Đức Kitô giáng trần đã gây nhiều bất ngờ. Bất ngờ lớn nhất thiết tưởng là con đường Ngài chọn, để đi vào trần gian hầu cứu độ nhân loại. Con đường đó là con đường bé nhỏ. Con đường bé nhỏ này được Ngài vạch ra thế nào? Thưa, Đức Kitô vạch ra con đường đó bằng chính cuộc đời Ngài. Cuộc đời Đức Kitô là cuộc đời hội nhập vào thân phận lớp người bé mọn. Ngài là Ngôi Lời. Nhưng, khi giáng sinh, Ngôi Lời đã không nói. Ngài xuất hiện như một trẻ thơ. Rất bé nhỏ, rất yếu đuối, rất lệ thuộc, rất túng nghèo. Dần dần lớn lên. Đức Kitô vẫn sống giữa dân nghèo, sống như người nghèo, bên cạnh những người thấp kém khổ đau. Ngài cảm nhận được những khổ đau như những người đau khổ nhất. Ngài chia sẻ đời họ. Cuộc đời Đức Kitô còn là cuộc đời quan tâm ưu tiên đến những người nghèo khổ. Khi Gioan Baotixita sai môn đệ đến hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải đến không...”. Đức Kitô trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,3-5). Tất cả những loại người trên đây đều bị xã hội coi là bất hạnh. Họ nghèo của cải và nghèo tình thương kính trọng. Nhưng họ lại được Chúa thương bênh đỡ ủi an. Nhiều khi tình xót thương đó đã xúc phạm đến những nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy, bởi vì các vị này lo giữ luật một cách khắt khe hình thức và bảo vệ quyền lợi mình, hơn là lo cứu độ con người. Cuộc đời Đức Kitô còn là cuộc đời trân trọng bất cứ việc gì tốt do bất cứ ai làm cho kẻ bé mọn. Đến nỗi Ngài đồng hoá mình với những kẻ bé mọn, Ngài quả quyết: “Những gì các con làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta, là các con làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Cuộc đời Đức Kitô đã dấn thân đến cùng, để cùng chịu số phận như những kẻ thấp hèn, bị loại trừ ruồng rẫy. Ngài tự nguyện để mình bị kết án oan, bị tử hình một cách nhục nhã, do bất công độc ác. Ngài làm thế, để chia sẻ với những kẻ bị tủi hổ và thất bại nhất trong cuộc đời. Một cuộc đời với những khía cạnh như trên đã trở thành một thánh lễ. Thánh lễ đền tội, thánh lễ khẩn cầu. Của lễ là chính Đức Kitô. Ngài hiến tế chính cuộc sống mình. Ngài hy sinh chính bản thân mình. Ngài từ bỏ ý riêng mình để tuân phục trọn vẹn ý Chúa Cha. Ngài yêu mến nên chấp nhận hy sinh. Ngài hy sinh vì hết tình yêu mến. Để cắt nghĩa thánh lễ sống động này, tác giả thư gửi Do Thái đã viết: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Ngài, như sách thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Sống với một thân thể biết khổ đau và với một tình yêu dám từ bỏ ý riêng, thực thi trọn vẹn ý Chúa Cha, đó chính là thứ thánh lễ có sức đền tội, cứu độ loài người. Đức Kitô đã dâng thánh lễ này ngay từ giây phút đầu tiên của đời mình. Khi nhìn ngắm Ngài giáng sinh trong máng cỏ, tại hang đá Belem, chúng ta nên coi đây là khởi đầu một thánh lễ cứu độ. Thánh lễ đầy tình yêu và hy sinh. Thánh lễ nói lên vinh quang Thiên Chúa là: Đức Kitô bước xuống trần gian để cứu độ. Thánh lễ chúc bình an cho những ai có thiện chí đi theo Ngài. Ngài đã chọn con đường nào để đi cứu độ, thì chúng ta cũng hãy đi vào con đường đó. Hiện nay, không thiếu người đang trung thành với lựa chọn con đường bé nhỏ. Họ sống với lòng mến thiết tha đầy nhiệt thành và thao thức cho Nước Trời. Họ sống với tâm tình khiêm tốn sâu xa, nhận biết mình bé nhỏ, yếu kém, bất toàn, luôn phấn đấu để nên tốt hơn về mọi mặt, để xứng là con của Chúa. Họ tự nguyện từ bỏ mình. Nghèo của cải, danh vọng, chức quyền, nhưng cố gắng giàu về tấm lòng và trí tuệ. Họ chấp nhận hy sinh, để trở thành lễ tế sống động. Họ luôn phó thác mình một cách trọn vẹn nơi tình xót thương Thiên Chúa là Cha. Họ âm thầm yêu thương phục vụ, với những việc lành nhỏ bé, với những hy sinh kín đáo, đồng hành với những người khổ đau, trên những con đường bé nhỏ. Tôi có cảm tưởng: Đức Kitô đang âu yếm nhìn họ và nói với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín, không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Trên tờ báo An ninh thế giới, ra ngày thứ năm, 06-12-2001, có bài Một gánh ve chai nuôi sống 40 cuộc đời. Bài báo khá dài nói về chị Phạm Thị Đơn, một nữ tu dòng Tiểu Muội, đã được phép sống ngoài nhà Dòng. Từ nhiều năm nay, chị vất vả lam lũ bán ve chai, để có phương tiện chăm sóc một số hơn 40 trẻ em lang thang đường phố, không nhà cửa, không cha mẹ, không được học hành. Cuộc dấn thân này không thể tránh được nhiều mồ hôi nước mắt. Nhưng hiệu quả hiện nay là rất đáng mừng. Gương sáng của chị đã đánh thức nhiều lương tâm. Tác giả bài báo, Nguyễn Hồng Lam đã kết luận: “Với chị Đơn, đó chính là đức tin... Với một tình thương bao la, người phụ nữ ấy đã tiếp cận đời sống tâm linh, mà chị đã khấn trọn bằng cách hoà nhập và dang tay với cuộc đời”. Tôi thấy trên quê hương Việt Nam này đang có nhiều đức tin toả ánh sáng yêu thương như thế và hơn thế. Nhiều liên đới tình nguyện đang hoạt động mạnh mẽ và hữu hiệu trong đa dạng. Họ như những nhóm mục đồng ở Belem xưa. Khó nghèo, âm thầm từ bỏ mình, hân hoan lên đường phục vụ. Họ đi trên những ngã đường bé nhỏ. Họ đồng hành với Đấng cứu thế và những người bé mọn. Họ đồng ca với các thiên thần lời nguyện Noel: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Phải chăng đây là bình minh của một cuộc Phục Hưng đạo đức đang rất cần cho xã hội chúng ta.
Một nhà truyền giáo đã kể lại một câu chuyện lạ về một hòn đảo thuộc vùng rất xa đất liền. Một hòn đảo mà chưa có một nhà truyền giáo nào đặt chân đến, nhưng hơn 100 gia đình ở đảo đã trở lại đạo công giáo. Họ đã rửa tội cho nhau và hướng dẫn nhau sống đời sống Kitô hữu rất tốt. Khi hỏi ra mới biết cách đây ít năm, có một gia đình công giáo đã tới sống ở đảo. Đó là một gia đình về kinh tế cũng ở mức độ trung bình, nhưng họ sống thuận hoà vui vẻ và yêu thương nhau, chỉ có vậy thôi, và họ đã cảm hoá được toàn dân trên đảo. Theo gương của gia đình đó, dân chúng đã tìm được chân lý thật và tin vào Chúa Kitô. Một câu chuyện lạ lùng khác là ngay tại miền Bắc Việt Nam chúng ta, nơi có một số người dân tộc thiểu số sinh sống. Họ cũng là những con người đơn sơ, thật thà chất phát, chưa biết gì về đạo, cũng chưa có một linh mục nào đến rao giảng về đạo cho họ, nhưng họ chỉ nghe nói về Chúa qua đài phát thanh của đạo Tin Lành trên radio, thế mà họ đã tin Chúa và xin rửa tội theo Giáo Hội Công giáo hàng ngàn người. Thưa quý ÔBAEC. Những câu chuyện đó cho thấy: Chúa có thể lôi kéo người ta đến với Chúa, bằng rất nhiều cách, có thể do tự họ tìm tòi, suy nghĩ, có thể do từ một gương sáng của ai đó; hoặc của một linh mục, tu sĩ hay của một người giáo dân, có thể Chúa tự biểu lộ ra cho họ sau một cơn bệnh, sau một tai nạn, hoặc sau một biến cố của cuộc đời họ vv... Câu chuyện các nhà đạo sĩ phương Đông tìm về máng cỏ trong bài Tin Mừng thánh Mátthêu kể lại hôm nay đã giúp chúng ta hiểu phần nào ý định của Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu sinh ra, trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao lạ, có thể cả thế giới đều nhìn thấy ngôi sao, nhưng chỉ có mấy nhà đạo sĩ từ phương Đông chú ý theo dõi và lên đường đi theo hướng sao chỉ, vì các ông là những con người thiện chí sẵn sàng đi tìm Chúa và đón nhận Tin Mừng. Các nhà đạo sĩ lên đường tìm Chúa, họ đã phải hy sinh rất nhiều, nào là tiền của, nào là sự vất vả, nào là những hiểm nguy trên đường vì thời xưa phương tiện đi lại đâu có như ngày nay, mà thường là bằng lạc đà để đi quãng đường xa và lâu ngày, cũng không có những khách sạn loại năm sao đầy đủ tiện nghị như hôm nay. Như vậy, các đạo sĩ đã chấp nhận một sự liều lĩnh của cuộc hành trình, một sự liều lĩnh táo bạo để đi tìm một Đấng mà các ông không biết rõ cách chính xác Đấng đó đang ở đâu, mà chỉ lần mò theo ánh sao dẫn lối và vừa đi vừa thăm hỏi, nhưng các ông đã chứng tỏ ơn Chúa giúp để các ông đạt được ý nguyện. Các ông đã không nản chí, sờn lòng nhưng đã can đảm và kiên trì... để cuối cùng gặp được Đấng cứu độ. Trong khi đó, dân Do Thái đã thấy ngôi sao, đã được nghe lời các tiên tri loan báo trước trong Kinh Thánh, như ngôn sứ Isaia đã viết: “Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng, vì một em bé đã sinh ra cho chúng ta” (Is 9,1-5), vậy mà họ vẫn không chịu đi tìm, vẫn không hề nhận ra Đấng cứu độ. Còn với vua Hêrôđê, ông cũng không biết Đấng cứu thế mới sinh ra, chỉ đến khi ông nghe các đạo sĩ đến hỏi thăm, thì ông mới giật mình sửng sốt. Điều đó cho chúng ta biết rằng: Vua Hêrôđê là một con người rất lãnh đạm với tôn giáo vì ông chỉ lo sống cho ông, sống hưởng thụ. Đàng khác ông còn sợ Chúa đến sẽ lấy đi vinh quang, lấy đi quyền hành của ông, nên ông đã tìm cách tiêu diệt Chúa, loại bỏ Chúa ra khỏi cuộc sống, ngăn không cho Chúa đi vào lịch sử nhân loại, không những ông không muốn Chúa đến với ông, mà ông còn ngăn cản không cho Chúa đến với những người khác nữa. Thực sự Chúa đến không phải để gây xáo trộn an ninh trật tự, Chúa đến không phải là một nguy hiểm cho xã hội, không phải là một hăm doạ cho quyền hành chính trị... Nhưng Chúa đến để mang lại tình thương, để mang lại sự đạo đức đích thực, để phục vụ con người và giúp con người tìm được hạnh phúc vĩnh cửu. Kính thưa quí ông bà anh chị em. Trong cuộc sống của chúng ta, Chúa cũng thường xuyên gởi cho chúng ta nhiều dấu chỉ như là một ngôi sao dẫn chúng ta đi về với Người. Có thể đó là một lời dạy dỗ của các vị chủ chăn, có thể đó là một biến cố vui buồn trong gia đình, có thể đó là một lời Chúa đánh động trong tâm hồm, và có thể đó là một gương sáng mà chúng ta được nghe hay được thấy. Nhưng tôi nghĩ, để có thể nhận ra tiếng Chúa nói với chúng ta, nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng ta như ánh sao dẫn đường, thì chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng, như một thửa đất đã được làm cỏ sạch, đã được cày bừa để sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Cần pah3i có lòng khao khát, cần phải cầu nguyện và quảng đại, cần phải cố gắng tìm hiểu như các nhà đạo sĩ hôm nay thì chúng ta mới có thể tìm gặp được Chúa trong cuộc đời. Thực tế trong đời thường, có lẽ nhiều khi chúng ta quá mải mê đi tìm của cải vật chất, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm với lời mời gọi của Chúa hay còn tệ hại hơn nữa là sợ rằng: Chúa đến, Chúa sẽ quấy rầy cuộc sống yên ổn của chúng ta chăng? Chúa đến thì chúng ta phải từ bỏ những ước muốn xấu xa và bất chính của mình chăng? Trong thánh lễ hôm nay chúng ta hãy cầu xin cho nhau, để xin Chúa hãy ban cho chúng ta có một thiện chí và một tâm hồn thật mềm mỏng, dễ dạy để có thể nhận được những dấu chỉ sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và tìm được ơn cứu độ. Mặc dù trên hành trình đi tìm Chúa vẫn có nhiều khó khăn, hy sinh và thử thách nhưng hãy noi theo những đạo sĩ. Chúng ta cũng cầu xin cho nhau, để chúng ta vừa là những con người luôn biết đi tìm Chúa, để gặp được Chúa. Nhưng cũng còn phải cố gắng để trở nên những ánh sao dẫn đường cho những người khác, cho những anh em lương dân bằng đời sống Kitô hữu tốt lành, thánh thiện để giúp họ tìm về với Chúa, gặp được Chúa, gặp được đạo thật và được hưởng nhờ ơn cứu chuộc của Chúa. Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta biết noi gương các đạo sĩ hôm nay là khi đã gặp được Chúa rồi, các ông đã từ bỏ con đường trước đây, để đi con đường khác trở về. Chúng ta cũng vậy, ước gì khi đã gặp được Chúa rồi thì mỗi người chúng ta cũng biết thay đổi đời sống mình để nên tốt hơn. Amen.
Tôi mới thực hiện một chuyến đi dài. Từ Việt Nam tới Italia. Đi chung với đoàn các Giám mục Việt Nam. Để viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô – Phaolô. Để bái yết Đức Thánh Cha và chào thăm Toà Thánh. Tôi đã được thấy nhiều, nghe nhiều, gặp gỡ nhiều. Tất cả đã để lại trong tôi những hình ảnh đẹp. Đang khi nhiều hình ảnh đã bắt đầu mờ phai, thì có những hình ảnh lại cứ bước sâu mãi vào tâm thức tôi. Chúng trở thành ấn tượng, gây nên thao thức, gợi lên suy nghĩ. Hình như chúng muốn giúp tôi tìm ra điều tôi đang tìm kiếm. Điều tôi đang tìm kiếm, là thánh ý Chúa. Người muốn tôi là gì và làm gì trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay. Hoàn cảnh cụ thể là nơi chốn tôi đang ở, là năm tháng lịch sử đang trôi nhanh, là những con người tôi đang phục vụ, là chính bản thân tôi với chuyển biến do sức khoẻ và tuổi tác. Khi viếng mộ hai thánh tông đồ, tôi nhìn hai bản lãnh khác nhau đó trong một nét đẹp chung. Đó là hai đấng cùng hết sức sống theo thánh ý Chúa. Ý Chúa về các ngài là các ngài trở thành môn đệ Đức Kitô. Các ngài thực hiện những điều căn bản của người môn đệ Đức Kitô là: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình và đi theo Đức Kitô. Để cùng với Đức Kitô, các ngài làm chứng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ. Khi được diện kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tôi gặp được nơi Ngài hình ảnh người môn đệ Đức Kitô đang sống mạnh mẽ sự từ bỏ mình, sự vác thập giá mình, và sự bước theo Đức Kitô. Khi tôi trình với Ngài những kinh nghiệm của tôi về mầu nhiệm thánh giá, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn tôi một cách âu yếm. Tôi nói với Ngài ý kiến của tôi là: Thời nay, tôi chăm chú theo gương các Giáo phụ. Cố gắng giới thiệu Tin Mừng và bênh vực Tin Mừng vừa bằng đạo đức, vừa bằng trí thức. Đó cũng là một nhu cầu mục vụ mà chính Đức Thánh Cha đang đáp ứng. Nghe vậy, Đức Thánh Cha tỏ ý rất đồng tình. Qua những phút gặp gỡ Đức Thánh Cha, tôi hiểu thêm về thánh ý Chúa trong việc làm chứng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ trong hoàn cảnh hiện nay. Khi tiếp xúc với các Bộ của Toà Thánh, tôi nhận ra phần nào những đòi hỏi mới nơi người môn đệ Đức Kitô trong một thế giới mới đang biến chuyển. Để đáp ứng, tôi cần phải tái sinh mỗi ngày. Tôi cần phải tự đào tạo thêm một cách thường xuyên về các mặt nhân bản, trí thức, đạo đức, mục vụ. Tôi sẽ làm những việc đó trong sự hiệp thông rộng rãi và chặt chẽ với hàng giáo phẩm và Toà Thánh. Được thế, tôi hy vọng sẽ làm chứng Thiên Chúa là tình yêu một cách có sức thuyết phục giữa một xã hội mang nhiều thách đố. Khi qua lại nhiều con đường tại thành phố Rôma, tôi gặp thấy mấy người ăn xin. Họ thuộc đủ dạng. Bây giờ tôi còn nhớ rõ hình ảnh họ: Một cô gái xanh xao, giơ tay xin tiền với những lời than van thảm thiết. Một bà dắt đứa con nhỏ, nài nẵng xin chút tiền nuôi con đang đói. Một ông già ngồi gảy đàn trước một cái giỏ, đợi chờ những đồng tiền lẻ của kẻ qua người lại bố thí. Một người đàn ông ngồi bên con chó, miệng xin, tay lạy. Nhìn những người ăn xin như thế này, tôi tự nhiên nghĩ tới Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mang thân phận kẻ cùng khổ, kẻ bị loại trừ. Có lúc dân chúng đã loại trừ Ngài. Quyền bính đạo đời cũng đã loại trừ Ngài. Ngài trải qua những phút cô đơn cùng cực. Đến nỗi có lúc Ngài có cảm tưởng như chính Đức Chúa Cha cũng bỏ quên Ngài. “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” (Mc 15,34). Ngài nói lời đó trên thánh giá, như một lời van xin tha thiết. Tất cả những khổ đau Chúa Giêsu tự nguyện mang lấy vào thân, là để làm chứng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ. Yêu, nên gánh tội thiên hạ. Yêu, nên đền tội cho nhân loại. Yêu, nên chia sẻ thân phận những người khốn cùng. Yêu, nên tha thứ. Yêu, nên âm thầm đổi mới lòng người. Nhờ ơn Người, đã có một sĩ quan ngoại đạo, sau khi chỉ huy đóng đinh Chúa Giêsu, đã nhận ra chính người mình đóng đinh là Con Thiên Chúa. Nhờ ơn Người, đã có một Saolô, sau khi hung hăng bắt bớ những người tin theo Đức Kitô, đã gặp được Đức Kitô, và trở thành tông đồ Phaolô, hăng say rao giảng Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Những thay đổi nội tâm đó là rất bất ngờ. Thời xưa đã có. Thời nay vẫn còn. Trong âm thầm kín đáo. Chúa làm, nhưng Chúa kêu gọi mỗi người hãy cộng tác với Người bằng sự chấp nhận những hy sinh, trong tinh thần yêu thương và cầu nguyện khiêm tốn. Khi nhìn những người ăn xin trên đây, và khi tôi có cảm tưởng làChúa Giêsu đang ở trong họ, tôi tự nhiên ray rứt tự hỏi mình: Phải chăng Chúa muốn dùng họ, để gợi ý cho tôi về phong cách cầu nguyện giữa một xã hội đầy tự đắc. Phải chăng Chúa muốn tôi gần gũi với lớp người nghèo, để cùng với Đức Kitô làm chứng Thiên Chúa là tình yêu giữa một thế giới đang đợi chờ một trật tự mới công bằng hơn, nhân đạo hơn? Có lúc, tôi nói với mình rằng: Một cách nào đó, tôi phải bắt chước những người ăn mày này. Biết đâu, nếp sống nghèo, khiêm tốn, cầu nguyện lại là cái máng tốt, có sức chuyển ơn Chúa xuống cho các linh hồn. Biết đâu những việc bác ái âm thầm, những hy sinh câm nín làm cho người nghèo lại là những của lễ Chúa đang đợi chờ nơi chúng ta, để góp phần vào việc cứu độ nhân loại. Từ những cảm xúc này, tôi nghĩ tới lời Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy ra khơi. Ngài bảo chúng ta hãy ra khơi là hãy ra giữa đời để đưa mọi người về với Chúa. Có thể mỗi người sẽ ra đi theo cách của mình. Riêng tôi, tôi muốn ra khơi với chiếc lưới tình thương. Lưới nhỏ bé thôi. Ra đi một cách âm thầm thôi. Tình thương của tôi rất nghèo nàn, rất thiếu sót. Nên tôi sẽ ra đi, không với tình thương của tôi, mà với tình thương của Chúa Thánh Thần.
Sống trong Chúa Thánh Thần, chúng ta phải dứt bỏ mọi ý riêng. Bởi vì Ngài hoạt động với rất nhiều sáng tạo, nhiều mới mẻ, nhiều sâu sắc. Ngài như gió, chúng ta không thể biết được Ngài từ đâu đến, đến lúc nào và thổi vào đâu (Ga 3,8). Chúng ta cần ngoan ngoãn tỉnh thức vâng phục Ngài. Để nghe được tiếng Ngài, chúng ta nên thinh lặng. Ngài đang thực hiện nhiều đổi mới lạ lùng nơi nhiều môn đệ Đức Kitô. Nhờ vậy họ có thể dần dần trở nên giống Thiên Chúa tình yêu và biết cách làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu một cách thích hợp trong những hoàn cảnh khác nhau. Ngài đổi mới họ một cách lặng lẽ: Những môn đệ Đức Kitô được đổi mới đó đang thả lưới tình thương giữa xã hội hôm nay một cách khiêm tốn, nhưng hữu hiệu, hợp thánh ý Chúa. Vì thế, tôi cầu chúc: Năm mới này sẽ là năm ra khơi thả lưới tình thương. Lời cầu chúc này tất nhiên đòi nhiều dứt bỏ, nhiều dấn thân và nhiều cầu nguyện. Ngày 27 tháng 01 năm 2002, Trên máy bay về Việt Nam.
Chúng ta vừa bước sang năm Nhâm Ngọ. Mọi người trên đất nước đều đang hân hoan đón mừng Năm Mới. Mừng năm mới trong cảnh xuân mới, với trăm sắc hoa thơm, ngàn lời chúc đẹp và muôn tâm tình cao quí. Để đón Năm Mới, ngay trước đây nhiều ngày, qua các phương tiện truyền thông và qua tiếp xúc, tôi thấy nhiều người đã làm các việc từ thiện dành cho những đồng bào nghèo, nhất là ở các vùng sâu vùng xa. Cùng với những việc từ thiện bác ái, tôi cũng đã thấy nhiều nơi đón Xuân mới bằng các việc phục vụ khác thường: Tại gia đình, tại nhà thương, tại cộng đoàn, tại công sở, tại làng xóm. Ngoài những việc phục vụ và từ thiện, tôi còn thấy rất nhiều người đón Năm Mới bằng các việc hiếu thảo. Hiếu thảo với các bậc sinh thành. Hiếu thảo với đồng bào đất nước. Hiếu thảo với các ân nhân. Hiếu thảo với thiên nhiên đã nuôi dưỡng mình. Tôi sẽ rất thiếu sót, nếu tôi không nói đến các việc tôn giáo đón mừng Năm Mới. Thực vậy, tôn giáo, dưới nhiều hình thức, đang là một mùa Xuân nở rộ trong từng gia đình và trong toàn xã hội Việt Nam. Tôi có cảm tưởng là mọi người Việt Nam đang trở về, không những trở về với cội nguồn dòng máu là tổ tiên, mà còn trở về với cội nguồn sự sống là chính Tạo Hoá. Nói chung, tất cả các việc tôi vừa nêu lên trên đây đều tốt. Nhưng nếu chúng ta căn cứ vào đó, tự cho là đủ, để an tâm bước vào Năm Mới, thì tôi sợ sẽ không ổn cho tương lai. Tương lai sẽ có nhiều thuận lợi và cũng sẽ có nhiều bất lợi cho việc mưu tìm hạnh phúc. Tương lai sẽ có nhiều sự xảy ra theo dự đoán và cũng có nhiều sự xảy ra bất ngờ, ngoài mọi dự đoán. Thiết tưởng đón một tương lai như thế chỉ bằng những mừng vui và những việc như trên mà thôi sẽ chưa đủ. Còn phải có những suy tư về trách nhiệm của mình với tương lai. Về điểm này, tôi xin phép chia sẻ suy nghĩ của tôi. Suy nghĩ của tôi về năm Con Ngựa được gợi ý từ biến cố thánh Phaolô ngã ngựa. Lúc đó, Phaolô đang còn là người hung hăng bắt đạo. Ông cưỡi ngựa đi Damas để bắt những người tin theo Chúa Giêsu. Thình lình một luồng sáng từ trời chiếu xuống ông. Ông bị té xuống đất. Trong tư thế kẻ bị thất thế, ông đã nghe được tiếng Chúa Giêsu gọi ông. Ông đã gặp được Chúa Giêsu. Ông đã tin vào Chúa Giêsu. Không những ông tin, mà ông còn cảm được ông được Chúa yêu thương, được Chúa gọi, được Chúa chọn, được Chúa sai đi. Ông được biến đổi hoàn toàn. Ông trở thành nhà truyền giáo. Tất cả khởi đi từ việc nghe được tiếng Chúa Giêsu và gặp được Chúa Giêsu. Gợi ý trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Mọi trách nhiệm của chúng ta về tương lai phải khởi đi từ sự lắng nghe Chúa Giêsu và gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúa gọi, Chúa đến trong những hoàn cảnh bất ngờ, cả trong những thất bại và vấp ngã của ta. Chính Chúa chủ động gọi ta và đến với ta. Mỗi người đều có tự do nghe và không nghe, có tự do đón nhận và không đón nhận. Vì thế mà sự tỉnh thức nắm bắt giờ của Chúa là một trách nhiệm lớn trong tương lai. Chúa sẽ ban ơn đó cho những ai khiêm nhường, thiện chí thiện tâm. Khi đã gặp được Chúa Giêsu và biết đón nhận Người, Người sẽ ở lại trong ta. Cùng với Người, ta sẽ về với Chúa Cha, trong tình yêu truyền giáo do lửa của Chúa Thánh Thần. Người đưa ta ra khơi, thả lưới tình thương, đưa muôn người về với Tin Mừng. Được như vậy, dù tương lai sẽ ra sao, chúng ta vẫn sống trong hy vọng vững chắc về một hạnh phúc vô cùng lớn lao, mà Chúa dành cho những ai gặp được Chúa Giêsu gắn bó với Chúa Giêsu và đi theo Người. Với vài suy nghĩ nhỏ bé trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em sang năm Nhâm Ngọ được nhiều hạnh phúc, nhất là hạnh phúc gặp được Chúa Giêsu. Người là đường, là sự thực, là sự sống và là Đấng cứu độ của chúng ta.
Mùa Chay được coi như một sa mạc thiêng liêng. Tôi âm thầm đi vào sa mạc đó. Trong thinh lặng nội tâm, tôi đọc lại cuộc đời mình. Cuộc đời toàn quá khứ nói chung và cuộc đời năm qua nói riêng. Tôi chăm chú đọc từng chặng đường mà mình đã sống. Tôi đọc dưới ánh sáng Lời Chúa. Càng đọc kỹ, tôi càng khám phá thấy Lời Chúa luôn sống động trong cuộc đời tôi. Lời Chúa kêu gọi. Lời Chúa đánh thức. Lời Chúa ủi an. Lời Chúa dẫn đưa. Lời Chúa đem lại hy vọng và sự sống. Trong chặng đường đầu tiên của cuộc đời, tôi nghe thấy tiếng Chúa gọi “Các con hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1Pr 1,18). Rồi có một lúc, tôi lại nghe thấy Chúa gọi: “Các con hãy theo Ta” (Mt 5,19). Vâng lời Chúa, tôi đã ra đi theo Chúa. Trên chặng đường đầu tiên đi theo Chúa, tôi đã bước mau lẹ, vui vẻ. Tôi tưởng tất cả cuộc đời theo Chúa sẽ là mùa Xuân. Nhưng không lâu, tôi bước vào những chặng đường thử thách. Trong phấn đấu, tôi khám phá thấy nơi mình vô vàn khuyết điểm, yếu đuối và giới hạn. Nhiều lúc, tôi đã phải than như thánh Phaolô xưa: “Tôi đã không làm sự tôi muốn. Nhưng lại đã làm sự tôi không muốn” (Rm 7,19). Kinh nghiệm trên đây của vị thánh cả đã làm cho tôi khiêm nhường và cảm thấy bớt cô đơn. Khi những chặng đường như thế hiện lên với quá nhiều bóng tối, tôi thấy mình mệt mỏi, đau đớn. Nhiều lúc, tôi đã cầu nguyện bằng chính lời của Chúa Giêsu xưa trên thánh giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” (Mc 15,34). Không phải đợi lâu, Chúa đã đến an ủi và giúp tôi can đảm nói lên lời phó thác: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén đắng này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con, một hãy theo ý Cha” (Lc 22,42). Có lúc, tôi đi vào những chặng đường dài, mà trách nhiệm phục vụ trở thành gánh nặng. Tôi không biết xoay xở ra sao. Chính lúc đó, Lời Chúa lại nhỏ nhẹ trong lòng tôi “Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi và bồi dưỡng cho” (Mt 11,18). Có lúc, tôi đi vào những chặng đường mà hoàn cảnh và tính tình xui tôi muốn chọn những thái độ, hoặc khắt khe, hoặc hẹp hòi, hoặc tự ái. Chính lúc đó, Lời Chúa khuyên tôi hãy nhớ lại điều răn căn bản của đạo chỉ là: Mến Chúa hết lòng và yêu thương người khác như chính mình (Mc 12,30). Lời Chúa đã giúp tôi biết cân nhắc, biết phân định, biết chọn lựa sao cho hợp thánh ý Chúa. Không thiếu trường hợp, chặng đường mà cuộc sống tôi đi vào, đã rải khắp những thất vọng. Tôi khám phá thấy những tội lỗi, những tầm thường ở những nơi đáng lẽ không được phép có. Nhưng chính lúc đó, Lời Chúa lại nhắc nhở: “Ta đến không để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 8,12). Và thực, Chúa đã đến chữa lành, như lời Chúa hứa. Trong cuộc đời, có lúc tôi nhận thấy mình và cộng đoàn mình quá khờ dại, non yếu. Nhưng chính trong tình hình như thế, Lời Chúa lại vang lên trong lương tâm tôi: “Hãy để trẻ em đến với Ta, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như trẻ nhỏ” (Mc 10,14). Trong cuộc đời, có lúc tôi ray rứt, khi phải đối mặt với những bất xứng của mình. Chính lúc đó, Chúa gọi tôi nhìn vào gương người thu thuế cầu nguyện ở cuối nhà thờ: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 28,13). Tắt một lời, trong suốt cuộc đời, tôi thấy Lời Chúa luôn sống động trong tôi. Riêng đối với tôi, Lời Chúa đã giúp tôi khám phá ra đường đi về với Chúa. Không phải đường của người công chính, nhưng đường của con người tội lỗi được tha thứ,và của một trẻ nhỏ tay không. Với Lời Chúa, tôi được an tâm nói: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,48). Chia sẻ trên đây của tôi là một chứng từ về tình yêu thương xót Chúa. Nó cũng là một chút tâm tình ca ngợi cảm tạ Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót. Nó cũng là một lời kêu gọi gởi tới anh chị em: Hãy năng đọc Lời Chúa. Hãy siêng nghe Lời Chúa. Hãy chăm chú suy gẫm Lời Chúa. Vì Lời Chúa là lời ban sự sống đời đời. Miễn là chúng ta nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa, không phải chỉ theo từng chữ bên ngoài, nhưng cần phải theo sự hướng dẫn bên trong của Chúa Thánh Thần. Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho nhau, tiếp tục cộng tác với nhau, để sống Lời Chúa trở thành một nếp sống đạo có sức giới thiệu Tin Mừng. Tôi tin rằng: Sống Lời Chúa chính là một cách ra khơi thả lưới tình thương giữa biển cả thời đại hôm nay.
Tôi hay suy nghĩ về tương lai các cộng đoàn công giáo tại quê hương Việt Nam. Thao thức này là một trách nhiệm. Trong quá trình suy nghĩ, tôi không dám quả quyết tất cả mọi cộng đoàn sẽ phát triển. Thậm chí tôi cũng không dám nói: Mọi cộng đoàn sẽ mãi mãi tồn tại. Tất nhiên Chúa Giêsu đã hứa: Hội Thánh sẽ chắc chắn bền vững (Mt 16,18). Nhưng tôi hiểu lời hứa đó dành cho Hội Thánh phổ quát, Hội Thánh toàn cầu. Chứ cảnh suy tàn sụp đổ đã thực sự xảy ra đó đây cho Hội Thánh địa phương kia, cộng đoàn nọ. Đã có những giáo phận, họ đạo, xóm đạo, nhóm đạo, gia đình đạo biến mất. Sự kiện buồn thảm như thế đã xảy ra. Không những ở những nơi những thời cấm cách, mà cũng xảy ra ở những nơi những thời có tự do về đủ mặt. Cũng may là khi đó, lại thấy mọc lên đó đây những cộng đoàn nhỏ bé, nhưng đầy sức sống. Nhìn người, rồi lại nghĩ đến ta. Những biến chuyển như thế có thể cũng sẽ xảy ra tại Việt Nam hay không? Biết đâu đã bắt đầu rồi? Suy nghĩ của tôi trên đây một phần dựa trên cái nhìn của Đức Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Đức tin. Trong cuốn “Đây là Thiên Chúa chúng tôi” mới xuất bản trong tháng 9 năm vừa qua, Đức Hồng Y nói lại cái nhìn của ngài về tương lai Hội Thánh. Đại khái ngài nói: Cách đây ít năm, ngài tiên báo là Hội Thánh sẽ nhỏ bé lại. Hồi đó, từ khắp nơi, người ta đã trách ngài là bi quan. Nhưng nay đã rõ. Đây không phải là một bi quan, mà là một thực tế không chối cãi được. Tại nhiều nước công giáo lâu đời phồn thịnh, số người nay bỏ lễ Chúa nhật đang tăng, số chịu phép rửa tội cũng đã giảm xuống ghê gớm. Chúng ta phải chấp nhận những mất mát. Hội Thánh trở thành bé nhỏ, nhưng với những thiểu số tươi xinh. Tình hình trên đây đã được Đức Hồng Y tiên đoán trong cuốn “Muối của đất” xuất bản cách đây vài năm. Nay tình hình còn đang diễn tiến phức tạp. Có nơi theo chiều hướng vui mừng và hy vọng. Có nơi theo chiều hướng hy vọng và lo âu. Cho dù biến chuyển này là do những nhân tố trần thế, thì suy nghĩ của chúng ta về nó cũng không nên hời hợt. Phương chi nếu biến chuyển lại do thánh ý Chúa, thì suy nghĩ của chúng ta cần đi sâu. Tôi nghĩ nguyên nhân sau cùng vẫn là thánh ý Chúa. Xin chỉ nêu lên ở đây vài đoạn Kinh Thánh có tính cách gợi ý: Trong sách tiên tri Giêrêmia, Chúa phán: "Hỡi nhà Ít-ra-en, đối với các ngươi, Ta lại không thể làm được như người thợ gốm hay sao?... Đất sét ở trong tay người thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy. “Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ nhổ, sẽ lật, sẽ diệt một dân tộc hay một vương quốc, nhưng nếu dân tộc ấy vương quốc ấy trở lại, bỏ sự dữ đã khiến Ta quyết định trừng phạt nó, thì Ta sẽ hối tiếc về tai hoạ Ta định giáng cho nó. “Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ xây, sẽ trồng một dân tộc hay một vương quốc, nhưng nếu dân tộc ấy vương quốc ấy làm điều dữ trái mắt Ta, không chịu nghe theo tiếng Ta, Ta sẽ hối tiếc về phúc lành Ta định ban cho nó. “Và bây giờ, ngươi hãy nói với người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Đức Chúa phán như sau: Này chính Ta đang tạo ra tai hoạ nhằm trừng phạt các ngươi, đang tính kế chống các ngươi. Vậy hãy mau trở lại. Hãy bỏ con đường gian ác. Hãy làm cho cách sống của mình nên tốt hơn. Nhưng chúng sẽ nói: "Vô ích! Chúng tôi sẽ theo ý định của chúng tôi. Và mỗi người cứ cố chấp theo lòng dạ xấu xa của mình." (Gr 18,6-12) Lời Chúa trên đây cho tôi thấy mấy điều quan trọng: - Chúng ta, dù là cộng đoàn dù là cá nhân, đều thuộc về Chúa. Còn hay mất, thịnh hay suy, đều trong tay Chúa. Nhưng cũng do sự tự do của chúng ta có cộng tác với ý Chúa hay không. - Nếu chúng ta dùng sự tự do của mình, để sám hối, thực thi ý Chúa, thì Chúa sẽ làm cho chúng ta nên tốt đẹp, cho dù trước đó chúng ta xấu xa và khốn khổ. - Nếu chúng ta dùng sự tự do của mình, để không thực thi ý Chúa, mà chỉ theo ý mình, thì chúng ta sẽ bị Chúa ruồng bỏ, cho dù trước đó chúng ta được bình an phát triển. Điều mà Chúa nói qua tiên tri Giêrêmia, cũng đã được chính Chúa Giêsu nói lại nhiều lần nhiều cách. Như có lần Chúa quả quyết với các vị thượng tế và kỳ lão rằng: “Tôi bảo các ông:Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông, để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21,43). Vậy, nếu sự tồn tại và phát triển của chúng ta tuỳ thuộc vào sự chúng ta có ra sức sống theo thánh ý Chúa hay không, thì chúng ta có thể tự thấy trách nhiệm của mình. Đó là Tỉnh thức lắng nghe ý Chúa trong mọi lãnh vực. Thao thức tìm tòi và chọn lựa giải pháp đáp lại thánh ý Chúa. Gắng sức thực thi giải pháp đã chọn. Như vậy, chắc chắn Chúa muốn cộng đoàn chúng ta đổi mới. Tôi xin gợi ý về sự đổi mới này: 1- Sâu về nội tâm. Chúng ta luôn trở về nguồn Thiên Chúa tình yêu qua con đường Chúa Giêsu, để đón nhận ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần. Luôn tỉnh thức và tiết độ, chúng ta phấn đấu với chính mình, để thói quen “yêu Chúa đến quên mình” trở thành nếp sống. 2- Nhẹ về tổ chức. Cộng đoàn chúng ta như quán trọ, thân thương cởi mở, mà Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,29-37). Với lòng cảm thương, chúng ta đón nhận mọi người Chúa Giêsu cứu độ gởi đến. Chúa nhờ chúng ta chăm nom săn sóc họ. 3- Mở ra rất rộng. Chúng ta mở về phía mọi lãnh vực của con người và xã hội. Với ý thức mình được sai đi, chúng ta ra sức góp phần tốt nhất vào việc phát triển con người và xã hội. Nhờ đó chúng ta làm chứng cho Tin Mừng. Bất cứ ở đâu, chúng ta vẫn là những người xây dựng nền văn minh của tình yêu rộng khắp, bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa tình yêu. *** Khi phải đi xa, không ai muốn lên một chiếc xe cũ kỹ cứ đậu mãi một chỗ. Cũng vậy, phúc cho những ai được ở trong những cộng đoàn luôn tiến về phía trước. Họ đi với Lời Chúa được đọc, được nghe, được suy gẫm, trong cầu nguyện và dấn thân rao giảng Tin Mừng. Họ mang theo nhiệt tình mới, phương pháp mới, ngôn ngữ mới. Tất cả phát xuất từ lửa tình yêu. Sau 20 thế kỷ, tại Á châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng, đạo công giáo vẫn là một thiểu số rất bé nhỏ. Việc truyền giáo được chứng minh là công việc rất khó, rất phức tạp. Quá khứ truyền giáo còn nhiều vướng mắc nặng nề. Nhưng nay, nếu cộng đoàn chúng ta khiêm nhường đổi mới, giàu sự thực và giàu tình thương, tuyệt đối dựa vào ơn Chúa, thì tương lai chúng ta sẽ thực sự có hy vọng và sẽ đem hy vọng đến cho đông đảo đồng bào chúng ta.
Thánh Giuse là một người thợ mộc, gia trưởng của một gia đình bé nhỏ. Tuy là bé nhỏ, gia đình này chính là điểm xuất phát của cuộc hành trình cứu độ, mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên trần thế. Thánh Giuse đã góp phần mình vào hành trình cứu độ này. Đóng góp của thánh Giuse đã hết sức âm thầm. Tuy rất âm thầm, nhưng lại rất lớn. Khi suy gẫm về những đóng góp to lớn của thánh Giuse vào chương trình cứu độ, tôi để ý nhiều đến những gì tôi cần học hỏi và bắt chước. Không phải một cách chung chung, nhưng một cách cụ thể. Để nhờ đó, tôi có thể đóng góp phần mình vào tu đức, mục vụ và truyền giáo tại đây lúc này, theo đúng hướng, đúng cách mà Chúa muốn. Càng nhìn ngắm thánh Giuse, tôi càng thấy Ngài như một kho tàng, như một trường học. Ngài toả ra một thứ ánh sáng đặc biệt. Ánh sáng đặc biệt đó thu hút tôi vào nội tâm Ngài. Trong cõi nội tâm thinh lặng, thánh Giuse chỉ vẽ cho tôi hành trình phải đi. Đã là hành trình tu đức, mục vụ và truyền giáo thì luôn luôn phải khởi đầu bằng việc lắng nghe ý Chúa, và thực thi đúng ý Chúa. Thánh Giuse đã làm gương về điều đó. Phúc Âm thánh Matthêu ghi lại ba trường hợp quan trọng: Trường hợp thứ nhất xảy ra trước sinh nhật Chúa Giêsu. “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống với nhau, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người cho khỏi tội lỗi của họ...”. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,18-24). Trường hợp thứ hai xảy ra khi vua Hêrôđê tìm giết hài nhi Giêsu.“Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho Giuse rằng: “Này ông, hãy dậy đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài nhi đấy”. Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13-14). Trường hợp thứ ba xảy ra khi vua Hêrôđê băng hà. “Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, hãy dậy, đem Hài nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi”. Ông liền chỗi dậy đưa Hài nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,19-21). Trên đây chỉ là những trường hợp sứ thần nói với thánh Giuse và thánh Giuse đã vâng theo. Còn chính Chúa Giêsu nói trực tiếp với thánh Giuse, và thánh Giuse đã đón nhận, thì đó là sinh hoạt thường ngày suốt mấy chục năm trong gia đình thánh. Thực là một hạnh phúc tuyệt vời. Bởi vì, Chúa Giêsu quả quyết: “Hạnh phúc cho những ai lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Hạnh phúc này được cảm nghiệm một cách sâu sắc, khi sự lắng nghe ý Chúa và thực thi ý Chúa dẫn vào sự thông hiệp với sự sống Thiên Chúa. Khi nghĩ về sự thông hiệp này, tôi nhớ tới những lần rước lễ sốt sắng, với tất cả tấm lòng khiêm tốn, đầy niềm tin vào tình yêu thương xót Chúa. Lúc ấy đúng là một đón nhận hồng ân cao cả, đúng là một sự xuất hành thiêng liêng, mình ra khỏi chính mình, để được dẫn vào một sự sống mới. Cảm nghiệm thoang thoảng đó cho phép tôi hiểu về sự thông hiệp của thánh Giuse với Thiên Chúa của Ngài. Thông hiệp này là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ này biến thành phượng thờ và cầu nguyện. Tất cả nhờ Thánh Thần của Chúa Giêsu. Nơi thánh Giuse, phượng thờ và cầu nguyện trong nội tâm, kéo dài ngày đêm trong suốt cuộc đời. Tôi tin rằng: Chính trong bầu khí phượng thờ và cầu nguyện nội tâm đó, mà thánh Giuse đã nhận được ơn khôn ngoan và được mở lòng mở trí. Sau này thánh Phaolô đã tả những ơn đó trong thư gởi giáo đoàn Ephêsô: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần trí khôn ngoan, để mạc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là miền hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh, đâu là quyền lực vô song lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những người tin” (Ep 1,17-19). Tôi tin thánh Giuse đã được soi lòng mở trí, đã được sự khôn ngoan, để biết cách bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đúng cách mà Chúa muốn. Nhìn cuộc đời thánh Giuse, tôi thấy ơn gọi của thánh Giuse là một hành trình dài. Ơn gọi đó đã phát xuất từ chính Thiên Chúa. Thánh Giuse không bao giờ đã vận động cho mình ơn gọi đó. Ngài cũng chẳng bao giờ ham muốn được ơn gọi đó. Chúa gọi, và Ngài đã xin vâng. Rồi Chúa soi cho Ngài biết từng chặng đường phải đi. Tất cả các chặng đường đó đều hướng về một đích điểm. Đó là việc Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ cứu chuộc trên thánh giá, để phục sinh cho nhân loại lỗi lầm. Thánh Giuse đã không tiếc gì trong việc góp phần mình vào hành trình cứu độ của Chúa Giêsu. Nhiệt tình mà khiêm tốn. Năng động mà âm thầm. Phục vụ mà kín đáo. Hôm nay thánh Giuse vẫn sống động trong Hội Thánh. Đối với Giáo Hội Việt Nam, không những Ngài là Quan thầy phù trợ, mà còn là vị Gia trưởng thân thương gần gũi đang chia sẻ cuộc đời chúng ta. Một cuộc đời với nhiều lo toan, với nhiều trắc trở, với nhiều ước mơ và phấn đấu. Hãy đến với Ngài.
Hãy học nơi Ngài.
Hãy cậy trông ở Ngài.
Ngài đang âu yếm kêu gọi và đợi chờ chúng ta.
