phải xử ta bằng Long đầu trảm”! Bao Công ra lệnh “Cẩu đầu trảm”!

Đúng là “cà cuống chết đến đít còn cay”.

Ngày nay trong các nước nghèo của châu Á, châu Phi, bên cạnh số người thật lòng đáp lại tiếng Chúa gọi, cũng có những kẻ “khôn ngược”: đó là những người chẳng có gì để bỏ, ngòai “chính mình”, nhưng lại ôm theo vào chủng viện, vào tu viện với cái ước mơ “vinh thân phì gia”, “một người làm quan cả họ được nhờ”.

Thật đáng báo động vì nguy hiểm cho tương lai của Giáo Hội.

Thế là đảo lộn Tin Mừng! Thay vì lột bỏ hết để theo Chúa thì lại cùng chia áo sống của Chúa với “quân dữ”, lợi dụng tài sản của Giáo Hội, lợi dụng lòng tốt của giáo dân, của ân nhân trong và ngoài nước… Giáo Hội tại các nước giàu đã chịu bao nhiêu thiệt thòi, có khi phá sản vì những gương xấu của linh mục, tu sĩ. Giáo Hội tại các nước nghèo không cẩn thận thì lại “nuôi ong tay áo”, tới lúc nào nó đốt cho rồi bay đi thì hối không kịp.

Phần cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy tiếp sự khôn ngoan của Tin Mừng. Chúa kể hai dụ ngôn về khôn ngoan ở đời là phải biết tình tóan. Rồi chuyển qua sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Cũng vậy, ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi”. Lại một định lý tóan học! Nhưng sao lại “cũng vậy”? Hai thí dụ đều là phải biết tính tóan, áp dụng vào con đường làm môn đệ thì lại không có tính toán mà chỉ có “trọn gói”!

“Cũng vậy” nghĩa là giống nhau. Giống nhau ở chỗ nào đây?
Giống nhau ở chỗ hai bên đều là khôn cả”

Khôn ở đời là phải bíêt tính toán,
khôn của Tin Mừng là không tính toán.

Tuy Chúa Giêsu học nghề thợ mộc, quen đo đạc: đo cuộc sống cũng lấy “khuỷu tay” (Lc 12,12,27), nhưng đến khi nói về điều kiện để theo Chúa thì Chúa xóa hết các động từ “cân, đo, đong, đếm”, chỉ bíêt “trọn gói”.

Chúa khôn thiệt. Không cân, đo, đong, đếm thì không chia chác được.

Chúa cũng không cân, đo, đong, đếm từ khi làm người cho đến khi trút hơi trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”.

Xin Chúa cho con một tí cái khôn của Chúa đi, con sẽ hạnh phúc suốt đời và muôn đời.

--------------------------------

 

TN 23-C159: Từ bỏ để là môn đệ của Chúa


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Điều răn thứ 4 trong 10 Điều răn Đức Chúa Trời dạy ta phải: “Thảo kính cha mẹ”, vì cha mẹ TN 23-C159


Điều răn thứ 4 trong 10 Điều răn Đức Chúa Trời dạy ta phải: “Thảo kính cha mẹ”, vì cha mẹ là đấng sinh thành và cho chúng ta vào đời làm người. Hơn thế nữa, Sách Lêvi nói cha mẹ có uy lực đặc biệt giống như uy quyền của Thiên Chúa để dạy Đạo và luân thường đạo lý cho con cái để thành nhân và thành thánh nên “Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Lv 20,9). Vâng, người Việt nam chúng ta cũng rất coi trọng việc hiếu thảo với cha mẹ, vì “công cha nghĩa mẹ cao vời, làm con thảo kính trọn đời chớ quên”. Ấy vậy, hôm nay Chúa Giêsu bảo: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ (Tin Mừng Mác-cô nói là ghét bỏ) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. Mới nghe qua, ai trong chúng ta nhủ thầm rằng Lời Chúa hôm nay sao khó nghe quá, nghịch lý quá!

Trong tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn, kém, nhiều hơn, ít hơn… cho nên Chúa Giêsu dùng cụm từ dứt bỏ hay ghét bỏ, hàm ý là yêu hơn, tức là “Ai đến với Ta mà không yêu Ta hơn cha mẹ….”. Thử hỏi, Chúa Giêsu là ai, nhân danh cái gì, quyền lực nào mà bắt tôi phải yêu Người hơn cha mẹ. Chúa Giêsu dựa vào đâu mà dám mời gọi chúng ta quyết liệt như thế? Xin thưa, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Ngài dựa vào sức mạnh của chân lý, đó là Thiên Chúa cội nguồn mọi tạo dựng, Đấng thương xót mọi người nên ban phát mọi ơn lành, cứu chuộc và thánh hóa và làm cho con người sống viên mãn trong tình yêu thương của Chúa Ba Ngôi. Cho nên, Chúa Giêsu xác quyết “Ai đến với Tôi mà không yêu mến Tôi hơn cha mẹ….”. Vì sao? Vì “Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự để cứu chuộc mọi người” (Pl 2,6-8).

Rõ ràng, vì yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người và ban sự sống cho con người, còn Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn, vác thập giá và chịu chết để cho con người được nên thánh thiện và được sống dồi dào đời này và sống lại trong ngày sau hết. Còn cha mẹ chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh ra hình hài của ta và dưỡng dục ta nên người. Thiên Chúa mới chính là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch mọi ơn lành, là Đường, là Sự thật và là Sự sống cho chúng ta nên chúng ta phải yêu Chúa hơn cha mẹ là vậy, cho nên Chúa Giêsu nói: “Không có Thầy chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Vì vậy, Đức Cha Fulton Sheen nói rằng trong lịch sử thế giới nhiều vị sáng lập các Tôn giáo dạy điều hay lẽ phải, sự thật nhưng không có vị trong tôn giáo nào tự xưng mình là Đường, Sự thật, và Sự sống như Chúa Giêsu. Các ngài dạy chân lý, chứ không là chân lý, còn Chúa Giêsu là chân lý, là Thiên Chúa thực, yêu thương con người một cách chân thực nhất, cụ thể nhất. Đây là nét độc đáo và là niềm tin quyết liệt của Đạo Công giáo vì vậy Chúa Giêsu là trung tâm của niềm tin, lẽ sống của chúng ta.

Thiên Chúa là cội nguồn của tình yêu, vì vậy chúng ta là con cái của Chúa đương nhiên phải đặt tình yêu của Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu. Nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái bạn bè, tha nhân và ngay cả chính mình. Cho nên, là môn đệ của Người, chúng ta vẫn phải yêu mến người thân, mọi người hay ngay chính bản thân mình và cũng phải quí trọng của cải mình có vì tất cả ơn lành Chúa ban, nhưng tiên vàn phải yêu mến Chúa hết linh hồn, trí khôn, tức yêu mến và thờ phượng Chúa trong mọi sự. Chính vì thế, phải từ bỏ tất cả, là từ bỏ cái tôi tham sân si, cái tôi tội lỗi với chính mình và những người thân trong gia đình, hàng xóm… để không những đi theo Chúa, là môn đệ CHÚA và người Công giáo đích thực qua việc đồng hành, sẻ chia, yêu thương, tha thứ, phục vụ và hy sinh cho người mình yêu như Chúa.

Khách quan mà nói, lời mời gọi từ bỏ, yêu Chúa hơn mọi sự thật là ngược đời, khó chấp nhận và làm cho một số người khó chịu, không muốn theo dù biết Lời mời gọi của Chúa là đem lại sự an lành thánh thiện. Ngược lại, ở đời có những lời mời gọi dù biết nó sẽ dẫn tới chỗ tội lỗi, bệnh tật và bất an, và chết thảm nhưng con người vẫn theo. Lời tuyên bố ngược đời của Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi cuốn bao người từ xưa tới nay dấn thân sống cho lời mời gọi đó và đem lại hoa thơm trái tốt cho chính mình, gia đình, cho đời và cho Đạo Công giáo nữa: Cha Kolbe chọn chết thay cho bạn tù trong trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta…

Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu, đó mới là yêu Chúa hơn mọi sự và mọi người.

Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu: Yêu là trung thành, yêu là cho đi từ từ và mãi, cho đi cả mạng sống vì Chúa và tha nhân. Ước gì qua lời mời gọi của Chúa hôm nay, xin cho chúng ta sẵn sàng đáp trả lời gọi của Chúa bằng tình yêu dành cho Chúa hơn mọi sự cụ thể trong đời sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và xứng đáng là môn đệ đích thực của Chúa.

----------------------------------

 

TN 23-C160: Chúa Nhật 23 Thường Niên


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên TN 23-C160


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm chúng ta đôi phen hụt hẩng, làm đảo lộn mọi kỳ vọng của con người, làm thay đổi những mối quan hệ giữa người với người, tương đối hóa quan niệm của con người về thế giới.

Kn 9: 13-18

Đoạn trích sách Khôn Ngoan gợi lên những giới hạn của những hiểu biết phàm nhân. Với trí tuệ phàm nhân, con người vô phương dò thấu những ý định của Thiên Chúa, nhưng nhờ ánh sáng Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người mà con người mới có thể đạt được một sự hiểu biết sung mãn.

Plm 9b-10, 12-17

Trong thư gởi cho ông Phi-lê-mon, thánh Phao-lô đưa ra một lời khuyên thật cảm động, được gởi đến cho ông Phi-lê-mon. Thánh nhân thỉnh cầu ông hãy đón nhận người nô lệ trốn chạy khỏi nhà ông và nay đã trở thành Ki-tô hữu, như một người con ruột thịt của thánh nhân và như người anh em rất thân mến trong Đức Ki-tô.

Lc 14: 25-33

Tin Mừng tường thuật cho chúng ta giáo huấn của Đức Giêsu về những yêu sách mà Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài: muốn theo Ngài phải dành quyền ưu tiên cho Ngài, thậm chí trên mọi mối dây ràng buộc trần thế, kể cả những người thân yêu trong gia đình đi nữa.

BÀI ĐỌC I (Kn 9: 13-18)

Chúng ta không biết tác giả sách Khôn Ngoan là ai. Tác phẩm này đã được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái đạo hạnh thành A-lê-xan-ri-a. Tác giả muốn cảnh giác đồng bào của mình trước những sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp. Ông đổ hết tâm trí để nhắc lại những giá trị khôn sánh của sự khôn ngoan Do-thái giáo, gia sản của cha ông họ.

1. Phân đoạn:

Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai của sách Khôn Ngoan. Bằng hư cấu văn chương, tác giả để cho vua Sa-lô-môn, một vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất, ngỏ lời với độc giả. Chương 9 là lời cầu nguyện dài của vua, khai triển lời cầu nguyện mà sách Các Vua quyển thứ nhất đã trích dẫn một cách ngắn gọn (1V 3: 6-10), theo đó, vua Sa-lô-môn chỉ cầu xin Chúa ban cho mình được ơn khôn ngoan. Lời cầu nguyện của vua làm đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa chẳng những ban cho vua được ơn khôn ngoan mà còn được muôn vàn những ân phúc khác nữa.

Việc nêu lên lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon như vậy đã trở nên một đề tài kinh điển của các tác phẩm minh triết. Tác giả sách Khôn Ngoan đem lại cho lời cầu nguyện này những dấu ấn riêng nhằm đánh động những người đương thời của ông. Dưới những khía cạnh phi thời gian của sự khôn ngoan, sứ điệp trực tiếp nhắm đến một xã hội phàm trần vào thời đại của tác giả. Sứ điệp này vẫn giữ mãi giá trị trường tồn của nó.

2. Thành phố A-lê-xan-ri-a vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên:

Hơn hai thế kỷ qua, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô trí tuệ của thế giới thời xưa. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Tô-lê-mê (323-285 trước Công Nguyên) đã cho xây cất một Bảo Tàng Viện danh tiếng, tại đó quy tụ các nhà thông thái và những nhà nghiên cứu các môn học thời danh; họ có sẵn một thư viện bao la cũng như phòng thí nghiệm. Những tiến bộ đáng chú ý trong mọi lãnh vực: toán học, thiên văn học, y học, nhất là giải phẩu học, vật lý, địa lý. Về triết học, thành A-lê-xan-ri-a tiếp nối sự nghiệp của thành A-thê-na. Những hệ thống triết học đặt cạnh nhau và giải thích cho nhau. Về tôn giáo, những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp khẳng định điều này. Tóm lại, một thời kỳ huy hoàng nhất đối với trí tuệ con người, con người có thể tự hào về những chinh phục của mình.

3. Sự yếu đuối của lý trí phàm nhân:

Tác giả sách Khôn Ngoan phản ứng lại những quan điểm trên do từ quan niệm tôn giáo của ông về thế giới. Những hiểu biết phàm nhân, dù đáng chú ý đến mấy đi nữa, chẳng bao giờ hiểu được những ý định của Thiên Chúa:

“Lạy Chúa, nào ai biết được ý định của Thiên Chúa?
Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” (9: 13).

Câu hỏi này các văn sĩ Kinh Thánh thường đặt ra để nhắc nhớ tính siêu việt của Thiên Chúa, như Gióp: “Có phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa, và đã chiếm đoạt được khôn ngoan?” (G 15: 8) hay Giê-rê-mi-a: “Nhưng ai đã được họp bàn với Đức Chúa, để chứng kiến và nghe lời Người?” (Gr 23: 18) hoặc I-sai-a: “Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13). Tác giả sách Khôn Ngoan hỗ trợ đề tài này bằng một tư tưởng không kém phần chứng thực:

“Chúng con vốn là loài phải chết,
tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (9: 14).

Tiếp đó là một câu nhuốm màu sắc nhị nguyên của Platon: “Quả vậy, thân xác dể hư nát này khiến linh hồn ra nặng”, nhưng ngay tức khắc lại gắn bó với đề tài Kinh Thánh về con người: “cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.

Những suy tư tiếp theo sau có thể mang tính bút chiến; chúng xem ra làm giảm thiểu những nổ lực của các bậc thông thái trong việc giải thích những thực tại trần thế. Thêm nữa, những nổ lực này không thể nào dò thấu những thực tại thiên giới:

“Những gì thuộc hạ giới,
chúng con đã khó mà hình dung nổi,
những điều vừa tầm tay,
đã phải nhọc công mới khám phá được,
thì những gì thuộc thượng giới,
có ai dò thấu nổi hay chăng?” (9: 16).

4. Lý trí phàm nhân được sự khôn ngoan Thiên Chúa soi sáng:

Những hiểu biết phàm nhân chỉ được sung mãn nhờ Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người:

“Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,
chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan,
chẳng gởi thần khí thánh?” (9: 17).

 Vì là một tín đồ Do thái giáo, trung thành với Độc Thần Giáo tuyệt đối: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và chân thật là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, khó mà gợi lên trong tâm trí của tác giả một sự biệt phân giữa Đức Chúa và thần khí thánh của Người; nhưng đúng hơn, tác giả đồng hóa Đức Khôn Ngoan của Đức Chúa với thần trí của Người. Tuy nhiên, thật chính đáng để đọc thấy ở đây một sự linh cảm nào đó về sự khác nhau ở lòng cuộc sống nội tại của Thiên Chúa.

“Chính vì thế mà đường lối người phàm
được sửa lại cho thẳng,
cũng vì thế mà con người được dạy cho biết
những điều đẹp lòng Ngài,
và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (9: 18).

Ở đây ám chỉ đến Lề Luật, được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, kim chỉ nam cho những đức hạnh phàm nhân, con đường cứu độ.

Đoạn trích hôm nay vừa kết thúc lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và cũng là để chuyển sang phần thứ ba của sách: suy tư về sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang hoạt động trong Lịch Sử.

BÀI ĐỌC II (Plm 9b-10, 12-17)

Thư gởi cho ông Phi-lê-mon, tuy ngắn nhất trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng rất độc đáo vì những tâm tình tinh tế được diễn tả ở đây và những tấm lòng được biến đổi dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo thật là cảm động mà bức thư này làm chứng.

1. Lý do thánh nhân viết bức thư này:

Vào lúc đó, thánh Phao-lô đang bị giam cầm ở Rô-ma, chắc hẳn vào những năm 62-63. Thánh nhân đang đối mặt với một vấn đề không đơn giản một chút nào. Ông Phi-lê-mon là một Ki-tô hữu Cô-lô-xê; chắc chắn là một nhân vật khá giả, vì cộng đồng Ki-tô hữu tụ họp ở tại nhà ông. Ông có một người nô lệ tên là “Ô-nê-xi-mô”. Người nô lệ này đã trốn chạy khỏi nhà ông và lấy trộm của chủ một số đồ đạc, như thánh nhân đã viết trong thư: “Nếu anh ấy đã làm thiệt hại anh hay mắc nợ anh điều gì thì xin để tôi nhận cả”. Để tránh khỏi những cuộc truy tìm và những hình phạt mà anh có thể phải chịu, anh Ô-nê-xi-mô đã chạy đến được Rô-ma, vì anh hy vọng mình có thể dễ dàng lẫn trốn vào đám đông trong các đường phố tại kinh đô rộng lớn này.

Người nô lệ này biết rất rõ những người Ki-tô hữu vì anh đã thấy họ thường xuyên tụ họp tại nhà của chủ mình. Phải chăng đó là lý do thúc đẩy anh chạy đến Rô-ma để gặp thánh Phao-lô? Bức thư không nói cho chúng ta biết lý do. Dù sao thánh Phao-lô đã rửa tội cho anh và quý mến anh. Trong thời gian ở với thánh Phao-lô, anh Ô-nê-xi-mô đã trở nên một người hữu ích đến nỗi thánh nhân muốn giữ anh lại bên cạnh mình. Tuy nhiên, thánh nhân không thể, vì sợ vi phạm quyền lợi của ông Phi-lê-mon, chủ của anh. Vì thế, thánh nhân quyết định gởi anh Ô-nê-xi-mô trở về cho chủ của anh, ông Phi-lê-mon, kèm theo bức thư do tự tay thánh nhân viết.

Không ai biết rõ hơn thánh nhân rằng người nô lệ đào thoát này trở về nhà chủ có thể gặp phải những nguy hiểm như thế nào. Như chúng ta biết thân phận của người nô lệ vào thời đó, người nô lệ không được đối xử như một con người nhưng như một dụng cụ sống trong bàn tay của chủ, tùy ý chủ sử dụng. Trong trường hợp một nô lệ trốn chủ, anh sẽ bị đóng dấu bằng thỏi sắt nung đỏ mang hình chữ viết tắt Đào Tẩu và chịu hình phạt tùy theo ý chủ.

Với sự tế nhị, thánh nhân thỉnh cầu ông Phi-lê-mon hai cử chỉ khác thường: khoan hồng cho phạm nhân và nhận lại người này không phải trong tư thế của người nô lệ nhưng như người ruột thịt của thánh nhân và như một người anh em thân mến trong Đức Ki-tô.

Một sự gợi ý thật tinh tế, một lời mời gọi thật kín đáo, một lời thỉnh cầu mà không đòi buộc. Đoạn trích này thuộc phần trung tâm của bức thư.

2. “Tôi, một người đã già và đang bị tù vì Đức Ki-tô”:

Thánh Phao-lô thử đặt tất cả danh dự của con người ngài vào lời thỉnh cầu của mình cho người nô lệ này: thánh nhân nhắc lại rằng ngài đã già (vào thời đó, 50-55 tuổi được xem là già) và đang bị cầm tù, và chính trong cảnh giam cầm này mà thánh nhân rửa tội cho anh: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích”.

3. “Tôi xin gởi nó về cho anh”:

Thánh Phao-lô muốn mọi việc đều rõ ràng. Anh Ô-nê-xi-mô thuộc quyền của ông Phi-lê-mon. Thật ra thánh nhân biết rằng nếu ngài ngỏ lời với ông Phi-lê-mon, chắc chắn bạn của mình sẵn lòng để anh Ô-nê-xi-mô ở lại với thánh nhân để phục vụ thánh nhân trong cảnh xiềng xích. Như vậy, khi gởi anh Ô-ne-xi-mô trở về chủ của mình, thánh nhân xem trọng tính cách vô vị lợi của tình bạn.

4. Như một người ruột thịt của thánh nhân:

Nhưng thánh nhân nhấn mạnh tình phụ tử tinh thần của ngài vì đã có một thay đổi sâu xa: anh Ô-nê-xi-mô đã trở thành Ki-tô hữu. Thánh nhân thương mến anh như đứa con ruột thịt mà thánh nhân đã mang nặng đẻ đau trong cảnh xiềng xích. Phải chăng thánh nhân muốn ông Phi-lê-mon cũng sẽ chia sẻ với thánh nhân những tâm tình như thế?

Thánh nhân khuyên ông Phi-lê-mon nên tha thứ cho anh Ô-nê-xi-mô, dù không nói trắng ra nhưng chỉ gợi ý: “Tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không tự nguyện”.

5. Như một người anh em rất thân mến:

Thánh nhân nhắc cho ông Phi-lê-mon rằng việc anh Ô-nê-xi-mô trốn chủ phải được xem như một thiên ân: vì ông Phi-lê-mon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”. Với chỉ vài lời này thôi cũng đủ để diễn tả cuộc cách mạng mà Ki-tô giáo đem đến cho những mối quan hệ giữa người với người.

Quả thật, sau này thánh nhân đã viết: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, , nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3: 28; Cl 3: 14). Biểu thức này không muốn nói rằng từ nay không còn phân biệt chủng tộc, phái tính, chủ tớ, nhưng những phân biệt này chẳng còn có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Từ nay, sự biến đổi nội tâm mới là đáng kể, nó làm đảo lộn thậm chí những thân phận bên ngoài, đến độ ở nơi khác, thánh nhân mạnh dạn phát biểu: “Người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô” (1Cr 7: 22).

6. Gấp bội mối liên hệ:

Ông Phi-lê-mon được lại anh Ô-nê-xi-mô như một người anh em “cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa”, nghĩa là cả trong sự phục vụ của anh cũng như trong những mối liên hệ của anh giữa người Ki-tô hữu với người Ki-tô hữu. Chắc hẳn thánh nhân muốn nói rằng việc ông Phi-lê-mon tha thứ sẽ thiết lập nên một mối liên hệ đặc biệt giữa chủ và nô lệ.

Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên tinh tế sau cùng: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Ông Phi-lê-mon và thánh Phao-lô là anh em trong đức tin. Tình huynh đệ này phải trải rộng đến người nô lệ, người anh em khác này. Đó là sự “hiệp thông” của các chi thể Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 14: 25-33)

Các sách Tin Mừng, đặc biệt sách Tin Mừng Lu-ca, tường thuật muôn vàn những lời khuyên của Đức Giêsu về việc từ bỏ: từ bỏ chính mình, từ bỏ của cải, đoạn tuyệt với sự giàu sang phú quý, vân vân. Nhưng chưa bao giờ Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ Ngài xa đến mức phải hy sinh thậm chí ngay cả những tình cảm cao quý và chính đáng nhất.

Quả thật, Đức Giêsu không nghĩ phải hủy bỏ huấn lệnh yêu người mà Ngài đã công bố ngang bằng với huấn lệnh mến Chúa; nhưng Ngài ấn định theo cấp bậc hai bổn phận: “mến Chúa” và “yêu người”. Lời của Ngài đã vang lên bên tai các môn đệ Ngài, những người đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài. Những môn đệ đầu tiên, Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, đã là mẫu gương, thậm chí Gia-cô-bê và Gioan đã để lại cha già mình là ông Dê-bê-đê mà họ có bổn phận chu toàn đạo hiếu, phụng dưỡng hằng ngày.

Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dù cứng rắn đến mấy đi nữa, tương ứng với thực tại và vang vọng xuyên suốt lịch sử Giáo Hội. Thánh Lu-ca, vốn bận lòng về Giáo Hội, nghĩ trước tiên đến Giáo Hội truyền giáo, nhưng cũng đến Giáo Hội của đời sống tu trì mà lý tưởng các tu viện sẽ nối tiếp.

1. Mến Chúa trên hết mọi sự:

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi yêu mến Người đến tuyệt mức như vậy. Khi đòi hỏi phải yêu mến Ngài đến tuyệt mức tương tự, Đức Giêsu nhận về mình những đặc quyền của Thiên Chúa; Ngài ngầm khẳng định sự duy nhất của Ngài với Chúa Cha. Ngài đòi hỏi một tình yêu tối thượng phải vượt lên trên mọi tình yêu khác.

Thánh Mát-thêu cũng nêu lên tính tận căn của những đòi hỏi của Đức Giêsu: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37), nhưng thánh Lu-ca đưa ra một danh sách đầy đủ hơn về những người mà tình cảm dành cho họ phải được đặt vào hàng thứ hai: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thậm chí cả mạng sống mình.

2. Để là môn đệ Đức Ki-tô:

Cử chỉ này của Đức Giêsu: “Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”, được thánh Lu-ca ghi nhận nhiều lần. Đức Giêsu luôn luôn dẫn đầu, Ngài là Thầy, người dẫn đường; còn các môn đệ là những người bước theo Ngài. Khi Đức Giêsu quay lại, Ngài ngỏ lời với đám đông hiện diện, nhưng bên kia đám đông này, với đám đông môn đệ tương lai. Tuy nhiên, cử chỉ của Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng sứ điệp mà Ngài sắp công bố thật là quan trọng.

Lời mời gọi mở đầu của Đức Giêsu gởi đến đám đông đang theo Ngài: “Ai đến với tôi…”, là biểu thức Cựu Ước được gặp thấy ở nơi lời công bố Lề Luật. Trong Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, biểu thức này được phát biểu: “Nếu ngươi…” (Xh 20: 22tt; 21: 2-17). Như vậy, đây là quy luật sống mà Đức Giêsu long trọng công bố, như xưa kia ông Mô-sê đã ngỏ lời như vậy với toàn thể dân Ít-ra-en.

Những yêu sách được trình bày dưới hình thức phủ định: “Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở nơi khác, biểu thức này được diễn tả dưới hình thức khẳng định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Các tác giả Tin Mừng đều sử dụng diễn ngữ “vác thập giá”, thậm chí trước khi Đức Giêsu nói rõ rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập giá vào lần loan báo thứ ba về cuộc Khổ Nạn của Ngài (x. Mt 20: 19). Nhưng các sách Tin Mừng được biên soạn dưới ánh sáng của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, vì thế diễn ngữ này gợi lên ở nơi các tín hữu tiên khởi còn khủng khiếp hơn. Các môn đệ phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, chấp nhận bước đi trên con đường đau khổ, thậm chí cho đến mức phải hy sinh cả tính mạng của mình.

3. Phải suy nghĩ cho thật nghiêm túc:

Tiếp đó là hai dụ ngôn về việc xây tháp và việc một vị vua muốn xuất quân đi giao chiến, cả hai dụ ngôn này đều có chung một tư tưởng trong mối liên kết với những đòi hỏi của Đức Giêsu. Để là môn đệ Đức Giêsu, phải dấn thân trọn vẹn, phải yêu mến Ngài tuyệt mức. Như vậy, trước khi quyết định theo Ngài, trở thành môn đệ của Ngài, phải ngồi lại mà tính toán cho thật nghiêm túc, định liệu sức mình có thể theo đuổi cho đến cùng không, chứ không quyết định trong giây phút bốc đồng kẻo lỡ đường đứt gánh.

Tuy nhiên, vài nhà chú giải tự hỏi phải chăng Đức Giêsu đã công bố hai dụ ngôn này ở đây chứ không vào những hoàn cảnh khác. Bởi vì việc dấn thân theo Đức Giêsu, gắn bó với Ngài, phải phát xuất từ sựu bùng phát của một con tim bốc lửa chứ không từ những tính toán đắn đo hơn thiệt của lý trí. Ấy vậy, hai dụ ngôn này hoàn toàn thiếu vắng niềm hưng phấn của tình yêu nồng cháy này. Vì thế, kết luận mà từ đó Đức Giêsu rút ra: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”, khó định vị vào cái lô-gích của hai dụ ngôn này, nhưng đúng hơn tiếp nối giáo huấn về những đòi hỏi của người môn đệ ở trong những câu đầu tiên: Đức Giêsu đưa ra một mẫu gương, Ngài bước đi về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Ngài sẽ chịu chết mình trần thân trụi, chơ vơ một mình trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15: 34).

---------------------------------

 

TN 23-C161: Người môn đệ “chất lượng cao”


(Suy niệm của Anphong Nguyễn Công Minh, OFM. - theo gợi ý từ Lm Ngọc Hàm và Lm Hữu An)

 

Gần đây ở Việt Nam rộ lên phong trào “chất lượng cao”, từ sản phẩm và dịch vụ trên thị trường TN 23-C161


Gần đây ở Việt Nam rộ lên phong trào “chất lượng cao”, từ sản phẩm và dịch vụ trên thị trường nội địa cho đến các mặt hàng xuất khẩu, lan qua cả các khu vực tinh thần là giáo dục và văn hoá. Nào là “xe chất lượng cao”, “khách sạn chất lượng cao” “phở chất lượng cao”,“lớp Anh ngữ chất lượng cao.” Loại bỏ ý nghĩa dư luận đàm tiếu về chất lượng cao, nhất là xe chất lượng cao (được đọc trệch là “xe chất thật cao,” “hàng chất thật cao”…), ta thấy cuộc sống ngày càng đòi hỏi phải có chất lượng cao. Từ sản phẩm, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục… cho đến con người cần đạt chất lượng và có giá trị.

Có thể dùng cụm từ “chất lượng cao” (*) để suy niệm bài Tin mừng hôm nay.

Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ “chất lượng cao” với hai đòi hỏi: từ bỏ và vác thập giá, trong đó đòi hỏi từ bỏ thật hết nước nói: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Và cuối cùng, sau khi kể hai ví dụ về “người xây tháp” và “vua gây chiến” (một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không), Chúa lại kết bằng một câu: Vậy ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, thì không đáng làm môn đệ ta, một người môn đệ “chất lượng cao.”

Vậy là trong một đoạn ngắn, mà có tới ba lần điệp khúc “không thể làm môn đệ tôi”: 2 lần cho từ bỏ, và 1 lần cho vác thánh giá.

Ta chỉ dừng lại điều kiện “từ bỏ,” vì một nghĩa nào đó, từ bỏ cũng là một cách vác thập giá chứ chẳng chơi!

Ta đề cập tới “từ bỏ” để làm người môn đệ chất lượng cao, là bởi vì những gì mà Chúa đòi từ bỏ quả là oái ăm, nếu không nói là bất hiếu, vô lý, và vô nghĩa. “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông Phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn nói rằng không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu mà chúng ta phải có đối với Ngài được. Có một chân lý nổi bật trong đoạn này:

Có thể là người theo Chúa Giê-su mà vẫn không phải là môn đệ của Ngài; có thể là kẻ theo trại quân mà vẫn không phải lính của vua; có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh niên rằng: "Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông." Vị giáo sư thẳng thắn trả lời: "Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không phải là một trong số các học trò của tôi." Có sự khác biệt giữa một người trong lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn đệ Chúa.

Những lời Chúa phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả (mà ta mừng lễ hôm 3-9 mới đây) giải thích câu "khó nghe" này, ngài viết: "Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa." Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.

Năm 1960, Gale Sayer là cầu thủ bóng chày chạy nhanh nhất của đội banh Chicago Bear, nhưng trên cổ anh luôn mang một mề đai ghi hàng chữ, “tôi ở hạng ba.” Đó cũng là tựa đề cuốn tiểu sử của anh, bán khá chạy. Trong đó anh giải thích tại sao anh chọn câu đó làm lẽ sống, vì đối với anh: Chúa là hạng nhất, tha nhân hạng nhì, còn anh hạng ba. Và anh quyết định, hằng ngày anh cố sống câu đó. Không hẳn lúc nào cũng thành công, nhưng nó giúp anh không đi trệch đường.

Chúa là trên hết, Chúa là hạng nhất, là ưu tiên một, tha nhân là ưu tiên hai, bản thân là hạng ba. Nếu cả hạng hai và hạng ba trợ giúp tôi để tiến tới Chúa là hạng nhất, thì có cớ gì phải bỏ. Nếu nó là vật cản, sẵn sàng từ bỏ để theo tiếng gọi của Chúa: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

Hẳn chúng ta cũng đã từng được nghe chuyện các vị thánh, và cả các vị “thường” muốn theo Chúa, mà mẹ cha cản ngăn, nên đã thà bất hiếu mà trở thành môn đệ chất lượng cao của Chúa. Chúa dùng thẳng chữ “ghét.”

Nhưng cũng rất nhiều, và chắc chắn nhiều hơn trường hợp trên, mẹ cha, anh em là đà đẩy, -chứ không phải kỳ đà cản mũi- đà đẩy đưa mình đi theo tiếng Chúa gọi. Lúc đó cha mẹ anh em là trợ lực, chứ chẳng phải trở lực. Những  trường hợp đó thì đâu cần ghét mẹ cha, mà là thương, vì mẹ cha, người thân là bậc cho mình bước lên đi đến với Chúa với tư cách là người môn đệ chất lượng cao.

Trong tác phẩm  “Người nghèo của Thiên Chúa,” Nikos Kazanzakis đã dệt nên mẩu chuyện này về Phanxicô:

Một bạn học từ thủa thanh xuân đi về làng quê, tình cờ gặp lại Phanxicô trong vóc dáng bơ phờ tả tơi. Anh nhận mãi mới ra bạn xưa, nên chạy tới ôm chồm Phanxicô và hỏi:

- Ai khiến anh ra nông nổi này?
- Chúa đã làm giúp tôi
- Bao nhiêu đồ sang trọng của anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh thủa nào, sao mất hết rồi, cả cái nhẫn kim cương nữa, sao không thấy?
- Satan cho tôi, tôi trả lại nó rồi
Người bạn dang xa, nhìn kỹ Phanxicô hào hoa xưa, nay như thế, mũ không, giày dép cũng không, nên rơi lệ hỏi:
- Bạn, bạn từ đâu đến vậy?
- Từ một thế giới khác!

Môn đệ chất lượng cao phải vất bỏ hết như thế đó. Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp, sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón tiếp chúng ta, nếu chúng ta muốn làm môn đệ chất lượng cao của Chúa tối cao.
-----------------
(*) thực ra phải nói là “phẩm chất cao” vì “lượng” thì cân đo đong đếm được. Không thể dùng “lượng” để chỉ “phẩm” là cái không cân đo đong đếm được. “Chất lượng cao” là kiểu nói thô thiển, nhưng vì quá quen, nên tạm dùng.

-------------------------------------

 

TN 23-C162: Từ bỏ là quy luật sinh tồn


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Phấn đấu để tăng thêm thu nhập, để vơ vét thật nhiều, để có thêm địa vị, công danh… là những TN 23-C162


Phấn đấu để tăng thêm thu nhập, để vơ vét thật nhiều, để có thêm địa vị, công danh… là những quan tâm hàng đầu của nhiều người trong xã hội.

Thế mà qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi những ai theo Ngài, thay vì tìm mọi cách thu vào như bao người khác, thì hãy bỏ ra, hãy từ bỏ những gì mình có để dấn thân phục vụ. Ngài dạy: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27).

Lời Chúa xem ra ngược đời, rất khó chấp nhận.

Nhưng thử hỏi: Sự từ bỏ như Chúa Giêsu mời gọi có mang lại lợi ích gì không?

Mùa thu về, cây trụi lá; mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi. Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên.

Cây nho phải chịu cắt bỏ nhiều cành nhánh tốt tươi, mới có thể nẩy ra nhiều chồi lộc non và sinh hoa kết trái. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên... Nói chung, từ bỏ là quy luật sinh tồn, là điều kiện tối cần để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.

Con người là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.

Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!

Trong mọi lãnh vực, muốn đạt tới những thành công tốt đẹp thì người ta cần phải từ bỏ không ngừng: Người lao động phải đổ nhiều mồ hôi, phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ mới kiếm đủ tiền cấp dưỡng cho bản thân và gia đình. Người lính chiến phải chấp nhận hy sinh thân mình mới bảo vệ được quê hương. Học sinh phải từ bỏ nhiều giờ vui chơi giải trí, giảm bớt giờ ngủ nghỉ để miệt mài đèn sách thì mới có cơ may bước vào đại học. Các nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kiên trì mới có cơ may phát minh và sáng chế…

Muốn làm ăn lên, phải đầu tư bỏ vốn; muốn thu vào, phải phát ra. Ai không phát ra, không từ bỏ, thì không thể thu vào được điều gì đáng giá. Đó là quy luật của cuộc đời.

Hôm nay, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta từ bỏ những gì?

Hiện nay, Chúa Giêsu chưa kêu mời số đông trong chúng ta từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng vì Chúa và vì Nước Trời đâu, Ngài chỉ mời chúng ta từ bỏ những điều nho nhỏ trước.

Khi có người đau yếu, Chúa mời chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để viếng thăm, chăm sóc, chúng ta có đáp ứng không?

Khi có người lâm cơn túng thiếu, hoạn nạn, Chúa kêu mời chúng ta hãy chia sớt tiền bạc và hy sinh thời giờ, công sức để cứu giúp, chúng ta có chấp nhận không?

Khi có người làm buồn lòng ta, làm tổn thương tự ái của ta, Chúa kêu mời chúng ta từ bỏ oán hận để cảm thông tha thứ, chúng ta có sẵn sàng không?

Thông thường hơn, mỗi tối, Chúa mời chúng ta từ bỏ giờ xem phim hay nghe ca nhạc trên các kênh truyền hình để dành ra mươi phút đọc kinh gia đình thờ phượng tạ ơn Chúa, chúng ta có từ bỏ được không?

Nếu chúng ta chưa từ bỏ mình để thực hành những điều tương tự như trên, chúng ta không xứng đáng là môn đệ Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa phán rằng: “Ai nâng niu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ được mạng sống”(Mt 10, 39).

Xin cho chúng con chấp nhận hy sinh thời giờ, tiền của, công sức, khả năng… Chúa ban để cứu giúp người hoạn nạn, cứu chữa người đau yếu, đem lại an vui và hạnh phúc cho những người đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng con được Chúa nhìn nhận là người môn đệ chính danh của Chúa.

-------------------------------

 

TN 23-C163: Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng


TỪ BỎ MỌI SỰ THEO ĐỨC KITÔ, SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Tin Mừng Lc 14: 25-33 Theo Đức Kitô là đi theo tiếng gọi của tình yêu, Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu hãy xem lại mối tương quan của mình với Đức Kitô. Chúng ta có thật sự theo Người vì yêu hay không?

