Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan. Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng. Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài. Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv... Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực. 1. Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin. Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế. Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài. Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục. Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin. Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27). Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín. 2. Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới. Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng. Ông Môisen vào sa mạc Madian. Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê. Thánh Phaolô vào sa mạc Syria. Thánh Benedictô lên núi Subiacô. Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi. Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày. Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa. Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn. Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ. 3. Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời. Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị. Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm. Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta - biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa, - biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi, - biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ, - biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ, - biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn, - biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt. Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
Lễ Truyền tin sắp tới. Tôi thầm nghĩ: xưa biến cố truyền tin đã mang đến một tin quan trọng có liên quan đến chương trình cứu độ. Nay kỷ niệm biến cố đó sẽ không phải chỉ là nhắc lại chuyện xưa để mừng, mà còn là dịp tìm ra những dấu chỉ này nọ báo tin cho tình hình cứu độ hiện nay. Để có một chút tư tưởng cơ bản về biến cố truyền tin, nhờ đó mà nhìn vào tình hình hôm nay, tôi đọc Phúc Âm. Tôi thấy đại khái mấy yếu tố này đã có mặt trong biến cố truyền tin. Yếu tố thứ nhất là tình yêu Thiên Chúa. Trong cuộc trao đổi với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả thực, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16. 17). Qua những lời mạc khải trên đây, chúng ta thấy đầu nguồn biến cố truyền tin là tình yêu Thiên Chúa. Đó là một chân lý tuyệt đối và nền tảng. Tất cả đều khởi đi từ chân lý đó. Sự Ngôi Hai giáng trần, sự Ngôi Hai được sai đi, sự Ngôi Hai nhập thể, sự Ngôi Hai đi vào hành trình dài từ lòng Đức Maria đến Bêlem, Ai Cập, Nagiarét, đến Canvariô và lên trời, đều hoàn toàn phát xuất từ tình yêu thương xót Chúa. Một tình yêu thực sự là thương xót. Chúa Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17). Không do yếu tố nào từ bên ngoài ép buộc Người. Tình yêu thương xót của Người là quà tặng nhưng không. Thiên Chúa muốn chia sẻ chính sự sống của mình cho nhân loại. Người tặng sự sống đó cho nhân loại trong Con của Người. Người tặng nhưng không. Chỉ cần người ta biết đón nhận. Đón nhận một cách tự do, tự nguyện. Sự đón nhận tự do tự nguyện này có tên là tin. Yếu tố thứ hai là tin vào tình yêu Chúa một cách rất khiêm nhường. Lời sau cùng Mẹ Maria thưa ngày truyền tin rất vắn, nhưng gồm tóm một niềm tin sâu rộng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Đó là niềm tin đón nhận. Đón nhận tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và cho bản thân Đức Mẹ. Đón nhận chính Thiên Chúa tình yêu. Đón nhận một sự sống là tình yêu, là ánh sáng. Đón nhận một thực tại vượt hẳn con người của mình. Đón nhận một sự tái sinh đổi mới con người, vừa êm dịu, vừa mạnh mẽ và quyết liệt. Nhất là đón nhận hoàn toàn thánh ý Chúa, lúc đó, sau này và mãi mãi. Cho dù mình chưa hiểu. Tất cả mọi đón nhận này đều rất khiêm nhường, đưa Đức Mẹ xuống sâu tinh thần thờ phượng trước một Thiên Chúa vô cùng thánh. Sau này, Đức Mẹ đã nói lên cảm tình đó “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50). Yếu tố thứ ba là vâng theo tác động của Chúa Thánh Thần. Trong ngày truyền tin, sứ thần Chúa nói với Đức Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35). Với Thánh Thần, Đức Mẹ sẽ được chia sẻ sự sống Thiên Chúa. Thánh Thần ví như hơi thở của sự sống Thiên Chúa. Hít vào, thở ra một hơi thở từ Chúa ban, Mẹ sẽ dần dần được đổi mới, một cách thường xuyên và nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thánh Thần mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8). Sự đổi mới của Thánh Thần đến từ đâu, đến với ai, đến cách nào, và đến lúc nào, là tuỳ ở sự tự do của Thánh Thần. Điều quan trọng không phải là ta muốn Thánh Thần đến theo ý ta, mà ta phải tỉnh thức và đón nhận tất cả những gì Thánh Thần làm, mặc dầu nhiều trường hợp gây nên những bất ngờ, hoàn toàn khác những gì ta nghĩ tưởng, chờ mong. *** Trên đây chỉ là mấy yếu tố đơn sơ vắn tắt, để giúp chuẩn bị tâm hồn mừng lễ truyền tin. Nếu dựa vào ba yếu tố nói trên, để nhìn xung quanh mình, tôi thấy có nhiều người tốt đang là những đốm sáng rải rác trong bóng tối. Bóng tối rộng và dầy, nhưng những đốm sáng vẫn là những hy vọng chỉ đường. Họ là những nhân chứng sống động của Chúa. Nhất là ở chỗ họ giống Chúa. Họ có tình thương dồi dào, biết cảm thương, dám tự hạ mặc lấy thân phận con người bé nhỏ, tự ý hội nhập vào đám đông bần cùng, vô danh. Mục đích để làm chứng đám đông đó được yêu thương, được trọng kính, được chia sẻ. Phải nhận rằng những nhân chứng đó đang có sức thuyết phục. Bởi vì họ là những chứng nhân sống Tin Mừng truyền tin một cách chân thực. Và ơn Chúa cứu độ đang đổ xuống thế gian qua những chứng nhân như thế, cho dù họ thinh lặng. Nhưng, được nghe những gì chính Đức Mẹ đã truyền tin cho nhân loại, khi hiện ra ở Fatima và ở nhiều nơi khác, tôi lo ngại nhiều cho hiện tình đạo đức của nhân loại nói chung, và của Hội Thánh chúng ta nói riêng, trong đó có tôi. Khi Đức Mẹ kêu gọi: Hãy sám hối, hãy hy sinh, hãy đền tạ, hãy cầu nguyện kinh Mân côi để tránh thảm hoạ, tôi hiểu tình hình là hết sức nghiêm trọng. Xem ra nơi chính chúng ta, chính đức tin cũng đang cần được cứu độ. Lần này chính Đức Mẹ truyền tin. Chứ không phải Thiên Thần truyền tin. Rất mong các con cái Mẹ khắp nơi hãy quan tâm đặc biệt đến biến cố truyền tin khác thường này. Không phải chỉ để cộng tác vào việc cứu nhân loại, mà nhất là còn để cộng tác vào sự cứu độ chính mình chúng ta.
Nếu hỏi: Ảnh tượng nào tôi luôn mang trong mình, tôi xin trả lời: Ảnh tượng Thánh giá. Nếu hỏi: Ảnh tượng nào tôi thường hôn kính hơn, tôi cũng xin thưa ngay: Ảnh tượng Thánh giá. Nếu hỏi: Dấu thánh nào tôi hay làm trên mình và trên người khác, tôi phải nói thực là: Dấu Thánh giá. Đây là những thói quen từ nhỏ. Khi tuổi còn nhỏ, những thói quen tôn giáo được trồng vào tâm hồn như những hạt giống tốt. Khi lớn lên, tuổi càng cao, những hạt giống tốt ấy càng trở thành cây lớn, ăn rễ sâu, lá cành làm nên bóng mát, co thể làm chỗ tựa cho nhiều cuộc đời. Đối với tôi, hiện giờ mến yêu Thánh giá là một thói quen “cổ thụ”. Nó là tuyên xưng một niềm tin vững. Nó là một con đường khẳng định. Mến yêu Thánh giá là một tuyên xưng đức tin. Trong kinh Tin Kính, có câu nói về Chúa Giêsu: “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi”. Tôi hiểu “vì chúng tôi” một cách đơn giản như thế này: Trước hết: Vì chúng tôi là vì tội lỗi chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết điều đó, khi Ngài viết cho giáo đoàn Côrintô: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3). Thánh Phêrô nói rõ hơn: Vì tội lỗi chúng ta có nghĩa là để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi. Ngài viết: “Anh em hãy biết rằng: Không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em được cứu chuộc nhờ máu của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ ố, là Đức Kitô” (1 Pr 1,18-19). Thánh Gioan nhìn sự Chúa Giêsu tự nguyện để mình chịu đóng đinh vào thập giá là một lễ đền tội. “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,1). Khi nhận thức rõ: Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chết trên Thánh giá, để đền những tội lỗi của tôi và của thế gian, tôi ngỡ ngàng tự hỏi: Sao Chúa lại làm như vậy? Thì câu trả lời càng làm tôi sửng sốt: Chỉ vì yêu thương. Thánh Phaolô viết: “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8). Như vậy, Chúa Giêsu chịu chết trên Thánh giá, để đền tội cho ta, chỉ vì yêu thương ta. Được ơn Chúa Thánh Thần mở lòng mở trí, tôi đến bên Chúa Giêsu, là Đấng vâng lời Chúa Cha sai đi. Ngài đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,7-8). Ngài nhìn tôi, lúc đó, tôi càng thấy rõ Chúa Giêsu tự nguyện chịu chết trên Thánh giá là chuyện không phải chỉ của nhân loại, mà trước hết là chuyện của riêng tôi. Chuyện của một tình yêu tự hạ và tự hy sinh để cứu chuộc tôi. Từ cảm nhận đó, tôi có một kinh tin kính cho riêng tôi “Tôi tin kính một Thiên Chúa tình yêu”. Tôi đọc kinh tin kính tư riêng đó với lòng cảm tạ, sám hối và xin phép lành. Đây là một niềm tin đưa tới hy vọng. Bởi vì Thánh giá là cửa phục sinh. “Đức Kitô đã được mai táng, và ngày thứ ba Người đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,4). Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển sẽ làm cho những ai theo Ngài trên đường thập giá, cũng sẽ được sống lại trong chiến thắng vinh quang (1 Cr 15,57). Mến yêu Thánh giá là một con đường khẳng định. Con đường tôi sống là lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình, và đi theo Thầy” (Mc 8,34). Con đường tôi rao giảng là lời thánh Phaolô xác quyết: “Chúng ta rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 2,23-25). Con đường tôi kéo người ta lên với Chúa, cũng là con đường tình yêu từ Thánh giá, như lời chính Chúa Giêsu dạy: “Phần Thầy, khi Thầy bị treo lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Ga 12,32). Tất cả những gì tôi nói ở trên về Thánh giá sẽ không có gì ghê gớm đâu. Khi hôn kính Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh giá, khi đi bên Chúa Giêsu đang vác Thánh giá trong cuộc đời này, tôi có một cảm nghiệm rất là an ủi. Đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy, và học với Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái, vì gánh của Thầy thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Thánh giá là một mảng của đời ta. Nó thường rất riêng tư, lặng lẽ và sâu thẳm. Hãy biết sống mảng đời đó với ánh sáng Phúc Âm. Nhiều khi nó chứa đựng những kho tàng vô giá, cho sự trưởng thành và cho sự cứu độ. Miễn là ta biết khiêm tốn và tin tưởng đồng hành với Chúa Giêsu vác thánh gía, và cùng với Người chịu đóng đinh vào thánh giá. Chỉ vì tình yêu cứu độ. Để rồi qua đó, sẽ là một cuộc đời mới thông hiệp vẹn toàn với Thiên Chúa tình yêu. *** Để kết, tôi xin phép kể lại một mẩu chuyện nhỏ. Tuần rồi, tôi mới gặp lại một chị phụ nữ, bình thường nhưng không tầm thường. Vì một lỗi lầm vô tình trong quá khứ, chị muốn lập công đền tội. Bằng cách này: Chị đón một bà già ăn mày ngoài chợ về nhà mình. Chị nuôi nấng, chăm sóc bà như mẹ ruột. Khi bà già qua đời, chị lại đón một phụ nữ mắc bệnh tâm thần, vô gia cư, về nhà mình. Chị chăm sóc và chữa trị người phụ nữ đó như người chị em ruột. Hiện nay, chị còn tham gia một tổ chức từ thiện, thường xuyên lo giúp người nghèo khổ. Khi tham gia các đoàn phục vụ người nghèo người bệnh, chị có một xác tín này muốn được chia sẻ với tôi: Đó là cách cho là rất quan trọng. Cách cho khiêm tốn, tế nhị đầy cảm thương bao giờ cũng có sức an ủi hơn của cho rất nhiều. Trái lại, cũng có cách cho vô tình làm người ta tủi nhục ác cảm. Xin nói thực: Chị phụ nữ tốt tôi kể trên là một Phật tử. Tôi có cảm tưởng những người đang chia sẻ thánh giá với Chúa Giêsu và với đồng bào trên đường cứu độ, tuy thinh lặng, nhưng rất đông. Họ thuộc đủ mọi thành phần. Tôi tin chắc Chúa rất thương họ. Họ có cái tâm đạo đơn sơ trong sáng. Họ đang là chứng nhân của Tin Mừng thánh giá cứu độ. Những chứng nhân như thế dễ thấy, dễ gần, dễ hiểu, dễ thương. Vì thế mà họ có sức thuyết phục đối với phần đông đồng bào chúng ta. Thời nay, tại Việt Nam này, người ta tin vào các chứng nhân sống đạo hơn bất cứ sách báo, tổ chức, lý thuyết nào. Chứng nhân sống đạo là những người có tâm đạo giàu cảm thương đối với những người đau khổ tội lỗi, phản ánh tình thương trên thánh giá của Chúa Giêsu.
Đã từ lâu, nhất là từ mấy ngày nay, tôi hay thầm đọc kinh thánh Giuse. Một kinh đã cũ, nhưng vẫn còn rất nhiều gợi ý. Nhất là câu “Chúng con xin ông thánh Giuse ghé mặt lại, mà thương đến Hội Thánh là phần sản nghiệp Đức Chúa Giêsu đã lấy máu thánh mình mà chuộc”. Khi đọc câu kinh đó, tôi nhìn đến Hội Thánh trên khắp hoàn cầu, Hội Thánh tại Việt Nam, nhất là Hội Thánh trong địa phương này. Tôi thấy chỗ nào Hội Thánh cũng được máu thánh Chúa Giêsu tưới xuống, nhưng có nơi đón nhận nhiều, có nơi đón nhận ít, có nơi kể như không đón nhận. Tôi thấy thánh Giuse cũng nhìn tình hình đó, Ngài rất thương Hội Thánh. Nhưng tình thương của Ngài đối với kế hoạch cứu độ của Chúa hôm nay cũng vẫn là tình thương của Ngài đối với kế hoạch cứu độ của Chúa hồi xưa Ngài sống. Nghĩa là hồi xưa, Chúa không làm phép lạ đổi mới tình hình ngay lập tức, nhưng bằng cả một hành trình dài, và gồm nhiều người cộng tác. Ai được Chúa gọi cộng tác và được trao cho việc nào, thì đã vâng và làm thực tốt. Tiêu biểu cho những người cộng tác như thế là thánh Giuse. Nay Chúa cũng muốn như thế. Vậy, thánh Giuse đã cộng tác vào chương trình cứu độ thế nào? Thưa theo cái nhìn của tôi, thì Ngài đã vâng nghe tiếng gọi của Chúa, mà phục vụ Chúa một cách khôn ngoan. Trước hết, thánh Giuse đã vâng nghe tiếng Chúa gọi. Ngài không hề vận động, không hề muốn, không hề nghĩ tới sự được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa cứu thế. Ngài rất khiêm nhường. Trong tinh thần khiêm tốn, Ngài đã tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Sự tỉnh thức của Ngài dẫn tới sự mau lẹ thực thi ý Chúa. Dù ý Chúa là những bất ngờ xem ra chẳng vinh quang chút nào. Bất ngờ phải đi Bétlem để chứng kiến cảnh Con Thiên Chúa giáng sinh nghèo khó trong hang bò lừa. Bất ngờ phải đưa mẹ con trốn sang trú ẩn tại Ai Cập là một nước ngoại đạo. Bất ngờ trở về Nagiarét sống lao động giữa đám dân nghèo. Tất cả đều là phục vụ. Phục vụ một cách khôn ngoan. Khôn ngoan của thánh Giuse là nhiệt tình làm tròn bổn phận Chúa trao cho. Bổn phận Chúa trao cho Ngài là bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu, sao cho kín đáo, âm thầm. Với cái tâm đầy lửa mến, với cái trí đầy sáng suốt, với ý chí đầy vâng phục. Ngài lo bổn phận đó, để gia đình mình được êm đẹp. Còn các việc khác sau này được phân công cho các tông đồ, thì Ngài để Chúa lo. Ngài không làm những việc không được sai. Khôn ngoan của thánh Giuse là hiệp thông với sự sống của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Chúa Giêsu ở bên Ngài. Chúa Giêsu chia sẻ một sự sống mới từ Thiên Chúa cho Đức Mẹ Maria và cho Ngài. Chia sẻ thường xuyên. Từ ánh mắt, từ hơi thở, từ lời nói, từ việc làm. Thánh Giuse đón nhận sự sống mới đó, như luồng sáng mới, như lửa tình mới, như hạnh phúc mới. Khôn ngoan của thánh Giuse còn là phục vụ trong niềm tin. Một niềm tin tuyệt đối, vô điều kiện. Cho dù gặp biết bao thử thách, Ngài vẫn tin vào tình yêu Chúa cứu độ. Cho dù có đôi lúc xem ra đi vào đường hầm không lối ra, Ngài vẫn tin Chúa hiện diện bên mình, trong mình. Ngài đặt vào sự hiện diện đó tất cả niềm tin, lòng trông cậy và tình mến chân thành đơn sơ. Trên đây là mấy cảm nghiệm của tôi về thánh Giuse. Với những cảm nghiệm này, tôi thấy việc chúng ta cầu nguyện với thánh Giuse phải đi đôi với việc chúng ta noi gương thánh Giuse. Noi gương thánh Giuse là khiêm nhường tỉnh thức lắng nghe ý Chúa, là mau lẹ thực thi ý Chúa, là phục vụ Chúa một cách khôn ngoan. Tôi thiết nghĩ: Phải có nhiều người cộng tác như vậy thì máu thánh Chúa đổ ra cứu chuộc tưới xuống nhân loại nói chung, và tại đây nói riêng mới trổ sinh ra được nhiều sự sống mới: Sự sống bình an, sự sống yêu thương, sự sống dẫn về thiên đàng. Mỗi người chúng ta, trong tháng Ba này kính thánh Giuse, trước một tình hình nhiều bất ổn, hãy dâng cho Chúa một quyết tâm nhỏ theo hướng đó. Tôi tin chắc, sự cộng tác của ta sẽ được Chúa thương nhận. Nhờ vậy một tình hình tốt đẹp hơn sẽ hiện lên, nhờ máu thánh Chúa được nhiều người đón nhận một cách trân trọng và cộng tác chân thành với tinh thần vâng phục khiêm nhường.
Sống đạo đòi nhiều nhân đức. Bởi vì sống đạo thì phải sống đức. Một trong những nhân đức cần để sống đạo là đức khiêm nhường. Khiêm nhường ví như một thứ muối thiêng. Nếu các nhân đức ví được như những món ăn nuôi dưỡng tâm hồn, thì nhân đức nào cũng cần có chút muối thiêng đó. Trái lại, kiêu ngạo là một thứ thuốc độc. Việc lành nào bất cứ, nếu bị pha một chút thuốc độc kiêu ngạo vào, tất sẽ ra hư. Có thứ khiêm nhường thật. Có thứ khiêm nhường giả. Khiêm nhường giả. Khiêm nhường giả thường là một hình ảnh mơ tưởng tự tạo. Coi khiêm nhường như một vinh quang, kết quả của những cố gắng tự sức. Để rồi có cớ nảy sinh tự đắc, lợi dụng trên đường danh lợi. Thỉnh thoảng người ta soi mình vào hình ảnh tự tạo đó, để tìm thích thú và thèm muốn được khen. Nếu không cảnh giác, thì thứ khiêm nhường giả như thế sẽ rất nguy hiểm. Vì nó sẽ dễ trở thành thứ nọc độc có thể pha trộn vào mọi ý hướng đạo đức. Để rồi, sau cùng họ dùng việc đạo để tìm vinh quang ảo cho mình, từ những việc nhỏ đến cả những việc lớn bề ngoài mặc vẻ đạo đức. Hành trình của nó thường mang nhiều giả dối và mưu lược. Khiêm nhường thật. Trái lại, khiêm nhường thật thường phải trải qua những hành trình có nhiều phấn đấu. Phấn đấu với chính mình. Phấn đấu với lối sống cạnh tranh xấu của thế gian. Nhất là phấn đấu với ma quỉ, loại kẻ thù có nhiều xảo quyệt. Satan vốn bị Kinh Thánh coi là cha của kiêu ngạo, luôn tìm cách phá đức khiêm nhường. Chính Chúa Thánh Thần tác động, làm nên sự khiêm nhường thật. Có thể nhận ra bằng những dấu chỉ này: Con người cảm nhận sâu sắc mình yếu kém, hèn hạ. Họ rất thành thực nhận mình tội lỗi. Họ xem mình như người thu thuế cúi đầu cầu nguyện. Thực sự nghèo nàn. Thực sự khốn khó. Thực sự khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Sự cầu nguyện cậy trông Chúa phát xuất từ ơn Chúa cùng với sự cảm nhận sức mình yếu đuối. Ơn cậy trông đến dần dần một cách lặng lẽ, và kéo linh hồn về với Chúa một cách rất tế nhị. Nó làm cho linh hồn cảm thấy mình không ngừng cần phải đổi mới, để đón nhận được ơn cậy trông lôi kéo đó thường xuyên. Từ sự cậy trông lôi kéo đó, linh hồn khát khao tìm kiếm chính Chúa. Sự gặp gỡ Chúa sẽ đem lại cho họ sự sám hối, tâm tình cảm tạ và thờ phượng. Đồng thời, khi gần gũi Chúa, họ cảm thấy mình gần gũi mọi người. Có một tâm tình đồng cảm linh thiêng. Họ thấy mình chẳng có gì đáng gọi là đạo đức. Họ thấy mọi người đều là những người yếu đuối, nhưng được Chúa xót thương đỡ nâng tha thứ. Với cảm nghiệm đó, họ nhận ra mình có bổn phận phục vụ mọi người, người công chính cũng như người tội lỗi yếu đuối, theo gương Cha trên trời, là “Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Vài hoa trái của khiêm nhường. Như vậy, sự khiêm nhường thật sẽ đem lại cho người sám hối sự bình an và hoan lạc. Sự khiêm nhường, khi đúng là hoa quả của ơn Chúa Thánh Thần, sẽ không gây nên những ray rứt dằn vặt cho ta, dù ta có một quá khứ đầy lỗi lầm. Những dằn vặt bối rối này nhiều khi do ma quỉ khuấy lên, để ta không nhận ra được dung mạo đầy tình yêu thương xót của Cha nhân lành, Đấng vui mừng sung sướng, khi có dịp tha thứ cho những đứa con biết trở về. Sự khiêm nhường thật cũng đem lại cho con người tâm tình vâng phục Lời Chúa một cách đơn sơ tin tưởng, cho dù dư luận muốn kéo họ về hướng khác. Thí dụ: về việc bố thí, làm việc từ thiện, cầu nguyện và ăn chay, Chúa Giêsu dạy hãy làm kín đáo. Vì Cha trên trời, Đấng hiện diện nơi kín đáo thấu suốt mọi sự kín đáo sẽ trả công cho họ (Mt 6,16-18). Họ vâng lời Chúa, cho dù nhiều cám dỗ giục làm khác đi. Sự khiêm nhường thật cũng thường gây cho chúng ta được ý thức tự trọng chính đáng, và nhận thức được bổn phận tìm cách khéo léo giúp các người thuộc về mình sống trong sự thực một cách khiêm nhường. *** Mùa chay năm nay, chúng ta đang sống với nhiều bất ổn và lo âu. Thú thực là riêng tôi cũng đang phải phấn đấu từng giờ với nhiều khó khăn tinh thần và thể xác, để có thể nói như thánh vương David: “Chúng xô đẩy tôi, mong tôi té ngã. Nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118,13-14). Tôi mong rằng: Những gì tôi vừa chia sẻ sẽ được coi là những hạt giống nhỏ về Tin Mừng mùa chay. Tôi xin phép được gieo rắc chúng trong một thời điểm đang có những chân trời chinh chiến đau buồn, mang nhiều đe doạ khủng khiếp cho cả phần hồn phần xác. Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Hãy xem Người khiêm nhường thế nào và khiêm nhường đến mức nào. Người đang dạy chúng ta: “Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúng ta cũng tin vào Lời Chúa phán xưa: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Sau cùng, chúng ta đừng quên lời thánh Phêrô: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Vì Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).
Tuần Thánh sắp đến. Để dọn mình đón nhận ơn cứu độ đặc biệt, chúng ta thường thực hiện một vài hình thức hồi tâm. Hồi tâm tập thể. Hồi tâm nhóm nhỏ. Hồi tâm cá nhân. Hồi tâm là một thứ tĩnh tâm. Tĩnh tâm tất nhiên đòi tĩnh lặng. Tĩnh lặng ở đây không phải chỉ là xa tránh ồn ào bên ngoài. Nhưng chủ yếu là đi vào cõi tĩnh lặng nội tâm. Hôm nay, tôi xin gợi ý vắn tắt về ba thứ ích lợi tĩnh lặng nội tâm, để giúp tĩnh tâm Tuần Thánh. 1. Tĩnh lặng nội tâm phuc vụ chính mình. Thực vậy, mỗi người chúng ta cần biết mình. Biết mình cốt yếu là nhận ra cái gì là căn bản đời mình. Rồi đặt nó ở vị trí ưu tiên, luôn qui chiếu đời mình về nó, luôn làm nó sáng thêm lên, luôn thanh luyện nó cho mỗi ngày thêm vững. Rồi từ đó sắp xếp những giá trị khác đúng trong trật tự. Trật tự của các ước muốn. Trật tự của các hoạt động. Thí dụ, đối với tôi, một giá trị tôi cho là căn bản nhất, chính là lắng nghe thánh ý Chúa và vâng phục thực thi thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa chung chung theo sứ vụ được trao. Thánh ý Chúa đặc biệt trong từng thời điểm. Thánh ý Chúa riêng trong từng việc cụ thể. Tất cả đều vì mục đích phục vụ Chúa trong hướng chuẩn bị cho mọi người đón nhận Nước Trời. Một sự nhận biết như thế thường chỉ đạt được trong tĩnh lặng nội tâm. Tĩnh lặng lâu. Tĩnh lặng sâu. Tĩnh lặng trong thẳm sâu thinh lặng của Chúa Thánh Thần. Trong thinh lặng này, chúng ta cũng có dịp xem lại những kinh nghiệm đã qua. Có những kinh nghiệm đã chỉ thấy sơ sơ. Có những kinh nghiệm bây giờ mới thấy. Tất cả một hồ sơ dầy cộm về đời mình được hiện lên lặng lẽ. Có khi như những câu chất vấn. Có khi như những khích lệ ủi an. Chúng hiện lên dưới một ánh sáng mới của Chúa. Dưới ánh sáng mới này, chúng ta mới thấy rõ mình đã có những đầu tư tốt, và cũng đã có những nhọc nhằn phí phạm. Trong thinh lặng, từ những kinh nghiệm như thế, ta sẽ thấy nảy sinh ra những sáng kiến mới. Để cái vốn Chúa trao cho mình sẽ mãi được sinh lời, cho dù hoàn cảnh muôn bề khó khăn. 2. Tĩnh lặng nội tâm phục vụ người khác. Tôi vẫn hay nhắc lại cho lòng mình câu Phúc Âm nói về Đức Mẹ Maria: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Đức Mẹ ghi nhớ trong cõi lòng thinh lặng. Để suy niệm, để cầu nguyện. Các người xung quanh vì thế đều được nhờ. Rất nhiều trường hợp, sự thinh lặng nội tâm lại là một cách tốt nhất để hiệp thông với nỗi lòng người khác. Thế mà, đôi khi người ta tưởng phải nói nhiều, náo động nhiều mới là hiệp thông. Thực ra, một lời nói mà không có giá trị xây dựng hoặc cho mình hoặc cho người khác, thường khó có thể là vô hại. Mà một lời nói có giá trị xây dựng bao giờ cũng phải nấu nung trong nội tâm thinh lặng trưởng thành. Cởi mở không có nghĩa là cởi mở mồm miệng, nhưng là cởi mở tấm lòng. Tấm lòng cởi mở, nghe và cảm được nỗi lòng của người khác, phải là một tấm lòng thinh lặng, mang một khả năng đồng cảm sâu sắc. Để rồi, chính sự thinh lặng của nó lại là một ngôn ngữ tình thương có giá trị. Nhiều khi tín hiệu tình thương được trao đi một cách có hiệu quả qua một sự thinh lặng đầy hy sinh, cầu nguyện và thương cảm. Trái với những lời nói nhiều mà trống rỗng. Có những lễ hội của vài đoàn thể, khi nhắc đến, còn làm tôi sợ. Bởi vì, suốt mấy đêm đó vang lên những tiếng hát thực vô duyên, khuấy động giấc ngủ của cả một vùng. Tôi gọi đó là những cuộc tra tấn thần kinh. Thiết tưởng chỉ một chút biết nghĩ tới người khác, biết thinh lặng ít là từ nửa đêm đến sáng, cũng là một cách phục vụ bao người đang rất cần được ngủ nghỉ. Từ sự thiếu tĩnh lặng sơ đẳng bên ngoài, người ta có thể đoán được tình trạng thiếu thốn thê thảm sự tĩnh lặng nội tâm. 3. Tĩnh lặng nội tâm phục vụ Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, Chúa phán: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đến nhẹ. Chúa gõ nhẹ. Chúa vào nhẹ. Chúa nói nhẹ. Chỉ những ai thinh lặng nội tâm mới nghe được, và mới đón được Ngài vào tâm hồn mình. Và cũng chỉ những tâm hồn thinh lặng và tỉnh thức mới cảm nghiệm được sự Chúa đến. Ngài đến như ngọn lửa làm nóng tâm hồn lên, muốn đốt sạch những dơ bẩn tội lỗi. Ngài đến như một bàn tay dịu dàng đánh thức tâm hồn, để gặp gỡ một tình yêu cứu độ muốn nâng tâm hồn lên. Ngài đến như một luồng gió nhẹ, thổi sự sống mới vào tâm hồn, để thao thức về một Nước Chúa đang đến gần. Ngài đến như một dòng nước từ Trời, tuới vào tâm hồn những khát vọng về một hành trình, sẽ cùng với mọi người con Chúa đi về với Thiên Chúa Ba Ngôi là nơi họ sẽ ở lại đời đời. Chỉ có những tâm hồn thinh lặng mới hiểu được và thực hiện được lời quan trọng của Chúa Giêsu: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). *** Tuần Thánh năm nay như đang bị chìm vào những thời sự đau xót do chiến tranh và những lo ngại rất đáng sợ cho cả nhân loại, như Đức Giáo Hoàng đã cảnh báo. Chúng ta hãy cùng với vị Cha chung hiệp thông với Chúa Cứu thế thinh lặng trên đường đi vào Tuần Thánh. Thinh lặng với tâm hồn sám hối nguyện cầu. Thinh lặng với tinh thần khiêm tốn hy sinh. Thinh lặng vác thập giá mình và chia sẻ thập giá của muôn vàn người đau khổ vì những lý do khác nhau. Thinh lặng biến Tuần Thánh này thành một hy lễ đền tạ dâng lên Chúa Cha giàu tình thương xót. Với đức tin, chúng ta đợi chờ một sự vượt qua mới theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Lễ Truyền Dầu là dịp qui tụ đông đảo các linh mục, tu sĩ, giáo dân. Truyền thống này vốn đã sốt sắng, hôm nay càng thêm nô nức. Bởi lẽ thánh lễ truyền dầu năm nay được tổ chức tại nhà thờ Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, nơi đã thực hiện thành công những đổi mới qui mô toàn cảnh rộng lớn với nỗ lực phi thường. Có thể nói, tất cả thánh lễ hôm nay, từ trong đến ngoài, đều chủ yếu hướng về chức Linh mục. Tôi xin mượn dịp này, để hô hào anh chị em hãy hết lòng cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho giáo phận chúng ta số linh mục vừa khá đông vừa khá tốt, tuy vẫn chưa đủ. Tôi cũng nhân dịp này, nhắc nhở anh chị em hãy luôn sốt sắng cầu nguyện cho các linh mục. Mong các ngài luôn sống xứng đáng ơn Chúa gọi, luôn biết lắng nghe những tiếng gọi mới của Chúa, nhất là tiếng Chúa gọi đổi mới thường xuyên, luôn biết nhân danh Chúa kêu gọi những người khác đi về với Chúa. Tất cả những lời tôi vừa nói về linh mục đều tập trung vào việc Chúa gọi. Thực vậy, hành trình đời linh mục là một chuỗi dài tiếng Chúa gọi. Ban đầu, Chúa gọi đích danh người này, người nọ hãy gánh vác sứ vụ linh mục. Khi linh mục được sai nhận nhiệm sở, Chúa lại gọi ngài hãy có những lựa chọn cụ thể khôn ngoan, sao cho mục vụ thích hợp với nơi mình phục vụ. Khi linh mục bước vào thời điểm mới, Chúa lại gọi ngài hãy có những sáng kiến mới, để có thể đồng hành với lịch sử. Khi linh mục phải đối mặt với tuổi cao, sức yếu bệnh tật, Chúa gọi ngài hãy có những đóng góp phù hợp, trong phục vụ, cho dù bé nhỏ. Như vậy, chính bản thân mỗi linh mục là người luôn được Chúa gọi. Được gọi nhiều lần. Được gọi nhiều cách. Được gọi theo từng năm, gọi theo từng ngày, gọi theo từng hoàn cảnh. Để rồi, mỗi vị sẽ lại gọi những người khác đi theo Tin Mừng. Vì vâng nghe tiếng Chúa gọi, linh mục trở thành con người mang hai thái độ tương phản: Một thái độ là liên kết. Một thái độ là dứt lìa. Linh mục liên kết với những gì là hợp ý Chúa. linh mục dứt lìa những gì là nghịch ý Chúa. Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy sửa đổi con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa. Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1). Lời khuyên trên đây gởi chung cho giáo đoàn, nhưng riêng cho giáo sĩ. Con người linh mục vừa phải liên kết vừa phải dứt lìa. Đó là một sứ mạng rất khó. Khó đối với thế gian. Khó đối với chính bản thân linh mục. Thế mà, trên thực tế, chúng ta thấy số linh mục cố gắng sống như vậy không phải là ít. Anh chị em thấy rõ điều đó nơi những linh mục phục vụ anh chị em. Còn tôi, tôi biết rõ điều đó nơi tất cả mọi linh mục của tôi. Các linh mục của chúng tôi nói chung, và các giám mục chúng tôi nói riêng, đều là những con người rất có giới hạn. Chúng tôi mang nhiều thánh giá nặng, mà thánh giá nặng nhất là chính bản thân mình, với bao yếu đuối, với bao lo âu, với bao lỗi lầm thiếu sót. Vì thế, chúng tôi không hề dám đặt hy vọng vào khả năng của mình và các việc mình làm. Hy vọng của chúng tôi là Hội Thánh, người mẹ nuôi dưỡng chúng ta. Hy vọng của chúng tôi là anh chị em, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, những người đang làm nên một gia đình thân thương nâng đỡ chúng tôi. Hy vọng của chúng tôi là đồng bào xã hội đang sống hài hoà thông cảm giúp đỡ chúng tôi. Nhưng trên hết, hy vọng của chúng tôi là Chúa, Đấng đã gọi chúng tôi, Đấng đã yêu thương chúng tôi đến nỗi đã chịu chết trên thánh giá vì chúng tôi. Hơn bao giờ hết, tôi cảm nghiệm sâu sắc một câu trong tuần thánh: “Hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta”. Thánh giá Đức Kitô chính là những hy sinh và tình yêu của Chúa Giêsu. Thêm vào đó cũng có những đóng góp của mọi người đang hy sinh và cầu nguyện, thương yêu chúng tôi. Với tâm tình sám hối chân thành, tôi xin mọi người hãy cùng với chúng tôi phó thác chúng tôi cho Chúa. Trên đường phục vụ, chúng tôi thường gặp những bất ngờ. Chỉ Chúa mới là ánh sáng cứu độ và mới là tình yêu cứu độ có thể đưa chúng tôi tới mục đích thực sự của ơn gọi mà Ngài mong muốn.
Thánh lễ chiều thứ năm tuần thánh nhắc lại bữa tiệc ly trong Phúc Âm. Đây là bữa ăn cuối cùng, trước khi Chúa Giêsu chia ly các môn đệ. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu để lại những trối trăng quan trọng. Đặc biệt là giới răn yêu thương. Yêu thương trở thành dấu chỉ chính thức của người môn đệ Chúa. Yêu thương của người môn đệ Chúa phải khiêm nhường, giống như người quì xuống rửa chân cho kẻ kém hơn mình. Thêm vào giới răn yêu thương, còn một trối trăng khác quan trọng hơn, đó là phép Thánh Thể. Chúa Giêsu lập phép Truyền Chức Thánh, chủ yếu để tiếp tục sự hiện diện của mình qua Bí tích Thánh Thể. Ta thường gọi Bí tích Thánh Thể là lương thực thiêng liêng. Gọi thế là đúng. Nhưng cần hiểu sâu hơn, để phép Thánh Thể được tin nhận là một lương thực khác mọi thứ lương thực người ta vốn hiểu. Ở đây, tôi không thể nói đủ. Tôi chỉ xin chia sẻ vắn tắt vài chân lý, rút từ Phúc Âm, và cũng từng được cảm nghiệm qua đời sống với phép Thánh Thể. Trước hết, trong phép Thánh Thể có Chúa Giêsu hiện diện thực sự. “Đây là Mình Ta. Đây là Máu Ta” (Ga 14,22-23), đó là một xác quyết do chính Chúa Giêsu nói. Chúa Giêsu hiện diện ở đó một cách sống động, với tất cả trái tim đầy tình yêu cứu độ của Ngài. Vì thế, khi đến với phép Thánh Thể, chúng ta nên thực hiện mấy việc đơn giản sau đây: Việc thứ nhất là tin. Ở đây, tin có nghĩa là nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhìn thấy Ngài bằng con mắt đức tin, dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Mỗi người chúng ta đều sẵn có một số hình ảnh về Chúa Giêsu. Nếu chúng ta nhìn Ngài theo một hình ảnh chúng ta quen trìu mến, thì đó cũng là một cách nhìn gợi ý. Đến một trình độ đạo đức cao, ta sẽ không nhìn Chúa theo một hình ảnh nào nữa, mà sẽ nhìn Chúa như một Đấng thiêng liêng, đầy sự sống, đầy tình yêu thương, đầy ánh sáng cứu độ. Kèm theo việc nhìn Chúa Giêsu là việc nghe lời Ngài. Ta đã nghe biết bao lời Ngài qua Phúc Âm. Nhưng không cần ta nhớ hết. Ta cần nhớ lấy một vài lời của Ngài hợp với hoàn cảnh của ta hơn. Thí dụ, tôi đang ở trong tình trạng thiếu thốn quá nhiều về sự sống, nhìn theo mọi phương diện, nên lời Ngài thích hợp với tôi sẽ là: “Thầy đến để con được sống, và được sống dồi dào” (Ga 10,10). Kinh nghiệm cho tôi thấy, nếu tôi khiêm nhường và khao khát lắng nghe Chúa, thì Chúa sẽ gởi vào hồn tôi một lời rất thích hợp. Lời ban sự sống. Lời chữa lành tâm hồn. Lời chia sẻ sự bình an của Chúa. Thêm vào việc tin Chúa bằng nhìn Chúa và nghe Chúa, sẽ còn một việc rất quan trọng. Đó là việc dấn thân. Việc thứ hai là dấn thân. Dấn thân là trao đời mình cho Ngài. Dấn thân là yêu mến Ngài, cậy trông Ngài. Dấn thân là hứa sẽ làm việc này việc nọ tốt lành, để kết hợp với Ngài thân mật hơn. Dấn thân là quyết tâm dứt bỏ việc này việc nọ không tốt, để không còn làm đau lòng Ngài. Dấn thân là dâng phó đời mình cho Ngài với tâm tình đơn sơ tin tưởng. Việc dấn thân như thế có tính cách của một sự tái sinh, của một sự trở về với Chúa, của một sự đổi mới cuộc đời. Như vậy, phép Thánh Thể sẽ đến với chúng ta, như một gặp gỡ thân mật của Chúa Giêsu. Gặp gỡ để ta được tham gia vào sự sống của Chúa, để ta được nên con Chúa mỗi ngày mỗi xứng đáng hơn. Tôi thấy rằng: Chúa Giêsu sẽ không gặp ta qua các lý luận, các lý thuyết, mà qua cái tâm của ta. Cái tâm của ta càng đơn sơ khiêm tốn, khát khao, thinh lặng càng dễ đón nhận Chúa. Cái tâm của ta càng nhận biết mình nghèo nàn, hèn yếu, càng sẽ dễ tin nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu độ của ta. Với chia sẻ trên đây, tôi xin anh chị em vui lòng thực hành ngay, thực hành tốt những việc đơn sơ dễ nhớ, tôi vừa trình bày. Xin Chúa Giêsu, trong lễ ly tiệc này, sẽ là Đấng cứu độ sống động thân thiết của từng anh chị em. Xin anh chị em biết đón nhận Ngài như Đấng cứu độ mà anh chị em đang rất cần. Thực sự Ngài là Đấng cứu độ của chúng ta. Chúng ta chỉ có Ngài là Đấng cứu độ duy nhất. Chúng ta tin Ngài. Chúng ta yêu Ngài. Chúng ta đón Ngài và xin Ngài ở lại mãi trong ta.