Trước đây nhiều ngày, tôi đã định đi Lạng Sơn, để giảng lễ thánh Giuse, nhân ngày khởi công xây dựng nhà thờ Chánh Toà Lạng Sơn. Sở dĩ tôi có ý định đó, là vì giữa Đức Cha Giuse Ngôi Quang Kiệt và Long Xuyên chúng ta có một liên hệ mật thiết đặc biệt. Chẳng may, đến hẹn chót, vì lý do sức khoẻ, tôi phải huỷ bỏ chuyến đi. Chỉ gởi bài giảng lên đó thôi. Nhưng chính do sự cố này, mà hôm nay tôi được có dịp cùng anh chị em Long Xuyên, mừng lễ thánh Giuse, Bổng mạng Đức Cha Phó của chúng ta. Tôi nghĩ rằng: Ý Chúa đã muốn như vậy, để nhân cơ hội này, tôi có thể tâm sự với anh chị em đôi điều về thánh Giuse. Tâm sự của tôi xin được khởi đầu bằng tâm tình cảm tạ Chúa. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa, nhờ thánh Giuse cầu bầu, đã ban cho giáo phận Long Xuyên và giáo phận Lạng Sơn những hoa trái mới tốt đẹp trong 3 năm qua. Tiện đây, tôi xin quả quyết với anh chị em điều này: Chính nhờ thánh Giuse, mà quá trình bổ nhiệm hai Đức Cha Giuse của chúng ta cách đây 3 năm đã diễn tiến rất nhẹ nhàng mau lẹ. Rồi từ đó đến nay, cả hai giáo phận đều cùng nhau tiến bước trong bầu khí bình an và hứng khởi. Khi cùng với giáo phận tiến bước về tương lai, tôi vẫn tha thiết cầu khấn thánh Giuse. Bởi vì tương lai xem ra rất phức tạp, khiến tôi ưu tư nhưng với hy vọng. Ưu tư lớn hiện nay của tôi là tình hình các gia đình. Tình hình gia đình đang chuyển biến. Có những bình an và có những khủng hoảng. Có những êm đềm và có những rạn nứt. Có những qui tụ và có những tan vỡ. Có những hy vọng và có những thất vọng. Tôi tự hỏi: Tinh thần yêu thương, hiếu thảo, đùm bọc gắn bó, nhường nhịn trong gia đình hiện đang trên đà phát triển, hay đang trượt xuống dốc suy tàn? Ưu tư đó có lý do để tồn tại. Thế nhưng, khi nhìn lên thánh Giuse, tôi thấy những bộ mặt mới của gia đình công giáo đang hình thành. Thực vậy, nhờ thánh Giuse, đang xuất hiện những gia đình nhận thức được sự tự do của họ và trách nhiệm của họ là phải được dùng để rao giảng Thiên Chúa là tình yêu. Nhờ thánh Giuse, đang xuất hiện những gia đình biết đón nhận Lời Chúa, phấn đấu làm cho sự sống của mình thành nên công trình nói lên tình yêu sáng tạo là phục vụ. Nhờ thánh Giuse, đang xuất hiện những gia đình thấm nhuần mầu nhiệm thánh giá, biết quảng đại dâng hiến đời mình và những gì thuộc đời mình cho lợi ích chung, để minh chứng cho tình yêu hy sinh. Nhờ thánh Giuse, đang xuất hiện những gia đình biết khôn khéo liên kết với những khác biệt nơi các người khác, để dệt nên nền văn hoá tình yêu liên đới của những người con một Cha trên trời. Về điểm này, tôi thấy xung quanh chúng ta đây có vô số gia đình tốt ngoài công giáo. Họ cảm nghiệm có những tiếng gọi còn sâu thẳm hơn những gì sâu thẳm thông thường trong họ. Họ cảm nghiệm có những giá trị cao cả, mà họ dám hy sinh đời mình cho những giá trị cao cả đó. Họ cảm nghiệm có những sự linh thiêng, mà họ không ngại tin tưởng và phục vụ. Với những cảm nghiệm đó, họ đang là những ngọn đèn trong đêm. Chúng ta hãy cùng họ thắp sáng lên chiều kích thiêng liêng của dân tộc ta. Khi cùng nhau sống lành, cùng nhau làm tốt, chúng ta sẽ làm nên một khối sức mạnh thiêng liêng, để loan báo Tin Mừng, xây dựng quê hương. Tuy tất cả mọi việc đều trong âm thầm khiêm tốn. Tôi chủ ý nhấn mạnh đến “Âm thầm khiêm tốn”. Bởi vì âm thầm khiêm tốn là một đặc điểm của thánh Giuse, thiết tưởng âm thầm khiêm tốn cũng là điều mà Chúa muốn chúng ta lựa chọn cho một số tình huống, để thi hành trách nhiệm bảo vệ đức tin và giới thiệu Tin Mừng. Nhất là trong những chặng đường rất phức tạp, như hoàn cảnh thánh Giuse xưa. Với tâm sự vắn tắt trên đây, tôi xin anh chị em cùng tôi cầu nguyện nhiều, cho Đức Cha Phó và giáo phận chúng ta, cho Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt và giáo phận Lạng Sơn nữa. Chúng ta cũng hãy cùng nhau cầu nguyện cho các gia đình. Xin cho mọi gia đình biết nương tựa vào thánh Giuse, để nhờ Ngài mà được hạnh phúc nhờ sự lắng nghe Chúa và thi hành ý Chúa.
Hôm nay, Toà Giám Mục Lạng Sơn đang hân hoan đón tiếp những tình nghĩa và những niềm tin. Đến từ gần và đến từ xa. Đến từ đạo và đến từ đời. Hầu hết anh chị em là thành phần của những cộng đoàn rải rác trên hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn rộng lớn. Anh chị em là những người biên cương, mang theo mình những mảng lịch sử của Đất Nước hào hùng và của Hội Thánh tín trung. Tuy rất đa dạng và ở cách xa nhau, anh chị em đã và đang làm cho giáo phận Lạng Sơn trở nên một gia đình thân thương, gắn bó với nhau. Với những hồn thiêng của quá khứ Lạng Sơn, và với các giá trị thiêng liêng hiện có, bầu khí gia đình giáo phận Lạng Sơn hôm nay được cảm nhận như một chân trời linh thiêng. Bầu khí tốt đẹp này là một động lực thúc đẩy chúng ta tiến về một tương lai sống đạo sáng ngời hy vọng. Tương lai sống đạo sáng ngời hy vọng của Lạng Sơn sẽ phải thế nào? Đó là vấn đề tôi muốn cùng anh chị em suy nghĩ nhân dịp họp mặt hôm nay. Để trả lời câu hỏi vừa nêu trên, tôi nhìn lên thánh Giuse. Càng lại gần vị thánh đã được Chúa chọn làm đấng bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ, tôi càng thấy con đường sống đạo của ngài xem ra rất thích hợp với hoàn cảnh của tôi và của chúng ta. Trong hoàn cảnh thánh Giuse, Chúa muốn ngài sống đạo một cách thích hợp và hữu hiệu. Cách đó là âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm, để rồi khiêm tốn đi sâu vào cuộc sống đồng bào. Trước hết, thánh Giuse âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Đối với thánh Giuse, Thiên Chúa mà ngài gắn bó, không phải là Đấng làm những phép lạ lẫy lừng, qui tụ đông đảo dân chúng, ban bố những luật lệ. Nhưng Thiên Chúa của ngài, Thiên Chúa đã gây ấn tượng nơi ngài, chính là một Thiên Chúa đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Qua tình thương ấy ngài nhận ra Thiên Chúa là một tình thương ban tặng nhưng không cho ngài. Ngài trả lời. Trả lời của ngài là một giao ước, là một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo lập tức. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi ngài. Vì thế, nơi thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết. Càng đi sâu vào nội tâm, đức tin của thánh Giuse càng được thanh luyện khỏi những ảo tưởng, những tự mãn, và những quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Thay thế cho hình ảnh một Thiên Chúa quyền lực và xa vời rất phổ biến hồi đó, thánh Giuse nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thương xót , tình yêu gần gũi, tình yêu khiêm nhường, tình yêu phục vụ, tình yêu cứu độ, tình yêu đợi chờ và đi tìm những kẻ lầm lạc để ban tặng cho họ ơn tha thứ. Với những nhận thức và cảm nghiệm đó, sống đức tin chính là gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Từ đó, thánh Giuse nhận ra Thiên Chúa là Tin Mừng đích thực. Chính sự nhìn nhận đó thúc đẩy ngài chia sẻ cho mọi người niềm tin vào Tin Mừng. Để thực thi ý muốn chia sẻ này, thánh Giuse đã chọn một cách thích hợp và hữu hiệu. Đó là khiêm tốn đi sâu vào cuộc sống con người. Thực vậy, thánh Giuse chia sẻ Đức Tin bằng chính đời sống của ngài hơn là bằng lời nói. Ngài sống nghèo như những người nghèo, nhưng với đức tin. Ngài đau khổ cùng lớp người bị áp bức, nhưng với đức tin. Ngài làm ăn vất vả giữa xóm làng lầm than vất vả, nhưng với đức tin. Đức tin nơi ngài có sức nâng tâm hồn con người lên Nước Trời. Đức tin nơi ngài có sức thức tỉnh ý chí con người, hướng dẫn con người biết tìm ra cái tốt ngay chính trong những cái xấu. Đức tin nơi ngài có sức chữa lành nội tâm con người hơn là cứu chữa con người khỏi những khốn khổ thể xác. Ngài đi sâu vào cuộc sống con người để phục vụ. Phục vụ với đức tin, với yêu thương, với khiêm tốn, với kính trọng. Nhất là phục vụ với tâm hồn cầu nguyện và ý chí hy sinh dâng hiến tất cả đời mình. Sau cùng, ngài đã qua đời một cách âm thầm, như một hạt lúa chôn vào lòng đất, đợi chờ kết quả theo thời giờ của Chúa. Kết quả lúc đó và tại đó không được rõ. Nhưng kết quả trong lịch sử Hội Thánh lúc này là rất rõ. Biết bao giáo phận, biết bao giáo xứ, biết bao tín hữu đã nhận thánh Giuse làm bổn mạng. Tiện đây, tôi cũng xin nói rõ: Sự giáo phận Lạng Sơn cách đây hơn 2 năm rưỡi được Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt tới phục vụ với tư cách chủ chăn, chính là một ơn đặc biệt Chúa ban, nhờ thánh Giuse. Cũng như sự giáo phận Lạng Sơn hôm nay khởi công xây dựng nhà thờ Chánh Toà cũng chính là một ơn Chúa ban, nhờ thánh Giuse. Nhìn xung quanh đây, tôi thấy có những rừng cây đang mọc lên âm thầm, có những dòng nước vẫn chảy âm thầm, có những đồng lúa vẫn nở bông âm thầm. Tương tự cũng vậy, tôi đang nhìn thấy nơi đây có những hy vọng Tin Mừng đang mọc thành những sự sống Tin Mừng. Chỉ là âm thầm, nhưng đó là phong cách sống đạo nơi thánh Giuse. Chúng ta cầu xin thánh Giuse hãy luôn là gia trưởng gia đình giáo phận Lạng Sơn chúng ta, và hãy luôn là gia trưởng từng gia đình chúng ta. Để cùng với ngài, chúng ta biết phấn đấu với chính mình, để âm thầm đi sâu vào nội tâm và khiêm tốn đi sâu vào cuộc sống con người. Với Tin Mừng là Thiên Chúa tình yêu.
Năm nay, số người đến nhà thờ tham dự Tuần thánh vẫn sẽ rất đông. Tuần thánh năm nay cũng sẽ diễn tiến với những lễ nghi như mọi năm. Nhưng không phải vì thế mà mọi người tham dự Tuần thánh đều có những tâm tư giống nhau và giống như năm trước. Tâm tư mỗi người đang chuyển biến. Do tác động của cuộc sống bản thân, của tình hình gia đình, xã hội, của những biến cố trên thế giới và trong thiên nhiên. Chuyển biến của tâm tư con người đang gây nên phân hoá. Phân hoá theo những hướng khác nhau. Sẽ có những hướng không thuận lợi cho đời sống đạo đức. Cũng có những hướng sẽ rất thuận lợi cho việc an táng đức tin một cách êm đềm lặng lẽ. Trong viễn tượng đó, để sự tham dự Tuần thánh trở thành cơ hội tốt cho việc ổn định tâm tư, tôi xin chia sẻ suy nghĩ và kinh nghiệm của tôi về sự gặp gỡ Chúa Giêsu trong Tuần thánh. Việc quan trọng đầu tiên cần để ý trong việc tham dự Tuần thánh, không phải là giữ luật Phục sinh, tham gia nghi thức, nhưng là để gặp gỡ Chúa Giêsu. Ngài vẫn sống động âm thầm bên cạnh ta và trong lòng ta. Hãy gặp Ngài với tâm tình khiêm tốn cậy tin. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu đang tiếp tục cứu độ nhân loại và đang kêu gọi chúng ta góp phần mình vào việc cứu độ của Ngài, tôi thấy Ngài có kế hoạch riêng của Ngài. Kế hoạch riêng này rất khiêm nhường, trong đó quyền năng của Ngài không được sử dụng theo những cách, mà tâm tư nhiều người mong muốn. Thí dụ, có lúc tôi tưởng, nếu Chúa dùng quyền năng làm phép lạ cho con cái Chúa được nhiều của cải, đời sống thịnh vượng và Hội Thánh Chúa được giàu sang, thì phép lạ như thế sẽ làm cho nhiều người nên thánh, nhiều dân không biết Chúa sẽ trở về tin thờ Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế. Trong sa mạc, Satan đã cám dỗ Chúa dùng quyền năng mình mà làm phép lạ cho các hòn đá trở thành các tấm bánh. Nhưng Ngài đã khước từ. Sự khước từ của Ngài muốn nói: ý nghĩ như thế là ngu xuẩn. Có lúc tôi mường tượng: Nếu Chúa tỏ bày quyền năng của mình, bằng cách làm cho con cái Chúa vượt qua nguy cơ sự chết một cách nhẹ nhàng, thì danh Chúa sẽ được nhiều người kính phục, Nước Chúa sẽ được mở rộng, nhiều người sẽ ăn năn trở lại. Nhưng Chúa đã không làm thế. Trong sa mạc, Satan đã cám dỗ Chúa dùng quyền năng của mình mà làm phép lạ bằng việc từ nóc đền thờ nhảy xuống, để các thiên thần đỡ khỏi nguy cơ bị thương hay bị chết. Nhưng Chúa đã từ chối. Từ chối của Ngài có nghĩa như loại bỏ một ác ý trá hình. Có lúc tôi cũng nghĩ: Nếu Chúa tỏ bày quyền năng của mình, bằng cách hạ bệ tất cả những quyền lực nào dám chống Chúa, để rồi đạo Chúa được tự do lan rộng mà không gặp cản trở nào, thì mọi dân mọi nước sẽ qui về một mối dưới vương quyền của Chúa. Nhưng Chúa đã không làm thế. Trong sa mạc, Satan cũng đã dụ Chúa, nếu cộng tác với hắn, hắn sẽ cho tất cả thiên hạ làm gia nghiệp. Nhưng Chúa đã xua đuổi Satan đi. Sự xua đuổi đó tố giác Satan là rất thâm độc. Trong tuần thánh, Chúa Giêsu cũng đã dứt khoát không sử dụng quyền năng của mình vào những việc bề ngoài coi như vinh quang đắc thắng. Trái lại Ngài đành chịu đói khát, chịu để người ta xúc phạm đánh đập, chịu để cho người ta giết như một người không có quyền sống. Vậy để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã tỏ bày quyền năng sức mạnh của Ngài ở điểm nào? Thưa ở sự Ngài tuyệt đối gắn bó với Chúa Cha, tuyệt đối vâng ý Chúa Cha, tuyệt đối phó thác mình trong tay Chúa Cha. “Cha ơi, nếu có thể, xin cho chén đắng này rời xa con. Nhưng xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha mọi đàng” (Mt 26,39). Mà ý Chúa Cha là muốn mạc khải về chính bản tính Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ để minh chứng là yêu đến cùng (Ga 13,1). Một tình yêu vâng lời cho đến nỗi dám chết một cách khổ nhục nhất, để đền tội cho nhân loại lỗi lầm. Về điểm này, chúng ta nên đọc kỹ những lời thánh Phaolô: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà đã không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Ph 2,6-8). Khi những lời trên đây của thánh Phaolô thấm nhập vào tâm can chúng ta, nhất là khi cuộc thương khó của Chúa Giêsu đánh thức được lòng chúng ta, chúng ta sẽ gặp được nơi Chúa Giêsu một Thiên Chúa thầm lặng, một Thiên Chúa ẩn dật, nhưng đầy tình yêu thương xót. Ngài kêu gọi chúng ta hãy biết đón nhận Ngài, đi theo Ngài và lắng nghe Ngài: Dùng yêu thương để thắng hận thù ghen ghét.
Dùng khiêm nhường để thắng kiêu căng tự phụ.
Dùng phấn đấu phục vụ để thắng an nhàn hưởng thụ.
Dùng tôn trọng sự thực để thắng gian dối u mê.
Dùng cầu nguyện và chay tịnh để thắng ma quỉ. Những việc đạo đức trên đây và nhiều việc đạo đức khác sẽ làm nên một con sông vô hình, để ơn thánh cứu độ chảy vào các linh hồn. Tất cả những việc đạo đức đó chúng ta làm do động lực vâng phục ý Chúa Cha, theo gương Chúa Giêsu, nên sức mạnh của quyền năng Chúa cứu độ sẽ được Chúa ban xuống rất dồi dào. Tôi nghĩ rằng: Tâm tư của chúng ta nên được ổn định theo hướng đó. Và cứ thế, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn có thể nói với Chúa: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Ga 23,46). Cụ thể là: Trong tay Cha, chúng ta cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình với phẩm chất tốt nhất có thể. Trong tay Cha, chúng ta dùng mọi cơ hội để cầu nguyện cho Nước Cha đi sâu vào các linh hồn. Trong tay Cha, chúng ta góp hết sức mình để xây dựng và phát triển mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội. Trong tay Cha, chúng ta sẽ trút hơi thở sau cùng, để bước vào Phục sinh vĩnh cửu với Chúa Giêsu.
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất. Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình. Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng. Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới. Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời. Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông. Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo. Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn. Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm. Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay. Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu. Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại. Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa giai cấp chức quyền. Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa. Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ. Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận. Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức. Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người. Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện. Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá. Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người. Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài. Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
Ba ngày tuần thánh là thời gian chúng ta trở về nguồn. Nguồn nói đây là nơi tuôn chảy ra ơn thánh cứu độ, nơi mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, nơi toả sáng các nhân đức quan trọng, cần thiết cho những ai đi theo Đấng Cứu thế. Nguồn đó chính là Chúa Giêsu. Như thế, trở về nguồn là trở về với Chúa Giêsu. Cụ thể như: Lại gần Ngài, ở lại bên Ngài, thinh lặng lắng nghe tâm tình của Ngài, tạ ơn Ngài, cầu nguyện với Ngài. Chắc chắn là chẳng ai trở về với Ngài, mà lại bị Ngài ruồng bỏ. Trái lại, cho dù chúng ta là người đầy tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền tin rằng: Chúng ta được Ngài thương yêu, được Ngài tha thứ, được Ngài đón nhận. Miễn là chúng ta hết sức chân thành. Nhất là chân thành xin vâng ý Chúa. Vậy ý Chúa là thế nào? Tôi có cảm tưởng là: Nếu chúng ta hỏi Chúa điều đó, thì Chúa sẽ không trả lời ngay đâu. Nhưng trước hết, Chúa đòi ta phải có những điều kiện căn bản đã. Theo tôi thì: Điều kiện thứ nhất là khiêm nhường. Điều kiện thứ hai là khiêm nhường. Điều kiện thứ ba cũng là khiêm nhường. Thực vậy, khi trở về nguồn, chúng ta sẽ thấy khiêm nhường là phong cách lạ lùng Chúa Giêsu đã chọn để thực hiện chương trình cứu độ. Khiêm nhường khi giáng sinh tại Belem.
Khiêm nhường khi trốn sang Ai Cập.
Khiêm nhường trong 30 năm sinh sống ở Nagiarét.
Khiêm nhường trong ba năm ngược xuôi rao giảng.
Nhất là khiêm nhường trong cuộc thương khó. Phải rất khiêm nhường mới có thể vâng phục ý Chúa Cha đến cùng.
Phải rất khiêm nhường mới có thể yêu thương con người đến cùng Do đó khiêm nhường là điều ít người muốn chọn, bởi vì khó chọn. Ngay trong tuần thánh, chúng ta đã thấy: Một người sau này sẽ giữ vai trò lãnh đạo Hội Thánh, tức thánh Phêrô, cũng phản đối quyết liệt sự chọn lựa quá khiêm nhường của Chúa Giêsu. Khi thấy Chúa Giêsu qùi gối xuống rửa chân cho các môn đệ, thánh Phêrô đã cực lực chối từ. Ngài cho việc làm khiêm nhường như vậy là không đúng, không hợp với bậc thầy. Nhưng Chúa vẫn cứ làm, sau khi giải thích. Khi thấy đoàn người đến bắt Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã cương quyết ra tay chống lại. Ngài cho rằng thầy không nên để mình bị nhục như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã cứ để mình bị bắt, sau khi trách mắng Phêrô. Thế rồi, trong khi bị hạch hỏi, bị đánh đập, bị xỉ vả, bị kết án, Chúa Giêsu vẫn một mực khiêm tốn. Khiêm tốn trong lời nói. Khiêm tốn trong thái độ. Khiêm tốn trong cái chết. Và khiêm tốn cả khi sống lại. Tôi nghĩ là: để khiêm tốn lâu dài, khiêm tốn khắp nơi, khiêm tốn đến tận cùng như vậy, thì phải có sức mạnh thiêng liêng phi thường. Với đức khiêm nhường, Chúa Giêsu đã đưa ra một cách mới trong việc sử dụng quyền bính. Đối với Ngài, sử dụng quyền bính là sử dụng tình thương. Mà đối với Ngài, thương là thương đến cùng. Mà đối với Ngài, thương đến cùng là tự hạ, tự nguyện làm người hầu hạ, đến một lúc nào đó dám tự nguyện chết đi. Như thế, khiêm nhường là con đường minh chứng. Chúa Giêsu minh chứng Ngài tuyệt đối vâng phục ý Chúa Cha. Như thế, khiêm nhường là con đường trao tặng. Chúa Giêsu trao tặng chính mình như một của lễ đền tội. Như thế, khiêm nhường là con đường hy vọng. Chúa Giêsu cho thấy ai khiêm nhường chắc chắn sẽ đi tới phục sinh. Như thế, khiêm nhường là con đường đón nhận. Chúa Giêsu sẽ đón nhận bất cứ những ai biết mình bé nhỏ, tội lỗi, bất xứng, hết sức khiêm nhường, không dám kết án ai, để khỏi bị Chúa kết án. Khi ngắm nhìn gương khiêm nhường của Chúa Giêsu trong tuần thánh, tôi thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu chính là câu trả lời cho những thao thức của chúng ta, về mình, về gia đình, về quê hương, về Hội Thánh. Nhiều khi chúng ta có những lo toan chính đáng. Và để giải đáp, chúng ta có những lựa chọn mà chúng ta tưởng là tốt. Nhưng đó là ý riêng ta. Còn ý Chúa thì lại khác. Để đón nhận được ý Chúa và tuân phục ý Chúa, chúng ta rất cần khiêm nhường. Những tâm hồn tự mãn, kiêu căng sẽ không bao giờ là đất tốt để cho Ý Chúa gieo vào đó nảy mầm sinh cây được. Với nhận thức như trên, chúng ta trở về Nguồn là Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc chúng ta bằng sự khiêm nhường. Cúi xin Ngài thương xót chúng ta, giúp chúng ta biết khiêm nhường. Để biết khiêm nhường, chúng ta cần phải có ơn Chúa: ơn thông thường và ơn khác thường. Nhờ đó chúng ta sẽ biết vâng phục ý Chúa Cha và biết yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Khi mừng kỷ niệm Chúa Phục sinh, chúng ta dâng lên Chúa Phục sinh nhiều ước nguyện. Một trong những ước nguyện tha thiết nhất, là ước nguyện được Chúa thương ban ơn phục sinh cho mọi người, đầu tiên là cho chính bản thân ta. Bản thân ta rất cần được phục sinh. Được phục sinh có nghĩa là được tham dự vào sự sống mới. Sự sống mới này là sự sống của chính Chúa Giêsu. Để biết chúng ta có nhận được sự sống của Chúa Giêsu không, nhận được nhiều hay nhận được ít, chúng ta có thể căn cứ vào mấy đặc điểm sau đây. Mấy đặc điểm này đã được Chúa Giêsu rất đề cao trong suốt đời Ngài, nhất là trong cuộc thương khó của Ngài. Đặc điểm căn bản nhất là sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Vâng phục tuyệt đối. Vâng phục vô điều kiện. Vâng phục đến cùng. Đặc điểm thứ hai là yêu thương. Yêu thương chấp nhận những tính tình khác biệt. Yêu thương phấn đấu phục vụ lợi ích chung. Yêu thương gánh tội thay. Yêu thương đền tội thay. Yêu thương chết thay. Yêu thương tha thứ. Yêu thương đến cùng. Đặc điểm thứ ba là khiêm nhường. Khiêm nhường che giấu sự cao sang của mình. Khiêm nhường sống ẩn dật trong thân phận người nghèo khó. Khiêm nhường nhịn nhục khi bị oan ức, nhục nhã. Khiêm nhường im lặng. Khiêm nhường đến tận cùng. Cứ tìm ba đức tính trên đây trong bản thân chúng ta, chúng ta sẽ thấy sự sống Chúa Giêsu trong chúng ta có thực dồi dào hay không, ơn phục sinh trong chúng ta có thực mạnh mẽ hay không. Nếu ơn phục sinh của Chúa, sự sống của Chúa còn non yếu mờ nhạt trong ta, thì vấn đề cần phải suy nghĩ sẽ là: Không phải Chúa không sẵn sàng ban ơn cho chúng ta, nhưng chính chúng ta không sẵn sàng đón nhận ơn Chúa. Thậm chí chính chúng ta cũng không tha thiết tìm Chúa. Nhất là chính chúng ta cũng chỉ muốn Chúa làm theo ý ta, chứ không thực sự muốn tuân phục ý Chúa. Đó là điều đáng ngại, đáng lo, đáng sợ, đáng buồn. Nhưng chính khi chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm thiếu sót của chúng ta trong việc đón nhận ơn phục sinh, thì Chúa phục sinh sẽ lại đến với chúng ta. Ngài đến như Đấng cứu độ. Ngài đến như người cha thương xót. Ngài đến cho ta niềm hy vọng. Hy vọng Ngài ban cho ta sẽ là: Thế nào chúng ta cũng sẽ được phục sinh, nhưng phục sinh bằng từng phút, từng giờ, từng ngày với những việc lành bé mọn. Phút nào, giờ nào, ngày nào cũng hãy ráng làm việc lành, dù là những việc lành bé mọn. Đó là hằng ngày tập sống với những tư tưởng khiêm nhường,yêu thương, vâng phục ý Chúa. Đó là hằng ngày tập nói những lời khiêm nhường, yêu thương và tuân phục ý Chúa. Đó là hằng ngày tập làm những việc khiêm nhường, yêu thương, vâng phục ý Chúa. Đó là hằng ngày tập tham gia vào những dấn thân phục vụ con người, đất nước và Hội Thánh. Tham gia với thái độ từ bỏ mình với thái độ yêu thương, với thái độ vâng phục thánh ý Chúa. Tôi nhấn mạnh đến từ tập. Tập tành, tập luyện, tập huấn. Trong hành trình đi tới phục sinh, chúng ta cần phải phấn đấu với chính mình, cần phải tự đào tạo chính mình. Làm thế là chúng ta góp phần mình vào ơn phục sinh của Chúa. Và là để ơn phục sinh được chúng ta đón nhận với tinh thần trách nhiệm và biết ơn. Và là để dọn đường cho chúng ta được bước vào cõi phục sinh đời đời sau khi chết. Chúng ta không sống mãi được đâu. Sớm muộn ai rồi cũng phải chết. Nhưng chúng ta hy vọng: Chết rồi sẽ được Chúa dẫn vào cõi phục sinh vĩnh cửu. Hy vọng đó là chính đáng, là cần thiết, là rất quan trọng. Nhưng để hy vọng đó biến thành hiện thực, thì chúng ta phải biết đón nhận ơn phục sinh, từng ngày, từng giờ, từng phút. Đón nhận với trách nhiệm cộng tác tối đa vào ơn phục sinh. Với chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Phục sinh tốt đẹp nhất.
Suốt đời, tôi tin theo Chúa. Vì tin theo Chúa, nên tôi lắng nghe Chúa, tìm gặp gỡ Chúa, vâng phục Chúa, ngắm nhìn Chúa, cầu nguyện tạ ơn Chúa. Dù bằng cách nào, mọi liên hệ của tôi với Chúa đều được coi là những lời đáp lại. Bởi vì chính Chúa đã gõ cửa lòng tôi và kiên trì đứng đợi đó, trước khi tôi mở cửa đón Ngài. Bởi vì chính Chúa đã gọi tên tôi nhiều lần, trước khi tôi nhìn về phía Ngài. Bởi vì chính Chúa đã đi tìm tôi không mệt mỏi, trước khi tôi ao ước gặp gỡ Ngài. Qua những kinh nghiệm sống động lâu dài, tôi nhận ra dần dần dung mạo Chúa. Dung mạo Chúa là tình yêu thương xót. Chúa là tình yêu thương xót. Chúa là tình yêu thương xót. Đối với tôi, đây là một chân lý ngọt ngào. Chân lý này vừa do Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, vừa do cảm nghiệm bản thân suốt cả đời tôi. Đây là một thứ kinh Tin Kính vắn gọn đã hướng dẫn mọi bước tôi đi. Đây là một tuyên xưng đơn sơ tôi muốn lặp đi lặp lại, như một đứa bé biết sao nói vậy. Tình yêu thương xót Chúa luôn hiện diện trong mọi biến cố xảy đến với tôi. Cả trong những biến cố bề ngoài coi rất dữ dằn, như một cột lửa muốn thiêu rụi tất cả, như một cơn lũ lụt muốn nhận chìm tất cả. Tình yêu thương xót Chúa theo tôi trong cuộc sống thường ngày. Trong từng chốn nơi cụ thể. Trong từng giờ phút cụ thể. Trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tình yêu thương xót Chúa không ở trong sách, nhưng ở trong lịch sử cụ thể đời người. Tình yêu thương xót Chúa đã đoái nhìn tôi từ rất xa xưa. Nhiều khi vô tình, tôi đã nghĩ đời mình có những quãng này quãng nọ là kết quả của những chuỗi sự kiện tự nhiên. Nhưng tôi đã nhận ra: Nghĩ như thế là sai, khi Chúa cho tôi thoáng nhìn thấy bàn tay thương xót Chúa đã luôn âm thầm kín đáo chăm sóc tôi. Lúc thì nâng đỡ, chở che, lúc thì băng bó chữa lành khi bị thương tích, lúc thì dắt đứng dậy và giúp tiếp tục bước đi khi chẳng may quỵ ngã, lúc thì chỉ cho thấy hướng phải tới, việc nên làm, phương án nên chọn lựa. Tôi muốn hiểu tình yêu thương xót Chúa. Nhưng tôi không hiểu nổi. Điều mà tôi thiết nghĩ cần làm, không phải là tìm hiểu tình yêu ấy, mà là tìm mến yêu chính tình yêu ấy. Tôi xin nhấn mạnh: Mến yêu chính tình yêu ấy, chứ không phải chỉ mến yêu những hiệu quả tốt đẹp của tình yêu ấy. Làm thế nào để mến yêu chính tình yêu thương xót Chúa? Tôi nghĩ việc đầu tiên phải làm là hỏi chính tình yêu ấy. Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Chắc nhiều người đã hỏi Chúa như thế, và đã được Chúa trả lời. Mến yêu tình yêu thương xót là đổi mới nội tâm. Riêng tôi, tôi cũng có một chút kinh nghiệm. Kinh nghiệm này có thể cũng là rất riêng tư. Chỉ để chia sẻ mà thôi. Lắng nghe Chúa, tôi được Chúa cho biết, tôi như chiếc bình sành không những mỏng giòn, mà còn dơ bẩn. Phải nhờ Đức Mẹ lau chùi kỹ lưỡng cho. Ở đây, Chúa cho tôi nhớ lại những lời Chúa nói với các người biệt phái. Họ chuyên lau chùi cái vỏ ngoài cho đẹp, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 24,25). Theo ý Chúa, bên trong sạch sẽ là: Tâm hồn hiền lành khiêm nhường (Mt 11,29) có khả năng đón nhận được các ơn Chúa, đặc biệt là ơn bác ái đầy tình thương xót. Nói một cách khác bên trong xinh đẹp và dễ thương là: “trở nên như trẻ thơ” (Mt 18,1-4). Đó cũng là vẻ đẹp của đơn sơ khiêm nhường. Trọn đời tôi, tôi đã luôn được Chúa nhắc nhở về cái bên trong như thế. Từ những nhắc nhỏ quí giá đó, Chúa cho thấy có ba điều đáng sợ bên trong con người. Một là mất khả năng khiêm nhường, hai là mất khả năng yêu mến xót thương, ba là mất khả năng cầu nguyện. Nguyên do sâu xa là vì kiêu ngạo. Khi một người, một cộng đoàn, một xã hội đã mang một bề trong bệnh hoạn, và chết lạnh như thế, thì chính ba cái mất khả năng đó đã kết án họ rồi. Lúc đó, cho dù bề ngoài còn có vẻ đạo đức, nhưng sẽ không còn được kể là gì trước mặt Chúa. Kinh Thánh dạy rõ: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết được hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin chuyển núi dời non, mà nếu không có bác ái, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố trí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà nếu không có bác ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cor 13,2-3). Khi bên trong được quan tâm chăm sóc rồi, thì tôi sẽ nghe lời sai đi của tình Chúa xót thương. Mến yêu tình yêu thương xót là ra đi làm vườn nho Chúa. Ở đây, tôi nhớ lại dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người con thứ nhất trả lời không muốn đi, nhưng rồi hối hận nên đã đi. Người con thứ hai trả lời xin vâng, nhưng rồi không chịu đi. Chúa khen người con thứ nhất, bởi vì sau cùng anh ta đã tuân phục và thi hành ý Chúa (Mt 21,28-31). Liền sau dụ ngôn đó, Chúa Giêsu đưa ra một nhận xét đáng cho những người tưởng mình đạo đức phải suy nghĩ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21,31-32). Kinh nghiệm cho tôi thấy những lời trên đây của Chúa đang thực sự xảy ra đó đây trên thực tế. Nguyên nhân sâu xa của sự cứng lòng nơi mấy người đạo đức đó chính là sự thiếu khả năng khiêm nhường, xót thương và cầu nguyện. Nếu không tỉnh thức, tôi cũng rơi vào thảm cảnh đó. Vườn nho Chúa rộng mênh mông. Chúa trao cho mỗi người một trách nhiệm. Trách nhiệm đó phải được thực hiện bằng đúng việc, ở đúng nơi, vào đúng lúc, với đúng cách mà Chúa muốn. Ở đây tôi nhớ lại những dụ ngôn Chúa dạy về sự phải tỉnh thức và sẵn sàng trong việc canh giữ vườn nho (Mt 24,42), về sự phải khôn ngoan và trung tín trong phục vụ (Mt 24,45-58), về sự phải biết lo toan chuẩn bị và dự phòng trong việc đối phó với những bất ngờ (Mt 25,1-13). Mến yêu tình yêu thương xót là phấn đấu nội tâm. Tôi biết, nhưng bao lần tôi đã thiếu sót. Càng phục vụ trong vườn nho Chúa, tôi càng hiểu thấm thía những lời thú nhận của thánh Phaolô xưa: “Tôi vẫn biết Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì, tôi cũng chẳng biết: Vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm... Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thực vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi cứ làm” (Rom 7,14-19). Cuộc phấn đấu nội tâm của thánh Phaolô xưa cũng đang là thời sự nơi những người được sai đi làm vườn nho Chúa. Trong những người đó có tôi. Sau cùng những cuộc phấn đấu như thế cũng là dịp để Chúa nhắc nhở tôi về sự phải khiêm nhường, phải cậy tin vào tình yêu thương xót Chúa và phải chuyên cần cầu nguyện. Cũng từ kinh nghiệm về những cuộc phấn đấu như vậy, tôi được Chúa huấn luyện, để biết khiêm tốn xót thương những người yếu đuối. Ở đây, tôi nhớ lại dụ ngôn người mắc nợ không có lòng thương xót. Anh mắc nợ rất nhiều, nhưng được chủ thương xót tha nợ cho. Khi trở về, anh gặp một kẻ mắc chút nợ với anh, anh đã nghiêm khắc đòi nợ và đối xử độc ác không chút thông cảm. Nghe tin đó, ông chủ đã nổi giận, bắt bỏ tù người mắc nợ đã được tha mà lại không biết tha cho kẻ khác. Chúa Giêsu kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Mến yêu tình yêu thương xót là chấp nhận đau khổ. Tình yêu thương xót là một dung mạo dễ thương. Nhưng cũng là một bộ mặt làm cớ cho nhiều người vấp phạm. Hồi xưa, khi thấy Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với những người khổ đau, nhiều người biệt phái đã không giấu được sự giận dữ. Đến nỗi Chúa Giêsu đã phải nói: “Hay vì thấy tôi đối xử thương xót, mà anh đâm ra ghen tức?” (Mt 20,15). Nhiều người thực sự càng căm giận đến độ khinh bỉ lòng thương xót Chúa, khi tình yêu thương xót Chúa bị đau khổ, được phơi bày trên nhục hình thánh giá. Lúc đó, tình yêu thương xót trong đau khổ vì yêu thương đi vào thinh lặng, như hạt lúa mì lặng lẽ rơi xuống đất, để được chôn vùi trong đất, với hy vọng có ngày trổ sinh ra cây, ra trái (Ga 12,24). Nếu ý Chúa là như vậy thì “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Chúa Giêsu đã đi trên con đường như thế, để cứu độ nhân loại. Các môn đệ Chúa cũng được gọi bước đi theo. Với niềm tin chắc chắn: Tình yêu thương xót sẽ thắng. Nhưng đừng quên: đó là tình yêu thương xót đã gặp gỡ đau khổ trong thinh lặng của thánh giá Chúa Kitô . (Để kỷ niệm lần thứ 27 ngày thụ phong Giám Mục 30-4-2002)
Năm nay, lễ Truyền Tin được dời vào ngày mồng 8 tháng 4 (8-4-2002). Trong ngày lễ Truyền tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm mẹ Đấng Cứu thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1,38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới,
một bài ca mới,
một con đường mới,
của con người mới. Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Isave (Lc 1,39-45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Isave. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác. Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng. Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn “Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1,46,55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ toả ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn. Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng. Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu tại hang đá Belem (Lc 2,1-7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Belem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa. Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng. Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ (Lc 1,35). Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí. Do đó, Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót. Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự. Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở. Thời sự hôm nay là Israel, quê hương của Đức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Đức Mẹ. Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không? Đoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay: “Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. “Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,1-5). Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Đó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác. Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng. Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi mân côi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới. Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam ta, và cho tất cả nhân loại.
Nhiều người đã nói: Nhà thờ giáo xứ là bộ mặt của giáo xứ. Bởi vì nhà thờ của giáo xứ là một công trình thường in vào tâm thức con người một hình ảnh nào đó. Hình ảnh ấy có sức gợi nhớ, gợi thương, gợi lên bao tình cảm, bao kỷ niệm của nơi chốn mình đã sống, hoặc mình đã đi qua. Riêng tôi, tôi còn muốn đặt nhà thờ của giáo xứ lên một địa vị cao hơn nữa. Tôi muốn gọi nhà thờ giáo xứ là trái tim của giáo xứ. Bởi vì dòng chảy sự sống thiêng liêng thường phát xuất từ nhà thờ, để đi vào các gia đình, đến tận nội tâm từng người trong giáo xứ. Hình ảnh bộ mặt giáo xứ, cũng như hình ảnh trái tim giáo xứ là những hình ảnh nói lên tâm tình kính trọng mến yêu đối với nhà thờ giáo xứ. Chính vì sự kính trọng mến yêu như thế, mà việc xây dựng nhà thờ giáo xứ cần phải được cân nhắc thực kỹ càng. Sự cân nhắc sẽ được gọi là thực sự kỹ càng, khi dựa trên ý Chúa. Ý Chúa rõ nhất ở đây là nhà thờ nhắm mục đích thờ phượng Chúa. Gọi là nhà thờ, vì nhà đó dành cho việc thờ Chúa. Mục đích là để thờ Chúa chứ không để làm việc nào khác. Thờ phượng Chúa, đó là mục đích chúng ta phải luôn nắm vững trong việc chọn lựa các phương án xây dựng nhà thờ. Tôi xin nêu lên vài gợi ý rút ra từ lời Chúa: “Đã đến giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thực” (Ga 4,23). Thờ phượng Chúa là tin vào sự hiện diện của Chúa, là lắng nghe Chúa, là cầu nguyện với Chúa. Nên nhà thờ phải được xây dựng thế nào, để tạo ra được một bầu khí linh thiêng, thinh lặng, giúp cho mọi người dễ hồi tâm, dễ cảm nghiệm được sâu sắc sự gặp gỡ Chúa. Thờ phượng Chúa là tìm kiếm sự tái sinh trong ơn được trở nên con Chúa. Nên nhà thờ phải được sắp xếp thế nào, để thánh giá, phép Thánh Thể và Lời Chúa được đề cao và nhận ra dễ dàng như những nguồn mạch tuôn chảy ơn đổi mới, giúp cho chúng ta dễ thành con của Chúa tình yêu. Thờ phượng Chúa là mến Chúa, gắn bó với Chúa, tuân phục ý Chúa. Nên nhà thờ phải được bố trí thế nào, để những người vào đó dễ tập trung thu hút vào một mình Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Thờ phượng Chúa là biết sống liên đới với mọi người trong tình bác ái. Nên nhà thờ phải được sử dụng cách nào, để mọi người vào đó đều cảm thấy mình được kính trọng yêu thương, được tham gia vào phụng vụ và đời sống cộng đoàn. Để từ đó họ ra đi dấn thân vào việc phục vụ gia đình và xã hội, làm chứng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ Thờ phượng Chúa là biết phấn đấu với ba thù, để giữ lòng trung tín với Chúa. Nên việc xây dựng nhà thờ phải được thực hiện thế nào, để mọi người, nhất là những kẻ bị ma quỉ và tội lỗi cầm buộc đón nhận được dễ dàng sức mạnh thiêng liêng từ nhà thờ, giúp họ đứng dậy và bước đi. Thờ phượng Chúa là biết nhìn Chúa đang hoạt động trong vũ trụ. Nên nhà thờ phải được xây cất thế nào, để môi trường cảnh vật, khoa học, kỹ thuật, văn hoá cũng được đóng góp vẻ đẹp của mình trong đó. Sau cùng thờ phượng Chúa là hiểu ý Chúa trong thực tế lịch sử. Nên nhà thờ phải được xây dựng thế nào, để thích hợp với thực tế tình hình kinh tế, dân số, xã hội của địa phương mình. Trên đây chỉ là vài gợi ý, nên được quan tâm, khi xây dựng nhà thờ giáo xứ. Chỉ vài gợi ý đó thôi cũng đã cho thấy việc xây dựng nhà thờ giáo xứ là chuyện không đơn giản chút nào. Phải nói là các kinh nghiệm xây dựng nhà thờ giáo xứ thường để lại cho những ai có trách nhiệm rất nhiều mệt mỏi, rất nhiều lao khổ. Nhất là trong hoàn cảnh giáo phận chúng ta là miền nông thôn. Với nông nghiệp, nông sản, những người nông dân đang sống trong nhiều giới hạn. Vì thế, mà những người có thiện chí xây dựng nhà thờ rất cần được nâng đỡ. Nâng đỡ về vật chất, nâng đỡ về tinh thần, nâng đỡ về mọi phương diện, mọi cách có thể. Cũng may là đồng bào chúng ta tuy nghèo của, nhưng vốn giàu lòng thương cảm. Rất nhiều tấm lòng đã tự nguyện giúp đỡ. Người gần, người xa. Người lương, người giáo. Người giàu, người nghèo. Xem ra ai cũng muốn được có phần trong một công trình, vừa có ích cho đạo, vừa có lợi cho đời. Tôi tin chắc là Chúa nhân lành sẽ thưởng công cho từng người có góp phần giúp đỡ. Phần thưởng đó sẽ quí giá, nhất là về phương diện phần rỗi đời đời. Một cách nào đó, khi chúng ta chân thành góp phần xây dựng nhà thờ vật chất, thì chính bản thân chúng ta lại được Chúa xây dựng thành những nhà thờ thiêng liêng. Những nhà thờ vô hình này sẽ là những trái tim đầy sự bình an, đầy tình bác ái, đầy niềm hy vọng. Ví có Chúa hiện diện và hoạt động trong đó. Với chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi thân ái cầu chúc việc xây dựng nhà thờ giáo xứ Ngọc Thạch luôn được Chúa thương chúc lành và phù trợ. Để công trình này từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.