 

Nếu có ai đó khẳng định rằng Kitô hữu chúng ta không xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu thì TN 23-C163


Nếu có ai đó khẳng định rằng Kitô hữu chúng ta không xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu thì chắc hẳn chúng ta sẽ hết sức biện minh cho mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy xem ra chúng ta nghe Lời Chúa thì dễ nhưng thực thi thì khó. Chúng ta còn ở rất xa trên con đường bước theo Đức Giêsu Kitô, nhất là từ bỏ mọi sự vác thập giá mình theo Người lại càng khó khăn gấp bội. Theo như Chúa Giêsu: ai không từ bỏ và không vác thập giá thì không xứng đáng là môn đệ của Người, thì hẳn nhiên chúng ta phải coi lại chính mình: chúng ta, những Kitô hữu hôm nay có xứng đáng là môn đệ cuả Đức Kitô không?

I. Tìm Hiểu Lời Chúa:

Từ bỏ mọi sự theo Đức Kitô

Nhiều người mến mộ theo Đức Kitô, nhưng không phải ai cũng trở thành môn đệ của Người. Muốn là môn đệ của Người phải theo Người, phải tuôn thủ những đòi hỏi tình yêu rất khắt khe. Yêu Người trên hết mọi sự đựơc diễn tả cụ thể qua việc từ bỏ.

Có lẽ những yêu sách của Chúa Giêsu xem ra thật khó hiểu và cả mâu thuẫn nữa. Người đòi hỏi quá xa, để theo Người phải từ bỏ mọi sự, ngay cả mối dây thiêng liêng cao quí trong tình cảm con người là mối dây gia đình, vợ chồng.

Chúa Giêsu rao giảng tình yêu chứ không phải hận thù. Những đòi hỏi của Người không nhằm phế bỏ điều răn thứ tư hay huỷ bỏ hôn nhân. Người đòi hỏi ai muốn theo Người phải yêu Người hơn tất cả. Văn chương Sêmít, hay ngôn ngữ Hy_bá diễn tả ý niệm 'thích hơn' bằng lối văn đối ngẫu: 'yêu – ghét'. Ví dụ thay vì nói: Thiên Chúa thích Giacóp hơn Esau, tiếng Hy Bá nói: Thiên Chúa thương Giacóp và ghét Êsau (Ml 1,2-3). Trong ngôn ngữ Sêmít ghét đồng nghĩa với hờ hững, xếp vào hàng thứ yếu. Như thế, chúng ta có thể hiểu lời của Chúa như sau: Nếu ai đến với Ta mà yêu cha mẹ, yêu bản thân, yêu của cải hơn Ta thì không thể làm môn đệ của Ta.

Những đòi hỏi của Chúa Giêsu là những đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Vì thế, đi theo Người lòng hăng say chưa đủ, mà còn phải biết từ bỏ, từ bỏ tận căn ngay cả những gì xem ra là rất cần thiết cho cuộc sống vì tình yêu dành cho Người. Do đó, cần phải suy nghĩ chín chắn cẩn thận trước khi quyết định dấn thân theo Người, như Người dạy qua hai dụ ngôn người xây tháp và vị vua chuẩn bị ra trận.

II. Gợi ý Suy Niệm

1. Theo Đức Kitô là đi theo tiếng gọi của tình yêu:

Đức Kitô rao giảng tình yêu, Người sống trọn vẹn tình yêu Người rao giảng. Cho nên, Người mời gọi những ai muốn theo Người phải biết sống tình yêu, một tình yêu trọn vẹn dành cho Người, yêu Người hơn tất cả. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh "ghét" có nghĩa là "yêu ít hơn" hay chỉ là hàng thứ yếu, phụ thuộc. Đức Kitô đòi hỏi những ai theo Người thì phải coi những đối tượng khác cho dù đó là cha mẹ, vơ chồng đi nữa thì cũng chỉ là thứ yếu so với Người. Vì thế, theo Chúa cần phải có con tim yêu mến Người thực sự. Theo Người đích thực là đi theo tiếng gọi của tình yêu. Trong cuộc sống tình cảm của con nguời, một khi đã yêu mến, đam mê ai đó hay điều gì thì người đó, điều đó trở nên quan trọng nhất, được ưu tiên nhất so với những gì khác. Như thanh niên nam nữ một khi đã yêu nhau thực sự và đi đến hôn nhân thì họ cũng sẵn sàng từ bỏ cha mẹ để đến với nhau, thuộc trọn về nhau. Lúc ấy chỉ có đối tượng của mình là nhất, là trên hết. Với Đức Kitô cũng thế, theo Người đòi hỏi phải yêu mến Người trên hết mọi sự, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn.

Theo Đức Kitô là đi theo tiếng gọi của tình yêu, Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu hãy xem lại mối tương quan của mình với Đức Kitô. Chúng ta có thật sự theo Người vì yêu hay không? Tình yêu dành cho Người không dựa trên cảm xúc tình cảm đơn thuần mà là việc nỗ lực sống và thực thi Lời Người; can đảm trung thành với đức tin trước những khó khăn thử thách trong cuộc sống.

2. Theo Đức Kitô là quyết định dấn thân trọn vẹn:

Theo Đức Kitô phải đi theo những đòi hỏi của một tình yêu mạnh mẽ, một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Đã theo thì phải theo cho đến cùng, quyết tâm dấn thân trọn vẹn. Việc này không đơn giản là chuyện hình thức kinh kẹ tối sớm, lễ lạt hàng ngày mà liên quan đến toàn vẹn cuộc sống mỗi người. Theo Đức Kitô là một chuyện nghiêm túc cả đời người, phải biết để tâm lưu ý và cân nhắc kỹ lưỡng; phải biết khôn ngoan chọn lựa; không thể làm một cách nửa vời, hời hợt. Hai dụ ngôn Chúa Giêsu dạy: người xây tháp và vị vua chuẩn bị ra trận cho thấy tính nghiêm túc của vấn đề. Kitô hữu phải nghiêm túc và thực hành những đòi hỏi luân lý của Chúa; phải luôn nỗ lực phấn đấu không ngừng; phải kiên trì trung thành với đức tin, nếu không, một cám dỗ nhỏ của ma quỉ, xác thịt và thế gian cũng đủ làm lung lay và s a ngã bỏ Chúa.

Hành trình theo Đức Kitô không đơn giản vì phải đối diện với nhiều thử thách và cám dỗ, do đó, Kitô hữu phải biết khiêm tốn cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Không Chúa không thể làm đựơc gì, nhưng có Người thì mọi sự đều có thể làm được.

3. Theo Đức Kitô là hành trình từ bỏ mình để nên giống Người:

Chúa Giêsu khẳng định: nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình thì không phải là môn đệ Ta. Từ bỏ theo Chúa không chỉ là từ bỏ những gì mình có, những gì ở bên ngoài mình mà từ bỏ những gì thiết thân nhất, tình cảm nhất, sâu xa nhất và hơn hết là phải từ bỏ chính mình. Một đòi hỏi xem ra qúa đáng? Việc từ bỏ này không phải là việc có thể làm một lần là xong, quyết định một lần là đủ. Nó đòi hỏi phải liên tục cả cuộc đời và chắc chắn cũng để lại không ít đau khổ, dằn vặt trong tâm khảm. Từ bỏ là cả một hành trình dài xuyên suốt cuộc đời mỗi Kitô hữu. Từ bỏ luôn là mất mát, mất những gì mình có, những gì mình sở hữu, thế nhưng, lại nhận được rất nhiều từ nơi Thiên Chúa, nhận đựơc tình yêu, hạnh phúc và sự sống viên mãn. Ai từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh thầy sẽ được gấp trăm và sự sống đời đời (Mt19, 29). Hành trình từ bỏ theo Đức Kitô làm cho mỗi người mỗi ngày trở nên giống Người hơn, trở nên biết yêu Người hơn.

Từ bỏ trong thực tế cuộc sống Kitô hữu ngày nay rất là khó khăn, đòi hỏi phải nỗ lực rất nhiều. Mỗi người cần phải biết can đảm, biết đón nhận ơn Chúa và phải thực lòng yêu Chúa mới có thể làm được.

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi theo tiếng gọi tình yêu của Người. Trong niền tin tưởng yêu mến Chúa chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh nhất là hàng giáo sĩ và tu sĩ luôn biết nỗ lực sống trung thành với ơn gọi của mình qua việc can đảm từ bỏ danh vọng, quyền lực và ý riêng của mình để trung thành phục vụ Chúa và Hội Thánh trong bậc sống của mình.

2. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết quên mình phụng sự dân nước để mọi người dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm no và hạnh phúc; hoà bình và công lý.

3. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, là những Kitô hữu được mời gọi làm môn đệ của Đức Kitô. Xin Chúa ban ơn giúp sức để ai nấy đều trung thành với ơn gọi Kitô hữu; biết sống và thực thi giới răn yêu thương của Chúa.

* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã chọn gọi chúng con làm môn đệ của Chúa Giêsu, Con Một yếu dấu của Chúa. Xin cho chúng con luôn được đây đủ ơn Chúa để trung thành sống ơn gọi Kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

----------------------------

 

TN 23-C164: Môn đệ Tôi


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)  

 

Các nhà lãnh đạo các dân cần có số đông ủng hộ họ, thực hiện các chương trình xã hội, kinh tế TN 23-C164


Các nhà lãnh đạo các dân cần có số đông ủng hộ họ, thực hiện các chương trình xã hội, kinh tế… giúp họ đạt đến mục tiêu họ đề ra. Họ kêu gọi mọi người và đưa ra những điều kiện cần thiết để thống nhất hoạt động. Những người theo một lãnh đạo nào đó, là những người phục vụ cho vị lãnh đạo để được hưởng một số quyền lợi nào đó.

Chúa Giêsu cũng kêu gọi mọi người theo Ngài, không phải để ủng hộ và phục vụ quyền lợi của Ngài, mà ngược lại, để nhờ Ngài mà được sống đời đời, đạt được hạnh phúc Ngài dành cho họ.

Theo Ngài vì Ngài chính là hạnh phúc và lẽ sống của chúng ta. Không có Ngài, cuộc sống trần gian này chỉ là những ngày tháng vô vị, chẳng đưa đến một kết quả nào đáng kể, có chăng là những lợi lộc trần gian, và luôn là cực nhọc, đau khổ, bệnh tật và cái chết kết thúc tất cả.

Chúa Giêsu là “đường, là sự thật và là sự sống”. Theo Ngài, chúng ta sẽ được sống và được sống dồi dào. Sự sống trần gian chỉ tạm bợ, ngắn ngủi, sự sống Ngài đem lại là sự sống thật, sự sống sung mãn trong tình yêu của Ngài.

Nếu ai hỏi chúng ta sống để làm gì? Chúng ta sẽ trả lời sao?

Nhiều người sẽ không thể trả lời được câu hỏi này vì chính họ không biết sống để làm gì. Đối với họ, sống là để tìm thỏa mãn những nhu cầu của bản thân, để hưởng thụ và sau cùng chết là hết. Cuộc đời của họ chỉ là để truy tìm vật chất, tiền bạc, để hưởng thụ càng nhiều càng tốt.

Có những người biết sống là để tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc của họ chỉ là vật chất. Họ không tìm được hạnh phúc thật và họ háo hức đi tìm một thứ hạnh phúc có thể giúp họ thỏa mãn khát vọng của tâm hồn, nhưng họ vẫn thất vọng. Thi sĩ Pháp, ông Stéphane Mallarmé nói: “Con người mãi mãi là thất vọng”.
Chúng ta cũng tìm hạnh phúc như mọi người, nhưng hạnh phúc của chúng ta là Chúa Giêsu.

Mặc dù chúng ta phải đối mặt với tất cả gánh nặng của cuộc sống, nhưng chúng ta biết, chúng ta đang đi về đâu và biết mình tin vào ai.

Lời kêu gọi của Chúa, chúng ta đã chấp nhận. Chỉ có Ngài mới là lẽ sống cho chúng ta, nhưng những điều kiện của Ngài có quá khó không? Có vượt những khả năng yếu kém của chúng ta không: “Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, anh em chị em… thì không thể làm môn đệ Ta”.

Chắc là rất khó, vì chúng ta yếu đuối, chúng ta có quá nhiều nhu cầu vật chất, chúng ta cần cha mẹ, anh em để sống, vì mạng sống chúng ta không thể tìm lại lần thứ hai. Làm sao có thể bỏ được những gì mà chúng ta cảm thấy cần thiết?

Thế nhưng Chúa vẫn khẳng định: “nếu không từ bỏ cha mẹ anh em…, những thứ cần thiết đó, sẽ không xứng đáng làm môn đệ Ngài”.

Chúng ta có quyền chọn lựa: Ngài hay thế gian.

Từ bỏ mọi sự để thong dong theo Ngài, có lẽ còn có thể chấp nhận được, nhưng Ngài còn đòi buộc đến tối đa “vác thập giá”, nghĩa là phải chịu án tử hình để theo Ngài thì mấy ai dám theo Ngài?

Từ bỏ ở đây có nghĩa là không quá quyến luyến, nhưng cũng là một điều vượt sức mọn của chúng ta.

Chúng ta dám không?

Nhiều người tưởng rằng, làm môn đệ của Ngài tức là giữ đạo thì cũng chỉ có bấy nhiêu việc phải làm thôi: cầu nguyện, dự lễ, xưng tội và giữ luật là đủ. Tôi không phạm tội gì nặng, không cướp của giết người là tốt lắm rồi, cần chi phải bỏ mọi sự? Chúng ta nhớ chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa: “Con phải làm gì để được sống đời đời? Ngài trả lời: “Hãy giữ Luật Chúa” Thanh niên đáp: “Con đã giữ từ nhỏ”. Ngài bảo: “Con chỉ còn thiếu một điều thôi là về bán hết tài sản, bố thí cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Chúng ta biết câu cuối… Chàng thanh niên thiện chí kia không xứng đáng…

Còn chúng ta thì sao?

Một số đông chúng ta giống như chàng thanh niên đó. Còn một bước cuối cùng, anh không can đảm, vì tài sản của anh quí hơn Chúa. Chúng ta có rất nhiều lý do để biện minh cho sự hèn nhát của chúng ta.

Tại sao Ngài đòi buộc gắt gao như thế? Tại sao Ngài tỏ ra quyết liệt như thế?

Vì chỉ có Ngài mới có thể giúp chúng ta hạnh phúc, điều mà ai cũng ước mơ mà không bao giờ được trọn vẹn. Trên mặt báo hay trên màn ảnh, người ta giới thiệu những đôi vợ chồng thành công, hạnh phúc. Họ thành công về mọi mặt, cuộc sống của họ an nhàn, nhưng được bao lâu? Cái chết vẫn sờ sờ ra đó. Họ vẫn biết điều đó. Dù hạnh phúc được vài chục năm, họ cũng phải lìa nhau, chấm dứt tất cả, và nỗi buồn sẽ cắn vào da thịt của họ. Hanh phúc ơi! Mi ở đâu? Họ không biết sầu muộn ray rứt sao? Nhiều lắm, ở sau hậu trường, được che giấu cẩn thận.

Chỉ có Chúa mới bảo đảm một hạnh phúc mà cái chết không thể phá hủy được. Đó là cái gì đáng quí hơn hết mọi sự, và thứ hạnh phúc này có thể đạt được với điều kiện là từ bỏ mọi sự và theo Ngài, gắn bó với Ngài, với Ngài thôi.

Tại sao chúng ta không theo Ngài?

Vì chúng ta chưa biết Ngài là ai, vì thế chúng ta không dám dấn thân yêu Ngài, chúng ta xem thế gian quí báu hơn.

Ngài đòi buộc triệt để như thế, vì không ai khác có thể lấp đầy con tim của chúng ta. Con người mang con tim vật chất nhưng những ước mơ của nó vượt tới trời cao. Chỉ có Đấng từ trời xuống mới đưa chúng ta về trời cao, lúc đó chúng ta mới biết hạnh phúc là gì.

Chúng ta dám đánh đổi những giàu sang trần thế với hạnh phúc đó không?

Đó là câu hỏi mà Chúa đặt ra cho chúng ta.

Các đấng thánh đã trả lời. Các Tông đồ, lúc mới theo Ngài, còn mơ mộng ngồi ghế nhất, làm lớn, nhưng khi đã biết Ngài là ai, họ đã liều mạng cho Ngài, buông bỏ tất cả không hối tiếc.

Thánh Phaolô có thể là một ông Pharisêu danh giá, nhưng khi biết Chúa, ông đã dứt khoát với những hứa hẹn tương lai, dấn thân phục vụ Đấng mà ông đã đả đảo, lùng bắt. Các đấng thánh mà chúng ta nghe kể tên trong kinh cầu các thánh và trong sách phụng vụ, là những người đã khám phá ra Chúa và đã bỏ mọi sự, vác thập giá theo Ngài đến cùng, và các ngài đã không thất vọng.

Chúng ta còn tiếc gì ở trần gian? Trần gian đã tặng cho chúng ta những gì khiến chúng ta còn ham mê, không thể buông bỏ nó?

Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng ai cũng có thể sống cho Chúa. Chúng ta có thể làm được nhưng chưa làm hết mình. Nếu Chúa ra những điều kiện không thể thực hiện, thì Ngài ra điều kiện làm gì? Bằng chứng là vô số các thánh đã làm được trong số đó có những bà mẹ gia đình như thánh Maria Luigi, có các vua và hoàng hậu như vua Luy thứ IX, vua nước Pháp và bà hoàng hậu Êlisabet Hungari…

Các thánh tử đạo đã bỏ cả mạng sống. Chúng ta sẽ bỏ những gì và như thế nào để xứng đáng làm môn đệ Chúa?

Hãy tìm biết Chúa là ai, chúng ta mới có thể đủ can đảm theo Ngài và yêu Ngài. Yêu Ngài sâu đậm, chúng ta mới đủ can đảm liều mạng cho Ngài. Chỉ có tình yêu say đắm mới đủ sức bỏ của cải và những thú vui của nó.

Chúng ta có yêu Ngài không?

Chúng ta chưa yêu Ngài nhưng Ngài vẫn yêu chúng ta. Đây, Ngài đến nơi bàn thờ, đến dưới hình thức nhỏ bé nhất, để tỏ tình với chúng ta, nuôi dưỡng sự yếu hèn của chúng ta. Hãy ăn lấy Ngài để tiến lên trong tình yêu. Tình yêu sẽ triển nở trong ta, và một ngày nào đó, chúng ta sẽ biết Ngài là ai.

---------------------------

 

TN 23-C165: Theo Chúa phải từ bỏ tất cả


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Lc 14: 25-33: Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng rằng: “nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng rằng: “nếu ai đến với TN 23-C165


Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng rằng: “nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta".

Khi Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Chúa phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là những kẻ theo Chúa luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và những người thân yêu.

Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự khác, sẵn sàng hy sinh tất cả để theo Chúa.

Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí lớn hơn. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa. Nghĩa là tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim chúng ta, và chúng ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.

Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu: ”nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta” như sau: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng phải ghét những ai ngăn cản chúng ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà chúng ta lìa xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết như trong sách Đệ Nhị Luật: “nghe đây, hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ. Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũ như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4-7)

Có câu chuyện kể rằng: Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về.

Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho một lãnh chúa ở một lâu đài gần đó. Vốn biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào khác thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đài.

Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô.

Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và vị linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đang chờ đợi để cử hành nghi thức hôn phối.

Khi đến phần giao ước, vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon làm chồng theo luật Giáo Hội không?

Cô đã dõng dạc tuyên bố “con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi.

Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.   

Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô.

Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”. Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi. 

Anh chị em thân mến,

Cử chỉ táo bạo và xem ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn về tình yêu của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu cao cả đó, cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô nữa.

Quả thật, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay luôn vang vọng trong tâm hồn cô: “ai theo Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được”. Một chứng nhân tuyệt vời cho Lời Chúa hôm nay để mỗi người chúng ta có một quyết định cho đời mình. Amen.

-------------------------------

 

TN 23-C166: HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ


TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

Thánh Luca nói với chúng ta rằng “có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu”. Và, trong TN 23-C166


Thánh Luca nói với chúng ta rằng “có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu”. Và, trong số rất đông người đó, Chúa kêu gọi những ai muốn làm môn đệ thì hãy theo Người, đồng thời Chúa cũng đưa ra những điều kiện cần có để theo Người. Như thế, môn đệ của Chúa Giêsu là những người được gọi tách ra khỏi đám đông dân chúng, tình nguyện chấp nhận những điều kiện khắt khe và những hệ luỵ của ơn gọi làm Kitô hữu. Theo Chúa Giêsu, đó là hành trình của người môn đệ.

Theo từ điển Tiếng Việt, môn có nghĩa “cửa”; đệ có nghĩa là “em”, là “học trò”. Hai từ này (môn đệ) có nghĩa học trò của một người thày. Học theo một vị thày cũng có nghĩa bước vào một cửa, mà cửa chính là vị thày đó. Theo nghĩa này, người theo Chúa Giêsu là người bước vào một cửa – cửa ấy là chính Chúa. Môn đệ của Chúa là người thụ giáo với Chúa và chuyên tâm thực hành những gì Người dạy.

Theo Chúa là tách ra khỏi đám đông. Việc tách khỏi đám đông nói lên sự chọn lựa dứt khoát để không còn sống và suy nghĩ như người đời. Đòi hỏi của Chúa có khi làm cho ta tưởng chừng như đi ngược với những liên hệ tình cảm đời thường. Những điều được liệt kê trong lời Chúa nói cho thấy người môn đệ phải từ bỏ tất cả, chẳng giữ lại gì cho mình từ của cải vật chất cho đến những tình cảm thân thiết. Khi nêu ra những điều kiện đó, Đức Giêsu nhắc tới thập giá, như sự từ bỏ triệt để nhất. Chính Người đã dùng thập giá để chứng minh sự từ bỏ hoàn toàn vì vâng phục Chúa Cha. Từ bỏ chính mình, đó là một nét đặc biệt của người người môn đệ. Thiếu sự từ bỏ chính mình, chúng ta vẫn chưa thuộc về Đức Giêsu cách trọn vẹn mà chỉ trên danh nghĩa. Đấng đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước” (Đường Hy vọng, số 3). Tự nguyện vác thập giá đời mình để theo Chúa không phải là một khẩu hiệu được hô vang, nhưng là những thực hành cụ thể trong mối tương quan hằng ngày. Vác thập giá trong cách âm thầm khiêm tốn chứ không ồn ào tô vẽ lấy tiếng khen. Xin trích dẫn một ý tưởng nữa cũng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm” (ĐHV, số 171). Vâng, chúng ta sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc rước, nhưng không mấy sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc đời.

Theo Chúa là chấp nhận lối sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không giống như sự khôn ngoan của con người, bởi lẽ con người đánh giá theo những gì họ ghi nhận bề ngoài. Tác giả sách Khôn ngoan đã suy tư về sự cao siêu của thánh ý Thiên Chúa, vượt xa trí hiểu của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hãy cầu xin cho được đức khôn ngoan để nhìn nhận và đánh giá sự việc theo cái nhìn của Chúa, chứ không theo suy nghĩ thiển cận của chúng ta (Bài đọc I). Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người dự tính xây tháp và một vị vua sắp giao chiến để nói với chúng ta hãy khôn ngoan cân nhắc kỹ lưỡng trong việc chọn lựa cho mình một lý tưởng sống. Việc xây dựng và giao chiến là những sự kiện rất quan trọng không thể coi thường. Thiếu cẩn trọng sẽ dẫn tới sự thất bại và có thể mất mạng sống. Nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chúng ta được trang bị sức mạnh cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, khi xung quanh ta có biết bao khuynh hướng khác nhau đang giằng co lôi kéo con người. Có thể đó là một triết thuyết vô thần làm cho chúng ta bỏ Chúa, hay một người đồng nghiệp có lối sống vụ lợi ích kỷ, hoặc một thành viên trong gia đình có quan điểm sống trái với giáo huấn của Tin Mừng. Sống khôn ngoan theo lời Chúa dạy, chính là sự chọn lựa và quyết định cho mọi hành vi của mình.

Môn đệ là người sống quảng đại bao dung. Ônêximô là một người đầy tớ của ông Philêmôn. Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ. Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến”, thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này. Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình cả nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết.

Trở lại với khái niệm “môn đệ” được quảng diễn trên đây, người Kitô hữu được mời bước qua cửa là chính Chúa Giêsu. “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9). Bước qua cửa Giêsu là một chuỗi những cố gắng nỗ lực để lắng nghe và thực thi lời Người. Người môn sinh chỉ có thể trưởng thành và được giáo huấn khi đón nhận những gì thày mình dạy và làm gương. Vâng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta bằng chính cuộc sống của Người, nhất là bằng thập giá. Người đang mời gọi ta hãy vác thập giá cuộc đời mà đi theo Người. Thập giá sẽ nở hoa nếu chúng ta vác đi trong tâm tình yêu mến và phó thác.

-------------------------------

 

TN 23-C167: TRỞ NGẠI CỦA GIÀU CÓ


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Từ Bỏ Của Cải

 

Có lẽ lời mời gọi “Từ bỏ mọi của cải” để trở nên môn đệ Chúa là rất khó. Của cải có bao nhiêu TN 23-C167


Có lẽ lời mời gọi “Từ bỏ mọi của cải” để trở nên môn đệ Chúa là rất khó. Của cải có bao nhiêu cũng được, tiền nào cho cũng dùng được, ước muốn có không giới hạn. Theo Chúa, trở nên môn đệ lại nhiều giới hạn, nhiều đòi hỏi từ bỏ. Làm thế nào như lời cầu nguyện vẫn cầu xin: “Biết dùng của cải đời này để mua lấy Nước Trời”.

Của cải vật chất.

Không ai nói không cần của cải vật chất. Đó là thành quả, Chúa ban cho qua công lao, khó nhọc của mình gầy lên. Quyền tư hữu hay sở hữu là một trong các quyền cơ bản của mỗi người, vì không có quyền sở hữu, con người chỉ là nô lệ ở trên đất người khác. Quyền sở hữu giúp cho con người ý thức mình làm chủ của cải, vật chất và chịu trách nhiệm về việc sử dụng của cải sinh lợi ích thế nào với cá nhân và cộng đồng.

Trong Tin Mừng Thánh Luca nói đến việc “ngồi lại tính toán” (Lc 14, 28), cân nhắc đến việc kiếm tìm và sử dụng tiền của thế nào cho hợp lý. Đồng tiền như bộ phim “thương gia” của Hàn Quốc, đề cao trong việc buôn bán, kinh doanh là “phát triển nhân vị, phẩm giá con người”. Chúa Giêsu trong khi đi rao giảng Tin Mừng, Người cũng lao động để sinh sống, cũng cần đến sự trợ giúp vật chất từ những người đến nghe giảng dạy. Chúa đến dùng bữa tại nhà ông Matthew, nhà ông Giakêu, nhờ Chúa đến thăm mà ông được thay đổi nhận thức việc sử dụng tiền của.

Giá trị tiền của tuỳ theo người tìm chúng và sử dụng chúng. Người khôn ngoan biết tìm kiếm tiền bằng sự công chính và công bằng, sử dụng chúng cũng nhắm mục đích tạo lập sự công chính và công bằng.

Trở ngại của giàu có.

Có một thực tế chỉ ra rằng: Của cải, giàu có không giảm thiểu cho con người những đau khổ và nghịch cảnh. Chúa Giêsu nói: “Người giàu có khó vào Nước Trời” (Mt 19, 24). Vì lẽ, người giàu có thường dễ bị ru ngủ vào khối tài sản của mình để hưởng thụ: “Hồn tôi ơi, hãy nghỉ ngơi, hãy ăn uống cho đã” (Lc 12, 19), hoặc tiêu tốn nhiều thời gian để chăm sóc những gia tài mình có mà quên nhiều giá trị bền vững khác.

Cám dỗ của giàu có làm cho nhiều người quên đi những giá trị bền vững. Thế nên, trong việc Thiên Chúa chúc lành cũng cần xin Chúa giữ gìn. Phúc lành không như kỳ vọng của con người ước mong bền lâu, người xưa nói theo kinh nghiệm: “Phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí”. Phúc lành ở trần thế chỉ là cõi tạm, cần được che chở để phúc lành đến cả đời sau.

Người có phúc không thể kiêu căng hơn người khác không có phúc. Tất cả đều như nhau! Ai cũng cần đến Thiên Chúa ở cùng mỗi ngày để chính Chúa mới là Đấng ban cõi phúc thật. Người có phúc như Mẹ Maria hằng ngày vẫn suy đi ngẫm lại Lời Chúa nói, việc Chúa làm. Hướng về Chúa, đặt để đời mình trong tiếng “Xin Vâng” để chính Chúa mới là Đấng thực hiện cho cuộc đời nên viên mãn.

Từ bỏ, theo một nghĩa từ, Chúa mời gọi:  “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11, 29). Phúc lành chỉ có thể đến từ Chúa mới là phúc thật trong cõi đời này.

Xin Chúa đừng cách xa chúng con! Và cho chúng con đừng xa cách Chúa!

--------------------------------

 

TN 23-C168: ĐƯỜNG CHÚA DẪN LỐI


Bông hồng nhỏ

 

Có rất đông người cùng đi đường với Thầy Giêsu. Họ là ai? Họ chỉ là những người cùng đi chung TN 23-C168


Có rất đông người cùng đi đường với Thầy Giêsu. Họ là ai? Họ chỉ là những người cùng đi chung một đoạn đường hay sẽ cùng với Thầy đi trọn con đường? Thầy Giêsu quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27). Người nói rõ cho họ điều kiện để đi theo Người, nghĩa là muốn làm môn đệ thì cần phải trở nên một người khôn ngoan: biết mình và sẵn sàng từ bỏ hết những gì mình có.

Ai muốn là môn đệ của Chúa thì luôn chọn Người là đối tượng duy nhất, yêu Người trên tất cả mọi mối tương quan khác. Yêu Người đến nỗi chấp nhận dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa. Từng ngày bước theo Thầy, người môn đệ sẽ được thanh luyện khỏi mọi quyến luyến, được cắt tỉa để chỉ chọn một mình Chúa. Từ bỏ nào cũng mang đến sự tiếc nuối, đau đớn và day dứt. Người môn đệ được mời gọi bước theo Thầy Giêsu, nghĩa là sống lối sống của Thầy, bước đi trên con đường Người đã đi. Đường Người đi là đường thập giá. Bởi thế, Người môn đệ sẽ từng ngày vác thập giá mình mà đi theo Chúa.

Thập giá đến từ những khó khăn, thách đố của hoàn cảnh, từ tha nhân hay đến từ những giới hạn của bản thân, thập giá là chính con người mình với cái tôi hay tự ái, kiêu ngạo, tự mãn, tự ti, … Có những giọt nước mắt đã chực chảy trào khi chứng kiến người thân ra đi, khi phải chia tay một mối tình dang dở; nhưng cũng có những giọt nước mắt chảy tràn khi nhận ra tội lỗi của mình. Càng gần Chúa, người môn đệ sẽ càng nhận ra tội lỗi của mình, bởi khi được tình yêu của Chúa bao phủ, ta sẽ càng nhận thấy sự bất xứng nơi mình. Chỉ nhờ ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi, người môn đệ mới tìm thấy niềm vui và hy vọng. Càng nhận ra mình tội lỗi, ta càng muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Bởi được tha nhiều thì sẽ yêu mến nhiều. Thập giá có đớn đau nhưng cũng mang đến niềm tin yêu hy vọng, vì được gắn chặt với thánh giá Chúa Kitô. Càng nhìn lên thánh giá, càng chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, mọi vết thương trong tâm hồn ta sẽ được chữa lành. Có một nguồn sức mạnh và sự sống trào tuôn từ thánh giá Chúa Kitô sẽ chảy đến những ai hằng ngày biết đứng kề bên thánh giá.

            Người nói với những người cùng đi đường: “Ai đến với tôi”, lời ấy chỉ dành cho những ai muốn đến với Người. Đi theo Chúa không thể đi theo phong trào, theo đám đông. Người ta đi đâu mình đi đó. Thấy ai xây nhà đẹp ta cũng đặt móng xây nhà mà không ngồi xuống tính toán phí tổn. Một người khi muốn xây nhà hay một ông vua muốn ra nghênh chiến với địch thù, cả hai đều phải biết ngồi xuống bàn tính xem mình có hoàn thành và nắm chắc phần thắng hay không. Theo Chúa, ta cũng cần phải là người khôn ngoan, biết tính toán kỹ càng. Sự tính toán khi thành thực nhìn vào chính mình để thấy khả năng của mình tới đâu. Đằng sau sự tính toán này còn cho thấy một người luôn nỗ lực không ngừng, biết kiên trì, biết lượng sức mình, biết bàn hỏi với người khôn ngoan. Họ là người có trách nhiệm trên cuộc đời mình. Nếu chỉ theo Chúa bằng sức riêng thì ta chẳng thể theo Người đến cùng được, càng mang vác nhiều thì sức theo Chúa càng giới hạn. Vì đường của Chúa là con đường hẹp và Chúa đòi hỏi rất khắt khe, khắt khe đến mức phải sẵn sàng từ bỏ cả chính mình vì Nước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con biết rõ những điều kiện để theo Chúa. Con đã cảm nhận được điều này: thập giá phủ bóng đời con. Nơi nào con đi qua cũng có bóng dáng của thập giá. Thập giá cắm sẵn trên lối đi. Càng muốn theo Chúa, càng muốn trở nên giống Chúa, con càng thấy nhiều thập giá. Mỗi khi chiêm ngắm Chúa chết trên thánh giá, con nhận được sự đỡ nâng và nguồn sức mạnh nội tâm thôi thúc con vác thập giá mình mà theo Chúa. Cảm tạ Chúa đã dùng chính con người của con để cho con hiểu rằng: con sẽ càng giống Chúa hơn khi biết từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, mắt không rời khỏi thánh giá Chúa Giêsu. Xin cho đời sống của con được trở nên lời ca ngợi tình thương Chúa. Đường Chúa dẫn lối con đi, tiếng Chúa gọi mời, con xin sẵn sàng. Amen.

------------------------------

 

TN 23-C169: SỐNG TRỌN BẬC SỐNG


Anna Cỏ may

 

Rời bỏ cha mẹ, anh chị em để theo Chúa là một đòi hỏi thật khó! Vậy mà, Chúa Giêsu còn mời TN 23-C169


Rời bỏ cha mẹ, anh chị em để theo Chúa là một đòi hỏi thật khó! Vậy mà, Chúa Giêsu còn mời gọi những ai theo Ngài cần phải bỏ cả mạng sống và vác thập giá mình mà đi theo. Đây là một cuộc từ bỏ không hề dễ dàng thực hiện trong một ngày, một tháng hay một năm, mà phải cả cuộc đời mình. Đó cũng là một trong những thử thách thiêng liêng lớn nhất trong đời sống người Kitô hữu.

 Trong đời sống gia đình, khi còn nhỏ thì sống với bố mẹ, nhưng ta trưởng thành thì bắt đầu đi tìm một nửa cuộc đời của mình. Cũng từ lúc đó, ta dần dần rời xa cha mẹ để chung sống với nửa của mình, nhưng trái tim vẫn mang hình bóng cha mẹ. Khi gặp khó khăn, ta vẫn chạy về với cha mẹ. Còn những người muốn theo Chúa, sau khi đã xác định con đường của mình, họ trung thành theo Chúa trên các nẻo đường. Sự trung thành được diễn tả qua việc thực thi lời Chúa mời gọi là dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống mình và vác thập giá mình mà theo Ngài (x.Lc 14, 26-27).

 Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy đi theo Chúa là xa cha mẹ, anh em. Nhìn về chiều sâu thiêng liêng, mỗi khi nhớ cha mẹ, anh chị em, chúng ta liền dâng tất cả mọi người cho Chúa vì Chúa là Đấng có thể làm mọi sự cho chúng ta. Có rất nhiều cha mẹ đã quảng đại dâng con mình cho Chúa, họ hạnh phúc khi con mình đi theo Chúa, họ không ngừng tạo điều kiện để con an tâm theo Chúa và luôn động viên con.

Đi theo Chúa là để cho Chúa hoạt động, để Chúa làm chủ đời mình. Chúa không đòi hỏi, nhưng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa tình yêu và hận thù, chúng ta phải chọn lựa cái tốt nhất, cái thuộc về Chúa. Do đó, Chúa mời gọi mỗi người phải cân nhắc, suy nghĩ để chọn lựa, từ bỏ những gì là đúng trong việc đi theo Chúa. Bởi vì, đi theo Chúa là đi ngược với thế gian. Vậy theo Chúa, làm môn đệ của Chúa, chúng ta được gì? Ông Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”. Đức Giêsu trả lời: “Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19,27-29). Chúa Giêsu muốn giải thoát mọi người khỏi những đam mê của cải thế gian, để mọi người sống bình an và hoàn toàn đi theo Chúa cách trọn vẹn. Ngài không muốn mọi người bị ràng buộc hay ảnh hưởng từ một ai cả, để mọi người sống hạnh phúc với chọn lựa mà mình đã chọn. Bậc sống nào cũng giúp mọi người nên thánh nhưng với điều kiện, chúng ta phải sống trọn bấc sống ấy.

 Lạy Chúa! Xin giúp chúng con xác tín lệnh truyền của Chúa, xin ban Thánh Thần đến biến đổi mỗi người chúng con, xin ban sức mạnh, lòng can đảm để chúng con biết khước từ những cám dỗ xấu, hầu chúng con xứng đáng làm môn đệ của Chúa trong bậc sống của mình. Amen.

---------------------------

 

TN 23-C170: TỪ BỎ


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Đám đông theo Chúa vào làng, Nghe lời giảng dậy, ngỡ ngàng tiến thân. Ai đi theo Chúa hiểu dần, TN 23-C170


Đám đông theo Chúa vào làng,
Nghe lời giảng dậy, ngỡ ngàng tiến thân.
Ai đi theo Chúa hiểu dần,
Bỏ cha bỏ mẹ, thanh bần hiến dâng.
Rời anh bỏ chị đỡ nâng,
Hy sinh mạng sống, xin vâng lời Thầy.
Vác mang thánh giá này đây,
Xứng danh môn đệ, theo Thầy truyền rao.
Người nào xây tháp đài cao,
Không ngồi tính toán, hết bao nhiêu tiền.
Mong sao hoàn tất trước tiên,
Không ai chế diễu, thập niên không thành.
Vua nào giao chiến tranh dành,
Đối phương mạnh mẽ, giao tranh làm gì.
Đem quân tiến đánh làm chi,
Chắc rằng thất bại, phòng khi rút về.
Cầu hòa hóa giải tư bề,
An bình dân nước, đề huề cả hai.
Muốn làm môn đệ thiên sai,
Rời buông của cải, trên vai thập hình.