Chúa nhật sau lễ Phục sinh được lịch phụng vụ chung Hội Thánh gọi là Chúa nhật cuối tuần Bát Nhật Phục Sinh. Năm nay sẽ là ngày 27-4. Từ ít lâu nay, một số nơi trong Hội Thánh được phép chọn Chúa nhật này để mừng Chúa dưới tước hiệu “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”. VÀI DIỄN TIẾN VỀ TƯỚC HIỆU. “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” là một lời trích từ thư thánh Phaolô viết gởi giáo đoàn Ephêsô (Ep 2,4). “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” là tựa đề của một thông điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi Hội Thánh ngày 30-11-1980. “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” cũng là đề tài bài giảng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong lễ phong thánh cho nữ tu Faustina ngày 30-4-2000. Chị nữ tu trẻ này (1905-1938) được Chúa chọn để truyền bá lòng sùng kính tình yêu thương xót Chúa. “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” đang là một danh hiệu về Chúa, được nhân loại thời đại này trìu mến nhất và có sức thu hút nhất. Đối với nhiều người, Thiên Chúa là tình yêu thương xót, đó là niềm an ủi rất lớn đã từ lâu. Đúng là thế. Không những vì họ tin theo Kinh Thánh, mà còn vì họ cảm nghiệm điều đó rất nhiều cách. Như thể, hễ nói về Chúa, lập tức họ nhìn thấy Người là tình yêu cứu độ lạ lùng theo lời thánh Gioan dạy (1 Ga 4,8), và tự nhiên họ cảm nhận được Người giàu lòng thương xót cứu độ lạ lùng, như thánh Phaolô đã tuyên xưng (Ep 2,4). Tin và cảm nghiệm rất mạnh, đến nỗi có những lần, không ít người như muốn mượn những từ, mà thánh Gioan đã dùng, để diễn tả Chúa qua những giác quan thiêng liêng: “Điều chúng tôi đã nghe
điều chúng tôi đã thấy
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và tay chúng tôi đã chạm đến” (1 Ga 1,1) đó là Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Nhất là khi đề cập đến ơn cứu độ, họ thấy chỉ có một con đường: “Chúa là nơi con nương tựa”. Nếu ơn cứu độ được hiểu là một ơn đặc biệt gồm ba yếu tố: một là thoát khỏi sự thống trị của tội, hai là thoát khỏi quyền lực ma quỉ, ba là được tham gia vào sự sống Thiên Chúa, thì tôi thấy đúng là người ta chỉ nhận được ơn đó nhờ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG TRONG ĐỜI TƯ. Đối với tôi, Thiên Chúa giàu lòng thương xót là một sự thực rất thân thương. Tôi đã từng sống với sự thực đó gần 75 năm tuổi đời, trong đó có gần 28 năm giám mục. Trước hết là chính cuộc đời tư riêng. Tôi rất tội lỗi yếu hèn. Nhưng tôi được may mắn nghe lời thánh Phaolô nói: “Đức Kitô Error! No index entries found.). Những lời trên đây cùng với sự dẫn dắt của Đức Mẹ, khi đi vào nội tâm tôi, đã cho tôi những xác tín sau đây: 1- Mọi sự tốt trong tôi và từ tôi đều bởi một Đấng khác, không phải là tôi. Đấng đó là Đức Giêsu Kitô. Người ở trong tôi. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà tôi được phép gọi Thiên Chúa là Cha của tôi. 2- Khi gặp bất cứ ai dù trong tình trạng nào, tôi vẫn tin rằng họ có thể là đối tượng đặc biệt của lòng xót thương Chúa. 3- Tôi sẽ nên người tốt hơn, nếu tôi vâng nghe tiếng Chúa Giêsu gọi: Hãy theo Thầy. Theo Đức Kitô là tin Người, ở lại với Người, bắt chước Người và loan báo tình yêu của Người. 4- Theo Người, là làm việc theo tiêu chuẩn Lời Người dưới sự hướng dẫn của Thần Linh của Người. Lấy Lời Người làm tiêu chuẩn, không có nghĩa là Lời theo chữ, mà theo nghĩa do Chúa Thánh Thần soi dẫn. Nói một cách tóm gọn đơn sơ, thì đời tôi là một chuỗi dài đón nhận tình Chúa và ý Chúa, để rồi cộng tác với ơn Chúa mà làm việc. LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG TRONG MỤC VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO. Tôi cộng tác với ơn Chúa, không phải chỉ bằng bản thân mình, mà còn với nhiều người khác Chúa gởi cho. Cộng tác bằng cùng nhau cầu nguyện, thờ phượng, hy sinh. Dần dần chúng tôi được Chúa chia sẻ cho tâm tình thương xót của Người. Từ đó mọi người chúng tôi thích ra đi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng là Đức Kitô. Người cứu độ bằng tình yêu giàu lòng thương xót. Chúa thương xót mọi người, nhưng nhất là những kẻ tội lỗi, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ. Trong việc mục vụ và truyền giáo, tôi có một kinh nghiệm quí giá này. Đó là tôi hết sức cần được thông hiệp với tình yêu thương xót của Chúa. Đồng thời cũng rất cần nhận được tình yêu thương xót của những người cộng tác của tôi. Bởi vì tôi yếu đuối. Những người cộng tác thường làm được việc hơn tôi. Họ có nhiều nhiệt tình, có nhiều thương cảm, có nhiều sáng kiến, có nhiều đổi mới, có nhiều khôn khéo, có nhiều dấn thân mới, có nhiều cái nhìn mới. Hơn nữa, họ quảng đại, biết tha thứ những lỗi lầm của tôi. Tôi coi mọi người cộng tác của tôi, ở bất cứ vị trí nào, đều là những tông đồ của lòng thương xót Chúa. Cả những người âm thầm vác thánh giá vì tôi và cho tôi. Phải nhận đây là một cộng tác rất quí báu, Chúa sẽ ban thưởng cách riêng cho họ. Nói đến thánh giá, tôi có thể kể ra khá nhiều kinh nghiệm. Tôi chi xin nói vắn một lời: Mục vụ và truyền giáo cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn đòi hỏi chúng ta phải vác thánh giá. Bởi vì chúng ta được gọi đi theo Chúa Giêsu, để làm chứng cho lòng thương xót Chúa. Chúa Giêsu đã làm chứng bằng cách đi trên con đường thánh giá, thì các môn đệ Người cũng sẽ phải bước theo vết chân Người. Tôi tin rằng: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta”. Cho đến lúc này, mục vụ và truyền giáo cho lòng thương xót Chúa tại địa phương chúng tôi đang gặt hái được nhiều hoa trái thơm ngon. Tôi thấy Chúa ban cho chúng tôi một mùa màng thiêng liêng rất dồi dào. Người ban nhưng không. Xin hết lòng cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Tôi hy vọng rằng, mỗi người chúng ta, với một nốt nhạc khác nhau, sẽ làm nên một bài hoà âm mới ca tụng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với tôi, lòng thương xót Chúa sẽ luôn là ánh sáng cứu độ, là khối tình yêu cứu độ, là dòng chảy bình an cứu độ, là biển cả mênh mông chứa đầy hạnh phúc. Lòng thương xót Chúa đang dẫn đưa tôi vượt qua sa mạc và biển Đỏ cuộc đời, để đến nơi Chúa hứa dành cho các con cái Chúa. Tôi sẽ cùng Đức Mẹ Maria ca tụng lòng thương xót Chúa, không phải chỉ ngày Chúa nhật sau Phục sinh mà thôi, nhưng sẽ suốt mọi ngày, mọi giờ, đến muôn thuở muôn đời.
Lễ Phục Sinh là lễ mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại. Chúa Giêsu sống lại, sau khi bị giết. Ngài bị giết bởi những người coi danh vọng, kiêu căng, ghen tương là lẽ sống, nhìn chứng nhân yêu thương khiêm tốn là thù địch. Ngài bị giết bởi những người chủ trương Thiên Chúa phải là quan án nghiêm khắc, coi lời giảng Thiên Chúa tình yêu là xúc phạm. Chúa Giêsu chết như kẻ bị thua. Nhưng sau ba ngày, Ngài đã sống lại, như Ngài đã báo trước. Sự sống lại của Ngài là một chiến thắng: Chiến thắng của tình yêu. Nhờ chiến thắng này, chính Ngài trở nên Đấng dẫn mọi người về với Chúa Cha nhân từ, và đưa mọi người gần lại với nhau. Ngài cứu độ loài người bằng tỏ bày khả năng yêu thương và quyền năng yêu thương một cách lạ lùng kỳ diệu qua việc chịu chết và sống lại. Sự Phục sinh của Chúa cứu thế là một Tin Mừng rất lớn. Hãy coi đây là một nguồn ơn tái sinh cho mọi người, đợi chờ mọi người. Tái sinh nói đây là một từ nhắc lại chính lời Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3). Sinh lại bởi ơn trên chính là tái sinh bởi chính Chúa Cứu thế. Chúa Cứu thế đã chịu nạn và đã phục sinh cho chúng ta được tái sinh. Tái sinh là được tham gia vào sự sống Thiên Chúa, sự sống tình yêu. Nhờ sự tái sinh trong lễ Phục sinh này, chúng ta được trở thành những người con của Chúa Cha một cách phong phú hơn. Chúng ta được chia sẻ sự thân mật của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha một cách nhưng không bất ngờ. Đây là điều chính Chúa Giêsu đã xác nhận, khi Ngài nói với bà Maria Madalena, buổi sáng ngày Phục sinh: “Con hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Được trở nên người con yêu của Chúa Cha trong Chúa Giêsu, thiết tưởng đó là một ân huệ cao quí hơn mọi thứ ân huệ. Chúng ta hãy biết đón nhận ân huệ đặc biệt cao quí này và hãy biết phát triển ân huệ đó. Bằng những con đường nào? Tôi xin giới thiệu mấy con đường quen thuộc. Con đường thứ nhất là hiệp thông với Chúa Giêsu. Hiệp thông chủ yếu là trong nội tâm ta. Trong nội tâm ta, ta tin Ngài, ta yêu Ngài, ta cậy trông Ngài, ta xin theo Ngài, ta cầu nguyện với Ngài. Ta gắn ta vào Ngài như cành với thân cây. Những việc nội tâm như thế phải được thực hiện hằng ngày một cách bền vững. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy, đi trên con đường nội tâm nhiều khi cũng bị thử thách, nhất là do ma quỉ cám dỗ, xúi giục ta nghi ngờ, muốn theo Chúa nửa chừng, một cách nguội lạnh. Con đường thứ hai là phục vụ con người. Phục vụ chỉ vì yêu thương theo gương Chúa của ta. Phục vụ bằng các việc cụ thể. Phục vụ một cách khiêm nhường. Phục vụ liên đới với bổn phận và khả năng của mình. Tôi thấy trên con đường phục vụ, nhiều người chúng ta đã trở nên chứng nhân đắc lực của Tin Mừng. Tôi thấy nhiều người ngoài công giáo xung quanh đây đã nhận được mầm mống Tin Mừng qua những chứng nhân nhiệt thành, nhưng thầm lặng. Thời nay truyền giáo là thời của chứng nhân. Thế mà nhiều khi chúng ta tuyên xưng đức tin chỉ qua lễ lạy, kinh kệ, luật lệ hơn là phục vụ. Ta để trong ta nhiều khả năng nhàn rỗi, không biết dùng chúng để phục vụ đồng bào, với mục đích làm chứng cho Tin Mừng. Đối với những người không biết Chúa, ta đừng vội trách họ đã sống sai lầm. Người đáng trách là chính chúng ta, vì chúng ta biết Chúa Giêsu là Tin Mừng mà vẫn không chịu làm chứng bằng gương sáng đời sống đạo đức phục vụ hết mình theo lương tâm như Chúa Cứu thế đã sai ta làm. Con đường thứ ba là con đường liên đới. Chúng ta liên đới một cách khôn ngoan với tất cả những ai thành tâm thiện chí xây dựng hạnh phúc chính đáng cho Đất nước, cho con người. Cùng với họ, ta cố gắng loại trừ mọi hình thức tội lỗi đang dẫn đưa nhiều người vào tình trạng sống trống rỗng, truỵ lạc, hại cho mình, hại cho gia đình, hại cho Tổ Quốc. *** Với chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi xin mọi người cầu nguyện cho nhau biết đón nhận ơn tái sinh, ơn được tham gia vào sự sống Thiên Chúa, ơn được sống xứng đáng người con của Chúa. Hãy đón nhận ơn Phục sinh với lòng sốt sắng. Hãy đón nhận ơn tái sinh với lòng biết ơn Chúa và hãy chia sẻ cho những người thiện chí. Xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Phục Sinh đầy ơn tái sinh và một mùa Phục Sinh phát triển dồi dào ơn tái sinh.
Cách đây 28 năm, những ngày gần 30-4-75 là thời gian rất sôi động. Chính trong thời gian sôi động đó, tôi được Chúa gọi. Chúa gọi tôi và Chúa cũng gọi anh chị em. Chúa gọi từng người và gọi chung cộng đoàn. Lời gọi đó là lời Chúa đã gọi các tông đồ xưa: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Với lời đó, Chúa sai chúng ta đi vào một tương lai mới, để làm chứng cho Nước Trời. Riêng tôi, tôi hiểu sứ mạng đó là rất quan trọng và hết sức khó khăn. Tuy nhiên, tôi phó thác sứ mạng khó khăn của tôi cho Đức Mẹ. Đức Mẹ nhân lành dẫn tôi vào con đường đơn giản nhất và chắc chắn nhất. Đó là gắn bó với Chúa Giêsu. Tôi nghe chính Chúa Giêsu giới thiệu: “Thầy là con đường đi, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,8). Và cũng chính Chúa Giêsu đã dặn dò về sự cần phải gắn bó hết sức thân mật với Người: “Thầy là cây nho, các con là ngành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Trong một hoàn cảnh đầy lo âu, những lời trên đây của Chúa Giêsu đã trấn an tôi. Nhất là tôi tin Đấng đã phán những lời trên chính là Thiên Chúa giáng trần. Người đã chết vì thương xót nhân loại. Người thương xót đi tìm kiếm những người tội lỗi, yếu hèn, thiếu thốn, khổ đau, để cứu độ họ. Tôi tin Người, và vì tin Người, tôi gắn bó với Người, cũng như gắn bó với lời Người. Đặc biệt tôi gắn bó với giới răn yêu thương mà Người trối lại: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con yêu thương nhau” (Ga 13,34). Con đường trên đây là do Đức Mẹ chọn cho tôi. Tôi đi trên đó để đồng hành với giáo phận. Khi lên đường, tôi mới thấy chuyến đi không dễ. Ngày nào cũng là một khởi sự mới. Ngày nào cũng đòi những phấn đấu mới. Ngày nào cũng nghe những tiếng gọi thân thương mới. Như: “Thiên Chúa kêu gọi anh em sống bình an với nhau” (1 Cr 7,15) “Anh em được gọi để hưởng sự tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,16). Trong chuyến đi, tôi thấy đã có nhiều thắng lợi và cũng đã có những thất bại. Nhưng càng đi với Chúa Giêsu trong trọng trách phục vụ anh chị em, tôi càng thấy rõ tình yêu thương xót Chúa được tỏ hiện dưới nhiều hình thức. Thí dụ, tôi cảm thấy rõ: Tin Mừng không phải là một hệ thống giáo lý, nhưng là một Đấng thiêng liêng sống động rất mực thương xót chúng ta. Tin không phải chỉ là chấp nhận đạo lý, nhưng là một sự gặp gỡ với Chúa là tình yêu. Trở về không phải là trở về với lề luật, nhưng là trở về với Đấng giàu lòng thương xót. Truyền giáo không phải là một công cuộc thực hiện bằng tài cán, khôn ngoan, nhưng là do sức mạnh của tình yêu thương xót được Chúa ban cho. Người truyền giáo đến với ai, thì cũng gặp Thiên Chúa giàu lòng thương xót đang ở với họ rồi. Nước Trời không phải là một thứ mua được bằng của cải, nhưng là một quà Chúa tình yêu tặng, cần phải đón nhận bằng đức tin khiêm nhường và yêu thương. Hội Thánh không phải là một quyền lực, nhưng là cộng đoàn những người thương yêu nhau và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, như lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này, mà biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót đã là Đấng dẫn đường và đồng hành với chúng ta. Tôi càng cảm thấy rõ Ngài ở bên chúng ta, khi chúng ta gặp khó khăn, nhất là khi chúng ta vấp ngã. Thực ứng nghiệm lời thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,5). Hôm nay, sau 28 năm dài, tôi vẫn nhìn về phía trước. Chúa dạy các môn đệ theo Người: Hãy lên đường. Và luôn luôn lên đường. Với hành trang nhẹ nhàng. Hành trang của tôi là lòng trông cậy tuyệt đối ở tình yêu thương xót Chúa. Lòng thương xót Chúa cũng ở trong Hội Thánh. Lòng thương xót Chúa cũng ở trong những người đồng hành. Lòng thương xót Chúa cũng ở trong tất cả anh chị em. TÔI HẾT LÒNG CẢM TẠ CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT. Tôi tận tình cảm ơn tất cả mọi người, nhất là Đức Cha Micae và Đức Cha Phó Giuse. Tôi rất biết ơn các cộng tác viên gần xa đã cùng tôi loan báo Tin Mừng. Tôi nặng tình nghĩa với quê hương Việt Nam nói chung và địa phương thân yêu này nói riêng. Xin Chúa giàu lòng thương xót tiếp tục thương xót chúng ta. Amen.
Trong Hội Thánh Việt Nam, tháng năm quen gọi là tháng hoa. Tại các nhà thờ, ít là: 08-05-2003 Bùi-Tuần 912
Trong Hội Thánh Việt Nam, tháng năm quen gọi là tháng hoa. Tại các nhà thờ, ít là chiều thứ bảy, thường có nghi thức dâng hoa kính Đức Mẹ. Đây là một truyền thống đạo đức giàu gợi ý. Việc đạo đức này xem ra mỗi năm mỗi đẹp hơn. Mỗi buổi dâng hoa ví như một vườn sống động đẹp tươi. Vì thế tháng hoa này gợi ý cho tôi mơ tưởng về vẻ đẹp của mấy thứ vườn mà tôi ưa chuộng.Vườn trong Kinh Thánh. Vườn không phải là một hình ảnh xa lạ trong Kinh Thánh. Trái lại, vườn là cảnh thiên nhiên đẹp, có nhiều liên hệ đến các biến cố lịch sử dân Chúa. Thí dụ: Vườn là nơi Thiên Chúa dựng nên tổ tông Adong Eva. “Thiên Chúa trồng một vườn ở Eden, về phía đông; và đặt vào đó con người, mà Chúa nặn raỮ (St 2,8). Vườn là nơi Thiên Chúa đi dạo và gọi ông Adong đang ẩn núp trong đó: “Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn, lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa đám cây, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: Ngươi ở đâu?Ữ (St 3,8). Vườn là nơi Chúa Giêsu cầu nguyện trong cơn xao xuyến, buồn phiền, trước khi phó mình bị bắt: “Bấy giờ Đức Giêsu Kitô đi cùng với các tông đồ đến một thửa vườn gọi là Giệtsimani. Ngài nói với các môn đệ: Anh em ngồi lại đây. Thầy đến đàng kia cầu nguyện... Người cảm thấy buồn rầu xao xuyếnỮ (Mt 26,56). Vườn là nơi táng xác Chúa Giêsu. “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn có một ngôi mộ còn mới... Nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đóỮ (Ga 19,41). Vườn là nơi Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra lần đầu tiên: “Bà Maria Madalena quay lại, và thấy Đức Giêsu đứng đó. Nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Bà tưởng là người làm vườnỮ (Ga 20,14). Tôi nghĩ các thứ vườn, mà Kinh Thánh nói tới, đều là những thửa đất có nhiều loại cây: Cây ra hoa, cây sinh trái, cây toả bóng mát, cây cho chim trời làm tổ bay nhảy và hợp đoàn. Nói chung, vườn là mặt bằng có tổ chức, mang vẻ đẹp. Vẻ đẹp do thiên nhiên, vẻ đẹp do những chăm sóc của các trí tuệ yêu nghệ thuật và các bàn tay khéo léo. Chúng là một thứ bài ca. Các vườn trong Kinh Thánh dẫn tôi tới các vườn trong khuôn viên nhà thờ và tu viện. Vườn trong những nơi thờ tự và tu trì. Tôi nhớ tới Lộ Đức bên Pháp. Từ cổng tới Vương cung thánh đường và núi Đức Mẹ là một quãng đường tương đối dài. Hai bên đường là những vườn hoa chen lẫn những răng cây cao. Đâu đó đều lớp lang trật tự. Bước trên đoạn đường này, tôi không thể không nghe lòng rộn ràng. Bầu khí vườn hoa và răng cây như nâng tâm hồn khách hành hương lên. Có một cái gì vừa linh thiêng vừa thanh thoát, dọn dẹp tâm hồn đi vào cầu nguyện. Cũng vậy, để vào nhà nguyện Dòng Kín, Lisieux, cũng tại Pháp, nơi thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã sống đời tu, tôi đi qua những mảnh vườn trồng cỏ và hoa hồng. Càng bước đi, tôi càng cảm thấy tâm hồn mình được chuẩn bị. Tôi cũng thấy nhiều người đứng ngồi tại đó, để suy niệm và cầu nguyện, trước và sau những giờ phút tham dự thánh lễ trong nhà thờ. Những kinh nghiệm như thế gợi ý cho tôi nghĩ về những cảnh đẹp thiên nhiên trong khuôn viên nhiều nhà thờ và tu viện. Môi trường sinh thái của cây, của cỏ, của hoa hiện nay được đánh giá là rất quí, góp phần không nhỏ vào tinh thần hồi tâm và cầu nguyện. Nó cũng có tính cách giáo dục, để mỗi cộng đoàn, mỗi gia đình, mỗi cá nhân trở thành những vườn có nhiều hoa thơm, có nhiều trái ngọt. Vườn ở trong tâm hồn. Tôi lại nghĩ tới gia đình thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Cha mẹ sống thánh thiện. Các con cái đều đạo đức. Cả gia đình như một thửa vườn giá trị. Giá trị về những đức tính nhân bản. Giá trị về những nhân đức Phúc Âm. Tôi thấy dạng gia đình như thế đang được nhân lên, và được thể hiện trong nhiều cộng đoàn. Toàn thể cộng đoàn là vườn hoa thơm trái tốt. Từng người trong cộng đoàn cũng là một vườn hoa đẹp trái ngon.Hoa trái có những tên Phúc Âm, như hoa bác ái, hoa khiêm nhường, hoa tế nhị, hoa thương xót, hoa hy sinh, hoa phục vụ. Được như vậy, là vì đã có trồng trọt, có chăm bón, có tỉnh thức. Không để hạt giống tốt rơi xuống lòng đất chai đá. Không để thế gian ma quỉ gieo trộm cỏ lùng vào. Và hạt giống nào cũng phải hy sinh chịu thối đi, để có thể mọc thành cây. Sau những suy nghĩ trên, tôi nhìn lại chính bản thân tôi, để xem mình có thể gọi được là một vườn có hoa thơm trái tốt không. Tôi thành thực nhận rằng: Không. Với tâm tình con thảo, tôi nói với Đức Mẹ rằng: Ngày xưa, Đức Mẹ đã sinh Chúa Cứu thế trong một chuồng bò lừa. Chuồng bò lừa chắc không là vườn hoa. Hoạ may trong các đống cỏ dành cho bò lừa, cũng có một ít hoa. Đó là hoa cỏ. Nói vậy thôi. chứ chuồng bò lừa là nơi chẳng đẹp đẽ thơm tho gì. Thế nhưng ở đó lại có Đức Mẹ, có thánh Giuse, có cả Chúa Giêsu nữa. Chỉ vì Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót đối với nhân loại, nhất là đối với những ai tội lỗi... Tôi chưa kịp nói hết, thì tôi thấy Đức Mẹ nhìn tôi, một cái nhìn đầy thương xót. Và tôi hiểu Đức Mẹ đã nhận hoa tôi dâng. Hoa tôi dâng là thân phận tội lỗi yếu hèn của tôi, với lòng tín thác và sám hối. Thì ra Mẹ Maria cũng giống như Chúa Giêsu, Con Mẹ, rất thương những tâm hồn tội lỗi yếu hèn, biết chạy đến với lòng thương xót của Mẹ. + ĐC JB. Bùi Tuần
Từ nay, ngày 13 tháng 5 được Phụng vụ chỉ định là ngày kính Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Thánh lễ này có lời nguyện riêng. Lời nguyện riêng đó nhắc tới việc kiên trì sám hối. Bởi vì sám hối là mệnh lệnh chính của Đức Mẹ, khi hiện ra ở Fatima. Mệnh lệnh quan trọng đó đã được thực hiện tại khắp Giáo Hội địa phương này, trong ngày 13 tháng 5 vừa qua. Mệnh lệnh khẩn thiết đó cần được tiếp tục kiên trì. Đức Mẹ muốn thế. Thực tình, đó cũng chính là đòi hỏi căn bản của tu đức, mục vụ và truyền giáo, nhất là trong tình hình hiện nay. Với nhận thức như thế, tôi xin phép chia sẻ vài gợi ý rút ra từ sách Khải Huyền. Tác giả sách Khải Huyền nhìn thấy một số thiếu sót của 7 giáo đoàn. Những thiếu sót đó có khả năng đưa giáo đoàn đến chỗ suy tàn. Hiện nay 7 giáo đoàn đó kể như đã mất tích. Không biết có phải vì đã không chịu sám hối về những thiếu sót đã được cảnh báo hay không. Dù số phận các giáo đoàn đó là thế nào, và ai phải chịu trách nhiệm, thì đây cũng là bài học cho chúng ta. Đừng coi thường những thiếu sót coi như chẳng nặng nề gì. Thí dụ ba thiếu sót sau đây. Thiếu sót thứ nhất là “để mất tình yêu thuở ban đầu”. “Ta trách ngươi điều này: Ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy, hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống. Hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta sẽ đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải” (Kh 2,4-5). Tình yêu thuở ban đầu nói đây có thể hiểu là tình yêu Chúa dành cho mỗi người và mỗi cộng đoàn chúng ta, những ngày đầu Chúa gọi ta. Gọi ta làm con Chúa. Gọi ta vào một sứ vụ. Tình yêu thuở ban đầu ấy là một đặc ân, và cũng là một giao ước. Ta đón nhận với lòng cảm tạ và quyết tâm. Tất cả vì Nước Trời. Nhưng dần dà, với lịch sử đổi thay, và lòng dạ cũng thay đổi, tâm tình cảm tạ nhạt phai dần, quyết tâm trở nên yếu dần. Nước Trời không còn là quan tâm ưu tiên. Tình yêu thuở ban đầu chỉ còn là những kỷ niệm lạnh lùng trong ký ức. Nhưng mấy người đã cho sự đánh mất tình yêu thuở ban đầu là một lỗi lầm cần hối cải. Vì thế, dòng ơn thánh giảm dần cho tới lúc ơn sau cùng cũng bị Chúa rút lại. Lý do chính là vì không chịu sám hối. Thiếu sót thứ hai là “thiếu tỉnh thức”. “Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết. Hãy tỉnh thức! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhìn thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh nhận và nghe Lời Chúa thế nào, hãy tuân giữ và hối cải! Vậy nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 1-3). Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là đón Chúa đến với chúng ta. Nhưng Chúa thường đến một cách rất bất ngờ. Đọc qua Phúc Âm thì rõ. Chúa Giêsu sinh ra trong chuồng bò lừa nghèo khó. Ngài được dâng vào đền thờ như một kẻ vô danh. Ngài sống 30 năm ẩn dật như một dân quê nghèo. Ngài chịu chết trên thánh giá như một tội nhân. Nhưng chính với những lựa chọn đó, Nước Trời như hạt giống đã được gieo vào thế gian, và được nảy nở trong biết bao tâm hồn, cho đến hôm nay. Nếu chúng ta không tỉnh thức, cứ đợi những dấu chỉ huy hoàng để tìm Chúa, hoặc cho rằng Nước Chúa đã đến, thì sẽ dễ sai lầm. Con đường Chúa đến thường rất vắng những vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng lại giàu đời sống nội tâm. Nhìn vào hiện tình sống đạo đó đây, chúng ta hãy tỉnh thức, để nhận ra đúng những dấu chỉ mà Phúc Âm đã báo trước. Để được thế, tỉnh thức phải đi đôi với cầu nguyện, và khiêm tốn phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thiếu sót thứ ba là “tình hình nguội lạnh”. “Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi. Nhưng ngươi hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16). Theo tôi hiểu, thì người nguội lạnh là người không đói khát Chúa, không đói khát Nước Trời, không đói khát thánh ý Chúa, không đói khát sự công chính của Chúa. Đó là người có cái tâm dửng dưng. Cái tâm mù, cái tâm điếc, cái tâm an phận trước những khổ đau của đồng bào, trước những nhắn nhủ thiết tha của Đức Mẹ, trước những đòi hỏi phải làm cho những ơn Chúa ban được sinh ra lời lãi. Người nguội lạnh là người thiếu lửa mến và chân thành trong các việc tôn giáo, trong những gặp gỡ với Chúa. Nên không đón nhận được ơn đổi mới, ơn trở về, ơn tái sinh. *** Sau khi nghe qua mấy cảnh báo trên đây, tôi có cảm tưởng là những cảnh báo đó đang được gởi đến chính chúng ta: từng người, và từng cộng đoàn. Chúng ta hãy nghe những cảnh báo đó, để hồi tâm xét mình và sám hối. Sám hối kiên trì. Sám hối sâu xa. Sám hối này sẽ mở ra chân trời hạnh phúc, nếu chúng ta biết chạy lại bên Đức Mẹ, để cầu nguyện, xin Mẹ giúp ta sám hối.
Người môn đệ Chúa Giêsu là mọi tín hữu. Nhưng ở đây, danh từ này được giới hạn cho những ai dấn thân đi theo Chúa Giêsu một cách đặc biệt, để mở mang Nước Trời. Trong loại môn đệ đặc biệt này, có những người âm thầm, thanh thản, nhẹ nhàng, không chức, không quyền. Và có những người trịnh trọng, nặng nề, bận rộn với quyền với chức. Dù thuộc loại nào, mọi môn đệ Chúa Giêsu đều được Người chỉ dạy con đường phải đi. Con đường môn đệ phải đi là theo con đường chính Chúa Giêsu đã đi. Con đường Người đã đi là con đường hạt lúa. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái” (Ga 12,23-24). Như vậy, hạt lúa phải gieo vào lòng đất, phải chịu thối đi, để sinh ra mầm non, rồi mới lớn thành cây. Con đường đó có những luật riêng: Như khiêm tốn, lặng lẽ, kiên trì và hy vọng. Từ ít lâu nay, con đường hạt lúa ở một số nơi xem ra bị lu mờ. Hậu quả sẽ rất nguy hại, nếu các môn đệ Chúa hôm nay không thức tỉnh. Trong nhận thức ấy, tôi xin Chúa đánh thức lòng tôi. Đánh thức bằng Lời Chúa và những ơn thánh kèm theo Lời Chúa. Trước hết, Lời Chúa nói rõ con đường Chúa Giêsu đi. Con đường Chúa Giêsu. Phúc Âm thánh Marcô viết: “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói dứt khoát Người phải chịu đau khổ rất nhiều. Phải có nghĩa là bắt buộc, không thể nào khác. Điều đáng ngạc nhiên là những kẻ gây đau khổ cho Người lại chính là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân. Con đường đó quá nhục nhã, nên không những gây ngạc nhiên cho các môn đệ, mà còn bị các ngài coi là vô lý, không thể chấp nhận được. Vì thế, thánh Marcô kể thêm: “Ông Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,32-33). Với những lời trên đây, Chúa Giêsu cho thấy: Nước Trời là một mầu nhiệm. Nước Trời là chính Chúa Giêsu. Lời Người và chính bản thân Người sẽ như hạt lúa gặp nhiều đau đớn. Đau đớn là chặng đường phải đi qua, mới có được những mùa màng trù phú. Chặng đường đau đớn có những chi tiết hãi hùng, coi như không cần thiết, nhưng Chúa Giêsu cũng đã bước vào. Thí dụ những chi tiết sau đây, mà thánh sử Marcô một lần nữa kể lại do chính Chúa Giêsu báo trước: “Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem... Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34). Bị nhạo báng, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn: Con đường mở mang Nước Trời, mà Chúa Giêsu đi, sao quá khổ như vậy. Thế mà Chúa Giêsu đã đi. Chúng ta coi đó là một mẫu gương. Hạt lúa Tin Mừng đã đi hết chặng đường đau khổ gồm nhiều thứ khác nhau. Có thể coi đó là cái giá để tới sự sống vinh quang sẽ được chia sẻ rộng rãi ra khắp nhân loại mọi nơi mọi thời. Còn con đường của các môn đệ Chúa thì sao? Các môn đệ là những người theo Chúa, nên tất nhiên cũng phải đi trên con đường Chúa đã đi. Chúa nói rõ ràng: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh Phaolô, một môn đệ Chúa đã viết: “Giờ đây, bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: Xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24). Những lời tha thiết trên đây của thánh Phaolô cho thấy ngài có một tấm lòng đầy lửa mến, muốn bước theo đúng vết chân Thầy chí thánh. Ngài coi vinh dự của ngài là “được thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Do đó, chính thánh Phaolô cũng được trở thành hạt lúa Tin Mừng. Hạt lúa này cũng đã chuyển vận qua những chặng đường rất khổ đau. Nhưng sau cùng ngài đã trở thành đầu mối của cánh đồng truyền giáo mênh mông bát ngát. Cùng với thánh Phaolô là vô số ơn gọi sau này. Họ đã trở thành những môn đệ Chúa đích thực, nhờ chấp nhận số phận hạt lúa. Một số phận đớn đau, nhưng thực ra đó chính là một danh dự cao cả. Con đường hạt lúa nơi chúng ta. Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những mô hình. Chúa muốn chúng ta bắt chước. Nhưng thực tế cho thấy sự bắt chước đúng hệt như thế không phải là một lựa chọn tuỳ quyền của ta. Điều tuỳ thuộc ở ta trước tiên chính là ý hướng, là ước muốn. Ta hãy luôn luôn nuôi trong lòng ý hướng được bắt chước Chúa Giêsu trong hoàn cảnh cụ thể của ta. Thí dụ, trong hai hoàn cảnh, một bên là phục vụ trong giàu có vinh quang, một bên là phục vụ trong khiêm tốn khó nghèo. Ta chọn phía thứ hai. Rồi thi” dụ trong hai khả năng, một bên là cho mình quyền xét đoán người khác và kết án họ một cách thoả thích, còn một bên là coi mình như kẻ tội lỗi, khiêm tốn cầu nguyện cho những người khác một cách chân thành. Trong hai khả năng đó, ta chọn lựa con đường thứ hai. Đặc biệt, ta luôn ước muốn vâng phục mọi sự Chúa muốn về ta, cho dù đó là những phục vụ đòi rất nhiều hy sinh. Sau ước muốn, ý hướng, sẽ đến những việc cụ thể. Hằng ngày không thiếu những sự kiện xảy ra trái ý, gây nên thương tích trong lòng ta, không thiếu những hoàn cảnh đòi ta phải phấn đấu nhọc nhằn, không thiếu những biến cố khiến ta mệt mỏi, đau buồn bệnh hoạn. Trước những sự kiện đó, ta xin Chúa cho ta ánh sáng và lửa mến, để biết chấp nhận và rút ra sự tốt từ những cái xấu, và từ những cái rất tầm thường. Cái tôi của ta ví như những hạt cây có dầu. Nếu được nghiền nát ra, nếu được lọc sạch, cái tôi có thể trở thành dầu chữa bệnh, dầu xức cho thơm, dầu để thắp sáng. Cái tôi của ta ví như hạt lúa. Nếu chịu thối đi, để góp phần vào những hy sinh của Chúa Giêsu, nó sẽ có phần trong việc mở mang Nước Trời. Nếu con đường người môn đệ là con đường hạt lúa, thì dù ở bậc nào, dù mang chức quyền nào, dù ở hoàn cảnh nào, giá trị thực sự của ta vẫn phải qui chiếu vào con đường hạt lúa. Thời nay, tinh thần thế tục và văn hoá hưởng thụ đang làm yếu đi ý chí đi theo con đường hạt lúa trong Phúc Âm. Đang khi đó, một não trạng thực dụng, dựa phần nào trên thực tế nhỏ hẹp và thành kiến lâu đời đang tạo nên trong dân chúng những cái nhìn lệch lạc về môn đệ Chúa. Xin Đức Mẹ Maria thương dắt ta đi vào đúng con đường hạt lúa, mà chính Mẹ đã đi. Bởi vì trái tim Mẹ là một trái tim suốt đời như bị lưỡi gươm thâu qua. Chính vì thế mà con đường Mẹ đi cũng là con đường hạt lúa của lòng cảm thương, của tình yêu, của Tin Mừng Nước Trời, là Nước của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Viết tới đây, tôi được tin Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nho, Giám mục phó giáo phận Nha Trang, vừa tắt thở. Ngài sắp bị chôn vùi vào lòng đất, như một hạt lúa thực sự. Còn chúng tôi vẫn trên con đường hạt lúa, với những ý nghĩa thiêng liêng trên đây của Phúc Âm. Long Xuyên, ngày 22 tháng 5 năm 2003
Nhiều lần, nhìn lên tượng hoặc ảnh Trái Tim Chúa Giêsu, tôi tự nhiên hơi sợ. Tôi sợ, vì thấy trái tim ấy bị một vòng gai quấn quanh, bị đâm, máu chảy từng giọt. Tôi sợ, khi tưởng tượng Chúa sẽ hỏi tôi có muốn trái tim tôi nên giống trái tim Chúa như thế không. Nhưng, nỗi sợ đó rất mau tan biến, khi tôi nghe Chúa gọi: “Hỡi tất cả những ai đang vất vả gánh nặng nề, hãy đến bên Cha, Cha sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡngỮ (Mt 11,28). Thái độ đón nhận. Tôi đón nhận lời mời gọi đó như một nhắn nhủ thân thương. Đó là một lá thư riêng. Đó không phải như một luật được ban bố, nhưng là lời giới thiệu bản thân Chúa Giêsu. Hãy đến với Người, vì Người là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Tôi đón nhận không phải chỉ Lời Chúa mời gọi, mà là đón nhận chính Chúa Giêsu của tôi. Người ở gần tôi. Người rất thương tôi. Tôi đón nhận một mời gọi tự do. Từ chối cũng được, chẳng phải tội gì. Nhưng đón nhận sẽ là mở lòng ra cho một hồng ân, nguồn tuôn chảy phúc trường sinh cho tôi. Tôi đón nhận với lòng tin tưởng. Con đến với Chúa, vì Chúa đã gọi con. Con mang thân phận đầy gánh nặng để bên lòng Chúa, vì Chúa đang đợi chờ với tình Cha xót thương. Tôi đón nhận với tấm lòng thinh lặng. Trí khôn phải thinh lặng. Lòng muốn phải thinh lặng. Trí vẽ phải thinh lặng. Trí nhớ phải thinh lặng. Các tình cảm phải thinh lặng. Tất cả nội tâm tôi phải thinh lặng, để tập trung vào việc đón nhận Lời Chúa và đón nhận chính Chúa. Đón nhận trong nghèo khó và đơn sơ. Những gánh nặng. Những gánh nặng của tôi rất nhiều. Tôi chỉ xin nêu lên một ít: Gánh nặng là sự yếu đuối dễ nghiêng theo tội lỗi. Đó là sự yếu đuối, mà thánh Phaolô đã than: “Điều tốt tôi muốn, thì tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn, thì tôi lại làmỮ (Rm 7,19). Gánh nặng là những thứ xấu không dễ thấy. Như những tính tình tự nhiên ít nhân bản. Như những thói quen suy nghĩ, nói năng, cư xử vụng về, như những ước mơ không lành mạnh chìm trong tiềm thức, đợi dịp thuận tiện là bùng lên. Gánh nặng là những trách nhiệm không thể nhờ ai thực hiện được. Như sự từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa (x. Mt 16,24). Gánh nặng là những bổn phận Chúa trao cho, hoặc luôn đi kèm với sứ vụ. Như bổn phận rao giảng Tin Mừng phải kể là rất khó, rất nặng, nhưng nhất định sẽ gánh vác tới cùng. Gánh nặng là những khó khăn thường xảy ra trong cuộc sống chung, hoặc đời sống cô đơn.Ứ Gánh nặng là những trách nhiệm do tinh thần liên đới. Tôi phải đồng cảm với những đồng bào nghèo khổ. Tôi phải đồng hành với dân tộc trên đường lịch sử. Gánh nặng là những cản trở do bao hoàn cảnh tạo nên, không cho việc đổi mới cách sống đạo được thực hiện theo ý Chúa Thánh Thần. Gánh nặng là những mệt nhọc đau bệnh, mòn mỏi do tuổi tác và công việc. Gánh nặng là những ý hướng vẩn đục hay khéo pha vào các việc đạo đức tư riêng và tập thể. Còn nhiều gánh nặng khác vô danh. Tất cả đều được tôi mang theo, và được tôi đặt vào trái tim Chúa. Khi tôi đặt những gánh nặng đó vào trái tim Chúa, tôi luôn nhớ lời Chúa phán: “Cha đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi người tội lỗiỮ (Mt 9,13). Tôi chạy lại bên Chúa như một người tội lỗi, với bao gánh nặng khách quan và chủ quan. Của lễ tôi dâng lên Chúa chỉ là thế thôi. Tôi là gì, tôi có gì, tôi thế nào, thì tôi dâng mình cho Chúa như vậy. Và, lạ thay, tôi thấy Chúa vui nhận, và lại ban nhiều an ủi. Những ủi an. Những ủi an thực rất nhiều. Tôi xin chỉ nêu lên ba ủi an này: Ủi an là ánh sáng. Chúa ban cho một thứ ánh sáng siêu nhiên, giúp tôi nhìn sự việc trong chân lý vẹn toàn. Một sự việc nhìn lẻ loi sẽ ít ý nghĩa nhưng được nhìn trong kế hoạch chung, sẽ thấy là cần thiết, nhiều ý nghĩa. Trong bữa tiệc ly, lúc gần đến giờ chịu nạn, Chúa nói: “Đã đến giờ Con Người được quang vinhỮ (Ga 12,23). Người nói điều đó, vì Người nhìn sự việc sắp xảy ra cho Người trong chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13). Ánh sáng siêu nhiên cũng giúp tôi nhận ra có những gánh nặng nên kể như vô ích, do mình tự tạo ra, hoặc do áp lực thế tục và não trạng đạo đức lỗi thời, chứ không phải do Chúa muốn. Tôi cần trút bỏ. Ủi an là lửa mến. Một thứ lửa từ trái tim Chúa chia sẻ cho, sẽ làm cho gánh nặng Chúa trao được êm ái phần nào. Gánh nặng vẫn còn, nhưng, ở đâu có lửa mến, ở đó có can đảm, vị tha và dâng hiến. Lửa mến sẽ là nguồn khơi dậy những sáng kiến, để vẫn có thể mở Nước Trời trong những hoàn cảnh u tối nhất. Ủi an là sự bình an. Một sự bình an linh thiêng, thấm sâu vào khắp cõi tâm hồn. Dù mang gánh nặng, tâm hồn vẫn cảm được sự đỡ nâng dịu dàng của Chúa, sự đỡ nâng chân thành của bao người Chúa gởi đến đời mình. Tôi hay nghĩ tới cảnh sầu muộn và đau đớn của Chúa Giêsu trong cuộc chịu nạn. Người rất đau khổ. Nhưng Người vẫn đắm chìm trong bầu khí bình an thiêng liêng của sự phó thác nơi Chúa Cha của Người. Khi chia sẻ vắn tắt trên đây những gì tôi đã được phần nào trải qua, tôi mong tha thiết mọi người hãy đáp lại lời Chúa mời gọi: “Hỡi những ai đang mang gánh nặng, hãy đến cùng Cha, Cha sẽ cho nghỉ ngơi và bồi dưỡngỮ. Hãy đáp lại một cách rất chân thành, rất sống động, rất mau lẹ. Xin đừng chần chừ. Bởi vì cái gì cũng có thời giờ của nó. + GB Bùi Tuần
Trong bất cứ thánh lễ nào, tôi cũng lãnh nhận được nhiều ơn thánh. Nhưng thánh lễ dành cho các bệnh nhân thường là cơ hội, để tôi lãnh nhận được nhiều ơn thánh hơn. Không phải bệnh tật là những lễ vật cao quí. Nhưng cao quí là chính những người mang gánh nặng bệnh tật. Bệnh tật được đặt trên những tấm lòng nghèo khó. Đơn sơ chỉ với niềm tin, lửa mến và tâm tình phó thác. Nhất là với sự phù trợ âm thầm của Chúa Thánh Linh. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ rằng: “Khi Đấng phù trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha. Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em sẽ làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,26-27). Dựa trên lời Chúa Giêsu hứa trên đây, tôi nhìn mọi môn đệ Chúa là các chứng nhân. Nhưng một trong các chứng nhân đặc biệt chính là những bệnh nhân có ơn Chúa Thánh Thần. Nội dung làm chứng về Chúa của họ không cần tìm ở đâu xa. Bởi vì nội dung đó, họ tìm được ngay từ Phúc Âm, từ Chúa, từ tình trạng bệnh tật của chính mình. Nội dung đó rất súc tích. Nhưng tôi để ý đến ba điều sau đây: Điều thứ nhất họ làm chứng là mầu nhiệm sự chết và sự sống lại. Mầu nhiệm này được kể như căn bản cuộc đời. Chúa Giêsu đã sống mầu nhiệm đó một cách thiết thực. Người đã rao giảng mầu nhiệm đó với tất cả tình yêu chân thành tha thiết. Để được sống lại vinh hiển, thì phải chết lành. Để được sống lại trong cõi sống của Thiên Chúa, thì phải chết đi về phía tội lỗi. Để được tham dự vào hạnh phúc trường sinh, thì phải chết đi về phía những gì trái với hạnh phúc đó. Các bệnh nhân được ơn Chúa Thánh Thần sẽ sống các chân lý cứu độ ấy với chính cuộc sống đau bệnh của mình. Dù mang bệnh tật và đau đớn, họ có thể nhìn các giá trị cuộc đời với cái nhìn rõ hơn, sâu hơn, xa hơn và chính xác hơn. Chúa Giêsu hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thực toàn vẹn” (Ga 16,13). Sự thực toàn vẹn do Chúa Thánh Thần ban cho các bệnh nhân sẽ giúp họ làm chứng những đau đớn trong đời sống có ý nghĩa nào, có mục đích nào. Trong cái nhìn đó, họ sẽ lợi dụng mọi giây phút khổ đau, để mến Chúa. Mến Chúa nhiều hơn trước, mến Chúa với ý nguyện dâng hiến mạnh mẽ và chân thành hơn trước. Cùng với lòng mến Chúa, họ sẽ cầu nguyện nhiều hơn trước. Điều thứ hai họ làm chứng là tinh thần cầu nguyện. Trong Kinh Thánh, Chúa nhắn nhủ: “Cha đứng ngoài cửa và gõ. Ai nghe và mở cửa ra, thì Cha sẽ vào” (Kh 3,20). Tiếng Chúa gọi bao giờ cũng rất nhỏ nhẹ, nhưng người bệnh thường nghe thấy một cách dễ dàng, vì người bệnh thường rất mong được gặp Chúa. Họ mở cửa lòng hầu như thường xuyên, để đón Chúa. Với họ, gặp Chúa đã là một cách cầu nguyện. Tôi thường thấy các bệnh nhân cầu nguyện một cách rất hồn nhiên, đơn sơ. Có khi chỉ bằng vài lời, chỉ bằng một cái nhìn, chỉ bằng một cử chỉ cầm lấy ảnh tượng thánh và chuỗi Mân côi. Điều mà họ khát mong nhất, khi gặp Chúa, là ơn bình an. Bình an cho mình, bình an cho những ai chăm sóc mình, bình an cho tất cả những người thuộc về mình. Sự bình an mà họ xin với Chúa, là sự bình an hợp với thánh ý Chúa. Tôi có kinh nghiệm là khi xin ơn bình an theo thánh ý Chúa, người bệnh sẽ được nhận lời. Họ sẽ cảm nhận được sâu sắc một sự bình an thiêng liêng từ Chúa ban cho. Chính sự bình an đó sẽ là một chứng từ để bệnh nhân làm chứng về Chúa. Điều thứ ba họ làm chứng là ơn liên đới. Với ơn Chúa, người bệnh sẽ nhận ra sự bình an của mình do bao người gần xa đã và đang góp phần vào. Họ biết ơn tất cả những người đã sống liên đới tích cực với mình. Với ơn Chúa, người bệnh sẽ dâng cuộc đời mình làm thánh lễ, để cầu cho Hội Thánh, cho Quê Hương, cho gia đình, cho những người thân, cho những người còn xa Chúa. Họ thực sự đồng cảm, đồng hành với chính Chúa Cứu thế trong việc cứu đời. Họ biết mình sống tốt và chết lành nhờ bao người khác. Họ biết mình sống tốt và chết lành, để góp phần vào công cuộc cứu độ bao người gần xa. Đến trước toà Chúa, họ sẽ làm chứng cho bao người đã có lòng tốt phục vụ họ. Bao người cũng sẽ làm chứng là họ đã được ơn trở lại nhờ bệnh nhân này, bệnh nhân kia. Nhất là chính Chúa Giêsu sẽ khen thưởng cho những ai đã có lòng thương xót đối với nhau, như lời Người đã hứa: “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). *** Với những chia sẻ trên đây, tôi mong mọi người tin Chúa sẽ có một cái nhìn mới mẻ về bệnh nhân. Và từ cái nhìn mới mẻ đó, chúng ta sẽ thực hiện chuyến đi về với Chúa Cha trong sự đồng cảm, đồng hành với Chúa Giêsu, nhờ ánh sáng và lửa mến đầy bình an của Chúa Thánh Thần.