Hiện nay, tại Việt Nam, ơn gọi linh mục và tu sĩ đang được quí trọng. Sự quí trọng này là một thói quen đạo đức thực quí giá. Nhưng nó cần được xây dựng và thanh luyện trên những nền tảng Phúc Âm. Mục đích nhắm vào là để các giáo sĩ và tu sĩ cũng như các giáo dân trở thành một thứ ánh sáng thiêng liêng giữa đêm tối mênh mông của cuộc đời hỗn độn. Trong mục đích đó, tôi xin chia sẻ một điều, mà tôi cho là quan trọng. Quan trọng vì Chúa Giêsu đòi hỏi. Quan trọng vì Hội Thánh mong chờ. Quan trọng vì xã hội đang đi tìm kiếm. Điều quan trọng đó là tính cách nhưng không. Chúa Giêsu đã dạy điều đó trong Phúc Âm. Mọi tín hữu, đặc biệt là các giáo sĩ và tu sĩ đang được mời gọi chiếu sáng điểm đạo đức đó một cách rộng rãi và sâu sắc hơn nữa trong thời buổi này. Trước hết, Chúa Giêsu dạy về tính cách nhưng không của tình Chúa ban tặng. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Chúa cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước. Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta. Người đã sai con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 3,16). Như thế, tình Chúa thương ta là một quà tặng nhưng không. Tính cách nhưng không này đã được thánh Phaolô đề cao hơn nữa, khi ngài quả quyết chúng ta không xứng đáng chút nào với tình Chúa thương ta. Ngài viết: “Bẩm sinh chúng ta là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên chúa, như những người khác. NhưngThiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dù chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được sống cùng với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ... “Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Chúa. Cũng không phải bởi các việc anh em đã làm. Để không ai có thể hãnh diện (Ep 2,3-9). “Anh em có gì mà đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, thì sao lại vơ vinh quang vào mình như đã không nhận lãnh” (1 Cor 4,7). Những lời Kinh Thánh trên đây là chân lý cứu độ. Chân lý này giải thoát chúng ta khỏi những sai lầm về nhận thức. Nhờ chân lý này, chúng ta sẽ biết đứng vào đúng chỗ của mình. Chỗ đó là khiêm nhường. Khiêm nhường là chỗ hợp lý dành cho ta. Tuy nhiên, sự hợp lý này vẫn thường bị tính xấu xác thịt chống lại. Vì thế, chúng ta cần phải chiến đấu thường xuyên với chính mình. Bằng cầu nguyện và tập luyện khắc kỷ. Để khiêm tốn trở thành nếp sống nhuần nhuyễn hiền lành và tế nhị, trong suy nghĩ, trong ước mơ, trong thái độ cử chỉ, trong lời nói việc làm, trong ứng xử tiếp xúc. Tôi nhấn mạnh đến phấn đấu với chính mình. Bởi vì trong mình ta thường có nhiều nhu cầu tìm được thoả mãn. Như nhu cầu được kính trọng, nhu cầu được yêu mến, nhu cầu được uy tín, nhu cầu được thành công, nhu cầu được hưởng thụ. Những nhu cầu như trên có khi kín đáo, có khi bộc lộ. Nhưng dù với hình thức nào, tất cả chúng đều sống động. Đôi khi chúng sống động một cách quá mạnh mẽ, đến mức đẩy nhiều người vào những mù quáng, rất sai Phúc Âm. Nhưng chính mình họ lại không nhận ra. Và dù có nhận ra, họ cũng không dễ sửa mình được. Bởi vì những nhu cầu quá khích đó đã trở thành hung thần giam giữ và khoá chặt con người họ vào xiềng xích ác độc của chúng. Phải rất khiêm nhường mới có thể đón nhận được ơn giải thoát. Riêng các người được ơn gọi làm giáo sĩ và tu sĩ, nếu không tỉnh thức và kiên trì phấn đấu với chính mình, sẽ không tránh được biến chất và cũng không tránh được số phận bị tính xấu giam cầm xiềng xích. Lúc đó, ơn Chúa ban cho nhưng không sẽ bị lạm dụng cách này hay cách khác. Rất mừng là không thiếu những người, dù trong phấn đấu đã có sa ngã, nhưng rồi mau chỗi dậy và tiếp tục bước đi. Những bước đi của họ là những đáp lại ơn nhưng không mình đã lãnh nhận. Họ đáp lại bằng cách cố gắng dùng ơn Chúa vào những việc thực sự đúng là ý Chúa muốn. Chúa phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,221). Ý Chúa rõ nhất là làm tốt bổn phận. Bổn phận rõ nhất là thực thi điều răn mới của Chúa, tức điều răn yêu thương (Ga 14,24). Ý Chúa còn là cách cho đi nhưng không. Chúa dạy: “Chúng con đã lãnh nhận nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không” (Mt 10,8). Ý Chúa trên đây xem ra là một yêu cầu không dễ đón nhận. Nhưng trên thực tế, nhiều người đã đón nhận và đã thực hiện một cách tốt đẹp. Cụ thể là trong việc phục vụ nhưng không những người nghèo, theo tinh thần lời khuyên sau đây của Chúa nói với người đã mời Ngài dùng bữa: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lại. Và như thế, ông mới thực có phúc. Và ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc 14,12-14). Hơn nữa, ý Chúa còn là tha thứ nhưng không. Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác. Trái lại, nếu anh em bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện, để đòi lấy áo trong của anh em, thì hãy để cho nó lấy luôn áo ngoài. Nếu có người bắt anh em đi một dặm, thì hãy đi với người đó hai dặm” (Mt 5,38-41). Những lời khuyên trên đây về tính cách nhưng không được coi là rất lý tưởng. Nó cần được giải thích đúng tinh thần Chúa muốn dạy. Dù hiểu cách nào, thì đây cũng là một ý Chúa về bác ái vượt xa động cơ liên đới bình thường. Đã có những người thực thi ý Chúa trong lãnh vực này một cách anh hùng, ở sự hoàn toàn từ bỏ mình, hết lòng tha thứ với tình thương nhận được từ trái tim Đấng cứu độ. Tính cách nhưng không trong phục vụ, trong cho đi, trong tha thứ, trong tự hạ, hiện nay đang xuất hiện ở nhiều người, tại nhiều nơi, trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Bề ngoài, nhiều khi tính cách nhưng không bị coi như chọn lựa yếu. Nhưng chính những chọn lựa coi như yếu đó lại là những việc lành phúc đức đẹp lòng Chúa, có khả năng góp phần vào công trình cứu độ của Chúa. Có thể coi những người lựa chọn như thế là những ngọn đèn trong đêm. Được hỏi tại sao họ sống được như vậy, thì họ trả lời là do một tiếng gọi từ nội tâm. Tiếng gọi đó thiêng liêng, vừa gọi họ phục vụ những kẻ khốn cùng một cách nhưng không, vừa gọi họ tìm về một Đấng trên cao đang thương họ một cách nhưng không. Tôi đã có dịp gặp những nhóm nhỏ như vậy. Họ sống giữa đời. Không là linh mục, không là tu sĩ, họ chỉ là những người dân thường. Họ sinh sống bình thường, nhưng rất khác thường về tính chất nhưng không và âm thầm trong phục vụ. Tiếp xúc với họ, tôi có cảm tưởng là hiện nay Chúa đang mở ra những con đường mới về ơn thiên triệu. Và tôi tin là Chúa cũng muốn dùng những nhóm nhỏ này, để nhắc nhở tôi và các giáo sĩ tu sĩ hãy đề cao tính cách nhưng không như một dấu chỉ thời đại để làm chứng cho Nước Trời giữa xã hội hôm nay.
Chúng ta đến tham dự thánh lễ hôm nay, để thờ phượng Chúa, để tạ ơn Chúa, để nghe Lời Chúa và để xin ơn tuân phục ý Chúa. Riêng tôi, với những tâm tình đó, tôi nghe Chúa nhắc lại những lời này: “Thật, Thầy bảo thật anh em. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Những lời đó, Chúa nói cho tất cả mọi người chúng ta. Nhưng hôm nay, Chúa gởi riêng cho Cha Piô nguyên Cha Sở nhà thờ Chánh Toà và tôi. Bởi vì hôm nay Cha Piô và tôi đang được cộng đoàn nhớ tới một cách đặc biệt. Cha Piô mừng 50 năm thụ phong linh mục. Còn tôi kỷ niệm lần 27 thụ phong Giám mục. Chúa nói về những hạt lúa. Thực vậy, hai chúng tôi chỉ là những hạt lúa bình thường. Những hạt lúa này gốc từ miền Bắc. Nhưng đã được Chúa gieo vào đất miền Nam, cụ thể là đất Long Xuyên thân yêu này. Dù có những khác biệt, những hạt lúa này đã được đất Long Xuyên đón nhận và yêu thương. Từ đó, chúng tôi được cùng chia sẻ tất cả những gì xảy ra cho địa phương thân thiết này. Kết quả là hôm nay, chúng tôi đang được tham gia vào mùa màng thiêng liêng tốt đẹp ở đây. Mùa màng thiêng liêng nói đây là cảnh sống đạo và truyền giáo. Mùa màng này được coi là khá tốt đẹp. Nhờ đâu mà được tốt đẹp? Câu trả lời được tìm thấy nơi Lời Chúa trên đây: “Nếu hạt lúa rơi xuống đất có chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Theo lời Chúa chỉ dẫn, tôi hiểu nhân tố đã làm cho mùa được tốt, chính là sự chết đi của các hạt lúa thiêng liêng. Trong cánh đồng Long Xuyên này, các hạt lúa thiêng liêng trước tiên là những người tín hữu tốt đã sống ở đây trước chúng ta. Đặc biệt là hai thánh tử đạo Emmanuel Lê Văn Phụng và Phêrô Đoàn Công Quí. Các vị thánh này, cũng như những ông bà cha mẹ bà con của chúng ta và các người quá cố đã là những hạt giống tốt. Họ đã chết đi trong lòng đất này. Vì là những hạt giống tốt, nên các hạt giống ấy, khi chết rồi, đã trổ sinh ra rất nhiều hạt lúa khác. Họ đang làm nên một cánh đồng lúa thiêng liêng, cho từng gia đình, cho từng họ đạo, cho toàn giáo phận. Tiếp nối các vị đi trước là chúng ta, trong đó có những người cao tuổi mang trách nhiệm nặng, như Đức Cha Già, Cha Piô và tôi. Chúng ta tất cả, từ các giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, cho đến những người thiện chí vô danh đều cũng là những hạt lúa đang được gieo vào địa phương này. Nếu lấy đức tin mà nhìn, tôi thấy tất cả chúng ta đang tích cực thông công vào sự chết của Chúa Giêsu và của những vị tiền bối. Sự chết đi nói đây đang thực hiện nhiều cách khác nhau, dưới nhiều dạng khác nhau. Như chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho ý riêng. Nói vắn gọn, chết đi là chết cho con người cũ. Và còn hơn nữa, chết đi là chấp nhận những hy sinh. Những hy sinh bình thường như những nhọc nhằn, khổ sở, vất vả, bệnh tật, yếu đuối. Những hy sinh khác thường như những biến cố xảy ra cho ta gây nên mất mát đau đớn thể xác và tinh thần. Những chết đi của chúng ta, tự nó, chẳng có mấy giá trị. Nhưng khi chúng được đặt vào thánh giá Chúa Giêsu, chúng sẽ trổ sinh ra hoa trái thiêng liêng tốt đẹp. Đặt vào thánh giá Chúa Giêsu là gắn bó tâm tình chúng ta vào sự thương khó Chúa Giêsu. Lúc đó, tất cả những cái chết của chúng ta trở thành tình yêu và mang ý nghĩa vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chính vì thế mà những cái chết thiêng liêng đó có sức đào sâu lòng ta, và mở rộng lòng ta, để đón nhận được dồi dào ơn phục sinh, cho mình và cho những người khác. Nói là đón nhận ơn phục sinh, nhưng thực ra chúng ta đón nhận chính Chúa Giêsu phục sinh vào trong ta. Chúa ở trong chúng ta. Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa: “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh được nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Trong suốt những tháng năm phục vụ ở đất Long Xuyên này, Cha Piô và tôi đã cùng với cộng đoàn đi theo con đường, mà những Lời Chúa trên đây đã vạch ra. Nếu nói về những hoa trái cảm nghiệm được do hành trình trên con đường này mang lại, tôi phải kể đến sự hoà hợp. Chúng ta đã sống hoà hợp trong nội bộ chúng ta với nhau. Chúng ta đã sống hoà hợp với các tôn giáo bạn. Chúng ta đã sống hoà hợp với các giới đồng bào trong xã hội chúng ta. Sự hoà hợp sâu rộng đã tạo ra bầu khí liên đới và hợp tác chân thành. Trong bầu khí tâm linh quí báu này, chúng ta và đồng bào địa phương luôn sát cánh bên nhau bước về phía trước. Đừng bao giờ bước về phía sau, nhưng luôn bước về phía trước, đó là điều Chúa kêu gọi chúng ta. Bước về phía trước với ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Một thứ ánh sáng cho chúng ta sự khôn ngoan để có những sáng tạo mới, những dấn thân mới, những cách sống mới, những hy sinh mới, nhờ đó, chúng ta rao giảng và làm chứng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,9). Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau. Xin Chúa thương cho mỗi người chúng ta trở thành hạt giống tốt, như ý Chúa muốn. Hội Thánh ta, Đất Nước ta đang rất cần những hạt giống thiêng liêng tốt, rất tốt, thực sự tốt. Khi là những hạt giống tốt, chúng ta sẽ là hy vọng cho Hội Thánh và Đất Nước chúng ta, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù hoàn cảnh đó là những thử thách nặng nề. Bởi vì chúng ta là những hạt lúa được chết đi trong cái chết hiến dâng của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Đó là vinh dự và là hân hoan của chúng ta.
Nhờ Chúa Thánh Thần hiện xuống, các thánh tông đồ được ơn đổi mới. Với sự đổi mới bản thân, các ngài đã ra đi đổi mới những người có liên hệ. Dần dần sự đổi mới lan ra rộng khắp. Có ngày từng ngàn người đã xin theo đạo Chúa. Có nơi, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng chục cộng đoàn Kitô hữu đã được thiết lập. Bầu khí ca tụng Chúa hoà vào làn khí yêu thương nhau. Đời sống nội tâm sâu sắc toả chiếu tình huynh đệ nồng nàn. Sự đổi mới đó tạo nên những cái nhìn mới, những suy nghĩ mới, những đánh giá mới, những hoạt động mới. Như thể đang hình thành một trời mới đất mới, đầy thanh bình và tràn trề hy vọng. Hồi đó là như vậy. Còn nay thì sao? Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ còn là một lễ tưởng niệm, hay vẫn là một thời sự sống động đang tiếp nối sự kiện xưa kia? Tôi không có thẩm quyền nói về tình hình chung Hội Thánh. Nhưng tôi biết chắc Chúa Thánh Thần vẫn đang thực hiện sự đổi mới trong rất nhiều người, nhiều nơi, tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Đổi mới không ồn ào, nhưng âm thầm. Âm thầm mà hữu hiệu. Hữu hiệu ở chỗ Chúa Thánh Thần cùng đồng hành với những người mà Ngài đổi mới, để làm nên nhiều nhóm nhỏ cầu nguyện và từ thiện, chuyển tải tình thương đến cho nhiều tâm hồn, để họ dần dần có thể tiếp cận với “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tim 2,4). Ở đây, tôi xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm về sự kiện đó. Trước một tình hình đời đạo phức tạp, có một số người ngỏ ý với nhau muốn góp phần trong việc cứu độ. Nhưng góp phần cứu độ cách nào, sao cho đúng ý Chúa. Với lòng khát khao khiêm tốn, họ cầu nguyện. Cầu nguyện rất nhiều. Dần dần họ được Chúa Thánh Thần đưa tới Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Tiếp xúc với Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, họ nhận thấy có nhiều cách góp phần trong việc cứu độ. Nhưng họ được thu hút mạnh vào dung mạo “người đầy tớ trung tín và khôn ngoan”. Chính Chúa Giêsu đã nêu lên dung mạo đó khá nhiều lần, nhất là trong Phúc Âm thánh Matthêu (25,45-51), và trong Phúc Âm thánh Luca (12,41-48). Càng cầu nguyện, suy gẫm và càng chia sẻ, họ càng thấy người đầy tớ trung tín và khôn ngoan là loại người thích hợp nhất để phục vụ Hội Thánh Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. NGƯỜI ĐẦY TỚ Người đầy tớ là người khiêm tốn, biết chăm chú lắng nghe ý chủ, vâng phục chủ, phục vụ chu đáo và tận tình thực thi ý chủ. Người đầy tớ đích thực bao giờ cũng quên mình, như lời Chúa Giêsu dạy: “Khi đã làm tất cả những gì phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc bổn phận mà thôi” (Lc 17,10). Đức Mẹ đã nêu gương đó, khi khiêm tốn xưng mình là nữ tỳ, xin vâng. Chính Chúa Giêsu cũng đã sống như vậy. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Ngài còn hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chết trên thập giá” (Phil 2,6-8). Chính Chúa Giêsu đã dạy: “Ai làm lớn trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất. Và kẻ đứng đầu thì phải nên như người đầy tớ hầu hạ” (Lc 22,26) Vâng ý Chúa, đó là thao thức thường xuyên của người môn đệ Chúa. TRUNG TÍN Trước hết, ý Chúa là hãy sống trung tín với bổn phận người môn đệ Đức Kitô. “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa và chầu Mình Thánh Chúa, họ khám phá ra những gì ghê tởm xấu xa nơi chính mình cần phải từ bỏ. Đó là những tội lỗi. Không những tội lỗi mà còn là những thói quen xấu, như hay kêu ca trách móc, thích khoe khoang tự phụ, khinh chê kết án người khác, ham tìm danh vọng, lười suy gẫm cầu nguyện, hồi tâm vv... Cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa và chầu Mình Thánh, họ khám phá ra những gì là cụ thể của thập giá, mà mình có bổn phận phải vác, như các chi tiết thuộc trách nhiệm của mình. Thí dụ trách nhiệm phấn đấu với chính mình để phát triển các ơn Chúa ban, như người đầy tớ làm lời những nén bạc được trao. Trách nhiệm phấn đấu với chính mình để phục vụ tốt gia đình, xã hội và Hội Thánh bằng những việc có chất lượng cao nhất theo như Chúa muốn. Trách nhiệm phấn đấu với chính mình để biết sống trong cộng đoàn một cách hoà hợp, tươi vui và xây dựng. Cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa và chầu Mình Thánh Chúa, họ khám phá ra con đường theo Chúa trong cụ thể cuộc sống hằng ngày. Con đường đó là thường xuyên tỉnh thức giữ lòng mình kết hợp với Chúa một cách chặt chẽ thân mật, như cành nho với thân cây nho. Con đường đó cũng là thường xuyên chấp nhận nhọc nhằn vất vả, để mình trở nên hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu thối đi, hầu được cùng với Chúa Giêsu trở thành của lễ hiến dâng có sức cứu độ. KHÔN NGOAN Ngoài ra ý Chúa là sống khôn ngoan. Một sự khôn ngoan của Thánh Thần là biết phân định, để chọn những gì Chúa muốn mình chọn, hầu làm rạng danh Chúa một cách thích hợp nhất trong những hoàn cảnh cụ thể. Như làm hết sức mình, để chọn đúng người, đúng việc, đúng vấn đề, đúng lời và đúng lúc. Như cố gắng quan sát, theo dõi các dấu chỉ của thời thế, để tiên liệu, đề phòng, dự báo. Tất cả vì mục đích dọn đường cho Chúa đến. Đó là khôn ngoan mà Chúa muốn. Trong các thứ khôn ngoan, thiết tưởng khôn ngoan của thánh giá phải được coi là quí báu nhất. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã chọn con đường thánh giá, như Chúa Cha đã chọn cho Ngài. “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Thực vậy, Chúa Giêsu đến để thực thi ý Chúa Cha. Ý đó là dâng hiến chính mình làm của lễ trong đau khổ của thánh giá. Mục đích để làm chứng Thiên Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót. Bằng cuộc sống của người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, môn đệ Đức Kitô sẽ càng ngày càng được ơn khám phá ra tình yêu thương xót Chúa. Từ đó, họ ra đi, tìm đến những đối tượng đau khổ, nghèo đói, bị bỏ rơi, bị lún sâu vào cảnh khốn cùng. Họ chỉ làm được những việc cứu độ nho nhỏ, nhưng với tình yêu lớn và đem lại niềm hy vọng thực. Những bước họ đi đều âm thầm, nhưng toả sáng niềm tin yêu. Bởi vì Chúa ở trong họ. Chúa đồng hành với họ. Họ nhỏ bé vô danh, nhưng họ đang cùng Chúa đổi mới tình hình từ thẳm sâu các tâm hồn. Nhìn họ, tôi có cảm tưởng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chính hôm nay, tại đây. Tuy với một hình thức khác, nhưng sự đổi mới của Chúa Thánh Thần vẫn sống động mạnh mẽ, sâu xa đang và sẽ làm nên những bất ngờ trong lịch sử cứu độ.
Đối với phần đông chúng ta, Thiên Chúa Ba Ngôi là một Đấng xem ra rất gần, mà lại rất xa. Xem ra rất gần, bởi vì chúng ta được nghe Hội Thánh tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi khắp mọi chặng đường đời ta. Từ phép Rửa tội, dần dần tới các bí tích khác, cho tới phép Xức dầu, Hội Thánh trao ban cho chúng ta nhiều ơn. Lần nào trao ban, Hội Thánh cũng nói: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Rồi, xem ra rất gần, bởi vì chính chúng ta cũng tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi hầu như thường xuyên. Mỗi ngày, bao lần chúng ta làm dấu thánh giá. Vừa làm dấu thánh giá, vừa tôn vinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân côi, sau mười kinh Kính Mừng, chúng ta lại tôn vinh: “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”. Rồi xem ra rất gần, bởi vì ngoài những tôn vinh vừa kể, chúng ta còn học về Thiên Chúa Ba Ngôi, qua giáo lý, Kinh Thánh, thần học, tu đức. Thế nhưng, Thiên Chúa Ba Ngôi, coi như rất gần ta như thế, mà lại thấy rất xa. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vô cùng cao cả, vô cùng sâu thẳm. Bao nhiêu cắt nghĩa, bao nhiêu bài giảng, bao nhiêu cuốn sách về Ngài, tất cả đều mang những giới hạn. Nếu chẳng may ta lại học về Ngài chỉ để làm giàu trí thức, thì Ngài vẫn mãi xa ta. Hơn nữa, ngay khi tôn vinh Ngài bằng kinh nguyện, nếu chúng ta làm chỉ vì thói quen, miễn sao đúng hình thức, kiểu thuộc lòng, thì chúng ta cũng vẫn mãi xa Ngài. Sự thực là thế. Nhưng không bế tắc. Bởi vì có một con đường đưa chúng ta gần lại với Chúa Ba Ngôi. Con đường đó là: Từng bước được tham dự vào sự sống Chúa Ba Ngôi. Nói một cách khác, con đường đó là: Sống với Chúa Ba Ngôi, được Ngài soi dẫn. Được sống với Chúa Ba Ngôi và được Ngài hướng dẫn, những sự kiện đó không là thành quả của những thứ thông minh trí thức, hay của những thứ công phu khéo léo của con người. Nhưng đây là ơn Chúa thương ban. Ơn này thường được ban cho những tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ, bé mọn. Đọc Kinh Thánh thì thấy: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Kitô hoan hỉ vui mừng nói: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Chúa mạc khải về chính Ngài cho những tâm hồn bé mọn, bằng cách lôi cuốn họ. Bắt đầu họ được dắt tới gần Chúa, rồi tới thánh ý Chúa, rồi từ từ vào chính sự sống Chúa. Chính Chúa dắt đưa họ. Như Kinh Thánh đã chép: “Không ai đến được với Thầy (là Chúa Giêsu), nếu Chúa Cha không lôi kéo họ” (Ga 6,44). “Nếu không có Chúa Thánh Thần giúp, không ai sẽ có thể nói: Đức Giêsu là Chúa” (1 Cor 12,3). Khi những kẻ bé mọn được Chúa dẫn đưa, và khi họ ngoan ngoãn dồn hết sức mình để vâng phục ý Chúa, họ sẽ được nếm hương vị ngọt ngào của sự Chúa hiện diện. Sự thưởng thức này giúp họ hiểu biết Chúa một cách sống động, hơn muôn ngàn lần những dòng chữ họ học về Chúa. Họ cảm nghiệm được tình thương xót Chúa. Có thể họ không phân biệt được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhưng họ cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi. Lúc đó họ gọi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8) một cách hồn nhiên. Ba Ngôi đều cùng chung một bản tính. Bản tính đó là tình yêu. Đối với người mộc mạc như họ thế là đủ. Thế là dễ hiểu. Thế là hấp dẫn. Tình yêu Chúa hướng dẫn họ. Nhờ đó họ khám phá ra những việc nên làm, thích hợp với những mảng lịch sử, mà họ đang sống, để dọn đường cho Nước Trời. Thí dụ: Một việc thích hợp với lịch sử tại đây lúc này đang gây được nhiều ảnh hưởng tốt cho mục vụ và truyền giáo, đó là việc từ thiện bác ái. Thương cứu người bằng việc làm, mà làm một cách nhưng không, như người Samaria tốt lành Chúa nói trong Phúc Âm (Lc 10,37). Với những việc bác ái như vậy, họ làm chứng Chúa là động cơ đã thúc đẩy họ làm. Dần dần nhiều người có thể sẽ tìm đến Chúa nhờ những chứng nhân như thế. Một thí dụ nữa: Trong lịch sử tại đây lúc này, những nhóm nhỏ trở lại, cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, đi gieo vãi hạt giống hiệp nhất yêu thương, cũng đang là những nhân tố thích hợp cho việc phát triển mục vụ và truyền giáo. Họ họp nhau nhân danh Chúa. Nên Chúa giữ lời đã hứa: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Nhờ vậy, những nhóm nhỏ này đang âm thầm kéo được nhiều cơn mưa ơn thánh xuống cho cánh đồng truyền giáo và mục vụ. Qua những kinh nghiệm như trên, tôi nhìn những chứng nhân về Chúa một cách thời sự hơn. Nghĩa là: Qua sự kiện tâm hồn họ được thường xuyên đổi mới, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang sống trong họ. Qua những thao thức của họ về Nước Trời và tinh thần cầu nguyện, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang sai họ ra khơi thả lưới cho việc truyền giáo. Qua tinh thần tỉnh thức và phân định, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang hướng dẫn họ làm việc nọ việc kia, mà họ cho là thích hợp với nhu cầu lịch sử tại đây lúc này. Với tính cách thời sự như vậy, người làm chứng về Chúa sẽ có thể nói một cách thành thực như thế này: “Việc đó việc kia thì người ấy người nọ làm được, vì họ có khả năng. Chúa muốn họ làm. Còn tôi thì không làm được. Tôi không có khả năng, và Chúa cũng không muốn tôi làm. Tôi hết tình khen ngợi những người được Chúa chọn. Xin tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa. “Còn việc này việc nọ, thì tôi có thể làm và phải làm. Tôi xác tín ý Chúa muốn như vậy. Xin phó thác tất cả nơi Chúa với tâm tình khát khao góp phần vào việc làm vinh danh Chúa”. Thiết tưởng hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam đang cần những chứng nhân rất sát với thực tế và rất trung thành với Chúa là chủ lịch sử. Làm chứng không phải về một Thiên Chúa đã hoạt động trong quá khứ qua rồi. Mà làm chứng về một Thiên Chúa trong hiện tại. Ngài đang sống, đang hoạt động giữa chúng ta. Chúng ta là một số vô vàn đông đảo, với nhiều khác biệt, trong những mảnh lịch sử khác nhau. Làm chứng về một Thiên Chúa đang sáng tạo sự hiệp nhất, một Thiên Chúa đang cứu độ, một Thiên Chúa đang thánh hoá, một Thiên Chúa có quyền năng đang đổi sự dữ ra sự lành, một Thiên Chúa phục sinh đang chiến thắng những lực lượng sự ác, một Thiên Chúa thương xót và khôn ngoan đang âm thầm biến đổi từng tâm hồn. Thiên Chúa hôm nay tại đây vẫn được minh chứng là Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót. Chúng ta bập bẹ gọi Ngài như thế, còn Ngài và tình yêu của Ngài vẫn là mầu nhiệm. Những chứng nhân của Chúa Ba Ngôi tại đây hôm nay phải là: Những hạt lúa rơi xuống đất và phải thối đi, để có thể sinh được nhiều hạt lúa khác (Ga 12,24). Thối đi là hy sinh bỏ đi các tư tưởng hẹp hòi vội vã, các phán đoán nông nổi do thiên kiến, các tâm tư mất trật tự, cái tôi bị xiềng xích vào tự đắc. Lúc đó tâm hồn được hoàn toàn tự do, thanh thản bay theo hướng Chúa chỉ dẫn. Hướng đó là đổi mới, bắt đầu từ chính bản thân người làm chứng. Đổi mới hằng ngày, đổi mới nhờ Thánh Thần chân lý, để càng ngày họ càng xứng là người con của Thiên Chúa tình yêu, càng ngày họ càng nên như bài ca mới “Sáng danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.
Giáo xứ Bò-ót là một giáo điểm quan trọng. Quan trọng vì có dân số đông. Quan trọng vì có một quá khứ tham gia tích cực vào lịch sử đạo đời. Quan trọng vì có một ví trí thuận lợi cho những giao lưu giữa nhiều tỉnh thành, giáo phận và giáo xứ. Chính vì thế mà từ trước tới giờ tôi vẫn đặt nơi giáo xứ Bò-ót này nhiều hy vọng. Như hy vọng giáo xứ có thêm nhiều giáo dân nhiệt thành gương mẫu trong việc sống đạo và truyền đạo. Hy vọng giáo xứ có thêm được nhiều phát triển về kinh tế và văn hoá. Hy vọng giáo xứ đào tạo thêm được nhiều nhân sự có khả năng phục vụ công ích trong các lãnh vực xã hội. Hy vọng giáo xứ xây dựng được một nhà thờ mới, thay thế nhà thờ này đang xuống cấp. Những hy vọng của tôi trên đây thiết tưởng cũng chính là những mong muốn thiết tha của Cha Sở, của các vị cộng tác và của tất cả cộng đoàn. Hơn nữa, giáo xứ cũng đã cố gắng hết sức mình, để đưa những mong muốn chính đáng đó thành hiện thực. Kết quả đã bắt đầu nhận ra được phần nào. Phần nào thôi cũng là đáng mừng và đáng tạ ơn Chúa. Trong niềm vui đó, hôm nay tôi xin nhắn nhủ anh chị em một điều. Một điều vắn tắt thôi. Nhắn nhủ đó là: Anh chị em hãy xây dựng đời mình cho thực tốt, cho thực đẹp, cho thực xứng đáng là một công trình làm sáng danh Chúa. Thế nào là cuộc đời thực tốt, thực đẹp, thực xứng đáng là một công trình làm sáng danh Chúa? Để dễ hiểu, trước hết tôi xin đưa ra vài hình ảnh bình dân. Thí dụ: Có những cuộc đời được xây dựng khá tốt, đến nỗi những người hiểu biết đã ví những cuộc đời đó như những căn nhà đẹp, như những vườn hoa thơm, như những giếng nước ngọt, như những cuốn sách hay. Những cuộc đời như thế được đánh giá là có giá trị. Để hiểu thêm, tôi xin đưa ra vài mô hình được ghi trong Phúc Âm. Thí dụ mô hình người đầy tớ trung tín và khôn ngoan (Mt 25,45-47), mô hình người quản lý khôn khéo biết lợi dụng những nén bạc trao cho để sinh lời (Mt 25,14-23), mô hình người trinh nữ khôn ngoan (Mt 25,1-13), mô hình người bác ái sẽ được xếp bên hữu Chúa Giêsu trong ngày phán xét chung (Mt 25,31-40). Ai xây dựng cuộc đời mình theo những mô hình Phúc Âm như thế, sẽ được đánh giá là những người xây dựng tốt. Một trong những điều quan trọng để ta xây dựng đời ta nên tốt, đó là chính ta phải khao khát điều đó. Phải khao khát, phải thao thức, phải nung nấu ước vọng tốt lành đó. Nếu ta dửng dưng nguội lạnh thì không ai xây dựng thay cho ta được. Đồng thời, ta phải chọn một hướng sống. Đừng để đời mình trôi nổi, tới đâu thì tới, gặp đâu theo đó. Ở đây, tôi xin nhắc lại một lời khuyên của thánh Phaolô. Lời khuyên này nên được ta ghi nhận như một chỉ dẫn quí giá: “Anh chị em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh chị em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,4). Anh chị em thừa biết: Đời này có nhiều thói tốt, mà cũng có nhiều thói xấu. Có những thói xấu cũ và cũng có những thói xấu mới. Đã là xấu, thì xin đừng bắt chước, xin đừng chạy theo. Một khi đã đi vào những thói xấu, dù cũ dù mới, người ta sẽ làm hại đời mình. Thay vì xây dựng đời mình, người ta sẽ phá hoại nó và những gì xung quanh. Hại cho mình đời này và nhất là hại cho mình đời sau. Một trong những thói xấu thường thấy là quá lo lắng đổi mới bề ngoài của mình, còn đổi mới bên trong tâm hồn thì không quan tâm. Thánh Phaolô lưu ý chúng ta đến một sự đổi mới tâm hồn thực sự sâu xa, đến nỗi “tâm hồn có thể nhận ra đâu là ý Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo”. Nhiều khi, ghé qua đây đột xuất, tôi thấy có những nhóm cầu nguyện, những nhóm học hỏi Lời Chúa, những nhóm làm việc từ thiện, những nhóm học chữ, những nhóm học nghề... Thấy vậy, lòng tôi rất vui. Tôi coi những hoạt động đó là những thiện chí xây dựng cuộc đời. Nhất là khi nghe giáo xứ thường xuyên có số người đi lễ rất đông, thường xuyên có những lớp giáo lý, có những phong trào đạo đức tự nguyện chầu Thánh Thể hằng ngày, lần chuỗi kính Đức Mẹ hằng ngày, cầu nguyện Chúa Thánh Linh hằng ngày, tôi rất phấn khởi và tin tưởng. Bởi vì nhờ những việc đạo đức như vậy, mà ơn đổi mới tâm hồn sẽ được ban xuống trong gia đình, xóm ngõ và giáo xứ. Ơn đổi mới sẽ làm nên một bình minh cho việc xây dựng cuộc đời. Một cuộc đời cho dù âm thầm, nhưng đầy lửa mến Chúa yêu người. Xây dựng cuộc đời và đổi mới tâm hồn là hai việc đi đôi với nhau. Ngay từ bây giờ, chúng ta nhận thức sự thực đó như là ý Chúa. Tình hình có nhiều khó khăn, có nhiều cạm bẫy, có nhiều cám dỗ. Nên chúng ta hãy cầu xin thực nhiều cho thánh ý đó thấm sâu vào lòng con em chúng ta. Để càng đi vào đời, con em chúng ta càng biết xây dựng đời mình và đổi mới đời mình một cách luôn tốt đẹp. Thiết tưởng đó là hy vọng, là ước mơ và cũng là lời cầu hằng ngày của chúng ta.
Nhiều tượng ảnh Chúa Giêsu đã gây ấn tượng. Nhất là tượng ảnh Trái Tim Chúa. Tay Người chỉ vào trái tim Người bị lưỡi đòng đâm sâu, và từ vết thương đó có máu và nước chảy ra. Đôi khi nhìn ngắm cảnh tượng thương đau đó, tôi thầm nghĩ: Nếu lúc ấy, Đức Mẹ Maria, thánh Gioan và mấy bà đạo đức hiện diện đã lấy khăn thấm những giọt máu và nước quí báu đó, thì hay biết mấy. Khăn đó sẽ được trối lại qua các thời đại cho tới bây giờ. Nhờ khăn đó, chắc chắn vô vàn người sẽ nhớ đến Chúa, sẽ biết Chúa, sẽ tin theo Chúa. Ý tưởng của tôi là rất chân thành. Nhưng không lâu, trong thinh lặng, tôi nghe từ thẳm sâu tâm hồn một Lời Chúa quen thuộc: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,20). Lời Chúa trên đây, tôi đã đọc nhiều lần trong Phúc Âm. Tôi cũng đọc hằng ngày trong thánh lễ. Với lời đó, Chúa dần dần dạy tôi về ý Chúa. Ý Chúa muốn các môn đệ Chúa không những nhớ đến Chúa, mà còn hãy góp phần vào việc cứu độ. Để được như vậy, các môn đệ Chúa cần nghĩ xa hơn việc giữ những kỷ vật thánh, lễ nghi thánh, và dâng lễ thánh. Nghĩ xa hơn, có nghĩa là hãy cùng với Chúa Giêsu làm việc cứu độ. Người đã làm việc nào, thì chúng ta cũng làm việc đó. Người đã hiến tế chính mình Người, thì chúng ta cũng hiến tế chính mình chúng ta. Một ơn gọi Từ cảm nghĩ đó, tôi nhận ra ơn gọi của người môn đệ Chúa Giêsu. Ơn gọi này không phải chỉ là truyền bá Tin Mừng, quy tụ dân Chúa, thông báo ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể, mà còn là hiến tế chính mình trong cuộc đời. Hiến tế bằng tình yêu và hy sinh. Cho dù một cách nào đó, người môn đệ Chúa sẽ phải chịu đóng đinh vào thánh giá, phải chịu cho trái tim mình bị đâm, để những giọt máu và nước sau cùng trong đó cũng đành đổ hết ra. Nhận ra ơn gọi như thế, chúng ta sẽ thấy trước mắt nhiều đòi hỏi về hiến tế chính mình. Nhưng, nếu cần phải chọn một điểm quan trọng, để mà tập trung hiến tế, chúng ta có thể chọn trái tim mình. Trái tim sẽ là của lễ hiến tế quí giá bậc nhất. Trái tim sẽ là bàn thờ đẹp nhất để hiến tế. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu, khi giới thiệu mình, cũng đã chỉ vào trái tim mình, mà nói: “Hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong trái tim” (Mt 11,28). Trong nhiều lần hiện ra, Chúa Giêsu cũng đã để lộ trái tim mình trước ngực. Một trái tim bị thương tích, một trái tim quấn vòng gai, một trái tim bốc cháy. Để qua hình ảnh trái tim đó, nhân loại hiểu: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ngài hiến tế mình, vì vâng phục Chúa Cha và vì yêu loài người. Trái tim là biểu tượng tình yêu. Trái tim là nơi chứa đựng tình yêu. Tới đây, câu hỏi cần đặt ra sẽ là: Phải huấn luyện trái tim ta thế nào, để nó trở thành trái tim hiến tế? Thú thực là tôi không có một giáo án nào về vấn đề này. Hơn nữa những điều tôi biết về vấn đề này cũng chưa bao giờ được sắp xếp thành hệ thống. Ở đây, tôi chỉ xin mạo muội chia sẻ vài kinh nghiệm. Kinh nghiệm thứ nhất là chúng ta đến với Chúa. Này con xin đến với Chúa Đến với Chúa Giêsu, trước hết là đến với Lời Chúa. Từ Kinh Thánh, Chúa luôn gọi ta. Thánh Kinh ghi lại rất nhiều lời nói về sự Chúa xót thương và chấp nhận hy sinh để cứu độ nhân loại. Chỉ riêng Phúc Âm thánh Gioan cũng đã là một kho tàng. Chúa gọi chúng ta đến kho tàng Kinh Thánh. Chúng ta xin đến. Đến để đọc Lời Chúa, để gẫm suy, để cảm tạ, để nguyện cầu. Khi chúng ta trung thành với việc đến với Lời Chúa như vậy, chúng ta sẽ cộng tác với Chúa trong việc huấn luyện đào tạo trái tim ta. Dần dần trái tim ta trở nên khiêm nhường hơn, bác ái hơn, nhiệt thành hơn, sẵn sàng dấn thân hơn. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được ý Chúa. Ý Chúa là hãy thực thi những gì Chúa muốn. “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,7). Ngoài ra, đến với Chúa là đến với Mình Thánh Chúa. Khi rước Mình Thánh, chầu Mình Thánh, chiêm niệm Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, chúng ta sẽ dần dần được biến đổi. Đến một lúc nào đó, Chúa sẽ cho trái tim chúng ta ơn tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Đó là ơn vô cùng trọng đại. Bởi vì “Không ai có thể thấy Nước Trời, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3). Hơn nữa, đến với Chúa là đến với Hội Thánh. Bởi vì Hội Thánh là một gia đình, một cộng đoàn, một dân tộc được Chúa thiết lập, trong đức tin và trong đức ái. Chúa luôn hiện diện trong Hội Thánh của Người, để Hội Thánh trở nên máng chuyển ơn Chúa xuống cho chúng ta. Trong ơn sai đi của Hội Thánh, trái tim ta cũng sẽ được sai đi làm chứng cho Tin Mừng. Và khi thực hành nhiệm vụ kẻ được sai đi, trái tim ta xác tín Chúa ở trong trái tim ta, như lời Người đã hứa: “Và đây, Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Sau cùng, đến với Chúa còn là đến với những người nghèo khổ. Bài Phúc Âm về ngày phán xét chung cho thấy: Chúa đồng hoá mình với những người nghèo khổ. Kinh nghiệm cũng cho hay: Tiếp xúc với những người nghèo khổ, chúng ta có thể cảm được nhiều chuyển biến tốt trong trái tim ta. Nhất là khi người nghèo lại là những người đạo đức. Xưa, hai môn đệ thánh Gioan Baotixita đến hỏi Chúa Giêsu: Thưa Thầy, Thầy ở đâu. Chúa Giêsu trả lời: “Cứ đến mà xem” (Ga 1,39). Họ đã đến nơi Chúa Giêsu sinh sống. Khi thấy tận mắt cảnh đơn sơ khó nghèo của Chúa Giêsu, họ đã mến phục Người và đã xin theo Người (Ga 1,35-39). Ai ngờ yếu tố đã lôi cuốn và thuyết phục trái tim hai người thanh niên đó lại chính là cảnh sống nghèo của một Đấng hiền lành khiêm tốn. Khi ta đến với Chúa bằng nhiều cách khác nhau, đặc biệt là bằng bốn cách trên đây, trái tim chúng ta sẽ được đổi mới dần dần. Dần dần trái tim ta sẽ trở thành của lễ hiến tế và bàn thờ hiến tế với mức độ mỗi ngày mỗi cao hơn. Nhưng, khi tới những mức độ cao, trái tim ta sẽ không tránh được mệt mỏi, ngại ngùng. Bởi vì Chúa sẽ đòi hỏi thêm. Nhiều khi trước những đòi hỏi của Chúa, trái tim ta sẽ cảm thấy bất lực. Vì thế, chúng ta cần cầu khẩn thiết tha, xin Chúa thương đến với ta. Kinh nghiệm thứ hai là Chúa đến với ta. Xin Chúa thương đến với con Phải nói thực là: Chúa đòi hỏi rất nhiều nơi những trái tim nào muốn hiến tế mình vì mến Chúa và vì thương cứu các linh hồn. Ngay một đòi hỏi phải nên như hạt lúa thối đi, cũng đã mệt rồi. “Nếu hạt lúa rơi xuống đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh ra được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Đối với trái tim, cái chết nào cũng gây nên đau đớn. Hết từ bỏ này, lại đến từ bỏ kia. Hết chấp nhận thánh giá cũ, lại phải chấp nhận thánh giá mới. Đó là những thứ chết đi. Trước hoàn cảnh như thế, không thiếu người đưa ra lời khích lệ: “Hãy can đảm và hoan lạc bước lên”. Lời khuyên đó có thể hữu ích cho một số người. Riêng đối với tôi, tôi xin thú thực là tôi khó có đủ can đảm và không hoan lạc gì, khi phải đớn đau, nhất là những đớn đau quá lớn. Nhận thức sự thực đó, tôi khẩn cầu tha thiết với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin Chúa thương đến với con”. Chúa đến và dẫn tôi vào vườn Cây Dầu. Ở đó, Người cho tôi thấy: Chính Người cũng đã khiếp sợ trước những khổ đau sắp xảy tới cho Người. Người khiếp sợ, đến toát mồ hôi máu ra. Người quá ngại ngùng, đến nỗi đã khẩn cầu Chúa Cha: “ Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con, nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 25,39). Một lời đó thôi cũng đã đủ nói lên sự Người đã phải đớn đau, đã phải đấu tranh với chính mình, đã phải sợ hãi ngại ngùng đến mức độ nào. Nếu hôm nay, một số môn đệ Chúa được sai vào những hoàn cảnh tương tự như thế, để hiến tế mình một cách khác thường, thì chúng ta cũng hãy làm như Đức Kitô đã làm xưa. Phải tha thiết cầu nguyện. “Xin Chúa thương đến với con”. Tôi chắc chắn: Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đồng hành với ta trong suốt chặng đường hiến tế. Chúa sẽ cùng đau khổ với ta. Chúa sẽ ở bên ta. Chúa sẽ ở trong ta. Chúa sẽ cùng hiến tế với ta. Thánh Têrêsa thành Lisieux cũng để lại một lời khuyên tương tự. Đại khái Ngài nói: Chúa bảo Ngài phải leo lên một cầu thang cao và dốc. Ngài chỉ là đứa bé yếu đuối, bước đi không vững. Mới bước lên, liền bị té ngã. Thử bước lại, cũng lại té ngã. Đến một lúc, Têrêsa xin Chúa: Xin Chúa đến với con. Chúa đoái thương. Chúa đích thân xuống và ẵm bé Têrêsa lên cầu thang, để ở lại bên Chúa. Thành ra chính sự yếu đuối, chính thiện chí và sự chân thành khiêm tốn của chúng ta lại là lời cầu khẩn đắc lực kéo ơn Chúa xuống, để ta sống ơn gọi hiến tế. Không phải các thứ hiến tế ồn ào lộng lẫy bên ngoài. Nhưng hiến tế âm thầm khiêm tốn trong cõi thẳm sâu của trái tim. Thiết nghĩ những hiến tế này đang rất cần cho Hội Thánh Việt Nam hiện nay. Trước những biến chuyển phát sinh từ nội bộ Hội Thánh địa phương, trước những biến chuyển mới xuất hiện trong xã hội, và trước những biến chuyển phức tạp đến từ thế giới, Hội Thánh Việt Nam chúng ta rất cần nhiều ơn thánh Chúa, nhất là ơn cứu độ và ơn thánh hoá. Những ơn thánh này, một phần nào đó, sẽ chuyển vào các linh hồn qua những trái tim hiến tế theo gương Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu.