Những đòi hỏi của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay thật quyết liệt. Chúng ta tự cảm thấy rất khó để có thể làm môn đệ của Chúa. Theo Chúa, chúng ta không thể có thái độ dửng dưng hay ba phải nửa chừng. Mà là một lựa chọn dứt khoát cho đời sống Kitô Hữu. Chúa Giêsu nói với những người theo Chúa: Nếu ai đến với Ta, mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Chúa đòi hỏi khó quá, nên Chúa có ít bạn và ít người muốn đi theo Chúa.

Trong xã hội xưa cũng như nay, người thủ lãnh nào cũng muốn có nhiều người theo mình. Họ thường khôn khéo mở ra nhiều hướng thuận lợi, hứa tương lai tốt đẹp, chia cho chức cao quyền trọng và phần thưởng tương xứng. Đối với Chúa Giêsu, khi mời gọi kẻ đi theo mình, Chúa không hứa ban cho giầu sang, quyền lợi mà là hứa sự từ bỏ và vác thánh giá theo Chúa. Thật là những điều không tưởng và quá khó khăn. Người không có lòng tin, có thể xem đây là một sự điên rồ.

Từ bỏ gia đình, cha me, anh chị em và mạng sống, thế là từ bỏ tất cả rồi. Chúng ta còn lại gì? Chúng ta còn lại thánh giá. Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không nghi ngờ về sức mạnh của Thánh giá. Nhờ qua thánh giá, chúng ta biết được chí khí sắt đá của tình yêu dũng cảm nơi các vị tử đạo. Thánh Tôma Aquinas khi hướng nhìn lên thánh giá, đã tâm sự: Chỉ có mình Chúa đã đủ cho con và Tôma đã xác quyết: Tôi đã học hỏi nhiều nơi thánh giá hơn nơi sách vở.

Chúa Giêsu nói tiếp với các môn đệ: Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Nơi Thánh giá, chúng ta sẽ học được bài học yêu thương, tha thứ và khổ đau. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ và vác thập giá theo Chúa. Nhìn chung quanh cuộc sống, nơi đâu chúng ta cũng có dấu vết của thánh giá. Đó là những đau khổ dằn vặt trong lương tâm, những sự hiểu lầm, những khích bác, những đau lòng mà không thể hé môi và những ngậm đắng nuốt cay. Thánh giá là những bệnh tật nơi thân xác, những phiền muộn trong tâm hồn, những bất công, bạo lực, chia rẽ và nghi ngờ của bạn bè thân nhân. Đó là những thánh giá chúng ta vác hằng ngày.

Thánh giá có trở thành giá cứu chuộc hay không, còn tùy thuộc chúng ta có biết vác thánh giá theo Chúa hay không. Nếu chúng ta ôm thánh giá với mối hận đời và hao mòn trong đau khổ mà không chia xẻ và không tháp nhập với những đau khổ thập giá của Chúa Kitô, thánh giá của chúng ta trở nên vô ích và nặng nề cho cuộc sống. Thánh giá nhẹ nhàng là khi chúng ta biết chấp nhận. Thánh giá mang vác với lòng yêu thương, nhẫn nhục và tha thứ, thì thánh giá sẽ trở thành nguồn sống an vui. Với sự yêu thương và tha thứ, Chúa Giêsu đã mang vác thánh giá tới đỉnh đồi Canvê và chịu chết trên thánh giá. Thánh giá sẽ dẫn tới vinh quang của sự phục sinh vinh hiển.

------------------------------

 

TN 23-C171: ĐI THEO CHÚA


Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

 

Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn, nhưng 3 giới răn đầu dành cho việc thờ phượng kính mến Chúa TN 23-C171


Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn, nhưng 3 giới răn đầu dành cho việc thờ phượng kính mến Chúa, còn 7 giới răn sau Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Và giới răn đầu tiên trong 7 giới răn là thảo kính cha mẹ.

 Rồi ngay từ xa xưa sách Huấn ca có viết: “Ai trọng kính cha sẽ được xoá bỏ lỗi lầm; ai thảo kính mẹ thì như người tích trữ kho báu trên trời” (Hc 3,3-4).

Trong thư Êphêsô thánh Phaolô tông đồ có nhắn nhủ: “Đạo làm con phải thảo hiếu với cha với mẹ, đó là điều răn Chúa kèm theo lời hứa” (Êp 6, 1-2).

Và theo truyền thống Á đông, đạo hiếu luôn được đặt lên hàng đầu, tội lớn nhất là tội bất hiếu. Thế mà Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta:”Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta được”. Như vậy lời Chúa dạy có nghịch lý không?

Thực ra, vì ngôn ngữ Do thái không có kiểu so sánh hơn kém, nhiều hơn, ít hơn, như ngôn ngữ Việt Nam chúng ta, nên khi cần diễn tả hơn kém, thì họ dùng văn tự đối ngẫu “yêu và bỏ”. Vì thế, chúng ta có thể diễn tả theo ngôn ngữ Việt Nam thế này “Ai đến với Ta, mà không yêu Ta hơn cha mẹ, hơn vợ con, hơn anh chị em và ngay cả mạng sống mình, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”.

Có nghĩa là ý Chúa muốn nói: Nếu ai muốn làm môn đệ Chúa, thì phải đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự, Chúa là quan trọng đối với chúng ta. Mà nếu Chúa quan trọng, thì Lời Chúa quan trọng, thánh ý Chúa quan trọng…

Nếu Chúa quan trọng, thì sáng sớm khi mở mắt thức dậy, người mà anh chị em nhớ  đầu tiên là ai, có phải là Chúa không?

Việc chúng ta lo lắng, tìm kiếm đầu tiên có phải là Nước trời không? Vì Chúa đã nói: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác Chúa thêm cho sau” (Mt 6,33).

 Và cuối ngày trước khi chúng ta ngã lưng nằm xuống nghỉ đêm, người chúng ta nhớ đến cuối cùng đó là ai, có phải là Chúa không?

Anh chị em thân mến,

Trước khi Đức Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ mình để đi theo Chúa thì Ngài đã từ bỏ trước rồi. Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở với chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Sự từ bỏ được thể hiện rõ nét qua việc Chúa từ bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập giá. Hơn thế nữa, Chúa còn tự hủy mình ra không, trở nên lương thực thần linh nuôi sống linh hồn chúng ta.

Theo gương Chúa, có nhiều người sống từ bỏ, có nhiều người đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chẳng hạn như Mẹ Maria đã từ bỏ ý riêng thưa lời xin vâng sống theo thánh ý Chúa.

Các môn đệ năm xưa đáp lại tiếng Chúa mời gọi, họ dám từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.

Các nhà truyền giáo dám từ bỏ gia đình, quê hương xứ sở, ra đi rao giảng Tin mừng mở mang nước Chúa. Các thánh tử đạo dám từ bỏ mạng sống để làm chứng cho đức tin.

 Thế thì, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã tuyên xưng từ bỏ ma quỉ; từ bỏ những gì không phải là Thiên Chúa, để trở thành con Chúa.

Thế nhưng, dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, nhìn lại đời sống đạo, chúng ta có can đảm dám từ bỏ ý riêng để sống theo thánh ý Chúa không?

 Chúng ta có dám từ bỏ những ước muốn trái với lương tâm, những hành động gian tà, những đam mê bất chính không?

Chúa không những mời gọi chúng ta từ bỏ, nhưng Ngài còn đòi chúng ta vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa nữa.

Trong anh chị em đây, có những người bị bệnh tật, đau khổ, làm ăn thất bại nợ nần chồng chất, con cái hư thân mất nết, những rủi ro trong đời sống… đó là những thánh giá do Chúa đã an bài gửi đến để chúng ta vác đi theo Ngài.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa thương xót nâng đỡ thêm sức mạnh thiêng liêng, giúp chúng ta bền vững theo Chúa mỗi ngày. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa dạy, là đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chúa luôn là quan trọng đối với chúng ta, có như thế chúng ta mới xứng đáng là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

------------------------------

 

TN 23-C172: BÀI HỌC CHO NGƯỜI MÔN ĐỆ


Lm. Phêrô Lê văn Chính

 

Vào thời Chúa Giêsu, các bậc thầy thường có những môn đệ hay các môn đệ theo thầy để học TN 23-C172


Vào thời Chúa Giêsu, các bậc thầy thường có những môn đệ hay các môn đệ theo thầy để học với thầy. Mục tiêu của việc theo thầy để học là để trở nên giống như thầy, đầy hiểu biết và quyền năng như thầy. Bình thường, những người trẻ, khi bước vào đời, họ thường phải tìm thầy hay là tầm sư để học đạo, học võ thuật, hay học nghề nào mà họ yêu thích để chuẩn bị cho cuộc đời tương lai của họ. Đó là điều cần thiết trong cuộc đời, bởi vì như người đời thường nói: không thầy đố mày làm nên. Người ta cần phải học với thầy để được hướng dẫn một cách đầy đủ, chính xác nếu như muốn tinh thông thành thạo một nghề nghiệp nào đó.

Trong Tin mừng Luca, một chủ đề mà chúng ta gặp, đó là những giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra cho những người muốn theo người trên hành trình đi lên Giêrusalem để thực sự là môn đệ của người. Hành trình đi Giêrusalem là hành trình quyết định. Chúa Giêsu thay đổi địa bàn rao giảng Tin mừng, người không tiếp tục rao giảng ở Galilê, mà quyết định đi lên Giêrusalem nơi mà người biết rằng người sẽ gặp nhiều khó khăn và đe dọa đến tính mạng của mình, nhưng người vẫn tiếp tục đi Giêrusalem với sự xác tín người sẽ làm chứng trọn vẹn cho Thiên Chúa ở nơi này, nhất là bằng cái chết thập giá. Giáo huấn này hướng đến đám đông dân chúng, và cũng là những điều kiện cần thiết căn bản và triệt để cho mọi người muốn làm người môn đệ của thầy Giêsu : phải  “ghét” những người thân thiết nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh em, ngay cả mạng sống của minh, đồng thời vác thập giá của mình mà theo người, thì mới có thể làm môn đệ của người. Thầy Giêsu không đưa ra một điều kiện ngoài tầm với của mỗi người, người đưa ra những điều kiện thật gần với mỗi người nhưng cũng thật triệt để. Chữ “ghét” mà Chúa Giêsu dùng ở đây không theo nghĩa thông thường, nhưng chỉ muốn nói là ai không đặt chính Chúa lên trên những tình cảm dành cho những người thân thương nhất của mình thì không thể xứng đáng làm môn đệ của người. Một loạt những mối liên hệ mà Chúa Giêsu nêu ra là những liên hệ ruột thịt thân thiết nhất. Bình thường ai cũng có những liên hệ quyến luyến đối với cha mẹ, vợ con, anh em. Nhưng Chúa Giêsu như thể đẩy môn đệ của mình về phía trước để chúng ta có được những tầm nhìn và quyết định mới. Đứng trước một vận mệnh quyết định là chính sự sống đời đời của mình, mỗi người phải có những chọn lựa quyết liệt. Những tình cảm dành cho cha mẹ vợ con anh em phải nhường bước cho chọn lựa làm môn đệ của thầy Giêsu bởi vì chọn lựa này là chọn lựa giữa sự sống và cái chết. Chỉ có thể ưu tiên chọn lựa thầy Giêsu và con đường thập giá mà thầy đã đi mới có thể có được sự sống đời đời cho chính mình, ngược lại nếu chỉ biết giữ sự sống của mình hay ưu tiên lo lắng cho những người thân thì sẽ phải chết đời đời. Đây vừa là một từ bỏ quyết liệt, vừa là một tính toán và cân nhắc thận trọng của một người thực hiện một việc xây dựng công trình lớn, hay còn là chọn lựa sống chết của một nhà vua xuất quân giao chiến với quân thù. Cần phải chọn lựa và hành động khôn khéo, dám hy sinh để gìn giữ được danh giá nếu không muốn bị người khác chê cười và sự sống của mình nếu không muốn bị quân thù tiêu diệt.

  Chọn lựa của thầy Giêsu phải chăng là một chọn lựa không có nền tảng. Phải chăng thầy Giêsu dẫn đưa các môn đệ của mình đến một ảo tưởng thất bại. Truyền thống khôn ngoan vốn đã là một truyền thống suy tư của những người do thái. Theo truyền thống này, đã bắt đầu có nhận thức về sự bấp bênh của những tính toán con người. Con người có sự thông minh và tri thức, nhưng dù sao phải nhìn nhận là những suy tính của con người vẫn bấp bênh và không chắc chắn lý do là vì tinh thần con người bị lệ thuộc và chi phối bởi thân xác yếu đuối nặng nề. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa không ban khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, thì con người không thể hiểu thấu thánh ý Thiên Chúa mà sống đẹp lòng người được.

  Môn đệ thì phải theo thầy và ở với thầy, môn đệ còn phải học với thầy để trở nên giống như thầy. Mục tiêu của người môn đệ không phải chỉ là theo thầy trên cùng một con đường mà còn trở nên giống như thầy, chia sẻ cùng một vận mệnh thăng trầm vinh nhục để rồi cũng sẽ tham dự vào vinh quang với thầy. Những người môn đệ của thầy Giêsu không chỉ đến học một ít lý thuyết, nhưng họ thực sự được đào tạo để trở nên giống như thầy, tham dự trọn vẹn vào vận mệnh của Thầy Giêsu, để rồi thực sự được tham dự vào quyền năng và vinh quang của thầy. Học là người môn đệ của thầy Giêsu vì thế bao hàm việc từ bỏ cũng như suy nghĩ chọn lựa. Họ không phải chỉ là những người đi theo một cách ngây ngô, không hiểu biết, mà trái lại, họ phải là những người biết suy tính và chấp nhận trả giá cao cho sự chọn lựa này, ngay cả dám hy sinh tất cả, ngay đến cái chết. Ngược lại, thầy Giêsu của họ sẽ dẫn đưa họ đến sự sống đời đời. Thầy Giêsu đã dùng những lời giáo huấn với ngôn ngữ rất triệt để nhằm cho mỗi người suy nghĩ và cân nhắc cẩn thận trong việc làm và chọn lựa của mình với ý chí vững mạnh xác tín.

Thầy Giêsu muốn huấn luyện những người muốn đi theo người cách thực sự và quyết liệt, người chỉ cho họ thấy những điều kiện thiết yếu nhất mà chính người đang thực hiện để hoàn tất sứ vụ của người: từ bỏ chính gia đình của mình, và sẵn sàng vác thập giá như chính người đã đón nhận cái chết hiến tế trên thập giá. Thầy Giêsu không thực hiện một con đường cứu độ nào khác như người ta hình dung. Lúc bấy giờ, khi cùng theo thầy Giêsu trên con đường đi Giêrusalem, nhiều môn đệ vẫn còn hình dung thầy Giêsu sẽ thực hiện một đường lối cứu thế bằng sức mạnh để chiến đấu chống lại chính quyền Rôma. Thầy Giêsu đã tỏ ra rất là mạnh mẽ đầy quyền năng trong những việc chữa lành cho những người bệnh tật, thậm chí những lần người làm phép lạ để hóa bánh nuôi năm ngàn người ăn no là những dấu chứng người ta hình dung người sẽ thực hiện một cuộc giải phóng dân tộc quyết liệt. Thế nhưng, thầy Giêsu lại đưa ra những điều kiện của một chuộc chiến đấu nội tâm chống lại những cản trở từ trong chính nội tâm của mỗi người. Đây là một chọn lựa bởi khôn ngoan và Thánh Thần Thiên Chúa, vượt lên trên những tầm nhìn hẹp hòi thiển cận của con người. Đây là chọn lựa sẽ dẫn đưa người đến sự sống vinh quang bởi vì theo sự hiểu biết của Thầy Giêsu, nếu người hiến thân chịu chết, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và người sẽ được phục sinh vì chính Chúa Cha sẽ phục sinh người vì người hằng làm theo thánh ý của Chúa Cha.

------------------------------

 

TN 23-C173: LIỆU


Trầm Thiên Thu

 

Kinh Thánh cho biết: “Chúa nhìn nỗi khổ cực đau thương, Chúa để ý, tự tay lo liệu. Người yếu thế TN 23-C173


Kinh Thánh cho biết: “Chúa nhìn nỗi khổ cực đau thương, Chúa để ý, tự tay lo liệu. Người yếu thế giao phó đời mình cho Chúa, kẻ mồ côi được chính Chúa phù trì.” (Tv 10:14) Thiên Chúa quan phòng và tiền định mọi sự. Ngài lo liệu tất cả, Ngài chỉ cần chúng ta dâng cuộc đời mình cho Ngài, bằng cách ký thác đường đời và công việc cho Ngài định liệu, rồi cứ an tâm. (x. Tv 37:5; Tv 16:3) Đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đáng nhân hậu và quyền năng.

Trong sách “Luận Ngữ”, đại nhân Khổng Tử nhận định: “Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu” (Người không lo xa ắt có buồn gần.) Và Diêm Thiết Luận nói: “Biết phòng xa thì cai quản người, không biết phòng xa thì người cai quản.” Thật chí lý!

Người ta thường nhắc nhở nhau về cách sống bằng câu đơn giản: “Liệu cơm gắp mắm.” Và người ta cũng có câu cảnh báo: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn.” Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình thường hay quan trọng, thì cũng đều phải tính toán, cân nhắc – dù với mức độ khác nhau. Thực sự toan tính chứ không mưu mô, lọc lừa, lươn lẹo, ranh ma, vụ lợi hoặc thực dụng… “Liệu” là thể hiện tính trung dung, thật khó chứ chẳng dễ chút nào!

Người ta thường nhắc nhở: “Liệu hồn đấy!” Có nhiều thứ phải “liệu”, một trong những thứ đó là lời nói (miệng lưỡi). Thật vậy, cổ ngữ xác định: “Cẩn ngôn vô tội, cẩn tắc vô ưu” (Giữ gìn lời nói thì không sai lỗi, cẩn thận thì không lo lắng.) Còn Kinh Thánh nói mạnh hơn: “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả, và cái lưỡi chính là mối họa cho con người.” (Hc 5:13)

Thế nhưng người ta cũng có kinh nghiệm này: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Còn Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.” (1 Cr 3:6) Đó mới thực sự là vấn đề! Đối với Thiên Chúa, mục đích của sự tính toán không là để hưởng lợi riêng mà là để từ bỏ mọi sự, kể cả chính mình. Cách tính toán của Thiên Chúa thật là độc đáo! Đúng vậy: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi.” (Kn 11:20) Và chúng ta thường nói ngắn gọn: Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Trong cuộc sống đời thường, vấn đề sinh hoạt hằng ngày, đành rằng mọi người đều phải biết lo liệu – cả việc chung và riêng, người lớn liệu chuyện lớn, người nhỏ liệu chuyện nhỏ. Chuyện tâm linh cũng cần biết lo liệu sao cho phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa, phù hợp với hoàn cảnh sống của mỗi người. Sống đúng bậc mình trong hoàn cảnh hiện tại là biết lo liệu để nên thánh, là biết làm đẹp lòng Thiên Chúa, theo khuyến cáo của Đức Giêsu Kitô: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Tất nhiên cũng liên quan cách sống nhân hậu: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6:36)

Lo liệu có thể là tính toán theo các phép tính thông thường, nhưng phải liệu sao có ích lợi cho cộng đồng: CỘNG lại tình người, TRỪ đi hận thù, NHÂN lên yêu thương, CHIA sẻ lòng thương xót, và không CHIA rẽ bao giờ. Tác giả sách Khôn Ngoan đã thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững.” (Kn 9:13-14) Và rồi tác giả nhận định: “Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề.” (Kn 9:15) Thật là giỏi toan tính, khéo liệu bề.

Trong cuộc sống thực tế luôn có sự phũ phàng, nhưng đó là sự thật: “Đời là thế!” Chắc hẳn chẳng ai dám chối cãi. Và rồi có lần Chúa Giêsu cũng đã phân tích: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Thân phận phàm nhân chỉ là cát bụi, quá mỏng dòn và yếu đuối, thế nên luôn phải cố gắng tỉnh thức kẻo sa chước ba thù – ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Thứ nào cũng ghê gớm, dữ tợn, đủ sức làm chúng ta đắm chìm trong vũng lầy tội lỗi. Do đó mà luôn phải cẩn trọng, tỉnh thức. Theo nghĩa này, tỉnh thức cũng là một cách lo liệu để tránh bất trắc, kẻo trở tay không kịp. Muộn rồi!

Lời thân thưa với Chúa của tác giả sách Khôn Ngoan như lời nói thay tất cả chúng ta: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.” (Kn 9:16-18) Thụ tạo quá thấp kém, có lúc không nghĩ được ngoài tầm “cái bóng” của mình, đừng nói chi nghĩ xa, nghĩ rộng, hoặc nghĩ cao hơn. Đối với những điều trần tục mà còn vậy, huống chi đối với những điều siêu phàm!

Thật đúng “đời là thế.” Đã bao lần thấy có những điều tưởng chừng dễ như trở bàn tay, thế mà chúng ta phải khó nhọc lắm mới có thể làm được; và cũng có những điều tưởng như trong tầm tay, thế mà lại vuột mất, khiến chúng ta băn khoăn, ưu sầu, lo lắng… Lo liệu đủ kiểu, tính toán chi li và kỹ lưỡng, thế mà cũng chẳng nên công cán gì, không khác “dã tràng xe cát biển Đông”. Vì thế, dù chuyện to hay nhỏ đều phải nhờ ơn Chúa: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)

Biết người là sáng, biết mình là khôn. Cả hai đều cần để có thể liệu cách cư xử. Thánh Gióp nhận định: “Chúa có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện.” (G 13:15-16) Dạng “khẩu phật, tâm xà” là đúng kiểu Pharisêu và đúng quy trình giả hình của ma quỷ. Cách sống thường nhật của chúng ta đối với tha nhân quan trọng hơn động thái khúm núm trong nhà thờ. Chắc chắn SỐNG ĐẠO quan trọng hơn GIỮ ĐẠO, bởi vì từ cửa nhà thờ trở ra mới chứng tỏ ai là môn đệ đích thực của Đức Kitô, chứ không phải chỉ từ cửa nhà thờ tới bàn thờ. Thiên Chúa chẳng vị nể ai, cứ theo sự thật mà hành động.

Mọi quyền hành đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, kể cả quyền sinh – tử. Ngài “bắt phàm nhân trở về cát bụi” khi Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!” (Tv 90:3) Đối với Thiên Chúa luôn là hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai, không có khái niệm thời gian hoặc không gian, không có khái niệm xa – gần hoặc dài – ngắn: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90:4) Kinh Thánh xác định: “Quá khứ, hiện tại và tương lai, tất cả đều do Ngài thực hiện. Điều xảy ra bây giờ cũng như sắp xảy ra, Ngài đều suy tính cả. Điều gì đã xảy ra, cũng do Ngài suy tính.” (Gđt 9:5) Rõ ràng Thiên Chúa đã liệu mọi sự từ trước đời đời.

Mọi sự, hữu hình và vô hình, đều thuộc về Thiên Chúa. Thời gian là của Chúa, ngay cả sự sống và bất cứ thứ gì chúng ta sở hữu cũng KHÔNG thuộc quyền của chúng ta, nhưng chúng ta được Ngài ban cho quyền quản lý. Tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm về cách quản lý của mình. Khoảng trăm năm đời người xem chừng dài lắm, nhưng cũng chỉ như thoáng chiêm bao, tựa bóng câu qua cửa sổ, không khác đóa phù dung hoặc con thiêu thân: “Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.” (Tv 90:5-6) Quả thật, tuổi đời càng tăng thì người ta càng cảm thấy thời gian như ngắn hơn trước, dù một giờ vẫn đủ 60 phút, không thừa không thiếu. Đó là một thực tế bất biến. Qua đó, chúng ta hiểu và chắc chắn rằng Thiên Chúa bất biến, vĩnh tồn, chỉ tại nhân loại biến thiên mà thôi. Nghĩ ngắn nên mới suy bụng ta ra bụng người. Chảnh thấy ớn!

Nhận biết mình là gì và ý thức mình là ai, Thánh Vịnh gia tha thiết cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (Tv 90:12) Đó là khôn khéo, tỉnh thức, biết lo liệu, biết tính toán. Sẵn sàng như vậy nên người ta khát khao được ngụp lặn trong Biển Tình Yêu của Đấng Hằng Hữu: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (Tv 90:13-14) Rất cần thiết tâm nguyện suốt đời rằng “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa” (Tv 63:2) và “Ca ngợi Danh Thánh Chúa từ rạng đông tới lúc chiều tà!” (Tv 113:3)

Ỷ sức mình là ngu xuẩn, bởi vì chúng ta sẽ “trắng tay” vì “xôi hỏng, bỏng không”. Nhưng nếu biết cầu xin Chúa phù trợ thì chúng ta có thể quản lý cuộc đời mình hiệu quả: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm.” (Tv 90:17) Muốn vậy thì phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh, rườm rà, nếu không sẽ vướng víu lắm.

Thánh nữ Faustina đúng là một trinh nữ khôn ngoan vì đã có thể xác định: “Tôi không tìm hạnh phúc ngoài nội tâm nơi Chúa cư ngụ. Tôi hạnh phúc khi Chúa ở trong tôi. Tôi ở với Ngài mãi mãi. Đó là nơi thân mật của Ngài và tôi. Tôi an toàn ở bên Ngài. Đó là nơi không bị loài người dò xét. Đức Mẹ khuyến khích tôi giao tiếp với Chúa bằng cách này.” (Nhật Ký, số 454) Thật tuyệt vời! Nhưng có lẽ đôi khi chúng ta có vẻ như lợi dụng hơn là tín thác vào Chúa – mặc dù chúng ta vẫn nói: “Con tín thác vào Chúa.” Phải cẩn trọng kẻo bị ảo tưởng, vì sự lợi dụng và lòng tín thác rất “gần” nhau, khá giống nhau. Nếu chính mình đang như vậy mà không biết thì đáng sợ lắm!

Thánh Phaolô viết trong thư gởi cho Philêmôn: “Tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi là một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô.” (Plm 9-10) Thánh Phaolô phải kêu gọi bác ái vì người ta thường lầm lẫn các cạnh của “tam giác yêu thương” – Bác Ái, Công Bình, và Bố Thí. Ba cạnh có vẻ “giống” nhau và “đều” nhau, nhưng thực tế không phải vậy. Ví dụ, trong âm nhạc, “nửa cung” có vẻ giống nhau, dù gọi là bán-cung-dị hoặc bán-cung-đồng (có vẻ rất giống nhau khi dùng piano – thực tế rõ ràng với phím đen và trắng – theo bán cung Tây Phương, nhưng thực tế hai nửa cung ấy hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo kiểu bán cung của Ấn Độ, và bán cung Việt Nam cũng tương tự). Bác ái là cao cấp nhất, yêu thương vì người khác chứ không có thứ gì khác xen vào.

Có vẻ như câu chuyện này mang tính riêng tư vì là thư riêng của Thánh Phaolô gởi cho Philêmôn, nhưng thật ra vẫn có điểm chung – cái riêng ở trong cái chung, và cái chung ở trong cái riêng: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. (Plm 12-17) Yêu thương chân thành và liên đới rõ ràng. Đó là cách lo liệu chu đáo đậm nghĩa tình.

Tình và nghĩa không tách rời nhau. Ân tình là yêu thương, yêu thương là bác ái. Yêu thương bằng hành động chứ không là lời nói suông của cái miệng – đầu môi chót lưỡi. Vừa khó vừa dễ. Còn tùy. Cái chữ “tùy” thực sự đáng quan ngại lắm! Vấn đề là đừng “đội trên”, chớ “đạp dưới”. Nghĩa là đừng mặc hai loại áo, một loại có vạt trước dài và một loại có vạt trước ngắn – loại áo dài của các quan lại ngày xưa. Nói thẳng ra là đừng nịnh trên mà hù dưới. Kiểu này nhiều người vẫn “vướng mắc”, nhưng với “phong cách” tinh vi hơn xưa và đa dạng hơn.

Theo trình thuật Lc 14:25-33, một hôm có lẽ trời quang mây tạnh, không áp thấp cũng chẳng bão bùng, Chúa Giêsu thấy có rất đông người cùng đi đường nên quay lại nói với họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” Người ta luôn khoái “vội vàng vơ vét về” mà Ngài lại bảo phải “bỏ”, bỏ hết mọi sự. Thế thì chán chết được. Nhưng đó lại sự thật hiển nhiên, vì không bỏ thì vướng víu lắm, nặng nề lắm, làm sao có thể mang vác thứ cần thiết là thập giá?

Là tín nhân, ai cũng biết được rằng Chúa Giêsu rất khoái dụ ngôn, chuyện gì cũng dụ ngôn (Mt 13:34; Mc 4:34), nhưng thực tế chứ không bịa đặt – dụ ngôn chứ không phải là ngụ ngôn. Ngài vừa truyền thống vừa tân kỳ, cứ thản nhiên “bổn cũ soạn lại” khi phân tích: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà.” Thấm thía thật!

Với Kitô hữu thì là kỳ diệu, với người không tin thì là kỳ cục, bởi vì Chúa Giêsu chỉ là thợ mộc, khéo đục đẽo thôi, chứ không hề là thợ xây, cũng chẳng là thầu khoán, thế mà lại nói chuyện xây dựng. Thảo nào người ta thấy “chói tai”. Mà “chói” thật, vì chính nhà thầu khoán cũng phải tâm phục khẩu phục chứ nói chi thợ xây, thợ hồ. Còn nữa, Chúa Giêsu cũng chẳng kinh nghiệm làm vua ngày nào, thế mà lại tính chuyện giao chiến như một tướng quân. Thế nhưng thủ tướng hoặc đại tướng quân sự cũng phải tôn Ngài làm Đại Sư thôi. Lạ lùng lắm!

Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, Chúa Giêsu nói thẳng luôn: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ tôi được.” Cái mẫu tự B này “to tướng” luôn. Bỏ thật, bỏ hết. Biết buông bỏ là biết tự “liệu hồn” ngay khi còn có thể và còn thời gian mà cố gắng “đền tội” ngay ở đời này, để hy vọng không phải vào “phòng chờ” Luyện Hình. Và mục đích cuối cùng của mọi tín nhân là được trở thành công dân Nước Trời.

Lạy Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định, xin thúc giục chúng con luôn sống tích cực, can đảm dứt khoát bỏ mọi sự, bỏ hết những gì không thuộc về Ngài, để có thể thanh thản định hướng cuộc đời theo Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

----------------------------------

 

TN 23-C174: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C


Lm Giuse Đinh tất Quý

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,33).

Kính thưa anh chị em

 

Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy TN 23-C174


Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy sinh quên mình trên con đường theo Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút về hoàn cảnh của bài Tin Mừng hôm nay .
Hôm đó có rất nhiều người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Tin Mừng không cho chúng ta biết họ theo Chúa vì động lực nào. Nhưng căn cứ vào những gì Chúa nói sau đó thì chúng ta có quyền bảo rằng chắc là họ theo Chúa vì những động lực không được trong sáng cho lắm cho  nên chúng ta mới thấy Chúa quay lại nói họ.

Những lời Chúa thật quyết liệt.

“Không thể làm môn đệ ta” – Chúa nhắc đi nhắc lại  đến ba lần câu đó

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống của mình”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ hết những gì mình có “

Tiến sĩ Morgan khi chú giải đoạn Tin Mừng này đã viết rất hay như sau: “Kẻ nào theo Chúa Giêsu mà không đặt tấm lòng trung thành của mình đối với Chúa cao hơn tất cả những tình yêu trần thế dù là những tình yêu cao thượng nhất, đẹp đẽ nhất thì không thể theo Ngài được”

Vâng! Chẳng có ai có thể đi một lúc trên hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn mà chẳng lựa chọn nào mà lại không đòi hỏi phải từ bỏ.

Thế nhưng tại sao mà Chúa lại đòi hỏi như vậy?
Trước hết vì Ngài là Đấng tuyệt đối. Chúa không muốn cho bất cứ một giá trị nào được đặt ở trên Ngài. Ngài là giá trị tuyệt đối mà con người phải đi tìm. Trong nhiều đoạn Tin Mừng khác chúng ta đã thấy Chúa nói với chúng ta điều đó.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là giá trị cao hơn. Đó là giá trị tinh thần.

Mạng sống là giá trị còn cao hơn nữa. Vì nó là phần cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thế nhưng trước một giá trị tuyệt đối thì mọi giá trị tương đối phải nhường chỗ. Cho nên tuy dù những giá trị trên có cao quí đến thế nào đi nữa thì khi cần con người cũng phải hy sinh.

Đó là lý do thứ nhất.

Lịch sử Giáo hội đã chúng ta thấy được rất nhiều tấm gương về vấn đề này.

Các tông đồ là những bằng chứng trước hết. Các ngài đã bỏ tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa để rồi chính nhờ các ngài mà sứ mạng cứu chuộc của Chúa được tiếp tục.

Nếu không có những con người dám từ bỏ danh vọng, của cải, mạng sống như Phanxicô khó khăn, như Đaminh, như Ignatio, như Phanxicô Xaviê, hay như các thánh vị thánh khác thì, làm sao Giáo hội có được khuôn mặt như ngày hôm nay.

Đàng khác qua hai thí dụ Chúa đùng trong bài Tin Mừng hôm nay:
– Thí dụ thứ nhất Chúa nói về việc xây dựng.

– Thí dụ thứ hai Chúa nói về việc giao chiến.

Chúa đã cũng muốn nói với mọi người về công việc tại thế của Ngài: Chúng ta nhớ lại hôm ấy tại miền Cesar thuộc quyền Philipphe, trong một khung cảnh rất linh thiêng, sau khi Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu thế Con của Thiên Chúa, thì Chúa đã tiết lộ cho các tông đồ biết kế hoạch sắp tớicủa Ngài như thế này: “Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy“….và Chúa quả quyết và “cửa hỏa ngục cũng không thắng được“.

Mục tiêu Chúa nhắm rất rõ ràng: Chúa đến để xây. Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài, xây trên tảng đá Phêrô. Và trong quá trình đưa công trình xây dựng đến chỗ hoàn thành chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn cần phải chiến đấu để vượt qua. Đây là công việc đòi hỏi rất nhiều sự hy sinh và lòng trung thành.

Muốn thành công phải biết tính toán trước một cách khôn ngoan. Nếu không thì công trình khó mà thành tựu và thay vì chiến thắng nhất định sẽ là chiến bại.

Vậy thì trong cương vị là chủ của một công trình Chúa cần có những người cộng tác với Ngài.

Nhưng ai là những người đáng được Chúa tin cậy?
* Chắc chắn không phải

– Là những người đi theo Chúa để xem xem Chúa là AI. Đó là đám đông những người theo Chúa vì tò mò. Họ theo đó rồi bỏ đó. Những người này chẳng có ích gì cho công trình của Chúa cả.

– Cũng không phải là những người theo Chúa vì những lý do vật chất. Chúa bảo những người đó chỉ theo Ngài vì vái bụng của họ. Những người như thế chẳng có ích gì cho công trình xây dựng của Chúa. Có họ thì công trình của Chúa không những sẽ không tiến bộ mà còn có thể bị chậm trễ thêm. Những người làm việc chỉ với mục đích để thủ lợi không xứng đáng có mặt trong công trình của Chúa.

– Cũng không phải là những người theo Chúa để lợi dụng Chúa hầu thỏa mãn những ý đồ đen tối của mình. Đây là những con người chỉ đến để phá hoại chứ không phải là xây dựng. Trường hợp của Giuda Iscario là một thí dụ điển hình.

* Vậy thì họ là những ai?

– Thưa là những con người biết tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Trường hợp này, Phêrô là khuôn mặt tiêu biểu. Sau câu chuyện về bánh hằng sống, lúc mà những người muốn bỏ Chúa đã ra đi, Chúa quay lại nhóm 12 và hỏi: “Còn chúng con, chúng con có bỏ đi không?” Phêrô đại diện cho các bạn để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời”

Trong cuộc nói chuyện với giáo sư S.F.B. Morse (1791-1872, nhà vật lý Hoa Kỳ), người sáng chế máy điện báo, một tu sĩ đã hỏi ông:

– Thưa giáo sư, trong quá trình thí nghiệm khó khăn tại phòng thí nghiệm, có khi nào giáo sư cảm thấy bế tắc, không biết làm gì nữa không?

– Ồ, có chứ. Và rất nhiều lần.

– Những lúc ấy giáo sứ làm thế nào?

– Thưa thầy, thú thật là tôi làm một việc mà công chúng không biết. Đó là tôi cầu xin Chúa soi sáng trí khôn tôi.

– Và ánh sáng có đến chăng?

– Thưa có đến chứ. Tôi nói cho thầy biết là tôi đã nhận được rất nhiều phần thưởng, rất nhiều danh dự đến từ Châu Âu, Châu Mỹ qua các công trình sáng tạo của tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa xứng đáng. Tôi đã áp dụng nhiều về điện lực, không phải vì tôi giỏi giang hơn người khác, mà chỉ bởi vì Chúa muốn trao ban cho nhân loại, nên Chúa đã soi sáng trí khôn cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ông Morse nhớ ơn Chúa đến thế, cho nên chúng ta không lấy làm lạ là bức điện đầu tiên đánh đi trên máy điện báo ông chế tạo là: “Chúa đã làm biết bao điều lạ”. Vâng phải biết tin tưởng vào  Chúa thì mới có thể làm việc cho Chúa được.

– Hứ đến, họ còn là những người dám hy sinh vì Chúa.

Lúc gần đến ngày phải đối diện với cây Thập giá, Chúa hỏi Giacôbê và Gioan: “Chúng con có uống được chén đắng mà Thầy phải uống không?”

Giacôbê thưa lại: “Dạ được”.

Đúng như ông nói. Ông là tông đồ đầu tiên đã dám đổ máu ra vì Chúa.

Tông đồ Phaolô sau này cũng đã qủa quyết: “Tôi sẵn sàng chịu mọi sự vì Danh Đức Giêsu Kinh Kitô.”

– Họ còn là những người luôn gắn bó với Chúa – dám liều mạng vì Ngài. Madalena xứng đáng tiêu biểu cho những con người thuộc loại này. Sau khi Chúa chết và được an táng trong mồ, hầu như tất cả những người có liên hệ với Chúa còn bị bao trùm trong cơn sợ hãi, vậy mà ngay từ lúc sáng tinh sương của ngày đầu tuần Maria có mặt bên mộ Chúa, Thầy chí thánh của mình, thật là quả cảm và anh hùng.

Ước gì những hy sinh hằng ngày của chúng ta là những viên đá sống động, không phải chỉ để xây dựng nên một ngôi nhà trần thế, mà còn là làm nên một Giêrusalem mới, một Thiên Đàng của Chúa ở ngay trên cõi đời này của chúng ta. Amen

Lc 14,25-33

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”(Lc 14,33).