Mọi người chúng ta đều được hân hạnh có liên hệ với Chúa, bởi vì mọi người chúng ta đều được Chúa tạo dựng và yêu thương. Nhưng một số người có diễm phúc liên hệ đặc biệt với Chúa, bởi vì đời họ được Chúa can thiệp một cách đặc biệt. Trong những người đặc biệt đó, có thánh Gioan Baotixita. 1. Thực vậy, thánh Gioan Baotixita được sinh ra một cách đặc biệt, do phép lạ đặc biệt Chúa ban cho cặp vợ chồng già Dacaria và Elisabet (Lc 1,5-13). 2. Thánh Gioan Baotixita được thánh hoá một cách đặc biệt, do cuộc thăm viếng của Đức Mẹ Maria đang mang thai Đấng Cứu thế (Lc 1,39-58). 3. Thánh Gioan Baotixita được chọn từ nhỏ sẽ là tiên tri của Đấng Tối cao, có sứ mạng đi trước Chúa mở lối cho Người (Lc 1,76). 4. Thánh Gioan Baotixita được mang tên là Gioan, một tên đặc biệt ngoài dòng họ, do chính thiên thần truyền cho ông thân sinh phải đặt cho Ngài (Lc 1,13-63). 5. Thánh Gioan Baotixita được Chúa huấn luyện một cách đặc biệt nhiều năm trong hoang địa, để tinh thần được vững mạnh trong cầu nguyện và chay tịnh, có sức mở ra một kỷ nguyên đổi mới đạo đức (Lc 1,80). 6. Thánh Gioan Baotixita được sai vào một giai đoạn lịch sử đặc biệt cả về mặt đạo lẫn mặt đời (Lc 3,1-2). 7. Thánh Gioan Baotixita được trao sứ mạng rao giảng một nội dung đặc biệt. Nội dung đặc biệt đó là sám hối và hy vọng (Lc 3,3-6). Sám hối và hy vọng là cách tốt nhất để dọn đường cho Chúa đến. Trong bảy điều đặc biệt vừa nêu trên, tôi để ý nhiều hơn đến điều đặc biệt thứ bảy. Bởi vì xem ra sáu điều đặc biệt trên là để chuẩn bị cho điều đặc biệt thứ bảy. Thực vậy, đào tạo một người để có khả năng vận chuyển ơn sám hối và hy vọng vào các tâm hồn, hầu dọn đường cho Chúa, là cả một công trình lớn lao như thế đó. Cũng từ đó nảy sinh trong tôi rất nhiều ưu tư về việc đào tạo, huấn luyện những người dọn đường cho Chúa thời nay và tại đây. Bởi vì sám hối và hy vọng cũng đang là một vấn đề thời sự có tầm quan trọng rất rộng, rất sâu, rất lớn. Thời sự cho thấy, cá nhân nào, gia đình nào, xã hội nào, nếu mất ý thức về tội, coi thường sám hối và sai lầm hy vọng, thì sẽ dần dần đi tới diệt vong. Tôn giáo nào, tín ngưỡng nào biết dạy tránh xa tội lỗi, biết dạy những hậu quả nặng nề dành cho kẻ phạm tội không chịu sám hối, biết đặt hy vọng vào đúng chỗ, thì tôn giáo đó, tín ngưỡng đó sẽ góp phần rất lớn trong việc dựng nước và giữ nước, và sẽ chứng minh được những giá trị thiêng liêng bền vững của mình. Ở Fatima, Đức Mẹ đã khẩn thiết gởi cho các con Mẹ sứ điệp sám hối và hy vọng. Đó là một dấu chỉ cho thấy: Nhân loại hôm nay tại nhiều nơi đang sa lầy trong tội lỗi, đi lệch hướng hy vọng. Phải sám hối thực và hy vọng đúng, để đón nhận ơn Chúa cứu độ. Nếu không, sẽ có bùng nổ những khủng hoảng đưa tới sợ hãi, thất vọng, hạnh phúc trống rỗng, ổn định mong manh. Vì thế, tôi ước muốn mọi người chúng ta hãy quan tâm hơn đến việc đánh thức lương tâm chính mình và mọi người thuộc về mình để nhớ sám hối thực và hy vọng đúng. Đặc biệt, tôi xin các linh mục hãy là những Gioan Baotixita rao giảng sự sám hối và hy vọng cho thời đại và địa phương mình đang phục vụ. Nhất là chính mình hãy nêu gương sám hối và hy vọng, như ý Đức Mẹ Fatima chỉ dạy: Sám hối chân thành đi kèm với hy vọng tuyệt đối nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Tại địa phương An Giang thân yêu này, bầu khí tôn giáo bao trùm khắp nơi. Các tôn giáo bạn coi việc sám hối và hy vọng là những sinh hoạt căn bản của chiều sâu đời sống nội tâm, và cũng là đặc điểm của đời sống văn hoá địa phương. Với những ý thức như trên, chúng ta cầu nguyện cho các người tin Chúa, nhất là các linh mục phục vụ tại địa phương này, biết chọn một hướng sống đạo, đề cao sám hối và hy vọng. Thiết tưởng đó là cách đáp ứng lời gọi của văn hoá địa phương này, của thánh Gioan Baotixita, của Đức Mẹ Fatima, của Tin Mừng cứu độ. Nhìn qua tình hình hiện nay, tôi thấy linh mục dọn đường cho Chúa bằng mọi hình thức của mục vụ sám hối và hy vọng, sẽ là một hình ảnh kỷ niệm đầy ý nghĩa cho bốn tân chức tất cả đều gốc An Giang được thụ phong linh mục trong lễ thánh Gioan Baotixita hôm nay. Được yêu thương một cách đặc biệt, các tân chức hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần, để, theo gương thánh Gioan Baotixita, vừa biết trung thành với cách sống đạo truyền thống, mà cũng vừa biết đổi mới, khi cần. Vừa biết trung thành với Phúc Âm, mà cũng vừa biết thao thức đồng cảm đồng hành với dân tộc, với địa phương trong những giá trị thiêng liêng cao quí, như sám hối và hy vọng, có khả năng dẫn chúng ta tới hạnh phúc vô biên bền vững đời đời.
Như chúng ta đã biết, sám hối là một việc rất quan trọng. Nó cần thiết để đổi mới con người, Hội thánh và xã hội. Nó là đề tài đầu tiên, mà Chúa Giêsu đã giảng. Nó là điều mà Chúa Cứu thế hay nhắc đi nhắc lại, để chuẩn bị lòng người đón nhận ơn cứu độ. Nó là lời nhắn nhủ tha thiết mà Ðức Mẹ gởi cho mọi người, mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra. Sám hối là màu tím phụng vụ của Mùa Chay, qua các bài sách thánh, qua các lời kinh, qua các lời khuyên, qua phụng vụ sám hối, qua bí tích hoà giải, qua bí tích Thánh thể, qua mầu nhiệm Thánh giá. Ðể giúp nhau sống tích cực hơn tinh thần sám hối trong Mùa Chay này, tôi xin chia sẻ ở đây những gì tôi cho là cần sám hối hơn trong hoàn cảnh hiện nay. Ðiều thứ nhất tôi thấy cần sám hối, đó là sự chúng ta chưa khiêm tốn đủ và chưa chân thành đủ trong việc nhận biết mình tội lỗi. Ta làm làm việc sám hối hầu như mọi ngày, nhất là qua việc đọc kinh Cáo mình. Nhưng việc ấy bao lần đã được thực hiện một cách máy móc, hời hợt. Nhiều khi ta đấm ngực nhưng không ăn năn, miệng ta nói lỗi tại tôi, nhưng lòng ta nghĩ lỗi tại kẻ khác, lỗi tại họ mọi đàng. Sự không khiêm tốn không chân thành đủ nhìn nhận mình tội lỗi là một cản trở ơn cứu độ, nhất là khi sự không nhìn nhận đó lại do tính tự phụ gây nên. Phúc Âm cho thấy lời giảng sám hối của Chúa đã được một loại người đón nhận tương đối dễ dàng, nhưng đã bị một loại người quyết liệt từ khước. Loại người thứ nhất gồm dân thường, dân ngoại, dân tội lỗi như người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp. Loại người thứ hai gồm giai cấp lãnh đạo tôn giáo và giới gọi là đạo đức và trí thức đạo, như các thầy cả, các luật sĩ, các người biệt phái. Giữa hai loại người này vốn có một khoảng cách căng thẳng do não trạng tôn giáo từ xưa gây nên. Căng thẳng đó là loại người thứ nhất bị coi như những kẻ lỗi lầm phải luôn luôn bị kiểm điểm trước lề luật, còn loại người thứ hai được coi như kẻ mang hào quang lúc nào cũng có quyền đưa luật ra để kiểm điểm loại người thứ nhất. Chúa Giêsu không xoá bỏ khoảng cách giữa hai loại người ấy. Nhưng Ngài làm cho khoảng cách ấy mang một ý nghĩa khác. Ðó là Ngài cho thấy loại người thứ nhất dễ sám hối hơn, nhờ vậy họ dễ được ơn cứu độ. Còn loại người thứ hai rất khó sám hối, nên họ khó đón nhận được ơn cứu độ. Chúa Giêsu không giấu giếm nhận xét đó. Ngài nói: “Các luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Maisen, vậy những gì họ nói với các ngươi, thì hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không giữ” (Mt 23,1-3). Chúa Giêsu cũng nói với các thượng tế và các kỳ lão rằng: “Tôi bảo thật các ông, nước Thiên Chúa cất khỏi các ông, để trao cho dân tộc khác trổ sinh hoa trái” (Mt 21,43). Ðoạn 23 Phúc Aâm thánh Mátthêu là cả một chuỗi dài liên tiếp “Khốn cho các người, hỡi các Pharisiêu và luật sĩ”. Nguyên do sâu sa khiến loại người thứ hai khước từ sám hối, chính là tính kiêu căng tự mãn của họ. Chẳng hạn họ tự phụ cho mình là không tội lỗi như kẻ khác. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa, vì tôi không giống các kẻ khác: không trộm cướp, không dâm đãng như họ..." (Lc 18,11). Họ tự phụ vì họ xa tránh các người tội lỗi, nên họ hạch hỏi các môn đệ Chúa rằng: “Tại sao các ông lại ăn uống với những người thu thuế và các kẻ xấu nết?” (Lc 5, 30 ). Họ tự phụ, đến nỗi coi ai cũng là kẻ có tội cả, chỉ họ là đạo đức. Trong Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 9, ta thấy họ kết án người mù được khỏi là kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu chữa người mù ấy ngày thứ bảy cũng bị họ kết án là kẻ tội lỗi. Bất cứ ai bênh người mù đó và Chúa Giêsu cũng đều bị họ coi là kẻ tội lỗi. Trái lại, thái độ khiêm tốn của người thu thuế cầu nguyện cuối nhà thờ, của người phụ nữ ngoại tình ngồi khóc dưới chân Chúa, của người trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa chính là một thái độ sám hối ăn năn, đón nhận ơn Chúa cứu độ. Ở đây, tôi nghĩ tới một thái độ khiêm tốn rút ra từ vài bản tin thời sự tôn giáo mới nhất. Tại Thượng-hội-đồng các Giám mục Âu-Châu cuối năm vừa qua (28/11-14/12/1991) nhiều vị Hồng y và Giám mục đã không ngần ngại nhìn nhận suy thoái của đạo Công giáo tại địa phương mình. Ðức Hồng y Camillo Ruini phát biểu: “Chúng tôi đã quá lạc quan sau khi chế độ Cộng Sản bị sụp đổ ở Ðông âu. Bởi vì các khoảng trống do Cộng Sản để lại đã rất có thể bị chiếm đóng bởi làn sóng vô thần thực tiễn của xã hội hưởng thụ Tây âu”. Theo báo Actualité religieuse dans le monde (No-96 Janvier 1992), các Giám mục Ðông âu đã rất đồng ý với nhận xét trên, và cho biết: tình trạng đạo đức sốt sắng trong thời khó khăn dưới chế độ Cộng Sản nay đã giảm sút nhiều, khi tín hữu bước vào thể chế tự do hưởng thụ. Nhiều vị đại diện Châu âu còn quả quyết rằng: Thực tế tôn giáo tại địa phương các ngài đang bị lôi kéo tới trào lưu cá nhân chủ nghĩa, trào lưu lạc thú, và trào lưu trống rỗng nội tâm, chứ không được lôi kéo về các giá trị Thiên-Chúa-giáo, như một số người đã giả thuyết một cách lạc quan. Còn Ðức Cha Hirka, Giám mục Presov, Tiệp Khắc thì nói thẳng thừng: “Thực sự Châu âu đang bị đặt dưới quyền thống trị chuyên chính dân chủ của đôla”. Tại Hội đồng Giám mục Pháp (24-30/10/1991) Ðức Tổng Giám mục Duval đã phát biểu: “Cái trào lưu được gọi là trở về với tôn giáo thực sự không luôn luôn đi vào con đường chân lý. Bởi chỉ có nghĩa là đi tới một thứ siêu thị các tín ngưỡng xô bồ, và các loại thần tượng giả dối”. Các loại thần tượng đó là gì? Theo Ðức Hồng y Lustiger các thần tượng đó chính là các thần ngoại giáo xa xưa, như thần dâm dục, thần rượu, thần sức mạnh, thần quyền bính, thần tài. Những phát biểu như trên do các vị đại diện tôn giáo nói lên một cách công khai đã không mang một chút tự mãn nào cả. Chính sự nhìn nhận khiêm tốn về tình trạng không đạo đức của địa phương mình lại là một việc đạo đức Phúc Âm, dẫn vào sự sám hối. Còn ta? Nếu ta cho rằng ta đã khiêm tốn trong việc nhìn nhận mình tội lỗi, thì đó chính là điều ta cần phải sám hối. Vì đó là điều tự mãn rõ ràng không thể chấp nhận được. Ðiều thứ hai tôi thấy cần sám hối, đó là sự chúng ta chưa tích cực đủ trong việc thực thi giới luật yêu thương của Chúa. Trong Mùa Chay, các bài sách thánh hay nói đến giới luật yêu thương. Thí dụ việc ăn chay mà Chúa muốn là hãy bỏ thói sống bất công, khinh khi và ích kỷ đối với kẻ khác (x. Is 58,9-9). Việc tế lễ mà Chúa muốn là hãy làm hoà với kẻ bất hoà với ta (x. Mt 5,20-26). Ơn tha thứ Chúa sẽ ban cho ta còn tuỳ thuộc vào sự ta tha thứ cho kẻ khác (x. Lc 6,36-38). Việc thánh thiện mà Chúa muốn ta thực hiện là hãy làm ơn cho những ai khinh ghét chúng ta (x. Mt 5,43-48). Việc đạo đức đơn sơ nhất Chúa đòi hỏi nơi ta là sự gì ta muốn người khác làm cho ta, thì ta hãy làm sự đó cho kẻ khác (x. Mt 7,7-12). Việc bác ái mà Chúa đòi hỏi, không phải chỉ là tránh làm điều ác cho kẻ khác, mà còn phải tích cực giúp đỡ những ai trong cảnh khốn cùng (x. Lc 16,19-31). Việc Chúa sẽ làm ngày phán xét, để phân loại kẻ tốt người xấu, sẽ là việc tập trung vào giới luật yêu thương (x. Mt 25,31-46). Chỉ nghe qua mấy chỉ dẫn trên, ta cũng đủ nhận ra ta còn rất xa những gì Chúa dạy. Nếu ai thấy mình không cần ăn năn sám hối về mặt đó, thì thiết tưởng đó là dấu chính mình đã bị kết án. Dù họ có làm bao nhiêu việc lẫy lừng, và dù có đức tin quả cảm tới mức nào, nếu họ không để ý sống Ðức ái, họ vẫn là kẻ bị kết án xa Chúa Tình Yêu. Kẻ kết án họ là chính họ. Nói tới một đức tin quả cảm mà thiếu bác ái, tôi nhớ tới một loạt bài trên tờ “Le Nouvel Observateur” (5-10/X/l989) dưới tựa đề: Cuồng tín là mối đe doạ tôn giáo. Các tác giả viết đại khái thế này: Thế giới đang đi vào thế kỷ 21 là thế kỷ phát triển tôn giáo. Nhưng khi tôn giáo phát triển mà lại cuồng tín, ưa rao giảng sự loại trừ nhau, thì thế kỷ 21 theo Malraux dự đoán, sẽ là thời vàng son của sự hận thù. Các xung đột đã qua do ý thức hệ, cho dù có gây chết chóc tới đâu, cũng sẽ còn kém phần thảm khốc hãi hùng, nếu so với các cuộc chiến giữa các tôn giáo. Khi đọc loạt bài trên đây, tôi nghĩ tới các cuộc chiến đang diễn ra hiện nay mang màu sắc tộc và tôn giáo. Tại Libăng cuộc chiến giữa Palestine và Israel. Tại Nam tư cuộc chiến giữa Croatia và Serbia. Tại Bắc Ái Nhĩ Lan, cuộc chiến giữa Bắc và Nam, tuy đây chỉ là những cuộc chiến có qui mô nhỏ, nhưng sự nghi kỵ, chia rẽ trong lòng người xem ra có qui mô lớn trên khắp hoàn cầu. Giữa khối Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo. Giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo, giữa Tin Lành Giáo và Công Giáo. Thực là đáng buồn: Nghi kỵ do động lực đức tin Tôn Giáo! Chia rẽ nhân danh đức tin tôn giáo. Những chuyện đáng buồn như thế có xảy ra trong giáo đoàn chúng ta? Biết đâu nó đã và đang phát triển ngay trong chính bản thân ta với những hình thức tế nhị, nhưng không kém phần phản chứng. Ở đây tôi nhớ tới nội dung cuốn: “Giatô thực dân sử liệu”, tập I, 372 trang, xuất bản tại Hoa Kỳ. Theo tôi, những văn phẩm loại này sẽ là những thử thách cho các người Công Giáo Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước. Nếu không khéo trong phản ứng, không ít người Công giáo Việt Nam sẽ vô tình góp phần vào việc tạo ra thời vàng son của sự thù hận, như Malraux đã tiên đoán. Tôi biết rằng đa số người công giáo Việt Nam vốn tỉnh táo và quảng đại, cương quyết đi theo con đường giới luật yêu thương, mà Chúa Kitô đã đi, dù phải chấp nhận thua thiệt bề ngoài. Tuy nhiên đó đây vẫn có nhiều hiện tượng báo động về một khuynh hướng sống đạo đi trệch con đường yêu thương Phúc Âm. Những cơn cám dỗ ngọt ngào về quyền lực, mà Satan xưa đã dùng để lôi kéo Chúa Giêsu trong sa mạc, nay đang được Satan vận dụng tối đa dưới nhiều hình thức tế nhị, để lôi kéo các người tin Chúa bước ra ngoài bản chất Phúc Âm. Hình thức hấp dẫn nhất thường là đề cao quyền lực Hội Thánh, đề cao tự do con người, để rồi từ đó sẽ đạo đức hoá các phương tiện dẫn tới các mục tiêu ấy, cho dù phương tiện sẽ là sự ghen ghét hận thù. Riêng tôi, để cứu rỗi mình và cứu rỗi các linh hồn, tôi không bao giờ chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường giới luật yêu thương, mà Ðức Kitô đã trối lại, và đã đóng ấn bằng máu của Người trong cuộc tử nạn tự nguyện đầy đớn đau nhục nhã. Chính vì vậy, mà tôi thấy chúng ta cần để ý hơn đến việc xây dựng tinh thần yêu thương theo lời Chúa dạy. Và một việc không thể thiếu trong việc xây dựng trường kỳ này, chính là việc ăn năn sám hối hàng ngày về các lỗi lầm trong lãnh vực thương yêu. *** Tối thứ hai vừa qua (24/II/1992), lúc 18h30, đài BBC, trong mục "Chuyện chúng mình” đã giới thiệu việc làm từ thiện bác ái của người cháu gái nhà hoạ sĩ lừng danh Picassô. Bà đã sang Việt Nam, xin phép Nhà nước, để xây dựng tại Gò Vấp một cơ sở nuôi dưỡng giáo dục và huấn nghệ cho các trẻ mồ côi. Cơ sở đã xong, có sức nhận hơn 200 trẻ. Các em được chăm sóc tốt trong môi trường tốt. Mới rồi, bà lại xin được mở rộng thêm cơ sở, để nhận thêm 150 em mồ côi nữa. Chính bà đã xin đưa về Pháp 2 em mồ côi Việt Nam, mà bà nhận vào gia đình bà. Tất cả mọi tiền bạc xây dựng, nuôi dưỡng, giáo dục đổ vào chương trình chăm sóc trẻ mồ côi trên đây đều do bà bỏ ra. Cũng tối thứ hai vừa qua (24/II/1992) đài truyền hình Việt Nam, trong chương trình thời sự, đã phát đi cảnh lễ hội Chùa Hương, với những hình ảnh đẹp kết hợp hài hoà tình tôn giáo, tình người, tình dân tộc, tình thiên nhiên. Khi theo dõi những bản tin thời sự trên đây, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn gợi ý cho tôi điều này, đó là Tin Mừng về giới luật yêu thương Phúc Âm, mà Hội Thánh rao giảng, nên được cụ thể hoá bằng các việc làm tốt đẹp có khả năng thuyết phục con người hôm nay. Vì thế, tôi nghĩ rằng: Sự sám hối của chúng ta, khi nhắm đến mục đích đổi mới tâm hồn, sẽ không chỉ dừng lại ở việc ăn năn tội và đi xưng tội, mà còn cần kèm theo một số việc làm bác ái hướng về những người nghèo khổ và xây dựng cuộc sống hài hoà ở ngay nơi mình đang sống. Nói tóm lại, sự sám hối mà tôi gợi ý trong Mùa Chay này, là: thanh luyện tâm hồn ta để nên khiêm tốn hơn, thanh luyện tâm hồn ta để nên nhân ái hơn. Thanh luyện bằng sự suy gẫm Lời Chúa, ăn năn trong lòng và lãnh nhận bí tích Hoà giải. Thêm vào đó còn cần thanh luyện bằng các việc làm cụ thể hướng tới việc chia sẻ với các người nghèo khổ, và xây dựng một tinh thần hài hoà bằng một cuộc sống hài hoà, cho dù hoàn cảnh chưa thực sự hài hoà. Ðể làm chứng rằng Tin Mừng Tám-Mối Phúc là có thực đối với những ai tin theo Ðức Kitô. Long Xuyên, tháng 3/1992
Thánh lễ chiều nay tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên vẫn theo Phụng vụ chung. Đó là mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Ngoài ý chung đó, chúng ta còn thêm bốn ý riêng này: Một là mừng kỷ niệm 69 năm thụ phong linh mục của Đức Cha Già Micae, vị Giám Mục tiên khởi của giáo phận Long Xuyên. Hai là mừng kỷ niệm thụ phong giám mục của Đức Cha Trần Xuân Tiếu và Đức Cha Ngô Quang Kiệt. Hai vị này đều thuộc giáo sĩ đoàn của giáo phận Long Xuyên. Các ngài được chọn và được sai đi với trọng trách nặng nề. Ba là mừng bổn mạng Cha Phaolô Lê Thành Đạo, cha Sở nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Bốn là hiệp thông nâng đỡ sáu tân Linh mục Long Xuyên vừa mới được chịu chức đang đồng tế, và sẽ được sai đi. Nhìn chung cộng đoàn, tôi nhận thấy một bầu khí thiêng liêng sốt sắng, cảm động và hiệp nhất trong nghĩa tình giáo xứ và giáo phận. Được cảm nghiệm tâm tình chung này, tôi xin phép chia sẻ ý chỉ riêng của tôi trong thánh lễ này. Ý chỉ riêng này sẽ vừa phù hợp với Phúc Âm và cũng vừa phù hợp với sứ vụ của tất cả những người được Chúa sai đi. Ý chỉ riêng của tôi là: Cầu cho các người được chọn và sai đi được ơn luôn thi hành thánh ý Chúa một cách trọn vẹn. Tôi coi ý chỉ này là rất quan trọng trong cuộc đời kẻ được sai đi. Thực vậy, các người được sai đi đều ý thức mình được Bề trên sai mình đi. Nhưng trong Bề trên có Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là Đấng sai đi. Người phán: “Như Chúa Cha sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai các con như vậy” (Ga 20,21). Vậy, Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đi, để làm gì? Chính Chúa Giêsu trả lời: “Thầy từ trời xuống, không phải để làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy. Mà ý Đấng đã sai Thầy là tất cả những kẻ Người ban cho Thầy, Thầy sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại ngày sau hết” (Ga 6,38-39). Như thế, ý Chúa Cha là muốn Chúa Giêsu cũng như mọi kẻ Chúa Giêsu sai đi phải cộng tác vào công trình cứu độ. Chương trình cứu độ của Chúa là thế nào? Thưa là cả một kế hoạch dài, gồm nhiều giai đoạn. Có thể sẽ có những khác nhau về chi tiết, từng nơi, từng thời, từng người. Nhưng cốt lõi vẫn là một. Đó là tin vào Đức Giêsu Kitô. Từ niềm tin đó, phải tuân giữ lời Chúa Giêsu (Ga 14,23) nhất là phải kết hợp mật thiết với Người, như lời Người đã phán: “Thầy là cây nho, các con là ngành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Cùng với việc liên kết mật thiết với Chúa Giêsu, là việc yêu thương mọi người một cách chân thành vị tha. “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Kinh nghiệm cho phép tôi nói lên sự thật này, là các môn đệ Chúa luôn bị cám dỗ, và thường bị cám dỗ không giống những người khác. Ma quỉ cám dỗ các ngài như đã cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc. Nghĩa là chúng không cám dỗ phạm tội này tội nọ một cách thô lỗ. Nhưng chúng cám dỗ các ngài làm những việc có vẻ đạo đức, nói là để làm sáng danh đạo, nhưng thực ra, các việc đó không phải là thánh ý Chúa. Để làm sáng danh đạo theo đúng thánh ý Chúa, những người được sai đi luôn phải lắng nghe ý Chúa, luôn phải qui chiếu về Lời Chúa. Đặc biệt là điều răn yêu thương: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy: là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Sở dĩ tôi nhắc tới Lời Chúa trên đây, là để chúng ta cầu nguyện cho nhau được biết làm chứng cho Chúa bằng bác ái yêu thương, như chính Chúa đã dạy. Bởi vì, hiện nay, bác ái yêu thương đang là một khát vọng cứu độ, một dấu chỉ của Tin Mừng. Nhưng xem ra trên thực tế nhiều người lại không vun trồng, không chăm sóc bác ái từ nguồn mạch tình yêu thương xót trái tim Chúa Giêsu. Với những chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi xin anh chị em sốt sắng cầu cho những vị được sai đi, mà chúng ta hôm nay đang nhớ tới một cách thân thương. Xin cho các ngài được luôn thực thi ý Chúa, nhất là làm mục vụ truyền giáo bằng trái tim yêu thương, đến hy sinh quên mình, như hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Thánh ý Chúa có thể sẽ không cho các ngài và chúng ta nhìn thấy thành công rực rỡ, mà lại là thánh giá. Nhưng thánh giá Chúa Giêsu, thánh giá các tông đồ, thánh giá của các người được sai đi sẽ có giá trị cứu độ. Bởi vì các thánh giá ấy đi kèm với tình yêu dâng hiến, như thánh lễ cứu độ, đem lại Tin Mừng cho nhiều người và cho Quê Hương Đất Nước Việt Nam.
Tôi được lãnh nhận chức Linh mục ngày 02-7-1955. Như vậy, đến đầu tháng 7 này, tôi sẽ được 48 tuổi Linh mục, trong đó có 28 năm mang thêm sứ vụ Giám mục. Đối với tôi, 48 năm linh mục là thời gian khá dài. Nhìn lại, tôi thấy bằng ấy năm vẫn là lãnh nhận. Ngày chịu chức, tôi được hạnh phúc lãnh nhận Chúa Thánh Thần theo nghi thức. Rồi, từ ngày đó, suốt 48 năm cho đến hôm nay, tôi vẫn tiếp tục được diễm phúc lãnh nhận các ơn Chúa Thánh Thần cần cho chức vụ. Tôi lãnh nhận hằng ngày, bằng cầu nguyện, chiêm niệm, qua Hội Thánh và nhiều cách, mà Chúa dẫn đưa. Tôi xin nói ngay lý do mạnh nhất khiến tôi coi việc lãnh nhận Chúa Thánh Thần là rất cần thiết cho tôi. Lý do đó là vì tôi khát Chúa. Động lực khát khao Chúa Thánh Thần. Ở đây, tôi nhớ lại những lời thánh tông đồ Gioan đã viết: “Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất, Đức Giêsu đứng trong đền thờ và lớn tiếng nói rằng: “Ai khát, hãy đến với Thầy, Ai tin vào Thầy, hãy đến mà uống”. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống. Đức Giêsu muốn nói về Chúa Thánh Thần mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7,37-39). Tôi khát và tôi tin, nên tôi đến. Hơn nữa, tôi khát, tôi tin, và còn muốn chia sẻ niềm tin của tôi cho mọi người. Vì thế, tôi càng khao khát được đến với Chúa Giêsu, để lãnh nhận Nước hằng sống là Thánh Thần của Người. Càng đi sâu vào con đường theo Chúa Giêsu, để làm môn đệ Người, và để nhân danh Người loan báo Tin Mừng, tôi càng thấy một đào tạo chuyên môn là hết sức cần. Đào tạo ở trường học, ở trường đời, nhưng nhất là ở trường Chúa Thánh Linh. Người loan báo Tin Mừng, nếu có đức tin mạnh, đức cậy vững, đức mến nồng nàn, tuy đã là tốt, nhưng sẽ còn quá thiếu để ra khơi. Họ cần có thêm các ơn Chúa Thánh Thần. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút kinh nghiệm. Đôi chút kinh nghiệm. Đôi khi, tôi tưởng ơn kính sợ Chúa là không mấy cần thiết trong đời truyền giáo. Nhưng càng ngày, tôi càng thấy ơn đó lại rất cần cho tôi. Khi tôi biết kính sợ những việc thánh, chức vụ thánh, khi tôi biết sợ mình còn quá yếu đuối dễ phạm tội, lúc gặp dịp, tôi sẽ khiêm tốn nhờ Chúa trút bỏ cái tôi xấu xa của tôi, để Chúa Phúc Âm hoá toàn thể con người tôi, tới tận đáy lòng tôi, trước khi tôi nói đến việc Phúc Âm hoá người khác. Khi tôi biết sợ mình còn quá xa lý tưởng từ bỏ mình, trên đường theo Chúa, Đấng đã phán: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có nơi gối đầu” (Mt 8,20), tôi mới khiêm tốn cầu nguyện và tập luyện. Khi tôi biết sợ mình còn quá non yếu về trí thức, tôi mới ra sức học hành bất cứ ở tuổi nào và ở cương vị nào. Tự mãn là một tật rất xấu rất nghịch với việc loan báo Tin Mừng. Trái lại khó nghèo và khiêm tốn nội tâm là vẻ đẹp khởi đầu, mở cửa tâm hồn cho Chúa đi vào và ở lại đó. Chúa ở lại đó, Người không đưa ta ra khỏi thế gian, nhưng sẽ giữ ta khỏi ác thần (Ga 17,15). Đó sẽ là một ơn rất cần cho người ra đi làm chứng cho Chúa. Ơn đó sẽ được ban cho những ai khiêm tốn cầu xin Chúa Thánh Thần. Một ơn nữa, của Chúa Thánh Thần mà kinh nghiệm truyền giáo dạy tôi là rất cần cho người loan báo Tin Mừng, đó là ơn thông hiểu. Với ơn thông hiểu, chúng ta có thể nhận ra những vẻ đẹp của Chúa rải rắc khắp nơi, trong thiên nhiên, nơi các người ta gặp, ở các nền văn minh ta tiếp xúc. Với ơn thông hiểu, chúng ta có thể nhận ra khoảng cách lớn lao giữa những hạnh phúc trần gian và hạnh phúc thiên đàng. Với ơn thông hiểu, chúng ta cũng có thể phân định được đâu là thánh ý Chúa và những dấu chỉ của thời đại, để nhờ đó ta biết chọn cho mục vụ và truyền giáo một hướng đi thích hợp. Ơn thông hiểu cũng sẽ được ban cho những ai khiêm tốn cầu xin Chúa Thánh Thần. Một ơn nữa của Chúa Thánh Thần rất cần cho người loan báo Tin Mừng, đó là ơn khôn ngoan. Tôi xin đưa ra một trường hợp để gợi ý về sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, khi phải đối phó với những người muốn cài bẫy Người. Trường hợp đó là khi phe chống đối hỏi Chúa Giêsu “Có phải nộp thuế cho vua Xê-da không?”. Nếu Ngài thưa không, thì Ngài sẽ bị buộc tội là phản loạn chống lại nhà vua. Nếu Ngài thưa có, thì Ngài sẽ bị cắt nghĩa là phản bội ơn gọi cứu độ của dân Thiên Chúa. Đức Kitô khôn ngoan trả lời: “Sự gì của Xê-da, thì hãy trả cho Xê-da. Sự gì của Thiên Chúa, thì hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Làm kinh tế thời nay, tại đây, là phải biết quan sát, so sánh, bàn bạc, suy tính và biết chọn lựa. Những việc đó, một người khôn ngoan bình thường vẫn có thể làm. Nhưng làm mục vụ và truyền giáo, thì ngoài những việc như thế, còn cần có ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Bởi vì, rất nhiều khi, chúng ta sẽ loan báo về “những điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2,9). Hơn nhữa, khi người loan báo Tin Mừng phải rao giảng sự khôn ngoan của thánh giá, của bí tích Thánh Thể, là những vấn đề quá sức hiểu biết của trí khôn loài người, thì ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần sẽ mở lòng trí kẻ nói người nghe, để họ gặp gỡ được một cách nào đó “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ngay lúc này, với tình trạng yếu đau, tôi rất cần ơn khôn ngoan, để biết phục vụ Hội Thánh theo thánh ý Chúa. Không thể như trước kia, nhưng vẫn cố gắng bằng những việc bé nhỏ theo khả năng hạn chế của mình. Ơn khôn ngoan cũng sẽ được ban cho những ai khiêm tốn cầu xin Chúa Thánh Thần. Một xác tín sống động. Để kết, tôi xin nói tắt một ý là: Suốt đời, nhất là suốt đời linh mục, tôi đã sống và hoạt động nhờ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Người ban cho tôi thứ ánh sáng riêng của Người và thứ lửa riêng của Người để tôi trở thành dụng cụ của Người . Điều tôi rất hối hận là nhiều khi tôi không đón nhận và không dùng nên tất cả các ơn Người ban. Tôi là một dụng cụ rất mong manh, chỉ biết phó thác mình trọn vẹn cho Chúa. Chúa đã cho tôi những kho tàng quí báu. Nhưng theo thánh Phaolô nói: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cor 4,7). Khi bình sành là dụng cụ lỡ lầm, thì Chúa cho ơn sám hối và hy vọng. Thành ra, suốt con đường tôi đã đi là một chuỗi dài những lãnh nhận, để tôi không thể tự hào, mà chỉ biết tạ ơn. Tôi tạ ơn Chúa, cảm ơn Quê Hương và mọi ânnhân. Còn sống ngày nào, tôi sẽ tiếp tục phấn đấu, hầu có thể đền đáp phần nào ơn Đấng đã gọi, đã chọn, đã sai đi, đã luôn xót thương tha thứ, và không ngừng đào tạo kẻ Người thương muốn. Phải chăng đó cũng là một chứng từ sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với những gì tôi đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, tôi có thể quả quyết rằng: Không những tôi tin, tôi xác tín, mà tôi còn cảm nghiệm một cách sống động sức mạnh của lời Chúa Giêsu đã hứa xưa: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Bệnh ung thư của linh mục Phanxicô Đoàn Thái Đức đã gây cho tôi một bất ngờ đau đớn. Cái chết quá mau của Ngài lại thêm vào bất ngờ đau đớn đó một nỗi xót thương chìm sâu trong nhung nhớ sâu xa. Cha Phanxicô là con người hoạt động không mệt mỏi. Hoạt động do tính tình thì ít, mà do động lực nội tâm thì nhiều. Chính nội tâm của Ngài đã hướng Ngài về một lý tưởng cao cả. Đó là đi theo Đức Kitô, cộng tác vào công việc cứu độ. Công việc cứu độ là một chương trình dài, trong đó có việc xây dựng đoàn kết cộng đoàn. Cha Phanxicô đã được gọi dấn thân cách riêng cho việc xây dựng đoàn kết cộng đoàn, vừa đạo vừa đời. Trong việc góp phần xây dựng đoàn kết cộng đoàn, Cha Phanxicô đã không ngừng thực thi hai lời dạy của Chúa Giêsu: Một là yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Hai là phục vụ nhau bằng các việc khiêm tốn, như gương Chúa đã rửa chân cho các môn đệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm việc Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,14-15). Khi cố gắng xây dựng đoàn kết bằng thực thi hai lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu, Cha Đoàn Thái Đức đã ưu tiên xây dựng đoàn kết bằng đạo đức. Một thứ đạo đức vừa tự nhiên và cũng vừa siêu nhiên. Đạo đức là những hạt giống cần được gieo trồng, vun tưới, chăm sóc với tất cả lương tâm trách nhiệm và tế nhị. Tôi đã thấy Cha Đức gieo trồng, vun tưới, chăm sóc những hạt giống yêu thương và phục vụ một cách nhiệt tình với lương tâm trách nhiệm. Trong các bài giảng, trong các bài báo, trong các tiếp xúc, trong các hoạt động tôn giáo và xã hội. Đức là tên gọi của Cha, Đức là hoạt động của Cha, Đức là khát vọng của Cha, khi nỗ lực xây dựng đoàn kết trong tôn giáo và trong xã hội. Ngài phấn đấu vượt qua mọi cái gì là tư lợi, chỉ tìm công ích theo thánh ý Chúa mà thôi. Tôi có cảm tưởng là Cha đã sống cho lý tưởng đạo đức, và Cha cũng đã được chết trong bầu khí đạo đức. Có một bầu khí đạo đức đã nâng đỡ Cha khi Cha còn sống, và nhất là trong thời gian Cha lâm trọng bệnh, sửa soạn lìa trần. Trong bầu khí đạo đức đó, có tình nghĩa chân thành và thân thiết của các anh chị em, không phân biệt đạo đời và tín ngưỡng. Sự kiện này cho phép tôi nghĩ rằng: Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu hiệp nhất, Người vẫn hoạt động trong lịch sử, Người đang làm cho lịch sử nên mới dần dần, bằng cách đổi mới từ từ các con người sống trong lịch sử. Điều quan trọng là chúng ta phải biết sống vâng phục ý Chúa, đi theo chương trình của Chúa. Chúa không cất ung thư ra khỏi Cha, để Cha biết nêu gương chịu đựng và phó thác. Chúa không cất mọi đau đớn ra khỏi Cha, để Cha biết góp phần đau đớn của mình vào những đau đớn có giá trị cứu độ của Đấng Cứu thế. Chúa không cho Cha sống lâu, để Cha và mọi người nhận thức được lịch sử luôn do một Đấng thiêng liêng điều khiển trong một chương trình siêu nhiên. Với nhận thức như trên, giờ đây, tiễn biệt Cha Phanxicô Đoàn Thái Đức về nơi an nghỉ cuối cùng, tôi tin sẽ lại gặp Ngài bên kia cõi đời này. Trong khi chờ đợi giờ phút gặp lại đó, chúng ta vẫn cùng nhau tiếp tục công việc xây dựng đoàn kết yêu thương, theo tinh thần của Tin Mừng cứu độ, trong sự nhẫn nhục với hiện thực lẫn lộn bóng tối và ánh sáng. Chúng ta xây dựng trong sự đồng cảm, đồng hành với mọi thiện chí đang phấn đấu cho công ích dẫn đưa tới hạnh phúc đời đời của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giờ đây, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho Cha Phanxicô. Và cũng xin Cha Phanxicô cầu nguyện cho chúng ta.