Hôm nay, được tới đây tham dự thánh lễ tạ ơn Chúa, mừng nhà thờ mới của giáo xứ Hòn Đất, tôi rất vui mừng. Niềm vui này, tôi đã chờ đợi từ lâu. Từ lâu trước đây, vùng đất xa xôi mênh mông này rất thưa thớt người công giáo. Dần dà, trong những năm qua, số người công giáo tăng nhiều và mau, các nhà thờ mới lần lượt mọc lên khắp nơi. Nhìn cảnh phát triển đó, tôi tự hỏi: Bao giờ đến lượt giáo xứ Hòn Đất sẽ giới thiệu nhà thờ mới của mình, vì nhu cầu thực sự cấp bách. Hôm nay, giáo xứ Hòn Đất đã trả lời một cách hùng hồn. Một nhà thờ không lớn, nhưng đẹp đẽ và quí giá. Tính cách đẹp đẽ và quí giá này sẽ phù hợp với một thị trấn đang phát triển, theo hướng đi lên của tỉnh Kiên Giang phát triển mạnh và mau. Nhìn nhà thờ mới này và các nhà thờ nói chung, tôi xác tín: Đây là những công trình hết sức có lợi, không phải chỉ cho đạo, mà cũng cả cho đời. Trong nhiều lợi ích khác nhau, ở đây tôi chỉ xin nêu lên lợi ích này. Đó là lợi ích trong lãnh vực huấn luyện đào tạo những con người phục vụ. Thực vậy, ở nhà thờ, các tín hữu sẽ được nghe, được học, được thấm nhuần những chân lý cần thiết cho cuộc sống. Đây là những chân lý vững chắc đặt nền tảng trên Thánh Kinh. Những chân lý này có tính cách cứu độ, thánh hoá và sáng tạo, giúp cho con người có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm bén nhạy trước sự lành sự xấu, có khát vọng đi sâu đi xa vào các giá trị xây dựng và phát triển con người và xã hội. Từ đó họ sẽ trở thành người phục vụ cho chân lý. Ngoài ra, ở nhà thờ, các tín hữu sẽ đón nhận sự sống thiêng liêng. Sự sống này rất dồi dào phong phú, với những ân sủng biến đổi con người của họ, để dần dần, họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Với sự sống này người tín hữu không chỉ sống cho mình, mà còn sống cho người khác, dám hy sinh chính mình vì người khac. Từ đó họ trở thành người phục vụ cho sự sống. Hơn nữa, ở nhà thờ, các tín hữu sẽ được chia sẻ tình yêu thương của mọi người trong Hội Thánh. Chia sẻ là cho đi và đón nhận, là được nâng đỡ bởi người khác và cộng đoàn, chính mình cũng đỡ nâng người khác. Tình chia sẻ này được xây dựng trên tình hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đó họ trở thành người phục vụ cho tình hiệp thông. Sự huấn luyện đào tạo người tín hữu nên người phục vụ không dừng lại ở những giáo lý và lời giảng dạy, nhưng còn đi xa hơn nhiều. Đó là họ được dẫn tới chính nguồn chân lý đích thực, chính nguồn sự sống đích thực, chính nguồn tình yêu đích thực. Nguồn đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Thầy là đường, là chân lý và là sự sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu hiện diện trong nhà thờ. Người đón nhận từng người vào đây. Người gọi tên từng người đến đây. Người chúc lành cho từng người thiện chí. Người sai từng người có tâm huyết ra đi phục vụ. Nhờ vậy họ trở thành những người dấn thân, để nhân danh Chúa, họ phục vụ trong các lãnh vực chân lý, sự sống và tình thương. Với cái nhìn thoáng qua trên đây, chúng ta thấy sự huấn luyện đào tạo người tín hữu để họ trở nên những người phục vụ là rất tốt, rất cần. Đồng thời chúng ta cũng thấy ngay: Nhu cầu có nhà thờ kéo theo một nhu cầu khác. Nhu cầu đó là nhu cầu phải có người huấn luyện và đào tạo. Theo truyền thống Hội Thánh, người đó có thể là tu sĩ, là giáo dân, nhưng ưu tiên phải là linh mục. Linh mục xứng đáng. Linh mục có tài có đức. Linh mục thực sự là mục tử tốt lành theo gương Chúa Giêsu (Ga 10,11-16). Sở dĩ tôi nói lên mấy cảm nghĩ trên đây, trước là để giáo xứ Hòn Đất thêm lòng biết ơn đối với Cha Sở Gioan Baotixita, một người sống quên mình vì ích chung. Sau là để cám ơn các quý vị và mọi tầng lớp đồng bào ngoài công giáo trong tỉnh này, đã có lòng thông cảm giúp đỡ họ đạo và linh mục phụ trách. Và cũng là để ghi ơn những tấm lòng tình nghĩa của mọi ân nhân xa gần đã góp phần vào một công trình có lợi ích lớn cho đạo và đời ở vùng đất xa xôi này. Để kết, tôi xin tất cả mọi người chúng ta, trong khi vui mừng cảm tạ Chúa, cũng hãy vâng lời Chúa mà “tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 26,4), để chúng ta biết sống khôn ngoan theo ý Chúa trong mọi tình hình. Vì hiện nay còn rất nhiều điều quan trọng phải làm trong cuộc sống đời đạo. Những điều quan trọng đó còn khó hơn việc xây dựng nhà thờ. Xin Chúa thương tiếp tục ban ơn giúp sức cho chúng ta.
Một lời cầu rất quen thuộc đối với mọi người chúng ta, đó là: "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con".
Phụng vụ thánh lễ đọc lời cầu đó nhiều lần. Các "kinh cầu" như kinh cầu Trái Tim Chúa, kinh cầu Đức Mẹ, kinh cầu thánh Giuse, kinh cầu các thánh, là những chuỗi dài thảm thương "xin thương xót chúng con".
Nhiều người có thói quen cầu nguyện vắn tắt chỉ bằng lời cầu: "Xin Chúa thương xót con". Đọc hằng ngày. Đọc khắp nơi. Như một hơi thở. Như một tiếng gọi của người con bé nhỏ.
Riêng tôi, tôi đọc lời cầu đó rất nhiều lần, mỗi khi tôi đau yếu. Đọc một cách tha thiết. Đọc với tất cả tấm lòng đơn sơ và tập trung vào lòng thương xót Chúa.
"Lạy Chúa, xin thương xót con". Lời cầu vắn tắt này có thể đưa ta đi rất xa, khi ta cầu nguyện dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Tiên vàn, nên nhớ cầu nguyện là một ơn Chúa. Nên, khởi đầu, ta cần xin Chúa giúp ta cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đến giúp con" (Tv 70,2).
Bình thường, chúng ta vẫn cần ơn Chúa để cầu nguyện được thực hiện tốt. Phương chi lúc ta đau yếu. Lúc đó, thể xác và tâm hồn ta rơi vào tình trạng rã rời, yếu đuối. Nhưng tình trạng đó sẽ được ổn định, khi Chúa Thánh Thần đến với ta. Như lời thánh Phaolô nói: "Bây giờ, chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Chúa Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả" (Rm 8,26).
Nhìn vào mình
Đúng là như vậy, cầu nguyện như thế trong cơn bệnh, chúng ta sẽ được ơn nhìn vào mình một cách chính xác hơn.
"Lạy Chúa, xin thương xót con". Ta không ngại thêm liền sau đó lời: "Vì con là kẻ có tội".
Tôi xếp mình vào loại các tội nhân, chứ không chỉ vào loại người yếu đuối. Bởi vì sự thực là như thế.
Để có một hình ảnh thiết thực, tôi coi mình đang đứng bên người thu thuế, mà Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm: "Ông đứng cuối nhà thờ, không dám ngẩng mặt lên, vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội" (Lc 18,13).
Đạo đức hình thức, hời hợt nông cạn, sự cứng lòng và sự nguội lạnh là những hiện tượng không hiếm. Nên cần có ơn Chúa, người ta mới nhận ra đúng con người của mình, một sự nhận ra với việc ăn năn xé nát tâm can.
Không lâu sau đó, tâm hồn thống hối như thế sẽ nghe Chúa trả lời: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần. Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi hãy ăn năn và sám hối" (Lc 5,31).
Gặp được Chúa
Thực là an ủi cho người đau yếu. Bởi vì họ cảm thấy Chúa Giêsu đã đến bên họ. Ngài nhân từ. Chính Ngài sẽ giúp cho họ ăn năn sám hối, khởi đầu bằng sự làm cho lòng họ trở nên khiêm nhường sâu sắc, đầy từ bỏ mình. Khiêm nhường thực sự, trước mặt Chúa, trước mặt thế gian, trước lương tâm chính mình.
Khi đã bắt đầu khiêm nhường thực sự như thế, thì ơn Chúa sẽ tràn vào tâm hồn người đau yếu. Họ được đổi mới. Về một phương diện nào đó, họ trở nên khoẻ mạnh về đàng thiêng liêng hơn trước nhiều.
Tôi có kinh nghiệm như vậy. Lúc đó tôi hiểu hơn sự khôn ngoan của tình Chúa xót thương. Tình Chúa có thể đổi sự dữ thành sự lành, có thể dùng bệnh tật đau đớn như một con đường thanh luyện để ta gần lại với Chúa hơn.
"Lạy Chúa, xin thương xót con". Thực Chúa đã thương xót tôi. Về mặt thiêng liêng Chúa đã thương cứu tôi.
Còn về mặt cứu cho khỏi bệnh tật đau đớn thì lại là chuyện khác.
Vâng phục ý Chúa
Tôi tiếp tục cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thương xót con". Có lúc, Chúa trả lời bằng cách cho tôi nhớ lại cảnh chính Chúa Giêsu cũng chìm sâu vào cảnh đớn đau tăm tối.
Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô than thở: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến. Thầy biết nói gì đây. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến" (Ga 12,37).
Rồi trong vườn Cây Dầu, Ngài khẩn thiết cầu xin. Tâm hồn xao xuyến bồi hồi, đến nỗi mồ hôi Ngài như những hạt máu rơi xuống đất (Lc 22,44).
Ngài tha thiết xin Chúa Cha thương đến Ngài: "Cha ơi, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi" (Mc 14,36).
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã coi sự vâng theo ý Chúa Cha là quan trọng nhất.
Hiểu như vậy, nên, khi đau yếu, càng cầu nguyện, tôi càng được thúc giục hãy để ý đến việc xin ơn vâng theo ý Chúa, "Lạy Chúa, xin thương xót con". Lúc ấy, Chúa Thánh Thần dùng ý hướng đó để kêu gọi người đau yếu hãy dâng mình cho Chúa.
Họ dâng cho Chúa trót con người của mình, dâng sức khoẻ và bệnh tật của mình, dâng những thành công và thất bại, dâng những gì đã làm và những gì còn dang dở, dâng cả những tội lỗi của mình. Mặc dầu mình chẳng là gì, mình chẳng đáng gì, mình chẳng có gì ngoài những ước mơ, những cố gắng, những khuyết điểm và khổ cực. Nhưng nhất là dâng tình yêu và đau khổ. Dâng hết cho Chúa nhân lành. Tình Chúa xót thương và vô cùng toàn năng có thể dùng tất cả những sự đó để góp phần nào làm nên công trình của Chúa, cho giáo phận, cho Nước Trời, theo thánh ý Ngài. Xin cảm tạ.
Xin dâng hiến. Xin sẵn sàng sống ơn gọi sau cùng của con người.
Bám vào Đức Mẹ
Vâng theo thánh ý Chúa còn là nép mình bên Đức Mẹ Maria. Mẹ đã đau khổ rất nhiều. Trái tim Mẹ như bị gươm đâm, không phải bị một lần, nhưng bị nhiều lần trong đời.
Chúa Giêsu xem ra ám chỉ chén đắng một cách rất rộng. Khi Ngài xin Chúa Cha cất chén đắng cho Ngài, thì chén đắng đó cũng được Ngài hiểu về sự Đức Mẹ và các môn đệ Ngài sẽ phải khổ. Chúa Giêsu xin để một mình Ngài gánh trọn khổ đau trong việc cứu chuộc nhân loại, đừng để Đức Mẹ và các môn đệ cũng phải chia sẻ khổ đau đó. Nhưng Chúa Cha không muốn thế. Chúa Cha muốn Đức Mẹ và các môn đệ cũng phải theo Đức Kitô, đi vào con đường thánh giá, để có thể tới Phục sinh.
Không có thánh hoá mà không có thánh giá. Thánh hoá nhờ thánh giá. Mà thánh giá khi Mẹ vác trong trái tim, nhất là khi Mẹ bị đóng đinh vào đó, thì Mẹ đã rất khổ. Nhưng mà Mẹ đã đứng vững.
Khi biết ý Chúa Cha là như thế, người đau yếu sẽ hướng lời cầu của mình về sự xin theo gương Đức Mẹ. Lạy Chúa, xin thương xót con. Nghĩa là: xin thương giúp con theo gương Đức Mẹ.
Không gì đẹp ý Chúa cho bằng xin ơn đó. Chính chúng ta cũng sẽ được an tâm và mạnh dạn như lời thánh Gioan nói. "Lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Chúa, đó là Người nhận lời chúng ta, khi những lời ta xin đều hợp ý Người" (1 Ga 5,14).
Nếu thánh ý Chúa là: Để cứu chuộc nhân loại hôm nay, các môn đệ Đức Kitô, ngoài một số việc phải làm, còn phải vác thánh giá theo Đức Kitô, thì cách tốt nhất cho các môn đệ Chúa là có Đức Mẹ Maria cùng đi. Tin tưởng này sẽ an ủi người đau yếu rất nhiều.
Cầu nguyện Đức Mẹ thực đơn sơ. Bám chặt lấy Mẹ nhân lành. Trong thinh lặng, trong phó thác. Người đau yếu sẽ được bình an trong tâm hồn. Họ tránh được những quấy phá của ma quỉ, thế gian, xác thịt. Đồng thời sẽ được thêm đức tin, để có đủ ánh sáng và sức mạnh đi vào một giai đoạn có thể mới lạ và khó khăn. Một giai đoạn mới, chính vì rất khó khăn, nên lại sẽ thuận lợi cho việc tìm về chính nguồn mạch sự sống và làm chứng một cách thiết thực hơn cho nguồn mạch sự sống đó.
Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ. Còn thực hiện nhiều khi sẽ rất khác suy nghĩ. Nhất là nơi người đau yếu già cả. Vì thế, tôi tăng cường lời cầu:
Chúa Giêsu đã quả quyết về sứ mệnh của chính mình: “Tôi đã sinh ra và đến trong thế gian vì mục đích này. Đó là để làm chứng cho chân lý” (Ga, 19,37). Lời Chúa trên đây thiết tưởng cũng đã ứng nghiệm nơi thánh Gioan Baotixita. Thánh Tiền Hô được sinh ra và được sai đi cũng vì mục đích làm chứng cho chân lý. Chân lý là một vũ trụ bao la, gồm nhiều lãnh vực. Lãnh vực Ngài được sai vào để làm chứng là lãnh vực cứu độ. Trong lãnh vực này, Ngài tập trung làm chứng cho chân lý căn bản. Chân lý căn bản là chính Chúa Giêsu. Chân lý cứu độ. Suốt đời, thánh Gioan Baotixita ý thức mình được sai đi dọn đường cho Đấng Cứu thế. Ông Dacaria đã hiểu như thế về con mình: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao. Con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người” (Lc 1,76). Thực vậy, Gioan Baotixita đã đi trước Chúa Giêsu và đã giới thiệu Chúa Giêsu. Một hôm, Gioan Baotixita thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới, khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì Ngài có trước tôi” (Ga 1,29-30). Như thế, chân lý cứu độ là chính Chúa Giêsu. Ngài là Đấng mà Gioan Baotixita tôn thờ, kính yêu. Thái độ khiêm tốn của Gioan Baotixita trong chức vụ dọn đường đã được Ngài bộc lộ nhiều cách: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy sửa đường cho thẳng, để Đức Chúa đi” (Ga 1,23). “Người phải nổi lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). “Tôi không đáng quì xuống cởi dây giày cho Người” (Mc 1,7). Khi giới thiệu Chúa Giêsu là chân lý cứu độ, thánh Gioan Baotixita không đưa ra một học thuyết nào của Chúa Giêsu, để khuyên người ta tin theo học thuyết đó. Nhưng thánh Gioan Baotixita chỉ khuyên người ta hãy đến gặp Chúa Giêsu, hãy tiếp xúc với Chúa Giêsu. Cách giới thiệu như thế coi như đơn sơ mà lại rất sâu sắc. Bởi vì đến một lúc nào Chúa muốn, người gặp gỡ Chúa Giêsu sẽ cảm nghiệm được sự thực về Ngài như thánh Phaolô xưa: “Những gì xưa kia tôi là cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác, để được Đức Kitô, và được kết hợp với Người” (Ph 3,7-8). Thực không gì hạnh phúc bằng gặp được Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Chính Thầy là con đường, là chân lý và là sự sống” (Ga 14,6). Chân lý kêu gọi sám hối. Chúa Giêsu chú trọng rất nhiều đến sám hối. Trước khi Chúa Giêsu rao giảng sự sám hối, thì thánh Gioan Baotixita đã dọn đường cho Ngài cũng bằng việc sám hối. Ngài coi đó là một sự thực quan trọng. Ngài xuất hiện trong hoang địa, rảo quanh các thành, khuyên bảo mọi người bỏ đàng tội trở về đàng lành. Ngài làm phép Rửa cho những ai thống hối, như một dấu chỉ tha tội. Sở dĩ uy tín của Gioan Baotixita về việc rao giảng sám hối được dâng cao, một phần cũng do uy tín con người và cuộc sống của Ngài. Ngài rất khó nghèo, rất từ bỏ, rất khắc khổ, nhất là chìm sâu vào cầu nguyện chiêm niệm. Như có một thứ phản ánh nhiệm mầu đến từ Đức Kitô. Thánh Gioan tông đồ viết về Gioan Baotixita: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng. Nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-8). Sự sám hối, mà Gioan Baotixita khuyên mọi người hãy ráng thực hiện, là hãy ăn năn về thói quen làm hại người khác, do phạm đến công bình bác ái, bê trễ với bổn phận, và lối sống nông nổi, không chịu đi tìm chân lý, nhất là chân lý về mục đích đời mình. Thực là dại dột, nếu tưởng mình biết nhiều sự thực đủ loại, nhưng sự thực về chính mình thì lại không biết rõ, không biết đúng và không biết đủ. Những thiếu sót đó mới đáng sợ. Cần phải sám hối về những lỗi lầm đó. Bởi vì những lỗi lầm đó có thể sinh ra những trái xấu, gây tai hại khủng khiếp cho chính mình, đời này và đời sau. “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Chân lý đem lại sự sống dồi dào. Có lúc, thánh Gioan Baotixita, muốn cho các môn đệ của mình hiểu thêm về Chúa Giêsu, nên đã sai họ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác. Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều các anh đã mắt thấy tai nghe. Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,3-5). Với những chi tiết tỉ mỉ nêu trên, Chúa Giêsu đã cho thánh Gioan Baotixita thêm một hình ảnh về Ngài. Hình ảnh đó là hình ảnh chân lý mang lại sự sống, sự sống dồi dào. Đây là một hình ảnh mà chính Đức Kitô đã đưa ra để làm chứng về mình. Hình ảnh này sẽ là một bổ túc cần thiết cho sứ mạng giới thiệu của thánh Gioan Baotixita. Thánh Gioan Baotixita lúc đó sắp bước vào giai đoạn kết thúc đời mình. Khi nhận được một hình ảnh đẹp như thế về Đấng Cứu thế, thánh Gioan Baotixita rất được an ủi. Ngài có thể an tâm ra đi, vì Đấng Cứu thế mà Ngài giới thiệu, chính là tình yêu thương xót. Những ai gánh nặng có thể đến với Ngài (Mt 11,28). Những ai như những con chiên không được ai chăm sóc, có thể tin tưởng vào Ngài (Mt 9,37). Thánh Gioan Baotixita không để lại được của cải gì cho các môn đệ Ngài. Nhưng Ngài đã để lại rất nhiều. Đó là để lại một hình ảnh đẹp nhất, dễ thương nhất, mà mọi người đang rất cần. Hình ảnh ấy là hình ảnh Chúa chiên lành nơi Đức Giêsu. Chúa chiên có trái tim đầy tình thương xót. Với trái tim ấy, Chúa Giêsu kêu gọi: “Nếu ai khát, hãy đến cùng Ta. Ai tin vào Ta, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ trái tim Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,38). Riêng đối với tôi, đây là một dự trữ tình thương vô cùng quí giá. Dự trữ tình thương là nơi thường xuyên có tình thương. Tình thương phục vụ, tình thương tha thứ, tình thương hy sinh, tình thương khiêm nhường. Dự trữ này là nguồn an ủi vô giá cho tôi. Cho dù có lúc xem ra mất hết, nhưng còn dự trữ này thì vẫn có hy vọng chắc chắn cho hành trình cuộc sống, nhất là trong những giờ khó khăn phấn đấu cho Nước Trời.
Tôi bị bệnh và đã được cứu chữa. Cứu chữa do nhiều người. Mỗi người giúp một phần. Phần nào cũng là một sự thực. Tôi tạm cắt nghĩa sự thực nói đây là gì. Thí dụ: Sự thực về y khoa. Bác sĩ khám phá ra đúng sự thực căn bệnh, chữa trị với đúng cách tốt nhất. Sự thực về tâm lý. Các người chăm sóc biết đúng sự thực tâm lý bệnh nhân, phục vụ với nghệ thuật, đáp ứng đúng nhu cầu người bệnh. Phải nói thiệt là: Có những người đến thăm bệnh, nhưng kết quả là thêm bệnh cho người bệnh. Chỉ vì thiếu kiến thức và kinh nghiệm về tâm lý. Sự thực về đạo đức. Các liên hệ với người bệnh đều tình nghĩa, tế nhị, tạo nên bầu khí an bình, như có sự hiện diện của Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Những kinh nghiệm trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Lời Chúa phán: “Sự thực sẽ cứu chữa chúng con” (Ga 8,32) đã ứng nghiệm ngay cả trong trường hợp cứu chữa con người khỏi bệnh phần xác. Cứu chữa do phối hợp những hệ thống sự thực về khoa học, về tâm lý, về nghệ thuật và về đạo đức. Từ kinh nghiệm sống động đã trải qua, tôi nghĩ tới sự cứu chữa con người trong lãnh vực thiêng liêng. Lãnh vực thiêng liêng nơi con người là rất mênh mông. Ở đây, tôi tự giới hạn dòng suy nghĩ của tôi ở mấy điểm mà thôi. I. Mấy cơ năng cần được cứu chữa Cứu chữa đôi mắt. Mắt nói đây là mắt tâm hồn. Mắt tâm hồn nhìn, có khi đúng có khi sai. Nhìn sai là vì mắt bệnh. Bệnh mắt tâm hồn đã được nhiều lần nói tới trong Phúc Âm. Xin phép trích mấy trường hợp Chúa Giêsu đã nói: “Sao anh thấy cái rác trong mắt người anh em, mà cái xà trong con mắt anh thì anh lại không thấy? (Lc 6,41). “Có phải vì thấy tôi tốt lành nhân ái, mà các anh đâm ra ghen tức? (Mt 10,15). “Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, thì họ đã không có tội. Nhưng nay họ đã thấy rồi, mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. Như thế là ứng nghiệm lời đã viết trong sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ” (Ga 15,24-25). “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây, các ông nói: Các ông đã thấy, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,40). Chỉ mấy lời Chúa phán trên đây cũng đủ cho ta đoán được bệnh của mắt tâm hồn là nhiều thứ: Như định kiến, thiển cận, tự cao tự mãn, ghen tương, độc đoán. Mắc bệnh thì tất nhiên cần phải chữa trị. Nhưng khổ nỗi người mắc bệnh không nhận ra mình mắc bệnh. Nhìn sai mà vẫn đinh ninh mình nhìn đúng. Tính cố chấp trong cái nhìn sai của mình sẽ dần dần dẫn tới vực sâu thảm khốc. Gây hại cho cộng đoàn, cho cá nhân người khác, nhất là cho chính mình, đời này cũng như đời sau. Đôi mắt rất cần được cứu chữa. Và thuốc cứu chữa là sự thực. Cứu chữa miệng lưỡi. Miệng lưỡi nói đây là nơi phát ra lời nói. Có lời nói tốt và cũng có lời nói không tốt. Người nói sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi lời mình nói. Chúa phán: “Đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lẽ về mọi lời vô ích mình đã nói. Nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án. Và cũng vì lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,36). Các lời vô ích mà cũng bị đem ra xét xử. Phương chi những lời nói gian, nói dối, nói hành, nói xấu, nói độc địa, nói vu khống, nói tục tĩu. Về miệng lưỡi, thánh Giacôbê đã có những lời nhận định đầy răn đe: “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân. Nếu ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân nó. Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. “Cái lưỡi cũng vậy. Nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao. Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó có thể làm cho toàn thân ta bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. “Thật thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự được và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được. Nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người” (Gc 3,2-8). Nếu ta tin những lời trên đây là sự thực cứu độ, thì ít ra ta phải coi việc cứu chữa miệng lưỡi của ta là một trách nhiệm quan trọng. Nhận định đó là một sự thực cần thiết khởi đầu cho nhưng sự thực khác có khả năng cứu chữa miệng lưỡi ta. Cứu chữa trái tim. Trái tim nói đây là lòng dạ con người. Nó ám chỉ một cái gì rất sâu kín vô hình trong tâm hồn. Nơi đó chứa chất mọi động lực, mọi năng lượng chi phối cuộc sống. Một ví dụ: Một dòng sông. Dòng sông có mặt nước nhiều khi coi rất trong và phẳng lặng. Nhưng dưới mặt nước đó có những dòng nước ngầm chảy xiết. Và dưới những dòng nước ngầm đó, lại còn đáy sông với vô số sinh vật, sỏi, đá, bùn, rong. Một ví dụ khác: Một cây thông. Cây thông bề ngoài là lá cành và vỏ cứng. Nhưng bên trong là các lớp mềm mang nhựa sống từ gốc rễ ăn sâu vào đất. Con người ta có phần bề ngoài. Và có phần bề trong. Có phần ý thức và sâu hơn là phần tiềm thức và phần vô thức. Lòng dạ được hiểu chung chung về những phần sâu, và phần bên trong. Chúa Giêsu, khi đề cập đến tội, thường chỉ vào lòng dạ như nơi phát xuất. Như có lần Chúa phán: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tráng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả điều xấu đó đều bên trong xuất ra, làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,29). Những lời Chúa phán trên đây là sự thực cứu độ. Căn cứ vào đó, ta thấy sự cứu chữa lòng dạ của ta là việc không thể nào coi thường được. Nếu không cứu chữa mình về mắt, về miệng lưỡi, về lòng dạ, ta sẽ bị làm nô lệ tội lỗi, và các tính mê nết xấu. Chúng xiềng xích ta. Chúng khống chế ta. Chúng xâm chiếm tâm hồn ta. Ta mất tự do tâm hồn. Cứu chữa trái tim, miệng lưỡi và đôi mắt bằng cách nào? 2. Nguồn lực cứu chữa Thiết tưởng bằng ba sự thực sau đây: Trước hết là sự thực về tự do nội tâm nhờ Chúa Thánh Thần. Kinh Thánh dạy: “Ở đâu có Thánh Thần của Thiên Chúa, ở đấy có tự do” (2 Cor 3,17). Chúa Thánh Thần sẽ tái sinh chúng ta vào sự sống người con bé nhỏ của Chúa, biết lắng nghe tiếng Chúa, biết vâng phục ý Chúa, biết đón nhận Chúa. Lúc đó sẽ ứng nghiệm lời Chúa phán: “Ánh sáng chiếu trong bóng tối. Chúa đến trong nhà của Người” (Ga 1,5.11). Tâm hồn ta trống vắng những quyền thống trị của tính mê tật xấu, đầy thinh lặng, để Chúa đi vào ngự trị. Ngoài ra, cũng cần có sự thực về phát triển khôn ngoan và ân sủng, theo gương Chúa Giêsu cũng nhờ Chúa Thánh Thần. Đặc điểm sự lớn lên của Chúa Giêsu tại Nagiarét là “càng lớn lên càng thêm khôn ngoan và ân sủng” (Lc 2,52). Sự phát triển khôn ngoan và ân sủng cũng do Chúa Thánh Thần. Nhờ khôn ngoan và ân sủng, chúng ta sẽ có những chọn lựa đúng, vừa theo tinh thần Phúc Âm, vừa sát với hoàn cảnh thực tế. Chúng ta sẽ biết trút bỏ khỏi lòng ta những chuyện người khác làm nặng lòng ta một cách vô ích. Chúng ta được tự do phát triển tình thương Tin Mừng. Chúng ta biết phối hợp các sự thực đạo đức với các sự thực khác như khoa học, kinh tế, nghệ thuật để phát triển con người của ta. Sau cùng là sự thực về truyền giáo nhờ ơn sai đi của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ ý thức mình được Chúa Thánh Thần sai đi. Gieo rắc Tin Mừng, bằng những phương pháp hợp thời, bén nhạy với thời cơ và nguy cơ, sát tâm lý từng người từng nơi. Thao thức truyền giáo đưa ta đến thói quen cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Được Chúa Thánh Thần tái sinh ta vào ba sự thực nói trên, ta sẽ dần dà thành một tạo vật mới, nên con người phát triển, biết phấn đấu với chính mình, ra đi phục vụ trong bình an và đầy tâm tình ca ngợi Thiên Chúa, Đấng cứu độ ta. *** 3. dấu chỉ thời đại mới Để kết luận, tôi xin kể một mẩu chuyện nhỏ. Mới rồi, trong thời gian ba tuần điều trị ở Paris, tôi chỉ ra phố có một lần, để đi thăm người thân cũng bệnh và già yếu. Người lái taxi chở tôi là một thanh niên. Tôi ngồi cạnh anh. Hình như anh biết tôi đang đau đớn và mang nhiều ưu tư. Một lúc bất ngờ, anh quay sang hỏi tôi: Cha có quen bài hát thánh giá không? Tôi trả lời không, và yêu cầu anh hát cho nghe. Với giọng trầm ấm, anh hát nhẹ và rất rõ từng lời. Hát như cầu nguyện. Tất nhiên đó là bài hát tiếng Pháp. Dễ hiểu và cũng dễ nhớ. Tôi ghi lại đại khái: Ôi thánh giá của tình yêu Thánh giá vươn cao lên trời Để chỉ cho con biết con được sinh ra từ đâu Thánh giá là ngón tay của Chúa Chỉ cho con biết đường đến hạnh phúc phải qua thánh giá Con xin dâng phó mình con cho thánh giá. Ôi thánh giá của Chúa Giêsu Thánh giá là ngôi sao thiên đàng Ánh sáng của sao thánh gía dẫn con đến trái tim Chúa Khi con chìm trong bóng tối Xin hãy cứu con Xin làm sống lại hy vọng nơi con. Phải nói thiệt là anh đã đem lại tươi mát cho tâm hồn tôi lúc đó. Hỏi chuyện anh, tôi được biết anh là người trở lại, và đã kéo được một gia đình trở lại đạo. Tôi có cảm tưởng anh và các bạn anh là người đang ra khơi, gieo rắc Tin Mừng trên mọi nẻo đường phục vụ con người giữa Paris rộng lớn. Rất âm thầm, rất tế nhị. Điều đã gây ấn tượng nhất nơi tôi, là: Anh thường cầu nguyện với bài hát đó khi đưa khách, khi đợi khách, khi sống với vợ con trong căn nhà khiêm tốn. Qua một số kinh nghiệm như trên, tôi có cảm tưởng là Hội Thánh đang đi vào những chuyển biến lớn. Một đàng là sự lan tràn những thái độ dửng dưng, chán ngán đối với cách sống đạo và truyền đạo ồn ào, nặng về lý thuyết và hình thức, trống vắng sự thực Tin Mừng. Một đàng là sự đang mọc lên những khát vọng đi tìm và đón nhận những nhân chứng hiện tại sống âm thầm khiêm tốn, tận tuỵ phục vụ con người, phấn đấu xây dựng những con người phát triển, gắn bó với đời sống cầu nguyện và Lời Chúa. Đúng là đang xuất hiện một sự tái sinh với việc tân phúc âm hoá dưới sự hướng dẫn đầy khôn ngoan và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng đây là dấu ấn đặc biệt của đầu thế kỷ XXI, hứa hẹn một dung mạo mới của một Hội Thánh mới, nghèo về quyền lực, nhưng dồi dào sức sống mới, do chính Sự Thực cứu độ, và Tin Mừng là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Trong quá khứ, có không ít cộng đoàn tôn giáo, tổ chức kinh tế và chính trị, đã đi tới diệt vong, phá sản. Thảm hoạ đó không do một bước đột ngột, nhưng do nhiều bước từ từ. Thường là những bước nhỏ tha hoá. Bắt đầu còn xa vực thẳm, tưởng không sao. Dần dần tới gần vực thẳm, tưởng vẫn chưa đến nỗi nào. Sau cùng có một bước định mệnh. Bước lao xuống vực sâu. Tự mình rơi, tự mình huỷ mình. Đám tang kẻ tự huỷ tất nhiên là thê thảm. Để lại một nấm mồ lịch sử dạy đời: Đừng coi thường những bước nhỏ thoái hoá. Riêng trong lãnh vực tôn giáo, bài học đau đớn đó nên được chúng ta quan tâm suy nghĩ. Ở đây, tôi xin phép nêu lên vài hình thức bước đi thoái hoá để ta cố tránh: 1. Bước ra ngoài nền tảng Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1 Cor 3,10-11). Ngài có ý nói về việc xây dựng chính mình và cộng đoàn mình nên đền thờ của Thiên Chúa. Quả quyết của Ngài chỉ là một cách nhắc lại một chân lý, mà chính Đức Kitô đã mạc khải: “Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Thầy là cây nho, chúng con là ngành. Ngành nào kết hợp với cây, sẽ trổ sinh hoa trái. Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Trên thực tế, nhiều cá nhân, nhiều cộng đoàn đã rất ý thức về điều đó. Cuộc sống họ được xây trên nền tảng Đức Kitô. Họ suy nghĩ, hoạt động trên nền tảng này. Đức Kitô là trung tâm đời họ. Lời Đức Kitô, gương Đức Kitô và chính Đức Kitô sống trong họ. Tôn giáo của họ là một gặp gỡ sống động và thân mật với Đức Kitô. Đấng thiêng liêng gần gũi, mà họ tin là thương họ, gọi họ, chọn họ, chúc lành cho họ, cứu độ họ, dẫn họ về với Cha trên trời, nhờ Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Nhưng chẳng may, có những cá nhân và cộng đoàn, đang khi đề cao vinh quang và lời dạy của bao nhân vật trung gian trên trời dưới đất, nhưng lại coi nhẹ việc học hỏi và thực thi Lời Chúa Giêsu, là Đấng mà Phụng vụ thánh lễ vẫn đọc: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến muôn thuở muôn đời”. Coi nhẹ là ít gặp gỡ Ngài, ít cầu nguyện với Ngài, ít suy niệm Lời Ngài. Chính vì những bước đi coi nhẹ đó cứ mãi tiếp tục, nên lời Chúa Giêsu cảnh báo xưa kia nay đang ứng nghiệm tại nhiều nơi trong Hội Thánh: “Những ai nghe các lời Thầy nói, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành” (Mt 7,26-27). 2. Bước ra ngoài giới răn mới của Chúa Giêsu. Giới răn căn bản Chúa Giêsu dạy ta là giới răn bác ái. Ngài gọi nó là giới răn mới. “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con thương yêu nhau” (Ga 14,34). Mới ở chỗ “hãy thương yêu nhau như chính Thầy đã yêu thương các con” (Ga 14,34). Chúa Giêsu coi giới răn yêu thương là đặc điểm của những ai thuộc về Ngài “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 14,35). Khi ca tụng đức ái, thánh Phaolô nói: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu. Không ghen tương, không huênh hoang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù. Không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cor 13,4-7). Khi nắm vững nội dung giới răn mới của Chúa Giêsu rồi, chúng ta hãy nhìn vào thế giới. Hiện tình nhân loại nhiều nơi có vẻ như đang bước ra ngoài giới răn bác ái. Thực vậy, đang hình thành một bầu khí nghi ngờ nhau, ghen tương nhàm chán nhau, giả dối với nhau, lợi dụng nhau, bới móc nhau, hiềm khích nhau, bất cần nhau. Bầu khí ô nhiễm đó cũng đang tìm vào nhiều cộng đoàn tôn giáo, kể cả gia đình công giáo. Trước một tình hình như vậy, các môn đệ Chúa, nếu không ngăn được đà thoái hoá về bác ái đang lan rộng, thì chính mình hãy vững bước đi đúng giới răn bác ái của Chúa. Ánh sáng sẽ đẩy lùi bóng tối. Nếu mỗi người chúng ta là một Bài ca hoà bình của thánh Phanxicô, thì từng bước, tình hình đen tối sẽ có những đốm sáng hiện lên. Dần dà Chúa sẽ làm sáng lên một nền văn minh của tình yêu chân chính. Nhưng, nếu chúng ta cũng bước ra ngoài giới răn yêu thương của Chúa, tuy dù chỉ với những bước nhỏ, mỗi ngày chỉ vài bước thôi, thì hậu quả sẽ rất lớn. Thảm hoạ sẽ xảy ra. Chúng ta có một phần trách nhiệm. 3. Bước ra ngoài con đường khiêm tốn của Chúa Giêsu. Đức Giêsu của chúng ta, đã tự giới thiệu mình là Đấng hiền lành và khiêm nhường (Mt 12,29). Khiêm nhường của Đức Kitô là luôn luôn hạ mình xuống. Hạ mình xuống một cách hết sức sâu xa lạ lùng. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại muốn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,4-8). Chính sự khiêm nhường và yêu thương của thánh giá đã là sức mạnh chiến thắng ma quỉ và sự kiêu ngạo, ghen ghét, mở cửa vào sự sống mới là Nước tình yêu vĩnh cửu. Vì thế, cho dù nhiều người phô trương đi theo những con đường vinh quang khác, thánh Phaolô vẫn khẳng định sự phải đi theo con đường Chúa Giêsu đã chọn. Ngài nói: “Lời rao giảng về thánh giá là một điên rồ đối với những kẻ đang trên đã hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa” (1 Cor 1,18). Hiện nay, đó đây đang xuất hiện những hình thức cạnh tranh và đấu tranh không lành mạnh về địa vị, và vinh quang ngoài vinh quang thánh giá. Ở đời, đó là thói quen coi như bình thường của đời. Nhưng trong đạo, nhất là trong phạm vi các người tu, nếu đó lại trở thành một thói quen cũng bình thường, thì thực là một tai hoạ. Thêm vào đó, còn tự tạo ra những vinh quang ảo, tự mãn với với những hào quang giả. Nếu nhiều người chúng ta cứ thói quen đó, mà nối bước nhau, thì không tránh được thảm hoạ cho cộng đoàn và cho chính cá nhân mình. Chúa Giêsu đã rất biết, cả những phô trương, có vẻ như rất hiền, nhưng lại có thể là thuốc độc tàn phá toà nhà đạo đức. Vì thế Chúa dạy: hãy làm việc đạo đức một cách khiêm nhường. “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả, chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật: Chúng đã được phần thưởng rồi. Còn con, khi cầu nguyện, con hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha của con, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho con” (Mt 6,5-6). Chúa Giêsu cũng nói như vậy về ăn chay (Mt 6,16-18) và làm việc từ thiện (Mt 6,1-4). 4. Bước vào niềm hy vọng mới. Tôi có cảm tưởng là hiện nay, vì thương Hội Thánh, Chúa đang dùng nhiều cách, kể cả những cách gây nhục nhã đớn đau, để thanh luyện Hội Thánh. Lúc này hơn bao giờ hết, Hội Thánh ý thức: Chính những người của Hội Thánh đang rất cần được cứu độ, chính người người của Hội Thánh cần được thánh hoá hằng ngày, trước khi nói đến chuyện mình vinh dự đi cứu độ và thánh hoá thế gian. Mầu nhiệm Hội Thánh sẽ luôn luôn là mầu nhiệm đã xảy ra cho thánh Phêrô đấng Chúa chọn đứng đầu Hội Thánh. Có lúc Ngài đã chủ quan tự hào mình đạo đức vững vàng, đã tuyên xưng đức tin một cách mạnh bạo, đã dám coi mình trung tín đến cùng. Nhưng Ngài đã té ngã một cách thê thảm. Chối Thầy đến ba lần, trước những áp lực chẳng nặng nề là bao. Nhưng Chúa Giêsu đã đoái nhìn Ngài. Ngài đã khóc lóc ăn năn. Ngài là thánh, ở chỗ đã sa ngã nhưng đã được ơn trở lại. Chúng ta cũng là những người tội lỗi được ơn trở về. Hội Thánh gồm những người như vậy. Nhìn nhận sự thực đó chính là sự thánh thiện, có sức truyền bá Tin Mừng, chứ không phải nhờ những phô trương quyền lực và tự hào về những lý thuyết và chủ trương thánh thiện của mình. Tôi vẫn nghĩ rằng: Phép lạ lớn nhất hiện nay là những tâm hồn được đổi mới một cách âm thầm. Họ được tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sự sinh lại này được thực hiện một cách hết sức thầm lặng khiêm tốn. Cây to đổ xuống thì gây nên tiếng động lớn. Cây mọc lên thì âm thầm, lặng lẽ. Thành ra nhiều khi tiếng động lớn lại là dấu hiệu một sự sụp đổ lớn. Mùa Xuân thiêng liêng đang mở rộng nhờ những bước đi nhỏ âm thầm khiêm tốn, theo sự hướng dẫn linh động của Chúa Thánh Thần “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Người ta nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thánh Thần sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8). Tất nhiên, Chúa Thánh Thần trong việc tái sinh chúng ta sẽ không miễn cho chúng ta nhiệm vụ phải phấn đấu với chính mình, phải thường xuyên cầu nguyện và tỉnh thức, nhất là khi Chúa để cho ma quỉ tiến công để thử thách ta trên đường ta quyết tâm đi theo Chúa trọn đời. Nên nhớ điều này: Nếu chính mình ta không hết sức phải tìm ơn tái sinh, thì những bước nhỏ thoái hoá sẽ lại dần dần đưa ta tới vực thảm hoạ, như trường hợp Salomon xưa.
Chuyến đi ngoại quốc vừa qua của tôi kéo dài 20 ngày. Từ ngày 18-6 đến 08-7-2002. Mục đích chuyến đi Rôma là để thăm Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Nhưng khi đến Paris, tôi bị trọng bệnh, phải vào bệnh viện. Sau xuất viện, tôi về tĩnh dưỡng ở chủng viện các cha thừa sai Paris. Khi sức khoẻ có vẻ đã khá, tôi trở về Việt Nam. Bỏ đi Rôma. Những ngày ở Paris, dù ở bệnh viện, dù ở chủng viện các cha thừa sai, tôi chỉ làm hai việc này: Đọc sách và cầu nguyện. Đọc sách thì ít, mà cầu nguyện thì rất nhiều. Cho nên, kết qủa mà tôi muốn chia sẻ ở đây là kết qủa tinh thần. Trong chia sẻ này, tôi chọn lựa những gì có khả năng bồi dưỡng tu đức và mục vụ, đặc biệt là báo động và dự báo. Nội dung chia sẽ gồm hai phần: Phần 1: Nêu lên một số những chuyển biến tôi cho là đáng ngại trong tình hình hiện nay, đã xãy ra tại nước ngoài. Phân 2: Một vài cảm nghĩ của tôi trước những chuyển biến đáng ngại này. PHẦN I: NÊU LÊN MỘT SỐ NHỮNG CHUYỂN BIẾN TÔI CHO LÀ ĐÁNG NGẠI TRONG TÌNH HÌNH ĐÓ ĐÂY TẠI NƯỚC NGOÀI. Chỉ nói về những chuyển biến đáng ngại, không có ý nghĩa là không có những chuyển biến tốt. Nhưng ở đây, lúc này, tôi tự giới hạn, vì lý do thời giờ có hạn và lý do cần báo động sớm. 1. Người chủ mạnh nhất. Người chủ mạnh nhất càng ngày càng mạnh, đang điều khiển quần chúng khắp nơi, chính là lòng ước muốn của quần chúng. Lòng ước muốn này như ngọn lửa luôn tăng cường nhiệt độ: Ước muốn rồi thèm muốn, rồi tham muốn; từ đó, nảy sinh muốn đấu tranh, muốn cạnh tranh, muốn chiến tranh. Đối tượng của lòng ước muốn là có hơn nữa. Nếu phân tích kỹ, thì cái mà lòng ước muốn nhắm tới là: Đáp ứng những nhu cầu sau đây về cuộc sống sung sướng. a. Nhu cầu kinh tế, muốn có nhiều tiền hơn.
b. Nhu cầu kiến thức, muốn có nhiều hiểu biết hơn.
c. Nhu cầu thông tin, muống có nhiều phương tiện để giao dịch hơn.
d. Nhu cầu địa vị xã hội, muốn có nhiều danh vọng hơn.
đ. Nhu cầu giải trí, muốn có nhiều phương tiện và thời giờ giải trí hơn.
e. Nhu cầu bảo hiểm an sinh, muốn có nhiều bảo đảm về mọi mặt cho cuộc sống hơn. Những nhu cầu trên đây là chính đáng. Nhưng nhu cầu tín ngưỡng, triết học, để biết sống là người tốt, ý thức ý nghĩa cuộc đời, tuy rất quan trọng, thì xem ra lại không có chỗ trong danh sách các thư ước muốn mạnh của đa số quần chúng hiện nay. Lòng ước muốn quần chúng được hằng ngày nuôi dưỡng, khích lệ, sáng tạo bằng quảng cáo, các tiếp thị, các hình ảnh đủ loại, các báo chí. 2.Xuất hiện bạo lực: Bạo lực dưới nhiều hình thức: - Bạo nghĩ: Nghĩ ra những cái xấu một cách rất bạo.
- Bạo ngôn: Nói những lời xấu một cách rất bạo.
- Bạo hành: Hành động hại người một cách rất bạo.
- Bạo hưởng: Hưởng lạc thú một cách rất bạo.
- Bạo tàn: Tàn phà danh dự người khác một cách rất bạo. 3. Gia đình khủng hoảng: Khuôn mẫu gia đình truyền thống đang bị vỡ nát. Thay vào đó là những gia đình sau đây: a. Nam nữ sống chunh chỉ có hôn phối đời.
b. Nam nữ sống chung không có hôn phối nào, dù đời dù đạo.
c. Bố nuôi conmà không có mẹ, vì mẹ bỏ đi.
d. Mẹ nuôi con mà không có bố, vì bố bỏ đi.
đ. Con ở với bố đã cưới vợ người khác.
e. Con ở với mẹ đã cưới người chồng khác.
f. Hai đàn ông, một ông là chồng, một ông là vợ.
g. Hai đàn bà, một bà là chồng, một bà là vợ.
h. Trẻ con bơ vơ, bị bỏ rơi, không cha không mẹ. 4. Dững dưng với tôn giáo và tục hoá những giá trị thiêng liêng: Số người đi lễ Chúa nhật tại Pháp khoảng 7%. Nhiều nơi phụng vụ trở nên một thứ sân khấu. Đức Hồng Y Ratzinger vừa mới phàn nàn về việc vũ và vỗ tay trong thánh lễ. 5. Cái nhìn về thởi gian: Về tôn giáo và chính trị, phần đông dân chúng, nhất là giới trẻ, chỉ có thể thuyết phục, nhờ các dân chúng hiện tại, chứ không bởi lý tưởng suông và chứng nhân quá khứ. 6. Khủng bố hàng giáo sĩ, đặc biệt là linh mục: - Tố cáo trên báo chí.
- Lôi ra toà án.
- Chỉ trích một cách độc đoán. Xin kể một chuyện có thật, mà một người bạn mới kể cho tôi thứ hai vừa qua từ Hoa Kỳ. Một linh mục bị một gia đình công giáo Việt Nam tố cáo với Toà Giám Mục là cách đây mười 15 năm, linh mục đó đã có hành vi lợi dụng với ba đứa con trẻ của gia đình. Lập tức Toà Giám Mục ra lệnh cha đó ngưng chức làm cha sở, không được giảng, không được làm lễ công khai trước cộng đoàn. Toà Giám Mục lập một uỷ ban điề tra.
Toà Giám Mục báo cho công an, mời đến làm hồ sơ xét hỏi.
Toà giám Mục và công an, mời đến làm hồ sơ xét hỏi. Tòa Giảm Mục và công an mời một số các bác sĩ và khoa học tâm lý đến khảo nghiệm xem linh mục bị cáo, theo khoa học, có khuynh hướng về đàng tình dục lệch lạc không. Tòa Giám Mục và công an cấm linh mục không được ra khỏi giáo phận, cho đến khi kết thúc vụ án. Linh mục phải tìm luật sư bào chữa. Mỗi giờ làm việc với luật sư là 300 đô. Kết qủa điều tra chưa tìm được đủ chúng cớ buộc tội linh mục. Nhưng những biện pháp thì đã gây ra bốn kết qủa thảm thương này: - Linh mục xuống tinh thần , suy sụp tâm lý.
- Linh mục bị quần chúng nhìn với con mắt nghi ngờ.
- Một số linh mục chán nản, muốn xin hồi tục.