Kính thưa anh chị em

Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy sinh quên mình trên con đường theo Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút về hoàn cảnh của bài Tin Mừng hôm nay .
                Hôm đó có rất nhiều người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Tin Mừng không cho chúng ta biết họ theo Chúa vì động lực nào. Nhưng căn cứ vào những gì Chúa nói sau đó thì chúng ta có quyền bảo rằng chắc là họ theo Chúa vì những động lực không được trong sáng cho lắm cho  nên chúng ta mới thấy Chúa quay lại nói họ.

Những lời Chúa thật quyết liệt.

“Không thể làm môn đệ ta” – Chúa nhắc đi nhắc lại  đến ba lần câu đó

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống của mình”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ hết những gì mình có “

Tiến sĩ Morgan khi chú giải đoạn Tin Mừng này đã viết rất hay như sau: “Kẻ nào theo Chúa Giêsu mà không đặt tấm lòng trung thành của mình đối với Chúa cao hơn tất cả những tình yêu trần thế dù là những tình yêu cao thượng nhất, đẹp đẽ nhất thì không thể theo Ngài được”

Vâng! Chẳng có ai có thể đi một lúc trên hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn mà chẳng lựa chọn nào mà lại không đòi hỏi phải từ bỏ.

Thế nhưng tại sao mà Chúa lại đòi hỏi như vậy?
Trước hết vì Ngài là Đấng tuyệt đối. Chúa không muốn cho bất cứ một giá trị nào được đặt ở trên Ngài. Ngài là giá trị tuyệt đối mà con người phải đi tìm. Trong nhiều đoạn Tin Mừng khác chúng ta đã thấy Chúa nói với chúng ta điều đó.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là giá trị cao hơn. Đó là giá trị tinh thần.

Mạng sống là giá trị còn cao hơn nữa. Vì nó là phần cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thế nhưng trước một giá trị tuyệt đối thì mọi giá trị tương đối phải nhường chỗ. Cho nên tuy dù những giá trị trên có cao quí đến thế nào đi nữa thì khi cần con người cũng phải hy sinh.

Đó là lý do thứ nhất.

Lịch sử Giáo hội đã chúng ta thấy được rất nhiều tấm gương về vấn đề này.

Các tông đồ là những bằng chứng trước hết. Các ngài đã bỏ tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa để rồi chính nhờ các ngài mà sứ mạng cứu chuộc của Chúa được tiếp tục.

Nếu không có những con người dám từ bỏ danh vọng, của cải, mạng sống như Phanxicô khó khăn, như Đaminh, như Ignatio, như Phanxicô Xaviê, hay như các thánh vị thánh khác thì, làm sao Giáo hội có được khuôn mặt như ngày hôm nay.

Đàng khác qua hai thí dụ Chúa đùng trong bài Tin Mừng hôm nay:
– Thí dụ thứ nhất Chúa nói về việc xây dựng.

– Thí dụ thứ hai Chúa nói về việc giao chiến.

Chúa đã cũng muốn nói với mọi người về công việc tại thế của Ngài: Chúng ta nhớ lại hôm ấy tại miền Cesar thuộc quyền Philipphe, trong một khung cảnh rất linh thiêng, sau khi Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu thế Con của Thiên Chúa, thì Chúa đã tiết lộ cho các tông đồ biết kế hoạch sắp tớicủa Ngài như thế này: “Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy“….và Chúa quả quyết và “cửa hỏa ngục cũng không thắng được“.

Mục tiêu Chúa nhắm rất rõ ràng: Chúa đến để xây. Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài, xây trên tảng đá Phêrô. Và trong quá trình đưa công trình xây dựng đến chỗ hoàn thành chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn cần phải chiến đấu để vượt qua. Đây là công việc đòi hỏi rất nhiều sự hy sinh và lòng trung thành.

Muốn thành công phải biết tính toán trước một cách khôn ngoan. Nếu không thì công trình khó mà thành tựu và thay vì chiến thắng nhất định sẽ là chiến bại.

Vậy thì trong cương vị là chủ của một công trình Chúa cần có những người cộng tác với Ngài.

Nhưng ai là những người đáng được Chúa tin cậy?
* Chắc chắn không phải

– Là những người đi theo Chúa để xem xem Chúa là AI. Đó là đám đông những người theo Chúa vì tò mò. Họ theo đó rồi bỏ đó. Những người này chẳng có ích gì cho công trình của Chúa cả.

– Cũng không phải là những người theo Chúa vì những lý do vật chất. Chúa bảo những người đó chỉ theo Ngài vì vái bụng của họ. Những người như thế chẳng có ích gì cho công trình xây dựng của Chúa. Có họ thì công trình của Chúa không những sẽ không tiến bộ mà còn có thể bị chậm trễ thêm. Những người làm việc chỉ với mục đích để thủ lợi không xứng đáng có mặt trong công trình của Chúa.

– Cũng không phải là những người theo Chúa để lợi dụng Chúa hầu thỏa mãn những ý đồ đen tối của mình. Đây là những con người chỉ đến để phá hoại chứ không phải là xây dựng. Trường hợp của Giuda Iscario là một thí dụ điển hình.

* Vậy thì họ là những ai?

– Thưa là những con người biết tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Trường hợp này, Phêrô là khuôn mặt tiêu biểu. Sau câu chuyện về bánh hằng sống, lúc mà những người muốn bỏ Chúa đã ra đi, Chúa quay lại nhóm 12 và hỏi: “Còn chúng con, chúng con có bỏ đi không?” Phêrô đại diện cho các bạn để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời”

Trong cuộc nói chuyện với giáo sư S.F.B. Morse (1791-1872, nhà vật lý Hoa Kỳ), người sáng chế máy điện báo, một tu sĩ đã hỏi ông:

– Thưa giáo sư, trong quá trình thí nghiệm khó khăn tại phòng thí nghiệm, có khi nào giáo sư cảm thấy bế tắc, không biết làm gì nữa không?

– Ồ, có chứ. Và rất nhiều lần.

– Những lúc ấy giáo sứ làm thế nào?

– Thưa thầy, thú thật là tôi làm một việc mà công chúng không biết. Đó là tôi cầu xin Chúa soi sáng trí khôn tôi.

– Và ánh sáng có đến chăng?

– Thưa có đến chứ. Tôi nói cho thầy biết là tôi đã nhận được rất nhiều phần thưởng, rất nhiều danh dự đến từ Châu Âu, Châu Mỹ qua các công trình sáng tạo của tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa xứng đáng. Tôi đã áp dụng nhiều về điện lực, không phải vì tôi giỏi giang hơn người khác, mà chỉ bởi vì Chúa muốn trao ban cho nhân loại, nên Chúa đã soi sáng trí khôn cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ông Morse nhớ ơn Chúa đến thế, cho nên chúng ta không lấy làm lạ là bức điện đầu tiên đánh đi trên máy điện báo ông chế tạo là: “Chúa đã làm biết bao điều lạ”. Vâng phải biết tin tưởng vào  Chúa thì mới có thể làm việc cho Chúa được.

– Hứ đến, họ còn là những người dám hy sinh vì Chúa.

Lúc gần đến ngày phải đối diện với cây Thập giá, Chúa hỏi Giacôbê và Gioan: “Chúng con có uống được chén đắng mà Thầy phải uống không?”

Giacôbê thưa lại: “Dạ được”.

Đúng như ông nói. Ông là tông đồ đầu tiên đã dám đổ máu ra vì Chúa.

Tông đồ Phaolô sau này cũng đã qủa quyết: “Tôi sẵn sàng chịu mọi sự vì Danh Đức Giêsu Kinh Kitô.”

– Họ còn là những người luôn gắn bó với Chúa – dám liều mạng vì Ngài. Madalena xứng đáng tiêu biểu cho những con người thuộc loại này. Sau khi Chúa chết và được an táng trong mồ, hầu như tất cả những người có liên hệ với Chúa còn bị bao trùm trong cơn sợ hãi, vậy mà ngay từ lúc sáng tinh sương của ngày đầu tuần Maria có mặt bên mộ Chúa, Thầy chí thánh của mình, thật là quả cảm và anh hùng.

Ước gì những hy sinh hằng ngày của chúng ta là những viên đá sống động, không phải chỉ để xây dựng nên một ngôi nhà trần thế, mà còn là làm nên một Giêrusalem mới, một Thiên Đàng của Chúa ở ngay trên cõi đời này của chúng ta. Amen.

-------------------------------

 

TN 23-C175: ĐẾN VỚI GIÊSU


Lm. Jos. DĐH.

 

Đến với người nổi tiếng, tìm gặp đấng bậc khôn ngoan, xa tránh người mắc bệnh truyền nhiễm, hoặc TN 23-C175


Đến với người nổi tiếng, tìm gặp đấng bậc khôn ngoan, xa tránh người mắc bệnh truyền nhiễm, hoặc né tránh kẻ điên khùng, không phải là điều quá ngạc nhiên nơi cuộc sống đầy mưu mô tính toán này. Con cháu đến với cha mẹ xuất phát từ đức hiếu thảo, học trò thành đạt còn biết nhớ đến thầy cô, có phải là do đã thấm nhuần đạo lý thế nào là uống nước nhớ nguồn không ? Trải qua muôn thế hệ, chân lý bất di dịch, luôn phản ánh một sự thật: con người ta hơn nhau ở tấm lòng, chứ nào phải đôi giầy hay tấm áo ? Ngày hôm nay, nhiều sản phẩm được các phương tiện truyền thông quảng cáo rất áp đặt, nhưng khách hàng vẫn luôn cân nhắc chọn lựa sản phẩm an toàn, tìm những thương hiệu uy tín để mua sắm, đặt hàng. Đúng là xã hội tiêu dùng, đang nói lên tất cả: con người luôn tìm đến những giá trị thật, tâm tư mỗi người luôn hướng về đặc tính tốt và bền vững.

Từ xa xưa ấy, đám đông dân chúng phát hiện ra Đức Giêsu là Vị Thầy đặc biệt, họ tìm đến Đức Giêsu vì muốn được khỏi bệnh, muốn được chứng kiến phép lạ, số khác muốn được nghe, hiểu, và sống tinh thần người môn đệ tin theo Chúa cũng có. Đến với Đức Giêsu, tìm gặp Giêsu để làm gì, mỗi chúng ta hôm nay vẫn đang phải tự trả lời, dù còn mơ hồ hay đã tin tưởng cậy trông thì Đức Giêsu vẫn là Thầy là Chúa và là ơn cứu độ cho toàn dân. Chính vì không muốn để người ta ảo tưởng, rơi vào một cuộc sống bế tắc, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chí khá “cứng rắn”: “nếu ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không đáng làm môn đệ Ta”. Đến với Giêsu không phải vì vui hay buồn, đến với Giêsu không phải vì giầu hay nghèo, mà điều đầu tiên phải có: là được làm môn đệ, làm học trò của Giêsu.

Các đấng bậc khôn ngoan học nhiều, đọc nhiều, và có nhiều kinh nghiệm dẫn đến hạnh phúc, thành công, rất bổ ích: vẽ người vẽ mặt, khó vẽ xương ; biết người biết mặt, khó biết lòng ; chân thành quá mức là cái tội, tin người quá vội là vô cùng ngu dốt. Ngày hôm nay, người trẻ cũng nói lên cái triết lý của mình: bạn bè tốt, khi thấy té thì đỡ, không nên đợi bạn chết rồi mới tới thắp nhang. Đến với bậc khôn ngoan lão thành, đến với những tư tưởng sáng suốt của người trẻ, ít nhiều cũng là một bước tiến, là sự linh hoạt của tính cách say mê khám phá, biết hướng lòng sâu hơn đến niềm vui và hạnh phúc thật. Đến với Đức Giêsu, đến với tình yêu Giêsu, người ta vẫn đang nghe những âm thanh quyết liệt: “ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Tính toán cân nhắc, và tin tưởng cậy trông, cũng là cách nói mỗi người luôn phải tự chọn lựa trước khi bước tới thành công.

Con người ở mọi thời, mọi lúc, mọi nơi, nếu không đủ khôn ngoan, không đủ ý chí quyết tâm, làm sao hiểu được: có công mài sắt có ngày nên kim ; muốn con hãy chữ phải yêu lấy thầy ? Cha mẹ, anh chị em trong gia tộc, mang ân nghĩa sâu rộng và tình nồng cao cả nhất, ấy vậy mà Đức Giêsu còn nói hãy từ bỏ, để xứng đáng làm môn đệ, làm học trò của Ngài, quả là một hy sinh không nhỏ tí nào ! Đúng là đến với Đức Giêsu không phải để được chữa lành, không phải để được tăng thêm kiến thức, cũng không phải để được vinh hoa phú quý, để được sống mãi ở đời này. Đến với Đức Giêsu phải biết tự bỏ mình, phải biết mang vác thập giá đời mình, mới đáng theo Thầy làm môn đệ, vì ơn ban của Chúa và sự tự do cộng tác của con người, sẽ nói lên tất cả trong tình yêu Giêsu.

Đến với Giêsu bằng tình yêu, đến với Giêsu bằng con tim và khối óc đã là hay lắm rồi, Đức Giêsu còn nhắc nhớ phải sống từ bỏ, phải tự nguyện sống tinh thần người môn đệ, đúng là không dấn thân, không mạnh dạn khám phá, người ta sẽ rút lui bỏ cuộc. Khi đưa ra hai ví dụ về việc xây tháp và ông vua đi giao chiến, Thầy Giêsu không có ý nói nên tìm kiếm trúc sư giỏi, hay tìm đến vị quân sư nổi tiếng ; nhưng là mời gọi mỗi người hãy khôn ngoan, cân nhắc, bằng tình yêu và hành động khi bạn đã chọn lựa, quyết tâm. Từ bỏ quyết liệt hơn bao giờ cũng là từ bỏ chính mình, bỏ đi con người cũ để được nên mới, nên đẹp, trong Giêsu. Từ bỏ mình đến với Giêsu để mỗi người cảm nhận rõ hơn, chọn lựa làm môn đệ Giêsu không hề sai lầm. Từ bỏ tình yêu thế gian để được tình yêu Giêsu, từ bỏ hạnh phúc thế trần để được hạnh phúc nước trời, lúc nào cũng mới và đáng trân trọng.

Đến với Giêsu, một tình yêu vừa thông thoáng tự do, và một tình yêu vừa nghiêm khác, kỷ luật, mỗi kitô hữu chúng ta không thể sống vật vờ theo kiểu: ăn mày đòi xôi gấc, ăn chực đòi bánh chưng ! Đến với Giêsu bằng tình yêu chân thành tín thác, đến với Giêsu bằng tình yêu cậy trông, không tính toán, hẳn Đức Giêsu sẽ biến đổi, Ngài sẽ làm cho mỗi người thấy được rõ hơn thế nào là sức mạnh của tình yêu. Sợ phải từ bỏ, sợ phải vác thập giá, là bản chất giới hạn của mỗi người ; mời gọi đến với Giêsu, theo Giêsu làm môn đệ, là do ơn gọi nhưng không phát xuất từ tình yêu Chúa. Xin tình yêu Giêsu tiếp tục thánh hoá, và dẫn dắt mỗi người đến với hạnh phúc đời đời mà Chúa đã hứa ban. Amen.

-----------------------------------

 

TN 23-C176: TỪNG NGÀY THEO CHÚA


Lm. Giuse Nguyễn

 

Bằng cảm nghiệm sâu sắc của riêng mình, Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên đã chia sẻ cho nền TN 23-C176


Bằng cảm nghiệm sâu sắc của riêng mình, Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên đã chia sẻ cho nền thánh nhạc Việt Nam những ca khúc có giá trị về nhiều mặt. Riêng tôi được đánh động bởi lời của ca khúc Từng Ngày Theo Chúa  vì nó rất phù hợp với sứ điệp Lời Chúa hôm nay:

“Từng ngày qua đời con vui dấn thân, trong tình yêu vươn lên để hiến dâng. Ngày tháng qua Chúa đã biết rồi: sống cho Ngài vẫn là một điều khó, thuộc về Ngài là thách đố cho con, có nhiều phen sức con đã mỏi mòn, nhưng Chúa đòi con dâng cho Ngài tất cả để chẳng có gì còn lại ở trong con.”

Hành trình đức tin của chúng ta là từng ngày theo Chúa, giống ngày xưa “có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu” (Lc 14, 25). Nhưng quả thật “sống cho Ngài vẫn là một điều khó”, và “thuộc về Ngài là thách đố cho con”. Chính Đức Giêsu bằng tấm lòng mục tử, đã quay lại để âu yếm nhìn đám đông đang bước đi theo Ngài. Ngài hiểu tâm trạng của từng người nên đã nói với họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em,chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Vì Ngài biết có người ham vui, theo tâm lý đám đông, thấy người ta đi mình cũng đi. Có người nhất thời, lúc mùa màng rãnh rỗi nên đi cho vui. Có người mưu đồ chính trị, tưởng Đức Giêsu lên Giêrusalem để giải phóng dân tộc Israel nên đi theo để được ở trong nhóm đầu tiên dành chính quyền. Có người đi theo vì sự ái mộ Thầy Giêsu, nhất là các cô, các bà. Có người đi theo để làm ăn, buôn bán, vì có đám đông thì tất nhiên phải có nhu cầu ăn uống và nhiều nhu cầu khác…

Đức Giêsu nói với họ phải suy nghĩ kỹ càng về con đường “từng ngày theo Chúa” để có quyết định đúng đắn cho hành trình hiện tại và trong tương lai. Hình ảnh một người xây tháp phải ngồi tính toán phí tổn, hay ông vua trước khi đi giao chiến phải ngồi xuống nhìn xem thực lực của mình (x. Lc 14, 28-33) là để minh họa cho việc làm sống còn của Kitô hữu. Đó là có quyết định bước đi theo Đức Kitô mỗi ngày hay không? Đó chính là việc “Chúa đòi con dâng cho Ngài tất cả để chẳng có gì còn lại ở trong con” ; hay: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 27).

Từng ngày theo Chúa phải là từng ngày từ bỏ. Từ bỏ nào cũng đòi hỏi sự hy sinh, tiếc nuối. Tiếc nuối vì những thứ từ bỏ là những thứ ưa thích, những thứ đem lại lợi ích cho mình. Càng ưa thích thì việc từ bỏ càng khó khăn. Càng lợi ích thì việc từ bỏ càng tiếc nuối. Tuy nhiên nếu biết có một mục tiêu cao cả hơn thì người ta sẵn sàng từ bỏ những ưa thích ngay trước mắt.

Đức Giêsu đã từ bỏ vinh quang của Ngôi Hai Thiên Chúa để trở thành phàm nhân vì mục đích được sống với con người, nhất là những phận người đau khổ. Ngài đã mang lấy thân phận hạt lúa mì, chịu chôn vùi, mục nát để trổ sinh bông hạt là ơn cứu độ cho con người.

Tôma Trần Văn Thiện là một chủng sinh bị bắt khi mới 18 tuổi. Quan thấy chú còn trẻ, tương lai còn dài, mặt mày sáng sủa, nên có thiện cảm, khuyên chú chối đạo, còn hứa gả con gái và sẽ thăng quan tiến chức cho. Nhưng chú Thiện dứt khoát: “Tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo” ; và “Tôi chỉ muốn quyền chức trên trời chứ không muốn quyền chức trần gian”. Có chức có quyền, có vợ đẹp, lại được sống, nhưng Tôma Thiện đã dứt khoát từ bỏ tất cả vì mục đích cao cả hơn, đó chính là hạnh phúc Nước Trời.

Hành trình theo Chúa hằng ngày của chúng ta cũng là hành trình từ bỏ, nhưng trước hết phải nhận ra việc từ bỏ là chính đáng vì thi sĩ triết gia Bùi Giáng đã viết: “Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật, thế cho nên tất bật đến bây giờ”. Ăng-gen cũng đã khẳng định “mọi sự thuộc về vật chất đều không tồn tại”. Cũng trong triết lý đó, nhà thơ Trần Đại Bổng đã viết: “Bàng hoàng ai đánh mà đau, mơ giàu hoang tưởng đẫm màu phù vân!”. Lời Chúa trong sách Giảng viên nói rất rõ: “Phù vân nối tiếp phù vân. Trần gian tất cả chỉ là phù vân” (Gv1, 1). Thế cho nên ta đừng để mình bị bám víu vào bất cứ một giá trị nào thuộc về thế gian này. Nói cách khác, những giá trị đó là tốt, nhưng nếu vì nó mà làm ta mất hạnh phúc Nước Trời thì phải dứt khoát vì thực sự ra nó không vững bền.

Kế đến việc từ bỏ là để ta nhẹ nhàng cất bước. Đavit được vua Saul lấy chính y phục vủa mình mặc cho, lấy mũ chiến bằng đồng đội lên đầu và mặc áo giáp cho câu. Tuy nhiên Đavit thưa với vua rằng: “Con không thể bước đi được với những thứ này, vì con chưa hề thử đến”. Đoạn Đavit cởi bỏ hết. (1Sm 17, 39). Một chủng sinh đi tu mà còn vướng bận chuyện gia đình, cứ lo nghĩ công việc ở nhà không ai tiếp giúp, sợ cha mẹ già không ai phụng dưỡng… thì chắc chắn không thể đi tu được vì bị ràng buộc bởi gia đình. Một tu sĩ vào nhà dòng mà còn đem lòng quyến luyến chuyện tình cảm, đêm ngày cứ nghĩ về một bóng hình nào đó thì làm sao họ có thể toàn tâm toàn ý toàn trí toàn lòng mà bước theo Đức Kitô. Một giáo dân làm ăn buôn bán, đến nhà thờ mà trong đầu cứ phân vân không giờ này biết có khách hàng nào đến công ty mình không, liệu đồ đạc trong nhà có người bảo quản, coi sóc không… Thì làm sao họ thờ phượng Chúa được. Họ còn vướng bận bởi những giá trị của tiền bạc, vật chất. Cởi bỏ những giá trị không đúng đắn hoặc không phù hợp để sống cho một giá trị cao cả hơn.

Từng ngày theo Chúa phải là “vác thập giá hằng ngày mà theo”. Chỉ có một vướng bận duy nhất trong đời ta, là thập giá Đức Kitô: “Đường thập giá cheo leo con bước đi con đường hẹp đầy bao nhiêu khó nguy. Ngài muốn con cứ hãy can trường hiến thân mình sống trọn tình yêu Chúa, từ bỏ mình để sống với tha nhân, chẳng còn toan tính hơn thua danh lợi, mong ước đời con vui dâng Ngài nguyên vẹn như đã ước hẹn một lời nguyền năm xưa”. Khi sống trọn vẹn cho một tình yêu, thì thập giá không còn nặng nề, mà nó sẽ trở thành tình yêu mãnh liệt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Tôi tìm ra một nghịch lý, rằng nếu bạn yêu sâu sắc tới mức đau đớn, sẽ chẳng thể có thêm đau đớn nữa, chỉ có thêm tình yêu”. Đi trọn vẹn con đường thập giá, ta sẽ thêm yêu nhiều hơn.

Ngày lễ suy tôn Thánh giá, cha xứ nói các gia đình mang cây thánh giá theo để cha làm phép, sau đó về treo trong gia đình. Cha xứ thấy có một cặp vợ chồng già chẳng mang thánh giá theo nên hỏi: “Thánh giá của 2 ông bà đâu?” Hai ông bà chỉ nhau và nói: “Thưa cha đây là thánh giá của con, con đã mang mấy chục năm rồi”.

Thay vì tìm cách trốn tránh những khó khăn, những gian nan thử thách thì hãy đi trọn vẹn con đường gian khó đó, ta sẽ cảm nếm được hương vị ngọt ngào của tình yêu.

Khi yêu thương mà không nhận được sự đáp trả, cứ tiếp tục yêu, vì chính lúc đó tình yêu mới là thực sự. Khi làm ơn mà nhận lại bằng sự phụ bạc, cứ tiếp tục làm ơn, vì chính lúc đó Thiên Chúa mới trả ơn cho ta…

Từng ngày theo Chúa là từng ngày chấp nhận từ bỏ mình để vác lên vai cây thập giá, ta sẽ cảm thấy hành trình đức tin tuy còn đó những khó khăn thử thách, nhưng tình yêu sẽ đong đầy và đổ tràn trong từng ngày sống của ta.

Sau cùng, ta hãy cầu nguyện bằng lời của ca khúc Từng Ngày Theo Chúa để thấy được con thập giá của ta không đơn độc mà có Đức Kitô đã từng đi và đang đi với ta: “Xin cho con luôn cảm thấy được rằng: Tình Ngài thương hơn trời cao đất sâu. Đã từ lâu Chúa hằng ủ ấp con, đã từ lâu Ngài chở che giữ gìn. Trước khi con sống cho Ngài thì chính Ngài đã sống cho con. Trước khi con thuộc về Ngài thì từ bao giờ Chúa đã thuộc về con.”

-----------------------------------

 

TN 23-C177: TỪ BỎ ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tầm sư học đạo.” Con người chúng ta cần được trau dồi học hỏi TN 23-C177


Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tầm sư học đạo.” Con người chúng ta cần được trau dồi học hỏi mỗi ngày để thành nhân và thành tài. Để thành nhân và thành tài cần phải có những ông thầy giỏi có tầm và có tâm. Nhiều người Việt Nam khi qua Mỹ đã trở thành những người nổi tiếng trong các lãnh vực khoa học, kỹ thuật và nghiên cứu bởi vì họ may mắn gặp được những thầy giỏi. Ở trong nước, nhiều em từng được gọi là thần đồng nhưng sau đó rất ít em thành tài. Ông Ngô Bảo Châu nhà toán học Việt Nam trở nên giỏi giang nổi tiếng thế giới, nhờ có môi trường và thầy dạy tốt tại nước ngoài. Rất nhiều người Việt đã thành công thành đạt và đang tham gia vào các lãnh vực quan trọng của Hoa Kỳ như trong quân đội, nghiên cứu tại cơ quan Naza hay các lãnh vực chính trị, khoa học xã hội khác là nhờ họ tìm được những người thầy có khả năng dẫn dắt họ.

Để thành công, thành tài, đạt được ước mơ trong cuộc sống cần phải tìm được những người thầy giỏi, thì việc tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời, đạt được mục tiêu đời đời lại càng cần phải có một người thầy giỏi giang, uy tín chỉ cho chúng ta con đường và cách thức để đạt mục tiêu đó. Chỉ có một người Thầy duy nhất có thể chỉ cho chúng ta hạnh phúc đích thực là Nước Trời đó chính là Thầy Giêsu.

Tuy nhiên, mỗi vị thầy đều có những đường lối, cách thức huấn luyện, yêu cầu và những điều kiện khác nhau. Hôm nay, Thầy Giêsu đang trên hành trình lên Giêrusalem, tức là hành trình tiến đến đỉnh cao của sứ mạng giảng dạy và cứu chuộc nhận loại bằng hiến tế thập giá. Khi nghe Thầy Giêsu giảng và thấy các phép lạ, dân chúng tuôn đến và đi theo Ngài rất đông. Chúa Giêsu biết rằng trong số đó, có những người đi theo vì thấy đám đông đi, mình cũng đi; người khác vì thấy phép lạ Chúa làm nên đi theo để xem và có cả những người đi theo vì nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp thực hiện cuộc khởi nghĩa, nên họ muốn tìm một cơ hội may mắn. Nói chung những người đi theo Chúa có rất nhiều mục tiêu khác nhau.

Chúa Giêsu không ngần ngại để đưa ra cho họ hai yêu cầu cần thiết, tiên quyết nếu muốn trở thành môn đệ đích thật của Chúa. Điều kiện thứ nhất: “Ai đến với tôi mà không dám dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi.” Với điều kiện này Chúa không khuyến khích sự chia rẽ vợ chồng, sống vô trách nhiệm hoặc phụ bạc với gia đình của mình, nhưng Chúa đòi một thái độ dứt khoát, biết đặt Chúa làm mục tiêu và là ưu tiên tuyệt đối. Mỗi người đều có các mối liên hệ với cha mẹ, người thân và gia đình. Tuy nhiên, nếu mối liên hệ tình cảm này trở thành bận vướng, trở thành vật cản khiến chúng ta không thể thanh thoát cõi lòng mà theo Chúa, thì đòi chúng ta phải dám hy sinh. Không chỉ hy sinh tình cảm và các mối liên hệ, Chúa Giêsu còn đòi người môn đệ phải dám hy sinh cả mạng sống vì Chúa khi cần.

Điều kiện thứ hai: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ của tôi.” Trở thành học trò của Chúa không phải là tìm kiếm sự dễ dãi thoải mái. Trở thành môn đệ của Thầy Giêsu không thể có cuộc sống lười biếng, ỷ nại hoặc sống tự do, buông thả theo thói đời, nhưng là phải dám bước vào con đường của Chúa, cùng bước một nhịp với Chúa. Trở thành môn đệ của Chúa không phải để được danh vọng hay địa vị theo kiểu trần gian, mà là để mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã không chọn con đường giàu có dễ dãi, nhưng đã chọn con đường khiêm hạ từ bỏ. Ngài từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để đến với con người; Ngài quyền năng nhưng lại chấp nhận sự vâng lời cho đến tận cùng; Ngài là Đấng đem đến sự sống nhưng lại chấp nhận cái chết đau đớn trên thập giá. Vì thế, Ngài đòi các môn đệ muốn theo Chúa cũng phải dám sống từ bỏ. Từ bỏ chính bản thân cùng với những ham muốn lôi kéo của bản năng như ăn uống thoả mãn…và vác thập giá của mình để đi theo Chúa.

Chúa không đòi các môn đệ vác thập giá của Chúa, mà Chúa muốn những người theo Chúa phải dám vác thập giá của chính mình. Thập giá đó có thể là bổn phận và trách nhiệm thường ngày: là ông chồng say rượu cờ bạc, là bà vợ đểnh đoảng lắm điều, là cha mẹ già bệnh tật khó tính, là những đứa con ngoan và cả những đứa con ngỗ nghịch, là gánh nặng cơm áo gạo tiền cho cả gia đình… Thập giá đó cũng là những khó khăn trắc trở trong cuộc sống, công việc, là niềm vui, nỗi buồn mỗi ngày, là những giới hạn của con người cùng với đau yếu bệnh tật mà chúng ta phải mang lấy vào cuộc đời mình. Tất cả những thứ đó là thập giá cuộc đời của mỗi người mà Chúa muốn chúng ta đón nhận một cách vui vẻ và bước đi theo Chúa. Chúa nhấn mạnh là chúng ta phải bước đi theo Chúa. Nếu chúng ta bước vào lối khác chúng ta sẽ lạc đường, nếu chúng ta bước theo một người nào khác, chúng ta sẽ không đạt đến hạnh phúc đời đời.

Những điều kiện và đòi hỏi của Thầy Giêsu quả là một thách thức cho nhiều người. Tuy nhiên, Chúa không ép buộc ai, Ngài chỉ kêu mời: “Ai muốn”làm môn đệ của Ngài thì phải đáp ứng những điều kiện đó. Quyết định trở thành môn đệ của Chúa không thể là một quyết định bồng bột nhất thời, trái lại phải là một quyết định sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc. Vì thế Chúa Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn có cùng một ý nghĩa: “Ai trong anh em muốn xây một cái tháp mà trước tiên không tính toán phí tổn xem mình có hoàn thành được không?Hoặc như một vua kia trước khi ra trận cũng phải tính toán mình đem bao nhiêu quân để đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình. Nếu không đủ binh lực thì phải lo cầu hoà trước.”

Thiên Chúa không bao giờ lừa gạt chúng ta, Ngài nói rõ và chỉ rõ cho chúng ta con đường phải đi để đạt tới cùng đích cuộc đời là thiên đàng; Ngài dạy cho chúng ta biết phải làm những gì để được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa còn cho chúng ta thời giờ để cân nhắc, chọn lựa và quyết định có theo Chúa hay không. Chắc chắn ai dám đáp ứng lại những đòi hỏi của Chúa, thực hiện những điều kiện Chúa muốn thì sẽ đạt được hạnh phúc. Còn ai chần chừ, trì hoãn hoặc từ chối bước theo Chúa thì sẽ bị lạc đường và đi đến chỗ bất hạnh, huỷ diệt. Đó chính là chương trình ý định của Thiên Chúa ngay từ khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, mà tác giả sách Khôn Ngoan trong bài đọc một đã nói: “Nào có ai biết được ý định của Chúa. Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi…Chúng con chỉ là loài thuộc hạ giới làm sao hiểu được. Nhưng chính Ngài đã ban cho chúng con sự Khôn Ngoan và thần khí để uốn nắn lại đường lối của chúng con và dạy chúng con biết sống sao cho đẹp lòng Ngài.”

Thưa quý OBACE, theo Chúa chắc chắn là điều khó, trở nên môn đệ của Chúa chắc chắn phải đáp ứng các điều kiện của Chúa. Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó có thể theo Chúa được, nhưng Thiên Chúa lại ban cho chúng ta sức mạnh và sự nâng đỡ của Ngài để giúp chúng ta có thể chọn và sống đúng với những đòi hỏi là môn đệ của Chúa Giêsu. Chúa đã hướng dẫn ta qua Lời của Chúa và trợ giúp chúng ta bằng các Bí Tích, đặc biệt là Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Qua Lời Chúa mỗi ngày chúng ta nghe, đọc và suy gẫm, Lời Chúa sẽ giúp chúng ta cắt tỉa những gì là bận vướng trong cuộc đời, giúp chúng ta có thể từ bỏ bản thân và những lôi kéo của xác thịt và cuộc sống thế gian. Lời Chúa cũng sẽ chỉ cho chúng ta phải đi sao cho trúng con đường mà Chúa Giêsu đã đi, an ủi chúng ta khi chúng ta mệt mỏi và dẫn chúng ta đến gặp được Chúa. Qua Thánh Lễ và Bí tích Thánh Thể mỗi ngày chúng ta được nuôi dưỡng, được bổ sức và đỡ nâng khi chán nản thất vọng, an ủi khi thất bại đau khổ, để chúng ta luôn vững niềm cậy trông nơi Chúa.

Thập giá hằng ngày của mỗi người là chồng là vợ, là con cái trong gia đình mà mỗi người đều có bổn phận, trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái nên người, nên con Chúa. Có những người vợ, người mẹ, người chồng người cha đang phải mang thánh giá rất nặng trong cuộc sống gia đình của mình mà không dễ dàng để tâm sự hoặc chia sẻ với người khác. Có nhiều hoàn cảnh trớ trêu, trái ngang đang khiến nhiều bậc cha mẹ phải quặn lòng, mất ăn mất ngủ khi nghĩ đến con cái. Không chỉ những gánh nặng tinh thần, thể chất đến từ trong gia đình, mà còn những áp lực từ cuộc sống, công việc, khiến cho nhiều người mệt mỏi muốn buông xuôi…tất cả đều là những thánh giá trong cuộc sống. Chúng ta được mời gọi để đón nhận, vác thập giá theo Chúa, trung thành với giới răn lề luật của Chúa trong mọi hoàn cảnh dù khi giàu hay nghèo, dù vui hay buồn.

Chúng ta tin rằng trở thành môn đệ của Chúa, vác thập giá đời mình theo Chúa, chúng ta sẽ không phải bước đi trong tăm tối một mình, nhưng có Chúa là bạn đồng hành, ngài sẽ nâng đỡ trợ lực cho chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và niềm vui, nhất là khi trung thành theo Chúa tới cùng, Chúa cho chúng ta được chia sẻ vinh quang hạnh phúc đời đời với Chúa. Amen.

------------------------------------

 

TN 23-C178: YÊU CHÚA TRÊN MỌI SỰ


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật này chứng đựng những lời chối tai và khó hiểu đối với con người TN 23-C178


mọi thời. Cần phải giải thích đúng đắn để hiểu được ý nghĩa cốt lõi của nó. Chúng ta hãy nghe thánh Luca tường thuật:

“Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: Nếu ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Tôi. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi… Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi” (Lc 14,25-26.28b).

1- Một lời mời gọi như một thách thức

Có một điều chúng ta cần phải làm rõ ngay lập tức. Nhiều khi Tin Mừng thách thức chúng ta, chứ không bao giờ gây mâu thuẫn. Bằng chứng là ngay trong Tin Mừng Luca, ở phần sau đó, Chúa Giêsu mạnh mẽ đòi hỏi phải tôn kính cha mẹ (x. Lc 18,20), và vợ chồng phải yêu mến nhau, Người nói rằng họ phải trở nên một thân xác và sự gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân li. Vậy tại sao ở đây Chúa lại nói với chúng ta hãy “bỏ” cha mẹ, vợ, con và anh chị em mình?

Để không rơi vào rối rắm ở đây, chúng ta cần lưu ý đến sự kiện này. Tiếng Do Thái không có sự so sánh lớn hơn hoặc nhỏ hơn (ví dụ: “thích điều này hơn điều kia, hay thích điều này ít hơn điều kia); người ta đơn giản và rút lại tất cả vào “yêu hoặc ghét.” Câu nói: “Nếu ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con…” được hiểu theo nghĩa: “Nếu ai đến với Tôi, mà không yêu tôi hơn cha mẹ… thì không thể là môn đệ tôi.” Chỉ cần đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Mátthêu thì rõ hơn: “Ai yêu cha hay mẹ hơn tôi, thì không xứng là môn đệ tôi” (Mt 10,37).

Nhưng với đoạn Tin Mừng này, chúng ta không được bỏ đi chức năng “thách thức” vốn phải được giữ nguyên vẹn. Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu dành cho Người phải vượt lên trên mọi tình yêu dành cho người khác, kể cả những người thân thiết nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả những của riêng mình. Ở đây không đề cập đến tình yêu Chúa theo số lượng, “yêu hơn một chút so với những cái khác,” nhưng tình yêu theo chất lượng, khác biệt và riêng biệt. Thánh Biển Đức nhận ra điều này nên đã để lại trong tu viện ngài châm ngôn: “Tuyệt đối không đặt gì hơn trước tình yêu dành cho Chúa Kitô.”

Chúng ta thường nghe câu nói này: “Tôi còn vợ và con cái.” Câu này có thể có giá trị trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, nhưng không được viện cớ đó để thoái thác trách nhiệm trước lời mời gọi của Đức Kitô. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là sự diễn tả rõ ràng hơn về điều mà ta gọi là tính triệt để của Tin Mừng. Cũng cần lưu ý một điều mà Chúa Giêsu nói nơi khác rằng: “Hãy đến với tôi hỡi những ai đói khát và bị bắt bớ;” còn ở đây xem ra Người nói ngược lại: “Anh em hãy suy nghĩ kỹ, trước khi đến với tôi…” Quả thật, đây là ý nghĩa của dụ ngôn mà Người viện dẫn, để minh chứng cho những lời Người trước đó:
“Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: “Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi.”