Khi càng cảm thấy mình xuống sức, tôi càng thấy mình được dẫn vào một con đường sống chưa quen. Chưa quen, không muốn quen, nhưng bắt buộc phải quen, thế rồi cũng dần dần quen. Bây giờ tôi thấy: Con đường không quen ấy có những cái đẹp, như cảnh biển chưa từng thấy, như những thân thiết chưa từng hưởng. Phải nói ngay là chính nhờ đức tin. Đức tin giúp tôi có những chấp nhận mới và những thực hiện mới. Những chấp nhận mới. Tuổi càng cao, sức càng yếu, bệnh càng kéo dài, đau đớn càng tăng, đó là những yếu tố làm nên một tình trạng đi xuống của cuộc đời. Trong tình trạng như thế, tôi cảm thấy rất rõ những giới hạn, mà trước đây mình chỉ biết bằng lý thuyết. Có đủ thư giới hạn. Trước hết là những giới hạn về thể xác. Thí dụ chân đi không còn vững, sức đi không được xa. Tim mạch không chịu nổi những xúc động như trước. Hệ thống thần kinh đôi lúc rối loạn. Những hạn chế về thể xác đưa tới hạn chế về tinh thần. Suy nghĩ chóng mệt mỏi, trí khôn như bớt dần sáng suốt. Phân định như không còn nhạy bén. Khả năng sáng tạo ngưng lại. Những hạn chế về thể xác và tinh thần dẫn đến hạn chế về công việc. Nhiều công việc phải hoãn lại, nhiều nhiệm vụ phải rút vắn, nhiều tiếp xúc phải huỷ bỏ. Theo đó là hạn chế về khả năng sử dụng thời giờ. Trước đây kéo dài thời giờ đọc sách từ tối tới nửa đêm là chuyện thường, nay phải hạn chế. Trước đây ngồi viết suốt buổi là một niềm vui nhẹ nhàng, nay không thể chịu nổi, nếu không hạn chế lại. Chỉ vài thứ hạn chế như trên cũng đủ ảnh hưởng đến hiệu năng chức vụ. Hiệu năng bị hạn chế. Có lúc như nhỏ giọt. Có lúc như hạn hán. Các giới hạn đẻ sinh thêm giới hạn. Tới một lúc nào đó, các giới hạn sẽ đẩy con người vào một cõi quạnh hiu. Với đức tin, cõi quạnh hiu này là một cảnh êm đềm. Vắng mà không buồn không thiếu. Bởi vì con người sống đức tin sẽ cảm được một sự hiện diện thân mật nồng thắm của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với sự hiện diện thiêng liêng này, con người sẽ thấy cuộc đời không thể nào không phải đối mặt với những sự chết nhỏ luôn luôn đi kèm. Điều quan trọng là thái độ của mình đối với những cái chết đó. Gọi là chết đi, khi đụng vào những giới hạn. Nhưng nếu con người bị giới hạn cái này, mà biết mở sang cái kia tốt hơn, thì mọi sự chết đi thường ngày sẽ mang đến một sự sống mới. Riêng tôi, lúc này, tôi hay suy gẫm Lời Chúa phán xưa về hạt lúa: “Thật, Thầy bảo thật các con. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Tôi hiểu người môn đệ Chúa sẽ phải chết đi, không phải chỉ lúc tắt thở cuối đời, nhưng sẽ phải chết đi mỗi ngày. Không những phải chết đi cho những gì là tội lỗi, mà cũng phải chết đi cho những gì gọi được là để hy sinh, để thanh luyện, để đền tội, để cải hoá, để tái sinh, nhất là để trở thành của lễ thánh thiện, góp phần vào của lễ cứu độ của Đấng Cứu thế. Với những thái độ như trên trước những giới hạn giống như sự chết, thiết tưởng người đau bệnh già yếu còn được mời gọi thực hiện những gì còn có thể thực hiện được trong thực tế giới hạn của mình. Những thực hiện mới. Nhiều khi chúng ta, người khoẻ mạnh cũng như người đau bệnh thích được nghe Lời Chúa. Nghe Lời Chúa là việc tốt. Nhưng việc quan trọng hơn, đó là thực hiện Lời Chúa. Chúa Giêsu quả quyết: “Ai đến với Thầy, và nghe lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người, khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ và bị phá huỷ tan tành” (Lc 6,47-49). Rõ ràng Chúa muốn người thực hiện hơn người nghe. Với chứng hạn chế của bệnh tật và tuổi tác, nếu tôi tưởng sẽ thực hiện nổi mọi việc tốt như thời còn trẻ, thì sẽ là ảo tưởng. Nhưng tôi sẽ là người thực tế lành mạnh, khi tôi biết quyết tâm thực hiện những việc trong những giới hạn của tôi. Thí dụ những việc thực hiện mới sau đây. Thực ra, những thực hiện này vốn có, nhưng nay gọi là mới, do nhận thức mới hơn, và với thái độ nội tâm mới hơn. 1- Sám hối và cầu nguyện hơn trước. Tất nhiên là dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 2- Làm nhiều việc lành nhỏ hơn trước, nhưng với tình mến tối đa. 3- Luôn nhớ mình là kẻ rất tội lỗi, nhưng được Chúa xót thương. Để từ kinh nghiệm sống động bản thân sẽ làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. 3- Biến con người của mình thành thánh lễ sống động suốt đời, nhờ tình yêu thường xuyên và thánh giá triền miên, để phục vụ Hội Thánh và đồng bào một kiểu khác trước. Thỉnh thoảng, lời Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô xưa lại văng vẳng bên lòng tôi: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết: Lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng cho và dẫn con đến nơi chẳng muốn” (Ga 21,18). Với những lời Chúa phán trên đây, tôi hiểu về một sự yếu đuối nặng nề với nhiều mặt khác nhau. Trước viễn cảnh đó, tôi phải cố gắng làm những gì có thể. Xem lúc này và tại đây còn làm được gì thì ráng làm. Bởi vì chỉ lúc này và tại đây, tôi mới được gọi và sai đi, mặc dù với nhiều giới hạn.
Từ nhỏ, lúc mới đi tu, tôi đã được nghe dạy: “Hãy đi vào cửa hẹp, đường hẹp”. Bấy giờ, tôi hiểu một cách trông trống: Đi vào cửa hẹp đường hẹp là đi vào lối sống tránh xa tội lỗi, và phải giữ một số kỷ luật để nên người đạo đức. Khi lớn, lúc đã biết mở sách Phúc Âm, tôi mới được đọc Lời Chúa Giêsu về lời dạy đó: “Hãy qua cửa hẹp mà vào. Vì cửa rộng và đường thênh thang đưa đến diệt vọng. Nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống. Nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14). Tôi tin Lời Chúa là chân lý ban sự sống. Nên tôi đón nhận Lời Chúa với lòng cảm tạ. Qua nhiều năm sống Lời Chúa, tôi thấy sự thực hành Lời Chúa dạy trên đây là không đơn giản. Phải thận trọng như thánh Phaolô cảnh giác: “Đấng cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao ước mới, không phải Giao ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thánh Thần. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thánh Thần thì mới ban sự sống” (2 Cor 4,6). Đúng là không nên sống Lời Chúa theo chữ bề ngoài, mà phải theo Thánh Thần soi dẫn bên trong. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ về vài cảm nghĩ, sau một thời gian kinh nghiệm riêng tư và học hỏi đó đây. Có ba khuynh hướng nổi bật: 1- Khuynh hướng nhấn mạnh đến sự khép mình vào một khuôn khổ. Đã hẳn, hẹp có nghĩa là khép lại về phía tội lỗi. Điều đó khỏi bàn. Ngoài ra hẹp chủ yếu là phải khép mình vào kỷ luật đạo đức. Nhưng kỷ luật đạo đức phải được hiểu thế nào? Kỷ luật đạo đức gồm tinh thần và hình thức. Tinh thần thường mang ý nghĩa vô hình, chìm bên trong. Còn hình thức diễn tả đạo đức thường thể hiện bề ngoài, dễ thấy và đa dạng. Chúa Giêsu dạy phải chú trọng đến tinh thần đạo đức bên trong. Đang khi rất nhiều người lại chỉ để ý khép mình vào một khuôn khổ hình thức đạo đức bên ngoài, để phô trương và an phận. Kết quả sẽ rất bi đát. Bởi vì Chúa thấu suốt mọi sự, sẽ chẳng ban thưởng gì cho họ. Chúa phán: “Khi làm việc lành phúc đức, các con phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, các con sẽ chẳng được Cha của các con, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1). Rồi Chúa Giêsu kể ra mấy việc cụ thể là cầu nguyện (Mt 6,5-6) ăn chay (Mt 6,16-18) và bố thí (Mt 6,2-4). Ngoài việc thích khép mình vào những khuôn khổ đạo đức nặng về hình thức mà nhẹ về tinh thần, còn một lối khép mình khác không được tốt, đó là khép mình vào một lối sống đạo đức theo ý riêng mình hơn là theo ý Chúa. Chúa Giêsu cảnh cáo lối sống đạo đức kiểu như thế với những lời nặng nề: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Rồi Chúa Giêsu còn nói rõ cả những ai làm các việc đạo đức lớn lao như: nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, mà không làm theo thánh ý Chúa Cha, thì cũng sẽ bị loại (Mt 7,22-23). Khuynh hướng khép lại trên đây với những hình thức không lành mạnh đang bị đào thải. Thay vào đó là khuynh hướng khép lại để mở ra. 2- Khuynh hướng nhấn mạnh đến việc mở ra một lối sống phát triển Tin Mừng của người con Chúa, nên phải khép lại những gì là cản trở. Có 3 mở ra: Mở ra về phía chính mình. Mở ra về phía tha nhân. Mở ra về phía Thiên Chúa. Mở ra về phía chính mình là phải cố gắng phát triển mình. Phát triển mình là phát triển những tiềm năng tốt của mình. Như cây vả phải sinh trái (Mt 21,18-19). Phát triển mình là biết làm ra lời lãi những ơn Chúa trao ban, như những người đầy tớ trong Phúc Âm biết làm lời những nén bạc được trao (Mt 25,14-30). Phát triển mình là cố gắng tìm cách sử dụng chức vụ để phục vụ Tin Mừng, như những người đầy tớ trung thành Chúa khen trong Phúc Âm. Họ biết phục vụ ăn uống cho những người khác đúng giờ đúng lúc (Mt 25,45-47). Phát triển mình là biết chọn lựa đúng những cách sống đạo mà Chúa muốn, như thái độ khiêm nhường của người thu thuế cầu nguyện ở cuối nhà thờ (Lc 18,9-14), như thái độ bác ái của người Samaritanô đối với kẻ bị cướp trấn lột và bị đánh trọng thương nằm ở vệ đường (Lc 10,29-37). Mở ra về phía tha nhân.Như mở ra về phía người nghèo, người bệnh tật, người bị loại trừ, người tội lỗi, người thù. Mở ra là yêu thương, là gần gũi, là tha thứ, là chia sẻ Tin Mừng cho họ dưới nhiều hình thức. Sự mở ra về phía tha nhân được Chúa Giêsu diễn tả một cách rất rõ ràng, trong bài giảng về ngày phán xét (Mt 25,31-46). Làm tốt cho kẻ bé nhỏ nhất sẽ được kể là làm tốt cho chính Chúa. Mở ra về phía Thiên Chúa. Mở ra về phía Thiên Chúa là cả một chương trình công phu, mà Chúa Giêsu đã thực hiện, để mạc khải Chúa là Tình yêu giàu lòng thương xót. Từ hang đá Belem đến núi Calvariô, Chúa Giêsu đã nói, đã sống, đã làm việc, đã chịu đau đớn và chịu chết trên thánh giá, như để mở ra một chân trời mới về Thiên Chúa. Hầu kéo mọi tâm hồn đến với Người với lòng tin cậy mến yêu phó thác như người con nhỏ bé, và như người tội lỗi cần được tha thứ. Với hướng mở ra như trên, con đường hẹp có nghĩa là dẹp bỏ chính cái tôi cũ kỹ, hẹp hòi, thành kiến, kiêu căng, ghen tương, ích kỷ, tội lỗi. Biết nhờ Chúa Thánh Thần để sống tự do của người con Chúa, biết phân định và có những chọn lựa hợp ý Chúa. 3- Khuynh hướng vừa nhấn mạnh đến việc mở ra vừa nhấn mạnh đến sự khiêm tốn vâng lời và tu thân, dấn thân. Nói gì thì nói, riêng đối với tôi, không một mẫu gương nào đã lôi cuốn tôi bằng Chúa Giêsu trên thánh giá. Nhìn Người, cầu nguyện với Người, tôi thấy con đường hẹp mà Người đã đi, chính là thánh giá. Thánh giá là nơi rất hẹp. Tự do của Người bị thu lại rất hẹp. Uy tín của Người bị coi như chỉ còn một chút rất hẹp. Những người theo Người xem ra chỉ còn một nhóm rất nhỏ. Người tình nguyện đi vào con đường rất hẹp đó, để cứu độ nhân loại. Nhờ vậy Cửa trời được mở ra. Ơn thánh cứu độ đã tuôn đổ xuống. Nhiều người được ơn mở lòng trí ra, để đón nhận Tin Mừng. Chúa Giêsu mở ra bằng thánh giá nặng tình yêu, hy sinh, khiêm tốn, vâng lời. Bài ca của thánh Phaolô luôn vang vọng trong tôi: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,6-8). Như vậy, Đức Kitô trên thánh giá chính là con đường hẹp, mà tôi đi theo. Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đây là con đường hiền lành và khiêm nhường, minh chứng vẻ đẹp cửa tu thân và dấn thân. “Các con hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Một điều quan trọng về đường hẹp. Điều quan trọng là, để học và để thực hiện lời Chúa đi vào đường hẹp, ta phải có những quyết tâm. Quyết tâm phải cụ thể, rõ ràng, khả thi theo hoàn cảnh của mình. Quyết tâm từng ngày. Quyết tâm làm những việc nhỏ có thể làm hơn là việc lớn khó có thể làm. Quyết tâm những gì chính mình sẽ làm, chứ không đòi hỏi kẻ khác làm thay. Quyết tâm với sự tự do của người con Chúa, chứ không do ai áp đặt. Quyết tâm với tinh thần trách nhiệm cao, chính mình chịu trách nhiệm về việc mình làm. Quyết tâm làm thì nhất định sẽ làm, chứ không quyết tâm theo nghi thức chỉ bề ngoài, hoặc theo thói quen máy móc. Nhất là quyết tâm tận dụng mọi phương tiện trong tầm tay, để mỗi ngày trở nên một người tu thân đích thực và biết dấn thân tận tình tận sức cho Tin Mừng. Những quyết tâm như vậy sẽ là những bước thường xuyên đi vào cửa hẹp, một đường hẹp mở ra một chân trời sự sống mới.
Trong những kỷ vật nhận được từ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tôi quý nhất chiếc đồng hồ đeo tay. Cách đây hơn hai chục năm, tối hôm đó, tôi được vinh dự dùng bữa với Đức Giáo Hoàng. Sau gần một giờ đàm đạo tại bàn ăn, tôi xin từ biệt Đức Giáo Hoàng với những lời cảm ơn trân trọng. Ngài bảo tôi hãy chờ một chút. Rồi Ngài về phòng. Khi trở ra, Ngài mang một hộp nhỏ. Ngài thân mật tặng tôi món quà bất ngờ. Mở ra, đó là chiếc đồng hồ đeo tay đặc biệt. Dĩ nhiên, đồng hồ là đồng hồ. Nhưng nhận được từ tay Đức Giáo Hoàng, tôi tự nhiên có cảm nghĩ lâng lâng. Tôi nên coi đây là biểu tượng của một sự sai đi. Đối với tôi, sai đi hôm đó đươc hiểu như thế này: Hãy đi về phía trước, như chiếc đồng hồ, nhưng với tinh thần tỉnh thức của Phúc Âm. Với cảm nghĩ đó, tôi làm mục vụ với cái nhìn về phía trước. Thực vậy, mục vụ phải được thực hiện với những con người sống trong lịch sử. Lịch sử ví như một dòng sông chảy. Nước lúc cao lúc thấp. Bờ sông bên lở bên bồi. Dù nhanh dù chậm, nước vẫn chảy về xuôi. Tuy lặng lẽ, nó vẫn gây nên nhiều chuyển biến. Hình ảnh trên chỉ là một cái nhìn mờ nhạt về dòng lịch sử. Sống trong dòng lịch sử, ai cũng chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian bao bọc và chuyên chở mình. Riêng thời gian mà đồng hồ chỉ dẫn, nó vẫn đi không ngừng về phía trước. Nó đi một cách vô tư, một cách nghiêm nghị. Dù chỉ là một giây, khi đã qua rồi, là dứt khoát phải qua luôn. Khi nhìn đồng hồ và những chuyển biến của dòng lịch sử, người mục tử thường có một cái nhìn xa và rộng, để dự đoán, để nắm bắt, để thực hiện kịp thời những kế hoạch. Một trong những dự đoán của tôi là: nếu không tỉnh thức nghe và thực thi lời Chúa, thì đức tin sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong tương lai. Nơi nhiều người, nhiều nơi, đức tin sẽ chỉ còn một chỗ đứng rất khiêm tốn. Dự đoán trên đây dựa trên ba yếu tố: 1. Chính tình hình hiện nay tại nhiều nước phát triển cho thấy đức tin đang bị suy yếu, có lúc bị đẩy ra ngoài lề xã hội, gia đình, và cả ngoài cuộc sống cá nhân. 2. Lịch sử nhiều nước xưa kia kể như toàn tòng công giáo với đức tin công giáo sốt sắng, nay đã đổi hoàn toàn sang những đức tin khác. 3. Những lời cảnh báo thảm thiết của Đức Mẹ Maria tại Fatima, tại Mễ Du và nhiều nơi khác, đại khái là cuộc sống nhiều người đã quá xa đức tin. Nếu không sám hối, thế giới sẽ không tránh được nhiều tai hoạ. Từ dự đoán trên đây và một số dự đoán khác về xã hội và con người trong tương lai, tôi đưa ra những quyết tâm: - Phải đi lên theo đúng nguồn nội dung thực sự đạo đức. - Phải đi lên theo đúng kế hoạch thực sự đạo đức. Nguồn nội dung đạo đức là Lời Chúa, đức tin của các Tông Đồ và Hội Thánh, các Bí Tích, những sứ điệp của Đức Mẹ được Toà Thánh công nhận. Tất cả đều quy chiếu về Chúa Giêsu: “Chính Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). Kế hoạch đạo đức thì “phải đơn sơ như chim bồ câu, đồng thời phải khôn ngoan như con rắn” (Mt 10, 16). Cả về nội dung, cả về kế hoạch, Phúc Âm dạy phải cảnh giác. Có những cảnh giác mang tính cách thời giờ. Thí dụ, Chúa Giêsu phán: “Đã đến giờ và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,22). “Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng” (Ga 9,4). “Anh em hãy bước đi, bao lâu anh em còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt anh em. Ai bước đi trong bóng tối, sẽ không biết mình đi đâu” (Ga 12,34). Hôm nay, tuy đã già hưu, nhưng, khi nhìn chiếc đồng hồ, quà tặng của Đức Giáo Hoàng, tôi vẫn còn cảm nghĩ về ơn gọi sai đi. Tôi vẫn được sai đi về phía trước. Tôi thấy phía trước vẫn là con đường mà Đức Kitô đã đi, để phác hoạ ra hình ảnh Hội Thánh của Ngài. Một Hội Thánh phục vụ, một Hội Thánh là hy vọng của người nghèo, một Hội Thánh đã đến giờ phải chạy đến khẩn khoản cầu xin với Chúa Thánh Thần, để được ơn thường xuyên đổi mới, một Hội Thánh đã đến giờ phải cầu nguyện tha thiết và rất nhiều với Đức Mẹ, vì Mẹ là trạng sư, là Đấng trung gian, là Đấng đồng công cứu chuộc loài người. Đã đến giờ phải làm những việc đó một cách khẩn thiết. Vì mọi việc đều có thời giờ của nó. Nhất là vì Chúa phán: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết giờ nào Chúa của chúng con đến” (Mt 24,42).
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời. Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem... cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ. Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời. Làm chứng cho Chúa. Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48). Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta. Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8). Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn. Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói. Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương. Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo. Nhờ Mẹ Maria cầu bầu. Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa. Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn. Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn. Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa. *** Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
Ðể chuẩn bị vào Tuần thánh, tôi xin chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ của tôi về Thánh giá Ðức Kitô. Tất nhiên, nhìn lên thánh giá là phải nhìn với đức tin. Tôi đã thấy gì? Thưa tôi thấy thánh giá là nơi Ðức Kitô đã làm chứng cho những giá trị thiêng liêng cao quý nhất. Theo tôi những giá trị này rất cần cho nền đạo đức cá nhân gia đình xã hội, làm nên hồn của truyền thống văn hoá Thiên Chúa giáo và là sức sống của tôn giáo từ xưa đến nay. Giá trị thứ nhất mà tôi thấy Ðức Kitô đã làm chứng trên thánh giá, đó là Tình yêu. Thực vậy thánh giá là nơi Ðức Kitô đã biểu lộ những đặc tính sáng ngời của tình yêu Thiên Chúa.
Yêu là đi tìm Vì yêu thương, Chúa đi tìm mọi người. Ðặc biệt Ngài đi tìm những người hư hỏng để mà cứu độ. Ý hướng ấy được Ðức Kitô nói lên trong dụ ngôn “Người chăn chiên lành” bỏ lại 99 con chiên tốt, để đi tìm một con chiên lạc. Bao lần Ngài đã làm như thế, khi Ngài lui tới những kẻ tội lỗi, khi Ngài ngồi chung bàn với họ, Ngài chủ ý hoà mình vào giữa những kẻ đã mất hướng đi để giúp họ nhận ra con đường chính trực dẫn họ về hạnh phúc trường sinh. Thánh giá là tột điểm của tình yêu là hoà mình đó. Trên đồi Calvê lúc ấy, chỉ có vài người gọi được là trung thành với Ðức Kitô, còn đám đông toàn là những kẻ chống đối Ngài. Ngài hoà mình vào biển người ấy. Chính giữa biển người đang sôi sục hận thù ấy, Ngài đưa mắt yêu thương tìm thiện chí của họ và của chúng ta. Chính lúc Ngài bị nhục nhã nhất trên thánh giá, Ngài đã làm chứng cho chủ trương cố hữu của Ngài, đó là Ngài đến không phải để kết án, nhưng để tìm cách cứu độ. Ngài đi trên con đường đau đớn nhất, để tìm các anh em loài người, nhất là những kẻ ghen ghét Ngài. Ngài muốn mọi người hiểu Ngài. Ngài muốn chúng ta nhận ra Ngài là tình yêu cứu độ, Ngài thương yêu tất cả, Ngài là con Chúa Cha giàu lòng thương xót. Ngài mong mọi người hối cải, trở về đàng lành, mến Chúa và yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương như thế này đây:
Yêu là phục vụ Phục vụ con người, dù phải quên mình, để hy sinh, bị chết treo trên thập giá. Tuy đây là con đường hẹp, đầy trắc trở khổ đau, nhưng chỉ có con đường đó mới là con đường mà Chúa Cha muốn, để Ngài trở về với Chúa Cha. Ai muốn lên thiên đàng phải chấp nhận con đường đó, phải đi vào con đường đó. Mọi cách làm sáng danh Chúa ngoài con đường đó sẽ không được Chúa chấp nhận. Chân lý trên đây đã được Ðức Kitô nói lên nhiều lần, nhất là trong bài giảng về ngày phán xét chung, trong dụ ngôn người Samaritanô tốt lành, trong dụ ngôn người ăn mày Lagiarô và kẻ phú hộ. Giờ đây trên thánh giá, Ðức Kitô lấy máu mình đóng ấn vào chân lý ấy. Hãy coi Ngài phục vụ đến mức nào; Ngài chịu nạn chịu chết để gánh tội, đền tội cho nhân loại. Hy sinh của Ngài là tột đỉnh. Ngài chấp nhận bị tước lột hết, của cải, uy tín, danh dự, mạng sống. Cái chết của Ngài đáng lẽ mang ý nghĩa cao đẹp của sự hy sinh, thì ý nghĩa đó cũng bị tước lột, và thay vào đó là ý nghĩa ô nhục dành cho những tội nhân nặng nhất. Bị kết án, bị ruồng bỏ, Ðức Kitô rơi vào cô đơn thăm thẳm. Vết thương thể xác đau đớn lắm thực. Nhưng vết thương tâm hồn gây nên do cái nhục và cái cô đơn còn ghê gớm hơn bội phần. Nhưng Ðức Kitô đã chấp nhận tất cả. Ngài trao hiến trọn vẹn thân mình, đời mình, để phục vụ, vì muốn cứu độ loài người, theo ý Chúa Cha. Hình ảnh Ðức Kitô bị treo trên thập giá kêu gọi mọi người hãy lắng nghe chân lý cứu độ. Chân lý cứu độ là đồng hành với Ðức Kitô trên con đường phục vụ nhân loại theo ý Chúa Cha. Con đường phục vụ đòi nhiều từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ, để sống hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhục, quảng đại, nghèo khó. Bề ngoài coi đó là những mất mát, nhưng bề trong chính là Tám mối Phúc thật. Và đó chính là cái vé để vào thiên đàng. Trên cái vé ấy có ghi tất cả những gì thuộc về Tám-mối-phúc mà người cầm vé đã thực hiện trên con đường phục vụ tha nhân vì Chúa. Trong số các việc lành được ghi, có một việc lành rất sáng giá, đó là sự tha thứ.
Yêu là tha thứ Kinh nghiệm cho thấy tha thứ là điều rất khó. Người ta có thể quảng đại trong phương diện cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi khó nhọc, cho đi sức khoẻ và đến cả mạng sống, nhưng người ta rất khó quảng đại trong phương diện tha thứ. Hơn nữa, tôi thấy vô số trường hợp người ta rất dễ bỏ qua những tội phạm đến Chúa, phạm đến Hội Thánh, phạm đến tha nhân, phạm đến Tổ Quốc, dù tội nặng đến đâu đi nữa, nhưng người ta rất khó bỏ qua những tội kẻ khác phạm đến danh dự và quyền lợi cá nhân họ, dù tội đó xét ra chẳng đến nỗi nào. Tha thứ cho kẻ phạm đến mình quả là điều khó. Ðó là sự thực. Cũng chính vì Ðức Kitô hiểu sự thực ấy, nên khi bị treo trên thánh giá, Ngài đã tha thứ cho những kẻ đang làm hại Ngài. Như để làm chứng rằng: Tuy tha thứ là điều rất khó, nhưng đã yêu như Thiên Chúa yêu, thì phải thắng vượt cái khó ấy cho dù nó cực kỳ lớn lao. Không những Ðức Kitô tha thứ, mà còn tìm cách giảm tội cho những kẻ cố tình ghen ghét Ngài. Ngài nói với Chúa Cha rằng họ phạm tội vì lầm không biết. Sự thánh thiện của Ðức Kitô được tỏ hiện sáng ngời ở tấm lòng khoan dung cao cả ấy.
Sự tha thứ của Ðức Kitô không chỉ ở tại sự xoá tội, mà còn là sự đưa con người tội lỗi biết đón nhận ơn tha thứ vào một cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc. Sự thực trên đây được minh chứng khi Ðức Kitô tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Ngài. Ngài tha mọi tội cho anh ta, đồng thời dẫn anh ta lên thiên đàng với Ngài. Ðối với Ðức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, tha thứ tội lỗi là dùng chính tội lỗi như vật liệu tồi tệ nhất, để xây dựng nên tác phẩm tuyệt vời. Trong chiều hướng đó, tình yêu của Ðức Kitô trên Thánh giá còn nói lên một điều nữa:
Yêu là sáng tạo Ðúng thế. Sáng tạo của tình yêu Ðức Kitô là dùng chính tình thương để kéo những người đang chìm dưới vực thẳm vô vọng lên bờ hy vọng. Tiêu biểu cho sự sáng tạo ấy, ngoài kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Ngài đã được chính Ngài phong thánh vì biết đón nhận ơn tha thứ, còn có thánh Phêrô vị tông đồ này đã chối thầy 3 lần, nhưng nhờ ơn tha thứ, đã trở thành người lãnh đạo Hội Thánh. Rồi cũng còn vị sĩ quan ngoại đạo nữa. Ông này vừa mới chỉ huy việc đóng đinh Chúa, nhưng nhờ biết đón nhận tín hiệu Chúa gởi qua các biến cố dồn dập xảy ra lúc ấy, ông đã trở thành kẻ tuyên xưng công khai niềm tin vào chính kẻ mình đã hành hình. Những sự kiện này cho thấy sự sáng tạo tuyệt vời của tình yêu Thiên Chúa cứu độ được thực hiện nhiều nhất trong các tâm hồn. Tâm hồn được đổi mới, trở nên hiền lành, khiêm nhượng, bao dung, nhẫn nhục, hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, sẵn sàng phục vụ con người, dù phải hy sinh, phải từ bỏ. Những vẻ đẹp như thế không bao giờ là kết quả của những đấu tranh với những người khác, mà là kết quả của những đấu tranh với chính mình, khi mình chấp nhận đi vào đường hẹp với những thanh luyện giúp tâm hồn mở rộng khả năng đón nhận các ơn Chúa, nhất là đón nhận chính Ðức Kitô là tình yêu Thiên Chúa. Giá trị thứ hai mà tôi thấy Ðức Kitô đã làm chứng trên thánh giá, đó là sự tự do. Xem ra có vẻ ngược đời khi nói rằng một người bị đóng đinh trên thập giá, bị tước đoạt mọi tự do, lại làm chứng về sự tự do. Nhưng sự thực là thế đó. Chính khi Ðức Kitô mất hết mọi tự do thể xác, Ngài đã làm chứng rằng Ngài vẫn có một sự tự do khác cao quý hơn, thiêng liêng hơn, đó là sự tự do tâm hồn. Thực vậy, trên Thánh giá, Ðức Kitô đã sống trong các thứ áp lực dày đặc, chồng chất. Có áp lực của giáo quyền, khi toàn thể các thượng tế và các kỳ lão đều nhất trí kết án Ngài là kẻ nghĩ sai lầm sai. Có áp lực của dân chúng, khi từng ngàn người đồng thanh đòi trừng phạt Ngài, coi Ngài còn xấu hơn tên cướp Baraba. Có áp lực của các tông đồ, khi các vị này bỏ trốn, coi Ngài như kẻ thất bại. Có áp lực của quyền đời, khi quan Philatô trao Ngài cho quân lính giải ra pháp trường. Ðó là những áp lực tâm lý, pháp lý, xã hội, tôn giáo, tình cảm đè nặng trên Ðức Kitô. Tất cả các áp lực ấy muốn thúc ép Ngài phải thay đổi lập trường. Nhưng dù bị đủ thứ áp lực tấn công, Ðức Kitô vẫn giữ vững sự tự do tâm hồn. Ngài vẫn một mực trung tín với sứ mạng kẻ được Chúa Cha sai vào thế gian, để rao giảng Tin mừng “Thiên-Chúa-là-tình-yêu”, và con đường đón nhận Thiên Chúa tình yêu là con đường bác ái phục vụ con người theo gương mẫu Ngài, và cùng với Ngài là Ðấng cứu chuộc loài người. Lập trường trên đây của Ðức Kitô khác với lập trường của dân có đạo và giáo quyền hồi đó. Theo họ, chỉ có một con đường dẫn đến Thiên Chúa, đó là gắn bó với thể chế Ðền thờ và tuân giữ tất cả hệ thống luật lệ, kể cả những luật lệ lỗi thời, vô bổ chỉ còn là gánh nặng. Và theo họ, dung mạo Thiên Chúa là quyền uy, chứ không phải là Tình Yêu. Nếu Ðức Kitô bỏ lập trường của Ngài, để thuận theo lập trường đó của giáo quyền và của đám đông, thì ít ra Ngài cũng sẽ được tha, được an thân. Nhưng Ngài vẫn giữ được sự tự do theo đuổi sứ mạng của Ngài bất chấp mọi áp lực. Những áp lực ấy cũng muốn dồn Ngài đến chỗ phải tức giận, oán ghét, nghi kỵ những kẻ đã bất công với Ngài. Nhưng Ngài vẫn giữ được trọn tự do của Ngài, sự tự do yêu thương phục vụ, kể cả phục vụ bằng việc tha thứ cho những kẻ ghen ghét Ngài. Những áp lực ấy cũng muốn gieo vào lòng Ngài sự nghi ngờ đối với Chúa Cha, nhất là khi Ngài cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi. Nhưng Ngài vẫn giữ được sự tự do tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa Cha đầy lòng thương xót. Sự tự do tâm hồn của Ðức Kitô trên thánh giá còn được khẳng định một cách hùng hồn bởi việc Ngài chối từ lời thách thức của một số người quyền lực. Họ thách Ngài rời khỏi thánh giá. Mục đích thách thức của họ, theo họ nói, là tìm lý do để tin vào Ngài. Lý do xem ra rất hấp dẫn. Ngài lại có quyền năng. Nhưng Ngài đã không rời khỏi thánh giá. Ngài vẫn giữ được sự tự do của Ngài, sự tự do đi tới cùng lộ trình thương khó để làm chứng cho tình yêu hy sinh, theo sứ mạng do Chúa Cha trao cho. Giá trị thứ ba, mà tôi thấy Ðức Kitô đã làm chứng trên Thánh giá, đó là sự hiệp thông. Ðức Kitô trên thánh giá đã cho ta thấy: Dù chân Ngài không thể nào đi đâu được, dù tay Ngài không thể nào làm gì được, Ngài vẫn đưa trái tim hiệp thông của Ngài vào các tuyến đường muôn ngả. Trước hết Ngài hiệp thông mật thiết với Ðức Chúa Cha. Dù coi như bị đoạ đày, Ngài vẫn tín nhiệm tuyệt đối nơi Chúa Cha. “Cha ơi, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha”. “Cha ơi, con dâng phó linh hồn con trong tay Cha”. Ngài đón nhận thánh ý từ Chúa Cha, và Ngài trở về Chúa Cha. Rồi Ngài hiệp thông với nhân loại một cách đặc biệt. Nhờ hy sinh thánh giá. Ngài giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Do đó sự hiệp thông của ngài với nhân loại mang tính cách sâu sắc hơn là tính cách đồng loại tính cách liên đới. Sự hiệp thông của Ngài là liên kết và là qui tụ. Khi trối thánh Gioan cho Ðức Mẹ và trối Ðức Mẹ cho thánh Gioan, Ngài đã muốn liên kết mọi người trong một mối tình mới, đó là tình Mẹ Maria, Mẹ Maria đứng dưới chân thánh giá là Mẹ hiệp thông, Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ của nhân loại, Mẹ của Hội thánh. Trên thánh giá, Ngài hiệp thông cách riêng với mọi kẻ sau này sẽ được sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ, lộ trình của họ rất có thể sẽ giống như chặng đường thánh giá đã đi qua. Nhiều thử thách sẽ chờ đợi họ. Có lúc họ cảm thấy bất lực và thất bại, như kẻ bị đóng đinh vào sự nhục nhã cô đơn đầy cay đắng. Trên thánh giá, Ngài hiệp thông một cách sâu sắc với mọi kẻ khổ đau, với mọi áp bức, với mọi kẻ bị oan ức, mọi kẻ cùng cực, cô đơn. Sự hiệp thông của Ngài là tấm lòng trắc ẩn, lắng nghe những nỗi thống khổ của từng người và kêu mời bất cứ ai đau khổ vì bất cứ lý do nào hãy đón nhận nơi Ngài niềm hy vọng phục sinh, bởi vì chính Ngài đã sống lại từ cái chết trên thánh giá. Sự hiệp thông của Ngài chính là chia sẻ kho tàng công phúc mà Ngài đã lập trên thánh giá. Một kho tàng vô giá, một kho tàng vô tận. Sự hiệp thông của Ngài sẽ rất cần cho những ai quyết tâm bước theo Ngài, coi cái dại trên thánh giá còn khôn hơn cái khôn nhất của thế gian, coi cái yếu của thánh giá còn mạnh hơn cái mạnh nhất của phàm tục. Sự hiệp thông của Ngài càng cần cho những ai muốn nên giống Ngài, sẽ chọn thánh giá như tờ căn cước, để ghi vào đó tình yêu của mình, sự tự do của mình, sự hiệp thông của mình. Trên đây là mấy suy nghĩ của tôi về thánh giá Ðức Kitô. Tôi mong mấy suy nghĩ đó sẽ góp phần vào việc xây dựng nếp sống đạo, và tinh thần truyền giáo, nhất là trong thời điểm hiện nay đang có nguy cơ suy thoái đức tin và các giá trị luân lý. Ở đây tôi xin nhắc lại một đoạn trong những lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cầu nguyện tại Fatima ngày 13/5/1991: “Lạy Mẹ Ðấng Cứu Thế, xin hãy tỏ ra là Mẹ chúng con. Vâng, xin Mẹ hãy tiếp tục tỏ mình ra là mẹ mọi người, bởi vì thế giới đang cần Mẹ. Hoàn cảnh mới của thế giới và của Hội Thánh còn tạm bợ và bất ổn. Có nguy cơ thay thế chủ nghĩa Má-xít bằng một hình thức khác của chủ nghĩa vô thần, một chủ nghĩa tôn sùng sự tự do, có khuynh hướng tiêu diệt các gốc rễ nền luân lý của đạo làm người và của Kitô giáo”. (Documentation catholique, n-2030,16 Juin, 1991) Thiết tưởng lời cầu nguyện trên đây của Ðức Thánh Cha cũng là một lời báo động cho Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì nguy cơ tiêu diệt gốc rễ nền luân lý tại đây, tuy hiện nay không lớn, nhưng đã khởi sự và đang phát triển. Trong đời sống xã hội, tình yêu vị kỷ hưởng thụ đang có chiều hướng lấn át tình yêu phục vụ vị tha. Niềm trân trọng dành cho sự tự do tâm hồn bị thu hẹp lại một cách thê thảm, nhường chỗ cho phong trào đề cao các thứ tự do thân xác. Tinh thần hiệp thông chia sẻ giúp đỡ có vẻ yếu kém so với tinh thần hiệp thông cạnh tranh loại trừ, và chủ nghĩa cá nhân, kỳ thị. Riêng trong đời sống nội bộ Hội Thánh xem ra càng ngày càng phát triển não trạng xa tránh con đường hẹp của thánh giá, và con đường hẹp làm chứng cho Tám Mối Phúc Thật. Nếu những nhận xét trên đây không xa sự thực, thì câu hỏi sẽ đặt ra cho lương tâm mỗi người chúng ta là: Tôi phải làm gì đây? Tôi nghĩ rằng: Nếu ta biết lắng nghe Ðức Kitô trên thánh giá ta sẽ hiểu ta phải làm gì. Long Xuyên, ngày 12/4/1992
28 tuổi thụ phong Linh mục, 48 tuổi thụ phong Giám mục. Năm nay được 48 tuổi linh mục và 28 tuổi giám mục. Riêng gánh nặng sứ vụ giám mục được bắt đầu ngày 30 tháng 4 năm 1975, và được nhẹ đi ngày 02 tháng 9 năm 2003. Cả hai ngày trên tại Việt Nam đều rợp cờ phất phới. 2- Giáo phận Long Xuyên của tôi có những vẻ đẹp thiên nhiên thường được nói tới trong Phúc Âm. Đó là ruộng, vườn, sông, núi, biển. Xưa, Chúa Giêsu hay qua lại những nơi đó. Ngài cũng hay nhắc tới những nơi đó trong các bài giảng của Ngài. 3- Do đó, hoạt động mục vụ truyền giáo của tôi cũng chịu ảnh hưởng. Có thể tóm tắt vào mấy việc mang hình ảnh này: - Gieo,
- Trồng,
- Thả lưới,
- Xây dựng trên núi. * Tôi gieo Lời Chúa khắp nơi có thể.