- Một số người muốn đi tu , thấy vạy mà bỏ ý muốn đi tu. Ở Pháp, một linh mục trẻ mới tự tử vì suy sụp tinh thần, cũng vì bị dư luận khủng bố. Đức Cha Falco, mới bị cựu chủng sinh tố cáo. Tòa không sử. Nhưng Ngài rất buồn, vì bị dư luận nhìn Ngài không còn như trước. PHẦN II: VÀI CẢM NGHĨ CỦA TÔI TRƯỚC NHỮNG CHUYỂN BIẾN ĐÁNG NGẠI NÀY. 1- Đừng tưởng những chuyển biến đáng ngại trên đây sẽ không xảy ra ở Việt Nam. Tôi thấy chúng đã tới. Tới từ từ. Xin rà lại từng khâu: a. Những ước muốn và tham muốn về vật chất, đang lớn mạnh và trở thành hệ thống công khai.
b. Bạo lực cũng đang lan mạnh.
c. Gia đình cũng đang lung lay.
d. Dững dưng với tôn giáo và tục hóa các bí tích cũng đang lan rộng.
đ. Bớt tin vào lý thuyết suông và nhân chứng qúa khứ cũng đã bắt đầu.
e. Chỉ trích các giám mục, linh mục, tu sĩ đang bùng lên. 2- Khi những chuyển biến đáng ngại này tràn mạnh vào Việt Nam, chúng sẽ gây thảm họa hơn bên Au Châu. Bởi vì bên Au Châu, vẫn còn có một số giáo dân rất trí thức, và sâu về các ngành chuyên môn, rất dấn thân, rất gắn bó với Chúa, rất nổi trong các lãnh vực trần thế. Ngoài ra, hàng Giám mục, tu sĩ, linh mục, vẫn có một số vị có trình độ cao, có uy tín quốc tế, rất có khả năng để đối thoại với xã hội. Còn Giáo Hội Việt Nam xem ra còn yếu về hai nhân tố đó. 3- Phải chuẩn bị đối phó ngay từ bây giờ bằng những cắch có thể làm được. Trước hết là mỗi người chúng ta phải thực tâm cải đổi đời sống tu đức và mục vụ. Đặc biệt là nêu gương về ước muốn. Phạm vi ước muốn nên tập trung vào chữ Là hơn là chữ Có. Ước muốn là người con Chúa, là người môn đệ Chúa, là người vâng phục thánh ý Chúa. Chớ đừng ước muốn có tiền tài, có địa vị, có chức quyền. Tập luyện và kiễm soát mình. a) Về phương tiện tránh bạo lực. - Tránh bạo nghĩ
- Tránh bạo ngôn
- Tránh bạo hành
- Tránh bạo hưởng
- Tránh bạo tàn Thời nay, người ta rất gớm ghê những loại hình bạo quyền, bạo chúa trong các tôn giáo. b) Tránh mọi hình thức tục hóa các bí tích, đừng biến các thánh lễ thành một thứ hàng hóam, đừng biến bàn thờ thành sân khấu. c) Khôn ngoan hơn trong các liên hệ với các gia đình. d) Tăng cường đời sống nội tâm, nhất là chầu Mình Thánh Chúa và suy niệm lời Chúa. 4- Xây dựng tình nghĩa giữa anh em linh mục. Cuộc đời Giám mục của tôi đã từng trải qua bao bệnh tật, yếu đau. Nhưng tôi cảm thấy những đau đớn do phần xác không thấm gì những đau đớn tinh thần do nội bộ gây nên cho mình. Nếu chỉ là vô tình thì cũng còn đỡ. Nhưng nếu là do ác ý, thì vết thương được cảm nhận là rất đau đớn. Trái lại, sức mạnh đã nâng đỡ tôi nhiều nhất, ngoài Chúa ra, chính là tình cảm thương của nhiều loại người, nhất là của linh mục. PHẦN KẾT: CHUYẾN ĐI NƯỚC NGOÀI VỪA QUA CỦA TÔI ĐÃ LÀ MỘT KHÚC NGOẶT TRONG ĐỜI SỐNG TÔI. Tôi thấy mình yếu và mỏng manh, nên đã xin Bộ Truyền Giáo, nếu được, thì cho phép tôi đệ đơn chính thức về hưu trước tuổi. Nhưng Bộ chưa cho. Từ khi bệnh đến giờ, tôi tập trung đời sống nội tâm nhiều hơn trước. Đời sống nội tâm khởi đi từ việc sinh lại hằng ngày vào đời sống mới, trong đó gắn bó mật thiết với Chúa tình yêu là căn bản. Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi một Đức Cha Phó rất thích hợp với chức vụ, có nhiều khả năng cần thiết cho việc lèo lái con tàu Giáo Phận. Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một số tình nghĩa vị tha chân thành, trung thành và tốt lành của các giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân và người ngoài công giáo, nhất từ bên Tòa Thánh. Qua kinh nghiệm, tôi xác tín rằng: Chúa nhân lành đến với tôi qua những tình nghĩa như thế. Để hôm nay, tôi dám nói: Trong đời, tình nghĩa là một thứ lương thực thiêng liêng qúi báu, nhất là trong các cơn thử thách gian nan. Sau cùng , tôi hết lòng cảm tạ Chúa vì mọi thử thách Chúa để xảy ra cho tôi và cho giáo phận. Tôi coi thử thách dưới mọi hình thức, là một trường đào tạo, là một lò thanh luyện. Kinh nghiệm cho phép tôi nghĩ rằng: Vượt qua những thử thách do những thành công đem lại thường khó hơn là vượt qua được thử thách do những thất bại gây nên. Sinh lại mỗi ngày,
đào tạo thường xuyên,
thanh luyện không ngừng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là thánh ý Chúa về mỗi người môn đệ Đức Kitô. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn vâng theo thánh ý chúa, theo gương Đức Mẹ Maria. Long Xuyên, ngày 01-8-2002
Theo thói quen từ trước đến giờ, lễ Thêm sức họ đạo nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên có một đặc điểm này là: Đơn giản về tổ chức, để quan tâm hơn về nội tâm. Đây là một thói quen tốt. Tôi mong thói quen này sẽ được tiếp tục. Cũng theo hướng đó, hôm nay tôi muốn nói chuyện với anh chị em đôi chút về đời sống nội tâm. Nếu anh chị em để ý, sẽ thấy trên đời này, mỗi người thường được nhìn và đánh giá theo một số đặc điểm liên quan đến đời sống, trong đó đặc điểm luân lý và nội tâm vẫn được coi là quan trọng. Thí dụ, có người được đánh giá là có đời sống kinh tế cao, đời sống văn hoá cũng cao, nhưng vì đời sống luân lý thấp, nên bị nghi ngờ. Hay ngược lại, có người được đánh giá là có đời sống kinh tế văn hoá thấp, nhưng đời sống luân lý rất cao, nên được nể trọng. Đó là cái nhìn bình dân hôm nay. Bên cạnh cái nhìn bình dân đó lại có một cái nhìn sâu sắc hơn, đó là cái nhìn để ý đến đời sống nội tâm. Thí dụ: người đó nói nhiều, nói mạnh, nói đủ thứ phê phán, nhưng đời sống nội tâm xem ra rất nghèo. Nghe họ, gặp họ, người ta cảm thấy có một cái gì giả tạo, tham vọng, tìm tư lợi, khiến người ta xa tránh và khép kín. Trái lại, người kia nói ít, nói nhẹ, nói không đụng chạm, nhưng đời sống nội tâm xem ra rất phong phú. Nghe họ, gặp họ, người ta cảm thấy như được một thứ hương thơm thiêng liêng, đem lại bình an tâm hồn, nâng lòng trí lên một thế giới tĩnh lặng, hoan lạc thanh cao, nên người ta dễ cởi mở gần gũi. Nếu tôi không lầm, thì hạnh phúc một cá nhân, một gia đình, một cộng đoàn, tất nhiêu tuỳ thuộc một phần quan trọng vào đời sống kinh tế, văn hoá, nhưng nhất định cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào đời sống nội tâm. Hơn nữa, tôi dám nói: Chính đời sống nội tâm mới là yếu tố quyết định số phận của mỗi người, của mỗi gia đình, của mỗi cộng đoàn. Vậy, đời sống nội tâm là gì? Thưa là: Đời sống bên trong con người, đời sống thiêng liêng, đời sống sâu thẳm của tâm hồn. Theo cách nói của giáo lý công giáo, thì đời sống nội tâm là đời sống tha thiết với các chân lý thiết yếu của cuộc đời. Như mục đích đời mình, chết rồi đi đâu. Đời sống nội tâm là sống có Chúa, với Chúa và trong Chúa. Xin đưa ra một ví dụ về đời sống nội tâm rất dễ hiểu: Mỗi người chúng ta phải là một đền thờ của Chúa, một đền thờ có Chúa ngự ở trong, một đền thờ nồng nàn bác ái khiêm nhường, một đền thờ ấm cúng tin yêu dẫn đưa ta từng giờ, từng ngày về Nhà Cha là Cõi thiên đàng hạnh phúc vĩnh cửu. Đời sống nội tâm là rất đẹp, rất cần. Nhưng, không phải chỉ biết nó, chỉ hiểu nó là đủ. Nhưng nhất là phải sống thực sự đời sống đó, và phải phát triển thực sự đời sống đó. Bằng những cách nào? Hôm nay, tôi chỉ đề nghị anh chị em mấy việc thực dễ, thực đơn giản, và cũng thực căn bản sau đây: Việc thứ nhất là mỗi ngày, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì được gọi Chúa là Cha, và mình được Chúa nhận làm con. Việc cảm tạ sẽ được thực hiện bằng cách cầu nguyện với kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Khi đọc kinh đó, chúng ta lấy đức tin nhìn vào Chúa là Cha đang ở trước mặt ta, đã và thương ta qua vô vàn ơn ban xuống cho ta hằng ngày. Việc thứ hai là hằng ngày chúng ta hãy dâng cho Chúa một vài bông hoa thiêng liêng. Bông hoa làm vui lòng Chúa nhất là bông hoa bác ái khiêm nhường, tận tuỵ với bổn phận, giàu tinh thần phục vụ ích chung, sống hài hoà với người xung quanh, biết để tâm giúp đỡ những người nghèo khổ, yếu đau, cô đơn, bị bỏ rơi. Việc thứ ba là hằng ngày hãy xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết trách nhiệm nội tâm, mà Chúa trao cho ta. “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trách nhiệm nội tâm có thể là đi sâu hơn vào việc suy gẫm Lời Chúa, năng lui tới hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể, nâng cao hơn trình độ kiến thức về thần học, Kinh Thánh, dấn thân hơn vào việc truyền giáo, hăng hái hơn trong việc đẩy lùi bóng tối sự ác bằng những gương sáng đời sống và đời sống chia sẻ thánh giá với Chúa Giêsu. Trên đây chỉ là vài gợi ý. Nếu chúng ta trung thành ít là với ba việc vừa nêu trên, thì đời sống nội tâm chúng ta sẽ được xây dựng một cách vững chắc, làm nền tảng cho con đường dẫn tới sự sống thực và hạnh phúc thực. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho chúng ta, nhất là cho các con chúng ta, biết giá trị đời sống nội tâm, và biết cách xây dựng, phát triển đời sống nội tâm. Tôi xác tín đây là một yếu tố rất cần cho ta giữa tình hình hiện nay. Bởi vì đang có những chuyển biến phức tạp có thể gây nguy hại cho đời sống đức tin và đạo đức nhân bản. Chỉ có sự thực là Đức Kitô, chỉ có Tin Mừng là Đức Kitô mới đem lại hạnh phúc thực cho chúng ta. Nhưng một điều sau cùng nên nhớ, là để có đời sống nội tâm, chúng ta phải phấn đấu rất nhiều. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn thêm sức cho chúng ta.
Đức Mẹ Maria là một phụ nữ rất đẹp. Đẹp vì được đầy ơn Chúa. Đẹp vì ơn vô nhiễm nguyên tội. Đẹp về chức làm mẹ Đấng Cứu thế. Đẹp vì niềm tin đơn sơ và tuyệt đối. Đẹp vì cuộc đời phục vụ tận tình với tất cả lương tâm người mẹ. Nhưng nét đẹp trùm phủ mọi nét đẹp nơi Đức Mẹ chính là đức
khiêm nhường. Khiêm nhường của Đức Mẹ thoang thoảng như một thứ hương thơm hảo hạng, thấm sâu và thấm đều vào mọi vẻ đẹp hồn xác nơi Đức Mẹ, tạo nên sức hấp dẫn phi thường. Khiêm nhường của Đức Mẹ mặn mà như một thứ muối linh thiêng, làm tăng mọi vẻ đẹp thể xác, tâm linh và siêu nhiên nơi Đức Mẹ, tạo nên một thánh lễ sống động, và di động đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm nhường của Đức Mẹ lung linh như một thứ ánh sáng dịu mát, toả ra từ mọi lời nói, từ mỗi bước đi, từ mỗi thái độ của Đức Mẹ, soi sáng dẫn đưa tâm hồn con người một cách nhẹ nhàng tế nhị. Khiêm nhường của Đức Mẹ huyền diệu như một thứ âm nhạc, vừa dịu êm, vừa nhắc nhở, gieo Tin Mừng vào con người, tới tận những tầng lớp rất sâu của tâm linh. Được gần gũi Đức Mẹ và dựa vào Phúc Âm, chúng ta có thể nói chung chung như thế về vẻ đẹp khiêm nhường nơi Đức Mẹ. Bây giờ chúng ta thử đi vào một vài phương diện đạo đức nơi Đức Mẹ, để lắng nghe Đức Mẹ dạy dỗ về nhân đức nền tảng này. 1- Khiêm nhường đón nhận ơn Chúa và chính Chúa. Điều quan trọng nhất về đạo đức là biết đón nhận các ơn Chúa. Biết đón nhận đòi hỏi một thái độ khó nghèo, mềm mại, khao khát và tỉnh thức. Khó nghèo là như đứa nhỏ biết mình thiếu thốn, yếu hèn, mong mỏi đợi chờ được nâng đỡ về mọi mặt. Mềm mại là như mảnh đất đã cày bừa, vun xới để hạt giống gieo vào dễ ăn rễ và phát triển. Khao khát là như người đau bệnh mong gặp được thầy thuốc giỏi, thứ thuốc tốt, cứu mình khỏi bệnh, giúp mình bình phục. Tỉnh thức là như trái tim yêu thương biết đọc được những tín hiệu, những dấu chỉ của người mình thương. Với những thái độ khiêm tốn tương tự như trên, Đức Mẹ đã đón nhận các ơn Chúa. Càng đón nhận, Đức Mẹ càng xác tín rằng: Tất cả đều do Chúa ban cho nhưng không, nhờ lòng thương xót Chúa. Chứ bản thân mình không chút gì xứng đáng, không có công phúc gì để mà tự cao. Đức Mẹ rất hiểu những chân lý đạo đức này trong Phúc Âm: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). “Có sự gì con có mà đã không lãnh nhận. Nếu con đã lãnh nhận tất cả, thì tại sao con có thể kiêu căng, như thể con đã không lãnh nhận?” (1Cor 4,7). Tấm lòng khiêm tốn là bàn thờ Đức Mẹ dâng mình làm lễ tế, với những tâm tình cung kính tạ ơn: “Linh hồn con ngợi khen Thiên Chúa, thần trí con hớn hở vui mừng. Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ con, đã đoái thương nhìn đến phận hèn người nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,46-48). Có những ơn Đức Mẹ nhận được và Đức Mẹ đã hiểu. Nhưng có những ơn Đức Mẹ nhận được mà Đức Mẹ không hiểu (Lc 2,50). Đức Mẹ chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (Lc 2,51) với đức tin khiêm nhường phó thác. Ấy là nói về các ơn Chúa mà Đức Mẹ đã đón nhận. Còn khi đón nhận chính Chúa, thì Đức Mẹ cũng đã gặp những điều quá bất ngờ, không thể nào hiểu nổi. Một Chúa uy quyền cao sang, mà lại sống trong thân phận kẻ nghèo, giữa đám dân nghèo, bị phản đối, bị bắt bớ, bị kết án và bị giết. Đón nhận Chúa là đồng thời cũng đón nhận con đường Chúa chọn. Đó là con đường hẹp, con đường đi qua khổ nạn và thập giá để tới vinh quang phục sinh và cứu độ. “Ai muốn là môn đệ của Thầy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày, mà đi theo Thầy” (Lc 9,23). Chỉ với đức tin khiêm nhường, mới đón nhận được Chúa cứu thế và con đường Ngài chọn. Đối với chúng ta điều khó nhất không phải là đón nhận Chúa, mà là đón nhận con đường Ngài chọn và Ngài dạy ta cũng phải đi theo. Về lý thuyết, chúng ta thấy dễ chấp nhận. Nhưng trên thực tế, chúng ta hẳn sẽ thấy không dễ chút nào. Nếu không có ơn Chúa thương giúp cách riêng, trong nhiều trường hợp, chúng ta sẽ tự lừa dối mình bằng lý do nọ lý do kia để tìm cách trốn tránh thánh giá. Cũng như, nếu không có ơn Chúa thương cách riêng, trong nhiều trường hợp, chúng ta cũng sẽ tự lừa dối mình bằng nhiều lý do này nọ, để biện minh cho con đường dễ dãi, đi tìm vinh quang độc hại, uy tín phù du, chứ không qua con đường Chúa đã đi và dạy ta đi theo, để góp phần vào việc cứu độ mình và những người, những nơi, mà Chúa sai chúng ta phục vụ. Hãy xem gương Đức Mẹ, hãy lắng nghe Đức Mẹ dạy dỗ ta về sự đón nhận các ơn Chúa và đón nhận chính Chúa. Điều kiện căn bản để đón nhận là khiêm nhường, rất khiêm nhường, hết sức khiêm nhường. 2- Khiêm nhường để Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường phục vụ. Hạ mình xuống, nếu chỉ là việc làm lẻ loi, lúc có lúc không, thì không phải là nhân tố đã làm cho Đức Mẹ nên người khiêm nhường. Người khiêm nhường là người hạ mình thường xuyên, trong mọi lúc, ở mọi nơi. Khiêm nhường như một tình trạng luôn luôn hằng ngày. Đức Mẹ được như vậy là nhờ Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35). Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ và ở lại với Đức Mẹ thường xuyên. Người hướng dẫn Đức Mẹ luôn sống lời “xin vâng”. Trong mọi hành vi lớn nhớ, từ tư tưởng, đến việc làm và lời nói, Đức Mẹ luôn thực thi thánh ý Chúa. Chính ở điểm đó, mà Đức Mẹ gắn bó với Chúa, có thực chất người mẹ Đấng cứu thế mà Chúa muốn. Như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Thầy, là mẹ Thầy” (Mt 12,50). Một bổn phận quan trọng trong sứ mạng của Đức Mẹ là bổn phận phục vụ. Đức Mẹ đã thực hiện bổn phận phục vụ đúng thánh ý Chúa. Phục vụ đúng thánh ý Chúa là phục vụ với sự thông minh tế nhị. Bằng những việc làm đáp ứng đúng nhu cầu, vào đúng lúc, với đúng cách. Chẳng hạn việc Đức Mẹ đi thăm bà thánh Isave, và việc Đức Mẹ xin Chúa Giêsu làm phép lạ trong tiệc cưới Cana. Đó là phục vụ đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, hợp ý Chúa. Rồi chẳng hạn sự Đức Mẹ sống thầm lặng kín đáo trong suốt cuộc đời, để đồng hành với Chúa Giêsu, và giúp đỡ các tông đồ. Đó cũng chính là phục vụ đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, hợp ý Chúa. Đi theo Đức Mẹ, những ai thường xuyên khiêm nhường dưới sự dẫn đưa của Chúa Thánh Linh, sẽ cảm nghiệm được sự thực thi ý Chúa là một lương thực hằng ngày cần thiết cho tu đức, mục vụ và truyền giáo. Chúa Thánh Thần sẽ đổi mới con người của ta một cách sâu sắc, âm thầm theo kế hoạch cứu độ của Ngài. Để tâm hồn ta trở thành suối nguồn tuôn chảy không ngừng những tâm tình cầu nguyện, ca tụng, tạ ơn Chúa trong bình an và tin tưởng. Cho dù giữa khổ đau chồng chất và gian nan tới tấp. Trường hợp như thế, ta có thể nói như thánh Phaolô xưa: “Chúng tôi mang kho tàng này trong những chiếc bình bằng đất, để tỏ rõ sức mạnh đến từ Thiên Chúa, chứ không từ chúng tôi” ( 2 Cor 4,7). Đó là một nhận thức đúng sự thực. Và nhận thức đúng sự thực như thế về mình và về Chúa chính là khiêm nhường. Sự khiêm nhường như thế rất cần trong việc phấn đấu vượt qua những thử thách. 3- Khiêm nhường cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa nặng nhiều thử thách. Đức Mẹ đã được danh dự cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Chương trình này không đơn giản dễ dàng. Nó đặt ra nhiều thắc mắc. Tại sao không cứu độ chỉ bằng yêu mến, mà còn phải bằng khổ đau? Tại sao không cứu độ chỉ bằng những việc từ thiện bác ái, nâng cao đời sống và nhân phẩm con người lên, mà còn phải bằng con đường khổ nhục dẫn tới thập giá? Tại sao không cứu độ chỉ bằng việc rao giảng Lời Chúa, ban phát các bí tích, mà còn phải bằng cách chấp nhận thân phận hạt lúa: Phải chôn vùi vào đất, phải chịu thối đi? Tại sao không cứu độ chỉ bằng những phép lạ, uy tín chính trị, kinh tế, xã hội, trí thức, tôn giáo, mà còn phải bằng sự từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu đi qua cửa hẹp? Đức Mẹ đã không ảo tưởng với những câu hỏi như thế. Bởi vì Đức Mẹ đã được báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm nơi Đức Mẹ bằng nhiều cách, trong nhiều giai đoạn. Đó là những thử thách, lúc công khai, lúc kín đáo âm thầm. Trong mọi trường hợp chịu lưỡi gươm đâm như thế, Đức Mẹ đã rất khiêm nhường. Khiêm nhường là thinh lặng không kêu trách. Khiêm nhường là tin cậy ơn Chúa trong thức tỉnh và cầu nguyện. Khiêm nhường là tha thứ cho những kẻ làm khổ và xúc phạm con mình. Khiêm nhường là kiên trì kính trọng những bước đi tuần tự của kế hoạch cứu độ. Thời gian đó là một hành trình dài. Nếu Đức Mẹ đã khiêm tốn đi vào con đường thử thách đớn đau, thì các con cái Mẹ cũng phải đi theo Mẹ mình. Chúng ta được mời gọi cộng tác vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu một cách khiêm nhường. Cũng nên nhớ điều này. Chính những thất bại của ta, những yếu đuối của ta, những bệnh tật của ta, ngay cả những vấp ngã của ta, tất cả đều nằm trong số những thử thách. Rất nhiều khi, Chúa dùng chúng để cứu ta ra khỏi tính kiêu căng và để ta biết tìm về với Chúa một cách khiêm nhường. Như vậy, điều quan trọng trong khi chịu thử thách, không hẳn chỉ là chịu đựng những thử thách một cách can đảm, mà là chịu đựng với tâm hồn khiêm tốn. Thiếu khiêm tốn, thì sự chịu đựng những thử thách sẽ chẳng có giá gì. Việc chia sẻ sự đau khổ của Chúa cứu thế, và việc chia sẻ sự đớn đau của Hội Thánh, và của nhân loại đòi rất nhiều khiêm tốn. Thánh Bênađô nói: “Chúa chọn người tội lỗi ăn năn hơn người trinh nữ kiêu ngạo”. Theo hướng đó, chúng ta cũng có thể nói: Chúng ta thà chịu những thất bại đưa ta tới khiêm nhường hơn là vui với những thành công làm ta tự phụ tự đắc. *** Hiện nay, Đức Mẹ đã được lên trời. Tại đây, Đức Mẹ đã thấy ứng nghiệm những lời Chúa phán xưa: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12). Và ngược lại, như lời Chúa nói với Capharnaum: “Và ngươi, hỡi Capharnaum, ngươi tưởng ngươi sẽ được nâng lên đến tận trời. Nhưng ngươi sẽ bị hạ xuống tới hoả ngục” (Lc 20,21). Khi còn sống ở trần gian, Đức Mẹ đã tin những chân lý đó. Đức Mẹ đã tin và đã thực hiện những chân lý đó. Những chân lý đó thuộc loại chân lý cứu độ. Đức Mẹ như cây xanh tươi, vươn thực cao, nhờ ăn rễ sâu vào chân lý đức khiêm nhường. Chúng ta hãy đến với Đức Mẹ, xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta. Xin Đức Mẹ giúp đỡ chúng ta trong ơn gọi sống khiêm nhường. Để chúng ta được dần dần trở thành tạo vật mới, nên giống hình ảnh Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 12,29) cũng như nên giống Đức Mẹ là “nữ tỳ hèn mọn của Chúa” giàu tình yêu xót thương (Lc 1,38). Chúng ta cầu xin với lòng xác tín: “Chúa luôn chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm tốn” (1 Pr 5,5).
Từ mấy ngày nay, tôi đã dành một ít thời giờ để tĩnh tâm riêng. Mục đích là để thông công vào những cuộc họp mặt bồi dưỡng tu đức đang và sẽ được tổ chức nơi các cộng đoàn tại địa phương này. Trong những giờ hồi tâm, tôi nhận thấy nơi bản thân mình có nhiều điểm đáng phải lo ngại. Đặc biệt là những điểm sau đây: 1- Chúa đã trao cho mình một số ơn thánh như những nén bạc để sinh lời (Mt 25). Nhưng xem ra mình chưa trình nạp cho Chúa đủ những món lời mà Chúa muốn. 2- Chúa đã gieo vào lòng mình nhiều hạt giống tốt (Mt 13). Nhưng xem ra một số hạt giống đó chỉ thành những cây èo uột, hoặc bị nghẹt không nở ra cây được. 3- Chúa đã truyền cho mình xây dựng một số công trình thiêng liêng (Mt 7). Nhưng xem ra một vài công trình đã không được xây trên nền tảng vững chắc. Với những lo ngại như trên, tôi thấy: Đời mình tuy có một vài thành công, nhưng rất mong manh. Đời mình đã có những thua kém, nhưng đâu dám quyết là sẽ dễ dàng khắc phục. Đời mình đã có những thiếu hụt, mà có gì bảo đảm là sẽ bù đắp lại được. Những bóng mờ trên đây là ở trong đời tôi. Khi tôi nói ra, thì nhiều cá nhân, nhiều cộng đoàn cũng nhận ra rằng: Chính họ cũng có những bóng mờ tương tự như vậy. Thế là tất cả chúng tôi đều cùng chung một nhận thức: Mình yếu hèn, tội lỗi, nhiều vướng mắc, nhiều giới hạn. Lỗi của mình, lỗi tại mình, thì đừng đổ cho ai. Đó là nhận thức hợp lý. Trước những thực tế như vậy, tôi xin Chúa thương cho tôi một giải pháp. Tự nhiên, trí khôn tôi nhớ lại một lời thánh tông đồ Phaolô đã nói về Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Với lời đó, Chúa cho tôi hiểu giải pháp phải dùng, đó là khiêm nhường. Nếu khiêm nhường là một giải pháp mà Chúa chọn để cứu độ ta, thì ta cần tìm áp dụng giải pháp đó bằng những việc cụ thể. Tôi xin phép đưa ra vài gợi ý. Khiêm nhường là hết lòng cảm tạ Chúa đã thương cho ta nhìn thấy những sự thực về mình. Mình chẳng là gì. Mình chẳng đáng gì. Mình chẳng ra gì. Sự nhìn nhận những thực tế đó sẽ dắt ta đi vào một chỗ đứng xứng với sự thấp hèn của ta. Và lòng ta sẽ được bình an. Cố chấp không nhận biết mình có tội lỗi, đó là chià khoá mở cửa vào hoả ngục. Khiêm nhường là thực tình ăn năn sám hối về mọi lỗi lầm. Sám hối một cách đơn sơ nhưng với tấm lòng tan nát. Như người thu thuế mà Chúa Giêsu mô tả dưới hình một người đứng cuối nhà thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực nài van lòng thương xót Chúa. “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Khiêm nhường là tìm một lối thoát âm thầm. Chắc chắn là mình không thể thay đổi được tình hình bên ngoài. Vậy thì mình thay đổi chính mình, để giữa tình hình đó, mình sẽ chỉ là một mầm non chứa đựng bác ái, chứa đựng hy vọng, chứa đựng hy sinh và nguyện cầu. Nếu thực hiện được các việc âm thầm như vậy, thì đời ta cũng sẽ có một ý nghĩa Tin Mừng rồi. Âm thầm kiểu đó là lựa chọn của Thánh gia xưa. Khiêm nhường là tuân phục ý Chúa. Trên lý thuyết Phúc Âm, ý Chúa về chúng ta là rất rõ: “Ai muốn làm môn đệ Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Ý Chúa là như thế. Không được phép đổi khác. Đêm vừa qua, tôi trải qua một chiêm bao. Tôi cầm một cuốn sách khá dày. Cuốn sách nói về đời sống người môn đệ Chúa. Sách có nhiều đoạn. Đoạn nào cũng dài. Nhưng có một đoạn rất vắn. Chỉ vỏn vẹn một trang. Tôi thấy trong đó không viết chữ nào. Chỉ thấy in hình Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Tôi ngạc nhiên. Nhưng tôi dần dần hiểu ra điều Chúa nhắn gởi: Đầy tớ không trọng hơn Thầy. Thầy đã chịu đóng đinh vào thánh giá. Thì đầy tớ Chúa cũng đừng lấy làm lạ, nếu có ngày phải cùng chung số phận đó. Chúa đòi ta: Không những phải khiêm nhường vác thánh giá, mà còn phải chịu khiêm nhường đóng đinh vào thánh giá nữa. Bởi vì đó là con đường sẽ phá tan quyền lực kiêu căng tội lỗi, mở cửa Phục sinh. Đóng đinh vào thánh giá, đó là ý Chúa gởi cho ta hôm nay. Đóng đinh vào thánh giá Chúa sẽ không phải là một cầm giữ, nhưng là một giải thoát. Bởi vì đây là sự đóng đinh cái tôi tự ái, cái tôi nô lệ quyền lực tội lỗi, cái tôi tham vọng, cái tôi ích kỷ, cái tôi nông nổi, cái tôi nhu nhược chiều theo những khuynh hướng xấu thù địch với Phúc Âm. Thú thực là: Làm dấu thánh giá thì đã quá quen. Đeo thánh giá trên mình thì cũng dễ thôi. Tôn sùng thánh giá trên bàn thờ cũng chẳng khó gì. Nhưng vác thánh giá, mà là thánh giá nào, thì cũng đã là vấn đề không đơn giản. Phương chi sẵn sàng chịu đóng đinh vào thánh giá như Chúa Giêsu xưa, thì đó là việc hết sức khó chấp nhận. Dù sự ta chịu đóng đinh vào thánh giá mới chỉ là một chút khởi đầu. Thí dụ khi, vì bổn phận, ta chịu một phần nào nhục nhã, chịu một phần nào oan khổ. Hay thí dụ khi, vì phục vụ, ta chịu thử thách nặng nề, chịu thiếu thốn cùng cực, chịu âm thầm hy sinh. Đó chỉ là những khởi đầu rất nhỏ, rất nhẹ. Nhưng phải hiểu rõ những thực tế đó, và phải có một cảm nghiệm bản thân về những thực tế đó, thì chúng ta sẽ thấy được việc sống khiêm nhường thánh giá là không dễ gì. Nhưng nhất định phải có cách sống đó, vì nó là khí giới rất mạnh để thắng ma quỉ. “Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). Lời đó đúng cho mọi việc lành. Riêng đối với việc khiêm nhường, nhất là khiêm nhường đón nhận thánh giá và sẵn sàng chịu đóng đinh vào thánh giá, thì ơn bình thường xem ra chưa đủ, mà cần phải có ơn khác thường, mới đủ sức. Tự hào mình là người đủ sức khiêm nhường, đó là dấu chắc nhất của sự kiêu căng phá hoại Nước Chúa. Tôi nghĩ rằng: Hội Thánh địa phương ta sẽ được đổi mới mau lẹ và sâu sa về căn bản, nếu có được nhiều chứng nhân sống động của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, rất mực khiêm nhường và xót thương. Chúa rất muốn và đang chờ chúng ta trở thành những chứng nhân sống động như thế, để chuyển ơn cứu độ vào thế gian hôm nay, một thế gian đang có những báo động đáng phải suy nghĩ. Nên nhớ rằng: Chúng ta được Chúa sai đi, với trọng trách cộng tác vào kế hoạch cứu độ bằng con đường khiêm nhường thánh giá. Trọng trách cao thượng, nhưng đầy khó khăn. Phải nói là rất khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng nơi Đấng gọi ta và sai ta đi. Long Xuyên, ngày 15 tháng 8 năm 2002
Mỗi lần, khi nghe và thấy cảnh khai trường, tôi thường nghĩ vẩn vơ: Giá mình được đi học thêm, thì hay biết mấy! Nhưng, dù sao, nhất định cũng sẽ tìm cách học thêm, học thêm mãi. Tôi nghĩ: Dù ở tuổi nào, ở địa vị nào, ở trình độ nào, mọi người đều phải coi việc học thêm là hữu ích, nếu không nói là cần thiết. Học siêng, học hoài là một cách tỉnh thức. Chúa phán: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Một động lực nữa khiến tôi muốn học thêm, là nhận thức mình còn rất thua kém. Không những thua kém khi so sánh mình với những người khác, mà nhất là mình hiện nay thua kém với mức độ mà Chúa muốn về mình. Đó mới chính là động lực nền tảng. “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (5,48). Mình thua kém, nên phải phấn đấu học hành và rèn luyện thêm. Mỗi ngày tâm niệm như thế. Nhờ vậy, ngày nào cũng đều cố gắng bước thêm về phía trước, với những ước nguyện âm thầm, như: Được đọc thấy rõ hơn ý Chúa trong các thực tại nhân loại xảy ra thường ngày, để có những nhận định đúng đắn. Được trưởng thành hơn, nhờ chiều kích sâu sắc của tinh thần trách nhiệm và đức tin phát triển. Được trở thành người hơn, do sự gắn bó với Thiên Chúa đi vào chiều sâu nội tâm và cuộc sống. Tuy những ước vọng này vẫn còn là ước vọng, nhưng không ngừng đem lại niềm vui. Học hành với những ước vọng trên là học để biết khôn ngoan trong trí thức, trong đạo đức, trong cuộc sống, trong cách thi hành bổn phận của mình. Để trở nên “người đầy tớ trung thành và khôn ngoan” mà Chúa muốn (Mt 24,45). Kho tàng trí thức cần có sự khôn ngoan. Để sắp xếp thứ tự, giá trị nào cần ở trên, giá trị nào phải đứng dưới. Cái không giá trị thì không nên dùng. Cái có giá trị thì bảo tồn và phát triển. Tinh thần đạo đức cần có sự khôn ngoan. Để phân định thứ đạo đức thực và đạo đức giả. Để biết việc lành nào là thích hợp cho hoàn cảnh ầm thầm, mà không thích hợp với hoàn cảnh công khai. Để biết chọn lựa điều tốt, chế ngự nết xấu, sáng tạo vẻ đẹp mới trong mục vụ, truyền giáo và sống đạo theo nhu cầu của văn hoá và cuộc sống từng thời từng nơi. Cuộc sống cần có sự khôn ngoan. Để biết làm ăn, ứng xử, giao tế, liên hệ, đầu tư một cách hợp lý và có hiệu quả. Để nhạy bén, nắm bắt, phối hợp, dự báo, đề phòng một cách thông minh. Nhất là để tới được phần rỗi đời đời. “Vì được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8,36). Thi hành bổn phận rất cần khôn ngoan. Vì nhiều khi chỉ cần một chút tế nhị là thành công, chỉ vì một chút sơ hở là thất bại, chỉ do một chút chậm trễ là cơ may vuột qua mà không bao giờ trở lại. Như vậy, theo một cái nhìn triết học nào đó, thì đối với người hiểu biết, học nhiều là để nên người khôn, trước khi để nên người biết sản xuất, và người thông thái. Tưởng cũng nên nhớ lời Kinh Thánh: “Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung sống với Đức Khôn ngoan” (Kn 7,28). Trong viễn tưởng đó, khi dấn thân vào việc học để nên khôn, tôi phải dứt bỏ ba loại ảo tưởng sau đây. Ảo tưởng về mình. Thứ ảo tưởng về mình thường hay xuất hiện nhất là tưởng về một cái tôi lý tưởng sai lạc. Đó là cái tôi kiêu căng, tự đắc. Cái tôi muốn tự mình làm chủ đời mình, tài năng của mình, dự tính của mình, như thể không cần đến xã hội, người khác, cả đến ơn Chúa. Cái tôi không nhận mình có những giới hạn, những bất toàn, những vụng về, những khả năng rơi vào thất bại, và những sai lầm. Cũng là ảo tưởng về mình, khi tưởng rằng mình có quyền đòi hỏi người khác phải chấp nhận quan điểm của mình, ép họ phải đi theo sự lựa chọn, mà mình cho là tuyệt đối đúng. Cũng là ảo tưởng về mình, khi tưởng mình có quyền cắt nghĩa Lời Chúa theo ý riêng mình, hoặc có quyền tìm lợi riêng trong cái lợi chung của Hội Thánh và của Đất Nước. Ảo tưởng về tình hình. Sẽ là ảo tưởng về tình hình, khi tưởng rằng tình hình thế này là của những người đạo đức, còn tình hình thế kia là của những người tội lỗi. Cũng sẽ là ảo tưởng về tình hình, khi tưởng rằng một tình hình đạo đức sẽ không thể biến chất thành tình hình tội lỗi, và trái ngược lại. Cũng sẽ là ảo tưởng về tình hình, khi tưởng rằng một tình hình hưng thịnh sẽ không có những cơn lũ lụt ngầm đang phá hoại từ những nền tảng sâu sa nơi lòng người. Hoặc tưởng rằng một tình hình đen tối lại không có những bình minh đợi chờ mọc lên trong giây phút bất ngờ. Ảo tưởng về Thiên Chúa. Sẽ là ảo tưởng về Chúa, khi tưởng rằng Chúa là của riêng mình, của đạo công giáo mình, còn những nơi ngoài Hội Thánh mình thì vắng Chúa. Sẽ là ảo tưởng về Chúa, khi tưởng rằng Chúa sẽ mở cửa thiên đàng chỉ cho những ai xưng mình thuộc về Chúa, làm việc cho Chúa, chứ không có chuyện Chúa đón nhận những người ngoài, cho dù họ có tâm hồn ngay chính, biết thương người, phục vụ con người một cách vị tha. Sẽ là ảo tưởng về Thiên Chúa, khi tưởng rằng Thiên Chúa phải là một quyền lực mạnh, đầy uy tín không thể tự ý khó nghèo khiêm tốn như tại Bêlem và không thể chịu nhục tự nguyện trên thánh giá như ở núi Sọ. Tất cả ba thứ ảo tưởng trên đây đều thấy có nơi các tầng lớp cao trong tôn giáo thời Chúa Giêsu. Ngài dạy cho biết những ảo tưởng đó là rất sai. Đọc kỹ Phúc Âm thì thấy rõ. Vì thế, hôm nay chúng ta rất cần lên đường đi học để nên người khôn. Khôn không theo hướng khép lại,nhưng theo hướng mở rộng đón nhận các ơn Chúa dưới mọi hình thức. Trường dạy khôn là Lời Chúa và mọi thực tại được soi sáng bởi Lời Chúa. Thầy dạy khôn trên hết chính là Thiên Chúa của ta. Tôi nghĩ: Bí quyết của một chuyến đi là có người hướng dẫn tốt. Bí quyết chuyến đi của đời ta là có Thần Linh của Đức Kitô hướng dẫn. Ngài hướng dẫn chuyến đi của đời ta về Nhà Cha. Tới đó, chúng ta sẽ thấy Nhà Cha của chúng ta cũng là Nhà Cha của tất cả những ai “được Chúa đoái thương, vì họ sống hèn mọn khiêm tốn, vì họ sám hối, và vì họ kính sợ các Lời Chúa dạy” (Is 66,2). Thiết tưởng ta nên nhìn cảnh dễ thương đó như một bài học vỡ lòng, để tập nên người khôn ngoan.
Trong kinh “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành” có một câu rất gợi ý đối với tôi. Tôi thường đọc câu đó, để cầu nguyện với Đức Mẹ. Câu đó là “Xin ghé mắt thương xem chúng con”. Khi nói lời đó với Đức Mẹ, tôi thường nhìn lên đôi mắt Đức Mẹ. Tôi nhìn trong đức tin huyền nhiệm.Tôi thấy đôi mắt Đức Mẹ thực là đẹp. Nhất là khi đôi mắt ấy nhìn tôi. Nếu cái đẹp nhất nơi một người chính là cái nhìn của đôi mắt họ, thì nơi Đức Mẹ, điều đó không những rất đúng, mà còn rất khó diễn tả. Ở đây, tôi chỉ xin diễn tả một cách thô sơ, nghèo nàn, không phải cái nhìn của Đức Mẹ, mà là những gì tôi cảm nghiệm được từ cái nhìn của Đức Mẹ. Nếu con mắt là cửa sổ tâm hồn, thì cái nhìn của đôi mắt Đức Mẹ hé mở cho tôi thấy tâm hồn Đức Mẹ là tâm hồn sống trọn vẹn Tin Mừng. Thực vậy, đôi mắt Đức Mẹ truyền cảm hơn mọi lời nói. Có lúc đôi mắt ấy như nói về tâm hồn Đức Mẹ đang cầu nguyện. Cầu nguyện của Đức Mẹ chủ yếu là lắng nghe Chúa. Vì thế, đôi mắt Đức Mẹ bao giờ cũng như đắm chìm trong thinh lặng. Một thinh lặng khiêm tốn. Một thinh lặng đợi chờ. Rồi có lúc đôi mắt ấy như nói về tâm hồn Đức Mẹ đang suy gẫm. Suy gẫm của Đức Mẹ là đặt đời mình và mọi sự xảy ra cho đời mình dưới ánh sáng Lời Chúa. Lời Chúa trong Kinh Thánh. Lời Chúa là chính Đức Kitô. Lời Chúa soi sáng, hướng dẫn Đức Mẹ. Rồi, có lúc đôi mắt ấy như nói về tâm hồn Đức Mẹ đang vâng phục thánh ý Chúa. Vâng phục Chúa nơi Đức Mẹ là khiêm tốn coi mọi sự Chúa chọn cho mình đều là quà tặng quí giá. Mặc dù điều Chúa chọn cho có thể là những khổ đau, nó vẫn mang giá trị cộng tác vào kế hoạch cứu độ. Rồi, có lúc đôi mắt ấy như nói về tâm hồn Đức Mẹ đang nức nở khóc thương. Khóc thương nơi Đức Mẹ là xót xa cho số phận những người cứng lòng không chịu sám hối trở về đàng lành, là đau đớn nhắn gởi các con cái Mẹ chớ có dại đi vào những con đường dẫn tới hoả ngục, là cảm thương những người đang bị hành hạ bởi cảnh bất công, hận thù, bệnh tật, nghèo túng. Mấy gợi ý trên đây cho phép chúng ta hiểu: Tâm hồn Đức Mẹ là đền thờ của Chúa. Chúa ở trong đó. Tình yêu Chúa hoàn toàn ngự trị trong đó. Đức Mẹ sống trọn vẹn với Chúa, sống trọn vẹn trong tình yêu Chúa. Và như thế, chính là Đức Mẹ sống Tin Mừng một cách trọn vẹn. Tới đây, đôi mắt Đức Mẹ có thể dạy ta thêm chút nữa. Đó là sống Tin Mừng không phải chủ yếu thuộc lòng giáo lý, hiểu sâu xa thần học và Kinh Thánh, nhưng là gắn bó với Thiên Chúa là nguồn mạch Sự Sống, và là chọn cho mình những con đường đưa tới nguồn mạch sự sống. Tôi xin đưa ra một kinh nghiệm bản thân. Có nhiều lần, tôi gặp những trường hợp rất khó khăn, tôi cầu xin Đức Mẹ thương cứu tôi thoát khỏi những trường hợp đó. Thế rồi, tôi gặp được cái nhìn của Đức Mẹ đầy xót thương, đầy âu yếm. Cái nhìn nhân ái của Mẹ không nói gì, nhưng không nói mà như nói rất rõ, rất sâu vào trái tim tôi. Tự đáy lòng, tôi nghe được ý Đức Mẹ. Tôi hiểu là Đức Mẹ cảm thương nỗi lo lắng ưu phiền của tôi. Những trường hợp mà tôi đề cập đến, coi là rất khó khăn, rất khó chịu, nhưng theo cái nhìn của Đức Mẹ thì chúng lại là đường dẫn tới sự sống, sự sống cho tôi, sự sống cho người khác. Vì thế, Đức Mẹ sẽ không cất đi những trường hợp đó đâu. Nhưng, Đức Mẹ sẽ ở bên tôi, và có thể nói, Đức Mẹ sẽ cùng với tôi bước đi tới cùng con đường thử thách. Nghe vậy, tôi được bình an và xin vâng ý Chúa trong tâm tình cảm tạ. Nhiều kinh nghiệm sống đạo cũng đã cho ta thấy: Đức Mẹ hay ghé mắt thương xem chúng ta, nhất là khi chúng ta chạy đến với Đức Mẹ. Nhưng chúng ta hiểu: Không phải hễ Đức Mẹ ghé mắt thương xem chúng ta, thì thế nào Đức Mẹ cũng thực hiện những gì ta cầu khấn. Không luôn thế. Bởi lẽ chính vì thương xót chúng ta, nên Đức Mẹ sẽ cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng ta, không phải bất cứ sự gì ta xin, mà là sự Chúa thấy là tốt hơn và đem lại sự sống thiêng liêng dồi dào hơn cho ta. Sau mấy suy nghĩ trên đây, chúng ta nên tìm lấy cho mình một số áp dụng. Chẳng hạn, từ nay sẽ tập năng nhìn lên Đức Mẹ. Nhìn như một lời chào. Nhìn như một lời cảm tạ. Nhìn như một lời dâng hiến. Nhìn như một gởi gắm tâm tư. Nhìn như một lời nguyện sám hối trở về. Một áp dụng khác tôi tha thiết ước mong được đưa ra áp dụng, đó là cầu xin Đức Mẹ giúp chúng ta cũng có được cái nhìn giống Đức Mẹ, cũng có được đôi mắt giống Đức Mẹ, và tất nhiên, cũng có được một tâm hồn giống Đức Mẹ, ít ra phần nào. Tức là: Cái nhìn của đôi mắt phản ánh trái tim cầu nguyện. Cái nhìn của đôi mắt mở ra từ trái tim suy niệm. Cái nhìn của đôi mắt chiếu sáng trái tim vâng phục thánh ý Chúa. Cái nhìn của đôi mắt toả ấm từ trái tim thương xót. Ra khơi trong một thế giới phức tạp, người truyền giáo có thể dùng những cái nhìn như thế để gieo vãi Tin Mừng, để làm chứng cho những giá trị cao thiêng. Bởi vì khi nhìn cái nhìn của đôi mắt, người ta có thể đọc được rất nhiều, nghe được rất nhiều, cảm được rất nhiều, hiểu được rất nhiều, và đo được rất nhiều chiều kích nội tâm. Tôi tin tưởng rằng: Rất nhiều người sẽ nhận được tín hiệu Tin Mừng qua cái nhìn của đôi mắt ta, khi cái nhìn của đôi mắt ta phản chiếu tâm hồn ta thực sự là đền thờ của Chúa (1 Cor 3,16-17), là nơi ta phượng thờ Chúa (Ga 4,21-23), là nơi Nước Chúa ngự trị (Mt 5,3-12), là nơi có lửa tình yêu xót thương (Lc 1,38), là nơi có không khí dịu mát toả ra từ Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường (Mt 12,29). Tôi càng rất tin tưởng rằng: Lời nguyện cầu: “Xin Mẹ ghét mắt thương xem chúng con” sẽ là một hành trang gọn nhẹ, nhưng quí giá, cho chúng ta trên mọi chặng đường cuộc sống. Cuộc sống người môn đệ Đức Kitô sẽ không thiếu thử thách. Bởi vì chúng ta tự nguyện: “từ bỏ mình, vác thánh giá mình, mà theo Đức Kitô” (Mt 16,24), thì chắc chắn chúng ta sẽ phải chia sẻ số phận của Đức Kitô. Không nhiều thì ít. Nhưng cũng chắc chắn là Đức Mẹ sẽ ghé mắt thương xem chúng ta, và chúng ta sẽ được hạnh phúc khi thấy Đức Mẹ làm cho chúng ta được sống, được vui, được cậy tin, và được bình an tâm hồn.