2- Một đòi hỏi từ bỏ tận căn

Việc bước theo Chúa Kitô là một chọn lựa và là quyết định hệ trọng liên quan đến toàn bộ đời sống chúng ta. Theo Chúa là sự dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời, là sự chọn lựa triệt để theo Tin Mừng như các tu sĩ nam nữ và các linh mục đã làm, chứ không phải chỉ làm một chuyện đơn giản, nhẹ nhàng, hay là một thứ trang sức cho đời sống.

Chúng ta có thể thắc mắc: Chúa Giêsu là ai mà lại có thể đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con, và của cải? Người có phải là một người điên hay là Thiên Chúa? Nếu Người không phải là Thiên Chúa thì đòi hỏi như thế là quá đáng!

Các nhà chú giải không ngừng tìm kiếm trong Tin Mừng những chứng cớ về thần tính của Chúa Kitô, nghĩa là về sự kiện Người ý thức mình là Con Thiên Chúa. Bài Tin Mừng này là một trong những chứng cớ thuyết phục nhất, dù cách gián tiếp, theo đó Chúa Giêsu tự coi mình là Thiên Chúa. Trong những đòi hỏi này, Chúa Giêsu hành xử mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể hành xử như thế. Bởi vì Người là Thiên Chúa. Người đòi hỏi con người chính điều mà Thiên Chúa đã đòi hỏi người Do Thái trong Cựu Ước: “Các người hãy yêu mến Ta trên hết mọi sự” (Đnl 6,5).

Nhưng có lẽ sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu dành cho Chúa Kitô lại cạnh tranh với tình yêu nhân loại: với cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em. Chúa Kitô không phải là một “đối thủ trong tình yêu” của bất cứ ai và Người cũng không ghen tương với bất cứ người nào. Trong tác phẩm “Chiếc dày láng bóng” của Paul Claudel, nhân vật chính là một người Kitô hữu nhiệt tình nhưng lại chết mê chết mệt chàng Rodrigo, cô đã kêu lên như không thể tin nổi: “Vậy các thụ tạo có được phép yêu nhau bằng tình yêu này không? Thật vậy, Thiên Chúa thì không ghen tương phải không?” Và thiên thần hộ thủ trả lời: “Làm sao Người có thể ghen tương điều chính Người đã làm nên? (Atto III, cảnh 8).

Tình yêu dành cho Đức Kitô không loại trừ tình yêu khác, nhưng làm cho chúng đi vào trật tự. Quả thực, Người là Đấng mà nhờ Người mọi tình yêu đích thực tìm thấy nền tảng, trợ giúp và ân sủng cần thiết để được sống cho đến cùng. Đây là ý nghĩa của “ân sủng bậc sống” mà bí tích hôn nhân mang lại cho các vợ chồng Kitô hữu. Nó đảm bảo rằng họ được trợ giúp và hướng dẫn bởi tình yêu của Chúa Kitô như Người yêu hiền thê của mình là Giáo Hội.

Chúa Giêsu không lừa dối ai. Nhưng Người đòi hỏi chúng ta trao ban tất cả. Bởi vì, Người đã hiến dâng tất cả cho chúng ta. Có thể ai đó thắc mắc: Con người này có quyền gì mà đòi hỏi mọi người một tình yêu tuyệt đối như thế? Không cần phải trở về quá khứ xa xôi, chúng ta có thể tìm thấy trong lịch sử: Chúa Giêsu là người đầu tiên đã hiến dâng tất cả vì loài người: “Ngài đã yêu chúng ta và đã ban tặng chính mình cho chúng ta” (Ep 5,2).

3- Dấu chứng tình yêu đích thực

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về chuẩn mực và dấu chỉ của một tình yêu đích thực dành cho Người: “Hãy vác thập giá mình.” Vác thập giá mình không có nghĩa là tìm kiếm sự đau khổ. Chúa Giêsu không chủ trương tìm kiếm thập giá. Người vác thập giá mình vì vâng phục Chúa Cha và vì ơn cứu độ loài người. Người đã biến đổi thập giá từ một phương tiện của sự dữ trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không đến để làm cho những thập giá con người ra nặng hơn, nhưng đúng hơn, Người mang đến cho chúng một ý nghĩa mới. Thật có lý khi nói rằng: “Hễ ai kiếm tìm Chúa Giêsu mà không có thập giá, sẽ gặp thấy một thập giá mà không có Chúa Giêsu, nghĩa là người đó sẽ tìm thấy thập giá nhưng không tìm thấy sức mạnh để vác thập giá.”

Sách Gương Phúc cảnh báo: “Nếu con sẵn sàng vác thập giá, nó sẽ mang con và dẫn con tới nơi con ước mong, nơi đó đau khổ sẽ kết thúc. Nếu con vác thập giá với tình yêu, thập giá không trở thành gánh nặng dẫu nó có nặng hơn. Nếu con vứt bỏ thập giá, chắc chắn con sẽ thấy thập giá khác, và nó còn nặng hơn… tất cả cuộc đời của Chúa Kitô là thập giá và tử đạo, còn con, con muốn xin cho mình sự nghỉ ngơi và niềm vui chăng?” (II, 12).

Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có một sự đáp trả triệt để theo Người. Chính chân phước Angela thành Foligno giúp chúng ta hiểu điều này. Một ngày kia, khi ngài suy nghĩ về sự thánh thiện, về tình yêu dành cho Chúa, bất ngờ ngài nhận ra rằng lòng mến ngài dành cho Chúa không còn trọn vẹn và hoàn toàn như thánh nhân nghĩ. Quả thật, ngài yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nhưng ngài cũng yêu điều gì đó khác nữa, như yêu những sự an ủi của Chúa. Trong giây phút đó, ngài nghe một tiếng nói của Chúa Giêsu hỏi ngài: “Angela, con muốn gì?” Và với tất cả sức mạnh của lòng mến, ngài kêu lên: “Con chỉ muốn một mình Chúa thôi!”

Mỗi lần chúng ta suy niệm đoạn Tin Mừng này, hy vọng mỗi người cũng kêu lên và quyết định như thế. Con chỉ muốn Chúa mà thôi. Vì có Chúa là có tất cả. Amen!

--------------------------------

 

TN 23-C179: THẬP GIÁ LÀ GÌ?


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,25-27).

 

Những lời của Chúa Giêsu nói với đám dông dân chúng đi theo Người quả là “chói tai”. Làm sao TN 23-C179


Những lời của Chúa Giêsu nói với đám dông dân chúng đi theo Người quả là “chói tai”. Làm sao có thể sống đúng phẩm vị con người khi dứt bỏ các nghĩa tình tự nhiên của gia đình? Các nhà nghiên cứu Tin Mừng cho chúng ta biết đây là kiểu nói so sánh của người Do Thái thời bấy giờ. Từ bỏ điều gì đó không phải vì nó không tốt nhưng vì nó tốt thua điều sẽ chọn. Đạo hiếu thảo và tình gia đình vốn là tốt nhưng chúng vẫn thua Đấng lập nên chúng. Đến đây chúng ta mới hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu khi Phêrô thưa: Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy thì Người đã đáp lại ai bỏ nhà cửa, anh chị em… vì Thầy thì sẽ được gấp trăm những gì đã từ bỏ ngay cả ở đời này, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu ở đời sau (x.Mc 10,28-30).

Xin đặc biệt đề cập đến nội dung thứ hai như là điều kiện tất yếu để có thể làm môn đệ Chúa Giêsu đó là vác lấy thập giá chính mình. Để có thể hiểu mầu nhiệm thập giá thì chúng ta cần phải nắm rõ thập giá theo tính lịch sử của nó.

Thập giá tự nó là một sự dữ mà đế quốc Rôma dùng như án hình áp đặt lên người dân bị trị. Những ai có quốc tịch Roma như thánh Phaolô thì không bị án hình này. Thời bấy giờ quan Philatô thường áp dụng án hình này để trừng trị nhiều người Do Thái, cách riêng những người “làm cách mạng” chống đối Chính quyền đế quốc đang đô hộ dân tộc họ. Như thế xét về lịch sử thời bấy giờ thì những người phải vác thập giá và chết trên thập giá là những người can đảm hiến dâng mạng sống vì nền độc lập tự do của dân tộc. Và ngược lại thập giá là công cụ để Chính quyền đế quốc kìm kẹp dân bị trị trong kiếp nô lệ.

Chúa Giêsu trên đường rao giảng Tin Mừng đã nhiều lần tiên báo án hình thập giá mà Người phải chịu. Người chấp nhận thập giá không phải là để giải phóng dân tộc Do Thái ra khỏi ách nô lệ của đế quốc Rôma nhưng là để giải thoát mọi người ra khỏi ách nô lệ của thần dữ mà bước vào đời sống tự do của con cái Cha trên trời. Cái giá phải trả cho sự tự do của nhân loại không dễ dàng chút nào. Có khi Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem để gánh lấy nó, nhưng Người cũng đã đôi lần xao xuyến và đã đổ mồ hôi pha lẫn máu trong vườn cây dầu (x.Lc 22,44).

Các thế lực bạo quyền ngày nay vẫn còn dùng “thập giá” để kìm kẹp người dân trong cảnh nô lệ. Dù chẳng còn là hai thanh gỗ chéo nhau như xưa, nhưng vẫn là sự bắt bớ, đàn áp dựa trên những chính sách, cơ chế, luật lệ bất chính, bất minh. Vì một nền dân chủ và sự tự do cho quê hương, cho dân tộc thì đã và đang có đó rất, rất nhiều người can đảm vác lấy “thập giá”. Hàng vạn vạn người dân Hồng Kông, cách riêng các bạn trẻ xuống đường biểu tình trong thời gian gần đây dù bị bách hại là một minh chứng điển hình.

Thần dữ vẫn còn giam cầm con người bằng “thập giá” là những nỗi sợ hãi, sợ khổ, sợ khó, sợ hy sinh… để bắt con người mãi mang kiếp nô lệ sự hưởng thụ ích kỷ, làm tôi sự tham lam vô độ, làm đầy tớ các danh vọng chóng qua…

Theo thiển ý, để có thể làm môn đệ Chúa Kitô thì:

-Không được phép đặt “thập giá” lên đầu lên cổ bất cứ ai. Không được kìm hãm tha nhân trong vòng nô lệ dưới bất cứ hình thức nào. Không được góp tay cách trực tiếp hay gián tiếp cho bạo quyền cũng như cho thần dữ.

-Phải can đảm vác lấy thập giá khi sự tự do của bản thân, của tha nhân, của dân tộc…nhất là sự tự do của đời con cái Chúa đòi hỏi chúng ta dõi bước theo chân Thầy Chí Thánh Giêsu.

Thập giá không dễ vác chút nào, chính vì thế cần phải tập luyện dần dần. Ước gì chúng ta biết khởi đi từ việc tập nói không với sự hưởng thụ, tiến đến nói không với sự thỏa hiệp để được an thân, thủ phận và rồi chúng ta sẽ biết nói không, không chấp nhận cảnh kiếp đời nô lệ, vong thân. Và mong sao chúng ta có chút xác tín rằng mình không bao giờ lẽ loi đơn côi khi phải đối diện với thử thách, gian khổ, vì Đấng vác thập giá lên đỉnh đồi Can-vê năm xưa đã chiến thắng ác thần và Người mãi đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20).

--------------------------------

 

TN 23-C180: MINH ĐỊNH LỜI NÓI


P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,

 

Lời nói là một phương tiện của tư tưởng, hệ quả của suy nghĩ, tuy “Lời nói gió bay (lung lay), việc TN 23-C180


Lời nói là một phương tiện của tư tưởng, hệ quả của suy nghĩ, tuy “Lời nói gió bay (lung lay), việc (hành động) hay, thì lôi kéo”, nhưng , lời nói mà minh định, thì mới hướng dẫn hành động,hầu phát sinh ra hành động đúng, hành động tốt, có lợi cho chính chúng ta và tha nhân, vâng , đó là sự giàu có đích thực. Sự giàu có đích thực phát xuất từ sự khiêm nhường thật , vì sự khiêm nhường thất chính là “ CHÂN LÝ ”, và Chân Lý là chính Thiên Chúa thật. Ai cũng biết tư tưởng biện minh cho hành động, tư tưởng phát ra lời nói, vì vậy, nếu lời nói thiếu minh định thì không thể có hành động tốt được. Như vậy, lời nói rất cần sự minh định, hay nói khác đi, muốn có hành động đúng đắn, cần minh định lời nói.

Rõ ràng chúng ta thấy, Lời Tin Mừng chính là “Lời Minh Định”, trải qua muôn thế hệ, Lời Tin Mừng vẫn mang một giá trị bất biến, vì vậy, được gọi là “ Lời Hằng Sống”, hay là “ Phúc Âm”, nghĩa là: “Lời nói mang lại sự hạnh phúc” cho người khác. Vâng, suy niệm Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Lc 14, 25 -33) chúng ta thấy, một lần nữa, chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rõ điều ấy :” minh định “ lời nói. Lời nói luôn luôn đi trước hành động, vì lời nói phát xuất từ tư tưởng, nếu tư tưởng có chân lý, thì lời nói khôn ngoan, mặc nhiên hành động sáng suốt.

Từ đó, chúng ta thấy, Lời Tin Mừng được xuất phất từ tư tưởng của Thiên Chúa, vì :” Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng cao hơn tư tưởng của nhân sinh bấy nhiêu”, Thiên Chúa đã phán như vậy trong Cựu Ứơc. Vâng, đó là chân lý, ai nhìn nhận chân lý, thì nơi họ có Thiên Chúa. Như vậy, Lời của Chúa Giêsu, chính là Lời cúa Thiên Chúa. Vì thế , chúng ta thấy, Chúa Giêsu không quanh co, Người nói dứt khoát, rõ ràng, minh bạch, sự đòi hỏi bước theo Người, là một sự đòi hỏi : “dứt khoát”, không do dự , vì : “Ai muốn theo Tôi mà không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo, thì không thể làm môn đệ Tôi được” ( Lc 14, 27).

Vâng, thập giá là “sự từ bỏ”, từ bỏ chính mình, tiếp đến từ bỏ người thân, sự từ bỏ ở đây không phải là phản bội, sự từ bỏ ở đây là đặt Chúa lên trên tất cả, và như thế mới nhận lại được chính Chúa, là nguồn mạch chân lý và tình yêu cách vô biên. Rõ ràng, mới nghe, tưởng chừng như Chúa không có “TÌNH“, chỉ đòi hỏi lý mà thôi, nhưng kỳ thật, Chúa sẽ đền bù gấp trăm ngay cả những gì mình dâng cho Chúa. Điều kiện “ từ bỏ” xem chừng “khắt khe”, “vô lý” nhưng kỳ thực là hữu lý, bởi vì, nếu không từ bỏ, chắc chắn không làm được việc chung, nếu không từ bỏ cái riêng, thì làm sao làm được cái chung. Vì, chỉ có Chúa đứng trên tất cả, thì khi chúng ta nhận lại,  cũng trên tất cả là chính Chúa. Thiên Chúa là như thế, khác với phàm nhân, khi họ khai thác chúng ta, lợi dụng chúng ta, thì họ sẽ vô ơn , vô trách nhiệm với chúng ta, vì họ là phàm nhân, lúc đó, chúng ta bị “lừa” là như vậy. Vì , bản tính phàm nhân và bản tính Thiên Chúa thì khác nhau là như vậy. Vì, những gì chúng ta dâng cho Chúa sẽ không mất đi. Đọc Đoạn Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa thật chí “TÌNH “ qua Lời minh định của Chúa Giêsu.

.Tất cả những ai muốn làm môn đệ của Chúa, mà không thực thi Ý Chúa, thì không hợp lý, bởi vì, không thể có “cái tôi” trong công cuộc đại sự là công trình Cứu Độ. Chúa không ích kỷ, nhưng Người đại lượng.

Điều kiện để bước theo Chúa Giêsu không phải là tài năng, học thức cao, bằng cấp hay trí tuệ siêu phàm, mà là “sự từ bỏ”. Nếu mình có trí tuệ, mà mình bước theo Chúa Giêsu, nhưng mình không “từ bỏ”, tức hãm dẹp minh đi, thì mặc nhiên “trí tuệ” tư tưởng của Thiên Chúa không ở với mình, thì chúng ta thấy thật vô lý, hoài phí, mất công.

Nói tóm lại, dù mình muốn làm môn đệ ai đó, siêu phàm xuất chúng, mặc nhiên, phải làm theo ý của người đó, huống chi , là Thiên Chúa, Ngài là Đấng Toàn Năng. Nếu ai đó, có một vài năng, thì đã siêu phàm, nhưng, Thiên Chúa toàn năng, thì sự “ từ bỏ” nơi mình là điều không “ bị lỗ”.

Phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay, chính là phần triển khai phần trên. Là Lời minh định cách dứt khoát khi muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta phải từ tỏ tất cả. Suy nghĩ trước khi quyết định , cân nhắc xem, mình có trung tín bước theo Người hay không? Nếu không, bỏ giữa chừng thì thật khốn đốn, người đời cười chê : “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba tu xuất”. Thì thật đáng thương.

Chúa Giêsu không đòi hỏi những gì lớn lao nơi người muốn làm môn đệ của Người, Người chỉ đòi hỏi “ từ bỏ” những gì người ấy có, nghĩa là trung tín, dứt khoát từ bỏ tất cả những gì mình có để làm môn đệ Chúa. Sự đòi hỏi nầy được Chúa đặt ra như là một “ công thức” chi tiết như một sự khởi đi và hoàn tất.

Sự khởi đi và hoàn tất một chặng đường bước theo Chúa Giêsu để được làm môn đệ Người, không phải chỉ là ngày một, ngày hai làm gì cho Chúa, mà là “ hiến dâng” tất cả những gì mình có. Vì , “từ bỏ” là “ hiến dâng”, hiến dâng là tặng ban, và như thế nếu chúng ta “tặng” cho Thiên Chúa một, thì Người đền bù gấp trăm.

Sự trung tín từ bỏ tất cả để được bước theo Chúa Giêsu, được tính toán như  khởi công xây cất một công trình của cuộc đời chúng ta, được đặt ra để đón nhận một “ân sủng” vô biên, một sự “trao đổi” công bằng bởi một “LỜI MINH ĐỊNH “ của một Ngôi Vị Thiên Chúa cách dứt khoát, mà bên trong là một sự “đai lượng” vô biên. Mong thay.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu thấu giá trị Lời Chúa, hầu minh định dứt khoát cho chúng con khi bước theo Người, nhờ đó sẽ mang lại cho chúng con hoa trái gấp trăm là chính Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời ./. Amen

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa ngay hôm nay.

--------------------------------

 

TN 23-C181: TỪ BỎ NHỮNG GÌ THÂN THIẾT, ĐẶC BIỆT LÀ CỦA CẢI


Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

 

Chúa Giêsu rao giảng tình yêu chứ không phải hận thù. Ngài không hề nghĩ đến việc phế bỏ TN 23-C181


1–. Chúa Giêsu rao giảng tình yêu chứ không phải hận thù. Ngài không hề nghĩ đến việc phế bỏ giới luật thứ tư (Lc 18,19-20) về tình yêu và lòng tôn kính phải có đối với cha mẹ. Do đó đừng ai bực mình khó chịu vì câu Ngài nói có vẻ cứng rắn: “ghét cha, ghét mẹ, ghét bản thân mình”, ngôn ngữ Hy bá diễn tả ý niệm thích hơn (preférence) bằng lối văn đối ngẫu: yêu – ghét. Thay vì nói: Thiên Chúa thích Giacop hơn Esau, tiếng Hy bá nói: “Ta thương Giacop và ghét Esau” (Mal 1,2-3). Trong ngôn ngữ Seemit, “ghét” đồng nghĩa với: hững hờ, để vào hàng phụ thuộc (x. Stk 29,30.31.33; Đnl 15,21-22; Qa 14,16; …). sau khi điều chỉnh thể văn sêmit, ta có thể đọc: “Nếu ai đến với Ta mà yêu cha mẹ, yêu bản thân hơn Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.

2–. Các đám đông hâm mộ Chúa Giêsu chắc hẳn xem việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Chúa Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Chúa Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài: họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Chúa Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.

3–. Hai dụ ngôn tiếp theo thật khó giải thích; không phải tự chúng khó hiểu, thực ra chúng rất đơn sơ, cả hai đều nói lên cùng một ý tưởng: người quyết định làm ăn lớn, thì phải điều nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng và phương tiện xem mình đủ sức thực hiện chăng. Nhưng còn cho đó nữa. Cả hai dụ ngôn đều đưa ra một sự lựa chọn: xây hay không xây tháp; gây chiến hay hòa hoãn. Khó khăn là ở chỗ đó, chắc hẳn không phải là dụ ngôn khó hiểu nhưng là khó áp dụng hai dụ ngôn đó vào hoàn cảnh của các môn đệ. Vì theo nghĩa nào mà mỗi người có thể tự do lựa chọn trước lời Thiên Chúa mời gọi theo Ngài? Vì khó khăn đó, nên các nhà chú giải chia rẽ nhau về lối giải thích toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu. Người thì cho rằng toàn bộ giáo huấn nhắm đến mọi Kitô hữu nói chung, kẻ khác chủ trương giáo huấn đó chỉ nhắm đến các môn đệ mà thôi, nghĩa là những kẻ chỉ tuyệt đối bám víu vào Chúa Giêsu, nên từ bỏ nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình để theo Ngài. Chúng ta cùng xét hai lập trường đó cách chi tiết.

a/ Nhóm thứ nhất (Pirot, Jeremias, Hunter, Harrington… ) nhấn mạnh đến sự kiện cả hai dụ ngôn đều nói đến sự cần thiết phải hoàn toàn dấn thân theo Đức Kitô, chứ không được dấn thân nửa vời. Vì như đã viết trong hai dụ ngôn: “bắt đầu ngồi lại: “để tính toán” – “để tự xét mình”. Do đó hai dụ ngôn xem ra muốn làm nổi bật nhu cầu phải dấn thân theo Đức Kitô, với đầy đủ ý thức về các yêu sách từ bỏ mà việc dấn thân đó đòi hỏi. Trước khi dấn thân mạo hiểm, phải xác tín mình có thể mình đến đích an toàn. Nhưng nhóm tác giả này không tiếp tục phân tích sâu xa hơn. Đặc biệt, hình như họ không thận thấy điểm này: người được Đức Kitô kêu gọi sống tinh thần phúc âm, không còn tự do theo hay không theo Ngài, mà phải tuyệt đối đáp lại lời mời gọi đó, nếu không sẽ không được vào vương quốc. Phúc âm đã nhiều lần nhấn mạnh đến sự cần thiết phải dấn thân theo Đức Kitô, chứ không thể đứng trung lập, làm tôi hai chủ. Với viễn ảnh này, người ta thấy khó lòng chấp nhận lối chú giải thứ nhất – cho đủ mạch văn (“dân chúng đông đảo: của c.25) và kiểu nói chung chung (“ai”, trong c.27 và 33) thoạt nhìn có vẻ nghiêng theo lối chú giải đó.

Tuy nhiên, một vài tác giả thuộc nhóm thứ nhất này, ý thức được khó khăn trên (ví dụ Huby), chấp nhận lối chú giải phổ quát của đoạn văn hôm nay, nhưng thay đổi “giọng điệu” hay “cao điểm” của hai hai dụ ngôn. Cha Huby viết: “Nếu muốn theo Chúa Giêsu Kitô, phải muốn những gì tình yêu Ngài đòi hỏi: không thể hiến mình nửa vời, phải tận hiến đến cùng. Có hai hình ảnh soi sáng chân lý đó. Chúng không nhằm giúp ta phỏng đoán sức lực mình trước khi bắt đầu công việc cứu rỗi mình, như thế chúng ta không bị bó buộc phải thi hành công việc đó. Nhưng chúng nhằm tẩy trừ mọi ý tưởng chủ bại, thối lui, một khi đã dấn thân theo Chúa Giêsu nhằm khắc ghi trong tâm trí chúng ta rằng phải từ bỏ liên lỉ. Phải hành động như người địa chủ khôn ngoan dự tính xây tháp. Vì đã cẩn thận tính toán mọi phí tổn, nên ông sẽ hoàn tất tốt dự tính của mình… hoặc hơn thế nữa, phải xử sự như vua kia, trước khi đi giao chiến với quân thù, tính toán khả năng hai đạo quân, để giải quyết vấn đề kịp thời. Nếu biết sức mình yếu ông sẽ không giao chiến. Điều ông muốn không phải là hòa bình cho bằng là tránh mạo hiểm, liều mạng. Trong trường hợp không thể có hòa bình bằng chiến thắng, ông cam lòng chấp nhận thứ hòa bình xây dựng trên hiệp thương… Cũng vậy, hãy hành ộng như những người địa chủ xây tháp hay như ông vua ra trận, vì “niềm ao ước đích thực sẽ tìm mọi cách để thực hiện điều mình ao ước” (Evangile selon saint Luc,41è éd., Beauchesne, 1947,p.291-292).

Lối chú giải đó thật hấp dẫn và khéo léo, nhưng không chắc có thể thỏa mãn mọi người. Vì hình như lối giải thích đó hơi bị gượng ép. Thực vậy, chính bản văn về hai dụ ngôn nhấn mạnh đến việc suy tính trước khi dấn thân, trong lúc Huby nhấn mạnh đến sự cương quyết dấn thân cho đến cùng một khi đã quyết định dấn thân. Tôi thiết nghĩ Huby đã nhấn mạnh sai chỗ, làm hỏng bài học của dụ ngôn. Dù sao, lối chú giải của dụ ngôn là lối chú giải duy nhất trong nhóm thứ nhất trong nhóm thứ nhất có thể làm ta nhận rằng: ở đây Chúa Giêsu ngỏ lời cách tổng quát với bất cứ ai muốn trở thành Kitô hữu.

b/ Nhóm thứ hai chú ý đến những ai đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Các phúc âm đã biết rõ phương thế đặc biệt để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, đó chính là phương thế các tông đồ đã làm để theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đòi buộc mọi tín hữu phải khước từ hôn nhân, nhưng chỉ đòi “những ai có thể hiểu lời đó” (Mt 19,12). Ngài không đòi tất cả phải hoàn toàn từ bỏ tiền bạc và quyền tư hữu. Ông Giakêu thu thuế đã không từ bỏ của cải, sau khi đã hoán cải (Lc 19,1-10). Các bà xứ Galile đã không từ bỏ mọi thứ họ có (Lc 8,3). Và trong các chương đầu sách Cvsđ, khi mô tả cộng đoàn nguyên thủy, Lc cho thấy họ không sống lối khó nghèo tận căn như lới khó nghèo mà các môn đệ đúng nghĩa đã sống (ví dụ Phêrô với tín đồ Anania: “Khi còn của, thì nó vẫn là của ngươi, mà bán đi, thì về giá cả ngươi vẫn tự quyền” (Cvsđ 5,14).

Vậy khi đề cập đến tính cách sâu xa của việc môn đệ dấn thân, theo đoạn văn Lc hôm nay, Chúa Giêsu nói đến cách thức đi theo Ngài: cách thức thật chặt chẽ và hoàn toàn. Và để có thể theo Ngài như thế, lòng hăng say ban đầu không đủ. Vì cách thức đi theo Ngài đây kiên hệ mật thiết với sự từ bỏ tận căn – từ bỏ những cái xem ra rất cần thiết cho đời sống. Do đó phải suy nghĩ chín chắn trước khi theo Chúa Giêsu kiểu đó. Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo như thế nhiều nơi khác trong Phúc âm. Đó cũng chính là cách Chúa Giêsu đã trả lời người kia muốn dấn thân theo Ngài “Bất cứ Ngài đi đâu” (nghĩa là trở thành môn đệ đúng nghĩa) : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có nơi gối đầu (Lc 9,57-58). Chúa Giêsu xin người tận hiến kiểu đó nên suy nghĩ, vì như thế đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh – tuy nhiên điều này không có ý nói, khi Chúa Giêsu đích thân kêu gọi ai, thì người đó có thể từ chối. Khi Chúa mời gọi, không ai có quyền từ chối.

Lối chú giải thứ hai ít gặp khó khăn hơn lối chú giải thứ nhất. Nó có lợi điểm này là tránh không làm người ta xem việc lựa chọn để thành Kitô hữu là một lựa chọn tùy ý, tùy sở thích (vì lối chú giải thứ 2 này nói đến việc chọn lựa để thành môn đệ), và có ưu điểm là trùng hợp với học thuyết Lc về việc phân biệt người Kitô hữu nói chung với người môn đệ đúng nghĩa. Tuy nhiên, lối chú giải này vẫn chưa hoàn toàn thỏa đáng. Vì nó giả thiết chữ “môn đệ” chỉ cách nhau vài câu mà lại có 2 nghĩa khác biệt: phần đầu đoạn văn (cc.25-27) nói về sự cần thiết phải yêu Đức Kitô hơn hết mọi liên hệ nhân bản, được áp dụng cho Kitô hữu nói chung, trong khi hai dụ ngôn và lời khuyên từ bỏ của cải xem ra chỉ áp dụng cho các môn đệ đúng nghĩa. Lối chuyển nghĩa trong chữ “môn đệ” như thế không mất tự nhiên. Tuy nhiên điều đó không lạ gì và có thể giải thích cách tốt đẹp nếu Lc đã muốn góp nhặt trong một đoản văn các lời nói rời rạc của truyền thống phúc âm về việc “đi theo” Chúa Giêsu.

Để kết thúc, tôi xem lối chú giải thứ hai có vẻ đúng hơn, dù lối chú giải đó có một vài khó khăn chưa được giải quyết (ví dụ được bản văn không có chi phân biệt người Kitô hữu và người môn đệ cả). Nhưng các khó khăn đó có thể xảy ra do sự kiện người cuối cùng soạn thảo phúc âm Lc cảm thấy phải thu góp thành một khối tất cả các lời Chúa Giêsu nói trong nhiều trường hợp khác nhau, với nhiều cử tọa khác biệt.

KẾT LUẬN

Đám đông dân chúng cùng đi với Chúa Giêsu tượng trưng đoàn người đông đảo, qua mọi thế hệ, đã và đang ngưỡng mộ Chúa Giêsu. Tuy nhiên qua sự kiện đó, không phải tất cả đều là môn đệ Ngài. Vì để thành môn đệ phải theo Ngài, nghĩa là trước hết phải yêu Ngài. Và tình yêu này có nhiều yêu sách vượt bậc.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

Dùng lời nói và phép lạ để làm dân chúng hăng say cách nhất thời là việc tương đối dễ. Chúa Giêsu không thích kiểu thành công ngoại diện đó để có những đoàn người hăng say vây quanh Ngài. Ngài biết rằng số môn đệ đích thực, đủ sức kiên tâm bền chí không nhiều đâu (Gio 2,23-25). Vì thế một lần nữa, Ngài muốn thính giả lưu ý đến sự nghiêm chỉnh Ngài mong chờ nơi những người muốn theo Ngài và giáo lý của Ngài (x. Lc 9,23-26.57-62), Nếu nghĩ đến viễn cảnh bắt bớ sẽ đến sau này, ta mới hiểu việc Chúa Giêsu đòi hỏi cần có nghị lực để đương đầu với các mối bất hòa trong gia đình, sự nguy hiểm đến tính mạng và tịch thu tài sản… Đối với chúng ta theo Đức Kitô có nghĩa là: chọn lựa hy sinh, sẵn sàng chết vì đạo, như cha ông ta đã làm. Và để có sức chịu đựng các yêu sách của Đức Kitô lúc bấy giờ, thì ngay bây giờ chúng ta phải sống các yêu sách đó trong cuộc sống cụ thể, hiện tại của chúng ta.

Trong ngôn ngữ thánh kinh, “ghét” có nghĩa là “yêu ít hơn” hay “chỉ yêu vào hàng thứ yếu”. Yêu Đức Kitô hơn các người khác (dù là người thân trong gia đình) sẽ được hiểu dễ dàng khi biết rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Tình yêu đó có vẻ quá đáng đối với những ai không biết phẩm vị đích thực của Chúa Giêsu.

Yêu Chúa Giêsu hơn yêu gia đình, tình yêu đó có thể có nhiều hình thức: trong thời bách hại, hãy chấp nhận mình có thể bị tố cáo hay bị người thân theo dõi, bắt bớ (Mt 10,21); thời bình, hãy sống thật đạo đức thánh thiện ngay trong gia đình, dù là gia đình hờ hững hay chống đạo (Mt 10,34-37); từ chối lập gia đình vì muốn dâng cho Thiên Chúa một tình yêu lành thánh trinh khiết (1Cor 7,7). Trong các trường hợp đó, người Kitô hữu trong tình yêu Thiên Chúa đem đến, sẽ nhận được gấp trăm điều họ đã từ bỏ về phương diện tình cảm, nhằm để phục vụ môt lý tưởng cao đẹp hơn (Mt 19,29).

Hai dụ ngôn trong phúc âm hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng việc dấn thân phục vụ Chúa không phải là một vấn đề thuần túy hình thức, đăng ký vào sổ bộ, mang nhãn hiệu … Đời sống Kitô hữu là một công việc nghiêm túc mà ta phải để tâm lưu ý và săn sóc như đã từng để ý chăm nom các công việc trong đời tư (xây nhà) hay việc chung (đánh giặc). Khi muốn xây nhà hay tự vệ chống đối phương, ta phải dùng mọi phương thế để thành công, để đạt đến đích. Cũng thế phải nghiêm túc sống đời Kitô hữu và thực hành đến cùng các yêu sách luân lý, vì đời Kitô hữu là đời từ bỏ, nỗ lực phấn đấu và kiên trì. Sống nửa vời không ích gì, nếu cuối cùng ma quỉ đến cám dỗ chúng ta chối bỏ Đức Kitô. Phải tự tổ chức đời mình để phụng sự Chúa. Để được như vậy, cần phải khiêm tốn xin Ngài ban ơn vì “nếu Chúa không xây nhà, thợ nề làm việc cũng uổng công, nếu Chúa không giữ thành, bộ đội giữ thành cũng không xong” (Tv 127,1). Nhưng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ hoàn tất ngôi nhà lộng lẫy là đời Kitô hữu chúng ta, được xây móng từ ngày chúng ta lãnh bí tích rửa tội, và chúng ta sẽ chiến thắng kẻ thù của tâm hồn chúng ta. Và ngày phán xét, Chúa sẽ công nhận chúng ta là môn đệ của Ngài trước mặt Chúa Cha và toàn thể các thánh.

--------------------------------

 

TN 23-C182: CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN. NĂM C


Lm. Antôn

 

Một trong những bài học quan trọng trong Kinh thánh được lập đi lập lại nhiều lần đó là từ TN 23-C182


Một trong những bài học quan trọng trong Kinh thánh được lập đi lập lại nhiều lần đó là từ bỏ.   Đây là một điều kiện, đòi hỏi khó khăn nhưng rất cần thiết cho những ai tin theo Chúa và muốn được vào Nước trời.  Trong Kinh thánh Cựu ước, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đi kêu gọi dân của Người từ bỏ sự thờ phượng thần ngoại giáo, từ bỏ cuộc sống bất chính, lầm lạc và tội lỗi, ăn năn quay trở về với Chúa thì sẽ được Người cứu thoát khỏi bị xâm lăng và cuộc sống lưu đày đau khổ, lầm than sắp xảy ra.  Nhưng dân Do thái, dân riêng của Chúa, vì lòng cứng cỏi và chai đá, cho nên nhiều lần họ đã phải chịu cảnh bị bắt đi làm nô lệ và sống trong khổ cực và lầm than.  Chúng ta thấy trong bài đọc 1 trích sách khôn ngoan, Thiên Chúa kêu gọi mọi người hãy từ bỏ cuộc sống theo ý riêng mình, khôn ngoan nghe và sống thánh ý Chúa thì sẽ được bình an và cứu rỗi.

Khôn ngoan là một trong 7 ơn Chúa Thánh Thần, và là một nhân đức mà ai cũng khao khát và tìm kiếm.  Trong xã hội, chúng ta thấy vua hay tổng thống đều có những cố vấn, những người khôn ngoan, để giúp ý kiến trong việc quyết định hay lựa chọn đường lối.  Trong sự liên hệ, ai cũng muốn tìm một người  khôn ngoan để xin giúp ý kiến hay hướng dẫn trước những quyết định quan trọng liên quan đến cuộc sống.  Đối với người Ki-tô hữu, khi đối diện hay đứng trước những khó khăn cuộc sống, hay khi phải quyết định, chúng ta tìm đến Chúa và lời khôn ngoan của Người.  Hay muốn có bình an và sức mạnh, hay muốn có đời sống đạo đức, tốt lành, ngay thẳng và ơn lành, chúng ta tìm đến Chúa và sống lời khôn ngoan của Người.  Hay muốn trở thành những Ki-tô hữu chính đáng và đích thực, chúng ta phải tìm sự khôn ngoan, thánh ý của Chúa và can đảm sống lời Chúa dạy.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố với dân chúng đang đi theo Người trên con đường lên Giê-ru-sa-lem:  “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.”

Chắc chắn từ bỏ và vác thập giá là những điều thật khó hiểu và là một thách đố lớn đối với mỗi người chúng ta hôm nay, mặc dù chúng ta đã là những Kitô hữu, môn đệ của Chúa. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên đây là chỉ nói với dân chúng ngày xưa, hay với những người đi tu như linh mục hay tu sĩ ngày nay thôi.  Nhưng không phải hoàn toàn như thế, vì Chúa cũng muốn nói và dạy mọi người chúng ta hôm nay bài học về cách sống để trở thành người Ki-tô hữu và môn đệ đích thực của Người.

Trước tiên về bài học từ bỏ.  Chúng ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố vấn đề từ bỏ này rõ ràng, thẳng thắn và không úp mở. Nhiều người tự hỏi rằng từ bỏ như Chúa Giêsu đòi hỏi làm sao mà sống được?   Làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình hay vô nghĩa?  Vậy thì phải hiểu lời Chúa dạy như thế nào?  Và tại sao muốn trở thành Ki-tô hữu và môn đệ chính đáng thì phải từ bỏ?

Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới những người thân thuộc trong gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn đề cập tới những gì thân thiết nhất của mình.  Chúng ta biết chắc chắn Chúa không coi nhẹ những liên hệ gia đình và mạng sống.  Ở đây chúng ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa.  Chúa không dạy bảo chúng ta phải từ bỏ những thứ vừa kể trên một cách vô lý, mà là từ bỏ nếu như chúng làm bận vướng, ngăn trở cho việc đi theo Chúa và hạnh phúc Nước trời.  Gia đình là tốt, mạng sống là cần.  Yêu thương và gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy 2 thứ đó trở thành sự ngăn cản sống đức tin, sống Lời Chúa, hay cám dỗ chúng ta phạm tội, nhất là lôi cuốn, xúi dục chúng ta xa Chúa, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người Ki-tô hữu, môn đệ phải can đảm từ bỏ.  Từ bỏ mạng sống, những sự thân thiết, thì khó khăn hơn.  Những sự thân thiết mà Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ ở đây là những thói hư, tật xấu như gian tham và nghiện ngập.  Khó khăn nhất là từ bỏ sự tự ái, ích kỷ, lười biếng, cứng cỏi và lạnh nhạt.  Vậy chúng ta hãy tự hỏi phải từ bỏ những gì để trở thành người Ki-tô hữu chân chính và đích thực của Chúa?

Bài học thứ hai là vác thập giá.  Tại sao đi theo Chúa phải vác thập giá?  Trước hết, chúng ta nhận biết vì yêu thương và muốn cứu chuộc chúng ta, Chúa đã vâng lời và khiêm nhường xuống trần, sinh ra trong cảnh nghèo hèn và trở thành con người như chúng ta.  Chúa đã hy sinh sống đơn sơ và khó khăn rao giảng Tin mừng tình yêu và hạnh phúc Nước trời trước những sự thiếu thốn, khinh thường, chê bai và chống đối của dân chúng.  Cuối cùng, Chúa đã phải vác và chết trên thập giá vì và cho chúng ta. Đó là con đường Chúa đã đi và cũng là con đường mà chúng ta phải đi, con đường thập giá, để có thể tiến đến sự vinh quang phục sinh như Chúa đã đến.  Do đó thập giá mà Chúa đề cập và muốn chúng ta vác để đi theo Người là sẵn sàng và vui mừng chịu đau khổ, thiệt thòi, có lòng bác ái, quảng đại, biết quên mình, và có tấm lòng hy sinh để phục vụ tha nhân vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa, và để xây dựng Nước Chúa.

Xin Chúa nâng đở và củng cố đức tin, ban sức mạnh để chúng ta thành tâm sống lời khôn ngoan Chúa dạy, từ bỏ những điều không đẹp lòng Chúa, can đảm trở thành những môn đệ, Ki-tô hữu đích thực làm sáng danh Chúa đời này, và hưởng hạnh phúc Nước Trời ngày sau.

--------------------------------

 

TN 23-C183: TỪ BỎ ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Dư luận mấy ngày qua xôn xao bàng hoàng trước tin một người phụ nữ 30 tuổi ở  huyện Phúc Thọ TN 23-C183


Dư luận mấy ngày qua xôn xao bàng hoàng trước tin một người phụ nữ 30 tuổi ở  huyện Phúc Thọ, Hà Nội, thuê người chặt chân tay mình để trục lợi bảo hiểm. Mặc dù được chuẩn bị với một kịch bản tinh vi, vụ việc vẫn bị bại lộ khi cơ quan điều tra vào cuộc. Thì ra, vì lòng tham, người ta có thể làm bất cứ điều gì. Đúng là “tiền mất tật mang”. Người phụ nữ này không những mất tiền, mang tật, mà còn mang nỗi ân hận suốt đời vì đã làm một việc trái đạo đức, tự làm cho mình mang thương tật suốt đời. Người thanh niên 21 tuổi được thuê chặt chân tay với giá 50 triệu đồng, cũng vì lòng tham mà nhắm mắt làm liều mà không nghĩ tới hậu quả là có thể bị truy tố vì huỷ hoại thân thể người khác.
 
Nếu trong cuộc sống, lòng tham đã khiến người đàn bà tối mắt đến nỗi thuê người chặt chân chặt tay, thì việc từ bỏ mọi tham lam lại là một điều kiện cần thiết cho những ai muốn trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Người đã khẳng định: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Câu 33). Người không chỉ yêu cầu từ bỏ của cải vật chất, mà còn từ bỏ những ràng buộc thiêng liêng như cha mẹ, vợ con và họ hàng thân thuộc, thậm chí cả mạng sống của mình. Xem ra đây là một nghịch lý, nhưng, Chúa cũng quả quyết với chúng ta: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Sự hy sinh Chúa kêu gọi không phải là vô ích, nhưng là một điều kiện để chúng ta được sống đời đời. Hành trình đời Kitô hữu cũng là hành trình thập giá. Chúng ta đang vác thập giá mỗi ngày như Chúa Giêsu và theo Chúa Giêsu. Qua thập giá, Đức Giêsu đã diễn tả sự vâng phục của Người đối với Chúa Cha. Qua thập giá, Người cũng chứng minh tình yêu của Thiên Chúa đối với con người bao la như trời bể, rộng lượng như trời cao. Trong cuộc đời, ai cũng có những khó khăn thử thách cần phải vượt qua. Những khó khăn ấy, chúng ta gọi là thập giá. Nếu chúng ta vác thập giá cuộc đời với tâm tình của Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng, nỗi buồn sẽ biến thành niềm vui.
 
Đi theo Đức Kitô là một chọn lựa, đòi hỏi người môn đệ phải biết khôn ngoan để phân biệt tốt với xấu, gạt bỏ những gì dễ làm họ lạc đường. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để diễn tả chọn lựa này, đó là một người xây tháp và vị vua chuẩn bị giao chiến. Đây là những việc cần phải cẩn trọng cân nhắc, để đạt tới thành công và tránh những rủi ro thất bại. Cả hai trường hợp, đương sự cần tính toán, không cho phép chấp nhận thất bại, vì nếu tháp xây dở dang sẽ bị thiên hạ chê cười, giao chiến thất bại sẽ mất cả mạng sống. Theo Chúa là một chọn lựa. Chọn lựa này sẽ trở thành định hướng căn bản cho tương lai, cũng là động lực thúc đẩy những suy nghĩ và hành động của người tín hữu.
 
Giữa một xã hội con người chạy theo lối sống hưởng thụ và tôn thờ vật chất, lời dạy của Chúa xem ra giống như một cung đàn lạc điệu. Tuy vậy, chúng ta cần hiểu rõ khái niệm “từ bỏ” mà Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng. Con người sống trên trần gian có thể vừa sở hữu tài sản, vừa có tinh thần thanh thoát tự do, không bị của cải ràng buộc làm nô lệ. Trong lịch sử, có những người giàu có mà vẫn nên thánh. Những người này sử dụng của cải như phương tiện chứ không phải là mục đích. Họ ý thức rằng, trên đời này, ta sở hữu điều gì, chỉ là Chúa trao phó cho quản lý và sinh lợi. Họ như những người quản lý khôn ngoan, biết dùng của cải Chúa ban mà nối kết tình huynh đệ, cổ võ tình bác ái và giúp đỡ người nghèo khó bất hạnh.
 
Từ bỏ vật chất là một điều khó, từ bỏ chính mình để đón nhận người khác lại là điều khó hơn. Thánh Phaolô khuyên ông Philêmôn đón nhận một người nô lệ tên là Ônêximô (Bài đọc II). Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ. Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến”, thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này. Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình, nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết.
 
Nếu chúng ta sẵn sàng lên đường theo Chúa Giêsu, là vì chúng tin tưởng và phó thác vào quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của tác giả sách Khôn ngoan (Bài đọc I), đã nói lên sự khác biệt giữa sự khôn ngoan của Thiên Chúa với khả năng suy nghĩ hẹp hòi của con người. Giáo huấn Kitô giáo nhận ra Đức Giêsu là “Đức Khôn Ngoan” của Thiên Chúa. Người đến trần gian để chỉ dạy con người đạt tới hạnh phúc đích thực và chân lý vĩnh cửu. Người cũng xoá bỏ khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người, để rồi, mặc dù là con người phàm hèn, chúng ta có thể thân thưa với Chúa :”Lạy Cha chúng con ở trên trời!”.
 
Ước chi mỗi chúng ta khám phá mỗi ngày niềm vui của người môn đệ Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta sẽ sẵn sàng từ bỏ những gì bất xứng với danh hiệu cao quý này.

-------------------------------

 

TN 23-C184: TỪ BỎ HẾT LÀ TỪ BỎ CÁI GÌ?


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Tôi vẫn biết: Đức Giê-su đòi những ai theo Người phải từ bỏ nhiều điều kiện khắt khe lắm…, nhưng TN 23-C184


Tôi vẫn biết: Đức Giê-su đòi những ai theo Người phải từ bỏ nhiều điều kiện khắt khe lắm…, nhưng thú thực, riêng câu nói ‘từ bỏ hết những gì mình có’ thì thật cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa hoàn toàn hiểunổi: thế nào là ‘bỏ ‘hết những gì mình có’?

Thói thường thì, khi làm bất cứ việc gì dầu to hay nhỏ, thế nào thì ta cũng phải sẵn sàng từ bỏ, khước từ một điều gì đó tương xứng: việc càng lớn, càng cao đẹp thì càng đòi hỏi nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh. Đức Phật cũng đã chẳng từng từ bỏ ngai vàng, cung đình giầu sang, vợ đẹp con khôn… để đi tìm chính đạo, tìm con đường giác ngộ đó là gì? Thế thì việc Đức Giê-su đòi các môn đệ xin theo Người phải chấp nhận từ bỏ một số điều thì đó cũng là bình thường thôi. Ta biết: học thuyết hay lý tưởng càng cao xa bao nhiêu thì điều kiện càng phải triệt để bấy nhiêu; thậm chí trong một số trường hợp, ngay cả ‘dứt bỏ… cả mạng sống mình nữa’ cũng không có gì là quá đáng. Nhiều người theo lý tưởng cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc… đã chẳng làm như thế là gì? Tuy nhiên khi Đức Giê-su đòi, phải ‘từ bỏ hết những gì mình có’ thì thú thực, tôi chưa hẳn đã chắc nó chứa đựng nội dung gì; có khắt khe hơn cả ‘hy sinh mạng sống mình’ hay không?

Vấn nạn chính là: thế nào là từ bỏ ‘hết những gì mình có’ và tại sao lại phải làm như vậy? Các câu hỏi trên không dễ gì có giải đáp, vì thật ra khái niệm về chúng cũng rất mơ hồ, không rõ ràng. Thiết tưởng để hiểu được điều này, ta không thể làm gì khác hơn là quan sát Đức Giê-su cụ thể đã sống điều này thế nào, cũng như ta thử tìm hiểu xem tại sao Người lại làm như thế?

Tôi thiết nghĩ: có lẽ Phao-lô là người đầu tiên đã khám phá ra điều này khi chiêm ngắm Đức Ki-tô chịu chết treo trên thập giá. Đoạn thư gửi tín hữu Phi-líp-phê chương 2 câu 6-8 là mạc khải cao siêu nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, một mạc khải không tưởng đối với bất kỳ một suy tư tôn giáo nào: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người lại còn hạ mình, vâng lời cho tới nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” Qua đoạn văn trên Phao-lô cho thấy một Giê-su nguyên vẹn, trong cả bản tính Thiên Chúa lẫn loài người, đúng là đã ‘từ bỏ hết những gì mình có’; và Người làm điều này cách rất ý thức và hoàn toàn tự nguyện. Chính sự ‘từ bỏ hết’ này mới giải thích và biện minh được cho việc nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, cho việc Người chết treo trên cây thập tự, cho thái độ cũng như thực hành vâng phục hủy diệt, khó nghèo trần trụi và thanh khiết cô độc của Người. ‘Từ bỏ hết’ mà Đức Giê-su đã thể hiện không đơn thuần là một thực hành của tu đức hay khổ chế. Đây quả thực là một mạc khải thâm sâu và độc đáo nhất về Thiên Chúa của Tân Ước. Nếu Đức Chúa Gia-vê của Cựu Ước là cao cả và sung mãn bao nhiêu, thì chính Thiên Chúa của Ki-tô Giê-su Thập Giá trong Tân Ước lại trần trụi, lại tự hủy, lại ‘bỏ hết’, lại hèn hạbấy nhiêu. Tôi dám khảng định điều trên là vì chính Đức Giê-su đã công bố: “Tôi và Cha tôi là một!” (Ga 10:30 và Ga 17:21)

Thế nhưng, câu hỏi được đặt ra là: nếu Đức Ki-tô đã ‘bỏ hết’, thì Người làm điều này vì mục đích gì? Đức Giê-su đã không làm tất cả các điều trên (=bỏ hết) vì mong đợi một vinh quang, một phần thưởng! Trong đoạn văn kế tiếp, Phao-lô đã coi việc siêu tôn Người là hoàn toàn do Thiên Chúa Cha chủ động: “Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu…” Lý do duy nhất giải thích được việc ‘từ bỏ hết những gì mình có’ của Đức Giê-su là: để Người có thể trọn vẹn ném mình vào lòng thương xót vô biên của Cha, để sống và thể hiện vương quốc tình yêu bao la ấy. Thật vậy, lời cuối cùng Đức Giê-su đã thốt ra trên Thập Giá công bố mục tiêu tối hậu cuộc sống của Người nơi trần gian: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Xin lưu ý: ‘hồn = anima’ có nghĩa là cả hồn, xác và toàn bô cuộc sống mà Người muốn ném vào vòng tay nhân ái của Cha.

Như vậy khi đòi những ai ‘cùng đi đường’ với mình phải ‘dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa’, cũng như phải ‘vác thập giá mình mà đi theo tôi’, Đức Giê-su không chỉ nêu lên một đòi hỏi tu đức, một tu thân khắc kỷ. Người đang chỉ cho thấy một chuẩn bị cần thiết, một thái độ căn bản để đi vào trong tương quan với Chúa Cha nhân ái; ai không chuẩn bị để trọn vẹn ném mình vào cõi lòng từ nhân xót thương của Thiên Chúa, người đó không thể ‘đi cùng đường’ với Đức Giê-su. Do đó ‘vác hay đóng đinh mình vào Thập Giá’, như thư gửi tín hữu Do Thái đề cập tới (Dt 4:14-16; 5:7-9), phải hiểu là phó mình trọn vẹn cho lòng nhân ái Chúa Cha mà người môn đệ nào cũng phải thể hiện. Bao lâu người môn đệ còn dính bén (chưa dứt bỏ hết) với bất cứ tạo vật nào (kể cả những gì vẫn được người đời coi là cao đẹp về mặt tinh thần hay thiêng liêng), bấy lâu họ vẫn chưa thể trọn vẹn ném mình vào vòng tay nhân ái của Cha, họ chưa thể coi là ‘đi cùng đường’ với Đức Giê-su, để rồi cùng Người tiến về mục tiêu duy nhất là đón nhận Tin Mừng cứu độ.

Nếu như thế thì phó thác trọn vẹn cho lòng nhân ái của Chúa Cha đâu phải là chuyện nhỏ! Ngay cả việc xây tháp hay giao chiến cũng chẳng là gì so với việc ‘chấp nhận tự hủy’ của Thập Giá! Chuyện này có thể nhiều người cao trọng, khôn ngoan thông thái không kham nổi, nhưng lại quá dễ dàng vả tự nhiên đối với trẻ thơ và những người đơn sơ hèn mọn. Phao-lô là vị thánh đã hiểu ra rằng: chấp nhận Thập Giá trong nội dung này quả là việc lớn hơn hết thảy mọi sự: ‘tôi không biết một Đức Ki-tô nào khác ngoài Đấng chịu đóng đinh’ (1 Cr 2:2). Phải, niềm tin đích thực của mọi Ki-tô hữu là chấp nhận để mình chịu đóng đinh vào Thập Giá với Đức Ki-tô Giê-su, vì đó là sự khôn ngoan tuyệt đỉnh chứa đựng trong điều mà người đời luôn cho là ô nhục, là điên rồ (1 Cr 1:17-31). Họ chấp nhận ‘bỏ hết’ để có tình yêu nhân ái của Thiên Chúa làm gia nghiệp mà thôi!

Lạy Chúa từ nhân, con sẵn sàng đánh đổi tất cả để chiếm được lòng thương xót đầy từ ái Chúa. Tình cảm của người thân như cha mẹ, vợ con, anh em, chị em là quí giá, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn vĩ đại bao la hơn nhiều. Con cần tình yêu của người trần thế, nhưng con sẽ mất tất cả nếu thiếu vắng lòng thương xót của Cha. Con cần thủ đắc được rất  nhiều điều cao quí cho cuộc sống, nhưng còn cần ‘từ bỏ hết mọi sự’ hơn nữa để đón nhận Tin Mừng cứu rỗi.  Xin cho con biết cùng Giê-su Thập Giá tự hủy để có thể phó trọn hồn con trong vòng tay nhân ái Cha. A-men.

------------------------------

 

TN 23-C185: KHÔN NGOAN ĐI THEO CHÚA


Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Người xưa thường nói “Xem giỏ bỏ thóc” hoặc “Đừng vung tay quá trán”. Đó là lẽ khôn ngoan thường TN 23-C185


Người xưa thường nói “Xem giỏ bỏ thóc” hoặc “Đừng vung tay quá trán”. Đó là lẽ khôn ngoan thường tình chúng ta cần phải biết, trước khi bắt tay làm bất cứ công việc gì. Hôm nay Chúa dùng hai dụ ngôn cụ thể để nhắc nhớ điều ấy: Dụ ngôn về một người khởi công xây nhà cần  hoạch toán dự chi và dụ ngôn về một ông vua trước khi tham chiến phải xem lực lượng quân đội của mình ra sao. ‘Hãy liệu cơm mà gắp mắm’, là lẽ khôn ngoan ở đời. Tuy nhiên, Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia hay một chuyên viên xây dựng. Ngài cũng không phải là người rành rẽ về binh lược nơi trận mạc. Sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi chúng ta, là phải sống khôn ngoan theo lối bước của Tin Mừng. Ngài nhấn mạnh : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi ” (c.26-27). Cuối cùng, Chúa đưa ra kết luận chung cuộc : “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ của tôi” (c.33).

Biết mình: Khởi đầu của sự khôn ngoan.

Ngày xưa, triết gia Socrates đã dạy các học trò của ông :“Biết mình là khởi đầu của sự khôn ngoan”. Ông cắt nghĩa tiếp “Ở trên đời, chúng ta thường rơi vào ba cái dốt. Cái dốt đầu tiên là chúng ta không biết những gì cần phải biết. Cái dốt thứ hai là chúng ta tò mò muốn biết những gì không nên biết, và cái dốt cuối cùng là chúng ta cứ tưởng rằng mình đã biết những gì mình thực sự chưa biết”. Nền triết học Hy Lạp ngày xưa vạch dẫn cho chúng ta những đường nét khôn ngoan ở đời, nhưng nó vẫn không thể đi vào chiều sâu của sự khôn ngoan như Chúa Giêsu mời gọi. Chúa Giêsu từ từ khai mở con đường Thập giá để dẫn đưa chúng ta đến nguồn mạch của sự khôn ngoan đích thực. Thánh Phaolô đã viết : “Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước đến muôn đời… Lẽ khôn ngoan ấy, không một thủ lãnh thế gian được biết, vì nếu biết họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào Thập giá” (1Cr. 2, 7-8). Ngài còn phân định rõ hơn sự khác biệt giữa khôn ngoan thế gian so với sự khôn ngoan của Tin Mừng. Vị Tông đồ dẫn giải tiếp : “Trong khi người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục, và dân ngoại cho là điên rồ…. Cái điên rồ của Thiên Chúa thì còn hơn cái khôn ngoan của loài người (1Cr. 1, 22-25).

Như vậy, câu nói của Socrates rất đúng khi ông nhận định : “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy tự biết mình”. Nhưng tại sao phải biết mình, biết về mình như thế nào và biết mình để làm gì, là những vấn nạn mà ông ta không thể đưa ra câu trả lời. Chỉ khi Đức Giêsu vào trần gian, tiến nhận cái chết ô nhục trên Thập giá, chân lý ấy mới từ từ được khai sáng.

Thập giá: Con đường dẫn đến khôn ngoan đích thực.

Triết gia Shaupenhauer, thế kỷ 19, đã nói với các bạn của ông : “Khi tôi chết, hãy khắc trên ngôi mộ của tôi hàng chữ: Đây là nơi yên nghỉ của một người đã chết, mà khi sống, không biết mình sống để làm gì”. Sống để làm gì và sau khi chết sẽ đi về đâu, là những câu hỏi muôn thuở mà từ trước đến nay nhiều triết gia đã suy tư mà vẫn không thể tìm ra đáp án. Chúa Giêsu đã đưa ra câu trả lời rất cụ thể và chuẩn xác qua chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Thập giá Đức Kitô là ẩn số vĩ đại và khó hiểu nhất, nếu chúng ta chỉ dừng lại trên bình biện thuần lý của đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp hèn, đã hạ mình xuống tận đáy bùn đen trong xã hội. Một Thiên Chúa hằng sống lại tự nguyện tiến nhận cái chết, và chết một cách tức tưởi như một tên tội phạm. Một Thiên Chúa nhân lành bị con người đối xử quá gian ác và phũ phàng. Nhưng chính nghịch lý của Thập giá lại là quyển sách ẩn chứa sự khôn ngoan cao sâu nhất. Chiêm niệm mầu nhiệm ấy, chúng ta mới dần hiểu được điều Chúa nói hôm nay : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Cha Gioan Cornay, một linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) đã tình nguyện lên đường sang Việt Nam truyền giáo. Đi truyền giáo ngày xưa là chấp nhận ra đi vĩnh viễn không mong ngày trở về. LúcNgài ra ga xe lửa, bạn bè và những người thân quenđưa tiễn. Quá thương con, song thân Ngài nằm vật ra giữa đường để cản lối, nhưng Cha Cornay đã can đảm bước qua,và nhất quyết đi theo tiếng gọi của Chúa. Ngày 20 tháng 09 năm 1837, Ngài lãnh triều thiên tử đạo tại Sơn Tây, miền Bắc và là một trong 118 vị Tử đạo tại Việt Nam. (Xem thêm Hạnh tích các thánh). Ngài là một gương sáng điển hình, đã sống và thực hành điều Chúa Giêsu khuyến mời hôm nay.

Kết luận

Con đường Thập giá cùng sự từ bỏ là lối bước Chúa Giêsu đã đi qua và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài. Chúng ta đã nghe đi nghe lại sứ điệp này đến độ thuộc lòng, nhưng cụ thể trong cuộc sống, chúng ta đã từ bỏ cái gì và từ bỏ như thế nào. Đây là một thách đố mà mỗi ngày chúng ta phải lập đi lập lại để nhắc nhớ, hầu trở nên môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Trong Giáo hội đã có rất nhiều mẫu gương để chúng ta noi theo. Một Cha Đamiêng đã từ bỏ mọi sự để chung hòa cuộc sống với những người cùi tại đảo Molokai. Một Cha Maximilien Kolbe đã can đảm chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù trong trại tập trung Auswichở Ba lan. Biết bao bạn trẻ đã từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường dấn thân truyền giáo. Còn bạn, còn tôi, chúng ta đã đi vào sự từ bỏ và sống ơn gọi của chúng ta như thế nào?

------------------------------------

 

TN 23-C186: ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA KITÔ


Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

 

Những năm gần đây có nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ rong ruổi khắp TN 23-C186


Những năm gần đây có nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ rong ruổi khắp nơi để chỉ làm mỗi một việc là quảng cáo một sản phẩm nào đó. Nơi tôi đang ở, hầu như thường xuyên có người đi tiếp thị. Họ quảng cáo đủ mọi vật dụng, không trừ một sản phẩm nào, từ đôi đũa, chai dầu gội đầu, cái cốc uống nước đến cái bàn ủi, đầu máy may, máy giặt…

Tất cả họ đều có chung một cung cách: Những gì họ tiếp thị đều tốt, rất tốt. Họ ca tụng hết lời, dường như trên đời không còn cái gì bằng những gì họ đang quảng cáo.

Họ chỉ biết ca ngợi, không hề chê bai. Ca ngợi từ sản phẩm mà họ tiếp thị đến người được họ tiếp thị. Ví dụ, bạn muốn mua một đôi dép, dù kiểu nào, màu nào đi nữa, nếu thấy bạn xăm xoi, ngắm nghía, họ đều cho rằng chúng phù hợp với bạn…

Dẫu sao tôi vẫn nghi ngờ lắm. Càng nghi ngờ hơn nữa, khi những anh chị em ấy rày đây mai đó, chẳng biết đâu mà tìm. Nhưng ngôn ngữ của quảng cáo là như thế: chỉ ca tụng, không bao giờ bài bác.

Bạn và tôi là những người theo Chúa. Ta cảm nhận rằng, bước theo Chúa sao mà khó quá, bởi ta sẽ phải từ bỏ, không chỉ là của cải vật  chất, mà còn từ bỏ cả những cái là căn cội của cuộc đời mình như cha mẹ, mạng sống.

Không chỉ có thế, sự từ bỏ còn đi tới mức độ mạnh hơn: Chúa đòi ta từ bỏ để nhận thập giá: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đúng là một đòi hỏi quá dứt khoát và triệt để.

Vì thế, nếu Chúa Giêsu làm quảng cáo, chắc chắn Chúa thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không còn gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.

Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà đều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lỏng, xa lạ.

Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn thực tế mà lịch sử Hội Thánh ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau.

Bởi đã hơn 2000 năm, nhưng Lời Chúa Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy quả cảm bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình.

Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Chúa Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lỏng mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ.

Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn. Đặc biệt, trong số ấy, có vô số anh chị em hiến dâng đời mình sống ơn gọi tu trì. Những anh chị em ấy đã đáp lại lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá, theo Chúa Giêsu.

Hoặc biết bao nhiêu vị thánh, họ là những người có thể đã được Hội Thánh tôn phong, hay chưa tôi phong, cũng có thể sẽ không bao giờ tôn phong trên bàn thờ Hội Thánh. Tất cả những vị thánh ấy có chung một tấm lòng: Đã vì lời mời gọi từ bỏ mà suốt đời sống nghèo khó, chỉ có tình yêu là giàu có mà thôi.

Trong số những người ấy, biết bao nhiêu người đã nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô mà không tiếc mạng sống mình, hiến dâng cho Thiên Chúa toàn thân đến giọt máu cuối cùng như của lễ toàn thiêu. Các thánh Tử đạo là những người đã sống và chết như thế.

Hóa ra, lời mời gọi từ bỏ và vác thập giá của Chúa Giêsu, với cái nhìn nhân loại, tưởng chừng khắc nghiệt, sẽ trở nên vô vọng, lại có một sức mạnh thu hút lạ thường.

Lời mời gọi ấy là lẽ sống vô song để những ai tin nhận và sống theo, sẽ đặt trọn niềm hy vọng của mình.

Đó cũng là lời mời gọi làm nên căng tính của tất cả những ai theo Chúa Kitô. Nhờ đó, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Vì theo Chúa Kitô chỉ có mỗi một con đường duy nhất là từ bỏ và chấp nhận thập giá đời mình như Chúa Kitô.

Vì hơn ai hết, những anh chị em dám dấn thân làm môn đệ của Chúa hiểu rằng, chính khi từ bỏ là lúc nhận lại chính mình. Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết cho thân phận tội lỗi, chết cho sự tha hóa có thể lôi kéo ta hướng chiều về sự dữ, là lúc ta vui sống muôn đời (ý nghĩa của thánh Phanxicô- kinh Hòa Bình).

Bởi vậy, chính lúc chấp nhận thập giá, là chính lúc ta tiến vào vinh hiển của Đấng Phục Sinh.

Bạn thân mến, muốn dấn thân cho một điều gì, ta phải yêu điều ấy. Cũng vậy, để được tự do và tự nguyện chấp nhận sự từ bỏ và vác thập giá, đòi ta phải có lòng yêu mến. Với tình yêu, thập giá sẽ nhẹ hơn, dễ hơn.

Một người mẹ thức trắng đêm để may xong chiếc áo cho con sớm mai đến trường, người mẹ ấy là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả. Bởi đó bạn và tôi hãy yêu thánh giá Chúa Giêsu và yêu lối sống từ bỏ để nên giống Người.

Bản tính tự nhiên, con người thích chọn lối sống dễ dãi. Nhất là cuộc sống văn minh hôm nay, lại càng đặt ta trước nhiều chọn lựa. Nếu không biết yêu thánh giá mà lại cứ chiều theo thói quen bản thân, ta dễ chọn cái tầm thường hơn những điều cao cả; chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền; chọn lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.

Bởi vậy, biết mình dễ chọn cái xấu, đồng thời cảm nhận sâu xa Lời mời gọi của Chúa Giêsu, yêu thánh giá Chúa, yêu lối sống từ bỏ, bạn và tôi hãy làm lại chọn lựa của mình để dễ dàng dấn thân cho sự từ bỏ và vác thập giá, qua từng việc nhỏ nhặt trong đời thường của mình như: bỏ nghiện thuốc lá, ma túy, rượu chè, trụy lạc…

Hoặc ta dành ngày Chúa nhật để tôn thờ Chúa, học hỏi giáo lý, lo các việc bổn phận đạo đức. Cương quyết rời chiếc giường êm để đi dự lễ sáng; tắt tivi để đọc kinh tối gia đình; bỏ bớt những giờ táng gẫu trong quán cà phê để cầu nguyện nhiều hơn… Tất cả những điều đó, đòi sự tập luyện lâu dài trong từng ngày sống của mình.

Hãy khắc ghi Lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.

--------------------------------

 

TN 23-C187: ĐI THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC LÀM MÔN ĐỆ


Lm. Gia-cô-bê Tạ Chúc

 

Môn đệ có nghĩa là người học trò, hay là người chịu ơn. Làm môn đệ của Chúa Giê-su, tức là TN 23-C187


Môn đệ có nghĩa là người học trò, hay là người chịu ơn. Làm môn đệ của Chúa Giê-su, tức là làm học trò của Ngài. Điều này cũng đồng nghĩa với việc: môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không trọng hơn chủ. Người môn đệ của Chúa, được mời gọi dứt khoát trong chọn lựa, từ bỏ trong cương quyết, và sẵn sàng hy sinh ngay cả những tình cảmthiêng liêng, máu mủ ruột rà, và cả mạng sống mình để chấp nhận theo Chúa đến cùng.

Trên con đường mà Chúa Giê-su đã tiên báo: con người sẽ bị trao nộp vào tay người đời, và sẽ bị giết chết. Hay con chim có tổ, chồn cáo có hang, con người không nơi gối đầu. Lời mời gọi này không phải là một câu khẩu hiệu để chém gió, mà là một lời đề nghị nghiêm túc, xuất phát từ tình yêu thương. Nó không phải là một bản hợp đồng ngắn hạn, dài hạn mà là vĩnh cửu. Một cam kết liên quan đến định mệnh của cả cuộc đời. Như ông Vua trong Tin mừng hôm nay, cần tính toán chi ly: quân số, phương cách, xây hào đào lũy, phòng ngự, tấn công… xem mình có thể chiến thắng được đối phương, bằng không hãy chọn lựa một giải pháp thích hợp: “ Dĩ hòa vi quý”.

Đi theo Đức Giê-su không phải để được an lạc, hay chỉ như người cưỡi ngựa xem hoa. Mà trái lại, đây là một chọn lựa quyết liệt, dứt khoát và không nuối tiếc. Lớn lao vô cùng cho những ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, khi sứ mạng là một trọng trách phải chu toàn: “ Nếu ai muốn đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14, 25).  Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Tin mừng, thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Môn đệ của Đức Giê-su là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Từ cách sống, suy nghĩ và hành động, luôn mô phỏng và rập theo khuôn mẫu của Đức Giê-su Ki-tô. Đi theo Thầy là chấp nhận thương đau, khổ đau và đớn đau. Mất hết tất cả, mà chỉ còn lại những dấu ấn hằn sâu vết đinh in màu máu của Thầy chí thánh.

Lạy Chúa Giê-su, vị Tôn sư tối cao, xin cho chúng con có đủ can đảm, có đủ nghị lực để từ bỏ, chọn lựa và hy sinh theo Chúa, trên hành trình dương thế này. Amen.

-------------------------------

 

TN 23-C188:  ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

“Một hôm, dân chúng cùng đi đường với Đức Giê-su đông lắm. Ngài quay lại bảo họ: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

 

Khi nghe lời kêu gọi đó, nhiều người cho rằng Chúa Giê-su đòi hỏi người theo Chúa phải hy TN 23-C188


Khi nghe lời kêu gọi đó, nhiều người cho rằng Chúa Giê-su đòi hỏi người theo Chúa phải hy sinh quá nhiều. Phải lìa bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì thật là quá đáng, chắc không mấy ai kham nổi.

Nhưng xét lại, không chỉ có Chúa Giê-su mới kêu mời môn đệ hy sinh từ bỏ như thế, mà nhiều tổ chức khác cũng đòi hỏi tương tự.

Khi quê hương đất nước bị xâm lăng, nhân dân trong nước được động viên lên đường chống giặc. Họ được tổ quốc mời gọi rời bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, anh chị em, họ hàng, rời bỏ làng mạc hay phố phường để lên đường thi hành sứ vụ của người chiến binh, chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình để bảo vệ giang sơn tổ quốc.

Lịch sử của dân tộc Việt Nam chúng ta cho thấy rằng, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, rất đông đảo công dân trong đất nước chúng ta đã sẵn sàng từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng, bè bạn để xông ra chiến trường, sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc non sông.

Khi có thiên tai xảy ra đây đó trên địa cầu gây ra tai hoạ thảm khốc cho dân chúng, có nhiều đội quân của Hội Chữ thập đỏ thuộc nhiều quốc gia trên thế giới được mời gọi từ bỏ quê hương xứ sở, từ bỏ công ăn việc làm, xông pha lên đường đến những miền đất lạ, đến với những nạn nhân thuộc màu da và chủng tộc khác, để xả thân cứu giúp những nạn nhân đang gặp tai ương khốn đốn.

Sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su là sứ mạng khẩn cấp và tối quan trọng nhưng cũng đầy dẫy gian truân. Vì thế, nếu không có tinh thần hy sinh quên mình của người chiến sĩ sẵn sàng chết để bảo vệ non sông; nếu không có tinh thần xả thân phục vụ, không ngại gian khó của đội quân thuộc Hội Chữ thập đỏ, thì không thể tham gia vào sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su được.

Thế nên, khi cất lời mời gọi tham gia vào đội quân cứu thế của mình, Chúa Giê-su nêu ra điều kiện tiên quyết: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Luca 14,26-27)

Hôm nay, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta từ bỏ những gì?

Hiện nay, Chúa Giê-su chưa kêu mời số đông trong chúng ta từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng vì Chúa và vì Nước Trời đâu, Ngài chỉ mời chúng ta tham gia phục vụ trong một số công tác thôi.

Khi có người đau yếu trong gia đình hay trong thôn xóm, Chúa mời chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để viếng thăm, chăm sóc, chúng ta có đáp ứng không?

Khi có người lâm cơn túng thiếu, hoạn nạn, Chúa kêu mời chúng ta hãy chia sớt tiền bạc và hy sinh thời giờ, công sức để cứu giúp, chúng ta có chấp nhận không?

Khi có người làm buồn lòng ta, làm tổn thương tự ái của ta, Chúa kêu mời chúng ta từ bỏ oán hận để cảm thông tha thứ, chúng ta có sẵn sàng không?

Thông thường hơn, mỗi tối, Chúa mời chúng ta từ bỏ giờ xem phim hay nghe ca nhạc trên các kênh truyền hình để dành ra mươi phút đọc kinh gia đình thờ phượng tạ ơn Chúa, chúng ta có từ bỏ được không?

Nếu chúng ta chưa từ bỏ mình để thực hành những điều tương tự như trên, chúng ta không xứng đáng là môn đệ Chúa.

Lạy Chúa Giê-su

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có rất đông đồng bào của chúng con đã bỏ gia đình, cha mẹ, họ hàng, sẵn sàng tiến ra chiến trường hy sinh mạng sống để bảo vệ tổ quốc, non sông.

Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, có rất nhiều tín hữu hy sinh từ bỏ tất cả lợi lộc trần thế và anh dũng đổ máu đào để làm sáng tỏ đức tin.

Xin cho chúng con, dù chưa phải hy sinh mạng sống như các chiến sĩ trên chiến trường, chưa phải đổ máu đào như các anh hùng tử đạo, thì ít nữa cũng biết hy sinh thời giờ, công việc, khả năng và từ bỏ tính tự ái, tính tham lam, vô cảm của mình để đem lại an vui, hạnh phúc cho những người đang sống chung quanh con. Amen.

------------------------------

 

TN 23-C189: TỪ BỎ HẾT ĐỂ CHỈ VÁC THẬP GIÁ


JM. Lam Thy

 

Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Đưc Giê-su đối với những ai muốn đi TN 23-C189


Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Đưc Giê-su đối với những ai muốn đi theo Người có lẽ là việc từ bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIII/TN-C – Lc 14, 25-33), Đức Ki-tô đòi hỏi những ai theo Người không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất (tình nghĩa ruột rà máu mủ), mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình. Muốn theo Người, phải “từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa”, đồng thời còn phải “vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 14, 26-27). Người khẳng định chắc nịch: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 33).

Để minh hoạ cho Lời dạy có vẻ nghịch lý khó thực hiện, Đức Giê-su kể 2 dụ ngôn ngụ ý so sánh (việc xây một cây tháp + việc một ông vua định giao chiến với một ông vua khác), nhằm chỉ ra cho người nghe hiểu: Muốn làm bất cứ một việc gì thì cũng rất cần phải biết tính toán, sắp đặt, lên kế hoạch, phải tiên liệu được những trở ngại – nhất là những trắc trở chủ quan từ chính chủ thể người thực hiện, rất cần đến sự hy sinh những quyền lợi riêng tư của bản thân – nhiên hậu mới có thể tiến hành thực hiện. Trở ngại lớn nhất đối với việc đi theo Đức Ki-tô chính là cái quyết tâm có dám từ bỏ tất cả mọi sự, rồi còn phải vác thập giá mình (những hy sinh, mất mát, đau khổ…) mà đi theo Người, hay không? Cũng không phải chỉ một lần này, mà rất nhiều lần Đức Ki-tô kêu gọi mọi người muốn đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ bỏ một cách dứt khoát.