* Tôi trồng các cộng đoàn nhỏ Hội Thánh ở mọi vùng sâu vùng xa.
* Tôi thả lưới tình thường vào khắp địa phương và xã hội qua mọi liên hệ tốt nhất.
* Tôi xây dựng những cột đèn trên núi, để người ta nhìn được ánh sáng Phúc Âm từ xa. 4- Thực sự, tôi, gieo, trồng, thả lưới và xây dựng không chỉ một mình, nhưng cùng với nhiều môn đệ Chúa và với nhiều người thiện chí. Nhất là với Đức Mẹ, với Chúa. 5- Công việc chẳng dễ dàng gì. Nhưng dù bị muôn vàn khó khăn, chúng tôi vẫn cố gắng lên đường. Điều quan trọng đối với tôi là mang theo lửa thao thức: Mến Chúa, yêu người, cậy trông và tỉnh thức. Tất cả phải được nung nấu trong thực chất Phúc Âm và thực tế cuộc sống. Sáng nào, tôi cũng suy gẫm Phúc Âm. Sáng nào, tôi cũng đọc và nghe tình hình thế giới, Việt Nam và địa phương. Nhìn vào hai phía đó cho thực rõ, thực sâu, để chọn hướng đi và điều chỉnh hướng đi cho thích hợp với sứ vụ. Ngủ trong tự mãn và lười biếng, dửng dưng trước những đổi thay của cuộc sống, coi thường những làn sóng ngầm trong thời cuộc. Đó là những nội thù rất tai hại cho mục vụ truyền giáo, mà tôi cố tránh và cố dẹp. 6- Cho đến tuổi này, tôi vẫn thấy mình còn rất dốt, rất dại khờ, rất nông về Phúc Âm, nên tôi không ngừng phấn đấu để khá hơn thêm một chút. Tôi xin Chúa nhìn thiện chí của tôi. Chứ hoa trái thì chẳng có gì đáng nói.7- Càng ngày, tôi càng thấy làn sóng đi tìm hưởng thụ và tục hoá càng mạnh và càng rộng khắp. Nó đi kèm với não trạng thực dụng. Nhìn chung, tôi thấy nó đang gây nên hai hậu quả này: Một là mỗi người đều muốn khẳng định mình phải tự sức đi tìm hạnh phúc riêng cho mình, tại đây và lúc này. Hai là sự khát khao hạnh phúc và sự khẳng định đó đang bị cám dỗ vượt giới hạn gia đình, xã hội và Giáo Hội, khi những nhân tố này bị coi là rào cản. Nhất là khi những yếu tố này không còn giữ được nề nếp đạo đức đủ uy quyền đứng làm gương mẫu cho những giá trị cao đẹp. Một tình hình như vậy đang là những làn sóng ngầm dưới một bề mặt tình hình coi như ổn định. Nhưng thực sự đây là một tình hình rất đáng ngại cho những ai còn tâm huyết đối với Hội Thánh và Quê Hương Đất Nước. 8- Vì thế, theo thiển ý tôi, việc quan trọng trong mục vụ truyền giáo là làm chứng cho đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta. Một lần, khi nói chuyện với nhóm anh chị em ngoài công giáo về hiện tượng đổi đạo, tôi bất ngờ nghe một người phát biểu: Ai dại gì lại đổi cái tốt mình đang có để lấy cái xấu. Ở đây, xấu tốt ám chỉ đời sống của những người theo đạo. Một người có đức tin mạnh, nhưng đời sống luân lý thì kém, thiện chí phục vụ thì chẳng hơn ai, khả năng chuyên môn thì thấp. Một người như vậy sẽ bị đánh giá là xấu. Xấu không phải là đức tin. Nhưng xấu do đời sống luân lý, phục vụ và chuyên môn. Thí dụ một thầy cô công giáo có đức tin rất anh hùng, nhưng thiếu lương tâm bác ái và trách nhiệm, thiếu trình độ nghề nghiệp, thì khó làm chứng cho Chúa, cho đức tin anh dũng của mình. 9- Vì tình hình đổi thay và sẽ còn đổi thay về hướng rất phức tạp, nên tôi nghĩ người làm chứng cho Chúa phải có ít nhất một số giá trị chung, mà mọi người và mọi tôn giáo đều kính trọng. Những giá trị đó như tu thân, hiến thân, dấn thân, xả thân vì tình yêu cao thượng. Tôi đang thấy hiện tượng vong thân và hư thân bắt đầu có chỗ đứng trong đạo ngoài đời tại Việt Nam ta. 10. Cũng vì thế, tôi muốn nhấn mạnh và đề cao khát vọng của tôi được về với Chúa. Không phải về với Chúa có nghĩa là chết, nhưng là cố gắng thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa, đi về với Chúa, sống trong Chúa và Chúa sống trong tôi. Được như vậy, việc tôi làm chứng cho Chúa sẽ có ý nghĩa thực sự, sẽ có chất lượng thực sự. Nhất là nhờ đó, việc tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó mới được Chúa nâng đỡ. Giờ phút tôi giã từ sứ vụ Giám Mục Chính Toà mở ra cho tôi những nẻo đường mới, để làm chứng cho Chúa. Nhưng những nẻo đường đó đều sẽ gắn liền với con đường Chúa Giêsu đã đi, để làm của lễ. Và vì thế tất nhiên, luôn luôn sẽ có rất nhiều tình yêu và thánh giá. Vác thánh giá vì tình yêu. Giàu tình yêu nên ôm lấy thánh giá. + GM Bùi Tuần
CHIẾN ĐẤU SUỐT CUỘC ĐỜI Bài giảng thánh lễ mừng kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Bổn mạng Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ, Tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 28-9-2003
Ngày 28-9-2003, nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên tổ chức lễ Bổn Mạng Đức Cha Già Micae Nguyễn Khắc Ngữ, vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận.Hiện nay, Đức Cha Già 94 tuổi của chúng ta là vị Giám mục cao niên nhất tại Việt Nam.Giáo phận Long Xuyên chúng ta sung sướng được có Ngài sống giữa chúng ta. Chúng ta coi đây là một ơn cao quí Chúa ban cho chúng ta. Nhờ vậy tình đại gia đình giáo phận được luôn đầm ấm. Nhất là cùng với Ngài, chúng ta theo gương Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, mà chiến đấu với ma quỉ trên đời sống Phúc Âm.Hôm nay, tôi xin dừng lại ở điểm vừa nói. Vì đây là một nhu cầu, vừa để ôn lại Kinh Thánh, vừa để đáp ứng thời sự tôn giáo.Trước hết, nói đến Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là nói đến vị thần đã chỉ huy cuộc chiến chống lại thần kiêu ngạo Lucife và bọn thần dữ xưa nổi loạn ở trên trời. Kinh Thánh cho biết bọn nổi loạn này đã thua: “Người ta gọi chúng là Satan, tên chuyên môn mê hoặc toàn thể thiên hạ. Chúng bị tống xuống đất, các thần của nó cũng bị tống xuống đất” (Kh 12,9).Trên trái đất này, chúng luôn tìm mê hoặc mọi người. Chính Chúa Giêsu cũng bị chúng tìm cách mê hoặc, khi Người ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày trong sa mạc (Lc 4,1-13).Thánh Phêrô quả quyết: “Ma quỉ, thù địch của anh em, chúng như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr 5,8).Trong nghề mê hoặc con người, ma quỉ có trăm ngàn mưu chước tinh vi. Khi suy gẫm Phúc Âm thánh Gioan về vấn đề này, tôi thấy có thể nhận ra mấy dạng cạm bẫy sau đây, thí dụ:- Trùm phủ tâm trí con người một thứ tối tăm, làm cho con người không còn nhìn rõ đúng hướng sống đạo. Hoặc thấy mình rơi vào bẫy mà không biết lối ra.- Muốn an phận với những cái giả. Như trốn bỏ bổn phận thực của mình, rồi tạo cho mình những bổn phận giả, do ghen tương, phô trương, thoả mãn lối sống dễ dãi, hưởng thụ.- Mưu tìm những vinh quang kinh tế, chính trị, tôn giáo, nói là để làm chứng cho Chúa. Nhưng thực ra cái tôi lại chiếm phần không nhỏ.Để chiến thắng ma quỉ, Kinh Thánh dạy ta những cách này:Một là cầu nguyện (Lc 22,40).Hai là tiết độ (1 Pr 5,8).Ba là tỉnh thức (Mt 26,41).Bốn là xây dựng bình an, bác ái (Rm 16,20).Cả bốn cách này đều phải thực hiện với lòng lòng khiêm nhường. ỡ Vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường ữ (1 Pr 5,5).Như thế, có thể nói ơn thánh giữ vai trò quyết định trong việc chiến thắng ma quỉ.Bây giờ, chúng ta hãy đem mấy chân lý trên đây rút từ Phúc Âm chiếu dọi vào thời sự tôn giáo xung quanh ta, đặc biệt là thời sự tôn giáo của chính mình chúng ta.Kiểm điểm này chỉ cho chúng ta thấy được sự thực, nếu chúng ta khiêm tốn dựa vào ơn Chúa. Nếu không, ma quỉ cũng sẽ lại mê hoặc chúng ta trong chính việc xét mình và cầu nguyện. Giống như trường hợp người Pharisêu xưa đã cầu nguyện và kiểm điểm mình trước mặt Chúa một cách kiêu căng. Kết quả sẽ rất thê thảm.Giờ đây, chúng ta hãy nhìn vào một con người đang lặng lẽ nói với chúng ta bằng đời sống của mình :Đời sống cầu nguyện,Đời sống tiết độ,Đời sống tỉnh thức,Đời sống khiêm nhường, xây dựng, bác ái bình an.Con người đáng kính này là Đức Cha Già. Ngài là chứng từ sống động của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Đức Cha Già Micae đang cầu nguyện cho chúng ta biết đón nhận các ơn Chúa. Khi biết đón nhận các ơn Chúa trên đây, thiết tưởng chúng ta sẽ được tham dự vào ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, một ơn khôn ngoan rất cần cho chúng ta trong một cuộc đời, mà tình trạng di cư, tản cư, tạm cư, định cư không ngừng tiếp nối nhau, chen kẽ nhau. Cảm nghiệm đó sẽ nhắc nhở chúng ta luôn phải chiến đấu, luôn phải chống chọi, để dựa vào ơn Chúa mà đi đúng đường về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót, và được ở bên Người muôn kiếp muôn đời. + GM Bùi Tuần
Thánh nữ Têrêsa, mà tôi nói tới ở đây, mang theo nhiều tên phụ, như: Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu,
thánh Têrêsa thành Lisieux,
thánh Têrêsa, bổn mạng các xứ truyền giáo,
thánh Têrêsa, tân tiến sĩ Hội Thánh,
thánh Têrêsa nhỏ,
thánh Têrêsa trẻ đẹp. Tên phụ nào trên đây cũng dễ thương. Chính nữ tu 24 tuổi này (1873-1897) càng rất dễ thương. Lần nào sang Pháp, tôi cũng đến Lisieux, vào cầu nguyện tại tu viện Carmel, nơi Têrêsa đã sống 9 năm đời tu. Tại đó, tôi thường dâng thánh lễ trên bàn thờ, mà xưa Têrêsa dọn đồ lễ. Cách đây mấy năm, Mẹ Bề trên tu viện tặng tôi một kỷ vật nhỏ. Đó là chút tóc của Têrêsa. Với sợi tóc này, khoảng cách coi như không còn là vấn đề. Khoảng cách trong lãnh vực tình cảm được gần lại rất nhiều và mau lẹ một cách tự nhiên. Nhưng khoảng cách trong lãnh vực tư tưởng chỉ gần lại do học hỏi dần dần. Càng ngày, tư tưởng của thánh nữ càng thu hút nhiều người, trong đó có tôi. Nhất là từ khi cuốn Giáo lý Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo Hoàng công bố ngày 11-10-1992 đã nhiều lần trích dẫn tư tưởng của thánh nữ, như một uy tín lớn. Nếu muốn kiểm chứng, xin xem các số sau đây trong Giáo lý Hội Thánh Công giáo: 127, 826, 956, 1011, 2011, 2558. Mọi tư tưởng đạo đức của thánh nữ được gói ghém trong Thủ bản Tự thuật do thánh nữ viết theo lệnh Mẹ Bề trên. Tôi có cảm nghĩ này: Sở dĩ các tư tưởng của thánh Têrêsa được trân trọng và học hỏi, là vì một đàng các tư tưởng đó chan hoà sự sống Phúc Âm, và một đàng, tinh thần nữ tu Têrêsa là một thứ hơi thở thiêng liêng, mà Chúa Giêsu thổi vào Hội Thánh, để ban Chúa Thánh Thần cho một thời điểm cần nhiều đổi mới. Khi học hỏi nơi thánh Têrêsa, tôi vẫn xin Chúa Thánh Thần chỉ dẫn. Sau đây, là một số điều trong những gì tôi đã học được nơi thánh nữ. HỌC PHÚC ÂM. Có thể nói Têrêsa là một sách Phúc Âm sống. Để chuẩn bị cho Têrêsa đi vào Phúc Âm, Chúa đã cho chị qua con đường sách Gương Phúc. Sách Gương Phúc mang nội dung “Bắt chước gương Chúa Giêsu”. Têrêsa viết: “Từ lâu, con đã sống bằng thứ bột tinh tuyền chứa đựng trong cuốn Gương Phúc. Đó là cuốn sách độc nhất đã đem lại cho con nhiều ơn ích, vì lẽ lúc bấy giờ con chưa biết tìm kiếm kho tàng giấu ẩn trong Phúc Âm. Con thuộc lòng hầu hết mọi chương cuốn sách Gương Phúc quí giá”. Thời gian lúc đó, Têrêsa mới 13 tuổi. Gương Phúc đưa tới Phúc Âm. Khi nói về Phúc Âm, Têrêsa khẳng định: “Trên tất cả, vẫn là Phúc Âm. Nó nâng đỡ con suốt giờ nguyện gẫm. Nơi Phúc Âm, con tìm được tất cả những gì cần thiết cho linh hồn non yếu của con. Con luôn luôn tìm được ở đó những nguồn sáng mới, những ý nghĩa bí ẩn và huyền nhiệm”. Thực vậy, đọc Thủ bản Tự Thuật, tôi có cảm tưởng suốt đời Têrêsa đã đi trên một con đường được chiếu sáng bởi những chặng cột đèn Phúc Âm, san sát chạy dài. Nếu tìm Phúc Âm trong đời Têrêsa do chính Têrêsa kể lại, người ta thấy những tư tưởng Phúc Âm được nhắc lại rất nhiều lần, hoặc nguyên văn hoặc ý nghĩa. Chỉ xin nêu lên một ít nguồn Phúc Âm và số lần được dùng trong Tự Thuật.
- Phúc Âm Matthêu 71 lần.
- Phúc Âm Marcô 13 lần.
- Phúc Âm Luca 59 lần.
- Phúc Âm Gioan 62 lần.
- Thư gởi Rôma 10 lần.
- Thư gởi 1 Corintô 13 lần
- Thư gởi 2 Corintô 06 lần.
- Thư gởi Galata 03 lần.
- Thư gởi Colôsê 04 lần.
- Thư gởi Thessalonica 12 lần.
- Thư gởi Do Thái 04 lần.
- Khải Huyền 21 lần.
- Tông đồ công vụ 03 lần. Các nguồn Phúc Âm, khi đi vào đời Têrêsa, đã không còn là một lý thuyết, nhưng đã biến thành sự sống của Têrêsa. Thiên Chúa trong Phúc Âm là tình yêu của chị. Con đường Chúa Giêsu đi trở nên cuộc đời của chị. Khi Têrêsa nói Thiên Chúa là tình yêu của tôi, là Đấng cứu độ của tôi, thì chữ “của tôi” mang rất nhiều ý nghĩa sống động. Chính tình tiết đó đã là một yếu tố thúc đẩy tôi học Phúc Âm nơi thánh nữ Têrêsa. Ngoài ra, một yếu tố khác cũng là một vẻ đẹp thu hút tôi đến với tư tưởng Têrêsa. Yếu tố là tinh thần đổi mới. TINH THẦN ĐỔI MỚI. Trong một giai đoạn lịch sử có thói quen quá đề cao nhiều thứ giá trị, nhưng lại hạ thấp đức bác ái ít là trên thực tế, thì Chúa đã dùng nữ tu Têrêsa để nhấn mạnh đến đức ái. “Ôi Giêsu! Tình yêu của con ôi! Con đã tìm thấy ơn gọi của con rồi, ơn kêu gọi của con là tình yêu... Trong trái tim Hội Thánh Mẹ con, con sẽ là tình yêu”. Trong một nếp sống đạo mà việc cạnh tranh thành tích, ưa thích địa vị, có nguy cơ trở thành bình thường, thì Chúa gởi chị nữ tu dòng kín Carmel này đến giới thiệu con đường thơ ấu bé nhỏ: “Con muốn tìm ra một phương pháp lên trời bằng một tiểu lộ, vừa thẳng lại vừa ngắn, một tiểu lộ hoàn toàn mới... Thế rồi, con đã đi tìm trong Sách Thánh,. .. và con đã đọc thấy những lời sau đây phát xuất từ miệng Đấng Khôn Ngoan muôn đời: “Ai thực bé nhỏ thì hãy đến với Ta”... Vì thế mà con chẳng cần phải lớn lên, trái lại con cần phải cứ bé hoài và càng ngày càng sẽ bé dần đi mãi”. Trong một tình hình mà con người muốn khẳng định mình một cách quá đáng, cả trong lãnh vực thiêng liêng, Chúa cho chị nữ tu Têrêsa đưa ra một chân lý đầy khiêm tốn, đề cao vai trò ơn thánh, nhìn nhận sự yếu đuối của mình: “Lúc đời tàn, con sẽ trở về với Chúa, hai bàn tay trắng, vì con không xin Chúa đếm các việc con làm. Trước mặt Chúa, sự công chính của con vẫn còn đầy thiếu sót. Bởi vậy, con muốn mặc lấy chính sự thánh thiện của Chúa và chiếm đoạt chính Chúa cho đến muôn đời. Con chẳng muốn hưởng ngai báu hay triều thiên nào khác hơn là chính Chúa, ôi lạy Chúa Giêsu con yêu mến”. Trong một cách sống đạo quen an phận với việc giữ đạo nhàn hạ trong nội bộ, với cái nhìn hẹp hòi, Chúa dùng chị dòng trẻ Têrêsa nói lên niềm thao thức truyền giáo một cách mê say: “Con muốn đi rao giảng Phúc Âm khắp năm châu, đến tận cùng những hải đảo xa xôi nhất. Con muốn làm vị thừa sai không những trong một ít năm, mà còn muốn được làm thừa sai từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế”. Thiết tưởng những gì trên đây mà Têrêsa đã nghĩ và sống, đều có thể thực hiện được đối với chúng ta. Nếu cần, mỗi người chúng ta hãy bắt đầu lại hành trình thiêng liêng của mình. Thời của Hội Thánh sẽ đến, khi nhiều người của Hội Thánh sống trong thế gian như những trái tim đầy lửa yêu thương, mang thánh giá cứu độ, thích đi vào những con đường bé nhỏ phục vụ một cách khiêm nhường, để giới thiệu Thiên Chúa là tình yêu xót thương. Thánh nữ Têrêsa có lần đã hứa: Khi về trời, sẽ làm mưa hoa hồng xuống. Tôi thấy là thánh nữ đã và đang giữ lời hứa ấy. Nhưng điều nên để ý ở đây là: Mọi người có đón nhận các hoa hồng đó không? Bởi vì đây là những hoa hồng có thánh giá, tượng trưng cho hy sinh. Hai vẻ đẹp đó vốn đi đôi với nhau. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Vì thế, tượng ảnh thánh nữ Têrêsa thường ôm hoa hồng và thánh giá. Chúng ta nên tâm sự nhỏ nhẹ với thánh nữ về hình ảnh như thế của riêng ta. Thiết tưởng đó cũng là cách chúng ta mừng lễ của vị thánh thân thương đã có một thời ao ước được sang tu tại Việt Nam chúng ta. + GM Bùi Tuần
Lần đầu tiên tôi được hân hạnh gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là ngày lễ Truyền giáo, tháng 10, năm 1980. Hôm đó, Đức Hồng Y Rossi, Bộ Trưởng Bộ Truyền giáo tổ chức một bữa tiệc thân mật tại trường Truyền giáo. Các Đức Hồng Y, Giám mục và nhiều linh mục hiện diện ở Rôma đã được mời tham dự. Tôi may mắn có mặt. Chủ sự bữa tiệc là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Cuối bữa, Đức Thánh Cha đứng lên nói mấy lời cảm ơn, rồi xin về nghỉ trưa ít phút theo ý Đức Hồng Y Bộ trưởng Bộ Truyền giáo, vì chương trình làm việc sau đó còn dài. Để tiễn Ngài, nhiều Hồng y, Giám mục, linh mục, đứng chen nhau, theo lối Ngài sẽ ra cửa phòng ăn. Ngài đi chậm, tươi cười, vẫy tay chào bên phải bên trái, thỉnh thoảng nói vài lời với những người quen mà Ngài bất chợt gặp thấy đứng gần. Gặp gỡ đầu tiên. Khi tới chỗ tôi đứng, đột nhiên Ngài dừng lại. Ngài nhìn tôi và hỏi: Đức Cha là Giám mục nước nào? Tôi sung sướng thưa: Con là Giám mục Việt Nam mới qua. Vừa nghe “Việt Nam”, Ngài lộ vẻ vui mừng rõ rệt trên nét mặt. Ngài hỏi tiếp: Đức Cha chưa tới tôi, phải không? Tôi bình tĩnh trả lời: Con đã xin vào bái yết Đức Thánh Cha. Và mỗi ngày mỗi đợi. Ngài nói: Nhưng phải phấn đấu. Phải phấn đấu. Ngài thân mật bắt tay tôi, rồi tiếp tục vừa đi vừa nhìn chào các vị khác. Sáng hôm sau, tôi đang đi dạo ở vườn nhà trọ Convitto Vietnamita, thì thấy một chiếc xe nhỏ phóng nhanh vào. Người gác gọi tôi báo tin: Có thư tối khẩn từ điện Vatican gởi Đức Cha. Tôi vội mở, thì thấy Văn phòng Đức Giáo Hoàng khẩn báo: Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp Đức Cha vào lúc 11 giờ. Ngay sáng hôm nay. Xin có mặt đúng giờ. Bấy giờ đã quá 9 giờ 30. Tôi rất xúc động, vội lên phòng, mặc phẩm phục, rồi gọi xe đi. Chỉ một mình. Không kịp báo cho ai đi theo. Tới điện Vatican thì đã gần 11 giờ. Tôi được dẫn vào phòng đợi, sát cạnh thư viện, nơi Đức Thánh Cha hay tiếp khách cá nhân. Thấy tôi không đeo thánh giá, vì quên, do quá vội, Văn phòng Đức Thánh Cha tặng tôi một thánh giá, mà tới nay tôi còn mang như một ý nghĩa đời mình. Đúng 11 giờ, cửa phòng mở. Một Đức ông thư ký ra mời tôi. Vừa bước vào, tôi vui mừng thấy Đức Thánh Cha đang ngồi đợi ở bàn giấy. Ngài đứng dậy, vừa bắt tay, vừa tươi vui nhắc lại lời Ngài nói trưa hôm trước: Phải phấn đấu. Tôi biết là chính Ngài đã phấn đấu cho tôi. Tôi được mời ngồi. Trên bàn, trước mặt Ngài và tôi, có bản đồ Việt Nam. Tôi chỉ cho Ngài thấy vị trị giáo phận Long Xuyên. Sau nhiều câu thăm hỏi, Đức Giáo Hoàng ngỏ ý xem tôi có muốn trình bày điều gì riêng không. Được khích lệ, tôi bắt đầu giãi bày tâm tư của tôi về truyền giáo. Tất cả đều trong đề tài này: Trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay, Mùa Xuân thiêng liêng có thể sẽ đến với Hội Thánh, từ đâu, khi nào, cách nào, qua những luồng gió nào? Tôi nói say sưa. Đức Thánh Cha nghe chăm chú. Đôi lúc trao đổi, luận đàm. Thời gian qua mau. Vị thư ký Văn phòng khe khẽ mở cửa, nhỏ nhẹ trình Đức Giáo Hoàng điều gì đó, mà tôi đoán là đã đến lượt vị khách tiếp theo. Tôi xin phép Đức Giáo Hoàng để được rút lui. Nhưng Ngài bảo: Cứ tiếp tục. Tôi lại trình bày tiếp những ý tưởng của tôi. Một lát sau, vị thư ký lại rón rén bước vào, có vẻ như sốt ruột, muốn nhắc Đức Giáo Hoàng về chương trình tiếp khách sao đó. Tôi tự nguyện đứng dậy. Đức Giáo Hoàng lại bảo tôi: Không sao đâu. Cứ tiếp tục. Tôi bình tĩnh trình bày xong cái nhìn của tôi về tình hình truyền giáo. Đức Giáo Hoàng tỏ vẻ không vội vã gì. Ngài đón nhận những thao thức của tôi, với nhiều khích lệ, góp ý, và đưa ra quan điểm của Ngài. Sau cùng, Ngài nói: Khi mới làm Giáo Hoàng, tôi cũng có nhiều ý nghĩ giống như Đúc Cha. Tôi rất muốn thực hiện. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thực hiện được tất cả những gì tôi ước muốn. Khi từ biệt, Ngài tặng tôi chuỗi Mân Côi và ôm hôn với lời khích lệ thân thiết. Ấn tượng sâu sắc. Những gì đã xảy ra trong lần yết kiến đầu tiên này đã gây nơi tôi những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là lòng nhân ái, sự khiêm nhường khôn ngoan và tính phấn đấu của Đức Thánh Cha. Nhân ái ngay từ giây phút đầu tiên. Tôi cảm thấy Ngài cho tôi một sự gần gũi, cởi mở thân mật, thoải mái đơn sơ rất tự nhiên trong gặp gỡ và trao đổi. Khiêm nhường khôn ngoan của Ngài dễ nhận ra, khi Ngài không nói đến những gì Ngài đã làm được, mà chỉ nói về những gì Ngài chưa làm được. Phấn đấu ở chỗ Ngài cố gắng làm tốt hết sức bổn phận của mình, bằng cầu nguyện, hy sinh, sáng tạo. Tôi có cảm tưởng là trong giờ phút gặp gỡ đàm đạo, chúng tôi không phải là hai người, mà là ba, bởi vì có Chúa ở giữa chúng tôi. Nhân ái, khiêm nhường khôn ngoan và phấn đấu là món quà quí Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã âm thầm gởi vào tâm hồn tôi, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Tôi nhận được món quà tinh thần đó từ những giây phút bên Ngài, hơn là từ các tài liệu huấn giáo của Ngài. Từ 1980 đến 2002, tôi được hạnh phúc gặp riêng Ngài nhiều lần. Lần nào nhân ái, khôn ngoan khiêm nhường và phấn đấn cũng vẫn là những ơn thánh Chúa ban cho tôi qua vị đại diện Chúa ở trần gian này. Có điều là nhiều khi tôi đã không biết dùng nên những ơn quí báu đó. Tôi tin rằng: Chúa ở trong Đức Thánh Cha một cách rất đặc biệt, rất sống động. Tôi càng tin như thế, khi Đức Thánh Cha bị đau bệnh. Với những đau đớn thể xác và tinh thần phải chịu hằng ngày, Đức Thánh Cha của chúng ta luôn thông phần đau khổ của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Nhìn Ngài, tôi có cảm tưởng nhìn thấy chính Chúa Giêsu đang vác thánh giá. Riêng tôi, tôi vẫn coi Ngài là một gương sáng cho mọi mục tử, bất cứ ở cấp nào, tuổi nào, trong tình trạng nào. Nơi Ngài, và với Ngài, tôi có thể tìm được con đường hy vọng cho bản thân tôi, dù trong những hoàn cảnh phức tạp nhất. Thông hiệp. Khi thông hiệp với Ngài, tôi an tâm vì biết mình sống và hoạt động với tư cách của người được sai đi, mặc dù tôi rất bất xứng. Tôi cho việc được sai đi bởi Đức Giáo Hoàng là một đặc ân tôi phải đón nhận với lòng khiêm tốn. Khiêm tốn bước xuống gặp gỡ những thân phận người nghèo. Bước vào dòng chảy những cuộc đời đau khổ. Sợi dây thông hiệp của tôi với Đức Giáo Hoàng là rất cụ thể, rất tích cực, rất tự do, đầy tinh thần trách nhiệm Phúc Âm, và tỉnh thức với những dấu chỉ của thời đại. Từ đó, tôi xác tín vai trò của Giáo Hội địa phương là rất quan trọng. Và cũng từ đó, tôi hiểu thêm sự cần thiết phải thông hiệp rộng rãi với các thành phần Hội Thánh, trong tình yêu mà Chúa dành cho Hội Thánh. Nền tảng sâu xa của những thông hiệp này là đức ái. Một đức ái có 3 phần: Một là biết tỉnh thức đón nhận tình Chúa yêu thương chúng ta. Hai là biết đáp lại tình yêu của Chúa bằng lòng ta tin mến biết ơn Người. Ba là biết thực thi bác ái đối với mọi người và xã hội qua sự thương cảm, phục vụ khiêm nhường và nhạy bén với những biến chuyển. Nhờ nhận thức trên đây và nhờ nhìn vào gương sáng Đức Giáo Hoàng, tôi nay được hưu mà vẫn thấy còn cần phấn đấu, cố gắng làm những việc lành nhỏ. Vì trong mấy chục năm, bao việc tốt tôi muốn làm cho Hội Thánh và Đất Nước mà không làm được. Thiết tưởng sự gắn bó của tôi đối với Đức Thánh Cha sẽ được coi là một bó hoa đơn sơ tôi dâng lên Chúa, nhân dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, tháng 10 này. Hôm nay, khi mừng Đức Gioan Phaolô II, tôi nhìn về tương lai. Tôi thấy thời hậu Gioan Phaolô II đang đợi nhiều giải quyết mới, nhiều cải cách mới, để có những hy vọng mới cho một Hội Thánh luôn cần được đổi mới trong Chúa Thánh Thần. Đi về phía trước với tinh thần tỉnh thức
Đầu tháng 10 này, nhiều luồng dư luận trên thế giới đã suy đoán rằng: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có thể sẽ được trao tặng giải Nobel Hoà Bình 2003. Càng đến ngày kỷ niệm 25 năm Giáo Hoàng của Ngài, suy đoán đó càng phồng lên như một quyết đoán. Nhưng, sự việc đã xảy ra khác. Người được giải không phải là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mà là một nữ luật sư Iran Hồi giáo. Sự kiện này tự nhiên đặt ra cho nhiều người một vấn đề. Đó là Tế nhị giữa Công giáo và Hồi giáo. Riêng đối với tôi, vấn đề này là một gợi nhớ và là một linh cảm. Một gợi nhớ. Cách đây gần 20 năm, trong một bữa ăn trưa với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đang khi nói chuyện về những thách đố lớn trong tương lai cho Giáo Hội, đột nhiên Đức Giáo Hoàng hỏi tôi: Theo ý Đức Cha, thì thách đố nào sẽ là lớn nhất? Tôi trả lời: Theo ý con, thách đố lớn nhất sẽ là phong trào duy vật thực tiễn, tự do buông thả, như đang bắt đầu nổi lên tại Âu châu. Sau một chút thinh lặng, Đức Giáo Hoàng trả lời: Theo ý tôi, thách đố lớn nhất sẽ là Hồi giáo. Ngài không giải thích gì. Nhưng tôi hiểu Ngài nhìn sâu và nhìn xa với lòng kính trọng Hồi giáo. Lúc đó, tôi thực sự không quan tâm đến Hồi giáo. Dần dần tôi mới hiểu. Ngày Chúa nhật, 12-12-1995, khi nói về thánh nữ Catarina, Đức Giáo Hoàng đã khéo léo đưa ra những lời tế nhị, mà các nhà bình luận cho là Ngài đã muốn xin lỗi Hồi giáo về cuộc thập tự chinh do Toà Thánh Công giáo cách đây rất lâu đã chủ xướng đánh lại Hồi giáo. Ngài nói: “Ngày nay chúng ta phải biết ơn Thánh Thần Thiên Chúa đã đưa chúng ta đến sự hiểu biết rõ ràng rằng: Cách tốt nhất và đồng thời cũng là cách hợp với Phúc Âm hơn cả, để đối phó với các vấn đề có thể nảy sinh trong những liên hệ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo và giữa các nền văn hoá, đó là đối thoại kiên trì, vừa vững vàng và vừa kính trọng”. Những lời trên đây gợi nhớ lại việc thánh nữ đã hăng hái vâng ý Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XI hô hào thánh chiến chống Hồi giáo. Thập tự chinh này đã kéo dài qua nhiều giáo triều: Calixtô III, Piô II và Phaolô II. Trong quá khứ, thập tự chinh xem ra được hiểu là cuộc chiến do Công giáo chủ trương tấn công Hồi giáo. Ngoài thập tự chinh, Công giáo còn có một số sách thần học kết án Hồi giáo là một tà giáo. Những trang đó lại được viết ra bởi những vị thánh, như Gioan Damascenô và thánh Tôma. Tất cả những việc đáng tiếc như trên, nên được hiểu trong thông cảm do bối cảnh lịch sử và não trạng thời đó. Tuy nhiên, những chữ viết và những cuộc chiến đã làm cho hai tôn giáo xa nhau. Năm 1982, dịp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm nước Nigeria, phía Công giáo đã tổ chức mời đại diện Hồi giáo và các tôn giáo khác tới gặp Đức Giáo Hoàng. Nhưng đại diện Hồi giáo đã từ chối lời mời. Năm 1995, dịp Đức Giáo Hoàng đến thăm nước Kenya, ban tổ chức cũng đã mời đại diện Hồi giáo. Họ cũng từ chối lời mời. Năm 1994, Thượng Hội đồng các Giám mục Phi châu được triệu tập ở Roma. Một số người Hồi giáo quá khích đã gọi đó là một thập tự chinh chống Hồi giáo. Vài gợi nhớ trên đây cùng những thời sự từ mấy năm gần đây và cả hiện nay cho tôi thấy điều mà Đức Giáo Hoàng chia sẻ cho tôi cách đây gần hai chục năm là một cái nhìn tiên tri. Tôi không hiểu cái nhìn tiên tri đó sẽ được giải quyết thế nào. Tôi chỉ có một linh cảm là vấn đề sẽ còn rất phức tạp, nếu không có một phấn đấu hợp ý Chúa. Một linh cảm. Trong cuốn “Ba cám dỗ trong Hội Thánh” (Trois tentations dans l'Eglise) tác giả Alain Besançon đã trình bày khá rõ sức thu hút hiện nay của Hồi giáo. Thu hút nhất là một đức tin rất mạnh. Đức tin đó được lan toả ra trong mọi sinh hoạt đời sống hằng ngày. Ngay từ sáng sớm, người ta nghe các nơi vang lên tiếng gọi cầu nguyện. Nhiều nơi, người ta thấy những đoàn đông đảo tuốn đến thánh đường. Chỗ nào bất cứ, người ta cũng dễ gặp thấy những người cầm trong tay Kinh Thánh Coran. Ngày ngày, người ta chứng kiến những đám đông qùi sấp mặt xuống đất cầu nguyện. Tín đồ Hồi giáo sống tin tưởng, xác tín với đức tin của mình. Tin như thấy một sự thánh thiêng hiển nhiên, rõ ràng. Cuộc sống đức tin rất mạnh đó là một vẻ đẹp. Cộng thêm vào đó là một xã hội truyền thống trật tự, đầm ấm, liên đới. Với một nền văn hoá riêng biệt, không thiếu những giá trị vừa linh thiêng lại vừa hiện đại. Tất cả đều do một tôn giáo được coi là vừa tự nhiên vừa do mạc khải từ trời. Trước một thế giới như vậy, nếu các người công giáo sống đức tin chỉ hời hợt, luôn bất mãn với xã hội của mình, nghiêng về cá nhân chủ nghĩa, thì dần dần sẽ tự mình chìm vào một thế giới khác. Riêng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mở ra con đường đối thoại. Nhất là từ năm 1986 với biến cố đại kết Assisi, người ta ghi nhận đã có một số biến chuyển tốt. Nhưng, xem ra còn chưa thấy được chân trời của sự tha thứ lẫn nhau. Chân trời của sự tin tưởng nhau. Chân trời của những chân lý chung. Chân trời của những trách nhiệm chung. Chân trời của sự cầu nguyện chung. Thiết tưởng đây là một thách đố lớn không riêng cho tôn giáo nào, mà cho chung nhân loại. Đức Thánh Cha đã phấn đấu rất nhiều, bằng cuộc sống cầu nguyện, bằng cuộc đời hy sinh đầy đau đớn, bằng những vận động không mỏi mệt cho hoà bình thế giới và công việc đại kết giữa các tôn giáo, nhất là với Hồi giáo. Tôi tin rằng Ngài đã làm tròn trách nhiệm. Còn chúng ta, theo gương Ngài, chúng ta có một cái nhìn xa nào về một thách đố nào đó xuất phát từ các tôn giáo xung quanh ta không? Nếu có, chúng ta có những giải quyết nào, hợp với ý Chúa? Và nhất là chúng ta đã và đang thực hiện ý Chúa về thách đố đó thế nào? Tình hình không đơn giản đâu. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần lắng nghe và thực thi Lời Chúa sau đây: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng xác thịt lại yếu đuối” (Mc 14,38).
GB. BÙI TUẦN Bài giảng thánh lễ kỷ niệm Chúa Giáng sinh năm 2003 tại Nhà Thờ Chánh Toà Long Xuyên
Tại Việt Nam hôm nay, kỷ niệm Chúa Giáng Sinh đang làm nên một quang cảnh khác thường: 25-12-2003 Bùi-Tuần 932
1- Tại Việt Nam hôm nay, kỷ niệm Chúa Giáng Sinh đang làm nên một quang cảnh khác thường. Quang cảnh đẹp, quang cảnh vui, quang cảnh nao nức, chan hoà tình nghĩa. Quang cảnh khác thường này xuất hiện đều khắp. Người Thiên Chúa giáo và người ngoài Thiên Chúa giáo đều cùng hoà nhập vào một bầu khí thiêng liêng ấm áp, cho dù thời tiết năm nay khá lạnh. Số người dọn mừng lễ Giáng sinh thực vô kể. Họ dọn với những ý hướng khác nhau. Nhưng, theo tôi, ý hướng thích hợp nhất sẽ là: Muốn gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng giáng sinh cứu đời. Ta nên gặp Chúa Giêsu, ta phải gặp Chúa Giêsu, đó mới là cách ta mừng lễ Chúa giáng sinh một cách có ý nghĩa. 2- Chúa Giêsu hiện nay vô hình, nhưng vẫn hiện diện sống động khắp nơi. Người vẫn ở bên ta, vẫn nhìn thấy rõ con người của ta và cuộc đời của ta. Người vẫn đợi chờ ta, nhất là trong những dịp lễ của Người. Vì thế, sự ta gặp gỡ Chúa Giêsu là điều nên thực hiện. Thực hiện thế nào? Thưa: Thực hiện với hai đặc tính này: Đặc tính thứ nhất là nội tâm. Nghĩa là hãy đến với Chúa bằng tâm tình khao khát, nhìn Chúa bằng tâm tư tin mến, nói với Chúa bằng tâm hồn khiêm tốn, phó thác vào thánh ý Người. Chúa Giêsu từ trời bước xuống trần gian, do động lực yêu thương, không phải để đi vào đền thờ, lầu đài, nhưng để đi vào nội tâm từng người. Nhờ vậy, mà mọi người, dù trong hoàn cảnh nào, vẫn có thể cùng với Chúa tìm được hy vọng và lẽ sống. Trong cái nhìn đó, Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đã đón Chúa Giêsu bằng nội tâm của mình. Nội tâm mới là yếu tố chính của sự gặp gỡ Chúa. Đặc tính thứ hai là đơn sơ. Nghĩa là hãy đến với Chúa bằng tinh thần thơ ấu, trẻ thơ. Khi chính Chúa đã đến với nhân loại trong thân phận một hài nhi bé bỏng, nghèo nàn, thì bất cứ ai nghèo khổ nhất, yếu đuối nhất, khốn cùng nhất cũng có thể đến được với Người. Họ chắc chắn sẽ được Người chia sẻ và đồng hành. Vì thế, ta đừng dại đến với Người với chức tước, địa vị, công phúc, tài đức. Nhưng hãy đến với Người một cách khó nghèo bé nhỏ. Hãy đến với Người như kẻ cần được cứu độ về mọi mặt. Nhờ tinh thần đó, các mục đồng Belem đã gặp được Chúa Giêsu. 3- Với tinh thần đơn sơ và thái độ nội tâm, khi ta gặp Chúa Giêsu, ta sẽ chào kính Người bằng một lời, mà Người ưa thích nhất. Lời đó là: Con tin Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Thực vậy, yêu thương là bản tính của Thiên Chúa. Đó là bản tính vô cùng đẹp. Khi được gặp Thiên Chúa là tình yêu, chúng ta sẽ dần dần nhận ra một Thiên Chúa rất dịu dàng, dễ thương mến, dễ gần gũi. Chúng ta cũng sẽ dần dần cảm nhận thấy: Tình yêu Thiên Chúa chính là nguồn chảy ra mọi thứ sáng kiến cứu độ: Như mọi thứ thương xót, mọi thứ thương cảm, mọi thứ thương giúp, mọi thứ thương tha, mọi thứ thương tình. Từ đó, ta có thể hiểu phần nào lời thánh Gioan viết: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). Một khi nhận thức được chân lý căn bản đó, ta sẽ bước tới một nhận thức kèm theo, đó là phải yêu thương nhau. Như thánh Gioan dạy: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,11), “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1 Ga 4,20). 4- Tới đây, chúng ta có thể vừa dựa vào Lời Chúa, vừa dựa vào kinh nghiệm, để xác tín mấy điều sau đây: Ai mến Chúa yêu người thực sự, người đó có sự sống dồi dào đích thực. Ai mến Chúa yêu người thực sự, người đó có chân lý sáng ngời đích thực. Ai mến Chúa yêu người thực sự, người đó có bình an sâu xa đích thực. Ai mến Chúa yêu người thực sự, người đó có hạnh phúc vững bền đích thực. Nhìn tình hình thế giới hiện nay, ta không thể không lo ngại. Vì bao đe doạ tới sự sống, bao đe doạ tới chân lý, bao đe doạ tới hoà bình, bao đe doạ tới hạnh phúc. Lý do sau cùng là vì thiếu mến Chúa và thiếu yêu người. Chắc rằng một mình ta sẽ không thể thay đổi tình hình đó. Nhưng, chắc không chỉ mình ta đâu. Có rất nhiều người, đầy thiện tâm thiện chí. Có rất nhiều người cũng đang đi tìm Chúa và sẵn sàng đón Chúa với nội tâm sâu và đơn sơ khiêm nhường. Vì thế, chúng ta có quyền tin tưởng: Chúa sẽ ra tay can thiệp vào tình hình, khi chúng ta góp phần bé nhỏ của ta vào việc đón Chúa tình yêu và chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh. Với những tư tưởng như trên, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người và từng người một lễ Noel tốt đẹp, và một mùa Giáng sinh tràn đầy ơn Chúa.
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang. Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng. Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của
tình yêu”. Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang. Có những nước mắt của tình yêu dạt dào. Có những nước mắt của nỗi buồn,
nhung nhớ. Có những nước mắt của lòng hối hận
khôn nguôi. Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng. Có những nước mắt của ân tình,
hiếu nghĩa. Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ. Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng: Khám phá ra những chân lý nhân sinh. Khám phá ra những hy vọng cứu độ. Khám phá ra chính mình. Khám phá ra chân lý. Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng. Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26). Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn. Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ. Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác. Khám phá ra hy vọng. Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ. Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13). Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào. Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ. Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ. Khám phá ra chính mình. Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi. Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời. Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương: Gọi hãy cảm thương. Gọi hãy chia sẻ. Gọi hãy trở về. Gọi hãy hiến dâng. Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ. Gọi hãy sám hối và tín thác. Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời. Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Trong năm, nhất là trong tháng 11, tháng kêu gọi nhớ về những người đã qua đời, tôi hay đi viếng các mồ mả. Khi sức khoẻ không cho phép đi, tôi đành ở nhà. Nhưng dành nhiều thời giờ cho những người bên kia thế giới. Khi gặp họ trong cầu nguyện, tôi thường hỏi thăm họ: Ở bên đó, họ có được hạnh phúc không? Một trả lời. Một cách nào đó tôi nghe được một câu trả lời trống. Câu trả lời đó chính là lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu người ta được cả thế gian này, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì” (Mt, 16,26). Câu mà các hồn trong thế giới bên kia trả lời trên đây đã càng giúp tôi xác tín: Được lên thiên đàng mới là giữ được mạng sống, mới thực là hạnh phúc, mới thực là tới đích. Còn nếu không được lên thiên đàng, thì kể như mất mạng sống, hơn nữa phải kể như mất hết, cho dù trên đời này, mình được đủ mọi giàu sang, của cải, sung sướng, được cả thế giới tung hô chúc tụng. Tôi có cảm tưởng là: Khi tôi hiểu như vậy, thì có một bầu khí thiêng liêng xuất hiện, gây nên một sự thông hiệp giữa các linh hồn những người quá cố và tôi. Thông hiệp trong chân lý, thông hiệp trong liên đới, thông hiệp trong Chúa cứu độ. Bầu khí này thôi thúc tôi hãy có một chọn lựa kịp thời, đúng đắn và dứt khoát. Chọn lựa đó là phải sống tốt ở đời này để được sống hạnh phúc thiên đàng đời sau. Từ đó, vấn đề đặt ra cho tôi là phải sống tốt ở đời này thế nào? Thế nào là sống tốt? Thiết tưởng sẽ có nhiều quan điểm. Một chọn lựa. Riêng tôi, tôi chọn quan điểm đơn sơ này: Sống tốt ở đời này là sống vâng phục thánh ý Chúa, trong mọi ngày, trong mọi sự, trong mọi hoàn cảnh, suốt cuộc đời tôi. Vâng phục thánh ý Chúa sẽ là lương thực cuộc sống tôi. Tôi nói thế theo tinh thần lời Chúa Giêsu phán xưa: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Vâng phục thánh ý Chúa sẽ là hướng đi của đời tôi. Tôi nói thế theo gương Đức Mẹ xưa đã thưa với thiên sứ Gabrie: “Con là tôi tớ Chúa, con xin vâng ý Chúa” (Lc 1,38). Khi đi vào cụ thể, tôi nhận ra rằng: Sống vâng phục thánh ý Chúa là sống bác ái yêu thương. “Mến Chúa yêu người” là hai điều răn trọng nhất (Mt 22,34-40). Yêu nhau là dấu chỉ mến Chúa, và là giới răn mới Chúa Giêsu trối lại trước khi tự nạp mình chịu chết để cứu độ nhân loại: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Càng được Chúa dẫn vào con đường vâng phục thánh ý Chúa tập trung vào tình yêu, tôi càng thấy mỗi người sống như thế sẽ viết nên bản nhạc tình yêu của riêng đời mình. Một bản nhạc. Tình yêu trong tinh thần vâng phục ý Chúa là một hành trình phục sinh. Nghĩa là: Một tình yêu ca tụng tạ ơn. Bởi vì tinh thần vâng phục thánh ý Chúa sẽ cho ta nhìn thấy: Tất cả đều là hồng ân. Một tình yêu phục vụ khiêm tốn. Bởi vì tinh thần vâng phục thánh ý Chúa sẽ cho ta niềm vui, khi được phục vụ như người đầy tớ theo gương Đức Mẹ, hoặc như người mang thân phận nô lệ, theo gương Chúa Giêsu (Pl 2,7). Một tình yêu hy sinh cho người khác. Bởi vì tinh thần vâng phục thánh ý Chúa sẽ cho ta sáng kiến bắt chước Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa chịu thối đi, để nảy sinh hoa trái (Ga 12,24). Kinh nghiệm cho thấy: Sống tình yêu trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa đòi phải chiến đấu rất nhiều. Chủ yếu là phấn đấu với chính mình. Có phấn đấu kiên trì mạnh mẽ với chính mình, thì mới làm cho tình yêu được đẹp đẽ, sáng ngời, quí giá, như bài ca sau đây của thánh Phaolô: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hận, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi. Không nóng giận, không nuôi hận thù. Không mừng khi thấy sự gian ác. Nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cor 13,4-7). Sống tình yêu như vừa phác hoạ, sẽ là sống vâng phục thánh ý Chúa. Sống vâng phục thánh ý Chúa như vậy sẽ gặp được Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Được gặp Người, được sống với Người, được ở lại trong Người, chính là sống hạnh phúc thiên đàng. Một thiên đàng. Vì thế, tôi tin tưởng và tôi cũng cảm nghiệm rằng: Sống tình yêu trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa đem lại cho tôi bình an, hạnh phúc, cho dù giữa bao nghịch cảnh trong ngoài. Tôi nhìn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Người sống tình yêu với Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Người sống tình yêu với kẻ ghen ghét làm khổ nhục Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Chúa Giêsu sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho nên, dù trong cảnh đau đớn nhất, Người vẫn là chính thiên đàng cho những ai theo Người. Chúa Giêsu đã là thiên đàng cho tôi ngay ở trần gian này. Thiên đàng ở trần gian này là sống tình yêu trong Chúa Giêsu, Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Thiên đàng ở trên trời là sống tình yêu trong Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn tình yêu vĩnh cửu vô tận của mọi tình yêu trong sáng. Tôi hy vọng vững vàng: Mặc dù tôi rất bất xứng, tôi vẫn được Chúa nhân lành thương xót, Người sẽ rộng tình ban ơn. Từ thiên đàng ở trần gian, tôi sẽ được Người đưa lên thiên đàng ở trên trời. Nơi đó, tôi sẽ vui mừng gặp lại những hồn đã lên đó trước tôi. Chúng tôi sẽ cùng nhau ca ngợi tạ ơn Đấng đã cứu mạng sống chúng tôi, đến muôn thuở muôn đời.
Sáng thứ ba, mùng 04 vừa qua, tôi đến phòng họp Toà Giám Mục, để đồng tế cầu cho Cha Piô vừa tắt thở. Khi vừa nhìn thấy Ngài trong phẩm phục dâng lễ nằm bình an bất động giữa một hàng rào hoa tươi, tôi buột miệng kêu lên nho nhỏ: Tạ ơn Chúa. Lời “Tạ ơn Chúa” thực sự lúc đó đã tự nhiên vụt bay ra từ tâm hồn tôi đang gẫm suy lời Chúa Giêsu cầu nguyện xưa: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con tạ ơn Cha, vì đã giấu kín, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Giờ đây, trong thánh lễ tiễn biệt này, tôi thấy tâm tình tạ ơn Chúa càng dâng lên cao trong tâm hồn tôi. Vì thế tôi xin được phép chia sẻ. Thực vậy, Cha Piô đã sống tinh thần bé mọn, khiêm nhường. Nhờ đó Cha đã được Chúa ban ơn cho Cha cảm nhận được nhiều điều, mà nhiều người thông thái về đạo đã không cảm nhận được. I. Trước hết, Cha Piô sống tinh thần bé mọn khiêm nhường. Sống bên Ngài lâu năm, tôi thấy Ngài thế này: Ngài là người biết hạ mình cầu nguyện. Cầu nguyện với tâm tình khó nghèo, vâng phục. Ngài là người biết thua, chứ không thích thắng. Hễ có tranh chấp, Ngài sẵn sàng chọn phần thua. Chọn lựa đó vì mến Chúa yêu người và vì bình an theo ý Chúa. Ngài là người biết nhường, chứ không thích giữ. Hễ thấy ai có khả năng hơn mình, lập tức Ngài xin nhường. Nhường địa vị, nhường chức, nhường quyền. Ngài là người biết nhịn. Tôi biết đời Ngài không phải là không gặp sóng gió. Nhưng Ngài nhịn. Cho dù nhịn là nhục, như người ta vốn nói nhịn nhục đi đôi với nhau. Ngài là người biết quên mình. Ngài thực sự có nhiều công trong việc xây dựng họ đạo và giáo phận. Nhưng khi nghe ai khen Ngài, lập tức Ngài kể ra các người đã cộng tác với Ngài, đã nâng đỡ Ngài. Ngài cho họ là có nhiều công hơn Ngài. Ngài là người biết hoà mình vào cảnh nghèo khó đơn sơ của đoàn chiên. Với rất nhiều thân thiết, với rất nhiều hiểu biết và chia sẻ thân tình. Với mấy chi tiết kín đáo trên đây, Cha Piô đã có một chân dung đẹp, mà Chúa Giêsu đề cao. Đó là chân dung kẻ bé mọn, khiêm nhường. Ở địa vị cao, mà lại có được một chân dung người bé mọn khiêm nhường, như Chúa muốn, quả là một điều rất đáng tạ ơn Chúa. II. Thêm vào đó, chúng ta càng cảm tạ Chúa hơn nữa, vì Chúa đã ban cho Cha Piô những ơn trọng đại, mà chỉ những người khiêm nhường bé mọn mới nhận được. Những ơn đó là: 1- Ơn trở nên con người mới. 2- Ơn gắn bó chặt chẽ với Chúa Giêsu. 3- Ơn xây dựng hoà bình. Về sự trở nên con người mới, Chúa Giêsu đã dạy rất rõ: “Các con cần được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,7). Về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu cũng đã được chính Chúa Giêsu quả quyết rõ ràng: “Thầy là thân nho, các con là cành nho. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Về ơn xây dựng hoà bình, Chúa phán: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Tôi thấy cả ba ơn kể trên đều dễ nhận thấy nơi Cha Piô. Chúa đã ban cho Ngài dồi dào, trong khi Ngài khoẻ mạnh. Chúa càng ban cho Ngài dồi dồi hơn, khi Ngài già yếu đau bệnh. Ngài đã trở nên con người mới. Ngài đã gắn bó với Chúa, nên sinh ra nhiều hoa trái thiêng liêng. Ngài luôn xây dựng hoà bình. Như vậy, mỗi giờ qua đi của Ngài đều mang một giá trị đời đời, được tham dự dần dần vào chương trình Chúa Giêsu cứu độ và phục sinh. Tôi thiết nghĩ rằng: Hội Thánh địa phương chúng ta là một thiểu số giữa một bầu khí xã hội đầy chuyển biến, có nhiều tôn giáo rất giàu những giá trị thiêng liêng cao đẹp, nên cuộc đời Cha Piô là một gương sáng rất thích hợp, chúng ta cần bắt chước. Hôm nay gọi là ngày từ biệt Cha, nhưng chúng ta càng gần gũi Cha hơn. Chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta cầu nguyện cho Cha. Chúa phán: “Không phải tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1 Cor 15,51). Hôm nay, lời Chúa trên đây đã thực hiện nơi Cha. Xin Cha cầu cho chúng ta cũng sẽ được lời Chúa ứng nghiệm nơi chúng ta. Hy vọng nhờ thế, chúng ta sẽ được cùng nhau xum họp trong Nhà Chúa chúng ta là Cha giàu lòng thương xót, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Khi Chúa trao cho tôi nhiệm vụ Giám mục, tôi rất sợ. Nhiệm vụ đó lại phải được thi hành trong những hoàn cảnh quá mới, tôi càng thêm sợ. Nhưng Chúa đã không bỏ tôi cô đơn. Ngài đã gởi đến tôi nhiều người tốt. Dù ở xa, dù ở gần, họ đã đồng hành với tôi, họ đã tháp tùng tôi. Tôi đã nhờ họ mà bước đi từng ngày trên đường truyền giáo. Một trong những người tôi rất nhớ và rất biết ơn, đó là chị Magdeleine de Jesus, người đã sáng lập dòng nữ tu Tiểu Muội Chúa Giêsu. Một nụ cười trong những nụ cười. Tôi gặp chị lần đầu tiên tại Rôma năm 1980. Vùng ngoại ô Rôma có một khu đất vắng, um tùm, gọi là Ba Suối (Tre Fontane). Nhà mẹ các nữ tu Tiểu Muội được xây dựng trong khu đó. Tất cả các dãy nhà đều nhỏ, đơn sơ và nghèo. Môi trường sinh thái bao quanh là cảnh thiên nhiên lặng lẽ. Với cảnh thiên nhiên này, khu nhà dòng nghèo mang một vẻ đẹp thầm lặng, nhưng thu hút. Bước vào nhà dòng, tôi được chào đón bằng những nụ cười hồn nhiên của các nữ tu. Họ thuộc nhiều dân tộc, đến từ nhiều nước. Nhưng nụ cười của họ là ngôn ngữ không cần thông dịch. Nhân vật mà tôi muốn gặp hơn cả là chị Magdeleine de Jesus. Chị đến gặp tôi như gặp một người thân. Rất đơn sơ. Rất tình nghĩa. Tôi ngạc nhiên, vì thấy chị gầy yếu trong bộ tu phục nghèo, không có gì khác phân biệt với các chị em trong nhà. Nhưng, đối với tôi, vẻ đẹp nhất của chị là nụ cười. Nụ cười kín đáo, dịu dàng hiện ra trên đôi môi, đôi mắt. Tôi có cảm tưởng nụ cười đó toát ra từ một tâm hồn chiêm niệm. Một thứ chiêm niệm vừa gần gũi Chúa, vừa gần gũi con người. Sau lần gặp chị năm 1980, tôi được may mắn còn gặp lại chị nhiều lần. Mọi gặp gỡ đều qua đi. Nhưng nội dung các gặp gỡ đều đọng lại, thành kỷ niệm thân thiết. Đặc biệt là nụ cười của chị. Một nụ cười nhiều khi yếu ớt, khi chị đã già yếu và đau bệnh, mệt mỏi, hấp hối. Nụ cười của chị bao gờ cũng trao gởi cho tôi những an ủi , nhất là những tia sáng Phúc Âm. Tôi xin phép nói lên mấy chân lý Phúc Âm, mà nụ cười của chị đã gợi lên trong lòng tôi. 1- Tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Nhìn nụ cười hồn nhiên của chị, tôi tự nhiên nhớ lại lời Chúa phán xưa: “Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào đó” (Mc 10,15). Trí tôi nhớ lời Chúa. Mắt tôi nhìn chị. Và lòng tôi cảm nghĩ: Chị đã đón nhận Nước Trời. Nước Trời là tình thương của Chúa. Nước Trời là chính Chúa. Chị được Chúa dắt đưa vào đó, vì chị có tinh thần thơ ấu. Chị ở lại trong Chúa. Chúa ở lại trong chị. Như lời Chúa dạy: “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con” (Ga 15,4). Và vì chị giữ được tinh thần thơ ấu, nên Chúa cầm tay chị dẫn đi các nơi, mà Chúa muốn, để gieo rắc tình yêu, qua các cộng đoàn bé nhỏ gồm những tâm hồn bé nhỏ phục vụ âm thầm. Tôi đã gặp những cộng đoàn của chị tại nhiều nước, cả tại những nơi khó khăn nhất. Có những cộng đoàn tự nguyện sống trong nhà tù, chấp nhận sống như người tù, để chia sẻ số phận với các nữ tù nhân, đưa lại cho họ hy vọng và tình thương. Có những cộng đoàn sống giữa những đoàn du mục giữa sa mạc Phi châu. Có những cộng đoàn đi theo các gánh xiếc. Có những cộng đoàn sống rất nghèo giữa những xóm nghèo. Tất cả họ đều nghèo, đều nhỏ. Họ hiện diện như những nụ cười tình thương hồn nhiên, chân thành. 2- Tâm hồn hiền lành khiêm tốn. Tôi biết chị Magdeleine de Jesus mang rất nhiều gánh nặng. Nhưng cho dù trong những trường hợp bi đát, chị vẫn có khả năng gởi tặng những người xung quanh một nụ cười. Nụ cười lúc đó, theo tôi, là một sứ điệp. Sứ điệp của một linh hồn tuyệt đối gắn bó với Chúa Giêsu. Xưa Chúa Giêsu đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy. Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Các con hãy mang lấy ách của Thầy, và học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn các con sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái, và gánh của Thầy thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Trong những lời trên đây, tôi để ý nhất đến câu: “Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường”. Tôi thấy chị Magdeleine de Jesus đã đón nhận chân lý đó với lòng tin tưởng đơn sơ và tuyệt đối. Chân lý đó rất rõ ràng. Cần gì phải tìm một trường nào khác để học điều Chúa muốn. Điều Chúa muốn là hiền lành và khiêm nhường. Trường dạy và thầy dạy hiền lành và khiêm nhường là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã sống hiền lành và khiêm tốn, như con chiên, mà tiên tri Isaia đã báo trước: “Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng và không mở miệng, như chiên bị dẫn đến lò sát sinh” (Is 53,7). Chính thánh Gioan Tiền Hô cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Cũng như anh Charles de Foucauld, chị Magdeleine de Jesus cũng học nơi Chúa Giêsu sự hiền lành khiêm nhường, và tất nhiên là sự phó thác và hy sinh. Tôi theo chị, hằng ngày, đọc những lời phó thác của anh Charles de Jésus: “Lạy Cha, con phó mình con cho Cha, xin hãy làm nơi con mọi sự theo ý Cha. Cha làm chi mặc lòng, con cũng cảm ơn Cha. Con sẵn sàng luôn luôn. Con nhận lãnh tất cả. Miễn ý Cha được làm trọn trong con, Trong tất cả loài Cha tạo dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó thác linh hồn con trong tay Cha. Con dâng hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của con, vì con mến Cha, và vì mến Cha, nên con thấy cần phải hiến thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen.”. Lời nguyện trên đây của anh Charles đã do chị tặng tôi. Hằng ngày, chị đã cầu nguyện theo đó. Hằng ngày, tôi cũng cầu nguyện theo đó. Từ chiêm niệm về Con Chiên hiền lành khiêm nhường, hy sinh, tôi ra đi truyền giáo, mà không cảm thấy có gánh nặng phải khẳng định đạo mình là đạo thật, còn các đạo khác là đạo giả. Tinh thần Con Chiên Thiên Chúa biến đổi cái nhìn của tôi về những người không cùng tôn giáo như tôi. Tôi trọng kính họ, văn hoá của họ, với những giá trị thiêng liêng cao quí của cuộc sống họ. Tôi nhìn họ là anh em thân thiết. Tình nghĩa là món quà quí giá tặng cho nhau trước hết. Từ khiêm tốn, hiền từ, phục vụ trong yêu thương chân thành như Chúa Giêsu đã yêu tôi và yêu họ, Chúa Thánh Thần sẽ có những sáng tạo lạ lùng, để mỗi người thiện chí được tham dự một cách nào đó vào ơn cứu độ của Đức Kitô. Với tinh thần phục vụ yêu thương trong thầm lặng của Chúa Giêsu tại Nagiarét, với ánh sáng của Tám Mối Phúc, chị Magdeleine de Jesus đã sống chiêm niệm sâu xa, để rồi đã được sai đi thực xa. Trong chiêm niệm, chị nhận lấy lửa tình yêu. Được sai đi, chị chia sẻ lửa đó cho muôn người, và khắp nơi trên thế giới. Nhưng trong kín đáo. Năm đó, vào đầu tháng 11, tôi đang ở Mascơva, để dự một hội nghị quốc tế về hoà bình, thì được chi Magdeleine de Jesus nhắn là: Chị nhờ tôi giảng trong thánh lễ giỗ anh Charles sẽ được tổ chức tại Nhà Mẹ nữ tu Tiểu Muội ở Roma. Ngày giỗ vào đầu tháng 12. Thánh lễ rất đông và sốt sắng. Trong bài giảng, tôi nói tới sự kiện các chị Tiểu Muội đang hiện diện ở nhiều nước. Tôi đã gặp các chị. Sau thánh lễ, chị Magdeleine de Jesus cảm ơn tôi, và nói nhỏ với tôi một lời trách yêu: “Sự hiện diện của các chị em tại nhiều nơi là điều chính Chúa làm. Thiết tưởng chúng ta không nên nói nhiều về việc đó”. Rồi chị nở một nụ cười. Và tôi hiểu lòng khiêm tốn của chị. Việt Nam cũng đã có nhiều bó đuốc nhận lửa từ trái tim chị. Xin nhớ về chị, mà thi hài nay đang nằm âm thầm trong một hang đá tại Tre Fontane. Nhưng tôi vẫn gặp chị. Không lâu nữa, chắc chị sẽ được phong thánh. Nhưng đối với tôi, chị đã là chị thánh của tôi lâu rồi.
Đối với tôi, nhiều lúc, cô quạnh có nghĩa là sống chơ vơ một mình. Nhưng, nhiều khi, cô quạnh lại được cảm nghiệm như một tình trạng ngao ngán, giữa những sự đời ồn ào giả dối. Cũng không thiếu trường hợp, cô quạnh còn được thành hình trong tâm hồn như một sự ngán ngẩm, ngay trong những lễ hội linh đình, tiệc tùng sang trọng, chúc tụng tưng bừng. Trong những lúc như vậy, tôi muốn tìm cho mình một cảnh sống thích hợp. Vừa xa vắng, vừa hiện diện. Xa vắng những gì là phù du. Hiện diện những gì là chân thật. Chính tâm trạng đó làm tôi nhớ lại lời Chúa phán qua tiên tri Hôsê: “Bởi thế, Ta sẽ quyến rũ nó. Ta sẽ đưa nó vào sa mạc, để nói vào trái tim nó” (Hs 2,16). Vào sa mạc. Tôi xin Chúa áp dụng lời đó vào trường hợp kẻ đang lo âu giữa thế giới quay cuồng này. Chúa thương nhậm lời. Người dẫn tôi vào sa mạc. Sa mạc này mang chiều kích nội tâm. Cụ thể là trái tim Mẹ Maria. Tôi coi đây là một sa mạc tình yêu. Tình yêu mênh mông. Tình yêu bao la. Tình yêu cao vời. Đâu đâu cũng là tình yêu. Tình yêu như khí thở. Tình yêu như hương thơm. Tình yêu như dòng suối. Tình yêu như sức sống êm đềm. Tình yêu của Mẹ toát ra một sự khiêm tốn khác thường. Lời Mẹ nói xưa: “Này con là tôi tớ Chúa” (Lc 1,38) trở nên như tia sáng lung linh chiếu dọi vào trí khôn người lữ hành đang đi trong sa mạc tình yêu. Được tia sáng khiêm nhường của Mẹ thanh luyện, kẻ lữ hành hiểu được dần dần: Muốn được nhận tình yêu Chúa, tâm hồn phải rất khiêm nhường. Mẹ Maria có biết bao nhiêu chức cao sang, biết bao nhiêu tước tuyệt vời, biết bao nhiêu quyền lớn lao. Nhưng suốt đời, Mẹ vẫn sống ẩn dật, che giấu mọi đặc ơn Chúa ban cho mình trong cuộc đời “Người tôi tớ”. Mẹ sống như vậy, với tinh thần vâng phục ý Chúa, cảm tạ ơn Chúa, trong sự bình an, phó thác tuyệt đối nơi Chúa giàu lòng thương xót. Với đức khiêm nhường sâu xa và đầy khôn ngoan đó, Mẹ nên giống Chúa Giêsu, người con yêu của Mẹ và cũng là Đấng cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại và làm vinh quang Chúa Cha bằng sự từ bỏ mình, tự nguyện bước xuống: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá” (Pl 2,7-8). Cũng trong tinh thần vâng ý Chúa Cha và phó thác nơi Chúa Cha để cứu độ nhân loại. Khi ánh sáng chân lý Phúc Âm chiếu vào trí khôn, tôi nhận được một sự hiểu biết sâu xa. Nhưng chỉ với sự hiểu biết đó, tôi vẫn thấy thiếu một cái gì quan trọng. Cho tới khi Chúa nói vào trái tim tôi, chứ không còn nói vào trí khôn tôi nữa.
Nói vào trái tim. Chúa phán: “Trong sa mạc, Ta sẽ nói vào trái tim nó” (Hs 2,16). Nói vào trái tim là nói bằng lửa tình yêu. Khi trái tim được lửa tình yêu đốt cháy, nó sẽ không còn dửng dưng, không còn lạnh lùng, không còn cứng cỏi. Nhưng nó sẽ cảm nghiệm được thế nào là yêu. Trong trường hợp lửa tình yêu đốt nó là lửa tình yêu bởi Chúa và của Chúa, nó sẽ có cảm xúc, cảm động, cảm thông phần nào như tình Chúa. Lúc đó, ta sẽ hiểu tình Chúa là tình đi bước trước và rất đỗi xót thương, như thánh Gioan viết: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước. Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (Ga 4,10). Và cũng lúc đó, ta cảm được ý nghĩa sâu sắc của lời thánh Gioan về sự yêu thương ta đối với nhau: “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em, mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không trông thấy” (Ga 4,19-20). Cũng lúc đó, trái tim cùng với lý trí sẽ biết phân định điều gì là hợp ý Chúa, điều gì chỉ là ý riêng ta. Từ những sự kiện trên đây, tôi có ba tạm kết luận: 1- Sa mạc tình yêu là trái tim Đức Mẹ Maria, nơi đợi chờ những tâm hồn tìm kiếm sự thực. Trái tim ấy luôn mở cửa đón nhận ta. Nếu ta bước vào với lòng khiêm nhường, khao khát chân lý và thinh lặng lắng nghe, Mẹ sẽ cho ta một sự tự do khác, một sự khôn ngoan khác, để ta biết sống làm vinh danh Chúa hơn và sinh ích lợi hơn cho các linh hồn. 2- Sự hiểu biết bằng lý trí là một ơn Chúa ban. Nhưng sự hiểu biết ý Chúa, nhất là ý nghĩa đau khổ là rất cần cho sự khôn ngoan, mà Chúa Thánh Thần thường ban cho những người có phận sự dạy dỗ về đàng thiêng liêng, khi họ cầu xin. 3- Cảm nghiệm thiêng liêng về Chúa là một yếu tố hết sức cần thiết cho việc truyền giáo, và tu đức. Thiếu nó, đạo đức và giáo lý sẽ chỉ còn là mớ lý thuyết suống. Xưa, Chúa Giêsu đã nói với hai môn đệ của thánh Gioan Tiền Hô: “Hãy đến mà xem, và họ đã ở lại nơi Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39). Hai môn đệ nhờ đã đến, đã xem, đã ở lại, nên đã có những cảm nghiệm bản thân về Chúa. Những cảm nghiệm sống động đó đã thuyết phục các ngài hơn bất cứ bài giảng nào. Hôm nay, Chúa cũng đang mời chúng ta: Hãy đến mà xem sa mạc tình yêu. Và hãy ở lại đó, không phải chỉ một ngày, nhưng nhiều ngày, và suốt cuộc đời. Rồi ta sẽ thấy mình thay đổi. Nhiều người thuộc về ta cũng sẽ thay đổi. Nhất là chúng ta sẽ được bình an sống hợp thánh ý Chúa, trong tin yêu phó thác vào tình Chúa xót thương, dưới sự che chở của Mẹ nhân lành. Đây cũng là một cách tốt chúng ta có thể dùng, để giúp nhiều người biết sống hy vọng và bình an trong tình Chúa và Mẹ. Các bệnh nhân, các người tội lỗi, các người nghèo, nhất là nghèo về nội tâm, đang rất cần được dẫn vào sa mạc tình yêu là trái tim Mẹ, để đón nhận được an ủi , niềm tin và hướng đi của cuộc sống mình. Thiết tưởng đi vào sa mạc tình yêu là trái tim Mẹ khiêm nhường, xót thương, dịu dàng chính là dấu chỉ cứu rỗi của thời điểm lịch sử nhân loại hôm nay.
Năm Phụng vụ 2004 bắt đầu từ Chúa nhật I Mùa Vọng, tức ngày 30-11-2003. Nhân dịp này, tôi thiết nghĩ: Sẽ không phải vô ích, nếu chúng ta nhìn lại một năm thánh lễ. Nhìn lại với hai việc này: Một là ta cảm tạ Chúa đã ban cho ta được dâng và tham dự thánh lễ trong nhiều dịp suốt một năm qua. Thánh lễ là nguồn tuôn chảy muôn vàn ơn thiêng cao quí. Hai là ta xét mình, xem ta đã đón nhận thế nào các ơn của thánh lễ, cho việc đổi mới bản thân, cho việc truyền giáo và cho việc xây dựng hoà bình hiện nay đang là nhu cầu số một. Ở đây, tôi sẽ không đi vào chi tiết của hai việc gợi ý trên, mà chỉ nhắc qua vai trò quan trọng của việc tế lễ trong đời sống đạo. Hy vọng nhờ ý thức đó, mỗi người sẽ tự thực hiện được việc cảm tạ và xét mình theo cách của mình. Tế lễ là việc vốn được coi là căn bản của mọi tín ngưỡng. Riêng đối với đạo Công giáo chúng ta, việc tế lễ càng được coi là cực kỳ quan trọng. Bởi vì tế lễ của ta không phải do tự ý ta muốn làm gì thì làm, nhưng phải làm những gì Chúa truyền dạy. Để có một chút nhận thức về vấn đề này, ta nên tìm hiểu trong Kinh Thánh. Thờ phượng Chúa trong sa mạc. Đọc sách Xuất Hành, chúng ta thấy một lý do được nhắc tới như một động lực để xuất hành. Đó là dân Israel được Chúa truyền ra khỏi Ai Cập, để tới một miền đất dành riêng cho mình. Nhưng cũng còn một lý do khác không kém quan trọng, được chính Chúa truyền đạt cho vua Pharaon. Đó là “Hãy cho dân Chúa ra đi, để chúng tế lễ thờ Chúa của họ trong sa mạc” (Xh 7,16). Tế lễ cách nào, thì Chúa đã mạc khải dần dần. Trước hết, phải tế lễ thờ phượng Chúa trong nơi thanh vắng, với tất cả những gì mình có. Chúa đòi điều đó một cách dứt khoát. Ban đầu, Pharaon đồng ý cho Israel tế lễ thờ phượng Chúa trong Ai Cập, không cần đi vào sa mạc. Nhưng, Môisen, theo lệnh Chúa, trả lời Pharaon: “Chúng tôi phải đi ba ngày vào sa mạc, mới tới được nơi Chúa muốn chúng tôi tế lễ” (Xh 8,23). Bị nhiều cảnh cáo, Pharaon miễn cưỡng hứa cho phép Israel ra đi, với điều kiện là không được đi quá xa. Nhưng Chúa không chịu (Xh 8,24). Sau nhiều điều đình, Pharaon đồng ý cho phép chỉ các người đàn ông được ra đi mà thôi. Nhưng Chúa không chấp nhận (Xh 10,11). Sau nhiều hình phạt, chịu không nổi, Pharaon đành nhượng bộ. Ông hứa cho phép toàn dân được ra khỏi Ai Cập. Nhưng phải để lại chiên cừu bò dê (Xh 10,24). Chúa không chấp nhận. Sau cùng, dưới áp lực của nhiều thứ tai hoạ Chúa giáng xuống, Pharaon mới chịu để dân Israel ra đi, mang theo các súc vật, của cải (Xh 12,21-22). Trong sa mạc, từ núi Sinai, Chúa đã ban bố luật pháp, luân lý và phụng vụ. Riêng về phụng vụ, Chúa chỉ dẫn từng chi tiết phải thực hiện. Như Nhà Tạm, khung lều, hòm bia, bàn để dâng lễ, khuôn viên, dầu thắp đèn, phẩm phục các tư tế, lễ vật... Tất cả như một giao ước. Để chứng minh dân Israel chỉ tế lễ thờ phượng một Thiên Chúa mà thôi. Đó là Thiên Chúa đã cứu họ, đã giải thoát họ, một Thiên Chúa mà họ xin ơn tha tội, ơn đền tội, và ơn bình an. Tuy nhiên, việc tế lễ thờ phượng Chúa trong sa mạc như thế này, tuy dầu chưa hoàn thiện, cũng dần dần mất đi chiều kích tinh thần, mà chỉ còn nặng nề về hình thức. Và bị lạm dụng cho nhiều mục đích xấu. Vì thế, Chúa đã giáng trần, để sửa lại. Thờ phượng Chúa trong Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải về sự chấm dứt kiểu thờ phượng cũ, khi Người nói với các người Israel: “Các ông phá đền thờ này, nhưng trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại” (Ga 2,19). Có nghĩa là sự phá thân xác Người trên thánh giá sẽ đánh dấu ngày kết thúc việc thờ phượng Chúa trong đền thờ, và sự Người phục sinh sẽ khai mạc một cách tế lễ thờ phượng mới. Đó là thân xác phục sinh của Người trước mặt Thiên Chúa sẽ trở nên nơi thờ phượng. Người có ý nói về phép Thánh Thể. Phép Thánh Thể sẽ là nhà cầu nguyện. “Nhà của Ta sẽ được gọi là một nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Mc 11,17). Cách tế lễ thờ phượng này tương hợp với lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria. Đây là cách tế lễ thờ phượng mang chiều kích rộng lớn, phổ quát, vì đây là cách “thờ phượng bằng tinh thần và trong chân lý” (Ga 4,23). Trong cách tế lễ thờ phượng này chính Chúa Giêsu sẽ vừa là đền thờ, vừa là của lễ. Về điều này, tác giả thư gởi Do Thái đã viết: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Chúa, như sách thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Tế lễ này chính là giao ước mới. Theo giao ước này, tất cả mọi sự ta làm, ta nói, ta muốn, đều sẽ qua Chúa Cứu thế. Người là Đấng đã chịu chết trên thánh giá, đã sống lại. Nay Người đang ngự trong phép Thánh Thể. Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà ta tế lễ thờ phượng Thiên Chúa, mà ta cầu nguyện, mà ta hoà giải, mà ta xin ơn cứu độ, mà ta xin ơn đổi mới mà ta xin ơn bình an. Với giao ước mới này, mọi tế lễ của ta sẽ qua tế lễ Chúa Kitô. Vì thế, để cụ thể hoá điều đó, tế lễ thờ phượng của ta phải tập trung vào - Thánh Thể Chúa, - Thánh giá Chúa, - Lời của Chúa. Thờ phượng Chúa trong Hội Thánh. Với lòng tôn trọng giao ước mới, Hội Thánh đã ra nhiều chỉ thị về thánh lễ. Như nhà thờ để tế lễ. Bàn thờ để làm lễ. Các lời kinh trong tế lễ. Các lời Chúa trong tế lễ. Các nghi thức trong tế lễ. Sự thinh lặng trong tế lễ. Sự dọn mình và cám ơn sau tế lễ. Nhân sự trong tế lễ. Thánh nhạc trong tế lễ, vv... Chính vì thế, mà thánh lễ trong Hội Thánh, dù được cử hành ở bất cứ nơi nào, cũng có thể gọi được là việc tế lễ của Hội Thánh, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, làm cho Chúa Giêsu được hiện diện giữa loài người, và nhờ vậy, mà Chúa Cứu thế đi vào đời sống mỗi người. Do đó, thánh lễ trở nên một kho tàng ơn thánh, một vẻ đẹp vô song, một nguồn suối vô tận tưới gội các linh hồn. Với những nền tảng trên đây, thánh lễ đã đổi mới biết bao người. Họ dâng thánh lễ. Họ tham dự thánh lễ. Thánh lễ đã giải thoát họ khỏi các xiềng xích nô lệ, khỏi các thứ tối tăm, khỏi những gian tà. Nhất là thánh lễ đã cứu họ khỏi sự chết dưới mọi hình thức, và đã cho họ sự sống mới. Chính vì vậy, mà chính con người họ, với cuộc đời họ, trở thành vinh quang của Chúa, góp phần không nhỏ vào việc làm chứng cho Chúa trong sứ mạng truyền giáo giữa thế giới hôm nay. Ta có được như vậy không? Hiện nay, trên thế giới, kể cả tại Việt Nam, việc tế lễ thờ phượng Chúa đang có nhiều biến chuyển. Có biến chuyển tốt, và có biến chuyển xấu. Mỗi người chúng ta nên tự xem lại chính mình. Ta có biết khiêm nhường đón nhận những ơn Chúa sẵn sàng ban cho ta, nếu ta biết thông hiệp vào lễ tế của Chúa Giêsu không? Hoặc chẳng may chính ta đã có phần nào làm cho việc tế lễ thờ phượng do Chúa truyền dạy, trở nên tục hoá. Vì tế lễ đó đã biến thành một thứ hàng hoá với nhiều thứ giá trả bằng tiền bạc, hoặc một thứ hình thức trống rỗng nội tâm, hoặc một thứ máy móc công nghệ trình diễn, hoặc một thứ lễ hội ồn ào, chỉ chăm chú nhìn vào chủ tế và nhìn nhau hơn là tập trung vào Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu thương ban ơn cho ta bước vào năm Phụng vụ mới, với tinh thần phụng vụ mới mà Chúa muốn, và do chính Chúa ban cho.
Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh có những lời cầu riêng, thích hợp. Một số do Hội Thánh chỉ định. Một số do các nhóm soạn ra. Một số do từng người tự phát. Phần tôi, năm nay, tự nhiên thấy bị thúc đẩy đưa tinh thần cầu nguyện về ba nhu cầu sau đây: Nhu cầu rút vắn khoảng cách Nếu tôi không lầm, thì giữa những lời Chúa dạy trong Phúc Âm và thực tế đời sống nhiều người chúng ta có một khoảng cách lớn. Nghĩa là Chúa dạy một đàng, ta sống một nẻo. Chỉ xin nêu lên vài thí dụ: Chúa dạy hãy giữ thái độ âm thầm khi làm việc lành phúc đức, như khi làm từ thiện (Mt 6,1-4), khi cầu nguyện (Mt 6,5-6), khi ăn chay (Mt 6,16-18). Thế nhưng, trong thực tế, nhiều khi ta đã không vâng lời Chúa mà làm việc đạo đức một cách âm thầm. Thay thế âm thầm là phô trương. Một thứ phô trương nhiều khi lố bịch, ấu trĩ và phản Tin Mừng. Rồi, Chúa dạy sống đạo là hãy đi vào đường hẹp, cửa hẹp (Mt 7,13-14), hãy vác thánh giá mình mà theo Chúa (Mt 10,38), hãy học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường (Mt 11,29). Thế nhưng, trên thực tế, nhiều khi đời sống ta lại rất khác với những Lời Chúa trên đây. Sống tự do buông thả, sống kiêu căng gian ác, mà vẫn coi khoảng cách như thế là bình thường. Nhất là đức bác ái, yêu thương. Bác ái được Chúa xác định là căn bản của đạo (Mt 22,37-40), là giới răn mới mà Chúa cứu thế đã trối lại (Ga 14,34), là dấu chỉ người môn đệ Chúa (Ga 14,35). Thế nhưng, thực tế chưa chứng minh được Lời Chúa truyền dạy trên đây được nhiều người chúng ta quan tâm đúng mức. Đến nỗi, không thiếu chứng từ cho thấy bác ái yêu thương không còn được coi là hình ảnh chính thức của đạo Chúa nữa. Đáng buồn hơn cả là nơi một số người chúng ta, giữa lời đạo đức và thực tế đời sống có một khoảng cách sâu rộng. Thực tế đáng buồn này làm người ta nhớ lại khoảng cách xưa nơi giới kinh sư và Pharisêu, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng chỉ trích nặng nề (Mt 23,1-32). Những khoảng cách như trên thực đáng lo ngại. Cầu xin Chúa cho những khoảng cách đó được rút vắn lại, thiết tưởng đó là nhu cầu chính đáng để dọn đường Chúa đến. Còn một nhu cầu chính đáng khác nữa, đó là nhu cầu xoá được ngăn cách. Nhu cầu xoá được ngăn cách Chúa Giêsu nói rõ: Chúng ta cần phải được sinh lại bởi ơn trên (Ga 3,3), để nên con Chúa, được thông hiệp vào sự sống của Chúa. Sự thông hiệp đó phải hết sức mật thiết. Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh cành gắn chặt vào thân cây (Ga 15,6). Thánh Phaolô thực hiện điều đó. Ngài diễn tả như sau: “Tôi tin chắc rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu. Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Gắn bó mật thiết với Chúa như vậy mới đúng là cách thờ phượng, mà Chúa muốn. Gắn bó mật thiết với Chúa như vậy tất nhiên đòi phải từ bỏ mình, để biến bản thân mình làm của lễ, như lời thánh Phaolô dạy: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1). Thế nhưng, trên thực tế, chúng ta tự nuôi dưỡng biết bao ngăn cách, không cho ta gắn bó với Chúa, không cho ta thờ phượng Chúa một cách xứng hợp. Tệ hơn nữa, không thiếu trường hợp người ta lại nhân danh việc thờ phượng Chúa, để kiếm tư lợi. Đôi khi đâu có hiến chính mình làm của lễ cho Chúa, mà là chờ những kẻ khác hiến thay cho mình. Những sự việc như thế không những là khoảng cách giữa thực tế và Tin Mừng, mà còn là một ngăn cách đớn đau. Nó ngăn người ta nhận ra Tin Mừng. Nó cản người ta đi về với Chúa. Xin Chúa thương xoá đi những ngăn cách, ít là về phía chúng ta, nếu do chúng ta gây ra và chúng ta phải chịu trách nhiệm. Ngoài khoảng cách và ngăn cách, tôi thấy còn một vết thương nơi ta cần được chữa lành, đó là phân cách. Nhu cầu chữa trị phân cách Đã có một thời, nhiều người có đạo quen phân cách ai là kẻ lành, ai là kẻ dữ. Việc phân cách được thực hiện một cách đơn giản. Thí dụ: “Kẻ lành là kẻ giữ đạo nên, kẻ dữ là kẻ chẳng có đạo và kẻ giữ đạo chẳng nên” Câu đó trích từ một kinh bản hỏi được phổ biến trước đây tại vài giáo phận. Thêm vào thói quen phân cách con người, nhiều nơi còn có thói quen phân cách các tôn giáo. Việc phân cách này cũng được thực hiện một cách đơn giản. Thí dụ: “Ngoài đạo Công giáo, không ai được ơn hưởng hạnh phúc thiên đàng”. Một phân cách nữa vẫn còn xuất hiện đó đây, đó là phân cách kẻ giàu người nghèo. Những phân cách như thế gây nên những xa cách, những vết thương, những mặc cảm, những chia rẽ. Về điểm này, thánh Phaolô viết: “Dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi xin nói với từng người trong anh em: Đừng đi quá mức khi đánh giá mình” (Rm 12,3). Còn Chúa Giêsu thì khuyên môn đệ phải rất cẩn trọng trong việc phân định. Người phán: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy... Sao anh em thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?” (Mt 7,1-3). Chúa dạy rõ như thế. Nên tôi thiết nghĩ: Việc quan trọng nhất của người con Chúa là hãy sống theo ý Chúa, vâng phục ý Chúa. Thánh ý Chúa là mỗi người chúng ta hãy xây dựng chính mình, không phải theo ý mình muốn, cũng không phải theo dư luận thích, mà chỉ theo thánh ý Chúa mà thôi. Thánh ý Chúa là mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân, không phải của một nền văn hoá, của một truyền thống, mà là chứng nhân của Tin Mừng. Thánh ý Chúa là con người của ta hãy toả sáng tình yêu, một tình yêu trong tự do và với tinh thần trách nhiệm, theo một bậc thang giá trị được Phúc Âm chỉ dẫn. Phúc Âm mùa Vọng và mùa Giáng sinh nhắc nhở rất nhiều đến Tỉnh thức và Cầu nguyện, và đề cao Khiêm nhường bác ái trong bậc thang giá trị của chương trình cứu độ. Chúng ta có quyền hy vọng, nếu chúng ta tỉnh thức, cầu nguyện và khiêm nhường, bác ái, thì những khoảng cách, ngăn cách và phân cách sẽ được Chúa thương chữa trị. Nếu không tỉnh thức, cầu nguyện và khiêm nhường, cứ chủ quan tự tôn tự đại, coi thường các dấu chỉ của thời đại, thì tôi sợ tương lai Hội Thánh ta sẽ khó tránh được những mất mát đau lòng. Trong trường hợp chẳng may đó, chúng ta nên vững tin chạy lại bên Chúa. Bởi vì Chúa vẫn là Đấng cứu độ ta. Người sẽ đến ban ơn cứu độ cho những ai sám hối khiêm nhường và khát khao đón nhận Người. Chúa giàu lòng thương xót đang đến một cách rất âm thầm và một cách rất nghèo. Nhưng lịch sử rồi sẽ còn thấy nhiều bất ngờ như Nol xưa.
Tôi có nhiều khao khát. Nhưng khao khát mạnh nhất là khao khát Chúa. Khao khát Chúa thường xuyên giống hơi thở, khao khát nồng nàn như lửa tình yêu. Khao khát bằng ý chí. Khao khát bằng tình cảm. Khao khát trong ý thức và khao khát cả trong tiềm thức và vô thức. Chúa biết những ai khao khát Người. Người đến với họ bằng nhiều cách. Nhưng bất cứ cách nào Chúa đến với tôi cũng được tôi cảm nhận như những giọt tình yêu thương xót Chúa ban tặng. Những giọt tình yêu thương xót này thay đổi con người tôi một cách âm thầm. Để rồi, theo gương Chúa, cuộc sống tôi cũng sẽ cố gắng là những giọt tình yêu thương xót bé nhỏ âm thầm phục vụ Hội Thánh tôi và đồng bào tôi. Đang khi đó, tôi được Lời Chúa khích lệ: “Phúc thay ai xót thương người. Vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Như thế, cuộc đời người tin theo Chúa là đón nhận và chia sẻ. Đón nhận tình thương từ Chúa giàu lòng thương xót, và chia sẻ tình yêu thương xót mình đã lãnh nhận. Con đường đón nhận và chia sẻ là những bắt đầu luôn luôn mới. Bắt đầu đi. Rồi bắt đầu lại. Cứ thế cho một lòng đạo luôn luôn vẫn thiếu sót. Theo hướng suy nghĩ đó, Mùa Vọng của tôi là thời gian tôi cố gắng tăng cường khát vọng Thiên Chúa xót thương. Đồng thời cũng là những ngày tôi phấn đấu tăng thêm khát vọng được cùng với Chúa thực thi việc xót thương đối với mọi người. Tôi tăng cường những khát vọng đó, không phải chỉ để nuôi niềm tin ở Thiên Chúa xót thương, mà nhất là để được gặp gỡ Thiên Chúa xót thương, để được Người đến với tôi, để được Người ở lại trong tôi, để được Người đồng hành với tôi, để được Người cứu độ tôi, để được Người dẫn đường chỉ lối cho tôi trong sứ mạng phục vụ con người, làm chứng Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót trên suốt cuộc đời mục vụ và truyền giáo. Để được như thế, tôi sẽ tăng cường lòng khao khát Chúa bằng những cách nào? Thưa ít ra bằng ba cách sau đây: 1- Tăng cường việc sám hối cầu nguyện với tâm tình khiêm tốn. Tinh thần khiêm tốn trong cầu nguyện sám hối được Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn sau đây: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Thầy nói cho anh em biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi, còn người kia thì không. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 17,9-14). Kiêu căng là đầu mối mọi tội lỗi. Nó là một thứ nọc độc làm hại chính người mang nó, trước khi làm hại người khác. Nó phá ngầm cả những việc đạo đức nhất. Nó tồn tại rất lâu trong con người. Hơn nữa, nơi một số người, nó ngấm rất sâu vào mọi tầng lớp tâm hồn, tạo nên một tính tình kiêu căng mãn tính. Nó trở thành một yếu tố mới của bản tính người. Sám hối thông thường sẽ không đủ sức loại trừ nó. Để diễn tả tai hoạ đó, người ta kể rằng: Một ngày, sau khi Chúa Giêsu giảng dụ ngôn trên, một người Pharisêu đã trở lại gặp Chúa. Ông nói: Thưa Thầy, hôm qua, bọn Pharisêu chúng tôi nghe Thầy giảng gồm chục người. Khi nghe Thầy nói về sự cầu nguyện sám hối của chúng tôi là sai trái, tôi rất xúc động. Về nhà, tôi đã quyết tâm sửa mình. Bây giờ, tôi thực sự rất khiêm nhường. Chứ không còn kiêu căng như chín anh kia. Bọn họ còn kiêu ngạo dữ dằn lắm. Bọn họ vẫn xấu. Còn tôi, nay tốt hơn bọn họ nhiều. Nhất là về đức khiêm nhường, tôi vượt hẳn bọn kia. Nghe ông nói, Chúa Giêsu tỏ ra thất vọng. Câu chuyện trên chắc là hư cấu. Nhưng chủ ý nói lên tính kiêu ngạo là thứ tội khó trị. Nó là đầu mối các tội. Vì kiêu ngạo mà hai ông bà tổ tông Adong Evà đã làm hư tất cả dòng dõi nhân loại. Để cứu độ nhân loại, Chúa Cứu thế đã chọn con đường khiêm tốn. Khiêm tốn vâng phục ý Chúa Cha. Khiêm tốn bỏ trời xuống thế. Khiêm tốn mặc lấy thân phận người nghèo. Khiêm tốn sinh ra trong hang đá. Khiêm tốn chịu đựng vất vả đớn đau. Khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn cầu nguyện. Khiêm tốn đi vào cuộc tử nạn, để chết một cách nhục nhã trên thánh giá. Tất cả để đền tội cho nhân loại kiêu căng, để cứu nhân loại khỏi hình phạt địa ngục. Nhưng ai muốn hưởng hồng ân đó, phải biết đi vào con đường khiêm tốn mà Chúa Cứu thế đã đi. Góp phần khiêm tốn của mình vào đó, nhất là trong sám hối cầu nguyện. Thánh Gioan Tiền Hô, trong sứ mạng dọn đường cho Chúa đến, đã tha thiết kêu gọi mọi người hãy khiêm nhường sám hối. Nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi một cách khiêm tốn, và xin ơn tha tội một cách khiêm nhường. Khiêm nhường sám hối cầu nguyện là con đường dài. Ta hãy khao khát đi thêm, đi mãi, đi sâu, nhất là trong những ngày đón Chúa giáng sinh. 2- Ngoài việc tăng cường sám hối khiêm nhường, chúng ta còn nên tăng cường việc khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa. Khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa là việc Đức Mẹ Maria đã thực hiện, mở đầu cho chương trình Thiên Chúa xuống thế làm người, để thực hiện việc cứu độ. “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38). Đem lời trên đây của Đức Mẹ soi vào đời sống chúng ta, tôi thực sự băn khoăn. Bởi vì, nơi rất nhiều người chúng ta, đời sống thường xuyên được điều khiển bởi ý riêng mình. Thánh ý Chúa không được tôn trọng. Thậm chí còn bị gạt bỏ. Nếu chúng ta thực sự khát khao được đón Chúa vào lòng mình, vào đời mình, thì phải khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa được kể là rất rõ ràng ít là ở những nguồn sau đây: Một là Lời Chúa, được cắt nghĩa dưới ánh sáng Thánh Linh. Hai là đức tin của các tông đồ và của Hội Thánh. Ba là các bí tích. Tôi thấy những nơi nào chểnh mảng, dửng dưng đối với ba nguồn nói trên đều đang xuống dốc về đạo đức một cách trầm trọng. Trái lại, nơi nào siêng năng suy niệm Lời Chúa, khiêm tốn trung thành với đức tin của Hội Thánh Chúa, sốt sắng gắn bó với các bí tích, nhất là phép Thánh Thể, nơi đó được bao phủ bởi một bầu khí đạo đức an bình, chan hoà sự sống thiêng liêng. Để vâng phục thánh ý Chúa, chúng ta phải phấn đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu này là thường xuyên. Bằng sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa. Nếu Đức Mẹ và Thánh Giuse đã không phấn đấu can đảm với chính mình, để sống khó nghèo khiêm tốn, giữ thinh lặng, giấu kín những đặc ơn Chúa ban cho mình, thì sẽ làm hư kế hoạch cứu độ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải rất tỉnh thức và khôn ngoan, để nhận ra đâu là thánh ý Chúa. Tốt nhất là luôn phó thác mình cho Chúa với tâm hồn khiêm tốn vâng phục và tạ ơn. Hãy nói với Chúa như Cha Charles de Foucauld: “Lạy Cha, con phó mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha, Cha làm chi mặc lòng, con cũng cảm ơn Cha”. Đó là cách sống Tin Mừng rất cần cho thời nay. Sự sống Tin Mừng này cũng sẽ được phát triển và tràn ra ngoài ranh giới nơi đó, nếu nơi đó biết khiêm tốn đón nhận Chúa Thánh Thần, để mở hướng ra truyền giáo. 3- Tăng cường sự khiêm tốn đón nhận Chúa Thánh Thần. Ngày truyền tin, thiên thần đã nói với Đức Mẹ: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35). Lời đó cũng có giá trị như lời sai đi. Đức Mẹ mang Đấng Cứu thế trong lòng mình. Rất âm thầm lặng lẽ. Với Chúa ở cùng mình, Đức Mẹ có được một hạnh phúc và một bình an lạ lùng. Ngay sự hiện diện của Đức Mẹ như thế cũng đã là truyền giáo. Người xung quanh cảm nhận được một Tin Mừng huyền diệu, có sức đem lại hy vọng cho đời mình. Nhìn Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ, chúng ta tin rằng: Chúa Thánh Thần sẽ đến với những tâm hồn thực sự khiêm tốn, bé mọn. Tâm hồn họ như trống rỗng, tự do, không bị ràng buộc vào bất cứ lưu luyến bất chính nào. Chỉ còn là khao khát Chúa. Chỉ còn là tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Chúa Thánh Thần sẽ đưa chúng ta ra khơi với những bất ngờ, như “Gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8). Tôi đã và đang thấy như vậy. Nếu ta khiêm tốn, Chúa Thánh Thần sẽ Phúc-Âm-hoá những khao khát của ta. Người loại trừ những khao khát xấu, xếp các khát khao vào một trật tự hợp thánh ý Chúa, nhất là đặt khao khát Chúa lên hàng ưu tiên. Đồng thời Người làm cho những khao khát tốt trở thành động lực truyền giáo. Truyền giáo một cách can đảm và khôn ngoan. Nhất là truyền giáo bằng sự hiện diện, một sự hiện diện có Chúa ngự trong, một sự hiện diện mang nguồn ơn cứu độ, một sự hiện diện có lửa mến Chúa yêu người. *** Với những suy nghĩ trên đây, tôi khao khát Chúa đến. Không phải đến trong các nhà thờ, trong các máng cỏ, nhưng đến với mỗi người. Lòng chúng ta sẽ thay cho máng cỏ hang đá. Chúng ta có thể thắp sáng lên bên cạnh Chúa Hài Đồng ba ngọn nến: Một ngọn mang lửa sám hối. Một ngọn mang lửa vâng lời. Một ngọn mang lửa truyền giáo. Riêng nơi tôi, ba cây đèn cầy đó là rất bé nhỏ. Nhưng hy vọng đó sẽ là của lễ thành kính tôi khao khát được Chúa Hài Đồng chấp nhận.
Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ. Có nhiều cách mừng. Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư. Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi. Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay. NHỚ LẠI. Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi. Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm. Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử. Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này: Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25). Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá. Ít là phần nào. Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8). Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng. Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình. Vô hình, nhưng thực sự đau đớn. Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ. Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ. Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị. Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa. Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều. Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt. Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm. Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ. Đó là thánh Phaolô. Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm.. Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí. Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go. Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói. Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại. Vì thế mà tôi sám hối. Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm. Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá. Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác. Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ. Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng. Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18). Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27). Mẹ đã không cứu được con mình. Nhưng Chúa lại muốn như vậy. Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết. Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người. Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình. Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa. Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước. Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần. Tôi muốn giúp. Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi. Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên. Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng. Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay. LẮNG NGHE. Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại. Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm. Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý. Ô nhiễm khắp nơi. Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm. Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này: Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái. Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức. Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác. Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ. Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác. Giới phái là nam, là nữ. Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác. Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại. Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó. Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv.... Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa. Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện. Kẻo sẽ quá muộn. Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa. Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững. Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng. Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình. Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm. Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được. Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm. Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm. Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện. Không bị nhiễm là nhờ thánh giá. Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá. Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm. Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta. Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người. Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối. Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.
Mấy ngày nay, tôi thấy cảnh đời sôi động khác thường. Trên đường xe chạy ồn ào, Dưới sông ghe xuôi ngược vội vã. Chợ chen chúc giữa người và hoa. Mọi nhà đều rộn ràng quét dọn, trang trí, ra vào tấp nập. Cảnh đời bề ngoài là vui, là dọn tết. Nhưng nhìn sâu vào bên trong lòng người, tôi có cảm tưởng khác. Có những gì kín đáo chìm lặng trong cõi nội tâm bất ổn. Chính tôi cũng vậy. Trước một hoàn cảnh mà hạnh phúc được cảm nhận là mong manh, là xa vắng, tôi chạy lại bên Chúa Giêsu. Tôi nghe Người nói: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4). Chúa nói đi nói lại với tôi lời đó. Đây là lời căn dặn cuối năm. Đây cũng là lời nhắn nhủ đầu năm. Đây không phải một lời chỉ giữ riêng cho tôi, mà cũng là một lời Chúa gởi riêng cho từng anh chị em. Tôi mong chúng ta biết đón nhận lời Chúa gởi. Đón nhận với lòng trân trọng, với tình cảm mến, với tâm hồn khát khao tìm hiểu ý Chúa. Vậy, “hãy ở lại trong Chúa Giêsu” được hiểu thế nào? Tôi xin gợi ý vắn gọn. Trước hết, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong lời của Chúa Giêsu. Có lần Chúa Giêsu đã phán: “Nếu các con ở lại trong lời của Thầy, thì các con sẽ là môn đệ Thầy đích thực” (Ga 8,31). Ở lại trong lời của Chúa, là đón nhận lời Chúa, suy niệm lời Chúa để lời Chúa thấm sâu vào lòng ta. Lời Chúa sẽ gây nên những vang vọng trong hồn ta, như những khát vọng dẫn đưa ta về Nhà Chúa. Chúng ta thừa biết, lòng trí ta mỗi ngày phải tiếp cận với từng ngàn lời nói. Trong số từng ngàn lời đó, có những lời mang sự thực, nhưng cũng có những lời giả dối, có những lời gian ác, có những lời trống rỗng. Nếu, trong cảnh hỗn độn ấy, ta vững tâm ở lại trong lời Chúa, thì lời Chúa sẽ là ánh sáng soi đường chỉ lối cho ta. Ta sẽ được Chúa chúc lành, một sự chúc lành được ban cho những ai vâng thực thi Lời Chúa. Ngoài ra, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong tình thương của Người. Người phán: “Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Ở lại trong tình thương của Chúa là đón nhận chính sự sống của Người. Một sự sống hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Một sự sống sản sinh nhiều hoa trái thiêng liêng. Một sự sống là tình yêu, là bình an, là khôn ngoan, là hạnh phúc. Chúng ta không xa lạ gì với tình thương trên đời này và trong đời ta. Nó muôn mặt. Đổi thay và bền vững. Vui và buồn. Ánh sáng và bóng tối. Êm đềm và sóng gió. Nếu, trong thực tế thực sự là như thế, thì ở lại trong tình thương của Chúa sẽ là một bến bờ ta cần gắn bó. Sự gắn bó này phải rất thân mật, phải rất khăng khít. Về vấn đề này Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh dễ hiểu: “Thầy là cây nho, anh em là cành... Cũng như cành nho không thể tự mình sinh ra hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15,1-4). Như vậy, lời Chúa gởi chúng ta đã khá rõ. Hãy ở lại trong Lời Chúa. Hãy ở lại trong tình thương của Chúa. Ở lại là gắn bó. Ở lại là cùng phấn đấu với Chúa Giêsu, là cùng với Người vâng phục thánh ý Chúa, là cùng với Người phó thác nơi Chúa Cha giàu lòng thương xót. Tôi muốn được gởi tới anh chị em lời Chúa trên đây ngày đầu năm Giáp Thân này. Năm nay được mở đầu bằng nhiều bất ổn. Thí dụ với những dịch gia cầm, với những biến động về giá cả, với những chứng bệnh mới, với nhiều suy thoái trong lãnh vực lương tâm. Chúng ta chấp nhận cuộc đời với những thực tế phức tạp của nó. Nhưng, là những người có đức tin, chúng ta ưu tiên đón nhận lời Chúa. “Hãy luôn luôn ở lại trong Thầy”. Cho dù cuộc đời có những bất ngờ đau xót đến đâu, nếu chúng ta luôn ở lại trong Chúa, Chúa sẽ là Mùa Xuân vĩnh cửu của chúng ta. Với những tư tưởng trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một năm mới bình an. Một năm ta ở lai trong Chúa và Chúa ở trong ta. Một năm vì thế mà tình yêu thương và hiệp nhất giữa chúng ta sẽ toả hương thơm Tin Mừng giữa quê hương ta, tại địa phương ta.
Ước mơ lớn nhất của tôi cho năm nay của tôi vẫn là ước mơ thuở nào. Không biết từ thuở nào, tôi đã ước mơ điều này: Luôn đổi mới chính mình theo thánh ý Chúa. Để đạt được điều mơ ước, tôi đã cố gắng. Một bên là phấn đấu, một bên là phó thác. Kết quả thế nào, thực tình tôi không thấy rõ. Điều tôi thấy rõ nơi tôi là những điều xấu vẫn còn như một sức mạnh không thể coi thường. Những điều tốt chưa thấm sâu vào con người tôi. Ý thức thì trong, nhưng tiềm thức và vô thức xem ra còn đục. Mỗi năm, thời gian đóng ấn vào cuộc đời. Đóng ấn lại quá khứ. Khép quá khứ lại rồi, thì chỉ nên nhìn về phía trước. Tôi nhìn về phía trước của tôi. Nhìn với trái tim và những linh cảm nội tâm riêng mình. Tôi thấy rõ hai điều này: 1- Chặng đường đi tới Nhà Cha không là chặng đường thênh thang. Chuyến đi không như ý mình. Khi tỉnh thức, tôi đã thấy điều đó. Khi ngủ, tôi cũng thấy điều đó rõ, qua những chiêm bao. Đường nhỏ hẹp, trơn trượt, cắt đứt bằng những con suối, dòng sông. Phải lội, hay phải băng qua bằng những phương tiện thô sơ. Rất vất vả, rất nguy nan. Nhưng bao giờ cũng gặp được những người tốt. Họ dẫn lối, đồng hành. Nhất là lòng bao giờ cũng khao khát tới Nhà Cha. Vất vả, mệt mỏi, nhưng vẫn ráng đi. Gặp chỗ nghỉ ngơi, cũng không chủ ý dừng lại. Có khi đã thấy Nhà Cha xa xa, nhưng rồi lại khuất dạng sau đồi núi. Tâm trạng người lữ hành đi về Nhà Cha được cảm nghiệm là tâm trạng một người hết sức nghèo. Nghèo về của cải. Nghèo về địa vị. Nghèo về sức khoẻ. Nghèo về hành trang. Chẳng là gì. Chẳng có gì. Chẳng mang theo được gì. Chỉ mò mẫm đi với niềm khát vọng. Một khát vọng chứa chan hy vọng, mặc dầu có lo âu, xao xuyến. Linh cảm rằng ở cuối đường sẽ có Nhà Cha. Linh cảm đó là một cái nhìn nội tâm, tôi cho là do Chúa ban tặng. Cùng với cái nhìn trên đây, tôi nhìn thấy những bước đi cụ thể. 2- Những bước đi nhỏ của chuyến đi dài. Những bước đi nói đây là những bước đi nhỏ. Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ, tôi nghe được dịp đầu năm. Một cô du khách trên đường tham quan, tình cờ gặp ba em bé đang chơi. Cô lân la hỏi chuyện. Tới một lúc, cô nhận ra ba em là những người có đạo. Cô hỏi thử một em: Chúa em ở đâu? Em trả lời: Chúa em ở trong nhà thờ. Cô hỏi em thứ hai. Em thưa: Chúa em ở trong những người nghèo. Cô hỏi em thứ ba. Em không trả lời, nhưng chắp hai tay lại, cúi đầu xuống, thầm cầu nguyện. Có nghĩa là em tin Chúa ở trong lòng em. Cô du khách rất cảm động, tự nhận ra cả ba em bé đều mang một phần chân lý đức tin. Phần nọ bổ túc cho phần kia. Không ngờ, những em nhỏ bé đó, với những phần nhỏ bé của đức tin, đang là những lữ hành nhỏ đi về Nhà Cha. Vừa đi vừa truyền bá Tin Mừng. Các em quả là những nhà truyền giáo ngay những lúc vui chơi. Mà truyền giáo cho cả người lớn. Nghe chuyện trên đây, tôi thấy: Đúng là có những việc nhỏ sinh hiệu quả lớn. Nhận thức như vậy, nên tôi chủ trương: Mình cứ vững tâm làm những việc lành nho nhỏ. Việc lành nhỏ, như năng đọc kinh Kính Mừng Maria, hoặc những lời nguyện vắn tắt. Việc lành nhỏ, như năng tới nhà thờ viếng Thánh Thể, dự thánh lễ, và rước Mình Thánh. Việc lành nhỏ, như năng làm các việc từ thiện bác ái, giúp đỡ người nghèo, chia sẻ thương cảm với bệnh nhân. Việc lành nhỏ, như lãnh nhận những đớn đau, những bệnh tật, những hiểu lầm, những xúc phạm, vì mến Chúa yêu người. Việc lành nhỏ, như biết ngỡ ngàng và tạ ơn Chúa mỗi ngày trước những sự thực mới, những tình cảm mới, những lòng tốt mới, những hồng ân mới Chúa gởi cho. Những chiều cuối năm, tôi thỉnh thoảng đi ngắm chợ hoa xuân. Chợ này được tạm tổ chức ngay trước nhà tôi. Chợ chiếm nguyên một con đường dài ven sông. Tôi thấy một cây mai lớn trồng trong chậu sang. Hỏi giá thì được biết: Chủ cây mai đó đòi 40 triệu đồng. Mấy hôm sau, tôi không còn thấy nó nữa. Đã có người mua nó với giá 35 triệu. Dư luận xôn xao. Xôn xao về cây mai thì ít, nhưng xôn xao về người mua thì nhiều. Khen có, chê có, mỉa mai có. Tôi thấy người mua cây mai bị bàn tán, bị gán ghép quá nhiều những gì không phải là hoa. Từ sự kiện đó, tôi tự thầm nhủ mình: Trong chuyến đi về Nhà Cha, mình nên nhẹ nhõm. Phải từ bỏ hết. Chỉ có hoa tình thương nở trên thánh giá đời mình, và bước theo Chúa Giêsu. Như lời Chúa Giêsu dạy: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” (Lc 9,23). Ước mơ của tôi năm nay là thực hiện Lời Chúa trên đây. Ước mơ đã cũ từng bao chục năm trong tôi. Nhưng nó vẫn mới, với những bước đi mới của tôi. Những bước đi nhỏ của hành trình dài vất vả trên đường về Nhà Cha giàu lòng thương xót. Người là Mùa Xuân vĩnh cửu của tôi.
Đã lâu lắm rồi, “Ra khơi” là một mệnh lệnh ra đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu ra lệnh đó. Tại Việt Nam, từ đầu năm thánh Truyền giáo bắt đầu với lễ Sinh nhật vừa qua, “Ra khơi” được nhiều nơi dùng như một khẩu hiệu phong trào. Trong nhiều trường hợp, “Ra khơi” chỉ là ra khơi với một địa chỉ khơi khơi, trông trống vậy thôi. Không biết khởi hành từ đâu, không nhắm địa chỉ nào chính xác. Nhận thức sự kiện đó, tôi xin phép góp vài ý kiến, rút ra từ Phúc Âm và kinh nghiệm truyền giáo. Góp ý của tôi lần này là về một số ưu tiên trong truyền giáo. 1- Ưu tiên khởi hành từ nội tâm. Nội tâm nói đây là một tâm hồn cháy rực lửa mến. Họ mến Chúa yêu người một cách thiết tha. Họ có Chúa trong lòng. Họ có cảm nghiệm về Chúa. Họ đã gặp được Chúa cứu độ giàu lòng thương xót. Một Chúa đã chịu nạn chịu chết và đã phục sinh. Một Chúa là hy vọng và là hạnh phúc của họ. Từ niềm tin và cảm nghiệm đó, họ thấy việc chia sẻ Tin Mừng là một nhu cầu bức xúc. Và cũng từ niềm tin và cảm nghiệm đó, họ thấy sự thực quan trọng này: Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình yêu. Sự chia sẻ đó được thực hiện qua con đường cầu nguyện, hy sinh, bác ái, và qua những cửa hẹp là tu thân tích đức, âm thầm nêu gương sáng. Một người với nội tâm vừa kể, dù bị bệnh nằm liệt, cũng vẫn có thể ra khơi. Nội tâm của họ sẽ là máng Chúa dùng, để đổ ơn thánh vào nhiều tâm hồn. Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux là một nữ tu dòng Kín, không bước ra khỏi nhà dòng vì vâng luật dòng, nhưng lại đã ra khơi truyền giáo. Nhờ nội tâm chị là của lễ tình yêu luôn cháy trong đời tu nhiệm nhặt. Chị “từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa Giêsu”. Chị đã được Hội Thánh tôn phong là bổn mạng các nơi truyền giáo. Sự kiện Têrêsa rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Nhất là khi chúng ta lao mình vào những hoạt động bề ngoài, ồn ào, nhuộm màu sắc quyền lực, giàu sang, danh vọng. 2- Ưu tiên cho địa phương mình. Chúa Giêsu đã làm gương về ưu tiên này. Địa phương gồm nhiều bậc. Từ gia đình, họ hàng, xóm ngõ, cho đến thôn làng, xứ sở. Trong các bậc của địa phương, Chúa Giêsu tỏ ra gắn bó, phục vụ, để được chấp nhận, để được mến thương. Hình ảnh của Người ăn rễ sâu vào từng cá nhân và tập thể cộng đoàn, như một hình ảnh đẹp, mà Phúc Âm đã diễn tả vắn tắt. “Con trẻ Giêsu, càng lớn lên, càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,46). “Ngài được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51). Tôi có cảm tưởng là: Đức Kitô được địa phương thương mến, vì Người thương mến địa phương, tôn trọng truyền thống địa phương, chia sẻ các vấn đề thuộc đời sống địa phương. Thời gian ở với địa phương là 30 năm. Đó là một ưu tiên về thời gian, về hiện diện, về tình nghĩa, về hội nhập. Tôi coi ưu tiên với những việc như thế là rất cần cho việc truyền giáo. Thí dụ, tôi được sai tới địa phương này để truyền giáo. Đây là một địa phương không công giáo, nhưng rất sùng đạo. Hằng ngày họ đọc kinh cầu nguyện, hằng tháng ăn chay ngày rằm, thường xuyên bố thí, làm việc từ thiện. Tất cả các sinh hoạt tôn giáo như thế được thực hiện tại gia, không lệ thuộc vào đền thờ, chỉ vâng phục Đấng lập đạo của mình là một người Việt Nam đã từng sống nêu gương đạo đức tại địa phương này. Đây là một thực tế sống động mang sức mạnh thiêng liêng. Trước thực tế đáng kính này, nếu tôi không được địa phương chấp nhận và mến thương, chắc chắn việc truyền giáo của tôi sẽ thất bại. Còn nếu hôm nay cánh đồng truyền giáo của Tin Mừng được xanh tươi và mở rộng, thì phải nhận vai trò ưu tiên của địa phương là đúng đắn và tích cực. 3- Ưu tiên tỉnh thức trong Chúa Thánh Thần. Người truyền giáo là dụng cụ trong tay Chúa. Người truyền giáo là người đầy tớ của Chúa. Một dụng cụ thô thiển. Một đầy tớ bất xứng. Nên tôi phải biết tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Tôi phải khiêm nhường thực thi ý Chúa. Chưa nói tới những điều cao siêu mầu nhiệm trong đạo, chỉ nói về những gì là sơ đẳng thuộc nhân bản, tôi cũng cần đến ơn Chúa Thánh Thần, để giữ được sự quân bình và khôn ngoan, xứng với một chứng nhân của Chúu” Cũng như người nông dân bình thường biết chọn hạt giống tốt, biết dọn đất cho tốt, biết gieo trồng đúng lúc tốt, thì người truyền giáo cũng phải biết những điều sơ đẳng đó, khi gieo hạt giống Tin Mừng. Cũng như người chài lưới, biết ra khơi lúc nào là tốt nhất, biết thả lưới chỗ nào là có hy vọng nhất, biết cùng làm việc với những ai là an tâm nhất, biết phân biệt các loại cá trong lưới một cách chính xác nhất, thì người truyền giáo cũng phải biết những điều sơ đẳng đó, khi ra đi truyền giáo, khi chọn người cùng đi, khi gặp gỡ đủ thứ người trên đường mình đi. Đôi khi nhìn thấy một vài nhà truyền giáo mang vẻ đạo đức khắt khe, bức xúc trầm trọng, tôi lại nhớ tới một câu của một cha Sở nói với cậu bé giúp lễ đạo đức quá nặng nề sao đó: “Các nhân đức như thế này của con sẽ đưa con xuống hoả ngục”. Chúng ta dễ bị cám dỗ khoác vào mình những thứ nhân đức và chứng từ giả tạo, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần chỉ dẫn, giúp phân định cái tốt thực cái tốt giả. Nhất là thời nay, tiền của, hưởng thụ và quyền lực đã hầu như trở thành giá trị cao nhất trong thực tế đời sống. Cả đời sống tôn giáo, thậm chí cả đời sống tu trì cũng bị ảnh hưởng sâu xa. Vì thế, hơn bao giờ hết, việc truyền giáo rất cần nhắm vào chất lượng, hết sức trung thành với Tin Mừng, dưới sự soi dẫn của Thần Linh Chúa Giêsu, Đấng được sai đi do Chúa Cha giàu lòng thương xót, để cứu chuộc chúng ta bằng hy sinh trên thánh giá.
Trong nội bộ Công giáo chúng ta, truyền giáo được hiểu là truyền đạo chúng ta cho những người ngoài Công giáo. Đang khi truyền giáo, với ý hướng cao đẹp, được nêu lên như một mệnh lệnh cực kỳ quan trọng, thì trong chính nội bộ Công giáo chúng ta lại xảy ra những chuyển biến đáng ngại. Những chuyển biến đó vốn đã có từ rất xưa. Nay vẫn tiếp tục, nhưng với những cách khác nhau. Một số sách báo tại nhiều nơi trên thế giới đã đề cập sâu rộng đến những chuyển biến đó. Vì những mục đích: Để thông tin, để nghiên cứu, để báo động, để cảnh báo, để dự báo. Tôi thiết nghĩ việc đề cập đến những hiện tượng đó là một nhu cầu hợp lý. Nó cần cho việc tái truyền giáo chính nội bộ mình. Mà tái truyền giáo chính mình là một điều kiện quan trọng cho việc truyền giáo, nên tôi xin phép được gợi lên ở đây vài hiện tượng dễ thấy. 1- Hiện tượng bỏ đạo. Bỏ đạo hoặc để gia nhập đạo khác, hoặc để trở thành vô tín ngưỡng. Theo một số tài liệu, thì hiện nay hiện tượng bỏ đạo đang phát triển mạnh. Đặc biệt là tại Nam Mỹ, số người công giáo bỏ đạo hằng năm để gia nhập các giáo phái đang là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Mới rồi, một bà mẹ đến than phiền với tôi là con bà đã bỏ đạo Công giáo và đã gia nhập Phật giáo. Điều đáng suy nghĩ là từ ngày trở thành Phật tử, con bà trở nên sùng đạo một cách khác thường, khác hẳn thời còn theo đạo Chúa. Cũng mới rồi, một mẩu tin nhỏ đăng trên một nội san nhỏ thuộc một nhóm nhỏ tại Pháp đã khiến tôi sững sờ. Chuyện xảy ra tại Đức. Một linh mục công giáo, vì mục đích giúp Công giáo và Tin Lành gần lại với nhau, đã rước lễ từ tay một mục sư. Được tin đó, Đức Giám Mục giáo phận ngài đã ra lệnh tạm “treo chén” linh mục. Phản ứng của giáo dân trước lệnh của Đức Giám Mục đã nổ ra dữ dội. Từng ngàn lá thư phản đối Đức Cha được gởi về Toà Giám Mục. Từng vạn ngọn đèn đã thắp sáng kéo dài nhiều cây số trong nhiều đêm để tỏ dấu ủng hộ cha Sở. Sau cùng, một số giáo dân đã công khai từ bỏ đạo Công giáo. Hiện tượng bỏ đạo công khai và bỏ đạo âm thầm không còn là thời sự hiếm hoi trong thời buổi hiện nay. 2- Hiện tượng tin đạo, những không giữ đạo. Số người không bỏ đạo, vẫn tin đạo nhưng không giữ đạo, cũng đang là hiện tượng khá phổ biến. Không giữ đạo là không thực hiện những điều đạo dạy. Có người bỏ thực hành toàn bộ. Có người chỉ thực hành một phần. Khi tìm hiểu lý do không giữ đạo, tôi thấy nhiều nguyên nhân. Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý đến sự phát triển rất mạnh hiện nay của ba chủ nghĩa sau đây: a) Chủ nghĩa cá nhân. Giữ đạo theo chủ nghĩa cá nhân là tin và giữ những gì mình tự chọn theo sự tự do cá nhân của mình. Càng ngày chủ nghĩa cá nhân càng trở thành một sức mạnh hung hãn tràn vào sự ổn định của đời lẫn đạo. b) Chủ nghĩa tương đối. Giữ đạo theo chủ nghĩa tương đối là không coi gì trong đạo là tuyệt đối. Lời Chúa được hiểu một cách tương đối, lúc thế này, lúc thế nọ. Các tiêu chuẩn đạo đức Phúc Âm bị lợi dụng, bị bóp méo, cũng cùng một số phận như các tiêu chuẩn thông thường của xã hội. c) Chủ nghĩa thực dụng. Giữ đạo theo chủ nghĩa thực dụng là thực hành những điều gì trong đạo mà mình thích, chứ không vì Chúa muốn. Trong mọi hoạt động tôn giáo, cái tôi vẫn khôn khéo vơ vào mình những lợi lộc vật chất và tinh thần. Trong nhiều trường hợp, tính thực dụng dễ dẫn con người đến chỗ bê trễ, lười biếng đối với bổn phận tu thân, dấn thân và hiến thân. 3- Hiện tượng giữ đạo rất ít lệ thuộc vào cơ chế. Những người giữ đạo kiểu này thường có một số đặc điểm khá rõ, như: Tôi giữ đạo không vì cơ chế bắt buộc, nhưng do quyền tự do của tôi. Tôi thực hiện những việc đạo đức do ý muốn của tôi tự chọn, chứ không do luật lệ của cơ chế áp đặt. Tôi có quyền linh động trong việc giữ đạo theo ý riêng tôi, chứ không giữ đạo theo một khuôn khổ cứng nhắc của cơ chế. Tôi giữ đạo độc lập, khỏi ràng buộc của cộng đoàn. Tôi chịu trách nhiệm việc giữ đạo của tôi trước lương tâm tôi với Chúa, chứ không dưới quyền của cơ chế tôn giáo, dù là trung ương, dù là địa phương. ù Trên đây là ba hiện tượng đáng ngại đang xảy ra đó đây trong Hội Thánh Việt Nam. Các hiện tượng này đang diễn biến phức tạp. Trong một nội bộ đang có những chuyển biến như thế, phong trào truyền giáo nên chú trọng hơn đến việc tái truyền giáo. Tái truyền giáo để có những hồn truyền giáo cháy lửa truyền giáo. Hy vọng, người truyền giáo có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Với Đức Kitô sống trong tôi, tôi nhận thức rõ ràng: Đức Kitô là Đấng vô tội, nhưng Người đã tự nguyện chịu đóng đinh, chết trên thánh giá để cứu chuộc tôi. Chính tôi là kẻ tội lỗi, đáng chịu nhiều hình phạt, kể cả hình phạt hoả ngục. Nhưng Chúa Giêsu đã thương hy sinh chính mình để cứu tôi. Người thực là Đấng Cứu độ tôi. Tôi phải đón nhận Người và đi theo Người. Đó là Tin Mừng tôi muốn chia sẻ. Đó là chân lý tuyệt đối. Rao giảng và chia sẻ chân lý đó đòi một sự can đảm thiêng liêng. Dửng dưng, từ chối hoặc chống lại chân lý đó cũng là một can đảm ghê gớm. Hai can đảm cùng đều là can đảm, nhưng sẽ dẫn đưa con người tới những hiệu quả rất khác nhau. Hồn truyền giáo của tôi sống trong xác tín đó. Nên tôi thực sự rất lo ngại, rất bức xúc trước những biến chuyển nói trên.
Để gặp gỡ thánh Giuse, tôi đi vào Phúc Âm với tâm hồn cầu nguyện. Đọc Phúc Âm, tôi không thấy thánh Giuse để lại lời nào. Nhưng khi cầu nguyện cùng thánh Giuse trong bầu khí Phúc Âm, tôi nhận thấy thánh Giuse có một đặc điểm nổi bật. Đặc điểm đó là đón nhận thánh ý Chúa. Tôi có cảm tưởng, đặc điểm đó chính là lời Ngài muốn nói với tôi. Tinh thần đón nhận thánh ý Chúa nơi Ngài được ghi lại trong bốn trường hợp: - Ngài vâng đón nhận cô Maria làm bạn đời của mình (Mt 1,18-24), - Ngài vâng đón nhận lệnh lên đường sang Ai Cập lánh nạn (Mt 2,13-19), - Ngài vâng đón nhận lời truyền bỏ Ai Cập, để trở về Israel (Mt 2,19-21), - Ngài vâng đón nhận ý kiến tránh vùng Giuđê, để đến lập cư tại Nagiarét, vùng Galilê (Mt 2,22-23). Tất cả đều vì mục đích bảo vệ Đức Maria và Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đưa ra bốn trường hợp trên. Cả bốn trường hợp đó cũng đủ cho phép tôi nên tập trung bắt chước Ngài về điểm đón nhận ý Chúa. Đi theo điểm này, tôi biết là không dễ. Không dễ về nhiều mặt. Nhưng khó nhất là cách đón nhận ý Chúa và sau đón nhận ý Chúa. Tôi nói sự thực trên đây với kinh nghiệm tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi xin phép chia sẻ phần nào. Trước hết về cách thánh Giuse đón nhận ý Chúa. Cách đón nhận. 1- Ngài đón nhận bằng đức tin đi với hành động. Đón nhận bằng đức tin là điều không cần nói. Nhưng bằng một đức tin đi đôi với hành động mau mắn là điều rất đáng kính phục. Sau này, thánh Giacôbê đã viết: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi tả hành động vâng lời của thánh Giuse, Phúc Âm dùng những từ nói lên tính dứt khoát và mau lẹ. Như Ngài lập tức, chỗi dậy, ngay đang đêm vội vã lên đường (Mt 2,14.21). 2- Ngài đón nhận bằng đức mến thiết tha đối với Chúa và lòng yêu thương nồng nàn đối với Đức Mẹ Maria và Hài nhi Giêsu. Tôi hiểu lòng mến của Ngài rất đúng với lời Chúa dạy: “Mến yêu với hết lòng mình, hết linh hồn mình và hết trí khôn mình” (Mt 22,37-40). Có nghĩa là cả bằng tình yêu siêu nhiên lẫn với tình yêu tự nhiên. 3- Ngài đón nhận với lòng phó thác tuyệt đối. Khi đón nhận các lời thiên thần truyền, thánh Giuse biết sẽ có những rủi ro đến từ nhiều phía. Nhưng Ngài không từ chối. Thậm chí Ngài cũng không thắc mắc. Ngài đón nhận ý Chúa một cách bình tĩnh, nhưng thông minh, ở chỗ Ngài phó thác tuyệt đối nơi Đấng đã sai mình. Cách Chúa trao trách nhiệm cho thánh Giuse rất là đơn giản. Cách thánh Giuse đón nhận trách nhiệm cũng rất âm thầm. Không lễ nghi. Không nghi thức. Không ồn ào. Không phô trương. Không rườm rà. Không màu mè. Không tổ chức linh đình, sang trọng. Điều trao ban, điều đón nhận thuộc loại thiêng liêng, quí giá, quan trọng. Thế mà lại đã diễn ra hết sức đơn sơ, cực kỳ vắn gọn, khiêm tốn, âm thầm. Phải chăng đó cũng là một chi tiết Chúa muốn chọn cho chương trình cứu độ. Cách đón nhận là thế. Còn sau đón nhận thì thế nào? Sau đón nhận. 1- Thánh Giuse sống điều đón nhận với những lựa chọn tự do trong tinh thần trách nhiệm. Chúa trao cho Ngài trách nhiệm bảo vệ Đức Maria và Hài nhi Giêsu. Ngài đón nhận trách nhiệm đó. Nhưng, khi thực hành trách nhiệm đó trong từng giai đoạn cuộc sống, với những hoàn cảnh khác nhau, thì Ngài phải tự suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, rồi tự chọn lựa những gì mình nghĩ là tốt hơn. Như, khi ở Belem, Ngài nên có những giao tiếp thế nào với ba vua, các mục đồng, và những người đến thăm. Như, khi lên đường trốn sang Ai Cập, Ngài nên mang theo những gì, nên dùng phương tiện nào để di chuyển. Như, khi sống giữa những người Ai Cập, vừa khác tiếng nói, văn hoá, vừa khác tôn giáo, Ngài phải xử sự thế nào vv... Tất cả những chi tiết cụ thể đó, Ngài không thể đợi thiên thần đến chỉ dạy. Nhưng chính Ngài phải tự toan tính, phải có sáng kiến. Chúa để Ngài tự do. Và Ngài phải chịu trách nhiệm về sự tự do của mình. 2- Ngài sống điều đón nhận với nhận thức một thực tế lẫn lộn ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng là những người lành, việc lành. Bóng tối là những người xấu, việc xấu. Sự xấu là một sức mạnh lớn. Nhưng sự lành cũng là một lực lượng mạnh. Sự đấu tranh giữa Thiện và Ác là rất cam go. Tuy nhiên nhân loại rất cần ơn Chúa cứu độ, để đem sự thiện đến chiến thắng. Ơn cứu độ được ban cho nhân loại nơi Đức Kitô, mà thánh Giuse có sứ mệnh che giấu trong một thời gian Chúa muốn. 3- Ngài sống điều đón nhận với lòng rất khiêm tốn và thái độ kín đáo, tỉnh thức, cầu nguyện. Xem ra chính Chúa muốn điều đó. Phúc Âm nói quá ít về thánh Giuse. Kinh nguyện Thánh Thể, tức kinh Tạ Ơn, II, III, IV, trong thánh lễ, không nhắc đến tên Ngài. Cũng không nghe thấy chuyện Ngài đã hiện ra nơi này nơi nọ, để biến nơi đó thành nơi hành hương nổi tiếng. Đúng là Ngài luôn luôn sống lời ca tụng: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô, và trong Đức Kitô, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”. Ngài ẩn mình trong cảnh nghèo nàn khiêm tốn. Nhưng chính vì thế Ngài trở nên một chứng nhân Tin Mừng giàu sức lôi cuốn. ù Trên đây là mấy điều thánh Giuse dạy tôi, để thánh hoá tôi, nhất là để tôi biết cộng tác với Ngài trong việc bênh vực Hội Thánh và loan báo Tin Mừng. Thú thực là tôi còn rất xa những điều Ngài dạy. Với lòng sám hối, tôi cầu xin Chúa thứ tha cho tôi. Những khoảng cách đau buồn sẽ mãi còn, nếu không được Chúa thương tình cứu độ. Nhưng tôi tin: Thánh Giuse đón nhận sẽ vui lòng đón nhận những ai chạy lại bên Ngài, xin Ngài cầu bầu cùng Chúa cho. Chúng ta đừng ngại đến với Ngài. Hiện nay đang xảy ra nhiều thứ bất ổn, kể cả bất ổn về tôn giáo. Bất ổn tôn giáo sẽ không thể giải quyết đơn thuần bằng các cách tự nhiên. Nhất là khi bất ổn đó lại do ma quỉ chủ mưu. Cách đối phó hữu hiệu đối với các bất ổn tôn giáo là cầu nguyện, sám hối và sống noi gương thánh Giuse. Thánh Giuse là Bổn Mạng Hội Thánh Việt Nam. Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện với Ngài. Tôi tin Ngài sẽ đón nhận lời cầu của ta.
Trên đường truyền giáo, nhất là trong năm Truyền giáo này, tôi hay nhớ lại ngày truyền chức linh mục và ngày truyền chức giám mục của tôi. Bởi vì những ngày ấy đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Tôi xin phép được chia sẻ đôi chút với lòng cảm tạ Chúa và nhớ ơn Hội Thánh. Dấu chỉ trong những lễ chịu chức. Tôi chịu chức Linh mục ngày 02 tháng 7 năm 1955. Nơi chịu chức là Hồng Kông, trong Nhà Nguyện của Dòng Đaminh, trên đồi Rosary. Lễ truyền chức được tổ chức trong âm thầm và rất đơn sơ. Số người dự không tới 100. Gồm nội bộ Nhà Dòng và lớp chủng sinh di cư. Tới giờ chịu chức, tôi sợ hãi, bồn chồn khi thấy mình quá bất xứng, quá yếu đuối, nên muốn rút lui, nếu cha Linh hướng không kịp thời trấn an. Lúc Đức Giám Mục đặt tay trên đầu tôi và đọc lời nguyện phong chức, tôi cảm thấy một khối nặng vô hình dần dần đè trên người tôi. Rất nặng, rất lâu. Cảm giác đó như một trực giác về một cuộc đời mới, mà tôi bắt đầu bước vào. Lúc đó, tôi chưa hiểu lắm. Nhưng với thời gian, tôi hiểu dần dần. Nhất là khi chịu chức giám mục. Tôi chịu chức Giám mục ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nơi chịu chức cũng là một nhà nguyện nhỏ. Đó là nhà nguyện Tiểu Chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Lễ truyền chức đã diễn tiến một cách hết sức đơn sơ, hết sức vắn gọn. Số người dự lễ chỉ vài chục người. Từ đầu thánh lễ đến cuối thánh lễ, tôi cảm thấy như một dây chuyền gánh nặng vô hình lặng lẽ chồng chất trên người tôi. Cảm giác đó làm tôi nhớ lại khối nặng vô hình tôi đã cảm nghiệm sâu sắc ngày chịu chức Linh mục. Tôi hiểu những cảm nhận đó mang ý nghĩa của những dấu chỉ. Chúa dùng những dấu chỉ đó để nói vào trái tim tôi. Trải qua những năm dài trong đời truyền giáo, nhờ những dấu chỉ Chúa đã ghi khắc vào tâm hồn những ngày chịu chức, dần dần tôi nhận rõ những điều sau đây: Nhiệm vụ làm chứng nhân. Chịu chức linh mục và chức giám mục, riêng đối với tôi, là nhận ơn gọi ra đi truyền giáo. Ra đi truyền giáo là ra đi làm chứng nhân về Chúa Giêsu. Làm chứng nhân về Chúa Giêsu là làm chứng rằng tôi đã gặp Người, tôi đã có kinh nghiệm phần nào về Người. Người là tình yêu thương xót. Người là trái tim cứu độ. Cứu độ không phải bằng quyền lực, nhưng bằng tình yêu đầy hy sinh. Hy sinh tự ý sống giữa những người nghèo. Hy sinh tự ý sống thân phận kẻ lầm than, bị bỏ rơi, bị loại trừ, bị oan ức, nhục nhã, nhọc nhằn. Hy sinh đến tự ý nhận án chịu treo trên thánh giá. Chính tôi đã được Người cứu độ bằng tình yêu ấy. Công việc làm chứng như vậy đòi hỏi chính mình phải sống gắn bó với Chúa Giêsu, để đời sống mình trở thành như một tấm gương phản chiếu dung mạo Chúa Giêsu. Khi hiểu như vậy, thì những chức tước nơi tôi, mà thói đời trọng vọng, bỗng trở thành quá lạc lõng trong việc làm chứng tôi là chứng nhân thực sự của Chúa. Làm chứng bằng đời sống khó nghèo khiêm tốn, bác ái hy sinh thường sẽ rất ái ngại với những gì là sang trọng phải khoác vào mình. Làm chứng bằng đời sống là phải chấp nhận biết bao đòi hỏi để nên người môn đệ Chúa, một Đấng đã nói rõ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Kinh nghiệm cho tôi thấy: Nhận thức mình là người được sai đi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu bằng đời sống của mình là điều khó thực hiện đúng và sâu sắc được qua những lớp học. Thường phải qua những ngày đêm dài trong sa mạc tâm hồn, để cầu nguyện, chay tịnh và tỉnh thức khiêm cung – trước những soi dẫn của Thần Khí Đức Kitô. Phương chi thực hiện được hằng ngày những nhận thức đó. Trách nhiệm ấy rất nặng nề. Nặng nề nhất là do chính bản thân tôi yếu đuối. Rất may là Chúa chọn cho tôi một cách thích hợp, để sống ơn gọi ra đi làm chứng nhân trên đường truyền giáo. Cách đó là sống tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Tôi tạ ơn Chúa, vì khi Chúa cho tôi cảm được một dấu chỉ về những gánh nặng trên đường truyền giáo, thì đồng thời Chúa cũng cho tôi một dấu chỉ về cách mang những gánh nặng đó. Dấu chỉ đó là, một lời Chúa hiện lên gây nên một cảm xúc mới. Lời Chúa đó là: “Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15). Phúc Âm còn thêm: “Rồi Chúa ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10,16). Lời Chúa và cử chỉ âu yếm trên đây của Chúa Giêsu đã cho tôi ánh sáng và tình yêu sức mạnh. Tôi đón nhận trách nhậm ra đi làm nhân chứng cho Chúa, với tinh thần thơ ấu. Trước hết, tôi luôn cầu nguyện. Cầu nguyện một cách đơn sơ. Nhìn Chúa, hoặc nghĩ đến Chúa bằng tất cả trái tim yêu mến. Yêu mến chính là cầu nguyện. Trẻ thơ hay làm như thế. Tiếp đó, tôi hay hỏi ý Chúa. Việc lớn việc nhỏ, tôi cũng thấy đều là khó đối với tôi. Nên tôi như trẻ nhỏ, cứ hỏi ý Chúa muốn thế nào. Chúa không mấy khi trả lời rõ. Nhưng Người tập cho tôi tìm ra ý Người. Người bắt tôi phải tìm kiếm, phải khao khát thánh ý Người. Cuối cùng thường là Người dạy lối chỉ đường cho tôi qua nhiều cách khác nhau. Đồng thời, Người vẫn đối xử với tôi, như người mẹ đối với con thơ. Vẫn gần bên. Vẫn an ủi. Vẫn che chở. Còn tôi, tôi gắng làm những việc lành nhỏ dâng cho Người, vẫn đi từng bước nhỏ. Đặc biệt là Người đánh thức lương tâm tôi, nhất là khi sống với những tình hình coi như thành công, bình lặng. Đánh thức để đừng ảo tưởng hễ được thành công, được chiều chuộng là dấu chỉ Chúa hài lòng với tôi. Như một đứa trẻ, tôi hay mơ về một tương lai đẹp, và cố gắng không ngừng phấn đấu để tới gần theo ý Chúa. Hơn nữa, Chúa luôn khích lệ tôi hãy đào tạo những chứng nhân. Vì thời nay, truyền giáo thường là qua những chứng nhân. Nhất là những chứng nhân tha thiết dấn thân cho bác ái, để làm chứng cho Thiên Chúa là tình yêu. Một bác ái thực sự phát xuất từ một nội tâm sáng rực lửa mến Chúa. Một bác ái đối với mọi người, nhất là đối với những kẻ khốn cùng, lầm lạc. Một bác ái thực sự diễn tả được một đức tin sống động. Một bác ái dấn thân theo Chúa Giêsu đến cái chết trên thánh giá, để được phục sinh. Đó là hành trình truyền giáo. Nhất là, với tinh thần thơ ấu, tôi hiểu vai trò của ơn thánh một cách dứt khoát hơn. Lời “Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5) luôn sống động trong tôi. Sau cùng, với tinh thần thơ ấu, tôi cậy tin vào lòng xót thương Chúa và lòng bao dung của mọi người trước những lỗi lầm của tôi. Tôi luôn sẵn sàng lìa cõi đời này trong tâm tình phó thác. Hai bàn tay không mang theo gì. Chỉ có niềm tin vào Chúa giàu tình yêu thương xót. Như con trẻ, rất nghèo, nhưng bình an vì tin mình được tình yêu vô biên vững bền ấp ủ. Tinh thần truyền giáo nhận được từ những ngày truyền chức của tôi đơn sơ thế thôi. Nhưng thực đó là một hồng ân, mà tôi sẽ cảm tạ Chúa đến muôn đời.
Trong Thiên Chúa giáo, việc ông Giuđa phản bội Chúa Giêsu là việc nổi tiếng. Nổi tiếng ở chỗ ông bán chính Thầy mình với giá 30 đồng bạc (Mt 27,3). Trong Mùa Chay, nhất là trong Tuần Thánh, tên ông Giuđa được nhắc tới nhiều lần với ý nghĩa xấu. Tôi thấy việc hiểu nhân vật này là chuyện không đơn giản. Cho dù ông bị mọi người của mọi thế hệ kết án là người phản bội, thì rõ ràng sự phản bội của ông cũng đã trở thành một biểu tượng lớn cho nhiều thứ phản bội khác của bao nhiêu người khác. Biết đâu trong số đó có chúng ta. Vì thế, tôi xin trình bày vài suy nghĩ của tôi. Suy nghĩ riêng tư, nhưng cũng dựa trên Phúc Âm. Được chọn và được trọng dụng. Ông Giuđa là người thuộc nhóm 12 môn đệ Đức Kitô. Nhóm 12 này được coi là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn cách riêng. Bốn Phúc Âm đều nhắc đến tên ông Giuđa này, biệt danh là Giuđa Ítcariốt (Lc 6,16). Điều hơi đặc biệt là tên ông được nhắc tới không dưới 10 lần. Đang khi một số môn đệ khác chỉ được nói tới phớt qua. Thuộc nhóm 12 đã là một vinh dự lớn. Thêm vào vinh dự lớn đó, ông Giuđa còn được trao trọng trách giữ tiền. Với nhiệm vụ giữ tiền chung, ông được coi như người quản lý lo về vật chất và phác hoạ các kế hoạch cho các di chuyển và việc ăn ở hằng ngày của cộng đoàn. Nếu gọi ông là người lập kế hoạch cho nhóm về phương diện vật chất, thì cũng không quá đáng. Như vậy, ông Giuđa là người tháo vát. Trong một thời gian dài, ông được Chúa Giêsu tin tưởng và được các bạn tín nhiệm. Trước biến cố Chúa Giêsu nạp mình bị bắt, bầu khí trong cộng đoàn không có dấu chỉ nào cho phép dự đoán xấu về ông, khiến các môn đệ phải nghi ngờ ông. Tự hào với ý riêng. Ông Giuđa, được tiếp cận với Chúa Giêsu kể như thường xuyên, được nghe Người giảng dạy, được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm, hơn hữa, ông lại là người Chúa chọn cách riêng. Nên không thể nghi ngờ về đức tin của ông. Trái lại, theo thiển ý của tôi, ông thuộc trường phái Zêlốt gồm những người nhiệt thành về đạo. Ông rất khao khát Đấng Cứu thế đến. Ông rất thao thức với việc thiết lập Nước Trời. Ông tin giờ hạnh phúc đó đã tới gần. Bởi vì chính Đức Kitô cũng thỉnh thoảng nói về thời giờ đã gần tới. Người còn dạy phải cầu nguyện cho Nước Cha trị đến. Ông rất tin Thầy mình là Đấng quyền năng. Ông tin tình hình đã tới lúc đổi mới. Ông chứng kiến cảnh từng vạn người từ khắp nơi đổ về thủ đô, để tung hô đón Thầy mình từng bừng. Họ tôn vinh Thầy mình là vua (Mt 24,8-10). Ông thấy Thầy mình mạnh tay đuổi những kẻ buôn bán khỏi đền thờ (Mt 21,12-13). Người tỏ mình là Đấng cứu dân (Mt 21,14-17). Vì thế ông tự hào về hy vọng của ông bao năm hằng ấp ủ. Nhưng, chính lúc đó, ông lại thấy Thầy mình tỏ ra không hào hứng chút nào. Trái lại, Người còn nói xa nói gần về một cái gì u ám sắp xảy ra. Như “Còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt qua, và Con Người sắp bị nộp, để chịu đóng đinh vào thập giá” (Mt 26,2). Vì thế, ông Giuđa nghĩ rằng: Mình cần phải có một kế hoạch, để việc đắc thắng của Thầy trò mình nhất định phải thực hiện cho bằng được, càng sớm càng tốt. Rơi vào những sai lầm trầm trọng. Thế là ông đưa ra kế hoạch, ép Chúa Giêsu phải sớm tỏ ra uy quyền và vinh quang, ép Người phải sớm thiết lập một Nước Trời đầy công bình và vâng phục luật Chúa, ép Người phải chứng tỏ mọi hy vọng của ông về Chúa là đúng, là chính đáng. Thế là, ông mưu đồ bán Chúa. Đây chỉ là một chiến lược. Nhưng, Giuđa đã sai lầm trầm trọng. Sai lầm thứ nhất là ông tưởng Chúa Giêsu, khi bị bắt, sẽ thoát khỏi tay quân dữ một cách dễ dàng. Uy quyền Chúa sẽ tràn lan. Nhưng Chúa Giêsu lại không làm như ông muốn. Sai lầm thứ hai là ông tưởng việc thiết lập Nước Chúa sẽ được thực hiện bằng quyền lực, bằng những thành công rực rỡ lẫy lừng. Nhưng thánh ý Chúa rất khác. Nước Chúa sẽ đến qua con đường khiêm tốn, yêu thương tự hạ hy sinh. Chúa và các môn đệ Người sẽ phải chịu mọi cực hình cho đến chết trên thánh giá để làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ. Sai lầm thứ ba là ông thiếu khiêm nhường và tỉnh thức trước các lời Chúa khuyến cáo. Ông tự cao, cứ bám chặt vào cái nhìn chủ quan của mình. Sai lầm thứ tư là sau khi sự Chúa bị bắt và bị nhục hình đã đánh thức lương tâm ông, thì ông lại vội thất vọng về Chúa và về chính mình. Ông tưởng chỉ còn một lối duy nhất để giải quyết lỗi lầm của ông, là treo cổ tự tử. Ông không nhớ, hoặc không tin vào lòng thương xót của Chúa. Ông không đủ khiêm nhường, để theo Chúa đến thánh giá, đến mộ, và trở về với nhóm 12. Họ cũng là những người bội phản, kẻ cách này, kẻ cách khác. Nhưng họ khiêm tốn vẫn tin theo Chúa trong tâm hồn. Sau cùng, họ đã gặp Chúa sống lại, và đã được Người thứ tha mọi lỗi lầm, yếu đuối. Những bài học. Với mấy suy nghĩ trên đây, tôi nghiêng về hướng không buộc tội ông chỉ vì tham tiền mà phản bội Chúa. Thực ra, chỉ có Chúa mới là Đấng có thẩm quyền xét xử ông. Riêng tôi chỉ muốn rút ra cho mình những bài học hữu ích. Qua sự kiện Giuđa, Chúa Giêsu dạy tôi luôn phải bắt chước Người, trong việc vâng phục thánh ý Chúa Cha. Vâng phục với tâm tình phó thác tuyệt đối. Tôi phải rất thận trọng trong các việc mình tự cho là để làm sáng danh Chúa. Bởi vì rất nhiều trường hợp, ý Chúa lại rất khác ý ta. Việc tôi làm tưởng là việc tốt, nhưng trước mặt Chúa lại là một thứ phản bội ơn gọi làm chứng nhân cho Đấng Cứu thế khiêm nhường, khó nghèo, hy sinh. Tôi tin Nước Trời sẽ đến. Nhưng Nước Trời như một hạt giống gieo vào lòng đất. Hạt giống đó sẽ phát triển và mọc dần dần (Mc 4,26-29). Chứ Nước Trời không được thiết lập bằng bất cứ quyền lực nào. Sự tin cậy phó thác của tôi nơi Chúa mở ra trong tôi một cái nhìn mới. Tôi tin vào Cha giàu lòng thương xót. Cha thì biết cái gì là tốt hơn cho con. Nên trước những xung đột nội tâm, tôi vững tâm nói với Cha lời Chúa Giêsu đã nói ở vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36). Nhất là tôi đặt hết tâm tình tôi vào lời phó thác “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Lời phó thác đó là lời sau cùng Chúa Giêsu nói trên thánh giá. Còn đối với tôi, đó là lời phó thác của mọi ngày, mọi giờ, mọi phút, suốt cả đời tôi. Sau cùng, tôi xin Chúa thương giúp tôi biết sử dụng đúng sự tự do, địa vị và các tài năng của mình. Giuđa đã sử dụng sai các ơn Chúa ban. Nhưng Chúa không ngăn cản. Hơn nữa, Chúa còn ưu ái ông. Vì thế, ông đã đi xa, chìm sâu trong lầm lạc. Về phương diện này, có thể nói tội phản bội của Giuđa vẫn tái diễn. Đến nỗi, còn có thể nói thêm: Nếu không biết khiêm nhường tỉnh thức, thì trong mọi người chúng ta vẫn thấp thoáng bóng một Giuđa phản bội. Hy vọng đừng ai coi thường tiềm năng phản bội đó nơi chính mình.
Thánh Giuse là một Đấng thánh thinh lặng. Ngài không nói gì trong Phúc Âm. Nhưng Phúc Âm giới thiệu Ngài là con người làm việc, con người hoạt động, con người phục vụ. Ngài được coi như điểm tựa của Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu trong một quãng lịch sử đầy khó khăn. Ngài được rất nhiều nơi, nhiều người mộ mến. Riêng trong giáo phận Long Xuyên này, tất cả 156 nhà thờ lớn nhỏ đều có ảnh tượng Ngài. Trong tổng số 205 linh mục của giáo phận, thì đã có 63 vị nhận thánh Giuse làm quan thầy. Rêng Đức Giám Mục giáo phận Trần Xuân Tiếu vẫn được gọi bằng một danh gọi thân thương: Đức Cha Giuse. Bởi vì thánh Giuse là Bổn mạng Ngài. Mỗi người chúng ta có thể nhìn thánh Giuse bằng tâm tư riêng của mình, dựa theo Kinh Thánh và cảm nghiệm tư riêng. Riêng tôi, tôi vẫn quen nhìn thánh Giuse là Đấng bảo vệ Hội Thánh. Cái nhìn này càng đậm nét hơn qua những kinh nghiệm phục vụ giáo phận Long Xuyên thân yêu này. Thực vậy, thánh Giuse đã bảo vệ Hội Thánh địa phương qua biết bao thăng trầm. Không những chỉ bảo vệ, mà còn phát triển. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên hai ơn, mà tôi cho là đặc biệt quí giá, Ngài đã ban cho giáo phận ta. Ơn thứ nhất là ơn truyền giáo và tái truyền giáo. Giáo phận Long Xuyên có hai cảnh thiên nhiên, mà Chúa Giêsu hay nói tới. Đó là cánh đồng và sông biển. Trên cánh đồng xã hội bao la này, trong mấy chục năm nay, biết bao hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào, cho tới những vùng sâu vùng xa. Trên những dòng sông và biển cả là dòng lịch sử địa phương bao la, biết bao lưới tình thương đã được thả xuống, chỗ nông cũng như chỗ sâu. Tất cả đều âm thầm, đúng lúc, đúng cách, mà Chúa muốn. Một điều cũng nên nhắc ở đây, là trong truyền giáo có tái truyền giáo. Việc tái truyền giáo tại giáo phận ta đã chú trọng đến việc tập trung vào Lời Chúa, phép Thánh Thể và Bác ái. Tất cả cũng âm thầm, đi vào nội tâm và đơn sơ vắn gọn. Bên cạnh ơn truyền giáo và tái truyền giáo, còn có một ơn thứ hai, tôi cho là rất quí giá. Tôi xin nói: Ơn thứ hai là ơn nhân sự. Trong những năm qua, nhờ thánh Giuse, những nhân sự đã từng cộng tác vào việc bảo vệ và phát triển Hội Thánh địa phương ta là một con số rất đông và rất đa dạng. Trước tiên, chúng ta phải kể đến Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ, vị giám mục tiên khởi, cha chung của chúng ta. Bên cạnh ngài là bao nhiêu cộng tác viên, thuộc đủ mọi thành phần. Có những người đã qua đời. Có những người còn sống. Họ là những nhân chứng về Chúa Giêsu, Đấng cứu độ loài người. Về ơn nhân sự, tôi muốn nhắc lại ở đây trường hợp hai Đức Cha thân mến, rất gần gũi với chúng ta. Tôi biết rất rõ trường hợp này. Hồi đó Cha Giuse Trần Xuân Tiếu đang là Tổng đại diện kiêm Cha Sở nhà thờ chánh toà Long Xuyên và Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, đang là thư ký Toà Giám Mục Long Xuyên. Khi biết hai cha được Toà Thánh đưa vào danh sách đề cử lên Giám mục, tôi đã khấn cầu tha thiết với thánh Giuse. Để thánh ý Chúa được thực hiện, thánh Giuse đã nhận lời. Kết quả xảy ra rất tốt đẹp, rất mau lẹ, rất êm xuôi. Chỉ trong ba tháng, một vị đã trở thành Giám mục ở biên giới Việt Nam phía Bắc, một vị đã làm Giám mục ở biên giới Việt Nam phía Nam. Cả hai Giám mục đều là Giuse. Với sự nhắc lại biến cố trên đây, tôi muốn xin anh chị em tạ ơn thánh Giuse. Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho hai Đức Cha, nhất là cho Đức Cha Giuse đang là giám mục giáo phận chúng ta. Các ngài đang và sẽ phải gánh nhiều trọng trách nặng nề. Đặc biệt là trong thời kỳ đức tin cần được thanh luyện, và nhân sự cần được rèn luyện một cách sâu sắc hơn. Tâm sự của tôi xin được kết thúc bằng một cái nhìn và một hy vọng. Cái nhìn của tôi phản ánh cái nhìn của Đức Mẹ ở Fatima. Đó là đã đến lúc con cái Chúa phải trở về con đường Phúc Âm một cách triệt để, dứt khoát. Nếu không, sẽ khó tránh được những tại hoạ phần hồn phần xác. Với cái nhìn cảnh báo đó, tôi hy vọng lương tâm chúng ta sẽ được thức tỉnh, để bắt chước thánh Giuse, hết sức bảo vệ Hội Thánh, bằng sự khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa, với điểm tựa là Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria. Thiết nghĩ đó là cách tốt nhất để mừng kính thánh Giuse, Đấng bảo vệ Hội Thánh Việt Nam chúng ta.
Tuần thánh là một thời gian đặc biệt. Trong thời gian đặc biệt này, Chúa Giêsu hẹn gặp tôi. Người gặp tôi như người cha hiền mong đợi đứa con phung phá. Người gặp tôi như người chủ chiên lành đi tìm con chiên lạc. Người gặp tôi như nguồn nước hằng sống muốn tràn vào tâm hồn tôi đang khô cạn. Chúa Giêsu đợi chờ tôi dưới những hình thức dễ thương đó. Chờ đợi như thế là những mời gọi. Mời gọi âm thầm. Mời gọi dịu dàng. Mời gọi thân thương. Chúa Giêsu tha thiết một điều là: tôi hãy đón nhận Người. Đón nhận một cách tự do. Đón nhận với tất cả thân phận của tôi. Tôi là gì, tôi có thế nào, thì cứ thế mà đón nhận Người. Được Người thu hút, tôi đến với Người. Người vui mừng hơn tôi vui mừng. Chính Người khoác vào mình tôi những thái độ thiêng liêng, để sự gặp gỡ giữa Người và tôi trở thành thân mật. Thái độ khiêm nhường cảm tạ. Chúa đã nói với Maisen: “Ta muốn xót thương ai thì thương xót. Ta muốn cảm thương ai thì cảm thương” (Xh 33,19). Lời đó cũng đã được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gởi giáo đoàn Rôma. Thánh Phaolô thêm: “Vậy, ai được chọn, thì không phải vì họ muốn hay chạy vạy, nhưng chỉ vì họ được Thiên Chúa xót thương” (Rm 9,18). Những lời Chúa phán trên đây soi sáng cho tôi sự thực này là: Chúa gọi tôi, đợi chờ tôi, gặp gỡ tôi, chỉ vì Chúa thương tôi mà thôi. Chúa thương tôi, chỉ vì Chúa muốn thương tôi. Đó là một tình thương cho đi nhưng không. Phải hiểu “cho đi nhưng không” ở đây là cho đi cả mạng sống mình. Như lời thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8). Ở đây “người tội lỗi” được dùng theo nghĩa chung chung. Còn đối với tôi, người tội lỗi khi chỉ về tôi, sẽ phải hiểu là rất tội lỗi. Nhận thức đó khiến tôi đón nhận Chúa với thái độ khiêm nhường cảm tạ. Tôi nghĩ khiêm nhường đến mức nào cũng vẫn không đủ, cảm tạ đến độ nào cũng vẫn là thiếu. Cùng với thái độ khiêm nhường cảm tạ, Chúa Giêsu còn nhắn nhủ tôi thái độ tỉnh thức bén nhạy. Thái độ tỉnh thức bén nhạy. Chúa cho tôi nhớ lại lời Chúa phán xưa với các môn đệ: “Ít lâu nữa, các con sẽ không trông thấy Thầy. Rồi ít lâu nữa, các con sẽ lại thấy Thầy” (Ga 16,19). Lời Chúa phán trên đây cho tôi hiểu phần nào sự hiện diện của Chúa hiện nay trong thế giới nói chung và đối với từng người nói riêng. Hiện nay, Chúa Giêsu không hiện diện một cách hiển nhiên, như thời Người xuống thế, ở giữa loài người 33 năm. Tôi không trông thấy Người. Nhưng, không trông thấy Người không có nghĩa là Người không hiện diện. Thực sự, Người luôn hiện diện giữa chúng ta. Hoặc bằng cách Người ẩn giấu mình trong các bí tích và Phúc Âm. Hoặc bằng cách Người hiện diện kín đáo trong các người đạo đức thánh thiện. Hoặc bằng cách Người nói nhỏ nhẹ qua các tín hiệu lớn nhỏ xảy ra hằng ngày. Nhất là Chúa Giêsu hiện diện bằng cách Người dẫn đường chỉ lối qua Thần Khí của Người, để trong từng hoàn cảnh, chúng ta biết làm thế nào là thực hiện thánh ý Chúa. Một ví dụ: Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng rập theo thói đời này. Nhưng hãy biến đổi con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). Nhiều khi suy gẫm lời khuyên trên đây của thánh Phaolô, tôi thấy đó là một nguyên tắc tuyệt vời. Nhưng lúc đi vào cụ thể, tôi thấy khó quá. Lịch sử thì di chuyển, não trạng con người thì đổi thay. Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể, nhiều thói đời được đánh giá như những nếp sống không đến nỗi xấu, trái lại một số thói đời cũng có thể coi là tương đối thuận lợi cho việc làm sáng danh Chúa. Nên tôi muốn rập theo những thói đời đó. Nhưng, những trường hợp như thế, nếu tôi khiêm tốn, tỉnh thức và bén nhạy, nhất là cầu nguyện, tôi sẽ được Thần Khí phân định mọi sự theo Lời Chúa và ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Nếu rập theo thói đời một cách nông nổi sẽ là thái độ không đón nhận Chúa, gây tai hại lớn cho việc gặp gỡ Chúa Cứu độ tôi. Chính vì thế, mà Chúa đòi tôi một thái độ nữa, đó là thái độ vâng phục và phó thác. Thái độ vâng phục và phó thác. Thái độ này được coi như việc của đức tin. Một đức tin bừng cháy lửa mến. Tôi tin mến Người, nên tôi đặt con người của tôi và trọn đời tôi trong tình yêu của Người. Người là chủ đời tôi. Tôi không được làm tôi hai chủ, như lời Người dạy: “Người ta không thể làm tôi hai chủ” (Mt 7,24). “Phải vâng phục Chúa hơn là vâng phục người ta” (Cv 5,29). Thái độ vâng phục đòi nhiều phấn đấu. Phải phấn đấu, để chỉ sống theo ý Chúa mà thôi. Có những phấn đấu rất cam go làm tôi nhớ lại cuộc phấn đấu của Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha thôi” (Mc 14,36). Có những phấn đấu trong cô đơn, tăm tối. Nhưng, tôi hy vọng Chúa Giêsu sẽ cùng với tôi nói lên lời phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Với thái độ vâng phục và phó thác, Chúa sẽ cho tôi vượt qua mọi thử thách, để tới Phục sinh rạng ngời hạnh phúc, bình an, vui mừng. Để kết, tôi xin phép kể lại một chiêm bao kinh hoàng. Tôi được chứng kiến một đoàn người đông đảo đi trên con đường dài. Đi đầu là Chúa Giêsu đội mão gai vác thánh giá, thất thểu bước đi, máu chảy đầm đìa, dưới những trận đòn thô bạo và những lờ xỉ vả của đoàn quân dữ. Tiếp theo xa xa là một đoàn các thượng tế trong phẩm phục trang trọng, cờ quạt rợp trời, kèn trống inh ỏi, giữa những lời tung hô nhịp nhàng chúc tụng các thượng tế. Sau cùng là một đoàn đông đảo những người què quặt, bệnh nạn, nghèo nàn, lê bước đi, với những tiếng rên não nùng thảm thiết. Chiêm bao chỉ là chiêm bao. Nhưng mỗi lần nhớ lại, tôi cảm thấy đau lòng. Muốn quên đi, mà không quên được. Phải chăng đó cũng là một khuyến cáo. Hãy gặp gỡ Chúa Giêsu với hết tình cảm thương sự đau khổ của Người. Hãy gặp gỡ những người nghèo khổ với sự chia sẻ số phận của họ, theo gương Chúa Giêsu. Chớ chi, mọi lễ tế phụng vụ và lễ tế cuộc đời, không bao giờ thiếu vắng sự thương cảm chân thành và sâu sắc đối với Chúa Giêsu đau khổ và với đông đảo những con người khổ đau. Thứ cảm thương đó đang trở thành những gặp gỡ làm chứng cho đức tin, mà tôi rao giảng.