Từ nhỏ, tôi được dạy làm dấu thánh giá. Vừa vẽ hình thánh giá trên trán, trên miệng, trên ngực, vừa đọc lời cầu: “Lạy Chúa chúng con, vì dấu thánh giá, xin chữa chúng con cho khỏi kẻ thù. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Việc lành nhỏ đó vẫn được thực hiện đều đều cho tới hôm nay. Cử chỉ bên ngoài thì vẫn nguyên như cũ. Nhưng ý thức bên trong thì có tiến triển. Tiến triển ít là ở những điểm sau đây: 1- Nhận biết mình luôn trong tình trạng phải chiến đấu với một kẻ thù nguy hiểm. Kẻ thù đó là tội lỗi. 2- Khám phá ra dần dần những bộ mặt của kẻ thù tội lỗi. 3- Xác tín Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng giải cứu con người khỏi kẻ thù tội lỗi. Tôi xin phép chia sẻ vắn tắt mấy điều vừa kể. 1- Chiến đấu với kẻ thù tội lỗi. Cuộc chiến đấu với tội lỗi là một trách nhiệm cao cả và nặng nề mà những ai có lương tâm lành mạnh đều cảm nhận được. Cuộc chiến đấu này phải khởi đi từ chính nội tâm. Nội tâm mỗi người là một chiến trường giữa thiện và ác. Có thiện tâm và có ác tâm. Có ước muốn điều lành và có thèm khát điều tội lỗi. Tất nhiên, lý tưởng của ta là thiện phải thắng, ác phải thua. Chủ trương của ta là sức ước muốn điều lành phải mạnh và được triển nở, còn sức thèm khát tội lỗi phải yếu và bị đẩy lùi. Thế nhưng, thực tế không luôn xảy ra đúng với lý tưởng và chủ trương đó. Để có một ý thức cụ thể về thực tế ấy, chúng ta đọc lại một đoạn thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Rôma: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Linh, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy, tôi làm gì tôi chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm... “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thực vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Còn sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. “Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm điều thiện, thì sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn sẵn sàng trong các chi thể tôi. “Tôi là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này. Thưa Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14,25). Đoạn thư trên đây diễn tả cuộc chiến đấu nội tâm. Cuộc chiến đấu này là của thánh Phaolô, và cũng là của tôi, và của mỗi người chúng ta. Thánh tông đồ cảm thấy rõ: Tội lỗi là một kẻ thù rất gần, rất mạnh và rất nguy hiểm. Cuộc chiến đấu với kẻ thù tội lỗi trong nội tâm là cực kỳ cam go. Khi tội lỗi hiện hình với bộ mặt tội lỗi rõ ràng, thì đánh nó cũng đã là việc không dễ. Phương chi, khi tội lỗi lẻn vào lòng ta một cách tinh vi, với nhiều bộ mặt khác nhau, thì cuộc chiến đấu với tội sẽ đòi rất nhiều tỉnh thức, nhất là cần rất nhiều ơn Chúa. Một người thích gì làm đó, muốn gì được vậy, chắc không thể có kinh nghiệm về cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác. Mà không có kinh nghiệm về cuộc chiến này đâu có thể là một dấu chỉ tốt về đạo đức. Một trong những dấu chỉ tốt về đạo đức là biết phân định, đâu là lành, đâu là tội lỗi. 2- Một vài bộ mặt khó nhận ra của kẻ thù tội lỗi. Để gợi ý, xin nêu lên một ví dụ trích từ Phúc Âm. Phúc Âm thánh Matthêu có đoạn sau đây: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm phép lạ đó sao? Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ rằng: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-24). Đọc đoạn Phúc Âm trên đây, có lẽ chúng ta ngạc nhiên, tự hỏi: Những người đó làm toàn việc lành, tại sao lại bị Chúa xua đuổi và bị gọi là bọn làm điều gian ác! Nếu suy nghĩ sâu xa một chút và nếu học thêm một chút về tu đức, chúng ta sẽ thấy: tội lỗi đã lẻn vào các việc lành đó một cách tinh vi. Điều đó thì người đời khó thấy, nhưng Chúa thì thấy rõ. Vì Ngài thấu suốt tâm can con người. Thực vậy, ý muốn của Chúa Cha là người ta không những phải làm các việc lành, mà còn phải làm các việc lành với ý hướng ngay lành. Nói tiên tri, trừ quỉ, làm phép lạ là những việc lành. Một số người được Chúa trao quyền để làm các việc lành đó. Nhờ quyền uỷ nhiệm, họ làm được cácviệc lành như thế. Nhưng nếu khi làm những việc lành ấy, họ có ý hướng xấu, thì họ mang tội. Thí dụ ý hướng mưu cầu tư lợi cho cá nhân hoặc cho tập thể, như kiếm tiền bạc, gây thanh thế, cạnh tranh quyền lực, thỏa mãn tính kiêu căng. Người mang những ý hướng như thế bị Chúa gọi là “bọn làm điều gian ác”. Bởi vì họ lợi dụng ơn Chúa trao ban, hướng vào những mục đích nghịch với ý muốn Chúa Cha. Hơn nữa, mặc dù không lợi dụng ơn Chúa vào mục đích xấu, nhưng nếu nhận ơn Chúa, mà không sinh lời, cũng có thể bị coi là tội. Về khía cạnh này, chúng ta nên đọc lại sự kiện sau đây cũng được kể trong Phúc Âm thánh Matthêu: “Sáng sớm, khi trở vào thành, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Trông thấy cây vả ở bên đường, Người lại gần, nhưng không thấy được trái nào cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: Từ nay, không bao giờ mày sẽ có trái nữa. Lập tức cây vả chết khô” (Mt 21,18-19). Với sự kiện này, Chúa dạy ta một thực tế cũng thường xảy ra nơi nhiều người, kể cả những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, chăm sóc đoàn chiên, mở mang Nước Chúa. Chúa ban cho ta nhiều ơn và muốn ta dùng ơn Chúa ban để sinh nhiều trái tốt. Qua nhiều năm tháng, Chúa đến tìm trái. Biết đâu Chúa thấy chỉ có lá. Lá thì nhiều, và xanh tốt. Nhưng đó chỉ là những việc bề ngoài. Cơ sở khang trang, lễ nghi trọng thể, qui tụ đông đúc, hội nghị hội đoàn, nhiều bài nói, nhiều dấn thân. Nhưng tất cả chỉ là lá. Trái mới là điều Chúa muốn tìm. Trái là sự ăn năn sám hối, trở về đường nhân đức. Trái là lửa bác ái được đốt lên trong các linh hồn. Trái là những tâm hồn khát khao Lời Chúa, khắc khoải đi tìm Chúa. Trái là tỉnh thức khiêm nhường đón nhận ý Chúa và phấn đấu thực thi ý Chúa đến cùng. Đáng lẽ phải sinh trái, mà không có trái, những cây vả là những con người như thế sẽ bị trừng phạt. Hình phạt là rất nặng nề. Phúc Âm kể: Lập tức cây vả đang xum xê lá cánh, liền bị chết khô. Trên đây chỉ là vài bộ mặt khó nhận ra của kẻ thù tội lỗi. Từ đó chúng ta có thể thấy được tính cách phức tạp và quan trọng của cuộc chiến chống kẻ thù này. Ở chỗ kẻ thù ẩn hiện dưới rất nhiều hình thức, ở chỗ nó kéo con người rời xa thánh ý Chúa, tha hóa chính con người, và ở chỗ nó dẫn con người tới hình phạt, mà hình phạt nặng nhất là mất phúc thiên đàng, phải trầm luân trong lửa hoả ngục đời đời. Vậy, phải giải quyết vấn đề thế nào? Thưa câu trả lời đã có sẵn trong Phúc Âm. 3- Xác tín Đức Kitô là Đấng cứu ta khỏi kẻ thù tội lỗi. Thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Giêsu thế này: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,28). Ngài đã xoá tội trần gian bằng cách chịu tử nạn. Thánh Phêrô viết: “Anh em biết rằng... Anh em đã được cứu chuộc nhờ máu của Con Chiên vẹn toàn, không tì tích, là Đức Kitô” (1 Pr 1,18). Đi vào chi tiết của việc cứu chuộc, thánh Phaolô đề cao sự khiêm nhường vâng phục và hy sinh mạng sống của Đức Kitô. Ngài viết: “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-8). Một Đức Kitô được mô tả như trên phải được hiểu là một Đấng Cứu độ giàu tình yêu thương xót. Cũng vậy, thánh giá Đức Kitô được mô tả như trên cũng phải được hiểu là một biểu tượng của tình yêu cứu độ đầy thương xót. Vì thế, khi đọc lời cầu: “Lạy Chúa chúng con, vì dấu thánh giá, xin cứu chúng con cho khỏi kẻ thù”, chúng ta tin cậy ở Thiên Chúa giàu tình yêu xót thương. Thiết tưởng, do lòng Chúa xót thương ta, nên giờ nào, ngày nào Chúa cũng ban ơn cứu độ. Thánh Phaolô quả quyết: “Chính bây giờ là thời thuận tiện, chính bây giờ là ngày cứu độ” (2 Cor 6,1-2). Chúng ta cũng rất mong và hằng cầu xin như vậy. Chúa ban ơn, nhưng chúng ta phải biết đón nhận, phải biết dùng nên, phải biết cộng tác với ơn Chúa ban. Để biết tránh dịp tội. Để biết chiến thắng cơn cám dỗ xúi ta phạm tội. Để biết sám hối, nếu chẳng may sa ngã. Để biết đổi mới cách sống tầm thường ra cách sống cao thượng. Để biết trở thành người ham mộ nhân đức, chuyên chở ơn cứu độ vào môi trường xã hội ta đang sinh sống. Tôi có cảm tưởng là: Ngày nay, rất nhiều người đã mất ý thức về tội, đang dần dần rời xa ý nghĩa Phúc Âm của sự cứu độ, đang đặt hy vọng cứu độ vào tiền bạc và các thần tượng hão huyền, đang sống trôi nổi, mất phương hướng giữa mảng đời thiện ác lẫn lộn. Tình hình như thế không báo hiệu một tương lai sáng sủa. Bổn phận chúng ta là giữ mình, đừng để rơi vào những hiểm hoạ tội lỗi, đồng thời cũng có bổn phận cộng tác với Chúa, để đưa mọi người vào con đường cứu độ đích thực. Với ý thức như vậy, chúng ta thực thi bổn phận, bắt đầu bằng việc nhớ làm dấu thánh giá một cách khiêm nhường và tin cậy. “Lạy Chúa chúng con, vì dấu thánh giá, xin cứu chúng con cho khỏi kẻ thù. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen”.
Mỗi sáng, trong giờ cầu nguyện, tôi tự hỏi: Hôm nay tôi sẽ hoạt động tôn giáo tại địa phương này thế nào? Mỗi tối, trong giờ hồi tâm, tôi lại xét mình: Hôm nay, tôi đã hoạt động tôn giáo tại địa phương này ra sao? Nhìn về phía trước để dự kiến. Nhìn về phía sau để kiểm điểm. Dù dự kiến, dù kiểm điểm, tôi luôn nhắc nhở mình: Tôi được sai đi hoạt động tôn giáo tại địa phương này. Sự nhắc nhở thường xuyên như thế là một cách để bồi dưỡng ý nghĩa cuộc sống của mình, và để thêm nghị lực cho việc chu toàn bổn phận được trao phó. Được sai đến một địa phương. Điều quan trọng nhất trong việc nhắc nhớ này là ý thức mình được sai đi. Ai sai? Thưa là Bề trên trong Hội Thánh. Bề trên sai đi nhân danh Chúa. Có nghĩa là chính Chúa sai đi. Vâng lời trong việc chấp nhận sai đi là một thông hiệp tự do vào một ý muốn tự do của Chúa. Ý muốn của Chúa, khi sai tôi đi, là dùng tôi cùng với nhiều người khác chia sẻ Tin Mừng tại địa phương thân yêu này. Địa phương này là nơi tôi kính trọng và yêu thương. Sự kính trọng và yêu thương của tôi tràn vào mọi mảnh đất, mọi gia đình, mọi người, không phân biệt giàu nghèo, tín ngưỡng và văn hoá. Tôi xác tín rằng: Trước khi tôi tới đây, và trước khi đạo công giáo tới đây, địa phương này đã có vô số điều chân thiện mỹ. Chứng tỏ Chúa đã hiện diện ở đây từ rất lâu rồi. Trong tâm tình kính trọng và yêu thương, tôi vâng lời Chúa góp phần vào một lịch sử đã có sẵn nhiều giá trị cao đẹp. Vâng lời bằng cách thiết lập sự hiện diện của Hội Thánh Đức Kitô tại địa phương này và dần dần toả sáng sự hiện diện đó. Sự hiện diện của Hội Thánh địa phương phải toả sáng Tin Mừng. Tin Mừng sẽ được toả sáng ở Hội Thánh địa phương, khi Hội Thánh này sống thực sự như một bí tích. Tức là Hội Thánh địa phương trở nên dấu chỉ và dụng cụ về sự kết hợp mật thiết với Chúa. Đồng thời cũng là dấu chỉ và dụng cụ về sự yêu thương đoàn kết với mọi người, đặc biệt là trong địa phương của mình. Phải sống thế nào, để khi nhìn vào Hội Thánh này, người ta có thể thấy được bóng dáng Chúa Giêsu, Đấng kết hợp mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Phải sống thế nào, để khi tiếp cận với Hội Thánh này, người ta có thể cảm được tình thương của Chúa Giêsu, Đấng yêu thương mọi người, cứu độ mọi người, muốn giao hoà mọi người với nhau và với Thiên Chúa. Những nhận thức trên đây được coi là nền tảng. Mọi hoạt động tôn giáo của tôi tại địa phương này đều được gợi hứng từ những nhận thức nền tảng đó Phúc âm hóa chính mình. Hoạt động tôn giáo của tôi đầu tiên là thường xuyên phúc âm hoá chính bản thân tôi. Tôi không những đi theo Đức Kitô, mà còn phải sống trong Đức Kitô, hơn nữa phải có những tâm tình của Đức Kitô. Tất cả những đòi hỏi đó sẽ được đáp ứng phần nào bằng các việc học hỏi, rèn luyện, tu thân. Học hỏi về Đức Kitô. Rèn luyện mình, rập theo gương mẫu Đức Kitô. Tu thân theo lời khuyên của Đức Kitô. Khi tập trung vào Đức Kitô, tôi thấy Đức Kitô rất hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, phục vụ. Thực hiện các nhân đức ấy thế nào, đó là cả một chuỗi dài những vâng phục thánh ý Chúa Cha, dưới sự tác động của Chúa Thánh Linh. Thánh ý Chúa Cha rất khác ý loài người. Vì thế phải có một sự tỉnh thức lắng nghe, khiêm nhường đón nhận, tin tưởng cộng tác với Chúa và phó thác tuyệt đối nơi Chúa khôn ngoan và nhân lành. Phúc âm hoá bản thân mình chính là Kitô hoá chính con người của mình. Thông thường, mỗi người được gọi phác hoạ lại nơi mình một vài nét của Đức Kitô, tuỳ theo nhu cầu của mỗi thời và mỗi nơi. Theo thiển ý của tôi, thời nay tại địa phương này, nét đạo đức đang cần là chiều sâu. Chiều sâu trong sự thờ phượng và yêu mến Chúa.Chiều sâu trong sự phục vụ và yêu thương con người. Thời nay, người ta đã quá nhàm chán với các thứ hình thức bề ngoài về thờ phượng và phục vụ, nhàm chán với các thứ giả tạo về đạo đức, nhàm chán với các thứ nông cạn về lý tưởng. Chính vì thế mà chiều sâu trong các quan hệ với Chúa và với con người là điều thầm mong ước trong thâm tâm mọi người. Tôi có cảm tưởng là các tôn giáo bạn tại địa phương này đang cố gắng đi vào chiều sâu. Và tôi chắc chắn bản thân mình còn nhiều điều phải sửa về phương hướng đó. Phúc âm hoá chiều sâu chính bản thân mình, đó là việc đầu tiên và cũng là việc thường xuyên phải thực hiện trong chương trình hoạt động tôn giáo. Việc đó chẳng bao giờ được coi là hoàn tất, bởi vì càng bước thêm, càng thấy mình còn thua kém. Thiết tưởng thấy được như vậy chính là một khám phá đáng mừng. Nó sẽ giúp mình hăng hái bước thêm. Phúc âm hóa cộng đoàn. Phúc âm hoá chính mình là một đòi hỏi, để phúc âm hoá cộng đoàn. Cộng đoàn của tôi rất cần phúc âm hoá. Có nơi phải tái phúc âm hoá. Có nơi đòi tân phúc âm hoá. Điều tôi rất mong ước là cộng đoàn được phủ đều khắp nơi một bầu khí có ánh sáng Đức Kitô, có hương thơm Đức Kitô, có sự sống Đức Kitô, có tình yêu thương của Đức Kitô. Để được như vậy, tất nhiên cần tập trung vào Đức Kitô. Tạo nên bầu khí đó sẽ là cả một công trình, đòi nhiều phối hợp và khôn ngoan trước cuộc sống địa phương, văn hoá địa phương, tâm lý địa phương. Tôi có kinh nghiệm này: Những hoạt động tôn giáo lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm bao giờ cũng gây được ảnh hưởng tốt nơi con người, cộng đoàn và xã hội. Lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm là qui mọi sự về Đức Kitô. Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà chúng ta sống, chúng ta nói, chúng ta làm. Lời Đức Kitô, Mình Máu Đức Kitô, thánh giá Đức Kitô, gương đời sống Đức Kitô, các bí tích của Đức Kitô, tất cả những nhân tố ấy sẽ là lương thực nuôi sống linh hồn ta, sẽ là sức mạnh cứu độ ta. Chính Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh trên thánh giá và đã sống lại nay đang ở bên chúng ta một cách sống động. Người sẽ là con đường ta đi, là sự thực ta loan báo, là sự sống ta gắn bó mãi mãi trong suốt cuộc đời. Trong việc phúc âm hoá cộng đoàn, tôi thấy việc giúp cho cộng đoàn đi dần tới trình độ trưởng thành về mọi phương diện, nhất là về đàng thiêng liêng là rất quan trọng. Đây là vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, chính vì trưởng thành là vấn đề phức tạp, nên trong hoạt động tôn giáo, tôi thiết nghĩ nên cố gắng đào tạo cho mọi người trong cộng đoàn ít ra có được thói quen: 1- Luôn sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót, với tâm tình tạ ơn, tin cậy, và khát khao đi về với Chúa. 2- Luôn phấn đấu dùng mọi ơn Chúa ban để phát triển mình và cộng đoàn mình theo tinh thần Phúc Âm. 3- Luôn xin Chúa biến con người của mình thành của lễ yêu thương, có lợi cho Hội Thánh và cho địa phương. Chính từ đây, mà hoạt động tôn giáo sẽ đi vào xã hội một cách thích hợp, theo sự hướng dẫn của Thánh Linh. Trong từng chặng đường, trong từng hoàn cảnh, chúng ta vâng ý Chúa dấn thân ra khơi phục vụ con người và xã hội, thường xuyên bằng những việc nhỏ nhưng có chất lượng cứu rỗi. Nội dung việc làm phải tốt. Cách làm phải khéo. Nhất là trong một tình hình phức tạp. Trên đây là một thoáng nhìn về khung hoạt động tôn giáo của tôi tại địa phương này. Ít ra cũng là một con đường, một phương hướng. Nhưng đây cũng là một thách đố, một thử thách. Càng thêm tuổi, tôi càng thấy đây chính là một sự tái sinh không ngừng trong Thánh Linh. Sự tái sinh này là cả một hành trình dài, đòi nhiều khiêm tốn, nhiều cầu nguyện và nhiều hy sinh, đồng thời cũng đem lại nhiều vui mừng và hy vọng. Trong hành trình dài lâu và phức tạp này, tôi đã có nhiều thiếu sót. Nhận thức đó gợi ý cho tôi cầu nguyện với Chúa như người ngoại đạo xưa: "Lạy Chúa, xin Chúa chỉ phán một lời, thì đầy tớ Chúa sẽ được cứu chữa" (Lc 7,7). Chúa nhận lời. Và tôi được bình an.
Những lời sau cùng Đức Hồng Y nói với tôi qua điện thoại vẫn phảng phất niềm vui. "Khi bình phục rồi, tôi sẽ đi dâng lễ tạ ơn tại nhà thờ Cha thánh Padre Piô. Tôi mong chú sẽ cùng đến đó đồng tế với tôi". Còn tôi, những chữ sau cùng tôi gởi cho Ngài lại phảng phất nỗi lo. "Cùng chịu đau khổ với chú, nói thì dễ, nhưng khi đau khổ tới, tôi thấy không dễ chịu chút nào". Hai cuộc đời, một ý hướng: Biến đời mình thành của lễ dâng lên Chúa, để phục vụ Hội Thánh và Quê Hương. Ý hướng đó là một hưởng ứng âm thầm lời mời gọi của thánh tông đồ Phaolô: "Vì Chúa xót thương, tôi khuyên anh em hãy dâng hiến mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1). Với ý hướng như thế, chúng tôi gặp nhau nhiều lần. Lần gặp nhau vắn nhất là tại Dusseldorf, Cộng Hoà Liên Bang Đức. Lúc đó vào mùa đông. Tuyết phủ trắng khắp nơi. Tôi từ Aachen đi xe hơi tới sân bay. Ngài từ Rôma bay tới. Hai anh em trọ ở một tu viện ngập tuyết. Một buổi chiều, một đêm và một buổi sáng. Thời gian tương đối vắn. Nhưng chúng tôi tận dụng, để trao đổi với nhau về lý tưởng: Dâng hiến bản thân mình làm của lễ. Bản thân mình là con người của mình, và cuộc đời của mình. Để thành của lễ đẹp lòng Chúa, bản thân mình phải sống theo ý Chúa. Sống theo ý Chúa là luôn biết đón nhận Chúa, luôn biết cảm tạ ca ngợi Chúa, luôn biết trở về với Chúa, luôn biết dâng hiến mình cho Chúa, luôn biết tìm ý Chúa và thực thi ý Chúa trong từng chặng đường lịch sử. Lịch sử mỗi người gắn liền với lịch sử nơi mình sống. Từng chặng đường lịch sử Đất Nước và Hội Thánh là từng khúc của dòng chảy những chuyển biến, những đổi thay. Tìm ý Chúa và thực thi ý Chúa trong từng chặng đường lịch sử như vậy là việc đòi nhiều tỉnh thức. Tỉnh thức trong cầu nguyện, trong suy niệm Lời Chúa, trong khám phá những dấu chỉ thời đại, trong chức vụ và khả năng cụ thể của mỗi người. Với tỉnh thức đó, mỗi người chúng tôi có những chọn lựa thích hợp theo lương tâm mình. Lựa chọn về cách sống đạo. Lựa chọn về mục vụ. Lựa chọn về truyền giáo. Lựa chọn về dấn thân phục vụ Đất Nước. Lựa chọn nào cũng có thánh giá. Nói chung, những gì chúng tôi chọn vì Chúa và những gì Chúa chọn cho chúng tôi đều có dấu ấn cuộc thương khó Chúa Giêsu. Lần gặp Đức Hồng Y tại Rôma, dịp mừng Ngài lãnh chức Hồng Y, tôi nghe Ngài tâm sự: "Có vinh quang thì sẽ có thánh giá. Thêm vinh quang là thêm thánh giá. Vinh quang càng lớn thì thánh giá càng nặng. Rồi chú sẽ thấy. Sau chức Hồng Y, thế nào một thánh giá nặng sẽ đặt trên vai tôi". Sự Ngài báo trước đã xảy ra. Ngài bị ung thư. Của lễ cuộc đời Ngài được cảm nghiệm một cách thấm thía như một chuyến đi dài theo Đức Kitô trên đường thánh giá. Nhiều lúc, Ngài khuyên tôi hãy ráng làm việc. Đợi đến tuổi 75, cả hai anh em sẽ cùng nạp đơn xin về hưu. Có thể sẽ tìm được một chỗ nào đó, để cùng nhau sống những ngày tháng cuối đời một cách hữu ích nhất cho Hội Thánh và Quê Hương. Ngài còn nghĩ tới những việc cụ thể. Thí dụ đi giảng tĩnh tâm, ngồi toà, viết báo, chia sẻ với những nhóm hành hương và cầu nguyện. Lần chia tay sau cùng, Ngài tặng tôi chiếc áo của Ngài, và dặn: Thỉnh thoảng mặc vào,để nhớ nhau và để tìm gặp lại nhau. Bây giờ thì Đức Hồng Y đã ra đi. Không phải đi hưu, mà là đi vĩnh viễn về bên kia thế giới. Ngài đã là của lễ. Của lễ Ngài dâng là cuộc đời Ngài, liên kết rộng rãi với biết bao cuộc đời tại Việt Nam và trên thế giới. Hơn nữa, của lễ Ngài dâng còn kết hợp mật thiết với của lễ chính Chúa Giêsu đã dâng. Như vậy, ảnh hưởng sẽ rất lớn, rất rộng. Với tâm tình thương nhớ, tôi thầm nói với Ngài: Của lễ chúng ta dâng hiến vẫn tiếp tục. Dù với cách nào, "Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu Kitô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương" (2 Ga 3). Tôi mặc lấy tinh thần dâng hiến của Ngài. Và tôi tìm gặp lại Ngài trong thinh lặng của tình nghĩa trung thành và chân thành người môn đệ Đức Kitô. Long Xuyên, ngày 17 tháng 9 năm 2002
Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã thuộc về quá khứ. Nhưng Ngài đang là đề tài cho nhiều suy nghĩ khác nhau. Riêng tôi, tôi nghĩ Ngài có một số đặc sủng. Qua suy nghĩ như thế về Ngài, tôi suy nghĩ về vai trò của đặc sủng nơi những người Chúa chọn. Thiết tưởng suy nghĩ này sẽ giúp cho chúng ta biết nhìn tình hình Hội Thánh hiện nay, nhất là tại Việt Nam, một cách tỉnh thức hơn. Ở đây, tôi không dám trình bày ý kiến của tôi như một bài thần học. Chia sẻ của tôi chỉ là một vài suy nghĩ rút ra từ kinh nghiệm, từ Phúc Âm và từ Công đồng. Tôi tạm gọi đặc sủng là những ân sủng đặc biệt Chúa ban cho những người Chúa chọn. Có những đặc sủng khác nhau. Những người được đặc sủng cũng khác nhau. Các cách Chúa ban đặc sủng cũng khác nhau. Người này thì được ơn này. Người kia thì được ơn khác. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: Ngay trong một giáo xứ, một giáo phận, có người được ơn lôi kéo thành công nhiều người trở về đàng lành, có người được ơn hoà giải khéo léo các vụ xích mích khó khăn, có người được ơn thu hút các tâm hồn đến Lời Chúa, có người được ơn gieo rắc Tin Mừng một cách khôn ngoan khắp mọi nơi mình làm việc. Thánh Phaolô viết: “Tôi ước muốn mọi người được như tôi. Nhưng mỗi người Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác” (1 Cor 7,7). Mọi đặc sủng đều do Chúa ban. Chúa ban cho ai, thế nào và lúc nào, thì tuỳ thánh ý Ngài. Thánh Phaolô quả quyết: “Chính Thần Linh duy nhất làm ra tất cả những điều đó và phân chia ra cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Ngài” (1 Cor 12,11). Chính vì vấn đề đặc sủng là chuyện Chúa trực tiếp can thiệp, nên chúng ta cần khiêm nhường và sáng suốt. Thấy ai được đặc sủng, thì chúng ta tạ ơn Chúa và mừng cho họ. Thấy mình không có đặc sủng, thì chúng ta vẫn giữ lòng mình bình an. Đồng thời hãy nhìn lại mình một cách kỹ càng: Hoặc ta đã được trao ban đặc sủng, nhưng nay đã mất, hoặc ta đang có một đặc sủng nào đó, mà ta không nhận ra. Có một số dấu chỉ để nhận ra những người được đặc sủng. Thiết tưởng nên dựa vào mấy dấu chỉ này: 1- Sự thích hợp sống động. Hội Thánh luôn cần đổi mới và phát triển. Mục đích đó sẽ chỉ đạt được qua nhiều trách vụ khác nhau. Các trách vụ khác nhau sẽ được trao cho nhiều người. Mỗi người đảm đang một trách vụ. Người được trao trách vụ nào phải có sẵn những đức tính tốt và khả năng thích hợp. Thường thường họ cũng sẽ được ơn thánh hộ giúp vốn đi liền với trách vụ. Tuy nhiên, không thiếu trường hợp, Chúa ban cách riêng ơn đặc biệt cho những người Chúa muốn, để họ trở nên sẵn sàng hơn với trách vụ, thích hợp hơn với trách vụ, thuận lợi hơn với trách vụ. Họ là người được sai đi, thích hợp với nhu cầu đúng lúc đúng nơi. Ơn đặc biệt như thế gọi là đặc sủng. Nhờ đặc sủng này, họ cảm được hứng thú hơn khi thi hành ý Chúa trong trách vụ, họ dễ có sáng kiến hơn, để trách vụ mỗi ngày mỗi thêm kết quả đẹp ý Chúa, họ thích thú hy sinh hơn vì Chúa khi trách vụ đòi hỏi. Vì khả năng của họ thích hợp với trách vụ, nên nhờ những hoạt động của họ, nhiều người được hiểu biết về Chúa, nhiều người được khích lệ đi vào con đường nhân đức, nhiều người được an ủi và được mạnh mẽ khi gặp gian nan thử thách, nhiều người được bình an trong đức tin vững vàng. Đặc biệt là, trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, họ vâng lời Chúa, dám ra khơi thả lưới, và kết quả thu được là rất đáng ngạc nhiên. Được như thế là nhờ đặc sủng. Tới đây, tôi nghĩ đến vài hiện tượng tố cáo rõ ràng sự thiếu vắng đặc sủng nơi nhiều người mang trách vụ. Thí dụ: sự thiếu quân bình tâm lý, thiếu kỷ luật trong lối sống, thiếu tôn trọng sự thực và thiếu phán đoán lành mạnh. 2- Sự mưu tìm ích chung rõ rệt. Thánh Phaolô dạy: “Thần Linh tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách, là vì ích chung” (1 Cor 12,7). Ích chung có thể hiểu là sự đổi mới và phát triển Hội Thánh, để “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Một người có tâm hồn quy hướng về ích chung hay không, nhiều hay ít, thường tuỳ thuộc vào sự họ có được sai đi bởi Chúa Thánh Thần hay không, họ có thường xuyên cầu nguyện và có tâm hồn được Chúa ngự trị hay không. Một việc làm có thể cho là chắc chắn hướng về ích chung, đó là việc truyền giáo. Đi tìm chiên lạc một cách nhiệt thành, yêu thương dẫn nó về đàn một cách hân hoan, như Phúc Âm tả (Lc 15,4-6). Vội vã chạy ra đón con hoang đàng trở về, và mặc cho nó áo đẹp nhất, như Phúc Âm nói (Lc 15,20-23). Làm những việc như thế, chính là lo cho ích chung một cách vô vị lợi dưới sự thúc đẩy của đức ái. 3- Sự thao thức đức ái chân thật. Đặc sủng nào cũng phải hoạt động trên bác ái. Đây là nền tảng cần thiết. Về điểm này, thánh Phaolô đã viết dứt khoát và rõ ràng. Trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, Ngài viết: “Giá như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la kêu ồn ào. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao sâu, hay có được đức tin mạnh đến chuyển núi dời non, mà không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức ái thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không khoe khoang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cor 13,1-6). Những lời trên đây của thánh tông đồ cho chúng ta thấy đặc sủng, mà Chúa ban, luôn phải được vun trồng trên nền tảng đức ái. Mà phải là đức ái chân thật, mạnh mẽ, sâu rộng như thánh Phaolô diễn tả. Chứ không phải chỉ là một thứ đức ái nông cạn, khép kín và hình thức bề ngoài. Qua vài suy nghĩ vừa chia sẻ, tôi hiểu đặc sủng một cách hoàn chỉnh hơn. Có thể diễn tả thế này: Đặc sủng là ân sủng đặc biệt, Chúa ban riêng cho những người Chúa chọn, để họ trở thành thích hợp và thuận lợi cho trách vụ được trao, hầu góp phần một cách hữu hiệu vào ích chung. Ích chung đó là đổi mới và phát triển Hội Thánh trên nền tảng bác ái. Những người được đặc sủng hiện diện nhiều cách trên thế gian này. Họ thuộc mọi thành phần Hội Thánh. Mỗi người sống đặc sủng một cách khác nhau, nhưng vẫn khiêm nhường và trung tín. Họ sẽ luôn là một bài ca mới, ngợi khen Thiên Chúa, trong bản hoà ca bất tuyệt của các tạo vật tìm về với Chúa, đến muôn thuở muôn đời.
Trước khi đi lễ, mỗi người chúng ta đều thực hiện một vài chuẩn bị. Chuẩn bị bên ngoài, để phong cách của ta được lịch sự. Chuẩn bị bên trong, để tâm hồn ta được tốt đẹp. Những chuẩn bị như thế được đánh giá là tốt, là hữu ích, là cần thiết. Thánh lễ mang lại ơn phúc cho ta, nhiều hay ít, một phần cũng tuỳ thuộc vào những chuẩn bị của ta trước lễ. Có một chuẩn bị sẽ ảnh hưởng nhiều đến sự đón nhận ơn phúc qua thánh lễ. Chuẩn bị đó là ước muốn gặp gỡ Chúa và lắng nghe ý Chúa. Vì thái độ này là rất quan trọng, và vì chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn có thái độ quan trọng đó, nên tôi xin được nhắc nhớ vài điều căn bản sau đây: Gặp gỡ Chúa. Trước hết, để gặp gỡ Chúa, chúng ta phải khát khao và tỉnh thức. Bởi vì sự Chúa đến với ta là một ân huệ. Ta phải phần nào tỏ ra xứng đáng với ân huệ đó. Chúa phán: “Này Ta đứng ngoài cửa và gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà nó và sẽ dùng bữa với nó. Ta ở bên nó và nó ở bên Ta” (Kh 3,20). Lời Chúa phán trên đây cho thấy Chúa muốn đến với ta một cách nhẹ nhàng và thân mật. Ngài gõ nhẹ lòng ta. Ngài đợi cửa lòng ta mở ra đón Ngài. Ngài không xô cửa mà vào. Ngài không áp đặt sự thăm viếng của Ngài. Trong thánh lễ, Chúa gõ cửa lòng ta qua các Lời Chúa, các lời cầu nguyện, các lời giảng dạy, các lễ nghi, nhất là Mình Thánh. Ta nghe, ta xem, ta tham dự, ta thờ lạy. Nhưng ta không dừng lại ở những việc đó. Ta coi đó chỉ là tiếng gõ cửa lòng ta. Điều ta tha thiết ước mong không phải là nghe được tiếng gõ cửa, mà là gặp được chính Chúa, đón được chính Chúa vào tâm hồn ta. Được Chúa ngự vào lòng ta, và ở lại trong ta, ta được hạnh phúc bình an. Ơn phúc sẽ đến với đời ta dồi dào. Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ đem đến cho ta những thứ thuốc, có sức chữa lành những bệnh tật và vết thương đời ta, như xưa Chúa đã sai tổng lãnh thiên thần Raphael đem thuốc đến cho ông Tôbia. Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ gởi tin cho ta, để ta cảm được tình Chúa, như xưa Chúa đã sai tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ. Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ ban cho ta sức mạnh, để ta chiến thắng quỉ dữ, bảo vệ Nước Chúa, như xưa Chúa đã dùng tổng lãnh thiên thần Micae để đánh đuổi Lucifer và các tà thần muốn ngang hàng với Chúa. Cùng với các ơn trên đây sẽ còn vô vàn ơn khác nữa. Điều kiện ta phải có, để đón nhận thêm mãi các ơn Chúa, là không những phải tỉnh thức và khát khao gặp Chúa, mà còn phải sẵn sàng lắng nghe ý Chúa. Đón nhận ý Chúa. Tha thiết lắng nghe ý Chúa đòi một thái độ rất khiêm nhường, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, nhất quyết vâng phục ý Chúa. Bởi vì ý Chúa không luôn giống ý riêng ta. Ý Chúa bao giờ cũng tốt hơn ý riêng ta. Chúa quả quyết: “Tư tưởng Ta không phải tư tưởng của các ngươi. Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55,8-9). Lời Chúa trên đây là một sự thực cứu độ. Khi nhận thức sự thực đó, chúng ta sẽ tránh khỏi những sai lầm có hại cho Tin Mừng, cho đạo ta và cho chính chúng ta. Xin nhìn lại vài thí dụ. Phúc Âm cho thấy: Nhiều người có đạo thời ấy đã tự phụ cho mình là đạo đức, và khinh chê những người không như họ. Thế nhưng, theo Phúc Âm kể, thì chính những người tự nhận là đạo đức đó lại bị Chúa kết án, còn những người bị họ khinh chê lại được Chúa khen ngợi và được nêu lên như gương sáng về một số nhân đức. Rồi Phúc Âm cũng cho thấy: Chính các tông đồ, thậm chí cả thánh Phêrô là người đứng đầu các tông đồ, cũng ước mong Chúa Giêsu sẽ ra tay cứu đời, cứu nước, bằng con đường quyền lực vinh quang. Thế nhưng, theo Phúc Âm thuật lại, thì Chúa Giêsu đã chọn con đường khác. Đó là con đường sống khiêm tốn , sống hy sinh, sống trong số phận kẻ bị loại trừ, để qua con đường đó, Ngài giới thiệu tình yêu Thiên Chúa và cách thắng tội lỗi, bằng sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chỉ một vài chi tiết trên đây cũng đủ nhắc nhủ ta, khi gặp Chúa, hãy biết khiêm nhường lắng nghe ý Chúa. Lắng nghe ý Chúa là lắng nghe lòng Chúa. Bởi vì lòng Chúa đầy tràn tình yêu thương xót. Lòng Chúa như thế có những con đường và những ý tưởng rất khác chúng ta. Ở đây, có một điều chúng ta nên để ý. Đó là, trong khi nhiều người rất gần Chúa, mà lại không hiểu ý Ngài, thì một số người khác gặp gỡ Chúa đã đón nhận được ý Ngài. Lý do là vì những người này có "những giác quan thiêng liêng" rất tinh. Họ phần nào giống như thánh Gioan tông đồ dám nói: "Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, điều chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, thì chúng tôi báo cho cả anh em nữa" (1 Ga 1,3) Đã nghe, đã xem thấy, đã chiêm ngưỡng, đã chạm tới, đó là cách diễn tả rất sống động sự gặp Chúa và sự hiểu được ý Chúa với tâm tình đơn sơ xác tín. Trong thánh lễ, chúng ta khiêm tốn xin Chúa ban cho chúng ta được phần nào như vậy. Mong gặp gỡ Chúa và lắng nghe ý Chúa, đó là thái độ ta có thể thực hiện được, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là khi dâng thánh lễ. Lạy Chúa, con trông cậy vào Chúa. Có lẽ ban đầu chỉ nói với Chúa một cách đơn sơ thế thôi, chúng ta sẽ từng bước tới được chỗ gặp Chúa và lắng nghe ý Chúa ở chiều sâu nội tâm của mình. Nhờ vậy, thánh lễ ta tham dự sẽ là nguồn an ủi quí giá vô vàn cho chúng ta. Chính bản thân ta, chính cuộc đời ta sẽ dần dần được trở thành của lễ sống động trong thánh lễ của Chúa Giêsu.
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự. Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến. Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille. Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu. Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá. Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín. Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi. Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước. Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo. Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về. Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ. Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông. Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng. Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc. Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá. Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng. Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo. Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách. Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh. Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ. Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng. Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi. Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc. Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
Thánh lễ được kết thúc bằng lời chủ tế nói với cộng đoàn: “Lễ xong, chúc anh chị em về bình an”. Và cộng đoàn thưa: “Tạ ơn Chúa”. Riêng tôi, sau lời kết chính thức đó, tôi hay nhớ lại lời kết bằng tiếng Latinh “Ite, missa est” mà tôi dịch riêng cho tôi thế này: “Hội Thánh đã được sai đi, anh chị em hãy ra đi”. Khi tôi hiểu như vậy, thánh lễ của tôi sẽ là điểm khởi hành của một chuyến dài. Tôi đi vào đời. Ðời là cuộc sống đa dạng, là những tiếp xúc với đủ hạng người, là những công việc có tên và không tên. Trên lãnh vực đời bao la phức tạp, kẻ được sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ sẽ chọn cho mình một con đường và những con đường. Có cả một hệ thống con đường truyền giáo. Nếu cần đặt tên cho từng con đường, thì tên đó chủ yếu là để gợi ý.
1/ Con đường Khám phá Người truyền giáo đi trên con đường Khám phá, sẽ chú trọng đến việc khám phá sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại hôm nay nói chung và trong những nơi, những người ngoài công giáo nói riêng. Người truyền giáo quan niệm rằng: Lịch sử nhân loại không phải chỉ gồm lịch sử Hội Thánh. Lịch sử nhân loại vẫn được Chúa hướng dẫn theo chiều hướng không ngừng tiến hoá. Phần lịch sử nhân loại ngoài Hội Thánh là rất bao la. Trong phần bao la ấy có vô vàn người tốt việc tốt. Số người tốt việc tốt ấy đã và đang góp phần to lớn vào việc cứu độ con người khỏi đói khát, bệnh tật, lạc hậu, dốt nát, chia rẽ, chiến tranh và nhiều sự dữ phần hồn phần xác. Ðó là những dấu chỉ báo hiệu sự hiện diện và hoạt động của Chúa giữa lịch sử nhân loại nói chung và giữa lương dân nói riêng. Trong văn kiện tựa đề “Ðối thoại và loan báo” công bố ngày 19/5/1991, Toà Thánh viết: “Ðang khi loan báo sứ điệp Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Hội Thánh truyền giáo phải luôn luôn nhớ rằng sự loan báo của mình không thực hiện trong một khoảng trống hoàn toàn. Bởi vì Chúa Thánh Linh, Tinh thần của Ðức Kitô, có mặt và hoạt động giữa những kẻ nghe Tin Mừng, ngay cả trước khi công việc truyền giáo của Hội Thánh dấn thân vào đó (RH 12, DV 53). Trong nhiều trường hợp, các người ấy đã ngầm đón nhận ơn cứu độ trong Ðức Kitô. Một trong những dấu chỉ ấy là sự họ thực hiện một cách chân thành những truyền thống tôn giáo riêng của họ. Trong mức độ mà những truyền thống đó mang những giá trị tôn giáo thực sự. Họ đã được Chúa Thánh Thần đánh động, và họ đã tham gia một cách nào đó, dù họ không hay biết, vào mầu nhiệm phục sinh của Ðức Kitô” (GS 22). Tại Việt Nam, người truyền giáo đi trên con đường khám phá, sẽ khám phá thấy vô số lý do để lạc quan. Bởi vì khi tới bất cứ gia đình nào ngoài công giáo, họ sẽ thấy Chúa đã có mặt ở đó lâu rồi, những gia đình ấy vẫn gắn bó với nhiều giá trị thiêng liêng, vẫn khao khát chân lý và tình thương, vẫn hướng tâm hồn về Ðấng Tối Cao Hằng sống có quyền thưởng phạt đời này và đời sau. Một khi khám phá thấy những cái tốt sẵn có rồi, người truyền giáo khôn ngoan sẽ biết bắt đầu từ đó, để dẫn tới niềm tin vào Ðức Kitô.
2/ Con đường Khẳng định Người truyền giáo đi trên con đường Khẳng định sẽ quan tâm đến việc khẳng định đức tin của mình. Qua việc giữ các luật đạo, tổ chức các lễ lạy, xây cất chỉnh trang nhà thờ, thiết lập cơ chế đạo, họ muốn diễn tả và tuyên xưng đức tin của họ là gì, họ tin vào ai. Sự khẳng định của họ, qua các diễn tả bề ngoài, có sức đánh thức lương tâm những người dửng dưng, sợ sệt đồng thời nói lên niềm tin hân hoan và hy vọng của kẻ tin Ðức Kitô. Con đường khẳng định này gây kết quả tốt, nếu khẳng định đúng đức tin công giáo. Ðức tin không ở trong sách cũng không ở trong nhà thờ, mà ở trong con người. Người có đức tin sống động là người gặp gỡ Chúa. Với sự gặp gỡ này, họ mến Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, họ sống trong một nhân sinh quan mới, đánh giá mọi sự theo cái nhìn mới của tinh thần Ðức Kitô. Người không được huấn luyện kỹ, sẽ dễ khẳng định sai lầm. Kết quả sẽ chẳng tốt lành gì cho họ, cho đạo, cho việc truyền giáo. Không thiếu trường hợp có những khẳng định mạnh mẽ sôi nổi đề cao đức tin, nhưng lại là một đức tin không đi đôi với đức ái, nên sự khẳng định như thế dễ trở thành một sự phô trương cuồng tín nguy hiểm. Cũng không thiếu trường hợp, một sự khẳng định đức tin thiếu chiều sâu đạo đức đã thành một sự khiêu khích những người ngoài công giáo. Ðiều đáng ngại nhất của những khẳng định như thế không phải là sự người ngoại giáo sẽ xa tránh đạo ta, mà chính Chúa sẽ kết án những kẻ khẳng định kiểu cách như vậy. Qua tiên tri Isaia, Chúa đã nói về những người tuyên xưng đức tin mà thiếu đức ái: “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác... Các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời. Vì tay các ngươi vấy máu...” (Is 1,10..). Thánh Phaolô tông đồ cũng nhắc nhở cho những người khẳng định đức tin mà thiếu đức ái như sau: “Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần... nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan, nếu tôi có đầy lòng tin, đến đỗi rời chuyển được núi non, mà không có bác ái thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có, để nuôi kẻ nghèo, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi cả” (1 Cr 13,1-3). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần lên tiếng chê trách giới Pharisêu về thói quen lợi dụng việc tuyên xưng đức tin bề ngoài để thoả mãn tính tự kiêu, tự ái. Hơn nữa, Chúa Giêsu nêu lên một mẫu gương khẳng định đức tin thực đẹp. Ðó là giờ phút cuối đời trên thánh giá. Ðang khi Người như bị Chúa Cha bỏ rơi trong cô đơn tủi nhục, Người đã nói: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. Ðang khi Người bị thiên hạ ghen ghét hành hạ, kết án nhục nhã, bị hầu như mọi bạn bè xa tránh, Người đã nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết”. Một đức tin đầy bác ái, đầy khiêm nhường được khẳng định trong một hoàn cảnh bi đát nhất đã là mặt trời mọc lên từ đêm tối, mang sức thuyết phục trong sáng huy hoàng.
3/ Con đường Dấn thân Dấn thân vào việc phát triển con người và xã hội là một con đường, mà nhiều nhà truyền giáo thời này đang đề cao. Ðức Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Ðấng Cứu Chuộc con người”, đã viết: “Hội Thánh quan tâm chăm sóc con người. Hội Thánh coi sự lo cho con người, cho tất cả nhân loại, cho tương lai mọi người trên trái đất, và tất nhiên cho hướng phát triển và tiến bộ như là một yếu tố căn bản của Hội Thánh”. Chính từ quan điểm đó, nhiều người đã nghĩ rằng: một cách truyền giáo hợp thời là dấn thân vào các vấn đề của cuộc sống thực tế đang đặt ra, như chống nạn dốt, nạn nghèo, nạn lạc hậu, nạn bất công xã hội vv... Ðiểm đặc biệt nhất trên con đường Dấn thân hiện này là mục vụ ưu tiên cho người nghèo, đã được nhiều Hội Ðồng Giám Mục các nước đang mở mang chọn lựa một cách xác tín và can đảm. Mục vụ dấn thân ưu tiên cho người nghèo không những nói lên tinh thần trách nhiệm liên đới là một yếu tố quan trọng của bác ái Phúc Âm, mà còn diễn tả lại một trong những đặc điểm mục vụ của chính Chúa Giêsu. Phục vụ con người. Xây dựng con người, phát triển con người, đó là cách truyền giáo có sức thuyết phục. Bởi vì thời này, người ta dễ tin vào Hội Thánh do thái độ của Hội Thánh đối với con người hơn là do thái độ của Hội Thánh đối với Chúa. Tuy nhiên, kẻ truyền giáo trên con đường dấn thân không nên quên lời Ðức Kitô dạy: “Hãy đơn sơ như chim bồ câu, và đồng thời cũng hãy khôn ngoan như con rắn”. Bởi vì thực tế cho hay, nếu không biết hài hoà giữa đơn sơ và khôn ngoan, kẻ truyền giáo thay vì dấn thân mở lối cho người từ hướng phát triển con người theo mô hình Ðức Kitô luôn tìm thực thi thánh ý Ðức Chúa Cha, thì vô tình lại dấn thân mở lối cho người ta hướng phát triển con người theo mô hình Adong-Evà tranh đấu tìm thực hiện ý riêng mình. Tôi nghĩ rằng: Tại Việt Nam hôm nay dấn thân là cố gắng xây dựng và phát triển con người toàn diện, nhưng ưu tiên là chấn hưng nền đạo đức. Người truyền giáo trên quê hương Việt Nam hôm nay hãy dấn thân như “khí cụ bình an của Chúa” mà kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô đã mô tả tuyệt vời, theo đó người được giúp phát triển sẽ dần dần đi tới trình độ tự phát triển lấy chính mình, trên đà mến Chúa yêu người. Kẻ truyền giáo đi trên con đường dấn thân như vậy, nếu chưa thấy được kết quả truyền giáo, cũng sẽ được ân tâm, khi mình làm tất cả mọi sự cho người khác, trong sự kết hợp mật thiết với tinh thần của Ðức Kitô.
4/ Con đường Làm chứng Trên con đường này, người truyền giáo không đặt nặng việc giảng dạy giáo lý, cũng không quá quan tâm đến việc trả lời những thách thức dị nghị, thắc mắc. Ðiều họ quan tâm nhất đó là làm chứng cho các chân lý Phúc Âm bằng chính đời sống của họ. Làm sao để những người ngoài công giáo tín nhiệm vào Hội Thánh? Làm sao để chính người truyền giáo được lương dân tín nhiệm? Làm sao để các người không có đức tin ít ra tin rằng người truyền giáo là người có thể tin được. Ðó là những thao thức sơ đẳng nhất của người truyền giáo đi trên con đường Làm chứng. Ðang khi xã hội muốn tương-đối-hoá Thiên Chúa và coi thường giới luật yêu thương của Phúc Âm, thì người truyền giáo sẽ tăng cường đời sống cầu nguyện và các việc bác ái, để làm chứng tính tuyệt đối của Thiên Chúa và luật căn bản Phúc Âm là bác ái. Ðang khi xã hội cho rằng kẻ túng nghèo, kẻ hiền lành, kẻ khiêm nhường, kẻ bị bắt bớ vì đạo, kẻ nhịn nhục là những kẻ bị thiệt thòi, mất mát, thì người truyền giáo sẽ sống trọn thân phận những kẻ ấy với tinh thần bình an sâu xa, để làm chứng Tám mối phúc của Phúc Âm là những sự thực sáng ngời trong thực tế. Làm chứng bằng đời sống là đưa ra những dấu chỉ tốt lành sống động về những thực tại tốt đẹp vô hình. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”. Khi Ðức Kitô phán lời đó, Người đã nghĩ tới các kẻ không có đức tin. Theo lời phán đó, họ sẽ nhận biết Chúa, khi họ nhìn thấy các môn đệ Chúa thương yêu nhau. Ðời sống bác ái là một dấu chỉ dẫn đường đến Ðức Kitô. Dấu chỉ này tất nhiên là cái gì mà người không có đức tin, dễ thấy được, dễ cảm nghiệm được, dễ kiểm chứng được. Tôi nghĩ rằng: Trên quê hương Việt Nam hôm nay, người công giáo nói chung, và người truyền giáo nói riêng, nếu ít là có được những đức tính nhân bản thực tốt nhất là lòng nhân ái, thì cũng đã làm chứng được rất nhiều cho các chân lý Phúc Âm. Nếu ta mải mê rao giảng và học hỏi những mầu nhiệm cao vời, còn nhân bản lại lệch lạc, thì ta không làm chứng được bao nhiêu cho các giá trị Phúc Âm. Mẫu người được mến chuộng thời nay ở Việt Nam không phải là người hùng, người thánh, mà là người thường, sống đời thường, dễ thương do các đức tính xã hội của họ, như hiền lành, khiêm tốn, lương thiện và bác ái. Ðời thường của Thánh Gia tại Nagiarét là mẫu gương cho mọi người truyền giáo đi trên con đường Làm chứng.
5/ Con đường Ðối thoại Trên con đường này, người truyền giáo không coi mình có bổn phận truyền đạt hay thuyết phục, nhưng có bổn phận chia sẻ những băn khoăn khắc khoải của đồng bào mình, của thế hệ mình, và qua trao đổi, họ sẽ cùng với bao người khác xây dựng chặng đường hiện tại của lịch sử dân tộc mình, thế hệ mình. Ði trên con đường đối thoại, người truyền giáo sẽ chăm chú theo dõi các vấn đề của nhân loại hôm nay nói chung và của mảnh đất hoạt động của mình nói riêng. Trong một thế giới càng ngày càng phát triển tự do dân chủ, người truyền giáo đối thoại cần khiêm tốn lắng nghe quan điểm của người khác. Ðang khi đó, họ luôn luôn nắm vững các chân lý Phúc Âm, và sẽ nói ra đúng lúc cần phải nói, với cung cách tế nhị của bác ái Phúc Âm. Từ Ðức Phaolô VI đến nay, Toà Thánh thường nhắc đi nhắc lại cho người truyền giáo nhớ rằng sự đẩy nhanh việc đối thoại với các tôn giáo khác chính là một phương cách truyền giáo rất thích hợp của thời đại này. Văn kiện mới nhất của Toà Thánh công bố ngày 19/5/1991 đã nêu lên bốn cách đối thoại sau đây: a) Ðối thoại bằng đời sống là người công giáo hãy sống trong tinh thần cởi mở và thân thiện với các người khác tín ngưỡng, hãy chia sẻ những niềm vui nỗi buồn của họ, hãy tham gia vào các vấn đề chung, các bận tâm chung trong bình diện nhân loại. b) Ðối thoại bằng việc làm là hợp tác với những người ngoài công giáo trong các việc làm nhằm mục đích phát triển con người toàn diện. c) Ðối thoại bằng những trao đổi giáo lý là sự các nhà chuyên môn của các tôn giáo tìm hiểu sâu hơn những gia sản tôn giáo của nhau và những giá trị thiêng liêng của các tôn giáo. d) Ðối thoại về những kinh nghiệm đạo đức là sự các người đã đi sâu vào truyền thống đạo đức của tôn giáo mình, chia sẻ cho các người tôn giáo bạn những kinh nghiệm phong phú thiêng liêng của nền đạo đức tôn giáo mình, như đời sống chiêm niệm cầu nguyện, niềm tin và tìm về Ðấng Tối cao. Trong trường hợp đối thoại là tranh luận một vấn đề, người truyền giáo nên nhớ rằng sức mạnh đưa người ta về với chân lý và tình thương không ở tại sự ta thắng người ta về lý lẽ và quyền lực, nhưng ở tại sự ta kết hợp với Ðức Kitô đã chịu nạn và đã phục sinh, Ðấng đã phán rằng: “Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”. Người truyền giáo đối thoại là người thông báo Tin Mừng Phúc Âm và cũng nhận được các nguồn thông tin của các tôn giáo bạn. Nhờ đó mà người truyền giáo được thanh luyện hơn, được phong phú thêm. Qua việc đối thoại, Hội Thánh sẽ là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hợp với Chúa và đoàn kết với nhân loại.
6/ Con đường Ðổi mới Trên con đường này, người truyền giáo coi việc đổi mới con người, cuộc sống và xa là ưu tiên hàng đầu của hoạt động truyền giáo. Dù muốn đổi mới, dù không muốn đổi mới, người truyền giáo đang chứng kiến một sự thực càng ngày càng hiện lên rõ rệt, đó là con người thời nay đánh giá một tôn giáo, một chủ thuyết, một người hoạt động chính trị, theo tiêu chuẩn đổi mới. Ai đổi mới được con người, cuộc sống và xã hội theo hướng đi lên, sẽ được tín nhiệm. Thứ đổi mới bằng tuyên ngôn và hứa hẹn suông đã mất hiệu lực lôi cuốn. Trái lại, một sự đổi mới, tuy âm thầm, nhưng hữu hiệu, đang trở thành một sức mạnh tâm lý xã hội đầy hấp dẫn. Ðừng tưởng đổi mới là xây nhà mới, đặt tượng mới, sắm đồ mới, tạo ra các hình thức hoạt động mới. Thứ đổi mới mọi người mong muốn là đổi mới con người cho nên tốt hơn, đổi mới các tục lệ và nếp sống cho nên tốt hơn. Riêng việc đổi mới con người là một thách đố lớn. Nó rất phức tạp. Trước hết là đổi mới trí khôn, với những quan điểm mới, với những cách suy nghĩ mới, với những cách đánh giá mới, hợp với Phúc Âm hơn, hợp với Công Ðồng Vatican II hơn. Trí khôn chỉ đổi mới được khi biết tôn trọng và khao khát sự thực. Sự thực là cái đúng cái hay cái tốt trong mọi lãnh vực từ cuộc sống, đến khoa học và tôn giáo. Ngoài ra đổi mới con người còn là đổi mới trái tim. Trái tim đổi mới là trái tim biết từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để hướng tình yêu về các giá trị thiêng liêng bất diệt, như phục vụ con người, tinh thần trách nhiệm, bác ái. Trái tim đổi mới mà con người thời nay đang rất mong muốn, đó là trái tim nhân ái, biết rung cảm và bén nhạy trước những khổ đau của con người gần xa, biết thực sự tôn trọng và yêu thương con người. Biết mừng cái thành công của người khác và biết buồn cái rủi ro thất bại của tha nhân. Thời đại này đang thiếu những con người có trái tim hơn là những con người có trí tuệ. Hơn nữa, đổi mới con người cũng là đổi mới lương tri, lương tâm, để họ biết tự chọn cái phải làm, cái nên làm. Lựa chọn trên thực tế không là việc thiếu sự sáng suốt và khôn ngoan. Theo tôi, cái đã làm cho một số giáo hội địa phương thất bại trong việc truyền giáo là đã đặt việc đổi mới cơ sở vật chất lên trên việc đổi mới con người, hoặc tuy có để ý đến việc đổi mới con người, nhưng lại không theo mô hình Ðức Kitô, Ðấng đã Nhập thể, Nhập thể và chịu nạn chịu chết, phục sinh vì yêu thương con người. Như vậy, suy cho cùng, việc đổi mới phải bắt đầu từ chính bản thân người truyền giáo và các cộng đoàn đức tin. Công Ðồng Vatican II là một sứ điệp kêu gọi đổi mới với bốn điểm chính như sau: a) Hội Thánh tập trung vào Ðức Kitô là trung tâm điểm Tin Mừng cứu độ. b) Hội Thánh thao thức với sứ mệnh truyền giáo là bổn phận chính yếu của mình. c) Hội Thánh gồm toàn thể dân Thiên Chúa. d) Hội Thánh nhận thức về mối liên hệ sâu sắc giữa Hội Thánh và thế giới. Nếu thực thi đúng bốn đề tài trên đây, mỗi tín hữu nói riêng và các cộng đoàn tín hữu nói chung, sẽ là những sức sống mới đem lại mùa xuân cho việc truyền giáo. Nhưng, trên thực tế, tôi thấy nhiều tín hữu và nhiều cộng đoàn tín hữu vẫn sống tinh thần tiền Công Ðồng, hơn nữa lại còn lùi xa vào tận vùng sâu của tinh thần tiền Phúc Âm nữa.
7/ Con đường Thông tin Trên con đường này, người truyền giáo để ý đến việc thông tin và được thông tin về các vấn đề có liên quan đến hoạt động truyền giáo. Theo tôi, các vấn đề có liên quan đến hoạt động truyền giáo đều thuộc ba lãnh vực sau đây: + Nội bộ Hội Thánh. + Hội Thánh trong thế gian. + Hội Thánh đón nhận Nước Chúa. - Nội bộ Hội Thánh nói chung và nội bộ từng giáo đoàn nói riêng là một cuộc sống thiêng liêng. Cuộc sống này cần được chăm sóc, theo dõi, kiểm tra. Sức sống ấy không nên được cân đo theo các con số thống kê, cho bằng theo một số tiêu chuẩn Phúc Âm và Công Ðồng Vatican II. Thí dụ sự tập trung lòng đạo vào Ðức Kitô là chính Tin Mừng cứu độ, đó là một tiêu chuẩn chắc chắn nhất để đo tinh thần đạo đức Phúc Âm. Hai tiêu chuẩn khác kèm theo cũng là dấu chỉ rất chắc chắn của tinh thần đạo đức Phúc Âm, đó là hoạt động truyền giáo và bác ái phục vụ con người. Một nhà thờ, một cung thánh, một cuộc lễ, một bầu khí tôn giáo thường ngày tại một giáo đoàn nếu không nói lên được sự tập trung vào Ðức Kitô và toả ra được hương thơm của lòng nhân ái và tinh thần truyền giáo, thì dù với những hình thức nổi nang nhất, nó vẫn là một nội bộ yếu, có nguy cơ tha hoá. Khi tình hình nội bộ giáo đoàn là một sự sống không ngừng chuyển biến, thì sự được thông tin và thông tin về tình hình nội bộ là một nhu cầu, giúp tái truyền giáo và truyền giáo. - Hội Thánh không đứng giữa thế gian chơi vơi một mình, nhưng Hội Thánh sống giữa thế gian, và sống trong thế gian. Thế gian đặt ra cho Hội Thánh nhiều thách đố. Thế gian tra vấn Hội Thánh về nhiều vấn đề. Hội Thánh đã trả đáp thế nào? Chẳng hạn, tại Việt Nam hôm nay, Hội Thánh địa phương ta đang đứng trước bốn vấn đề lớn, cũng là bốn thách đố lớn. Một là vấn đề nghèo túng của đồng bào Việt Nam. Hai là vấn đề giới trẻ Việt Nam đang trong tình trạng không được giáo dục đủ. Ba là vấn đề hoà giải hoà hợp dân tộc. Bốn là vấn đề Hội Thánh hội nhập vào văn hoá dân tộc. Toàn thể Hội Thánh địa phương ta nói chung, và từng cộng đoàn tín hữu, từng vị truyền giáo nói riêng đã và đang nỗ lực giải đáp các vấn đề lớn đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc truyền giáo. Chính vì thế, mà sự thông tin và được thông tin về các vấn đề thế gian đặt ra cho Hội Thánh và cung cách của Hội Thánh đối với thế gian của mình là một cách truyền giáo không thể thiếu. - Hội Thánh không đồng nghĩa với thế gian, và Hội Thánh cũng không đồng nghĩa với Chúa. Hội Thánh hành hương đi về Nước Chúa. Trong Hội Thánh có những người tốt và cũng không thiếu người xấu. Trong Hội Thánh có nơi có những cơ chế và tập tục tốt chen lẫn những cơ chế và tập tục xấu. Hội Thánh biết mình cần được thanh luyện. Thanh luyện từ các sách giáo lý, cho đến phụng vụ luật lệ và thái độ sống. Ðưa vào một sự thanh luyện nội tâm sâu xa, của từng người, để đón nhận trọn vẹn Vương quốc Thiên Chúa. Chỉ phương diện thanh luyện đó thôi cũng là một nguồn tin hay. Người truyền giáo cần được thông tin và thông tin về những cách Hội Thánh chuẩn bị đón nhận Nước Trời cũng như về những nguy cơ cản trở Nước Trời. Chính sự thông tin và được thông tin như vậy đã là một cách truyền giáo có sức lôi cuốn.
8/ Con đường Cầu nguyện và Thánh giá Cầu nguyện và vác thánh giá là những việc mà người truyền giáo sẽ thực hiện trên bất cứ con đường nào nói trên. Ở đây khi nói tới con đường cầu nguyện và thánh giá, tôi muốn nghĩ nhiều hơn đến việc suy niệm và tinh thần khổ chế. Tôi sẽ rất vắn tắt về con đường này, vì nhiều người đã nói dài rồi. Tôi chỉ chia sẻ đôi chút kinh nghiệm. Kinh nghiệm dạy tôi điều này là sự cầu nguyện trong suy niệm và trong tinh thần khổ chế là một bí quyết truyền giáo không gì thay thế được. “Không có Cha, chúng con không thể làm gì được”. “Cha là cây nho, chúng con là ngành”. Ðó là những lời Chúa mà người truyền giáo phải nhập tâm thường xuyên, từng phút từng giây. Người truyền giáo là người phải từ bỏ mình, phải vác thánh giá mình mà theo Chúa. Khi sống như vậy, ta sẽ cảm thấy trong tâm hồn một sự bình an ngọt ngào, cho dù trên các nẻo đường truyền giáo, ta gặp những thánh giá đủ loại đến từ mọi phía, nhất là nếu cái thánh giá nặng nhất gắn chặt trên vai ta lại là những vụng về yếu đuối của bản thân ta. Càng đi trên các con đường truyền giáo, tôi càng xác tín rằng: Nếu hạt giống không thối đi, thì nó sẽ không trở thành mầm non, rồi thành cây, rồi sinh hoa kết quả được. Khi coi đó là một chân lý Phúc Âm do chính Chúa Giêsu đã dạy được thấm vào lòng trong các giờ suy niệm, người truyền giáo sẽ hân hoan hát lời tạ ơn Chúa, mỗi khi bản thân mình bị thối đi cách nào đó do bất cứ khổ đau nào. Thiết tưởng một điều, kinh nghiệm cũng nên chia sẻ ở đây, đó là sự mở rộng việc con người suy niệm và viếng đàng thánh giá. Ðã hẳn, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa trong Phúc Âm trước nhà Tạm và viếng chặng đàng thánh giá trong nhà thờ là những việc đạo đức truyền thống rất tốt. Nhưng ngoài ra, cần phải cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa trên chính cuộc sống thường ngày, cũng như cần phải theo Chúa Giêsu đang vác thánh giá trong các người nghèo, các người bệnh tật, các người già yếu neo đơn, các người bị xã hội khinh chê, bỏ rơi. Họ đầy rẫy xung quanh ta. Trên con đường cầu nguyện và thánh giá này, tôi thấy cốt lõi vấn đề truyền giáo là chất lượng người truyền giáo. Nếu người truyền giáo biết hằng ngày trở về với Ðức Kitô và Phúc Âm của Người, thì tương lai truyền giáo sẽ sáng sủa. Trái lại, nếu người truyền giáo không thường xuyên trở về với Ðức Kitô và Phúc Âm của Người, thì dù với mọi cách hiện đại tân tiến, việc truyền giáo sẽ bị bế tắc. *** Trên đây là những gợi ý. Chắc là chưa đủ. Nhưng mong rằng, với những chia sẻ chân tình này, lời kêu gọi của Ðức Thánh Cha Gioan Phalô Ðệ Nhị về ngày truyền giáo năm nay, sẽ càng được mọi nơi trong Hội Thánh Việt Nam nhiệt tình hưởng ứng. Long Xuyên, tháng 10/1991
Con số 40 hay được dùng trong Kinh Thánh. Nó nói lên những thời gian có ý nghĩa về lịch sử cứu độ. Xin trích dẫn một số trường hợp. Tiếng nói của con số 40. Ông Maisen ở trên núi Xinai 40 ngày đêm (Xh 24,18). Dân Israel đi trong sa mạc suốt 40 năm (Đnl 8,2). Vua David cai trị Israel trong thời gian 40 năm (2 Sb 29,27). Vua Salômôn trị vì toàn thể Israel tại Giêrusalem trọn 40 năm (2 Sb 9,30). Bài ca bà Đơvora và ông Barắc kết thúc bằng câu: Và lãnh thổ bình an 40 năm (Tl 5,31). Ông Êli chết, sau khi làm thủ lãnh xét xử Israel 40 năm (1 Sm 4,28). Tiên tri Êlia đi suốt 40 ngày đêm tới Khôrếp là núi của Thiên Chúa (1 V 19,8). Chúa Giêsu ăn chay ròng rã 40 đêm ngày trong hoang địa (Mt 4,1-2). Các sự kiện kể trên gợi ý cho tôi hiểu: Thời gian 40 ngày đêm hay 40 năm là một hành trình của một sứ mạng. Theo cách hiểu đó, tôi nhìn lại Công đồng Vatican II. Công đồng này đã khai mạc phiên họp đầu tiên vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 do Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Từ đó đến tháng 10 năm 2002 này thời gian đã chẵn 40 năm. Đối với chúng ta, 40 năm qua là một hành trình đưa Công đồng Vatican II vào cuộc sống. Các đề tài mà Công đồng muốn chúng ta đưa vào cuộc sống có thể lược tóm vào bốn nhiệm vụ: Nhiệm vụ Hội Thánh nhận thức về chính mình. Nhiệm vụ đổi mới Hội Thánh. Nhiệm vụ tìm kiếm sự hiệp nhất giữa những người cùng tin theo Đức Kitô. Nhiệm vụ đối thoại với mọi người. Để góp phần làm tốt các nhiệm vụ trên, chúng ta nên tìm chỉ dẫn của Công đồng. Riêng tôi, do nhu cầu và với kinh nghiệm tu đức cũng như mục vụ, tôi quan tâm nhiều hơn đến mấy chỉ dẫn sau đây của Công đồng. Tập trung vào Đức Kitô, Đấng cứu độ loài người. Để khai mạc kỳ họp thứ hai vào ngày 29-9-1963, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố hướng đi căn bản của Công đồng là tập trung vào Đức Kitô, Ngài nói: “Đức Kitô là nguyên lý của chúng ta, là con đường của chúng ta, là đích điểm của chúng ta. Chính từ Người mà chúng ta đến, chính trong Người mà chúng ta lên đường, chính để đến với Người mà chúng ta rảo bước”. Trong 40 năm qua, sự tập trung vào Đức Kitô, theo sự chỉ dẫn của Công đồng, đã góp phần đổi mới Hội Thánh. Thay vì tản mác, lòng đạo nhiều người đã thực sự qui tụ vào Đức Kitô. Thay vì mang tên một Đức Kitô trên lý thuyết, lòng đạo nhiều người đã thực sự mang sự sống được chia sẻ từ Đấng cứu chuộc nhân loại. Một Đức Kitô hiện diện như ánh sáng trong đêm tăm tối, như lương thực trong cơn đói khổ, như nước mát trong cơn khát lả, như nguồn cứu chữa trong cơn hoạn nạn, như sự sống lại trong cõi chết tuyệt vọng. Đức Kitô đến cứu độ, chỉ với điều kiện là người ta nhận mình bệnh tật, muốn được lành mạnh, muốn đón nhận Người, muốn trú ẩn nơi Người, thực sự tin Người là tình yêu cứu độ, như chính Người đã quả quyết: "Ta là cửa (Ga 10,9). "Ta là mục tử nhân lành (Ga 10,11). "Ta là sự sống và là sự sống lại (Ga 11,25). "Ta là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). "Ta là cây nho thật (Ga 15,1). "Ta là ánh sáng thế gian (Ga 9,5). "Ta là bánh trường sinh (Ga 6,34). "Ta là bánh từ trời xuống" (Ga 6,41). Một lòng đạo tập trung như vậy vào Đức Kitô sẽ đích thực là Kitô hữu, là đúng Phúc Âm. Một lòng đạo tập trung vào Đức Kitô sẽ giúp cho việc đối thoại với Hội Thánh Tin Lành, và các giáo phái cùng tin vào Đức Kitô được dễ dàng hơn. Tha thiết với Lời Chúa. Cùng với việc hô hào tập trung lòng đạo vào Đức Kitô, Công đồng kêu gọi mọi tín hữu hãy tha thiết với Lời Chúa. “Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn… Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội. Lời Chúa là lương thực linh hồn, là nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội”… “Vì thế, tất cả các giáo sĩ, nhất là các linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ Lời Chúa, như các phó tế và những người dạy giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh, nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, nhất là trong phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được uỷ thác cho họ, không ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa ngoài môi miệng, bởi không lắng nghe lời Thiên Chúa trong lòng” (Hiến chế về Mạc Khải). Những thao thức trên đây của Công đồng về vai trò của Lời Chúa đã có những vang vọng tích cực trong nhiều tâm hồn tại Việt Nam ta. Càng ngày Lời Chúa càng đi sâu vào đời sống đạo. Như cầu nguyện với Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa, đọc Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa, tôn vinh Lời Chúa. Lời Chúa đã thay đổi sâu xa não trạng người có đạo chúng ta. Với gương sáng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cầu nguyện cho hoà bình chung với các tôn giáo bạn, Lời Chúa đã mở rộng lòng trí ta, để biết có cái nhìn kính trọng đối với nhiều giá trị thiêng liêng của các tôn giáo khác. Với gương sáng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công khai xin lỗi nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo về những lỗi lầm trong quá khứ, Lời Chúa đã dẫn lòng trí ta bước sâu xuống đức khiêm nhường, để biết nhìn nhận những sai sót của mình đối với nhiều nền văn hoá, nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc. Với những gương sáng đó và nhiều gương sáng khác, Lời Chúa đã giúp chúng ta phấn đấu với chính mình, để trở thành những con người hoà giải, xây dựng hoà bình, liên đới. Sáng tạo sự hiện diện của Tin Mừng giữa thế gian. “Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha” (Sắc lệnh về Truyền giáo). Truyền giáo thường được hiểu là bổn phận riêng của những người được chọn và được sai đi, để chuyên về công việc đó. Nhưng nói chung, mọi tín hữu đều có bổn phận truyền giáo. Ít ra bằng sự hiện diện của mình giữa môi trường mình sinh sống. Theo Công đồng dạy, thì để sự hiện diện của chúng ta có tính cách truyền giáo, chúng ta phải là con người cầu nguyện, có một đời sống thiêng liêng và luân lý tốt, biết đến với mọi người với tâm hồn rộng mở, với con tim bao dung, với lòng nhiệt thành, tự nguyện hy sinh và tận hiến cho các linh hồn. Để được như vậy, chúng ta gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày. Hiểu những chỉ dẫn trên đây, tôi thấy bí quyết truyền giáo trong mọi thứ hiện diện chính là lửa tông đồ. Phải có nhiều lửa tông đồ trong trái tim ta. Không phải các giáo lý, các lý thuyết, các lý lẽ sẽ chuyển tải được Tin Mừng vào lòng người. Nhưng chính lửa mến Chúa yêu người sẽ thúc bách ta. Chính lửa tình yêu mới đốt lên được sự khát khao chia sẻ Tin Mừng và đón nhận Tin Mừng. Khi lòng ta đầy lửa tông đồ, ta sẽ nhạy bén với những thời cơ. Và ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, nếu lòng ta bừng cháy lửa tông đồ, ta sẽ biết sáng tạo những cách làm chứng cho tình yêu Chúa một cách âm thầm mà hữu hiệu. Tại Việt Nam hôm nay, không thiếu những sáng tạo truyền bá Tin Mừng. Ta có thể không biết đến những sáng tạo đó. Nhưng không biết đâu có nghĩa là không có. Nhiều việc rất nhỏ, nhiều cộng đoàn rất nhỏ, đang là những dòng sông nhỏ âm thầm chuyên chở Tin Mừng vào các tâm hồn, đặc biệt là các tâm hồn khó nghèo, đơn sơ. Những dòng sông nhỏ này là những tình thương âm thầm của những người bé mọn. Họ thể hiện lời Đức Thánh Cha Phaolô VI nói về Hội Thánh của Công đồng Vatican II: “Đó là Hội Thánh yêu thương. Hội Thánh yêu thương với một trái tim mục tử, với một trái tim đại kết, với một trái tim mở ra về phía mọi người, kể cả về phía những ai bắt bớ Hội Thánh. Công đồng này, thay vì kết án chống lại ai, sẽ chỉ có những tình cảm nhân ái và bình an” (14-9-1965). Trên đây là ba dấu ấn Công đồng Vatican II, mà tôi nhận thấy trong nếp sống đạo tại Việt Nam hôm nay. Nơi có nhiều, nơi có ít. Tất nhiên, Công đồng không phải chỉ có thế. Nhưng nơi nào, người nào có được như thế, kể cũng đã đáng được tôn vinh. Sau 40 năm, Công đồng Vatican II vẫn còn mới. Chúng ta không dừng lại ở những cái mới đó. Chúng ta sẽ vừa tiếp tục triển khai những cái mới của Công đồng, vừa nắm bắt những vấn đề mới phát sinh từ sau Công đồng. Và đó là một nhiệm vụ cũng phải đặt ra cho hành trình đi về phía trước. Năm nay, đúng ngày kỷ niệm 40 năm Công đồng Vatican II, đã xảy ra một sự kiện đáng kể cho Giáo Hội Việt Nam.. Đó là ngày 11-10-2002 tại thủ đô Hà Nội, phái đoàn Toà Thánh đã có những gặp gỡ với Ban Tôn Giáo của Chính phủ Việt Nam, để thông báo về dự kiến bổ nhiệm một số nhân sự cho Giáo Hội Việt Nam. Sự kiện này gợi ý cho tôi nghĩ tới trách nhiệm tế nhị về liên đới và cộng tác với Toà Thánh mà tinh thần Công đồng Vatican II muốn Hội Thánh địa phương nói chung và từng giáo phận có liên hệ nói riêng phải quan tâm. Cộng tác nhất là trong việc giúp thăm dò tâm lý, tham khảo ý kiến và đề cử ứng viên thích hợp sẽ lãnh nhận trọng trách đứng đầu cộng đoàn dân Chúa, để việc xây dựng hiệp nhất và loan báo Tin Mừng được hữu hiệu. Bởi vì, theo tinh thần Công đồng Vatican II, dấu ấn của Giáo Hội địa phương cũng rất quan trọng. Địa phương chịu phần lớn trách nhiệm về sự tồn vong và hưng thịnh của mình. Tới đây, tôi ái ngại nhớ tới lời Chúa trong Thánh vịnh, mà Phụng vụ giờ kinh đọc lên hàng ngày:"Suốt 40 năm, dòng giống này làm Ta chán ngán… Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta" (Tv 94,10-11). Với lời trên đây, Chúa muốn đánh thức lương tâm chúng ta. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Công đồng Vatican II, chúng ta nên khiêm tốn xét mình và chân thành sám hối vì những trì trệ và sai lạc, nếu có, đối với Công đồng Vatican II.
Cuộc đời là một chuyến đi. Tôi là một lữ khách. Khi chưa tới đích điểm, thì chỗ nào cũng là nơi tạm trú. Trên đường về nhà Cha, người con của Chúa sống trong những liên đới trập trùng. Liên đới với nhiều người khác nhau. Liên đới với nhiều tình hình khác nhau. Nhất là liên đới với Thiên Chúa, Đấng yêu thương tôi, Đấng đã gọi tôi, Đấng đã sai tôi đi. Thực tế những chặng đường đã qua cho tôi nhiều kinh nghiệm quí giá. Đối với tôi, có một kinh nghiệm rất quí giá, đó là kinh nghiệm về sự cầu nguyện. Sự cầu nguyện là một nhu cầu. Như hơi thở, như lương thực hằng ngày. Tôi cầu nguyện đơn giản theo kinh Lạy Cha. Từ đó nảy sinh ra những ý hướng thức thời về cuộc sống, được dâng lên Chúa khi cầu nguyện. Ý hướng thứ nhất là xin ơn được khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Với ơn Chúa, tôi khám phá thấy sự hiện diện của Chúa trong nhiều con người mình gặp, trong nhiều tình hình mình sống, trong nhiều biến cố xảy đến cho mình. Chúa hiện diện và hoạt động ở những thực tại đó một cách kín đáo. Rất kín đáo và cũng rất thường. Nhưng một lúc bất ngờ, Chúa mở lòng trí tôi, và tôi nhận ra Ngài. Xưa, hai môn đệ Chúa trên đường Emmau đã rất lo âu. Có lúc họ rơi vào thất vọng. Chúa Giêsu đến với họ. Ngài xin họ cho Ngài quá giang. Ngài ngồi bên họ trên chiếc xe ngựa cũ kỹ. Ngài như một người thường. Nhưng có một cái gì không thường. Bởi vì từ Ngài toả ra một phong cách khác thường. Phong cách tình người đằm thắm chân thành. Phong cách thấm nhuần Lời Chúa sâu xa. Phong cách am hiểu và tôn trọng người đối thoại. Phong cách đốt nóng tâm hồn người nghe bằng lửa thiêng liêng tế nhị nồng nàn. Sau cùng, hai môn đệ đã nhận ra sự Chúa đến với mình, sự Chúa hiện diện giữa chuyến đi của mình, sự Chúa đồng hành và chia sẻ với mình, để mình từ nay vững tin vào Chúa, cho dù chuyến đi của mình còn gặp nhiều gian nan, tăm tối. Nay, tôi cũng nhận ra Chúa đến với mình một cách tương tự như thế. Nhưng phải nói ngay rằng: Chúa đến qua nhiều người, qua nhiều biến cố, qua nhiều chặng đường lịch sử, bằng nhiều cách khác nhau. Thường rất bất ngờ, như Phúc Âm vẫn nhắc nhở. Ngài đến như một người gieo giống. Ngài đến như một người gõ cửa. Ngài đến như một người bị nạn. Ngài đến như một người xin nước uống. Ngài đến như một tấm bánh thánh bé nhỏ. Ngài đến như một người bạn. Ngài đến như một ông chủ muốn tính sổ về vốn và lời. Ngài đến như một người Cha vác thánh giá để hiến tế mình vì đàn con. Nói chung, tôi tin và tôi cảm nghiệm thấy điều này: Chúa chủ động trong cách Ngài đến, trong thời gian Ngài đến, trong nơi Ngài đến. Vì thế, nhận ra được sự hiện diện của Ngài, sự đến của Ngài, là một ơn trọng đại. Ơn đó được ban cho mỗi người, tuỳ lòng thương xót của Chúa. Nhưng mỗi người phải cộng tác vào một cách tích cực bằng sự khiêm nhường cầu nguyện và khiêm nhường tỉnh thức. Ý hướng thứ hai là xin ơn được biết lãnh nhận và biết cho đi. Một em nhỏ cũng có khả năng lãnh nhận và khả năng cho đi. Cách nó lãnh nhận và cách nó cho đi nhiều khi làm cho nó trở nên dễ thương, dễ nhớ. Một người bệnh tật, nghèo túng, ít học, cũng có vô số điều tốt để cho đi, đang khi họ rất cần lãnh nhận những gì họ thiếu thốn. Điều tôi sợ cho mình là mất khả năng lãnh nhận. Do hẹp hòi, do tự đắc, do thiên kiến, do dửng dưng bất cần. Điều tôi sợ cho mình là suy yếu về khả năng cho đi. Có thể vẫn cho đi, nhưng không cho đi đúng sự Chúa muốn, đúng cách Chúa muốn, đúng lúc Chúa muốn. Điều tôi sợ cho mình là không nhận ra thánh ý Chúa, là không lãnh nhận thánh ý Ngài, là không lãnh nhận kế hoạch cứu độ của Ngài. Lịch sử cho thấy, đã có nhiều người chức cao quyền lớn đưa ra những quyết định này biện pháp kia về cuộc đời, kể cả về tôn giáo, với quả quyết là thánh ý Chúa muốn như vậy. Nhưng sau này mới thấy những quyết định đó không phải đã lãnh nhận từ Chúa. Trường hợp các thượng tế xưa kết án Chúa Giêsu là một ví dụ. Lịch sử cũng cho thấy, đã có nhiều người mang danh đạo đức đã cho đi những lối sống đạo này nọ, với phô trương là những cách cho đi như vậy sẽ làm chứng cho Chúa. Nhưng sau này đã thấy những phô trương đó đều là phản chứng. Trường hợp các người Pharisêu xưa là một điển hình. Biết lãnh nhận tiếng gọi của Chúa bất cứ từ đâu tới, biết cho đi những hạt giống Tin Mừng bất cứ ở thời buổi nào. Đó là một sự khôn ngoan Phúc Âm rất cần cho tôi. Sự khôn ngoan này là chính Thần Linh của Đức Kitô. Tôi sẽ được chia sẻ sự khôn ngoan, nếu tôi biết khát khao Ngài, biết đón nhận Ngài, biết lắng nghe Ngài, biết để Ngài chiếm ngự toàn thể con người của tôi, trong suốt cuộc đời của tôi. Tôi cũng đã từng kinh nghiệm: Cách cho quí hơn nội dung mình cho. Cách phục vụ quí hơn việc mình phục vụ. Cách nói quí hơn lời mình nói. Những phong cách, thái độ phản ánh tấm lòng hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương, tế nhị vốn được Chúa dùng để chuyên chở những tín hiệu Tin Mừng. *** Khi con người tôi càng tới tuổi già, càng nếm được sự mệt mỏi, càng chạm đến những giới hạn, tôi càng thấy sự đi sâu vào những chân lý cuộc đời là cực kỳ quan trọng. Tôi cảm nhận mỗi giây phút hiện tại đang trôi nhanh vào quá khứ. Hiện tại trở thành quá khứ một cách mau lẹ và dứt khoát. Tôi cảm nhận tâm tư người lữ khách về cuối đời là tìm những sự hiện diện mới xung quanh mình. Họ cũng sẽ tìm thấy những cách mới để mình hiện diện với thực tế phức tạp của mình. Hiện diện như một vượt qua, như một phục vụ nhỏ bé, như một hy vọng bước sang một đời sống mới loé sáng từ Nhà Cha. Nhất là như một đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện để nhận ra Chúa đang đến gọi mình. Cầu nguyện để nhận ra những ơn Chúa muốn mình lãnh nhận trong tình hình đau bệnh. Cầu nguyện để biết cho đi tinh thần vâng phục thánh ý Chúa trong mọi trường hợp, nhất là trong những thử thách cam go. Cầu nguyện để mỗi giây phút mình còn sống mang được một giá trị đời đời, có sức cứu độ các linh hồn. Cầu nguyện để biết phó thác những ngày còn lại của mình cho tình thương của Chúa. Một Thiên Chúa là tất cả cho tôi.
Trong tháng 11 này, tại các cộng đoàn công giáo, bầu khí liên hệ với người đã qua đời trở nên thân mật khác thường. Người đã chết, tuy xa, nhưng được coi như rất gần. Tuy không hiện hình, nhưng họ được coi như hiện diện sâu xa trong tâm thức người thân. Tuy lặng im, nhưng họ được coi như vẫn nói và nghe trong tình hiệp thông của người còn sống. Tôi thấy hiện nay tình hiệp thông ấy được thể hiện bằng nhiều cách, đặc biệt bằng hai cách sau đây. Cầu nguyện cho người đã qua đời. Người quá cố đã được lên thiên đàng hay chưa, điều đó không thuộc quyền của chúng ta. Chúng ta, nếu thương họ, thì hãy cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện thì phải rất kiên trì. Cầu nguyện thì phải luôn luôn khởi sự lại. Cầu nguyện thì phải hết lòng tha thiết. Như Chúa Giêsu đã dạy: “Phải cầu nguyện liên lỉ, không được nản chí” (Lc 8,1). Chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời để họ mau qua thời gian thanh luyện, và để việc đền tội của họ mau được kết thúc. Thực vậy, Chúa là Đấng vô cùng trong sáng. Không ai sẽ được gần lại Ngài, kết hợp với Ngài, nếu còn dơ bẩn. Về điểm này, tôi nghĩ tới điều Chúa Giêsu dạy qua dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14). Vua mời mọi thứ người vào dự tiệc cưới. Nhưng khi rảo qua các bàn, Ngài thấy một số người không mặc áo cưới. Ngài liền đuổi họ ra. Hơn nữa, Ngài còn truyền đưa họ vào “chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 22,13). Suy gẫm dụ ngôn trên, tôi hiểu về sự người ta cần phải được thanh luyện, để có thể được coi là phần nào xứng đáng tham dự hạnh phúc thiên đàng. Việc thanh luyện sẽ được thực hiện ở đời này. Nếu chưa đủ, người chết sẽ được thanh luyện ở đời sau. Ngoài việc phải được thanh luyện, người chết thường còn phải chịu việc đền tội. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng công bình. Người thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm (Mt 16,27). Tội có thể được tha, nhưng thiệt hại do tội và hình phạt do tội thì họ phải gánh chịu. Điều đó dễ hiểu. Thí dụ ngay ở đời này, việc làm hại kẻ khác bất cứ về phương diện nào đều là tội. Nếu người phạm tội ăn năn sám hối, sẽ có thể được tha tội. Nhưng họ vẫn có bổn phận phải sửa lại thiệt hại do tội và chịu hình phạt do tội. Hoặc cách này hoặc cách khác. Với những nhận thức như thế, người còn sống chúng ta thường nhìn những thân nhân đã qua đời như những người bất toàn. Họ cần được thanh luyện. Họ cần phải chịu việc đền tội. Để cho việc thanh luyện và việc đền tội của họ được nhẹ đi và vắn lại, người còn sống thường xin Chúa thương đến họ. Bằng cách chúng ta xin chịu thay một phần. Như thánh lễ ta xin cho họ, hy sinh ta chịu cho họ, việc từ thiện ta làm chỉ cho họ, lời cầu nguyện ta dâng lên Chúa cho họ. Một cách tốt giúp họ, mà Chúa rất muốn, đó là chính chúng ta cố gắng sống tốt hơn. Chúng ta tự thanh luyện mình và để Chúa thanh luyện ta. Chúng ta tự đền tội mình và đón nhận việc đền tội Chúa gởi cho ta. Chúng ta tự đền bù mọi thiệt hại ta đã gây ra cho người khác, và sẵn sàng cộng tác với Chúa trong những đền bù đó. Khi chúng ta làm như vậy, thì vừa là cách chúng ta giúp những người đã qua đời, và cũng vừa là cách chúng ta lo cho chính phần rỗi của chúng ta. Cầu nguyện với những người đã qua đời. Nhiều người không những cầu nguyện cho những người đã qua đời, mà còn cầu nguyện với những người ấy. Chúng ta tin rằng: Những người đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa được gần Chúa hơn chúng ta. Họ cũng hiểu những gì hợp ý Chúa hơn chúng ta. Chúng ta cũng nghĩ rằng: Khi chúng ta cầu nguyện với họ, thì Chúa sẽ cho họ nghe được tâm tình của ta một cách sâu sắc. Nhất là những người chúng ta cầu nguyện lại là những người thân thiết của ta. Tôi có một kinh nghiệm nhỏ xin được chia sẻ. Tôi hay cầu nguyện với cha mẹ và những người thuộc gia đình tôi đã qua đời. Tôi cũng thường cầu nguyện với những hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ, tín hữu vốn là những bạn bè thân thiết nay đã ra đi. Tôi cũng có thói quen cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi, và cầu nguyện với các linh hồn ấy. Khi cầu nguyện với họ, luôn luôn tôi được họ nhắn nhủ một ý tương tự. Đó là: Hãy vâng phục thánh ý Chúa. Và thánh ý Chúa hiện nay là hãy cầu nguyện nhiều và hãy hy sinh nhiều. Để chính mình được ơn biết rút ra những ích lợi thiêng liêng từ những sai lầm, yếu đuối và từ những thử thách. Để chính mình và nhiều người được ơn trở lại. Để chính mình và nhiều người được ơn sống đời đền tạ. Vì hiện nay, Chúa bị xúc phạm quá nhiều. Người ta đang đi vào nguy cơ huỷ diệt nhau và tự huỷ chính mình. Qua kinh nghiệm cầu nguyện với các người đã qua đời, tôi thấy sự hiệp thông trong Hội Thánh mở ra một chiều kích mới. Có những chân lý được người chết nhắc nhở. Có những tình hình được người chết báo động. Có những ơn lành được người chết bầu cử cho. Tôi coi một số người đã qua đời là những người thân gần gũi. Họ và tôi cùng chung một lý tưởng. Họ và tôi cùng chia sẻ một chuyến đi. Họ đi trước. Tôi đi sau. Kẻ trước người sau đều nhắm vào một đích điểm là nhà Cha. Chúng tôi luôn nâng đỡ nhau, luôn cầu nguyện cho nhau. Những liên hệ giữa người sống và người đã qua đời không những có thực, mà còn rất mặn mà thắm thiết. Tất cả đều trong một động lực duy nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa.
Rất nhiều người Việt Nam công giáo, khi gặp sự bất ngờ, thường hay kêu: “Giêsu, lạy Chúa tôi”. Đây là một thói quen đạo đức. Nó khởi đi từ một tiềm thức thấm nhuần đức tin. Để thói quen đạo đức này đem lại cho chúng ta nhiều ơn thiêng quí giá, tôi xin phép nhắc nhở vài điều nên thực hiện khi kêu “Giêsu, lạy Chúa tôi”. Lòng tôn thờ. Tên Giêsu là tên cực trọng. Thánh Phaolô viết: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Ph 2,10-11). Chúng ta tin lời thánh Phaolô quả quyết trên đây là chân lý cứu độ. Chân lý này trở thành chân lý của chúng ta, và cho mỗi người chúng ta. Vì thế ta kêu: Giêsu, lạy Chúa tôi. Với tuyên xưng đó, ta tin Đức Giêsu Kitô thực là Chúa. Không phải là Chúa chung chung, mà là Chúa của tôi. Ngài là Chúa của tôi, có nghĩa là Ngài nắm trong tay cuộc sống của tôi, lịch sử của tôi. Ngài có kế hoạch riêng cho đời tôi. Ngài muốn giúp tôi được sống dồi dào. Ngài là Chúa của tôi, có nghĩa là Ngài có quyền sắp xếp mọi chi tiết cuộc đời tôi. Ngài có khả năng soi sáng, dẫn đưa tôi. Ngài thấu suốt mọi tư tưởng, mọi ước muốn, mọi tình cảm, mọi ý hướng của tôi, tận những lớp sâu thẳm và kín đáo nhất. Ngài là Chúa của tôi, có nghĩa là nơi Ngài, tôi tìm được ý nghĩa đời tôi. Bỏ Ngài, mọi thực hiện của tôi, cho dù coi như thành công, cũng sẽ chỉ là phù du, mong manh và dễ biến chất. Ngài là Chúa của tôi, có nghĩa Ngài là nơi tôi luôn qui chiếu. Làm gì, nghĩ gì, toan tính gì, tôi đều qui chiếu vào lời của Ngài, đời sống của Ngài, thánh ý của Ngài. Ngài là Chúa của tôi, có nghĩa là Ngài là Đấng dạy tôi, nhất là dạy tôi biết yêu thương, biết phục vụ, biết hiện diện, biết đón nhận mọi tín hiệu của tình Cha. Những nhận thức trên đây sẽ giúp tôi kêu lời “Giêsu, lạy Chúa tôi” một cách tôn trọng. Nhưng tôn trọng không phải trong ý thức, mà trong chính việc gặp gỡ Chúa Giêsu. Tôi kêu tên Ngài, vì tôi tin Ngài ở trước mặt tôi. Ngài đang nhìn tôi. Ngài đang yêu thương tôi. Ngài đang gọi tôi. Tôi kêu tên Ngài, để mời Ngài vào tâm hồn tôi. Tâm hồn tôi là căn nhà xấu xí, nhưng Ngài vẫn muốn đi vào và ở lại đó. Nếu Ngài ở lại đó, thì chính Ngài sẽ là nhà của tôi. Trong căn nhà này tôi sẽ cầu nguyện với Chúa Cha. Từ nhà này tôi sẽ có những khởi hành mới. Khi đồng hành với Ngài trong chuyến đi cuộc đời, tôi sẽ không ngừng nhìn vào Ngài là Chúa của tôi. Tôi tự cảnh giác, đừng nghĩ gì làm gì, theo áp lực thế gian, xác thịt, ma quỉ. Nhưng tôi sẽ nghĩ và làm theo ý Chúa của tôi. Mặc dù tôi vẫn lắng nghe dư luận, nhưng tôi chỉ theo những gì là ý Chúa được phân định trong đó mà thôi. Tôi tự cảnh giác, đừng bao giờ để lợi ích riêng mình đội lốt lợi ích của Chúa. Đôi khi nói là để phục vụ Chúa, nhưng nếu không tỉnh thức, tôi lại kín đáo tìm phục vụ mình qua chiêu bài phục vụ Chúa. Nếu tôi thực sự nhận Chúa Giêsu là Chúa của tôi, với tất cả lòng tôn thờ chân thành, thì chớ bao giờ tôi muốn ép Ngài theo ý riêng tôi. Nhưng luôn luôn tôi bắt tôi phải vâng phục thánh ý Ngài. Lòng vâng phục. “Giêsu, lạy Chúa tôi”, lời kêu tha thiết đó nhiều khi cũng để diễn tả lòng tôi vâng phục Chúa. Phải nói thật rằng vâng phục ý Chúa là việc không luôn dễ. Ý Chúa muốn người môn đệ Chúa trở thành hạt lúa phải thối đi. Như lời Chúa Giêsu phán: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa bảo tôi phải sẵn sàng chịu đau khổ, phải sẵn sàng chết đi cho chính mình. Tôi hiểu, nhưng tôi sợ. Dầu vậy, nhờ ơn Chúa, khi tôi chấp nhận ý đó trên lý thuyết và trên thực tế, thì tôi coi sự vâng phục ý Chúa đó là một thành công. Ý Chúa là sức lôi kéo các linh hồn về với Chúa sẽ từ tình yêu hy sinh trên thánh giá. Chúa phán: “Phần Thầy, một khi bị treo lên khỏi đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Ga 12,32). Với lời đó, tôi hiểu Chúa muốn các môn đệ Chúa cũng được chia sẻ ơn thu hút các linh hồn, nếu họ cũng có tình yêu hy sinh đến từ thánh giá đời mình. Tôi hiểu, nhưng nhiều khi tôi sợ. Tuy thế, nhờ ơn Chúa, khi tôi chịu để mình bị treo lên thánh giá một cách nào đó, thì tôi coi sự mình vâng phục ý Chúa như vậy là một thành công. Ý Chúa là bản thân người môn đệ Chúa hãy là một thánh lễ. Thánh Phaolô khuyên: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa” (Rm 12,19). Với lời đó, tôi hiểu thánh lễ mà Chúa muốn người môn đệ Chúa dâng lên Chúa, không phải chỉ là thánh lễ bàn thờ, mà là chính bản thân mình, với tất cả tình yêu và với rất nhiều hy sinh. Tôi hiểu, nhưng nhiều khi tôi sợ. Thế rồi, khi tôi chấp nhận để Chúa biến bản thân tôi thành một của lễ, thì tôi coi sự vâng phục ý Chúa như thế là một thành công. Tôi nghĩ chỉ được gọi là thành công khi vâng phục thánh ý Chúa, khi làm theo ý Chúa. Hiểu như thế mới có một cái nhìn mới. Nhiều sự việc xảy ra rất trái ý ta, nhưng thực sự lại là thành công lớn, bởi vì hợp với ý Chúa. Sự vâng phục thánh ý Chúa là một thành công mở đầu cho những kết quả thiêng liêng trên lãnh vực truyền giáo. Một lãnh vực mà Chúa trao cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay như một ưu tiên sẽ phải trả lẽ. Những kết quả thiêng liêng này tại đây là rất lạ lùng, khiến tôi thốt lên lời cảm tạ: “Giêsu, lạy Chúa tôi”. Lòng cảm tạ. Thánh Phaolô khuyên: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,20). Tôi thấy trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn phức tạp, Chúa đã làm những công trình tuyệt diệu. Để cảm tạ Chúa Cha vì những công trình đó đó, tôi vâng lời thánh Phaolô khuyên. Đó là nhân danh Đức Giêsu Kitô, mà nói lên lòng cảm tạ. Thực vậy, khi nhân danh Đức Kitô nói lên lời cảm tạ, tôi tuyên xưng rằng: Chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã đổi mới nơi đây. Ngài đã phá vỡ con đường ác cảm, để mở ra con đường thiện cảm. Ngài đã xoá đi con đường chống đối, để mở ra con đường đón nhận. Ngài đã đổi con đường nghi ngờ trở thành con đường tin tưởng và hợp tác. Trên những con đường mới được mở, Hội Thánh Chúa Giêsu đang đi vào vùng sâu vùng xa, đặc biệt là đang đi vào các tâm hồn. Trong mọi lãnh vực xã hội, Chúa Giêsu là Tin Mừng đang được giới thiệu bằng nhiều cách. Như những hiện diện của tình thương chia sẻ, những phục vụ của tình thương thăng tiến, những liên hệ lãnh nhận và cho đi tình nghĩa chân thành, những cầu nguyện và hy sinh của tình thương tông đồ. Không những Tin Mừng được giới thiệu, mà Tin Mừng còn đi vào các trái tim, các trí khôn, các ý chí. Nhìn cảnh lương giáo sống trong bầu khí hài hoà, tôi nghĩ tới Chúa là chủ lịch sử. Lịch sử này đang phát triển tình thương. Đó chính là lời tuyên xưng hùng hồn về Chúa. Bên cạnh tuyên xưng niềm tin vào Đấng tối cao, tôi thấy có thực hiện tình thương và kính trọng đối với thôn làng, xóm ngõ và đồng bào. Thiết tưởng đó là tín hiệu của Nước Trời đang đến. Giêsu, lạy Chúa tôi! Thực Chúa đang làm biết bao sự kỳ diệu trong lịch sử nơi đây. Chúa làm bằng những phương tiện khiêm tốn, bé nhỏ, kín đáo, bình dị, cả đến phương tiện thinh lặng và ẩn dật. Nhiều khi tôi đi tìm vết chân của Chúa trong địa phương này phần đông là không công giáo. Và tôi thấy dấu vết đáng tin cậy nhất chính là tình thương. Tình thương âm thầm, lặng lẽ, càng ngày càng đẩy lùi bóng tối hận thù, chia rẽ. Tôi có cảm tưởng là các tâm hồn đơn sơ đang dùng tình thương để tuyên xưng Chúa. Bởi vì Chúa là tình yêu. *** Cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong bản thân mình và trong lịch sử đời mình, tôi như trẻ nhỏ, chỉ biết kêu lên: “Giêsu, lạy Chúa tôi”. Tôi kêu lên với tất cả tấm lòng tôn thờ, tấm lòng vâng phục, tấm lòng tạ ơn. Chúa Giêsu thực là Chúa của tôi, là Đấng cứu độ tôi.
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Chuẩn bị là mở tâm hồn ra một cách kính cẩn, để đón ơn giáng sinh. Chuẩn bị là dọn dẹp tâm hồn một cách chu đáo, để đón tiếp chính Chúa giáng sinh. Nếu muốn chuẩn bị với ai, thì ít là có ba nhân vật quan trọng được nhắc tới. Đó là thánh Gioan Tiền Hô, thánh Giuse và Đức Mẹ Maria. Hôm nay, xin được chuẩn bị lễ giáng sinh với Đức Mẹ. Tôi đến bên Đức Mẹ, cậy nhờ Đức Mẹ, xin Đức Mẹ giúp tôi dọn dẹp tâm hồn tôi. Đức Mẹ rất vui lòng. Nhưng Đức Mẹ muốn có sự cộng tác của tôi. Cộng tác bằng thinh lặng hồi tâm, sốt sắng cầu nguyện, tỉnh thức lắng nghe, khiêm nhường đón nhận. Tất cả mọi công việc như thế sẽ được thực hiện trong tâm tình đơn sơ của người con bé nhỏ. Với sự dịu dàng của người mẹ, Mẹ chỉ cho tôi con đường, mà Thiên Chúa đã chọn, để Ngôi Hai đi vào nhân loại. Con đường đó là chính tâm hồn Mẹ. Tâm hồn Mẹ là thế nào? Ước muốn biết sự thực về tâm hồn Mẹ là một ước muốn tốt. Ước muốn này sẽ không thể đạt được do lý luận, do nghiên cứu, nhưng sẽ do ơn thánh Chúa ban cho những ai thiện chí đi tìm. Phải tìm trong chính nguồn là Phúc Âm. Từ Phúc Âm, Mẹ hé mở tâm hồn Mẹ qua ba lời quan trọng Mẹ nói trong biến cố Thiên Chúa giáng trần. Lời thứ nhất là: “Con là tôi tớ Chúa” (Lc 1,38). Mẹ tự xưng mình là người đầy tớ của Chúa. Người đầy tớ ngoan là người luôn để mắt hướng về chủ. Hướng về một cách chăm chú và khiêm nhường. Để nắm bắt mau lẹ bất cứ sự gì chủ muốn sai bảo. Khi xưng mình là tôi tớ Chúa, có thể Mẹ đã muốn nhắc lại tâm tình người đầy tớ chờ mong lòng thương xót, như được tả trong thánh vịnh 122: “Quả thực, như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, và như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 122,21) Mẹ đã nhìn lên Chúa. Và có một lúc, cái nhìn của Mẹ đã bắt gặp cái nhìn khác thường của Chúa dành cho Mẹ. Cái nhìn của Chúa toả tình thương đầy ánh sáng. Trong ánh sáng đó Mẹ linh cảm được Mẹ được Chúa yêu thương một cách đặc biệt. Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ nhận thức rõ mình nghèo khó hèn mọn. Tất cả bản thân mình với những gì mình có đều do Chúa ban. Ngài ban tặng nhưng không. Đặc biệt là tình thương. Được Chúa yêu thương, và được Chúa ở cùng, đó là hạnh phúc không gì sánh được. Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ chắc chắn Chúa là nơi mình nương tựa, là Đấng sẽ cứu mình khỏi cái tôi cũ đầy bất xứng, là Đấng sẽ gỡ mình ra khỏi lưới ma quỉ, thế gian, xác thịt. Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ như cảm được thái độ mình phải có trên đường thánh thiện. Đó là vui nhận để tình Chúa dẫn đưa theo con đường Chúa muốn, hơn là tìm cách yêu mến Chúa theo con đường mình tự chọn. Điều này đòi phải có một đức tin mạnh mẽ và rất mực phó thác. Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ cố gắng phục vụ Chúa trong mọi việc lớn nhỏ. Phục vụ dưới sự soi sáng của Thần Linh trong tâm hồn. Phục vụ với sự bén nhạy trước những dấu chỉ của thời đại, hợp với nhu cầu từng nơi, từng lúc, từng người, từng sứ mạng sai đi. Với mấy chia sẻ trên đây, Mẹ đã cho thấy tâm hồn Mẹ đầy khiêm tốn khó nghèo. Tâm hồn khiêm tốn khó nghèo chính là con đường Chúa chọn, để đến với nhân loại. Tâm hồn khiêm tốn khó nghèo cũng chính là con đường tôi phải xây đắp trong tâm hồn tôi, để đón Chúa. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Điều này sẽ càng được rõ hơn ở lời quan trọng thứ hai Mẹ đã nói. Lời thứ hai là: “Con xin vâng theo lời Chúa truyền” (Lc 1,38). Lời Mẹ Xin vâng gói ghém một số chi tiết về khiêm nhường. Xin vâng là khiêm tốn hân hoan chấp nhận kế hoạch của Lời Chúa. Xin vâng, chủ yếu không phải là sẽ vâng làm việc này việc nọ, mà là xin vâng đi vào chương trình của Chúa. Mặc dầu Mẹ chưa hiểu hết chương trình đó. Nhưng vì Chúa truyền, nên Mẹ xin vâng. Xin vâng là khiêm tốn vui mừng tiếp đón chính Đấng là hồn của chương trình cứu độ. Đấng đó sẽ không ngại giới thiệu mình là kẻ hiền lành khiêm nhường. Ngài sẽ dùng máng cỏ Bêlem và thánh giá trên núi Calvariô là những phương tiện khó nghèo khiêm tốn để mạc khải tình yêu cứu độ và quyền năng vô biên của Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng. Xin vâng là khiêm tốn can đảm từ bỏ mình, xin đi ra khỏi cái tôi cũ của mình, để mặc lấy cái tôi có Thần Linh hướng dẫn. Để từ đó biết bỏ ý riêng mình, đón nhận ý Chúa, với xác tín Lời Chúa đã dạy trong tiên tri Isaia: “Tư tưởng của các ngươi không phải tư tưởng của Ta, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi như vậy” (Is 55,8-9). Xin vâng là khiêm tốn chấp nhận cuộc chiến đấu hằng ngày trong nội tâm và trong cuộc đời. Bởi vì sẽ không thiếu những cản trở, dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả dưới hình thức đạo đức, trên đường vâng phục thánh ý Chúa. Qua một chút đi sâu vào lời xin vâng, Mẹ cho thấy tâm hồn Chúa chọn để như con đường Chúa đi vào thế gian vẫn là tâm hồn khiêm tốn. Con đường khiêm tốn cũng chính là con đường tôi phải xây đắp, để đón Chúa vào đời tôi và vào cộng đoàn của tôi. Nội dung về khiêm tốn sẽ được nhìn rõ thêm nữa trong lời quan trọng thứ ba của Mẹ. Lời thứ ba là: “Linh hồn con chúc tụng Chúa” (Lc 1,46). Lời chúc tụng của Mẹ không chỉ là lời cảm ơn, nhưng là sự đem đặt tất cả bản thân mình và cuộc đời mình trước thánh nhan, để tôn thờ Chúa. Tôn thờ Chúa bằng sự dâng mình làm của lễ. Sau này thánh Phaolô cũng đã nói: “ Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp, để anh em thờ phượng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Của lễ Mẹ dâng để thờ phượng Chúa là chính bản thân mình. Trong đó Mẹ không ngừng chăm sóc tinh thần khiêm nhường và bác ái. Chăm sóc bằng cầu nguyện, bằng suy gẫm, bằng hy sinh. Để rồi ra đi vào đời. Vào đời như một hiện diện âm thầm khiêm tốn của tình yêu cứu độ. Vào đời như một thiện chí chia sẻ hy vọng của Đấng cứu thế làm người, gần gũi con người, chịu mọi thử thách như mọi người. Vào đời như một mời gợi thân thương của Đấng cứu độ, Đấng sẽ nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,33). Vào đời như một sứ mạng canh thức, bảo vệ chân dung đặc biệt của Đấng cứu thế, một chân dung khiêm nhường sẽ được thánh Phaolô mô tả như sau: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá: Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2,6-9). Như vậy, với tâm tình cảm tạ, một lần nữa Mẹ cho thấy con đường Chúa chọn để vào nhân loại, vẫn là tâm hồn khiêm tốn. Ai muốn đón Chúa cũng phải khiêm tốn, rất khiêm tốn. Khiêm tốn trong cảm tạ, Khiêm tốn trong vâng phục, Khiêm tốn trong mến yêu. Riêng đối với tôi, còn phải khiêm tốn trong sám hối, ăn năn, trở về. *** Tới đây, Mẹ muốn chúng ta phải có một quyết định chắc chắn và rõ ràng về sự dọn mình đón Chúa. Một khi biết con đường Chúa muốn đi vào là con đường khiêm tốn, chúng ta không nên trốn tránh con đường đó. Lucifer đã bị đuổi xuống hoả ngục vì tội kiêu ngạo. Hai ông bà nguyên tổ bị đuổi ra khỏi địa đàng, cũng vì tội kiêu ngạo. Bao người cũng đã bị loại ra khỏi Nước Trời, vì tội kiêu ngạo. Đang khi đó, khiêm nhường là bước đầu của sự trở về. Khiêm nhường là con đường để đón ơn Chúa và đón Chúa. Xung quanh ta, nhiều người đang là những con đường khiêm tốn, xinh đẹp. Ơn Chúa đang được chuyển tải qua những con đường âm thầm đó. Chính Chúa cũng đang đi vào các tâm hồn qua những con đường bé mọn đó. Còn chúng ta thì sao? Xin Mẹ thương giúp chúng ta biết nghe lời Mẹ, để theo gương Mẹ, chúng ta cũng trở thành những con đường khiêm tốn, đầy ánh sáng tâm linh của khiêm nhường và tình thương. Những con đường đó sẽ âm thầm chuyên chở ơn thánh. Những con đường đó sẽ đón Chúa hiền lành và khiêm nhường đến với nhân loại hôm nay. Những con đường đó sẽ được Mẹ dùng để Mẹ dẫn đưa những người thiện chí về với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Sáng hôm nay, họ đạo Núi Sam rất hân hoan với một quang cảnh khác thường. Khác thường ở chỗ số người tới dự thánh lễ rất đông, gồm nhiều thành phần. Khác thường ở chỗ môi trường lễ và bầu khí lễ, tuy đơn sơ, nhưng đầy tâm tình của Đức Mẹ, âm thầm nâng tâm hồn mọi người lên với Chúa. Với lòng sốt sắng khác thường, chúng ta hôm nay qui tụ nơi đây, để mừng lễ Đức Mẹ Maria vô nhiễm, quan thầy họ đạo, đồng thời cũng để mừng kỷ niệm 90 năm nhà thờ họ đạo. Để mừng lễ trọng này, tất nhiên chúng ta sẽ thực hiện một số việc bề ngoài cần thiết, như gặp gỡ, đọc kinh, tham dự nghi lễ. Nhưng chúng ta không dừng lại ở những việc đó. Chúng ta sẽ mừng lễ bằng việc đi vào nội tâm và bằng việc đi lên với Chúa. Đó là những việc quan trọng. Trong sâu thẳm nội tâm hướng về Chúa, chúng ta cảm tạ Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho họ đạo Núi Sam này. Trong vô vàn ơn đã nhận, tôi để ý đến mấy ơn sau đây: Ơn thứ nhất là ơn cộng đồng công giáo bé nhỏ chúng ta được góp phần vào sứ mạng thiêng liêng của cảnh núi bao la này. Thực vậy, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam ta nói riêng, cảnh núi thường là tiếng gọi của suy tư, của cầu nguyện, của thờ tự, của tu trì. Vẻ đẹp của núi tất nhiên là thiên nhiên hùng vĩ, nhưng cũng là sự hiện diện của các nơi thờ tự, các nơi hành hương, các nơi tu hành, các nơi tĩnh tâm. Văn hoá một nước mang một phần không nhỏ của hồn sông núi, nơi nuôi dưỡng những giá trị tâm linh, nơi gợi cảm hứng cho những suy tư về nhân sinh rất cao, rất sâu, rất huyền nhiệm. Núi Sam với những dãy núi trập trùng của Thất Sơn tại biên giới Việt - Miên cũng vậy. Vẻ đẹp ở đây là cảnh thiên nhiên và bầu khí tâm linh. Trong đó có phần là của họ đạo Núi Sam và của những họ đạo nhỏ bé chúng ta. Ơn thứ hai kéo chú ý của tôi một cách đặc biệt, đó là họ đạo Núi Sam được sống an bình trong những liên đới tốt. Thực vậy, ở đây có những liên đới tốt đẹp. Liên đới giữa đời và đạo. Liên đới giữa các tôn giáo khác nhau. Liên đới giữa người Việt và người các dân tộc khác nhau. Liên đới giữa nhà thờ và các chùa chiền xung quanh. Có sự thông cảm, có sự thương yêu, có sự nâng đỡ, có sự kính trọng. Tất cả đều do cái nhìn bao dung truyền thống đậm tinh thần từ bi của các tôn giáo trọng cái tâm. Có thể coi đó là một gia sản thiêng liêng rất lớn, rất quí, cần phải được bảo tồn trước những chuyển biến phức tạp của dòng lịch sử toàn cầu hoá. Ơn thứ ba tôi muốn nhấn mạnh cách riêng, đó là sự phát triển của Tin Mừng tại vùng đất bao la này. Thực vậy, 90 năm về trước, nhà thờ nhỏ bé này là nơi gieo một ít hạt giống Tin Mừng. Hạt giống Tin Mừng ban đầu rất cô đơn, rất âm thầm, rất yếu ớt. Nhưng dần dà, hạt giống đó đã mọc lên cây, cây lớn lên lại sinh ra cây, làm nên cụm cây, làm nên vườn cây, làm nên nhiều vùng cây rải rác. Cây Tin Mừng càng ngày càng nhiều, càng ngày càng trải rộng ra đều khắp. Vừa hoà nhập, vừa giữ gìn sức sống sống Tin Mừng trong chính mình. Sự phát triển đã được thực hiện trong những hoàn cảnh thuận tiện và cũng trong những hoàn cảnh không thuận tiện. Theo nhận xét của tôi, sở dĩ Tin Mừng đã lan ra được như vậy, là nhờ lòng sùng kính Đức Mẹ được gieo rắc nơi đây. Có thể nói, nhà thờ Núi Sam này là nơi chứng kiến sự phát triển Tin Mừng một cách lạ lùng. Lòng yêu mến Đức Mẹ đúng là hạt giống Tin Mừng. Hôm nay, trong thánh lễ tạ ơn, với ý thức về những ơn Chúa ban, tôi xin được nhắn nhủ anh chị em chỉ một điều mà thôi. Đó là hãy siêng năng cầu nguyện. Khi nhìn về quá khứ, chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ, mà cầu nguyện tạ ơn. Khi nhìn vào hiện tại, chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ, mà cầu nguyện xin ơn. Khi nhìn tới tương lai, chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ, mà cầu nguyện phó thác. Đức Mẹ đã nâng đỡ họ đạo, đã nâng đỡ tùng gia đình, đã nâng đỡ từng người chúng ta. Mẹ nâng đỡ ta, dạy ta bước đi, theo đúng con đường tới hạnh phúc thực. Mẹ nâng đỡ ta, giúp ta vượt qua những thử thách, để luôn luôn bám vào một hy vọng bền vững. Xin anh chị em hãy bắt chước Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ mà cầu nguyện. Cầu nguyện kiên trì, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình bé nhỏ yếu đuối hèn mọn. Cầu nguyện tin tưởng, với ý muốn vâng phục thánh ý Chúa. Hãy coi sự cầu nguyện như lương thực. Hãy coi sự cầu nguyện như hơi thở. Hãy coi sự cầu nguyện như tiếng gọi của tâm hồn khát khao gặp gỡ Chúa. Tôi xin cùng với anh chị em dâng phó họ đạo chúng ta cho Đức Mẹ. Đức Mẹ đang thương yêu chúng ta. Đức Mẹ đang cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Mẹ là hy vọng của chúng ta. Mẹ là niềmvui của chúng ta. Mẹ là nguồn sống của chúng ta. Amen.
Cuộc đời là một hành trình dài. Mỗi năm là một quãng dài của hành trình cuộc sống. Mỗi ngày là một bước dài của hành trình đời người. Hành trình này là chuyến đi về nhà Cha. Đi đúng đường dẫn tới nhà Cha là điều tối quan trọng. Tới được nhà Cha là ước vọng ưu tiên số một của tôi. Làm sao, để cuối hành trình, tôi được các thiên thần Chúa đón vào cõi ánh sáng cứu độ, đi vào nhà Cha, ở lại bên Chúa tình yêu. Được như thế, đó sẽ là hạnh phúc trên mọi hạnh phúc, cho dù suốt cuộc đời là một hành trình gian truân. Làm sao, để khi bước vào đời sau, tôi không bị các thần dữ của Satan lôi vào cõi tối tăm, trầm luân trong lửa đời đời, dưới quyền thống trị của ác quỷ thù ghét. Nếu phải thế, đó sẽ là một kết thúc tồi tệ nhất, cho dù cả cuộc đời là một hành trình sung sướng. Để tránh tai hoạ và để được hạnh phúc cuối hành trình cuộc đời, tôi phải làm gì? Thưa, tôi phải đi đúng đường, dẫn tới đúng bến. Đường dẫn tôi tới bến là chu toàn thánh ý Chúa Cha. Đường chu toàn thánh ý Chúa Cha. Chu toàn thánh ý Chúa Cha suốt cuộc đời mình, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, từng phút. Đó là con đường sống được ghi khắc trong trí khôn tôi, trong trái tim tôi, trong tận những lớp thẳm sâu của con người tôi. Từ ý thức, đến tiềm thức, đến vô thức. Trong khi thức và cả trong giấc ngủ. Chỉ mong làm theo ý Chúa Cha. Chỉ sợ làm sai ý Chúa Cha. Chu toàn những việc Chúa Cha dạy làm, đó là cách Đức Kitô đã thực hiện, để làm vinh danh Thiên Chúa. Những ai nhờ Chúa Thánh Thần, phân định được những gì là thánh ý Chúa Cha trong đời mình, để cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, ra sức thực hiện những ý đó, sẽ được kể là đi đúng đường về Nhà Cha. Đường Đức Mẹ đã đi suốt hành trình cuộc đời là đường xin vâng. Cùng với Đức Mẹ, tôi sẽ đi theo con đường vâng phục ý Chúa. Thánh ý Chúa là sống yêu thương. Một ý Chúa rất rõ, đó là tôi hãy tuyên xưng Thiên Chúa tôi tin thờ là Thiên Chúa tình yêu. Như Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Một ý Chúa cũng rất đòi hỏi, đó là tôi hãy coi sự yêu thương nhau là dấu chỉ của những người môn đệ Đức Kitô. Chúa Giêsu phán: “Ở điều này, người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng thương yêu nhau” (Ga 14,35). Một ý Chúa cũng hết sức quan trọng, đó là tôi hãy đặt giới răn yêu thương lên hàng đầu của cuộc sống tôi, như luật mới của đạo mới do Đức Kitô ban bố: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,34). Một ý Chúa cũng rất là căn bản, đó là tôi hãy nhận thức địa vị ưu tiên của đức ái. Nếu tôi có đức tin mạnh và mọi nhân đức khác, mà thiếu đức yêu thương, thì sẽ là một thiếu sót không gì bù đắp được. Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cor 13,1-3). Một việc khởi đầu rất ý nghĩa của cuộc sống chu toàn thánh ý Chúa bằng thực hiện yêu thương, đó là biết đón nhận tình yêu Chúa vào bản thân tôi suốt cuộc đời. Thực hiện yêu thương mỗi ngày. Mỗi ngày tôi khát mong đón nhận tình yêu Chúa như tình yêu cứu độ. Bởi vì tôi biết mình yếu đuối, bất toàn, tội lỗi, dại dột. Đồng thời tôi tin vững vàng Chúa là người Cha đầy yêu thương, luôn mong muốn đem Tin Mừng giải thoát đến những kẻ nghèo khó, cùng cực, tội lỗi, đắm chìm trong khổ đau thất vọng. Đón nhận Chúa là tình yêu cứu độ vào đời mình bằng cầu nguyện, khiêm nhường, sám hối khiêm nhường, tin cậy khiêm nhường. Dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, trong sự hiệp thông với Đức Mẹ Maria và với Hội Thánh trên trời, Hội Thánh dưới đất và Hội Thánh trong luyện ngục. Mỗi ngày, tôi cố gắng cùng với Đức Kitô làm những gì có thể, để góp phần phục vụ những người khác. Những người khác là những người xung quanh tôi, là đồng bào tôi, là Hội Thánh tôi, đặc biệt là những người trong cảnh cần được cứu độ như tôi. Phục vụ với tất cả khả năng và sự khôn ngoan Phúc Âm cho phép. Mỗi ngày, tôi để tâm làm chứng Hội Thánh của tôi là Hội Thánh của Thiên Chúa tình yêu. Do đó, tôi sẽ cố gắng lấy việc làm giới thiệu hình ảnh một Hội Thánh của Đức Kitô sinh trong hang đá, chết trên thánh giá. Ngài tự nguyện từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để cầu thay, để đền thay, để hiến tặng tình yêu cứu độ cho nhân loại. Ngài yêu thương một nhân loại lỗi lầm, khi nhân loại còn trong tội lỗi, và còn chưa nhận biết Ngài. Hội Thánh của Ngài cũng phải thế. Một Hội Thánh của Thiên Chúa tình yêu sẽ không cho phép tôi đặt trên thân phận con người những gánh nặng tuỳ tiện, không cần thiết. Thay vào đó tôi phải cổ vũ những thăng tiến tốt, những phát triển đẹp, để chính bản thân mỗi người có thể trở thành một công trình luôn làm vinh danh Chúa. Sẽ có những khó khăn. Tôi biết hành trình dù chỉ là một năm, cũng sẽ không thiếu khó khăn. Tôi phải phấn đấu rất nhiều. Cũng có thể sẽ gặp những bất ngờ. Có những bất ngờ dễ làm tôi chao đảo choáng váng. Có những bất ngờ dễ làm tôi đánh mất sự khiêm nhường, sự sáng suốt, sự khôn ngoan, cho dù những đức tính này vẫn chỉ là một vốn liếng nhỏ. Vì thế, tôi đặt hành trình của tôi trong tay Đức Mẹ Maria. Tôi sẽ trở nên hết sức bé nhỏ, để Mẹ dẫn tôi đi. Có thể nói, tôi sẽ đi bằng đôi chân của Mẹ. Dù gặp tình huống nào, đứa con bé nhỏ sẽ luôn sát bên trái tim Mẹ. Từ trái tim dịu hiền ấy, tôi sẽ nhận được sức sống của lời xin vâng, để rồi hành trình của tôi sẽ được hỗ trợ bởi tâm tình tạ ơn do Mẹ Maria chia sẻ cho. Hành trình mới của tôi sẽ được hiến dâng cho ơn gọi chung và riêng, với quyết tâm mới. Hành trình mới của tôi sẽ được tiếp tục với niềm tin phó thác, đơn sơ, khó nghèo. Hành trình mới của tôi sẽ hoà nhập vào hành trình chung của Hội Thánh, trong tình liên đới mật thiết với tất cả những ai đồng hành trên đường về nhà Cha.
Những ngày đầu xuân, tôi nhớ về cha mẹ tôi rất nhiều. Các ngài đã qua đời. Năm nay là năm Đức Mẹ Mân côi, nỗi nhớ của tôi về người mẹ nghèo miền quê đã sáng lên khác thường và sống động khác thường. Nguyên do là vì mẹ tôi có lòng sùng kính Đức Mẹ Mân côi một cách đặc biệt. Lòng sùng kính đặc biệt ấy đã để lại cho tôi một câu chuyện nhỏ. Câu chuyện này, tuy nhỏ, nhưng đã ảnh hưởng nhiều đến đời tôi. Trong nhiều năm qua, cho đến hôm nay, và chắc suốt cuộc đời tôi. Câu chuyện nhỏ đó xảy ra khi tôi chưa sinh ra. Nhưng mẹ tôi cứ kể đi kể lại chuyện đó hoài hoài, từ năm này sang năm khác, cho đến ngày mẹ chết. Chuyện đó thế này, theo mẹ kể. Tối nào, cha mẹ tôi cũng cầu nguyện chung bằng cách đọc một chuỗi mân côi, 50 kinh Kính Mừng. Tối đó, sau đọc kinh chung, mẹ tôi cầu nguyện riêng. Cũng bằng kinh mân côi. Đột nhiên, mẹ tôi nhìn thấy một cảnh lạ xuất hiện. Một cảnh quá lạ, chưa từng bao giờ đã tưởng tượng. Một ngọn nến cháy xuất hiện giữa căn nhà. Nhà cha mẹ tôi nền và vách đất. Ánh sáng toả rộng. Mẹ hoảng sợ, không biết đèn đến từ đâu, nhất là sợ cháy chiếc mùng mới mua. Liền đó, lại xuất hiện một chiếc ghế trống, đặt sau ngọn nến cháy. Mẹ càng bàng hoàng. Vì nhà quá nghèo, chưa bao giờ có bàn ghế. Còn bàng hoàng hơn nữa và thêm hoảng hốt, khi thấy một người lạ đến ngồi trên ghế đó. Nhận thức thô sơ của người phụ nữ nhà quê có đạo là coi người lạ đó như một vị mang phẩm phục giám mục. Phản ứng tự nhiên của mẹ là sững sờ và cầu nguyện. Bỗng Đức Mẹ hiện ra, đứng bên vị giám mục, tay Đức Mẹ đặt trên vai vị đó. Mẹ sung sướng ngất ngây, chỉ biết đọc kinh Kính Mừng. Thế rồi, sau một lát, cây nến tắt, tất cả cảnh lạ đều biến đi. Lập tức mẹ vội vã gọi cha tôi, kể lại từng chi tiết. Cha tôi bình tĩnh trả lời: Thấy vậy, thì biết vậy. Để tâm làm gì. Biết đâu chỉ là tưởng tượng. Phần mẹ tôi, thì quả quyết là thấy tận mắt. Mãi mãi sau này, dòng dã nhiều năm, mẹ vẫn kể lại chuyện đó từng chi tiết một cách đơn sơ như vừa mới thấy. Tất nhiên, tôi không bao giờ dám nghĩ chuyện đó ám chỉ về tôi. Nhưng ngày tôi được Toà Thánh chọn làm giám mục, chuyện nhỏ đó đã cho tôi can đảm để xin vâng. Những ngày đó, tôi hoang mang, rất lo sợ, rất cô đơn. Tôi cầu xin Đức Mẹ âm thầm đứng bên tôi. Thế là tôi lên đường với chỉ một hành trang là lòng phó thác nơi Mẹ Maria. Đối với người khác, câu chuyện nhỏ đó thực ra chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đối với riêng tôi trong gần 28 năm ở cương vị giám mục tại địa phương này, trong một tình hình rất cần ổn định về hướng sống đạo, câu chuyện nhỏ đó vẫn có những gì riêng biệt để nhắc nhở tôi. Trước hết, nó nhắc cho tôi phải bảo vệ ba liên kết này: Liên kết với Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian (Ga 8,12). Liên kết với Đức Giáo Hoàng là Đấng Chúa Giêsu đặt để dẫn dắt đoàn chiên Chúa (Ga 21,17). Liên kết với Đức Mẹ Maria là Mẹ Hội Thánh (Ga 19,25-27). Tôi càng liên kết với Đức Mẹ và với Đức Giáo Hoàng, tôi càng phải qui hướng về Chúa Giêsu và tập trung vào Ngài. Chính Chúa Giêsu là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Ai mến Ngài, thì phải yêu thương người khác, như Ngài đã yêu thương (Ga 14,24). Ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, phải vác Thánh giá, mà theo Ngài (Mt 16,24). Hơn nữa, khi tôi liên kết với Đức Mẹ, tôi cần phải nhờ Đức Mẹ mà lắng nghe thánh ý Chúa. Có biết bao trường hợp, người ta tưởng ý muốn này khao khát nọ là thánh ý Chúa. Nhưng thực ra đó chỉ là ý riêng. Tệ hơn nữa, đó cũng có thể chỉ là ý do tâm thần, do tà thần, do ác thần xui khiến mà thôi, chứ không do Thánh Thần Thiên Chúa. Càng liên kết với Đức Mẹ, tôi càng thấy: Đạo lý là rất cần. Nhưng tâm lý cũng rất cần trong sống đạo và truyền giáo. Theo kinh nghiệm của tôi, khi phó thác cậy trông Đức Mẹ, tôi vượt qua được nhiều thử thách. Nhất là khi các thử thách đổ dồn dập trên mình như những đợt sóng dữ dội trên biển mênh mông trong đêm giông bão. Khi đau đớn thể xác, đau đớn tâm hồn trùng trùng điệp điệp dập vùi thân tôi, Mẹ êm đềm chia sẻ cho tôi ý nghĩa mầu nhiệm thánh ý. Tôi không hiểu hết. Nhưng tôi gục đầu vào Mẹ để cùng Mẹ nói lời “Xin vâng” Đôi khi, tôi quá yếu đuối, nằm liệt không đủ sức giơ tay lên, để Mẹ đỡ dậy. Lúc đó chính Mẹ cúi xuống, ẵm tôi lên. Những lúc như thế, tôi cảm nhận rõ tình Mẹ là thế nào. Nhờ tình thương đó, tôi tin Chúa thương tôi,
Chúa chúc lành cho tôi,
Chúa gọi tôi,
Chúa sai tôi đi. Mặc dầu tôi bất xứng. Mặc dầu tôi hèn mọn. Ngày Mồng Một Tết, tôi cố gắng đi thăm mấy bệnh nhân cao tuổi, và ghé thăm mấy thầy sư bên Phật giáo. Cảnh tu này đầy thinh lặng, khó nghèo, chiêm niệm. Thế mà lại hấp dẫn lạ lùng. Tự nhiên, tôi nghĩ đến một liên kết nên có, đó là liên kết với tất cả những tâm hồn thiện chí đi tìm Nước Trời. Đầu năm mới, với những đau bệnh, tôi viết chuyện nhỏ này, để chia sẻ. Mong sẽ là một lời cảm tạ Mẹ Mân côi, trong nỗi nhớ người mẹ sinh thành. Tôi thấy vai trò của những người mẹ là hết sức quan trọng trong việc thánh hoá gia đình. Những ngày đầu xuân này, tôi hay ngồi nhìn hoa. Hoa trên cây. Hoa trong chậu. Hoa rụng bay theo gió. Tất cả đều dễ thương. Ở đâu hoa vẫn là hoa. Tôi thầm nghĩ, nếu chính bản thân mỗi người chúng ta là tràng hoa Mân côi, thì sẽ có một mùa xuân thiêng liêng mới, hợp ý Đức Mẹ. Thế giới này chắc chắn sẽ đổi thay, sẽ rất đẹp, sẽ rất an bình hạnh phúc. Điều quan trọng cần nhớ là, chúng ta sẽ trở thành tràng hoa Mân côi, không do đọc nhiều kinh Mân côi, mà do vừa cầu nguyện kinh Mân côi vừa cố gắng phấn đấu sửa mình, đổi mới tâm hồn, theo thánh ý Chúa.
Trong báo Công giáo và Dân tộc tuần trước, số 1394, có bài “Những dấu chỉ của hy vọng”, nhận định của Đức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh Cor Unum, sau chuyến thăm Việt Nam. Những dấu chỉ của hy vọng là tựa đề một cuốn sách của Đức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes. Tôi đã có nhiều dịp trao đổi với Ngài về cuốn sách đó. Cuốn sách dày gần 400 trang. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giới thiệu. Nội dung cuốn sách mang tính cách thời sự. Với những phong trào thiêng liêng mới. Với những cộng đoàn đặc sủng mới. Với những vị sáng lập mới, trong đó nhiều vị là giáo dân. Đây là những luồng gió mới đang thổi vào nhiều nơi trong Hội Thánh. Luồng gió thức tỉnh. Luồng gió canh tân. Luồng gió truyền giáo. Họ rất khác nhau. Nhưng đều có một số điểm giống nhau. Như: - Tha thiết với Lời Chúa. - Cầu nguyện nhiều và sâu. - Cảm thương con người và phục vụ con người với niềm tin Chúa ở trong họ. - Khiêm nhường và đơn sơ, đi sâu vào sự khôn ngoan của thánh giá. - Mến yêu Đức Mẹ Maria. - Hoạt động giữa xã hội. Ảnh hưởng của họ rất lớn mạnh và sâu xa. Chẳng hạn phong trào “Con đường Tân tòng mới” do anh Kiko Argelo, một giáo dân Tây Ban Nha sáng lập. Nay đã tràn khắp năm châu, trong 101 nước, ở 820 giáo phận. Bao gồm 15.000 cộng đoàn, với 35 chủng viện truyền giáo. Nhờ những phong trào và cộng đoàn mới này, nhiều nơi đang được đổi mới. Có thể coi đây như những lễ Hiện Xuống mới của Chúa Thánh Thần. Khi Đức Tổng Giám Mục Cordes đến Long Xuyên, ngày 16 và 17 tháng 01 vừa qua, Ngài và tôi vui mừng đọc những tín hiệu hy vọng trong tình hình hiện nay. Riêng tôi, tôi có chia sẻ cho Ngài những dấu hiệu của hy vọng, mà tầm nhìn giới hạn của tôi cho thấy tại địa phương tôi. Thí dụ: 1- Một sự công bố Tin Mừng bằng các việc làm cụ thể. Như những việc cầu nguyện riêng và chung. Những việc từ thiện bác ái. Những việc học hỏi Lời Chúa. 2- Một sự phấn khởi lên đường của các giáo xứ. Dù giáo xứ là cơ chế, dù giáo xứ là đại gia đình, các giáo xứ đều được tổ chức chặt chẽ, có lòng sùng kính Đức Mẹ và rất trung thành với giáo quyền trong mọi hoạt động Tin Mừng. 3- Một sự nảy sinh đa dạng các phong trào tông đồ giáo dân. Họ tình nguyện dấn thân làm men, làm muối giữa đời. 4- Một linh đạo của sự hiện diện, của sự gặp gỡ, của sự hợp tác. Linh đạo đó hoàn toàn dựa trên Phúc Âm. 5- Sự nở rộ các ơn gọi đi tu. Mặc dầu việc đào tạo còn chưa đáp ứng đủ các nhu cầu phục vụ theo lý tưởng. Nhưng nhìn chung, các ơn gọi đi tu hiện nay được coi là một dấu chỉ tốt của hy vọng chính đáng cho Hội Thánh Việt Nam. 6- Sự hài hoà giữa công giáo và các tôn giáo bạn. Phải nói thật là các tôn giáo bạn tại địa phương này có nhiều giá trị thiêng liêng cao quí nhiều khi khích lệ chúng tôi sống Tin Mừng một cách cởi mở. Đức Tổng Giám Mục Cordes và tôi đã quen thân nhau từ hơn hai chục năm. Chúng tôi tha thiết với vấn đề thiêng liêng, con đường thiêng liêng, sự sống thiêng liêng. Vì thế, sự chia sẻ thiêng liêng bao giờ cũng rất chân thành, và được thực hiện trong mọi gặp gỡ. Ngài đơn sơ, bình dị. Qua nhiều tiếp xúc và chuyên trách, Ngài có một cái nhìn rất tin tưởng về tương lai Hội Thánh, qua nhận xét về những việc Chúa Thánh Thần đang khơi dậy trong long Hội Thánh hôm nay. “Giữa lòng thế giới của chúng ta” (NXB Fayard), đó là một tác phẩm Ngài viết về những sức mạnh của sự canh tân thiêng liêng hiện nay. Đọc cuốn “Giữa lòng thế giới của chúng ta” và cuốn “những dấu chỉ của hy vọng” tôi thấy tác giả là một nhà khám phá, nhà suy tư, nhà phân tích đang cộng tác với Đức Giáo Hoàng một cách đắc lực, trong những lãnh vực thiêng liêng đầy phức tạp. Với thao thức trước tình hình hiện nay, tôi cầu mong những dấu chỉ của hy vọng sẽ chính là những con người vâng phục ý Chúa theo gương Đức Mẹ Maria, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cầu chúc Đức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes là một dấu chỉ lớn. Cầu mong mọi người chúng ta đều là những dấu chỉ, cho dù bé nhỏ.
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ. Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ: Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv… Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng. Vậy ơn cứu độ là gì? Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời. Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người. Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ. Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng. Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay. Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng. Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực. Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31). Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27). Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8). Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ. Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2). Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống. Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng. *** Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn. Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.