Từ bỏ ư? Nếu cần phải tuyên bố như hằng năm trong đêm Vọng Phục Sinh, khi được hỏi 3 lần: ”Có từ bỏ ma quỷ không? Có từ bỏ mọi việc của ma quỷ không? Có từ bỏ mọi sự sang trọng của ma quỷ không?”, thì ai chẳng tuyên bố rất hùng hồn: “Thưa, con xin từ bỏ”. Nhưng đến khi đối diện với thực tế, thì lại thấy không ít cảnh tiền hậu bất nhất, lời nói không đi đôi với việc làm. Đó là chuyện từ bỏ ma quỷ và những sự vịêc liên quan tới chúng, mà còn như thế, huống hồ phải từ bỏ cả “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em”, từ bỏ hết những gì mình có, từ bỏ cả chính con người (mạng sống) của mình nữa, thì quả thực là điều khó chấp nhận được. Và cũng chính vì thế nên đã không ít người thay vì từ bỏ những gì mình có để đi theo Đức Ki-tô, thì lại ỉu xìu từ giã Giê-su, như câu chuyện chàng phú hộ tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, buồn rầu bỏ đi một nước (Mt 19, 16-21). Hoặc như lần một người rất muốn đi theo  Đức Giê-su nhưng lại xin về từ giã gia đình, khiến Người phải thốt lên “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9, 61-62). Đặc biệt nhất là một người được Đức Ki-tô mời gọi, đã xin được về chôn cất cha mình trước khi đi theo Người, thì Người dứt khoát bảo “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” (Lc 9, 59-60).

Từ bỏ cả cha mẹ, thậm chí đến việc báo hiếu khi cha mẹ mãn phần (chôn cất cha mẹ) cũng không được ư? Như vậy thì có mâu thuẫn với Lời dạy phải yêu thương những người bé mọn, thấp hèn, nghèo đói, tật bệnh, tội lỗi… như yêu thương chính mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa (Lc 6, 27-35) không? Ấy là chưa kể có lần Đức Giê-su còn dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 29-30). Từ bỏ tất cả, vác thập giá đi theo Người, vậy mà lại êm ái và nhẹ nhàng ư?

Tuy nhiên, bình tâm suy niệm, nhất là đọc kỹ phần chú thich từ “dứt bỏ” ở bài Tin Mừng hôm nay, trong sách “Kinh Thánh trọn bộ – xb 1998” (trang 2397) thì thấy ghi: “Lu-ca 14. 26. Dứt bỏ, ds ghét. Kiểu nói Híp-ri có nghĩa là “thương ít hơn” (x. 9, 57-62 ; 18, 29 ; St 29, 31-33 ; Đnl 21, 15-16 ; Mt 10, 37)”. Đồng thời, coi phần trình thuật cùng chủ đề như bài Tin Mừng hôm nay (Lc 14, 25-33) trong sách Tin Mừng Mat-thêu, thì thấy viết nhẹ nhàng hơn: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 37). Nếu chỉ là “thương ít hơn” thì vấn đề sáng tỏ ngay, bởi theo Chúa là phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, yêu Chúa trên hết mọi sự, ngoài ra tất cả đều là thứ yếu. Như vậy, Đức Ki-tô muốn dạy người ta phải dứt khoát từ bỏ ma quỷ và những gì liên quan tới chúng (có thể được khoác bằng nhiều hình thức lôi cuốn, hấp dẫn, rất khó phân biệt), phải dứt khoát từ bỏ những gì liên quan đến thế gian, hay nói cách khác, từ bỏ cái tôi cố hữu (từ bỏ chính mình) bởi chính nó là nguyên nhân của tất cả những gì dính dáng đến xác thịt, trần thế, tội lỗi.

Quả thật, đúng như lời Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-sê: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Cl 3, 1-2). Chung quy, Đức Ki-tô chỉ muốn những ai đi theo Người không nên lưu luyến những gì thuộc về thế gian, về xác thịt nặng nề, bởi “thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” (Kn 9, 15). Rõ ràng Lời dạy của Người không có gì là mâu thuẫn, khó hiểu cả. Đến như những người xa lạ gặp trên đường đời, Người còn dạy phải coi họ như những người thân cận mà sẵn sàng giúp đỡ (Lc 10, 28), huống hồ là những bậc sinh thành ra mình, những người có quan hệ huyết thống ruột thịt với mình. Dứt bỏ hay từ bỏ là đối với những cám dỗ, những mời mọc hấp dẫn của tính xác thịt trần gian, của ma quỷ và sự dữ chúng đem đến mà thôi.

Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải ý thức khi mình đã chọn con đường bước theo Đức Giê-su, chấp nhận đi theo Người là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ tất cả những điều thuộc về thế gian, dù cho đó có là những điều thật đáng trân trọng trong cuộc sống (tình cảm gia đình, mạng sống bản thân). Tất cả những điều đó chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Ki-tô hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giê-su đã nêu gương: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).

Ôi! Lạy Chúa! Ước gì con cảm nghiệm được rằng: trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con ngay từ khi con cất tiếng khóc chào đời. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Linh soi sáng và thêm sức cho con, để con đủ sáng suốt và dũng khí từ bỏ những gì thuộc về xác thịt thế gian, mà đến với Chúa và với những người thân cận của con trên khắp năm châu bốn biển. Vâng, Lạy Chúa, “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”.

----------------------------

 

TN 23-C190: LỜI YÊU THƯƠNG


Lm. Jos. DĐH

 

Bồng bồng mẹ bế con sang, đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo, muốn sang thì bắc cầu kiều TN 23-C190


Bồng bồng mẹ bế con sang, đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo, muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Lời ru của người mẹ tô vẽ lên nét hào hùng nơi con cái, phải qua sông, phải xây Cầu Kiều, con sẽ gặp thầy, con sẽ gặt hái thành công. Lời chất chứa hy vọng, lời ghi sâu vào tâm hồn, phải đúng, phải đủ sắc mầu yêu thương. Sự giới hạn của bản thân, hay những ngăn trở nơi xã hội, cũng không thể phá hỏng được truyền thống yêu thương mà cha mẹ dành cho con cháu.

Sống trên đời, có bằng cấp, địa vị, có giầu tình nặng nghĩa, hẳn sẽ để lại rất nhiều ảnh hưởng, ít là như câu thành ngữ : nhất thế, nhì thân ; một người làm quan cả họ được nhờ. Lời Chúa Giêsu chúng ta vừa nghe, Chúa không nói ai đến với Ta, Ta sẽ làm cho phong phú kiến thức, Ta sẽ cho của cải giầu sang phú quý… Không hứa hẹn, nhưng Chúa Giêsu còn cho thấy tính quyết liệt hơn : “ai đến với tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thì không xứng đáng là môn đệ tôi”. Không bổng lộc, không vinh dự, đã khó rồi ; Ngài còn nói một cường độ rất thật : “ai không vác thập giá mình hàng ngày, kẻ ấy không đáng là môn đệ tôi”.

Nếu chỉ xét về phương diện vật chất, chẳng ai hào hứng gì theo Đức Giêsu để xin làm môn đệ, nếu lập trường “lỏng lẻo”, thì Đức Giêsu dù có nói hay làm giỏi, cũng dễ gì thu hút được ai. Cân nhắc, chọn lựa, là một việc làm thiết thực để có kết quả tốt đẹp nhất, chúng ta vẫn đang xem đó là một chuẩn mực. Người xưa cũng nói về việc xem xét lựa chọn rất cẩn thận với câu ca dao : ở đời phải xét thiệt hơn, đừng nghe tiếng sáo tiếng đờn mà sai. Địa vị vật chất mang đến nhiều hứa hẹn, cha mẹ vợ con, mang một giá trị cao quý, song mạng sống có ưu tiên hơn cả, nhưng giá trị tuyệt đối chính là có Đức Kitô.

Làm sao để ta cảm thấu được lời kêu gọi từ bỏ của Đức Giêsu, để lời đó trở thành lời yêu thương : hãy can đảm lên, từ bỏ không hẳn là chịu thua thiệt, mà vì ta không muốn chạy đua với những thứ hạnh phúc không bền vững. Từ bỏ theo Đức Giêsu không phải là tìm kiếm bổng lộc ở đời này, mà là để được làm môn đệ Chúa, nếm hưởng phúc lộc quê trời. Trong kinh doanh, người ta chủ trương : buôn có bạn, bán có phường, chia sẻ, đầu tư “chất xám” cho chức danh địa vị, mọi người phải tuân thủ quy luật chung, chuyên chăm, rèn luyện bản thân.

Muốn giữ hồn an xác mạnh, người Kitô hữu phải thường xuyên chăm sóc sức khỏe bằng đời sống cầu nguyện, đón nhận các bí tích, lắng nghe và trung thành sống lề luật Chúa. Khi đưa ra ví dụ xây tháp, vương tướng ra trận, Chúa Giêsu có ý nhắc nhớ đến những việc hệ trọng, ai cũng phải thực sự trưởng thành, biết tính toán cân nhắc chọn lựa. Lời yêu thương của đấng bậc sinh thành nhắn gởi lại cho con cháu luôn cao đẹp : công thành danh toại. Lời yêu thương giữa nam thanh nữ tú sẽ mãi không cổ xưa : trăm năm ước nguyện chung tình, trên trời dưới đất có mình có ta.

Cao quý và trân trọng hơn, “lời yêu thương” của Chúa đó là : “ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không đáng là môn đệ tôi được”. Lời yêu thương không có nghĩa là ngọt ngào, mềm mỏng, được gia đình, xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống hiện tại này. Lời yêu thương là có Chúa trong ta, có anh chị em nâng đỡ nhau trong hành trình trần thế, có niềm vui bình an và hạnh phúc ở hiện tại, tương lai. Lời yêu thương của Đức Giêsu còn cho thấy có những giá trị tình yêu ở sâu trong tâm hồn, chính đương sự cũng không diễn tả hết nét đẹp đang thu hút họ. Đố ai mà được như sen, chung quanh cánh trắng, giữa chen nhụy vàng. (ca dao)

Lời yêu thương không dừng lại ở khía cạnh tình cảm, Chúa Giêsu lưu ý nếu ai muốn theo Ta, thì hãy vác thập giá mình mà theo Ta. Đi theo Chúa làm môn đệ luôn mãi bí ẩn, nếu người ta không ở trong tình yêu của Đức Kitô. Từ bỏ thế gian, từ bỏ bản thân, hay từ bỏ một “nết xấu” để được làm đệ tử Đức Giêsu, sẽ tiếp tục còn là nhiều khám phá mới, là nét son mới trong tương quan giữa tình Chúa và tình người. Đứa bé không bao giờ lớn khôn, nếu nó chỉ bú sữa mẹ, người Kitô hữu không thể trưởng thành, nếu xa lạ với việc lãnh nhận các bí tích. Lời yêu thương của Đức Kitô sẽ mãi là niềm vui, là hạnh phúc thật, khi người ta được biến đổi, được trở thành môn đệ, biết sống thánh ý Chúa hàng ngày. Amen.

--------------------------------

 

TN 23-C191: CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  

 

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, có TN 23-C191


Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, có các môn đệ và đám đông dân chúng theo Người.  Các môn đệ và đám đông dân chúng dự đoán khi Chúa Giê-su tới Giê-ru-sa-lem thì sẽ có những thay đổi lớn lao ảnh hưởng đến đời sống, xã hội và quốc gia của họ.  Họ mong muốn Chúa sẽ giải phóng họ khỏi cảnh bị áp bức, lầm than và khổ cực.  Sau 6 trăm năm bị đô hộ bởi vua ngoại bang, đất nước sẽ trở về trong bàn tay của họ và họ sẽ có một chính thể do họ bầu ra. Và dĩ nhiên họ sẽ tôn vinh Chúa Giê-su lên làm vua của họ, và quyền năng của Người sẽ biến đời sống của họ trở nên tốt đẹp, no ấm và sung sướng.

Thế nhưng Chúa Giê-su, chỉ mình Người, biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra cho Người, vì vậy, như Chúa vẫn luôn nói sự thật, tuyên bố: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.”  Qua câu tuyên bố này, chúng ta nhận thấy có lẽ Chúa không phải là một nhà chính trị khôn khéo hay manh lới như ông Trump hay bà Clinton hiện đang tranh cử tổng thống Hoa kỳ. Chúng ta thấy Chúa còn cho dân chúng biết: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta.”   “Bỏ” là một danh từ to lớn và mạnh mẽ đòi hỏi thật nhiều. Trong Tân ước nhất là trong các sách Tin mừng, yêu thương tha nhân đặc biệt là những người chúng ta cần đáp trả lại nhất, là một điều tối quan trọng.  Vì vậy, chúng ta tự hỏi  “Có phải Chúa Giê-su dùng danh từ ‘bỏ’ to lớn và mạnh mẽ này để nhấn mạnh và bắt chúng ta phải chú ý đến điều mà Người đòi hỏi chúng ta không?” 

Ông bà anh chị em thân mến. Sự đòi hỏi dứt khoát từ bỏ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay làm cho tôi nghĩ đến bài Tin mừng Thứ Sáu vừa qua khi Chúa dùng hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới để dạy các môn đệ và dân chúng muốn đi theo Người lên Giê-ru-sa-lem.  Chúa tuyên bố với dân chúng không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ.  Tôi nghĩ rằng cùng với bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta một bài học và bài học thật rõ ràng, đó là muốn theo Chúa và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời phải dứt khoát, không nên có thái độ “nước đôi” hay “bắt cá hai tay.”  Có nghĩa là phải có đời sống dứt khoát tận căn, phải quyết định hay có một sự chọn lựa rõ ràng. Chúng ta thấy bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để tin theo Người và vào Nước Trời: “Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo rồi đến theo Ta”, hay “Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa”,  hay “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta.”

Chúng ta biết chắc chắn Chúa không coi nhẹ những liên hệ gia đình. Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần dứt khoát từ bỏ để vững tâm chọn và đi theo Chúa, biết tôn kính, thờ phượng Chúa trên hết mọi sự và quan trọng hơn cả mạng sống mình, những người thân thuộc hay vật chất. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quí, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy.” Chúa đòi buộc người theo Chúa phải dứt khoát từ bỏ người thân thuộc, vật chất và những thói hư tật xấu của mình, để yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Chúa Giê-su biết đó là một chọn lựa và quyết định khó khăn và to lớn nên Chúa Giêsu căn dặn chúng ta cần sự khôn ngoan, biết đến với Chúa để biết thánh ý Người, cũng như để Người ban ơn thêm sức đối phó với những khó khăn, sự cám dỗ và thiệt thòi.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi “Tại sao muốn trở thành môn đệ Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ và vác thập giá không?” Thưa, vì muốn làm môn đệ hay Ki-tô hữu chính thực của Chúa thì giống như đi leo núi, và thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích, để dò đường và để chống đỡ, đỡ mỏi chân và đi nổi, nếu không có khi té ngã hay bỏ cuộc. Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong và nhẹ nhàng hơn mà vác thập giá. Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ, Ki-tô hữu đích thực của Chúa.  Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì ráng chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.  Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thập giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rang sức mà vác vậy thôi. Người môn đệ, Ki-tô hữu thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.  Người tin theo chưa hẳn là người môn đệ. Cũng như người nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người làm theo ý Chúa. Cũng như người đến nhà thờ chưa hẳn là người tín hữu.  Cũng như người mang danh Kitô hữu chưa hẳn là người Kitô hữu thật.  Điều khiến người nói thành người làm, người đến nhà thờ thành người tín hữu, người tin theo thành người môn đệ, người mang danh Kitô hữu thành người Kitô hữu đích thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta nhận biết “bắt cá hai tay” hay “đi hàng hai”, cũng như từ bỏ và vác thập giá là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống Ki-tô hữu tin theo Chúa của chúng ta.  Muốn làm môn đệ hay Kitô hữu, nhưng lại không sống hay đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng, tin Chúa nhưng lại không muốn đi theo con đường hay giáo huấn sống của Người, muốn là thành phần của Giáo Hội hay giáo dân của giáo xứ, nhưng lại chống báng Giáo Hội hay không tham gia, không hiệp nhất hay hy sinh đóng góp cho giáo xứ.  “Đi hàng hai hay bắt cá hai tay” hay không từ bỏ và từ chối vác thập giá để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân và hạnh phúc Nước Trời mà thôi. Chúa ban cho chúng ta tự do để chọn lựa và quyết định, nhưng tất cả chúng ta cũng sẽ phải đứng trước mặt và trả lời với Chúa thái độ và cách sống của chúng ta ngày hôm nay như thế nào, và Chúa sẽ căn cứ vào đó mà phân xử thưởng hay phạt.  Xin Chúa nâng đở và củng cố đức tin của chúng ta để chúng ta sống lời Chúa dạy, trở thành những môn đệ, Ki-tô hữu đích thực luôn trung thành trở thành chứng nhân cho Chúa và làm sáng danh Người.

-------------------------------

 

TN 23-C192: ÔM NỖI KHỔ

 

Vì Mến Tin Cùng Chúa Ôm Thập Giá. Bởi Lầm Lỗi Tự Mình Vác Cuộc Đời. Có lần chính Chúa TN 23-C192



Vì Mến Tin Cùng Chúa Ôm Thập Giá
Bởi Lầm Lỗi Tự Mình Vác Cuộc Đời.

Có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Thật vậy, với kinh nghiệm sống, người ta đã “định nghĩa” cuộc đời thế này: “Đời là bể khổ.” Và Chúa Giêsu nói rõ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8:34; Mt 16:24; Lc 9:23) Chắc chắn đau khổ rất giá trị nên Ngài mới khuyên như vậy.

Là con người, ai cũng đã từng trải qua nhiều kiểu đau khổ, ai cũng có kinh nghiệm rồi, càng nhiều tuổi càng nhiều kinh nghiệm. Nhưng đừng để kinh nghiệm làm cho mình cảm thấy kinh dị, kinh hãi, kinh khiếp, hoặc kinh hoàng, mà hãy biến nó thành kinh nguyện. Chính cái khốn khả dĩ khiến người ta nên khôn. Và giá trị đau khổ là đây: “Mỗi NỖI BUỒN tạo ra một nỗi khổ, mỗi NỖI KHỔ tạo ra một bài học, mỗi BÀI HỌC thay đổi một con người.”

Chúa Giêsu khuyên người ta đừng lưu luyến thế gian, phải buông bỏ hết: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:26) Đồng thời còn phải ôm lấy đau khổ trong cuộc sống hằng ngày: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:27) Khó dữ nghen!

Chắc chắn Ngài không “xúi dại” chúng ta, không bắt chúng ta bất hiếu với cha mẹ hoặc coi thường thân nhân, vì Ngài là Đấng nhân lành, và Ngài cũng không hề bắt chúng ta không chăm lo cho sự sống mà mặc kệ. Không! Ngài khuyên chúng ta BUÔNG BỎ chứ KHÔNG BUÔNG XUÔI.

Là người Việt, chẳng ai lại không biết câu này: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần.” Nhưng có người sửa chữ “bán” thành chữ “vắng” vì cho rằng chữ “bán” nặng nề quá, tình nghĩa không thể như vậy. Thật ra không phải thế, tiền nhân chỉ đặt hai vế với hai động từ Bán và Mua để “đối” với nhau, chứ không hàm ý “mua bán” chi cả. Còn chữ “xa” ở đây là xa cách về địa lý, chứ không là “xa” theo nghĩa bóng. Láng giềng thì phải gần, không có láng giềng xa.

Về tình yêu thương, lòng thương xót, Chúa Giêsu không hề tính toán với chúng ta nhưng Ngài dạy chúng ta phải biết tính toán tỉ mỉ, rạch ròi về tâm linh. Ngài phân tích cụ thể qua hai ví dụ: “Ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.’ Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa.” (Lc 14:28-32)

Tiền nhân dạy chí lý: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.” Đó là khôn ngoan. Chúa Giêsu muốn chúng ta sống khôn ngoan để đối đầu với ba thù – xác thịt, thế gian, ma quỷ. Nhưng trong “tam độc” đó, xảo trá nhất là “thằng quỷ” ở gần chúng ta nhất: xác thịt – tức là chính chúng ta. Thảo nào Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta phải từ bỏ nó bằng mọi giá. Và Ngài kết luận: “Cũng vậy, ai trong anh em KHÔNG TỪ BỎ hết những gì mình có thì KHÔNG THỂ làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:33)

Không ai định nghĩa chính xác hạnh phúc là gì, nhưng vẫn khả dĩ cảm nhận hạnh phúc. Chắc chắn hạnh phúc không có nghĩa là sở hữu tất cả mọi thứ, mà là biết can đảm nhìn xa hơn các khuyết điểm của người khác, và chấp nhận mình bất toàn. Không dễ chút nào, vì thế mà luôn phải nỗ lực mọi nơi và mọi lúc. Cố gắng nhận thức và ý thức về chính mình – dù xấu xa và hèn hạ, nhưng vẫn hy vọng và vững tin vào tương lai, cứ là chính mình chứ không là bản sao của bất cứ người nào. Đó là từ bỏ và chấp nhận. Tác giả Brian Tracy nhận định: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là tình yêu vô điều kiện và sự chấp nhận.” Ở đây là cách chấp nhận vui vẻ chứ không miễn cưỡng hoặc vì bất kỳ lý do gì.

Từ bỏ chính mình và đón nhận thập giá cuộc đời – của chính mình và của người khác. Đó là đời sống Kitô hữu. Thánh tiến sĩ Teresa Avila nói: “Cái gọi là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa chính là ở trong việc yêu người như yêu chính mình, có một ý chí cương quyết không lay động, liên tục sống theo Thánh Ý của Thiên Chúa, giữ cho tâm hồn khiêm tốn, mộc mạc và trông cậy vào Thiên Chúa.” Tác giả sách Khôn Ngoan chân thành cầu nguyện: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững. Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề.” (Kn 9:13-15)

Loài người là thế, phàm nhân là vậy. Đó là vấn nạn mà Chúa Giêsu đã đề cập: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41) Chỉ là bụi cát nhỏ nhoi – nay còn, mai mất, thế mà lúc nào cũng chỉ muốn nổi loạn, vì “cái tôi” luôn quấy phá, lúc nào cũng muốn hơn người, kém một chút không chịu, thua một chút không xong!

Càng lớn chúng ta càng nhận ra rằng thực sự khó bỏ “cái tôi” lắm! Thế nhưng không bỏ không được, vì nó xấu, nó đáng ghét – như Pascal đã xác định. Vả lại, không bỏ nó thì không thể nên người mới, không đổi mới thì không thể hoàn thiện, không hoàn thiện thì không thể nên thánh – nghĩa là không thể lên trời. Phải bỏ thôi!

Kinh Thánh nói: “Những gì thuộc hạ giới, con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.” (Kn 9:16-18) Ông Gióp vô tội, nhưng ông chịu đau khổ đến tận cùng, và ông nói: “Phúc thay người được Thiên Chúa sửa trị!” (G 5:17)

Chẳng nghĩa lý gì đối với những thứ phàm tục, thế mà vẫn nhiêu khê và bí ẩn, huống chi những điều trên trời, chúng ta chẳng thể nào hiểu được khi còn đang “tạm trú” nơi thân xác yếu hèn. Không ai trường sinh, bất tử. Đó là điều chắc chắn, là quy luật muôn đời. Thế mà người ta vẫn chẳng sợ. Máu sôi và bốc lên tới chỏm, có “xả láng, sáng về sớm” cũng chỉ là chuyện nhỏ. Họ coi trời chỉ như cái nắp bia thì họ đâu ngán gì nữa!

Thế nhưng sẽ hối không kịp. Thánh Vịnh nói: “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngài phán bảo: ‘Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!’ Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi! Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.” (Tv 90:3-6) Đó là sự thật. Đời người tưởng dài mà ngắn, chẳng khác đóa phù dung, sớm nở và tối tàn, thế mà đổi màu sắc liên tục – tượng trưng thất tình và lục dục của con người.

Thất Tình gồm: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục; Lục Dục gồm: (1) Sắc Dục: ham muốn thỏa mãn đôi mắt; (2) Thính Dục: ham muốn thỏa mãn đôi tai; (3) Hương Dục: ham muốn thỏa mãn cái mũi; (4) Vị Dục: ham muốn thỏa mãn cái miệng; (5) Xúc Dục: ham muốn thỏa mãn thể lý; (6) Pháp Dục: ham muốn thỏa mãn ý nghĩ.

Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống. Người biết là người khôn ngoan, biết biến đổi cái bình thường thành khác thường, cái tầm thường thành siêu phàm. Là người khôn ngoan, Thánh Vịnh gia cầu nguyện chí lý: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (Tv 90:12-14) Chân thành như thế thì Thiên Chúa không nỡ chối từ. Cầu nguyện như vậy là khôn ngoan, còn “người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần.” (Hc 19:23) Sách Huấn Ca cho biết thêm: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan.” (Hc 1:14 & 18) Quả thật, cuộc sống rất cần đức khôn ngoan.

Tuy nhiên, phàm nhân có khôn ngoan tới mức nào cũng chẳng là gì, có làm được công to việc lớn cũng chẳng đáng chi. Bởi vì ai cũng chỉ là tội nhân xấu xa, không đáng gì với Thiên Chúa chí thánh. Do đó, ai cũng cần cậy nhờ Lòng Thương Xót của Ngài, và thân thưa: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm.” (Tv 90:17)

Chắc chắn ai cũng biết rằng bao nhiêu khiêm nhường cũng không đủ, nhưng một chút kiêu ngạo là quá thừa. Công sức nỗ lực hoàn thiện bao ngày mà lên mặt khoe khoang một chút là tiêu tan hết. Kiêu ngạo như que diêm nhỏ bé, nhưng nó vẫn có thể thiêu rụi cả một tòa nhà nguy nga tráng lệ. Tương tự, đốm-lửa-kiêu-ngạo cũng có thể thiêu rụi cả lâu-đài-khiêm-nhường mà chúng ta đã dày công xây dựng cả đời. Tiền nhân nhắc nhở chí lý: “Cẩn tắc vô ưu.”

Thánh Phaolô tha thiết yêu cầu ông Philêmôn: “Tôi là Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô.” (Plm 9b-10) Thánh Phaolô có quyền nhưng không muốn dùng quyền để hành người khác, đó là thể hiện đức khiêm nhường, đồng thời xác định: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện.” (Plm 12-14) Đó là cách tôn trọng người khác, không ép buộc, khiêm tốn mời gọi vì tôn trọng người khác, biết tôn trọng người khác là một dạng bỏ mình và yêu thương người khác.

Vì xót thương “đứa con tình thần,” Thánh Phaolô sẵn sàng hạ mình mà cầu xin người khác: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” (Plm 15-17) Tốt đẹp biết bao!

Người ta quan sát Chúa Giêsu với ác ý soi mói và tìm cách bắt bẻ chứ không có ý ngay lành. Tương tự, chúng ta cũng thường làm như vậy với nhau. Còn Chúa Giêsu, Ngài quan sát để biết tình huống ra sao mà “gỡ rối” cho người khác. Mỗi người có cách quan sát khác nhau, quan trọng là có quan sát theo cách của Chúa hay không.

Việt ngữ chí lý lắm: TÔI là TỒI, vì TÔI thích TỐI nên lắm TỘI. Toàn là mẫu tự T, vừa TÊ vừa TÁI. Còn ngoại ngữ, chữ Santa (thánh nhân) nếu hoán vị mẫu tự N sẽ biến thành Satan (ma quỷ) – một làn ranh mong manh. Vừa kỳ lạ vừa đáng sợ!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận biết chính mình và sẵn sàng đón nhận đau khổ đời này vì yêu mến Ngài, và để đền tội chúng con – riêng và chung. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Trầm Thiên Thu

---------------------------------

 

TN 23-C193: TỪ BỎ VÀ HY SINH, BẠN CHỌN ĐIỀU NÀO?

 

Khi đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, tôi cảm thấy lo sợ, vì những huấn lịnh và các yêu cầu của TN 23-C193


Khi đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, tôi cảm thấy lo sợ, vì những huấn lịnh và các yêu cầu của Chúa dành cho các môn đệ quả thật quá khó áp dụng. Xét bản thân, tôi nhận ra mình chưa làm được gì, đó là chưa kể đến những lần lạm dụng và vi phạm huấn lịnh của Chúa truyền. Đấm ngực ăn năn một lần chưa đủ, ngàn lần cũng chưa xong. Vậy làm thế nào?

Có thật Chúa yêu cầu tôi phải dứt bỏ (hay ghét) thành viên trong gia đình và cả bản thân mình rồi mới theo Chúa hay không? Thế nào, lại chẳng có người khuyên tôi là đừng giải thích và hiểu bản văn theo nghĩa đen. Đức Giê-su không khắt khe và yêu cầu con người thực hiện điều mà mình không bao giờ làm được đâu! Hơn thế nữa, nếu thân bằng quyến thuộc mà mình không thương thì ai tin vào tình thương của mình là chân thật nữa?

Như vậy thì ý nghĩa của huấn lịnh mà Đức Giê-su yêu cầu trong bài Tin Mừng hôm nay phải giải thích và áp dụng như thế nào?

Khi Đức Giê-su nói: ai đến với Người mà không ghét (dứt bỏ) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không đáng làm môn đệ của Người; đây là một kiểu nói so sánh tạo cho người nghe một cú ‘sốc’ và phải chú tâm tìm hiểu. Có nhiều người giải thích là bất kỳ ai yêu thương cha mẹ, con cái và anh chị em hơn Chúa thì không xứng đáng theo chân Chúa. Chúa không ghen với chúng ta. Chúa buộc con người phải chọn lựa ưu tiên. Chúng ta ý thức rằng trước khi thuộc về nhau, con người phải thuộc về Chúa trước. Vì thế, việc chọn lựa ưu tiên trong cuộc sống để thuộc về Chúa sẽ giúp chúng ta gần những người thân trong gia đình hơn.

Với ý tưởng như thế, chúng ta mới khám phá ra có mối dây liên hệ giữa việc sắp đặt thứ tự ưu tiên mà các môn đệ cần chọn lựa giữa hành động dứt bỏ họ hàng với từ bỏ mình.

Từ bỏ mình không phải vì mình đã làm sai điều gì; cũng không phải vì ghét bản thân mình nên từ bỏ nó. Nhưng, Đức Giê-su yêu cầu chúng ta từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ cách suy nghĩ cho mình là trung tâm, từ bỏ cái tôi, từ bỏ ý nghĩ hoang tưởng tự nhận mình là người khôn ngoan, nắm giữ mọi câu trả lời.

Việc từ bỏ theo tinh thần của Đức Chúa nhằm giúp chúng ta tập trung vào việc yêu Chúa với cả tấm lòng và yêu tha nhân như Chúa yêu; rồi từ đó chúng ta sẽ có lối suy nghĩ như Chúa vậy. Từ bỏ mình để chấp nhận và sống theo ý Chúa thì dễ cho chúng ta gần và nối kết với những người thân hơn.

Dường như đó là những gì Đức Giê-su muốn khuyên. Từ bỏ không để trở thành một gương mẫu hay một ‘role model’; nhưng từ bỏ để được tự do và sẵn sàng đón nhận Thập giá mà chung chia với Thập giá của Đức Giê-su, Đấng đã vác để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta nhiều hơn chúng ta dành cho Người.

Từ bỏ bản thân! Còn gì khó thực hiện hơn điều này?

Chúng ta sinh ra và lớn lên trong một môi trường cổ võ cho tính ích kỷ, một cách nào đó suy tôn ‘cái tôi’, mong muốn được mọi người để ý và chăm sóc cho các nhu cầu của chúng ta. Tại sao tôi phải từ bỏ mà không phải ai đó? Tại sao lại là tôi?

Đừng càm nhàm và phàn nàn nữa. Bởi vì, chính trong giây phút đó, chúng ta được mời gọi tiến sâu hơn vào trong cõi lòng của Đức Giê-su. Chúng ta được gọi để chết cho các nhu cầu và khát vọng của bản thân để tìm một lối sống đổi mới trong Chúa. Nói cách khác, chúng ta hiện diện trong thế giới này không vì bản thân mình, nhưng vì người khác.

Giả như, có một ngày nào đó, chúng ta nhận ra mình đã đạt được mọi điều như lòng mong ước, nhưng trên tiến trình chúng ta lại đánh mất chính mình! Đến lúc đó mình sẽ như thế nào?

Thưa anh chị em,

Sứ điệp hãy từ bỏ của Đức Giê-su là một nghịch lý. Thay vì từ bỏ điều này, hy sinh điều kia thì chúng ta hãy cho đi nhiều hơn. Hãy để cho lòng của chúng ta quan tâm đến các nhu cầu của người khác nhiều hơn là nhu cầu của chính chúng ta. Đó là sứ điệp của Chúa, sẵn sàng chết cho ý riêng thì chúng ta sẽ tìm được cuộc sống đích thực.

Hơn thế, theo chân Chúa đòi hỏi một hành động dấn thân tích cực, một tính toán cẩn thận để rồi khi bắt đầu thì không được phép tháo lui. Đó chính là điều mà Đức Giê-su đã ám chỉ trong câu chuyện nói về việc cần chuẩn bị khi xây cất và việc tính toán để đạt được chiến thắng trong trận chiến. Những hình ảnh này ám chỉ đến ý nghĩa mà Đức Giê-su muốn các môn đệ phải suy nghĩ chín chắn trước khi có quyết định dấn thân theo Chúa.

Đây không thể là một quyết định dựa trên cảm tính, để rồi khi thấy khó khăn lại tháo lui. Khi quyết định theo Chúa, người môn đệ phải kiên quyết tiếp tục công trình cho đến hoàn thành. Và sau cùng, Thánh Luca đã tóm lược sứ điệp hôm nay bằng một lời giáo huấn then chốt, đó là phải từ bỏ hết những gì mình có, kể cả mạng sống mình. Nếu không kiên quyết thực hiện điều quan trọng này thì không xứng đáng làm môn đệ của Chúa.

Như vậy, điều Chúa muốn là tấm lòng quả cảm, dứt khoát và liều lĩnh khi theo chân Người. Tuy nhiên, đối diện với thực tế của bản thân, không phải lúc nào chúng ta cũng giữ được ngọn lửa bùng cháy như thế, cũng có lúc yếu lòng, tâm hồn nguội lạnh, chán nản, thậm chí muốn bỏ cuộc. Các điều như thế xẩy ra rất bình thường. Bởi vì, chúng ta chưa đến đich, chúng ta vẫn là những kẻ lữ hành, đang trên đường với Đức Giê-su để tiến về Giê-ru-sa-lem, đỉnh cao của con đường gian khổ và cũng là vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những ai tin tưởng và trông cậy nơi Người.

Thưa anh chị em,

Các việc từ bỏ, hy sinh để trung kiên với ơn gọi làm môn đệ của Chúa như thế cũng là ơn gọi của những người cha. Các ngài đã hy sinh, từng bước dìu chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa, luôn là gương sáng cho chúng ta noi theo, là điểm tựa vững chắc mỗi khi chúng ta mệt mỏi hay vấp ngã và nhất là niềm hy vọng cho những người con của mình. Với ý tưởng này, xin mời anh chị em cùng nghe một câu chuyện ngắn được đăng tải trên các trang mạng. Xin phép sao chép ở đây nhân dịp ngày “Nhớ ơn Cha.” Truyện có tựa đề “Ngọn nến không cháy” như sau:

Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ và hạnh phúc. Một hôm, cô con gái chẳng may bị bạo bệnh và đã chết. Người cha quá đau khổ và tuyệt vọng. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống. Ông không muốn tiếp xúc với ai, tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.

Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả mọi ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé đứng cuối hàng. Trên tay của đứa bé ấy là một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là cô con gái yêu dấu của ông.

Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: “Tại sao nến của con lại không cháy?” Bé gái đã đáp rằng: “Con đã cố gắng thắp lên ngọn nến của con, nhưng không được cha à! Bơi vì, mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những giọt nước mắt của cha lại dập tắt ngọn nến của con.”

Đến đó thì người cha choàng tỉnh.

Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người bởi ông không muốn những giọt nước mắt trong đau khổ và mất mát của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con gái ông. Ông nhận ra rằng nước mắt có thể làm xoa dịu phần nào nỗi đau thương chứ không cất đi nỗi bi thương được hình thành bởi nguồn tình cảm cha con. Hãy để cho những giọt nước mắt đó chảy ngược về tim, tại nơi đó cha con ông lại gặp nhau và đó cũng là chỗ dựa phát sinh nguồn hy vọng mà các con ông đang trông chờ.

Và sau cùng để biểu lộ tâm tình biết ơn nhân ‘ngày nhớ ơn Cha’, chúng ta cùng dâng lên Chúa lời cầu xin:

Lạy Chúa,

Chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những người cha kính yêu.

Nguyện xin cho cha chúng con luôn biết rằng: chúng con cần đến ngài,

Chúng con luôn yêu mến và kính trọng các ngài, bây giờ và mãi mãi. Amen!

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-----------------------------

 

TN 23-C194: TỪ BỎ

 

Có người cho rằng, sở dĩ ơn gọi đi tu làm linh mục và tu sĩ càng ngày càng khan hiếm là tại TN 23-C194


Có người cho rằng, sở dĩ ơn gọi đi tu làm linh mục và tu sĩ càng ngày càng khan hiếm là tại vì Chúa Giêsu đòi hỏi người ta từ bỏ nhiều thứ quá, nào là từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và từ bỏ cả mạng sống nữa! Có thực sự là Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống theo nghĩa đen, theo cái kiểu đoạn tình dứt nghĩa, theo cái kiểu một đi không trở lại không? Tôi không nghĩ như vậy, bởi vì Phúc Âm ghi lại rằng:

• Chúa Giêsu đã từng dạy phải hiếu thảo với cha mẹ: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." (Mt 19:19)

• Chính Ngài đã từng lấy “vacation” về Nazareth thăm Đức Mẹ và bà con họ hàng của mình: “Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: "Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giuđa sao?” (Mt 13:54-55)

• Và Ngài đã nêu gương hiếu thảo với cha mẹ qua việc quan tâm, lo lắng và chăm sóc cho Đức Mẹ khi Ngài đang hấp hối trên cây thập giá: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với…môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19:26-27).

Nếu Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, phải chăm sóc cho các ngài, thì không thể nào Ngài lại buộc các môn đệ phải từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, theo nghĩa đen, theo nghĩa phải dứt tình đoạn nghĩa với cha mẹ và anh chị em khi đi theo Ngài. Không bao giờ lại như vậy được bởi vì ngôn hành của Chúa Giêsu bao giờ cũng đồng nhất, trước sau như một, Ngài không bao giờ nói một đàng mà lại đi làm một nẻo cả.

Như vậy, khi Chúa phán: "Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26-27)Ngài muốn nói rằng, bạn và tôi phải yêu mến và phải đặt Ngài lên trên hơn mọi thứ tình cảm và tất cả mọi quyến rũ của trần gian này. Nói một cách khác, khi làm môn đệ của Chúa Giêsu, bạn và tôi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn (Mt 22:37) phải đặt Chúa lên hàng ưu tiên số một, trên cả tình cảm cha mẹ, tình cảm lứa đôi, trên cả tiền bạc, của cải vật chất, sắc đẹp, trí khôn, tài năng, những thú vui...

Bạn thân mến, nếu bạn đồng ý với tôi rằng khi đi theo Chúa Giêsu, tất cả các môn đệ, trong đó có tôi và có bạn, phải yêu mến Ngài trên hết tất cả mọi sự, tình yêu mà chúng mình dành cho Ngài phải mãnh liệt hơn, cao hơn và phải được đặt lên trên hết mọi thứ tình cảm khác như tình phụ tử, tình mẫu tử, tình phu thê, tình cảm đôi lứa, và tình huynh đệ…thì chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để trong đời sống hàng ngày, bạn và tôi có đủ ơn khôn ngoan và can đảm để yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn và đặt Chúa lên ưu tiên hàng đầu, và trên hết mọi sự.

Đừng bao giờ yêu mến tiền bạc, của cải vật chất hơn là yêu mến Thiên Chúa. Đừng đi cày suốt ngày suốt đêm, làm đến độ bỏ cả lễ Chúa Nhật, bỏ cả việc xưng tội, bỏ cả việc đọc kinh cầu nguyện…đó là dấu hiệu cho biết chúng mình đang bỏ Chúa xuống hàng thứ yếu đấy! Chết! Làm như vậy là không ổn đâu!

Khỏi cần nói và cũng chẳng cần phải giải thích, bạn cũng dư biết bước đi là bao hàm ý nghĩa của từ bỏ. Mà nói đến từ bỏ thì đồng nghĩa với đau đớn và khó khăn! Vì thế để có thể từ bỏ, bạn và tôi cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Không có ơn Chúa, chắc chắn chúng mình sẽ không thể từ bỏ những quyến luyến ở thế gian này để đi theo Ngài được.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau, cách riêng cho các Đức Giám mục, linh mục và tu sĩ, xin cho mỗi người chúng ta trung thành trên con đường đi theo Chúa, và luôn đặt Ngài lên trên tất cả mọi thứ tình cảm, kể cả tình cảm cha mẹ, tình cảm anh chị em họ hàng và mọi thứ quyến rũ của thế gian này. Nhờ vậy chúng ta sẽ được chia sẻ vinh quang cùng với Chúa Giê-su, với Đức Maria và các thánh ở trên Thiên Quốc. Amen!

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

-----------------------------

 

TN 23-C195: THEO CHÚA THÌ PHẢI VÁC THÁNH GIÁ

 

Qua bài Phúc âm Luca hôm nay (Lc 14:25-33) Chúa Giêsu đã đòi hỏi người môn đệ những điều TN 23-C195


Qua bài Phúc âm Luca hôm nay (Lc 14:25-33) Chúa Giêsu đã đòi hỏi người môn đệ những điều kiện phải có để được theo Ngài. Chúa dùng 3 cách nói (c.26-27,33) và 2 dụ ngôn (c.28-32). 

Không gắn bó với gia đình (c.26) và của cải vật chất (c.33) là những điều kiện và cam kết tổng quát. Sẵn sàng chấp nhận bị truy nã và đau khổ (c.27); đó là những công tác khó khăn, nặng nhọc và phải trả giá rất cao (c.28-32).

Hai dụ ngôn là để làm sáng tỏ ý nghĩa những đòi hỏi. Dụ ngôn 1 nói về việc xây một cái tháp trong vườn nho để canh phòng kẻ trộm và thú rừng. Dụ ngôn 2 đưa ra hình ảnh một vương quốc có những luật lệ và nguyên tắc phải giữ. Khi cần có quyết định về một vấn đề gì mà phải dùng thì giờ, của cải hay cả mạng sống mình thì người giầu có, kẻ nghèo hèn, vua chúa quan quyền hay thường dân đều có cùng một quyết định như nhau. Cái giá phải trả cho quyết định ấy có thể lớn hơn mình nghĩ! Quyết định làm môn đệ Chúa thì cũng vậy thôi. Nồng nhiệt ngay từ đầu là một chuyện, nhưng có đủ tài trí can đảm để bền tâm gắng sức hoàn thành nhiệm vụ hay không lại là một chuyện!  

Cả hai dụ ngôn đều làm nổi bật sự khôn ngoan phải có để xác định cái giá mà người môn đệ phải trả. Cả người xây tháp lẫn ông vua trước khi xuất quân ra trận đều phải tính toán hơn thiệt, lợi hại. Người môn đệ phải hiểu là theo Chúa Kitô thì cũng có những điều kiện bó buộc. Chấp nhận Chúa Kitô là phải chấp nhận thánh giá. 

NGUỒN HẠNH PHÚC

Tác giả bài đọc 1 sách Khôn Ngoan (9:13-18) nói về sự khác biệt giữa thể xác và linh hồn. Chúa Giêsu đã nói: “Tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26:41).

Con người không thể nào hiểu được trọn vẹn những mầu nhiệm về Thiên Chúa. 

Là Kitô hữu, chúng ta không thể chống đối những tiến triển của con người và từ bỏ những lạc thú của mình, nhưng phải biết xác định nó trong một chừng mực nào đó để cân bằng giữa khôn ngoan và cuộc sống. Bài đọc 1 đặt vấn đề cho chúng ta: “Chúng ta có hạnh phúc hay không là do có biết chia sẻ của cải vật chất của chúng ta cho những người nghèo khổ, dân oan và hành động liên đới với Thiên Chúa và tha nhân?”

CHỌN CHÚA KITÔ LÀ TRÊN HẾT. 

Đứng trước muôn vàn cám dỗ về tiền bạc, danh-quyền-lợi, Chúa Kitô kêu gọi chúng ta phải từ bỏ tất cả là một thách đố vô cùng to lớn, nhất là ở thời đại ngày nay. Chúng ta thường nghĩ chọn lựa không phải là thích chọn cái này hơn cái kia mà là chọn tất cả mọi sự cùng một lúc. Đây là kiểu ngồi chờ cơ hội để hành động. Cái nguy hiểm của cách này là “cứ ngồi chờ mà chẳng làm gì cả” nhưng vẫn muốn cuộc sống có ý nghĩa. 

Kinh nghiệm cá nhân cũng như sinh hoạt giáo xứ hay cộng đồng cho thấy chúng ta thường không muốn dính dáng vào một cam kết nào cả cũng như không muốn liều mình mạo hiểm hoặc làm cho xong một cam kết đã hứa. Vấn đề rõ ràng là một khi đã chọn thì không thể không hy sinh loại bỏ những ưa thích khác. Chọn lựa này là cần thiết và chính đáng để có một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

MỘT SỨ MỆNH HAY HƠN CẢ NGÀN ĐIỀU ƯA THÍCH

Về điểm này, Đức Hồng y George Pell đã trình bày rất rõ trong bài giảng khai mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 ở Sidney, Úc Châu hôm 15-07-2008. Ngài nói với hơn 150.000 người trẻ trên khắp thế giới tụ tập nơi đó về sứ mệnh của họ trong cuộc sống: “Đừng tiêu hao cuộc sống mà chẳng làm gì cả trong khi vẫn ôm lấy những ưa thích của mình, bởi vì chỉ có cam kết thề hứa mới có thể hoàn thành được nhũng ưa thích ấy. Hạnh phúc có được là do ở những ràng buộc chúng ta phải thi hành bổn phận một cách đều đặn, nhất là trong những vấn đề nhỏ nhoi; như vậy chúng ta mới có thể đứng lên chấp nhận những thách đố khó khăn hơn. Nhiều bạn đã tìm thấy ơn gọi cho cuộc sống của mình ở những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.” 

Những lời kích thích này của Đức Hồng y Pell cho đến nay đã hơn 10 năm trời mà vẫn còn vang vọng bên tai: “Một sứ mệnh thì hay hơn cả ngàn điều ưa thích.”

KHÔN NGOAN THỰC VÀ TỰ DO THỰC 

Trước đám đông với cuộc sống đầy hỗn loạn, Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện để làm môn đệ và buộc “họ phải có chọn lựa.” Chúa đã thách thức lòng trung thành của chúng ta. Vì không có chúa nào khác Thiên Chúa của Israel, cũng không có tình yêu nào khác ngoài tình yêu Chúa Kitô, do đó, theo Chúa Giêsu thì phải trả giá, và những ai theo Chúa nửa vời hay vì tò mò thì nên coi chừng. Làm môn đệ, chúng ta có thể mất hết tất cả, nhưng ngược lại sẽ được đền bù những điều có giá trị hơn nhiều không ai ngờ. Lúc đó chúng ta mới thực sự là khôn ngoan và tự do.

TUYÊN XƯNG CHÚA KITÔ VÀ TIN MỪNG 

Luca nhấn mạnh Chúa Giêsu không thích thỏa hiệp, nhưng đòi hỏi một cam kết của một con người toàn diện, quyết tâm tách biệt khỏi mọi luyến tiếc quá khứ, mọi liên hệ gia đình, mọi của cải vật chất (Lc 9:57-62; 14:26-33). Theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình, mạng sống mình, ghét bỏ gia đình, vác Thập giá hằng ngày mà theo Chúa (Lc 9:23; Lc 14:26) quả là một đòi hỏi ghê sợ.

‘Ghét bỏ’ chỉ là một cách nói bóng, có nghĩa là không để ý, xa lánh, tách biệt khỏi người nào hay sự vật gì đó… Chắc chắn Chúa không muốn người môn đệ ghét bỏ cha mẹ anh em mình theo nghĩa đen, vì như vậy sẽ trái với điều răn 1 là “phải yêu mến mọi người như chính mình vậy” và điều răn 4 “phải thảo kính cha mẹ”. Vậy thì có nghĩa là phải “yêu Chúa trên hết mọi sự”. 

Ghét bỏ mạng sống mình cũng không có nghĩa là Chúa kêu gọi khinh khi mình hoặc hủy hoại thân xác mình. Tuy nhiên, trong những điều kiện buộc chúng ta phải trung thành, Chúa đòi hỏi người môn đệ phải tuyên xưng Chúa Kitô và Tin Mừng trước, với tất cả ý nghĩa thực sự của “tách rời và xa lánh….” 

Là Kitô hữu -theo Luca- là bước theo đường Chúa Giêsu đã đi là Thập giá, là con đường gian khổ đi lên núi sọ (9:57; 10:38; 13:22; 14:25). Chính Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta bước theo Người, và chính Người đã làm như vậy để biểu lộ căn tính phi thường của Người qua mầu nhiệm Con Thiên Chúa, đấng nhận biết Chúa Cha và thể hiện là con một Thiên Chúa (10:22). Chúa Giêsu đã nói với tất cả những người theo Chúa trong giờ phút lịch sử ấy, và cho tất cả chúng ta là những người theo Chúa ngày nay: “Hãy nghĩ về những điều anh em đang làm và quyết định xem anh em sẽ ở lại với thầy hết đoạn đường này hay không?” 

Con người thì luôn luôn bị cám dỗ muốn cho những đòi hỏi của Tin Mừng nhẹ bớt đi để thích hợp với bản tính yếu đuối của mình hoặc là bỏ cuộc giữa đường. Nhưng giá trị thực sự của đời sống cộng đồng Kitô giáo lại phụ thuộc vào việc làm của mỗi chúng ta: Một Giáo Hội mà sinh hoạt chỉ lo điều đình và thỏa hiệp thì cũng giống như muối đã mất vị mặn (14: 34-35).

HÌNH ẢNH LÒNG TRẮC ẨN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ 

Được gọi thì không cần phải toàn hảo mà chỉ cần trung thành và biết lắng nghe. Samuel và những tiên tri của Israel, Martha, Mary và Lazaro thành Bethany, những ngư phủ ở Galilee và ngay cả những người thu thuế mà Chúa Giêsu đã gọi chắc chắn không phải vì họ có đầy đủ mọi đức tính hoặc đã chu toàn tốt các điều kiện. Thánh Phaolô nói là Chúa Giêsu đã gọi “những tên khùng”, làm những người khôn ngoan phải xấu hổ. Hình ảnh Tin Mừng Phúc Âm nơi các môn đệ là lòng trắc ẩn, bởi vì nó giúp người ta chiến đấu để đạt ước mơ, hay đôi khi quên đi tiếng gọi trở nên vĩ đại. Chúng ta sẽ không bao giờ giống nhau, bởi vì Chúa Giêsu đã gọi chúng ta, yêu chúng ta, thay đổi chúng ta và làm cho chúng ta giống hình ảnh người. Người đã gọi chúng ta, chúng ta không có chọn lựa nào khác ngoài việc kêu gọi những người khác đón nhận Tin Mừng Chúa và bước theo Người.

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ

Ngày 19-09-2010 tại Birmingham, Anh quốc đã có cuộc lễ tuyên thánh cho nhà thần học Công giáo vĩ đại là Đức Hồng y John Henry Newman có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XIX. Ngài đã từ Anh giáo trở về với Công giáo. Với trí thông minh tuyệt mức và tài viết lỗi lạc ngài đã viết lên những tác phẩm lớn lôi cuốn hàng ngàn người trở về với Chúa Kitô và Giáo Hội Công Giáo Rôma.

Khi trở lại Công Giáo, Đức Hồng y Newman đã phải hy sinh rất nhiều. Gia đình xa lánh, bạn bè cắt đứt mọi liên hệ. Ngài đã phải từ nhiệm việc giảng dạy và mất hết mọi nguồn lợi lương bổng. Ngài đã phải chịu nhiều đau khổ vì hiểu lầm từ trong gia đình đến những vị lãnh đạo Anh Giáo và những người thân cận nhất. Ngài nói điều duy nhất giúp ngài tồn tại được trong thời kỳ cố gắng ấy là sự hiện diện của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể.

Vì cống hiến những công trình phi thường và lòng tận hiến sâu xa, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã vinh thăng cha John Henry Newman làm Hồng y năm 1879. Sau một cuộc sống đầy thử thách, Đức Hồng y Newman đã nhận được tin vui và tuyên bố “Mây mù đã bay đi hết rồi.” 

Đức Hồng y Newman qua đời tại Viện Hùng Biện ở Edgbaston ngày 11-08-1890 hưởng thọ 89 tuổi. Đức Gioan Phaolô II tuyên phong ngài lên bậc Đáng Kính năm 1991. Ngày 19-09-2010, Đức Bênêđíc tô XVI tôn vinh ngài là Tôi Tớ trung thành và tốt lành, người đã trả giá cho tình môn đệ của Chúa Giêsu. 

Nhìn vào Việt Nam chúng ta ở thời đại hiện nay cũng không thiếu những vị đã trả những giá rất đắt vì là môn đệ Chúa. Hồng y có, Giám mục có, linh mục có, giáo dân có đã phải chịu biết bao cực hình đau khổ và cuối cùng hy sinh cả mạng sống vì quyết trung thành với Chúa. Không kể 118 vị thánh tử đạo VN hồi xưa, ngày nay còn có một ĐTGM. Philípphê Nguyễn Kim Điền, ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, cha Tổng đại diện Nguyễn Văn Vinh của Hanoi, tu sĩ Đỗ Bá Lung của Xã Đoài và biết bao ông trùm, chánh trương, thanh niên Công Giáo đã chết rũ tù vì niềm tin môn đệ Chúa Kitô tai trại tù Cổng Trời vô cùng khắc nghiệt và tàn ác ở Việt Bắc. Họ là những anh hùng tử đạo đã hoàn thành nhiệm vụ đích thực của người môn đệ Chúa Kitô. Họ đã mất thân xác nhưng được lại vinh quang Thiên Chúa cho giáo phận, đất nước và Giáo Hội Việt Nam. Chúng ta không thể không bắt chước các ngài được trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước!

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

--------------------------

 

TN 23-C196: KHÔN NGOAN THẬT

 

Câu chuyện ngụ ngôn kia kể rằng có một đoàn người đông đảo đang cùng bước với Chúa. Chúa đi TN 23-C196


Câu chuyện ngụ ngôn kia kể rằng có một đoàn người đông đảo đang cùng bước với Chúa. Chúa đi trước, vai vác thập giá mình. Ai nấy theo sau cũng vậy. Người thập giá to, kẻ thập giá nhỏ. Người thập giá gỗ, kẻ thập giá sắt. Người thập giá nặng, kẻ thập giá nhẹ. Nhưng thập giá nào cũng trông vừa vặn với mỗi cá nhân. Mọi người đều bình thản tuy vẫn phải hết sức cố gắng. Có anh chàng nọ nghĩ thập giá mình quá nặng nên than van liên lỉ và cuối cùng quyết định cưa bớt đi một khúc. Đoàn người đang đi thì gặp phải một vực thẳm vừa sâu vừa rộng. Bên kia vực thẳm là Thiên đàng nhưng chẳng có cây cầu nào bắc qua. Chúa bảo ai nấy hãy lấy thập giá mình làm cầu cho mình. Và lạ lùng thay, dẫu ngắn dài, dầu to nhỏ, thập giá nào đặt xuống cũng vừa vặn bắc qua vực thẳm, để mỗi cá nhân đi sang. Trừ cây thập giá đã bị cưa bớt của chàng thanh niên nọ…

1. Từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su

Ngụ ngôn trên đây là một minh họa lý thú cho đoạn Tin Mừng ta đang suy gẫm. Đoạn này nằm trong phần nói về việc Đức Giê-su “tiến lên Giê-ru-sa-lem” (9,51-19,27), nơi Lu-ca gom các tài liệu độc đáo ông đã thâu thập nhờ các nguồn thông tin riêng của mình. Đây không chỉ là một thiên phóng sự cụ thể, mà còn là câu chuyện lớn lao của Đấng Cứu Thế mọi thời. “Đám đông đi cùng đường với Đức Giê-su” như Lu-ca ghi nhận không chỉ là vài trăm con người thời ấy ở Pa-lét-tin. Đó còn là vô số tín hữu nam nữ đã cất bước theo Người qua bao thế kỷ như trong ngụ ngôn minh họa. Thành thử chính về phía chúng ta hôm nay mà Đức Giê-su quay lại để đặt vài câu hỏi: “Anh em tự nhận là môn đệ tôi… nhưng anh em biết điều ấy có nghĩa gì không? Có biết việc đi theo tôi sẽ dẫn anh em tới đâu không?” Đó là:

Phải “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa”. Đòi hỏi đầu tiên của Đức Giê-su đúng là gây hốt hoảng và một lần nữa, chứng tỏ nhân vật thành Na-da-rét ấy ý thức mình chẳng phải là “một con người bình thường”. Vậy nếu không là một kẻ điên khùng, thì Người là ai mà dám đòi tất cả nhân loại phải dứt bỏ những tình cảm như thế, để chỉ gắn bó với bản thân Người thôi?

Hiển nhiên Người chính là Thiên Chúa, Đấng phải chiếm chỗ nhất trong cuộc sống mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, các kiểu nói thẳng thừng Người sử dụng không muốn bảo chúng ta có thể bỏ rơi các mối liên hệ gia đình. Thay vì biện minh lòng ích kỷ, Đức Giê-su trái lại kêu gọi một sự từ bỏ chính mình thật tận căn. Ngoài ra, đây đúng là yêu thích Đức Giê-su hơn chính cuộc sống mình. Như thế, thay vì mời gọi bẻ gẫy cách ích kỷ mọi tương quan nhân loại thiêng thánh nhất của chúng ta (tình phụ tử, tình phu thê, tình huynh đệ), Đức Giê-su nhắc nhở ai nấy hãy lấy tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa mà sinh động và xuyên thâu mọi thứ tình cảm nói trên… Và chính sự từ bỏ gia đình như thế, Đức Giê-su đã tự áp đặt cho mình trước lúc yêu cầu chúng ta, khi Người hiến toàn thân lo việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19.21; 11,27-28). Do đó, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, ai nấy phải nhận vào tâm hồn mình, vào cuộc sống cụ thể của mình, cái đòi hỏi phi thường ấy.

Thêm nữa, phải “vác thập giá mình mà đi theo tôi”. Ở đây có hai kiểu nói: “vác thập giá” và “bước theo Đức Giê-su”. Thành thử trước hết chẳng phải là từ bỏ, nhưng là yêu mến. Ai đã thật sự gặp Đức Giê-su, thì đã tìm được giá trị giúp triển nở nhất trong mọi hoàn cảnh. Tất cả những gì khiến chúng ta đau khổ, đều có thể trở thành “thông hiệp tình yêu”. Tất cả những ai vác một thập giá đều bước theo “sau” Đức Giê-su, kẻ vác đi đầu. Ước chi khi loạng choạng dưới thử thách, chúng ta biết nghĩ rằng Đức Giê-su có đó, bước trước ta, sát gần ta, cũng loạng choạng trên con đường đau khổ đang dẫn Người đến niềm vui hớn hở của cuộc Phục sinh! Si-môn làng Ky-rê-nê, “bị đặt thập giá lên vai vác theo Đức Giê-su”, là hình ảnh người môn đồ đích thực (Lc 23,26). Ai đã khám phá ra điều ấy, thì đã tìm được một bí quyết… bí quyết của một hạnh phúc không gì có thể phá hủy.

2. Quyết tâm theo cho đến cùng.

Để minh họa cho đòi hỏi của mình, đồng thời nói lên tính cách nghiêm chỉnh của việc theo Người, Đức Giê-su bèn kể dụ ngôn “cây tháp phải xây” và dụ ngôn “cuộc chiến phải thắng”. Đây là hai dụ ngôn riêng của Lu-ca, nói lên “bổn phận ngồi xuống”! Cả hai nêu bật gian khó lớn lao mà người ta phải dấn thân vào khi quyết định cất bước theo Đức Giê-su: đây là một cuộc mạo hiểm dài hơi… phải có thể đi đến cùng!

Đức Giê-su đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, ngụy tạo một tâm lý sính thành công chung quanh mình. Thay vì che giấu các rủi ro của công cuộc, Người nêu bật chúng, như để khiến nản lòng ngay lập tức mọi phấn khởi bốc đồng và thoáng qua… như thể sự rút lui giữa đường còn tệ hơn là chẳng bao giờ khởi sự! Điều đó buộc ta nghiêm chỉnh nghĩ đến tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin, lúc việc này là tự ý. Ngưng “nối gót Đức Giê-su” một khi đã cất bước theo Người… phải chăng còn trầm trọng hơn là đã chẳng bao giờ biết Người?

Cả hai dụ ngôn này thuộc số các mảnh mà Lu-ca đã cố ý gộp lại với nhau trong phần “Tiến lên Giê-ru-sa-lem”. Hai trình thuật song song, dễ nhớ, với kiểu văn nói lặp đi lặp lại. Cùng một bài học phát xuất, nhân đôi, để chẳng ai quên: cuộc sống Ki-tô hữu là “chiến đấu” và “xây dựng”. Hai công cuộc đầy mạo hiểm đòi hỏi suy nghĩ và kiên nhẫn, tiên liệu và tổ chức. Cần phải ngồi xuống để suy nghĩ! Phải chăng đôi khi tôi hoàn tất yêu cầu này của Đức Giê-su? Phải chăng tôi dành thời giờ để suy nghĩ về cuộc sống mình, về các cam kết của mình? Là những người biết tổng kết, tính toán, tiên liệu, về các công cuộc nhân loại của bản thân, phải chăng thỉnh thoảng chúng ta cũng dừng lại một mình hay với nhóm, để nhận định xem các công cuộc đó có được thực hiện hay không trong đường hướng của Đức Ki-tô? Đây là mục đích của việc “kiểm điểm đời sống”: xem, xét, làm, cầu nguyện… dưới ánh sáng Tin Mừng.

Nghỉ hè về, lời mời gọi này của Đức Ki-tô đến thật đúng lúc. Một năm mới có đó, trước mắt ta. Tất cả sắp bắt đầu lại. Để khỏi sống trên bề mặt chính mình và bề mặt mọi sự, cần phải biết suy niệm, một bí quyết sống thật sự hữu hiệu và sâu xa. Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta hôm nay chớ sống nông cạn, bề ngoài. Hãy bắt chước Người, Đấng dù chỉ rao giảng vỏn vẹn trong ba năm, cũng đã làm hơn tất cả mọi nhà hoạt động trên thế giới và trong lịch sử. Một bà mẹ gia đình trẻ, công việc chồng chất, đã nói với cha xứ một ngày kia: “Chính những ngày phải làm nhiều hơn cả thì con càng cảm thấy nhu cầu phải dừng lại, ngồi xuống mươi phút, để suy niệm, và con đã lợi được rất nhiều thời giờ!”

Và như để kết luận, Đức Giê-su lặp lại cũng một điệp khúc, sắc như lưỡi dao máy chém: “Không thể làm môn đệ tôi được”. Phải “ngồi xuống” là vì lẽ ấy: người ta không thể theo Đức Giê-su cách dễ dãi. Phải sẵn sàng “đi cho đến cuối”: từ bỏ việc tìm kiếm chính bản thân mình, từ bỏ chính mạng sống mình, từ bỏ chính tài sản mình… vì tình yêu. Lời mời từ bỏ triệt để này, sống khó nghèo này, không phải là một “lời khuyên” dành cho các siêu Ki-tô hữu, tức các tu sĩ, như đôi khi ta vẫn hiểu… nhưng là điều kiện của cuộc sống Ki-tô.

Một lần nữa, thay vì coi các lời này của Đức Ki-tô như quá đáng, hãy để thời gian cảm nghiệm, bạn sẽ thấy đó là những lời thật sự giải thoát và làm triển nở. Để hiểu điều này, dĩ nhiên phải để Thiên Chúa đổ đầy con tim. Vậy chúng ta có nên tiếp tục lao mình vào việc chiếm hữu? Hay nên khám phá và phát minh một cách khác để sống hạnh phúc hơn: trong tình bạn, trong chia sẻ, trong đơn giản chẳng hạn? “Xã hội tiêu thụ chẳng làm cho con người nên hạnh phúc”, đức Gio-an-Phao-lô II từng nói thế với các bạn trẻ. Họ đã vỗ tay. Họ đã đồng ý. Nhưng nếu thế, đâu là các kết luận thực tiễn trong việc mua sắm, tiêu xài, sử dụng tiền bạc của tôi… Để được tự do hơn, và đơn giản, để “theo Đức Giê-su” hơn. Để giống Người một chút. Nhất là để có thể về nơi hạnh phúc đích thực của Thiên Chúa vĩnh hằng!

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------

 

TN 23-C197: TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH

 

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca mô tả cảnh Chúa Giêsu ngoảnh cổ lại và tuyên bố TN 23-C197


Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca mô tả cảnh Chúa Giêsu ngoảnh cổ lại và tuyên bố với đám đông đang cùng đi với mình rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 26). Nghe những lời trên, chúng ta nghĩ sao và nói gì? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa gắt gao quá. Theo Chúa, phải từ bỏ không những của cải, người thân mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. Lc 14, 25-26). Người yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em.

Yêu Chúa trên hết mọi sự

Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Chúa chẳng vô lý đòi chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống và của cải. Con người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng ta đến với Chúa và làm môn đệ của Người, thì sao ghét bỏ? Nhưng khi mà những sự ấy trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chúa, thì phải lựa chọn dứt khoát giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Thiên Chúa một vị trí đặc biệt và cao nhất. Chúng ta phải suy nghĩ, cân nhắc.

Như người muốn xây tháp, hay vua sắp đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi, đánh trận sẽ thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn. Người ta phải suy nghĩ trước khi đi theo Chúa. Theo Chúa không như theo bất cứ một ai.  Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi.

Từ bỏ mình

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng bỏ điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do trở nên kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng, cùng với ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, tham lam, tội lỗi, xấu xa phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa, Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Cụ thể là bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, giống Chúa.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác biệt yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ Thần Khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để giao tiếp với Chúa. Chúa đã từ bỏ chính mình trước … trở nên giống chúng ta. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta. Chúa Giêsu thêm : “Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 27).

Vác thập giá để theo Chúa

Thì ra con đường của ai theo Chúa bị đóng đinh là con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (x. BENECITO XVI, Đức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Hỏi: Đức Giêsu có thích khổ đau và thậy giá không?

Thưa: Không. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa.

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 27). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, chịu mất mạng sống là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975).

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói : “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Điều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

TN 23-C198: NGƯỜI TA PHẢI “GHÉT” CHA MẸ MÌNH ĐỂ BƯỚC THEO CHÚA GIÊSU SAO?

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những bài Tin Mừng mà người ta sẽ bị cám TN 23-C198


Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những bài Tin Mừng mà người ta sẽ bị cám dỗ muốn giảm nhẹ đi cung giọng của nó vì nó là một bài diễn văn rất khó lọt vào tai con người ngày nay: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26).  Chúng ta hãy làm rõ ngay điều này: Chắc chắn Tin Mừng đôi khi có tính khiêu khích, nhưng Tin Mừng không bao giờ mâu thuẫn. Đọc xa hơn một chút, vẫn trong Tin Mừng Luca, đoạn 18 câu 20, Chúa Giêsu nhắc lại mạnh mẽ bổn phận hiếu kính cha mẹ và về bổn phận của những người làm vợ làm chồng: “Hẳn ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ.” Chúa Giêsu nói rằng: “người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:7-9).  Chính trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu nói: “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Lc 16:18). Vậy làm thế nào mà bây giờ Ngài lại có thể bảo chúng ta: “Kẻ nào đến với Ta, mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta”? (Lc 14:26)

Chúa Giêsu có ý gì khi Ngài dạy chúng ta “ghét” cha mẹ mình?

Trước tiên, chúng ta phải tìm hiểu câu này trong bối cảnh chung của chương 14. Chúa Giêsu đang dạy các môn đồ của Ngài, và giống như bất kỳ người thầy giỏi nào khác, Ngài bắt học trò của Ngài phải suy nghĩ. Trong trường hợp này, Ngài bắt đầu bằng một câu nói thật khó hiểu như trên. Cứ như là nếu không ghét gia đình mình, chúng ta không thể là môn đệ của Chúa Giêsu. Hay vấn đề này còn có nhiều điều để bàn hơn?

Sau lời tuyên bố rằng người ta phải “ghét” cha mẹ của mình, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn về một người đàn ông xây nhà mà không “tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không?.. Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc” (Lc 14:28–30). Minh họa của Chúa Giêsu giúp giải thích câu nói khó hiểu của Ngài về việc ghét cha mẹ của chúng ta — cụ thể là, chúng ta phải tính cái giá phải trả của việc trở thành môn đệ của Ngài. Có một cái giá phải trả, và đó là điểm mấu chốt của việc bước đi theo Chúa Giêsu.

Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự vì Ngài. Đi theo Chúa Giêsu đòi phải có sự cam kết và trung tín, ngay cả khi cha mẹ chúng ta quyết định không theo Chúa. Nếu và khi chúng ta phải đối mặt với sự lựa chọn đau đớn giữa lòng trung thành với gia đình so với lòng trung thành với Chúa Giêsu, thì chúng ta phải chọn Chúa Giêsu. Ngay cả khi các thành viên trong gia đình không ưa chúng ta — hoặc tệ hơn — chỉ vì chúng ta là Kitô hữu, thì chúng ta vẫn phải theo Chúa Giêsu Kitô. Theo nghĩa này, chúng ta đang “ghét” gia đình mình. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu “ghét cha mẹ” đòi hỏi chúng ta phải ưu tiên mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu hơn mối liên hệ của chúng ta với cha mẹ, anh chị em và các thành viên khác trong gia đình.

Tất nhiên, yêu thương các thành viên trong gia đình là điều đúng đắn, và chúng ta cũng muốn họ yêu mến và theo Chúa Giêsu. Ở những nơi khác, Chúa Giêsu xác nhận điều răn thứ năm mà chúng ta phải tôn kính cha mẹ của mình: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! Còn các ông, các ông lại bảo: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là "coban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”  (Mc 7:9–13). Và Phaolô nghiêm khắc cảnh báo rằng “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Lời tuyên bố của Chúa Giêsu rằng chúng ta “ghét” cha mẹ phải được nhìn nhận trong mối liên hệ với toàn bộ Kinh thánh. Quan điểm của Ngài không phải là chúng ta vô tâm với gia đình, chỉ là chúng ta phải yêu Ngài nhiều hơn.

Một số bản dịch khác làm lời của Chúa Giêsu có ý nghĩa rõ ràng hơn một chút: “Nếu anh em muốn trở thành môn đệ của tôi, anh em phải ghét mọi người khác so với tôi” [1], và bộ Amplified Bible nói rằng một môn đồ của Chúa Kitô phải “ghét” các thành viên trong gia đình mình “theo nghĩa thờ ơ hoặc tương đối xem nhẹ họ so với thái độ của người ấy đối với Thiên Chúa.” [2] Đó là một sự "ghét bỏ" kiểu so sánh, không phải là một sự ghét bỏ tuyệt đối.

Việc sử dụng từ “ghét” trong Luca có thể phản ánh một thành ngữ xuất phát từ tiếng Do Thái. Trong Sáng thế ký 29: 30-37, chúng ta nghe nói rằng Giacóp yêu Rakhen hơn Lêa và Lêa bị Giacóp “ghét bỏ, rẻ rúng”:

“Thiên Chúa thấy rằng bà Lêa bị rẻ rúng, nên Ngài cho bà sinh đẻ, còn bà Rakhen thì hiếm hoi. Bà Lêa có thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Rưuvên, vì bà nói: “Thiên Chúa đã thấy cảnh khổ cực của tôi, bây giờ chồng tôi sẽ yêu tôi.” Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói: “Thiên Chúa đã nghe biết tôi bị rẻ rúng, và Ngài đã cho tôi đứa này nữa”, và bà đặt tên cho nó là Simêôn.”

Một cách sử dụng tương tự của từ tiếng Hípri có nghĩa là “ghét bỏ, rẻ rúng” xảy ra trong Đệ nhị luật 21: 15-17:

“Khi một người có hai vợ, một được nó yêu thương, một bị nó ruồng rẫy, nếu cả hai, được yêu thương hay bị ruồng rẫy đều sinh con trai cho nó, và trưởng nam lại là con của người bị ruồng rẫy, đến ngày nó phân chia của cải nó làm gia tài cho các con, nó không được gán quyền trưởng nam cho con người vợ nó yêu, làm cho con người vợ bị ruồng rẫy, tức là trưởng nam phải thiệt thòi. Nó sẽ nhìn nhận con của vợ bị ruồng rẫy, là trưởng nam là ban cho phần gấp đôi trên tất cả những gì nó có…”

Rõ ràng vấn đề ở đây là sự ưu tiên hay sự cam kết trung tín. Điều này phù hợp với những gì chúng ta đã thấy trong Luca và Mátthêu. Chúa Giêsu không kêu gọi những người theo Ngài ghét bỏ gia đình của họ xét theo mặt phản ứng cảm tính; thay vào đó, Ngài kêu gọi lòng trung tín trọn vẹn dành cho chính Ngài trên mức trung tín với gia đình.

Tình yêu đối với Chúa Kitô không loại trừ những thứ tình yêu khác nhưng làm nền cho những thứ tình yêu đó. Tình yêu đối với Chúa Kitô thậm chí còn là tình yêu mà trong đó bất cứ thứ tình yêu đích thực nào đều tìm thấy nền tảng và sự nâng đỡ của nó như một thứ ân sủng cần thiết giúp con người đi đến cùng. Đây là ý nghĩa của “Ơn đấng bậc” mà bí tích hôn phối ban cho vợ chồng Kitô hữu. Ơn này đảm bảo rằng, tình yêu của họ sẽ được nâng đỡ và hướng dẫn bởi tình yêu mà Chúa Kitô đã dành cho tân nương của Ngài, là Giáo hội.

Nhiều Kitô hữu sẽ không bao giờ phải lựa chọn đau đớn là để theo Chúa Giêsu Kitô họ phải quay lưng lại với gia đình. Tuy nhiên, trên khắp thế giới, có nhiều Kitô hữu khác phải đối mặt với sự xa lánh, từ chối hoặc hành hạ từ gia đình của họ. Những tín hữu  này, nếu họ sống thật lòng với Chúa kitô, họ bị buộc phải sống theo cung cách bị coi là “thù ghét” đối với “cha mẹ, vợ con, anh chị em” (x. Lc 14:26).

Khi nghe Chúa Giêsu nói rằng người đi theo Ngài phải “ghét” cha mẹ mình, chúng ta không được quên điều kiện là người đó cũng phải ghét “ngay cả mạng sống của mình nữa” (Lc 14:26). Chúa Giêsu không dạy ghét bỏ cha mẹ, đúng hơn là Ngài đang dạy về việc ghét bỏ bản thân. Điểm nhấn là sự từ bỏ bản thân và tuân phục Ngài cách tuyệt đối. Bởi vì ngay sau đó Chúa Giêsu dạy  “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14: 27).

Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta đâu là chỗ thử nghiệm và là dấu chỉ của tình yêu đích thực dành cho Ngài: “Hãy vác thập tự giá mình” (Lc 14:27). Vác lấy thập giá mình không có nghĩa là đi tìm đau khổ. Chúa Giêsu cũng không tìm kiếm thập giá cho mình; Ngài đã tự mình vác lấy thập giá, để vâng theo ý muốn của Chúa Cha, ý muốn mà loài người đặt trên vai Ngài và bởi tình yêu vâng phục của mình, Ngài đã biến công cụ tra tấn này thành dấu hiệu của sự cứu độ và vinh quang. Chúa Giêsu không đến để gia tăng các thập giá của con người nhưng để đem lại ý nghĩa cho chúng. Có câu nói rất đúng rằng “Ai tìm kiếm Chúa Giêsu không có thập giá, sẽ tìm thấy thập giá không có Chúa Giêsu”, nghĩa là người đó cũng sẽ thấy thập giá nhưng không có sức mạnh để vác thập giá đó.

Tất cả các tín hữu được kêu mời công nhận quyền làm chúa của Chúa Kitô và biểu lộ sự ưu tiên dành cho Ngài hơn mọi ràng buộc trần gian. Những ai phải hy sinh các mối quan hệ trần thế nhận được lời hứa này: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30).

Phêrô Phạm Văn Trung
---------------------------------
[1] “If you want to be my disciple, you must, by comparison, hate everyone else—your father and mother, wife and children, brothers and sisters—yes, even your own life. Otherwise, you cannot be my disciple” (New Living Translation, https://biblia.com/bible/nlt/luke/14/26)

[2] “If anyone comes to Me and does not hate his [own] father and mother [[g] in the sense of indifference to or relative disregard for them in comparison with his attitude toward God] and [likewise] his wife and children and brothers and sisters—[yes] and even his own life also—he cannot be My disciple.” https://www.biblegateway.com/passage/?search=Luke+14&version=AMPC

-----------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây