Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 151-198 Maria chọn phần tốt nhất --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 10, 38-42: "Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------
Suy niệm Lời Chúa hôm nay thấy có 2 cách nhìn sự việc gần như mâu thuẫn với nhau, đó là TN 16-C151
Suy niệm Lời Chúa hôm nay thấy có 2 cách nhìn sự việc gần như mâu thuẫn với nhau, đó là ở bài đọc 1 (St 18, 1-10a) thái độ tận tình phục vụ của Ap-ra-ham thì được khen ngợi và thưởng công; nhưng ở bài Tin Mừng (Lc 10, 38-42) Mác-ta cũng “tất bật lo việc phục vụ” nhưng lại bị chê là “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá”; trong khi cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa” thì lại được khen là người “biết chọn phần tốt nhất”. Thử tìm hiểu xem vì sao lại có chuyện đó:
Ap-ra-ham hôm ấy đang ngồi nghỉ trưa ở cửa lều, thấy ba người khách đang tiến về phía lều của ông. Ông liền bỏ lều chạy ra đón khách và sấp mình chào hỏi. Rồi không kịp để cho khách trả lời và muốn cho khách thấy lòng thành của mình mà không thể từ chối được, Ap-ra-ham nói một hơi: “xin ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi…”. Dĩ nhiên là khách chấp nhận. Ap-ra-ham còn thành khẩn hơn nữa, ông bảo bà Xa-ra nhào bột làm bánh. Ông chạy ra chuồng, chính tay lựa con bê non béo tốt, trao cho đầy tớ làm thịt. Và ông chạy đi lấy sữa và nhũ men. Ông mời khách ngồi và khúm núm đứng hầu bàn, hầu chuyện khách. Ông không nghĩ gì đến mình, chỉ biết có khách và chỉ biết hồn nhiên thành khẩn phục vụ.
Cứ theo thường tình mà xét, thì khi tiếp đãi khách – nhất là người khách đặc biệt ấy lại là Thiên Chúa – tổ phụ Ap-ra-ham hay Mác-ta đã làm đúng và chắc chắn sẽ được khách ban thưởng hoặc ít ra thì cũng tỏ lòng khen ngợi vì lòng hiếu khách của chủ nhà. Tổ phụ Ap-ra-ham đã được ban thưởng, nhưng Mác-ta thì lại bị nhắc nhở là lo lắng những chuyện không cần thiết. Mác-ta chỉ bị nhắc nhở thôi, chớ không bị khiển trách. Còn Ma-ri-a thì – với con mắt người đời – đã “lươi huyền”, né tránh công việc, để đến nỗi người chị (Mác-ta) phải nhờ chính vị khách hiện diện (Đức Giê-su Ki-tô) nhắc nhở bổn phận của mình. Ấy vậy mà Ma-ri-a lại được Chúa khen là khôn ngoan, biết chọn cho mình phần tốt nhất. Quả thực là câu chuỵên khác thường, nếu không muốn nói là nghịch lý.
Vấn đề đặt ra ở đây là vị khách tới thăm nhà chị em Mác-ta có một quan điểm khác hẳn người đời. Vị khách ấy là Thầy, là Chúa, đã không đòi môn đệ rửa chân cho mình, lại còn quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, không coi môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu. Vị khách ấy là Vua nhưng “đến không phải để được phục vu mà là phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Vị khách ấy là Thiên Chúa nhưng chỉ đến với những kẻ bé mọn, thấp hèn, những kẻ tội lỗi, bệnh tật, nghèo đói. Chung quy, vị khách ấy là Người cứu nhân độ thế, đem Lời Thiên Chúa đến rao giảng cho muôn dân để giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho họ. Tắt một lời, vị khách ấy chính là Lời Thiên Chúa (Ngôi Lời), chính là Thiên Chúa thật. Và vì thế nên “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14, 23).
Đón tiếp vị khách ấy phải lăng xăng lo dọn dẹp nhà cửa, lo cơm nước cho chu đáo – như Mac-ta đã làm – là tốt, là đã hành xử đúng, nhưng như thế vẫn chưa đủ, vẫn chưa hiểu được ý nghĩa cuộc viếng thăm của vị khách đặc biệt ấy. Mục đích của vị khách có một không hai ấy, không phải đến để được đãi đằng cơm nuớc tiệc tùng, phục vụ cho đời sống vật chất. Vị khách ấy đến với mục đích là đem lại Lời Hằng Sống cho cuộc sống tinh thần, cho đời sống vĩnh cửu mai sau của chị em Mac-ta (chính vị khách ấy đã làm phép lạ cho em của Mac-ta là La-da-rô chết đã 4 ngày được sống lại – Ga 11, 1-45). Chính vì thế, nếu biết đón nhận, lắng nghe những Lời Hằng Sống từ vị khách đó, mới thực sự biết chọn cho mình phần tốt nhất. Ma-ri-a trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình.
Còn nếu chỉ biết vị khách ấy như là một người trần thế (cho dù có là vua quan sang trọng cỡ nào đi chăng nữa), thì sẽ cho những lời nói, cử chỉ, hành động của vị khách ấy là trái thường nghịch lý, là “chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60), thậm chí còn cho đó là “người mất trí” (Mc 3, 21), là “người bị quỷ ám” (Mc 3, 22) nữa. Tuy nhiên, khi đã biết vị khách ấy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, mà vẫn cố tình phủ nhận như đám người Pha-ri-sêu và kinh sư, thì chắc chắn sẽ nhận được lời khiển trách nặng nề: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!” (Lc 10, 13-15).
Hóa cho nên, không thể đem nhãn quan trần tục ra để nhìn và đánh giá hành động của Ma-ri-a, mà phải cầu xin Thánh Thần soi sáng để nhận chân được hành động khôn ngoan biết chọn cho mình phần tốt nhất. Vâng, hãy khôn ngoan chọn cho mình phần tốt nhất trước mặt Thiên Chúa, nhưng chớ có dựa vào sự khôn ngoan do mình tưởng là mình tự có (vì thực ra thì đó chỉ là sự khôn ngoan của thế gian); mà phải biết cậy dựa vào sự “khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa” như lời Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1Cr 2, 6-7). Thực sự, chỉ có như thế thì “đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2, 5).
Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải hiểu Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện với nhân loại, đồng hành với người tín hữu trong cuộc sống hằng ngày qua những người khó nghèo, qua những người bệnh tật, vì chính Chúa đã đồng hóa với họ. Hãy biết lắng nghe Lời Chúa, đón tiếp Chúa qua anh chị em đồng loại. Hai mẫu gương phục vụ và đón tiếp của Ma-ri-a và Mac-ta phải giúp người Ki-tô hữu nhìn lại cách đón tiếp của mình đối với người khác. Cần phải phục vụ tha nhân bằng những hành động bác ái, yêu thương nhưng đồng thời cũng cần phải ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Chúa dạy, và kín múc nơi Người nguồn sức mạnh, ân sủng để phục vụ anh em.
Người Ki-tô hữu hằng ngày đọc kinh, tham dự Thánh Lễ là phần tốt, nhưng chưa phải là “phần tốt nhất” khi chưa thực sự biết lắng nghe, cầu nguỵên và thực hành Lời Chúa trong đời sống đạo của mình. Ôi! Lạy Chúa! Con cũng như bao người khác, nếu có ý định chọn cho mình phần tốt nhất thì cũng chỉ là chọn những thứ thoả mãn được dục vọng nhất thời, chọn những thứ hào nhoáng phù phiếm nhưng rất hấp dẫn lôi cuốn con trong cuộc sống trần thế. Quả thực, nhiều lúc con cứ tưởng là mình khôn ngoan, mà xao lãng, mà quên đi Lời Chúa hằng răn dạy, nhắc nhở con. Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho con để con có thể học theo và làm được như hai chị em Mac-ta và Ma-ri-a.
Ôi! Lạy Chúa! “TK 1: Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên, Trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi? ÐK: Lời Ngài là sức sống của con, Lời Ngài là ánh sáng đời con, Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, Là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui, Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời, Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai. TK 2. Xin cho con biết lắng nghe, Lời Ngài dạy con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe, Lời Ngài từng theo bước đời con. Xin cho con biết sẵn sàng, Trở về và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng, Thực hành lời Chúa đã truyền ban.” (Nguyễn Duy – “Lắng nghe Lời Chúa” – TCCĐ). Amen.
Tin Mừng không phải là câu chuyện đọc lên cho vui, mà là những Lời giáo huấn của Chúa Giêsu TN 16-C152
Tin Mừng không phải là câu chuyện đọc lên cho vui, mà là những Lời giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngôi Lời đã Nhập Thể, để ở với nhân loại. Vì vậy,Lời Chúa luôn vĩnh hằng và vĩnh cửu vượt thời gian, bởi vì thời gian là hữu hạn còn Thiên Chúa vĩnh hằng, vì vậy được mệnh danh là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Vâng, con xin được mở đầu hơi quen thuộc,nhưng không dư thừa, vì điều nầy ai cũng biết, cũng có khi “ biết rồi khổ lắm nói mãi”. Nhưng, quả thật là như thế, chân lý của Lời Chúa, chính là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Tin Mừng hôm nay thật ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn có 05 câu, nhưng câu cuối cùng là câu quan trọng nhất (c 42b). Vì là câu Chúa Giêsu khen người em của cô Matta,là cô Maria, (trùng tên với Đức Mẹ), điều gì mà Chúa Giêsu khen thì điều đó thật diễm phúc.
Như chúng ta biết, hai chị em nhà nầy ở trong một gia đình đạo đức, là em của Lazaro, người mà Chúa Giêsu đã cho phục sinh, gọi là gia đình Betania. Chúa Giêsu đến với gia đình nầy, vì Người là bạn của Lazaro, khi được Người đến thăm, họ rất vui vẻ tiếp đãi Người, một sự chân tình, hiếu khách thật chu đáo. Nhưng, như chúng ta thấy, hai chị em hai tính cách khác nhau, trong khi người chị đon đả, lo việc bếp núc, thì người em cứ ngồi bình thản nghe Chúa Giêsu giảng dạy, như không có chuyện gì quan trọng hơn.
Qua đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã khen cô em khôn ngoan hơn, vì đã biết chọn phần tốt nhất, đó là việc lắng nghe Lời Chúa. Như vậy, thái độ của cô Maria là thái độ của người tông đồ, biết chọn giá trị tinh thần, hơn giá trị vật chất. Theo đó, cô Maria đã khôn ngoan biết dùng “ Lương thực vĩnh cửu” là lời Chúa, mà chính Chúa Giêsu là Người Chủ Tiệc, mà cô Marai là người được thiết đãi, như vậy, sự khôn ngoan của cô Maria là như vậy. Trong khi đó, cô Matta lăng xăng lo nấu những món ăn cho thực khách dùng.
Một nghĩa cử sống động, một hành động khôn ngoan của người tông đồ Maria là một “gương sáng” cho việc lắng nghe Lời Chúa.
Ý thứ hai: Tâm hồn đón nhận Lời Chúa của cô Maria như một lời tuyên xưng hùng hồn của Phê-rô về Thầy Chí Thánh của mình: “ Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thì Chúa Giêsu bảo:” Không phải huyết nhục (tức thân xác)mạc khải cho anh, mà chính Cha Ta, Đấng ngự trên Trời đã cho anh biết điều ấy”.
Như vậy, cô Maria chưa tuyên xưng bằng miệng, nhưng cô đã tuyên xưng bằng hành động khôn ngoan,đến độ cũng như Phê-rô, cô đã được Chúa Giêsu khen. Rõ ràng, hành động khôn ngoan của cô Maria cũng chính là được Chúa Thánh Thần soi sáng, cô đã biết chọn phần tốt nhất.
Ngày nay, những thiếu nữ được ơn soi sáng , can đảm xin sống đời Thánh Hiến, hàng ngày được lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, họ chấp nhận gạt bỏ tất cả, khi họ chọn Chúa, mặc nhiên, họ sẽ được Chúa Giêsu khen như cô Maria, vì cô đã chọn phần tốt nhất. Vì , đó là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Những thành phần thiếu nữ sống đời Thánh Hiến là họ noi gương cô Maria,và để bước theo Chúa Giêsu trọn vẹn, vì đó là hành động khôn ngoan.
Thánh vịnh 14 hôm nay cho chúng biết người nhân đức sẽ được ở nơi nhà Chúa, tức là họ không theo thế gian, một thế gian tro mạt, mà họ sống theo Lời Chúa, thì linh hồn họ sẽ hằng sống theo Thiên Chúa.
Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay trích sách Sáng Thế ( St 18, 1-10a), kể về Thiên Thần đến thăm ông ápraham, và ông đã tiếp đãi các ngài, kết quả một năm sau, ông sinh Isaac. Như vậy, tiếp đãi người của Thiên Chúa , mà con được kết quả hậu hỷ như vậy, huống chi là cô Matta tiếp đãi chính Chúa Giêsu, thì cô sẽ được phần thưởng dường nào, nhưng, cô Maria thì được chính Chúa Giêsu thiết đãi. Vì vậy, Chúa Giêsu khen cô khôn ngoan hơn, vì cô đã chọn phần tốt nhất.
Bài đọc II,( Cl 1, 24-28) thánh Phao-lô cho chúng ta biết sự phục vụ vất vả của ngài cho các giáo đoàn là để rao giảng Đức Kitô, hầu Người đang ở giữa chúng ta, chính là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Theo đó, hai cách phục vụ của hai chị em nhà Matta cho thấy đều vì phục vụ Chúa Giêsu, Đấng là Ki-tô đang ở giữa thế gian.Nhưng, người em phục vụ Người, bằng cách lắng nghe Lời Người, vì vậy, Người đã khen cô Maria.
Kết luận: Như vậy, phục vụ Thiên Chúa không phải mời Chúa đến nhà dùng bữa, mà là lắng nghe Lời Người và thực thi, và cô Maria đã làm điều đó. Vì ai nghe và thực hành Lời Chúa thì có phúc hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khen cô Maria, vì đã chọn phần tốt nhất, vì cô đã lắng nghe Lời Chúa và thực thi. Xin cho những ai thành tâm tìm Chúa để lắng nghe Lời Người, thì họ cũng được Chúa khen như cô Maria, vì sự chọn lựa khôn ngoan. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.
Theo quan niệm xưa, đảm đang là khái niệm chỉ phẩm chất người phụ nữ giỏi giang trong công việc TN 16-C153
Theo quan niệm xưa, đảm đang là khái niệm chỉ phẩm chất người phụ nữ giỏi giang trong công việc – thường liên quan việc nội trợ trong gia đình. Ngày nay, khái niệm đảm đang mang nghĩa rộng hơn, đó là khả năng quán xuyến công việc trong mọi lĩnh vực, bất kể nam hay nữ. Kinh Thánh cho biết: “Gia-róp-am là người có khả năng. Vua Sa-lô-môn thấy chàng trai ấy đảm đang công việc, thì đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giu-se” (1 V 11:28).
Nói về gia đình, Kinh Thánh cho biết: “Có vợ đảm đang như được mang ngọc miện, có vợ hư hỏng như bị bệnh mục xương” (Cn 12:4). Người vợ đó trở thành cái phúc cho người chồng: “Phúc thay ai cưới được vợ hiền, tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi. Vợ đảm đang khiến chồng được sung sướng, được an vui suốt cả cuộc đời” (Hc 26:1-2).
Sự đảm đang liên quan công việc, công việc liên quan sự phục vụ – điều cần thiết mà Chúa Giêsu rất trân trọng, và chính Ngài đã xác định: “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Ngài đã nêu gương phục vụ qua việc rửa chân cho các môn đệ khi ăn mừng dạ tiệc Vượt Qua và cũng là Bữa Tiệc Ly.
MẶC ĐỊNH
Có nhiều cách và nhiều cấp độ đối với việc phục vụ: Tôi tớ phục vụ chủ nhân, người nhỏ phục vụ người lớn, con cái phục vụ cha mẹ, chủ nhà phục vụ khách, nhân viên phục vụ khách,… Đó là quy ước mặc định của xã hội, nhưng thực ra, mọi người đều phục vụ nhau, không nhiều thì ít, không kiểu này thì dạng nọ, dù là người lớn vẫn có lúc phục vụ người nhỏ hoặc người trên cũng có khi phục vụ người dưới. Tuy nhiên, dù phục vụ ở dạng nào, vấn đề quan trọng là PHONG CÁCH PHỤC VỤ, vì đôi khi người ta có thể kiêu ngạo hoặc tự tôn ngay khi tỏ vẻ phục vụ. Quả thật, phục vụ cũng có dạng giả dối. Thật nguy hiểm!
Sự phục vụ có liên quan sự cảm thông và tha thứ, cần biết chấp nhận để không đòi hỏi. Chuyện kể rằng…
Một buổi tối, hai mẹ con cùng đi ăn nhà hàng. Nhân viên phục vụ họ là một cô gái trẻ. Khi cô này bưng món cá hấp tới thì không may đĩa bị nghiêng, làm nước cá chảy xuống chiếc túi hàng hiệu mới mua của người mẹ. Bà liền đứng phắt dậy và nhìn nhân viên với ánh mắt đầy sự phẫn nộ.
Lúc đó, cô phục vụ hốt hoảng, bối rối, và ấp úng: “Cháu… cháu… vô cùng xin lỗi, cháu sẽ đi lấy khăn lau ngay”. Cô con gái liền đứng dậy, vỗ vai cô nhân viên phục vụ và nói: “Không sao đâu, chuyện nhỏ thôi, về nhà giặt là sạch thôi mà. Chị đừng lo, cứ đi làm việc của chị”. Giọng điệu dịu dàng, thái độ cảm thông, đầy thiện chí, giống như chính cô ấy là người phạm lỗi vậy.
Người mẹ vô cùng ngạc nhiên với cách hành xử khôn khéo của con gái. Dưới ánh đèn vàng trong nhà hàng, người mẹ thấy trong mắt của con gái mình có gì đó ươn ướt, long lanh,…
Ai cũng biết rằng phục vụ là bổn phận chung, không là trách nhiệm riêng ai. Đừng nghĩ người này phải thế nọ, người kia phải thế khác. Nhà văn Nam Cao nhận xét: “Kẻ mạnh phải là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Thật tuyệt vời! Đó là một cách yêu thương và nâng đỡ người khác, đồng thời cũng là một cách phục vụ. Còn chí sĩ Chu Văn An nhận định: “Người thức giả phải nói lên sự thật cốt sao cho dân được ấm no, thiên hạ được thái bình, triều đình được vững mạnh”. Đó lại là một dạng phục vụ khác, phục vụ vì hạnh phúc của cộng đồng. Mỗi người đều có phong cách độc đáo riêng. Muốn người khác đảm đang thì trước tiên mình phải đảm đang, muốn người khác phục vụ thì chính mình phải làm gương phục vụ trước!
Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Khi ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy họ, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!” (St 18:3-5). Rất chu đáo và tận tình. Thấy chủ nhà chân thành, khách vui vẻ để cho ông phục vụ: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”. Biết cho là yêu thương, biết nhận cũng là yêu thương – không nỡ phụ lòng người cho.
Ngay lập tức, ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara và bảo: “Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh” (St 18:6). Tổ phụ Ápraham vừa đảm đang vừa có tinh thần phục vụ. Người ta bảo “khách đến nhà không gà thì vịt”, thế nên ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Rồi ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách. Không chỉ vậy, ông còn đứng hầu dưới gốc cây khi khách dùng bữa. Cả ông và bà đều tận tình và khiêm nhường, phục vụ hết mình.
Biết lắng nghe thì dễ khiêm nhường phục vụ. Cả hai ông bà đã làm vui lòng Thiên Chúa, thế nên các vị khách hứa với ông Ápraham: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18:10). Con cái là quà tặng vô giá từ Thiên Chúa – Đấng duy nhất làm chủ sự sống. Bất cứ ai được Thiên Chúa trao tặng phẩm nào thì cũng phải là người sống ngay thẳng, “đảm đang” với chính cuộc đời mình.
Người đó có lối sống hợp ý Chúa, tín thác và tận hiến cuộc đời cho Ngài – nghĩa là thuộc về Ngài. Nhưng ai là người thuộc về Ngài? Thánh Vịnh gia đặt vấn đề: “Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa, được ở trên Núi Thánh của Ngài?” (Tv 15:1). Tác giả hỏi và cũng đưa ra câu trả lời: “Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:2-5). Đó là một chuỗi các nhân đức cần thiết cho cuộc đời Kitô hữu.
Nếu nghiêm túc xét theo “luật nhân đức” này thì chúng ta vi phạm khá nhiều. Ôi, sao vậy? Bởi vì chúng ta thiếu ngay thẳng, lọc lừa nhau đủ kiểu, không hại người chuyện to thì cũng hại người chuyện nhỏ, làm người khác bẽ mặt một cách rất tinh vi, cho vay “cắt cổ”, đủ kiểu hối lộ, đủ trò tham nhũng, nói một đằng làm một nẻo, bất tín,… Cứ tự rờ gáy mà cũng thấy “nhột” ghê đi! Phạm luật như vậy thì không thể phục vụ tha nhân, không thể đảm đang đối với cuộc sống – đời thường và tâm linh.
Đối với Thiên Chúa, phục vụ là phần cài đặt mặc định trong mỗi con người; đối với chúng ta, phục vụ vì miễn cưỡng thì không đáng công, tự nguyện phục vụ mới đáng công. Theo “phong cách” nào thì tùy quyết định riêng của mỗi người.
QUYẾT ĐỊNH
Đảm đang không nhất thiết là phải bận rộn luôn tay hoặc lăng xăng như con quay, mà là biết chọn lựa việc nào cần làm trước, việc nào nên làm sau. Làm việc thì vất vả, không thể cứ tà tà, nhất là khi làm việc và phục vụ vì Đức Kitô.
Thánh Phaolô cho biết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26). Thánh nhân giải thích đơn giản mà rõ ràng, nhẹ nhàng mà thẳng thắn, và rất nghiêm túc. Thật thấm thía!
Như có ý giải thích thêm cho dễ hiểu, Thánh Phaolô nói: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1:27-28). Nói với người khác về Chúa không phải để chứng tỏ “đẳng cấp” của mình để được thiên hạ “nể mặt” hoặc “ca tụng”, mà là phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân và muốn cùng nhau nên thánh theo đúng Thánh Ý Chúa. Đó mới là phong cách phục vụ thánh thiện và tốt lành, là phong cách phục vụ mà Thiên Chúa mong muốn. Điều gì đẹp lòng Chúa thì có giá trị, không thì vô ích – mà có khi còn nguy hại.
Qua trình thuật Lc 10:38-42, Thánh sử Luca cho biết rằng khi Thầy trò Đức Giêsu vào một làng kia, có một phụ nữ tên là Mác-ta đón Ngài vào nhà. Cô này có người em gái tên là Maria. Cô em cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Còn cô chị thì tất bật lo việc phục vụ. Có lẽ cô chị thấy em gái “vô tâm vô tính” quá, mà cả Chúa Giêsu có vẻ cũng “vô tư” luôn, còn mình bận rộn làm bữa, luôn tay luôn chân như con thoi, cô chị có vẻ ấm ức nên tiến lại bên Chúa Giêsu mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40). Thật tội nghiệp cô nàng siêng năng, đảm đang lắm, đáng khen lắm!
Nhưng cuộc sống không chỉ như vậy, thế nên Chúa Giêsu ôn tồn: “Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:41-42). Nhiêu khê thế sao? Không, mà có những cấp độ so sánh khác nhau: cần, cần hơn, cần nhất.
Cuộc sống phức tạp, không hề đơn giản – mặc dù có vẻ rất ư bình thường. Về con người, chúng ta thường thấy có hai dạng: Loại thứ nhất – lăng xăng và ồn ào, loại thứ nhì – điềm đạm và tĩnh lặng. Tất nhiên mỗi loại người đều có mặt tích cực riêng, không thể nói người này hơn và người kia kém. Công việc bừa bộn mà không có người chu đáo và năng động thì cũng khó, nhưng chỉ lo bề ngoài mà “quên” bề trong, chú ý “phần nổi” mà không để ý “phần chìm” thì cũng chẳng đâu vào đâu. Mỗi loại đều có đặc tính nhất định, không thể chê trách mặt này mà khen ngợi mặt kia. Cái gì cũng cần phải đúng nơi, đúng lúc. Cần cả ba yếu tố – thiên thời, địa lợi, và nhân hòa – kết hợp với nhau mới khả dĩ tạo nên sự thành công tốt đẹp.
Thật lòng mà nói, chúng ta phải công nhận rằng, trước khi động thái được thể hiện bên ngoài thì phải có nguồn gốc từ bên trong – nội tại và ngoại tại có liên đới với nhau. Nội tại vẫn có phần “nặng ký” hơn ngoại tại. Phần chìm của tảng băng trôi luôn lớn hơn phần nổi, nhưng không nhìn thấy. Thật vậy, một hành động phải được suy tính trước rồi mới được thực hiện, người ta phải ước muốn trước khi hành động. Ngay cả tội lỗi cũng vậy, người ta phải muốn trước, rồi đồng thuận, và sau đó mới thực hiện. Cái gì cũng có quy trình riêng của nó.
Đối với Mác-ta, Chúa Giêsu không chê sự phục vụ chu đáo của bà, mà Ngài chỉ khuyên “đừng lăng xăng quá”, đừng làm ra vẻ đảm đang, đừng tỏ ra mình “bận rộn” hơn người khác – ngụ ý kiêu ngạo và chê người khác, bởi vì điều gì thái quá cũng hóa bất cập. Ngay cả điều tốt “bất ngờ” cũng có thể bị nghi ngờ về “lòng từ bi” đó. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Chúa Giêsu khen Maria tức là Ngài đề cao việc cầu nguyện. Tại sao cần cầu nguyện? Cầu nguyện để lắng nghe tiếng Chúa, để nhận biết ý Chúa mà thực hiện đúng ý Ngài: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời. Vả lại, cầu nguyện là sự sống tâm linh và là sức mạnh của tín nhân.
Phục vụ Chúa là thi hành Thánh Ý Ngài, đó cũng là cách chúng ta phục vụ tha nhân – đảm đang với mọi người và với chính mình. Phục vụ là quên mình, quên mình là hạ mình, hạ mình là chấp nhận mình “nhỏ” hơn, nhưng việc phục vụ phải thực hành với phong cách khiêm nhường và có “chất” yêu thương thì mới được Thiên Chúa chấp nhận.
Kinh Thánh xác định: “Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây” (Hc 35:16). Thánh Phanxicô Assisi cho biết điều kỳ lạ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Lạ lùng lắm! Lạy Thiên Chúa, Đấng minh xét nhân loại – chẳng thiên vị ai (Hc 35:12), xin cho chúng con biết thu mình nhỏ lại để Ngài nổi bật, biết đè bẹp “cái tôi” để vì công ích, biết phục vụ nhau mà không hề so đo. Xin giúp chúng con sống chân thành để người đời có thể nhận biết Chúa qua phong cách sống phục vụ của chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Có thể nói con người hôm nay đang rơi vào bệnh trầm cảm. Một căn bệnh khiến họ không thể tiếp TN 16-C154
Có thể nói con người hôm nay đang rơi vào bệnh trầm cảm. Một căn bệnh khiến họ không thể tiếp xúc thân tình với nhau. Một căn bệnh khiến con người lạnh lùng cho dù sống bên nhau hay dù sống trong một căn nhà. Đây là căn bệnh mà chúng ta dễ thấy trong các sinh hoạt gia đình là: việc ai người ấy làm, phòng ai người ấy ở. Mỗi người đều có một không gian riêng, máy móc, điện thoại, vi tính riêng!
Con người hôm nay chú trọng tới bản thân, tới nhu cầu cá nhân đến mức độ thờ ơ với chính những người thân trong gia đình. Thậm chí vợ chồng chẳng có gì để nói với nhau. Con cái ngoài giờ ở nhà trường là thời gian ở nhà ôm điện thoại, Ipad, laptop, . . .; Cha mẹ chỉ lo bôn ba kiếm tiền nên về tới nhà cũng chỉ muốn nghỉ ngơi yên tĩnh cho riêng mình.
Xem ra thế giới càng văn minh, con người càng vội vã, bận rộn. Người ta có trăm ngàn công việc để quan tâm nên tình người bị xao nhãng. Người ta mải mê với công danh sự nghiệp mà quên đi tình người. Điều đáng sợ cho con người hôm nay là không còn thời giờ bên Chúa. Họ đi lễ vội vàng. Họ đến muộn nhưng về sớm. Họ đi lễ nhưng không gặp Chúa vì chỉ tranh thủ đi lễ cho xong. Họ có thể ngồi hàng giờ bên quán cafe tám chuyện với nhau nhưng lại không thể ngồi yên đến năm phút để tưởng nhớ đến Chúa. Họ bận rộn công việc làm ăn buôn bán mà quên rằng có một Đấng luôn chúc phúc cho việc làm ăn của mình. Họ quên sự hiện diện của Chúa. Họ quên cám ơn Chúa. Họ mải mê với công việc và vui chơi giải trí mà quên rằng cuộc đời của họ được như vậy là bởi ơn trời ban xuống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại dành thời giờ cho Chúa. Chúa vẫn viếng thăm chúng ta. Chúa vẫn đang lặng lẽ viếng thăm hồn ta. Hãy mở rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy ngồi lại bên Chúa để tạ ơn về những ơn lành Chúa ban, để thưa chuyện với Chúa về những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.
Việc chúng ta dành thời giờ cho Chúa có ích cho chúng ta hơn là cho Chúa. Vì qua thời giờ bên Chúa ta kín múc được muôn vàn ơn thánh của Chúa. Ta cầu xin ơn trên ban xuống cho cuộc đời chúng ta. Ta phó dâng vào sự quan phòng của Chúa những ưu tư khó khăn trong cuộc đời chúng ta.
Đồng thời cũng hãy biết dành thời giờ cho nhau. Nếu không dành thời giờ cho nhau chúng ta có khác nào cái máy chỉ biết làm theo chương trình định sẵn. Một cái máy vô cảm, lạnh lùng đến đáng sợ! Một cái máy không có tình cảm sẽ làm cho cuộc sống tẻ nhạt vì thiếu tình yêu, thiếu sự quan tâm rồi dần dần tình người cũng nhạt phai
Hôm nay Chúa cũng nói với Matta như đang nói với chúng ta là đừng quá bôn ba lo lắng nhiều chuyện. Hãy dành thời giờ ngồi lại bên Chúa và bên nhau. Mâm cao cỗ đầy không bằng tình người tràn đầy. Đôi khi bữa cơm cũng mất ngon vì thiếu tình người. Con người cần cơm bánh nhưng cần hơn là sự quan tâm chăm sóc cho nhau. Tình thương không chỉ mang lại cho nhau hạnh phúc mà còn giúp nhau thăng tiến đi lên. Ngược lại, nếu không có tình thương con người sẽ rơi vào cô đơn, chán chường, trầm cảm và thất vọng . . .
Hãy chữa trị căn bệnh trầm cảm này bằng sự khiêm tốn để thấy rằng mình cần Chúa và cần anh em. Cần khiêm tốn để thấy rằng không có Chúa con người không thể làm được điều gì sẽ giúp ta siêng năng đến với Chúa. Cần khiêm tốn để thấy rằng “không ai là một hòn đảo” để biết sống liên đới với nhau trong sự quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa và biết dành thời giờ cho nhau. Ước gì chúng ta đừng phung phí thời giờ trong những giải trí vô bổ, những đam mê bất chính, nhưng hãy sống từng giây phút trong sự hiệp thông với Chúa và anh em. Amen.
Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia TN 16-C155
Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.
Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10,40). Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.
Thái độ cần phải có
Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,41-42). Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa là lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.
Gương của Matta và Maria
Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc.
“Maria đã chọn phần tốt nhất”. Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý ; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe nhưng không được đón nhận (x. Lc 8, 5.12)
Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa: “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con ” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm: Maria được Chúa Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Người là Đấng giầu có, và Người trao ban cho cả Matta và Maria cách quảng đại ; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.
Các Tông Đồ cũng cho rằng: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đều là việc khôn ngoan: Stêphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể: “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.
Lời Chúa trong cuộc đời
Con người đang đánh mất dần ý thức về sự thánh thiêng, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Ðặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Ðiều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.
Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921–1994, Hoa Kỳ) nhận định: “Chúng ta phải im lặng TN 16-C156
Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921–1994, Hoa Kỳ) nhận định: “Chúng ta phải im lặng trước khi có thể lắng nghe. Chúng ta phải lắng nghe trước khi có thể học hỏi. Chúng ta phải học hỏi trước khi có thể chuẩn bị. Chúng ta phải chuẩn bị trước khi có thể phụng sự. Chúng ta phải phụng sự trước khi có thể dẫn đường”.
Phụng sự là phục vụ hết lòng: phụng sự Thiên Chúa, phụng sự nhân loại, phụng sự tổ quốc, phụng sự lý tưởng,… Đó là dạng phục vụ “cao cấp”. Có khiêm nhường thì mới khả dĩ phục vụ. Không hề đơn giản!
Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832 – văn sĩ, khoa học gia, kịch tác gia, họa sĩ, người Đức) nói: “Đời tôi chẳng là gì nếu tôi không còn hữu ích cho người khác”. Sống hữu ích cho người khác là giúp đỡ người khác, nghĩa là phục vụ vậy.
Có nhiều dạng phục vụ, nhưng quan trọng là phong cách phục vụ. Miễn cưỡng hay tự nguyện? Tài năng là món quà đi kèm với bổn phận phụng sự thế giới, chứ không phải vinh danh chính mình, bởi vì tài năng không phải do chính mình tạo nên, mà do Thiên Chúa ban. Vả lại, nếu không có Thiên Chúa tác động, hướng dẫn và trợ giúp, chúng ta không thể làm được gì cả. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Trình thuật St 18:1-10 cho chúng ta biết tinh thần phục vụ của Tổ phụ Ápraham dành cho khách đến nhà.
Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!”. Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”.
Rửa chân là phong tục của người Do Thái khi họ đón tiếp khách tới nhà. Chúa Giêsu đã dùng phong tục này để dạy chúng ta bài học yêu thương và phục vụ trong khi dùng Bữa Tiệc Ly với các môn đệ. Rửa chân là điều bình thường nhưng lại không dễ thực hiện. Quả thật, nhưng gì xem chừng là đơn giản nhất thì lại phức tạp nhất. Chẳng hạn, những chuỗi DNA đơn giản mà lại khả dĩ tạo nên sự sống kỳ diệu, con người không thể làm được, có sẵn đó mà tìm hiểu cũng tốn công sức mới hiểu được phần nào mà thôi. Thế mà vẫn có những người không muốn tin vào Thiên Chúa!
Rồi ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo bà lấy ba thúng tinh bột để làm bánh đãi khách. Còn ông đi bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ để làm thịt. Ông còn lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa. Phong cách phục vụ của ông Ápraham thật là chu đáo và khiêm nhường.
Vị khách hỏi ông: “Bà Sara vợ ông đâu?”. Ông nói rằng bà xã ở trong lều. Vị khách cho biết một điều quan trọng: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”. Lạ thế nhỉ! Bởi vì lúc này cụ ông Ápraham đã 75 tuổi và cụ bà Sara đã 70 tuổi. Hai vợ chồng già còn son này cũng vẫn cầu xin như vậy từ lâu lắm rồi. Ôi, lời hứa kia là điều quá đỗi lạ lùng đối với phàm nhân, nhưng đối với Thiên Chúa thì chỉ là “chuyện nhỏ”.
Quả thật, “ai trông cậy Thiên Chúa sẽ không phải thất vọng” (Tv 22:6), bởi vì “Ngài luôn gần gũi những tấm lòng tan vỡ và cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Vợ chồng ông Ápraham luôn tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, và họ đã được mãn nguyện theo như niềm tin của họ.
Ai là người được vào ngụ trong nhà Chúa và được ở trên núi thánh của Ngài? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng đó là “những người sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã” (Tv 15:2-3).
Những người ăn ngay nói thật thì không dám mon men tới đường lối xấu xa. Họ “coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay” (Tv 15:4-5a). Người Việt có câu nói hay: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Rất thực tế!
Đó là những con người của Chân Lý, của Công Lý, của Tám Mối Phúc – tức là những người luôn hết lòng phụng sư Thiên Chúa, và họ thực sự là con cái của Ngài. Chắc chắn rằng những ai sống và làm những điều tốt lành như vậy thì sẽ “không hề nao núng, chẳng hề chuyển lay bao giờ” (Tv 15:5b). Điều quan trọng và diễm phúc là họ đã có “thẻ xanh” và sẽ trở nên Công Dân của Nước Trời.
Với kinh nghiệm dày dạn của bản thân, Thánh Phaolô chân thành chia sẻ: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người PHỤC VỤ Hội Thánh, theo KẾ HOẠCH Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26). Phụng sự Thiên Chúa là thế đó. Phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân.
Phục vụ để làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1:27-28). Vâng, hoàn thiện để nên thánh. Nhưng nên thánh một mình là ích kỷ, không hợp ý Chúa. Ngài muốn chúng ta phải cùng dìu nhau lên Đỉnh Tình Yêu – cả Tabor và Can-vê. Như vậy mới có thể trở nên Công Dân của Nước Trời mai sau.
Ước gì mỗi chúng ta đều mạnh dạn và hãnh diện nói được như Thánh Phaolô: “Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1:29). Đó là phong cách phục vụ lẫn nhau, phục vụ vì Thiên Chúa, chứ không vì mục đích nào khác.
Trình thuật Lc 10:38-42 là câu chuyện về hai chị em Mácta và Maria. Hai con người, hai động thái, hai phong cách phục vụ. Cả hai người đều là phụ nữ, phải chăng Thiên Chúa đã tiền định tinh thần phục vụ nơi phụ nữ? Rất có thể, nhưng chúng ta lại có xu hướng coi thường phụ nữ, coi thường những người phục vụ. Nếu vậy thì trái ngược với phong cách của Thiên Chúa.
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia (tức là làng Bêtania). Nhà này có ba chị em là cô Mácta, cô Maria và cậu Ladarô. Cô Mácta đón Ngài vào nhà. Sau đó, cô em Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Không biết hôm nay cậu Ladarô đi đâu mà không thấy ra mặt. Cô Mácta tất bật lo việc phục vụ, nấu nướng. Cô làm một mình có lẽ cũng mệt, nên cô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”. Nhưng Chúa đáp: “Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
Chắc hẳn Chúa Giêsu không có ý chê những người lo việc bếp núc, lo phục vụ ở “hậu trường”, mà Ngài chỉ nhắc khéo là “đừng thái quá”, cứ chú trọng cái phụ thuộc mà xao lãng điều chính yếu. Thế thôi!
Thật vậy, không có những người dựng cảnh sân khấu thì vở diễn không thể ra mắt công chúng, không có người lồng tiếng thì bộ phim không thể trình chiếu, không có người nấu nướng thì không thể có bữa tiệc ngon,… Nhiều dạng khác cũng vậy. Công việc phụ mà quan trọng. Đặc biệt về tâm linh, phục vụ là một ơn gọi. Bất cứ ai cũng có ơn gọi này.
Chúa Giêsu luôn đề cao tinh thần phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26; Mc 10:43). Và Ngài hứa: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Tóm lại, Chúa Giêsu muốn mọi người phải sống “phục vụ chứ KHÔNG hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Nhưng phải lưu ý đến tinh thần phục vụ: Phải tận tâm vì Chúa chứ không vì thứ gì khác! Vả lại, ID hoặc thẻ căn cước (Việt Nam gọi là “chứng minh nhân dân”) không thuộc về thế gian này, mà thuộc về “cõi trên”, tức là Thiên Đàng, Nước Trời. Thế gian này, cõi đời này chỉ là cõi tạm, là nơi quá độ, là “ngưỡng vượt qua” để vào cõi vĩnh hằng.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết áp dụng bài học về tinh thần phục vụ của Muối: sẵn sàng hòa tan vào mọi thứ để làm cho mọi thứ tốt hơn, Muối không còn là Muối nữa, rồi không ai có thể nhận ra Muối, và cũng chẳng ai còn nhớ đến Muối, nhưng Muối vẫn chấp nhận. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Cô Mác-ta đón Thầy Giê-su như khách quí vào nhà mình, và cô tất bật phục vụ khách, một công TN 16-C157
Cô Mác-ta đón Thầy Giê-su như khách quí vào nhà mình, và cô tất bật phục vụ khách, một công việc cần thiết và bắt buộc đối với bất kì ai đón tiếp khách quí; thế nhưng không hiểu sao, Đức Giê-su lại dám khảng định là: việc cô đang nhiệt tâm chu toàn là điều không mấy cần thiết! Còn tác phong thụ động – mất thì giờ của cô em Ma-ri-a ngồi yên và lắng nghe, thì lại được Ngưởi đề cao và khen ngợi là: ‘đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi’.
Chúng ta vẫn thường nghĩ: Ki-tô hữu (hơn nữa tu sĩ và linh mục) là những người đón tiếp Đức Ki-tô vào đời mình; có thể chúng ta đã được dạy dỗ và huấn luyện rằng, phải sống làm sao cho Chúa – Vị Thượng Khách được hài lòng. Để được như thế ta phải cặn kẽ nắm giữ mọi điều răn và luật lệ, phải làm lành lánh dữ, phải lập nhiều công đức, phải làm nhiều việc thiện…; tóm lại, đời sống đạo của ta phải là một cuộc sống khá tất bật để lo sao hết lòng phụng sự Chúa (như vẫn quen nói thế!). Giáo lý, và có lẽ cả nền thần học nữa, đã không ngừng dạy điều đó, cũng như tất cả mọi người đều cho rằng: suy nghĩ trên là hoàn toàn chính xác.
Thế nhưng, chính câu trả lời của Đức Giê-su, khi đáp lại lời yêu cầu rất chính đáng của cô Mác-ta, buộc ta phải đặt lại vấn đề: lối suy nghĩ phổ thông kia có hoàn toàn ‘đúng’ hay không? “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, và đó không phải là: tất bật phục vụ của Mác-ta, mà là: “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” của Ma-ri-a. Điều này làm ta phải đặt câu hỏi: cụ thể điều gì mới là cần thiết nhất trong đời Ki-tô hữu? Có điều gì còn quan trọng và cao quí hơn cả giữ các điều răn, chu toàn lề luật, làm lành lánh dữ và thực thi công bằng bác ái không? Thinh lặng ngồi bên Chúa để lắng nghe Lời Yêu Thương của lòng nhân ái, yên lặng đứng bên Thập Giá (cùng với Mẹ Ma-ri-a) để chiêm ngắm Lời Cứu Độ của Giê-su, chẳng lẽ lại là điều quan trọng nhất hay sao; chẳng lẽ các Ki-tô hữu nhất thiết phải làm điều này hơn là điều kia, và ưu tiên đưa vào chương trình sống của mình hay sao? Nếu thật là như thế, thì lời Đức Giê-su nhắc nhở cô Mác-ta cũng sẽ phải áp dụng cho mọi Ki-tô hữu chúng ta trong việc giữ đạo (đăc biệt cho các linh mục và tu sĩ bề bộn trong công việc mục vụ tông đồ): “Mác-ta! Mác-ta ơi! Con băn khoan lo lắng nhiều chuyện quá!”
Về phần mình, tôi không dám nghĩ như thế; tôi vẫn cố xua đuổi tư tưởng này ra khỏi đầu vì lẽ: nó như quá ngược ngạo với những gì thói thường người ta vẫn làm trong đời sống đạo. Ngay trong tư cách linh mục, từ lâu lắm rồi, tôi vẫn tâm niệm là: phải dạy cho các tín hữu sống sao cho xứng với ơn gọi của họ. Các bài giảng của tôi vẫn chủ yếu mang tính luân lý, chỉ dạy cho giáo dân biết sống sao cho phải đạo: phải làm lành lánh dữ, phải ra công làm nhiều việc thiện để làm cho Chúa được vui thỏa. Trong số các công tác mục vụ tôi thi hành trong đời linh mục thì, nỗ lực làm cho tín hữu biết chiêm ngắm Thập Giá có vẻ như đã bị tôi coi nhẹ, hoặc cho là chỉ thứ yếu! Sau khi được tôi dạy dỗ, không biết có bao nhiêu giáo dân nhận ra rằng: điều cần thiết nhất cho niềm tin của họ là lắng nghe Lời Cứu Độ, là chiêm ngắm Thập Giá, và trọn vẹn tín thác vào lòng Chúa xót thương. Ngay cả việc cử hành Thánh Lễ cũng thường bị tôi trình bày như, một chu toàn bổn phận phụng tự, mà Chúa – vị khách quí đang ngự đến đáng được tôn thờ và cung nghinh; thay vì là chiêm ngắm và đón nhận Thập Giá tình yêu; chẳng trách gì ngay cả các giáo dân của tôi được coi là đạo đức nhất cũng chỉ rất mực quan tâm tới việc phụng thờ Chúa và giúp đỡ đồng loại, thế còn chiêm ngắm lòng thương xót Chúa thì còn quá ít, quá xa lạ, hoặc không mấy được coi trọng đề cao.
Và tất cả các điều trên là hậu quả tất yếu của một quan niệm đã ăn rễ quá sâu nơi các Ki-tô hữu chúng ta, đó là: mối bận tâm lo lắng hàng đầu luôn phải là làm sao cho ‘danh Chúa được rạng rỡ vinh quang’. Với Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su muốn gửi tới mỗi chúng ta lời nhắn nhủ: còn có một điều cần thiết và phải được dành ưu tiên hơn nữa, trong lãnh vực giờ giấc cũng như lưu ý quan tâm, đó là lắng nghe và chiêm ngắm Lời Giê-su Thập Giá – Lời của lòng thương xót cứu độ.
Phải chăng khi đề cao vị trí trung tâm của Thánh Lễ, Giáo Hội không muốn điều gì hơn là: tạo cho các tín hữu dịp ‘thụ động’ ‘ngồi bên chân và lắng nghe’ Lời Tình Yêu Cứu Độ như cô Ma-ri-a ngày xưa?
Lạy Chúa từ nhân, xin hãy dạy cho con biết thụ động như Ma-ri-a là cứ ngồi bên chân Chúa, và cũng biết như chị, đón nhận và chăm chú nghe Lời Tình Yêu. Xin giúp con bớt tất bật với các việc phục vụ – mục vụ, để dành quan tâm nhiều hơn cho chiêm ngắm Thập Giá. Xin cho mỗi Thánh Lễ con cử hành trở thành một cuộc chiêm ngưỡng và đón nhận vô điều kiện tình yêu Chúa trao ban. Được như thế, con mới có thể hướng dẫn và giúp cho nhiều tín hữu chọn và làm được điều tốt nhất mà Chúa hằng mong đợi. A-men
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một câu chuyện hết sức đời thường, ai cũng đã từng gặp trong TN 16-C158
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một câu chuyện hết sức đời thường, ai cũng đã từng gặp trong cuộc sống, nhất là khi đón khách quý đến nhà. Chuyện kể lại việc Chúa Giêsu đến thăm nhà hai chị em Mattha và Maria, Mattha là chị. Đón khách, nhất là một vị khách quý như Thầy Giêsu, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ trong cả vùng là điều vinh hạnh cho gia đình. Chính vì vậy, người chị cả phải dọn nhà cửa, dọn bữa ăn để mời khách, đó là điều đương nhiên. Còn cô em, Maria cũng vui mừng không kém, nhưng là em nên không lo lắng gì mấy đến việc cơm nước, bởi từ lâu nay trong nhà đã có bà chị lo cả. Maria nghe biết Thầy Giêsu rao giảng, nhưng chưa một lần được diện kiến Ngừơi, chưa bao giờ được thưa chuyện, trao đổi với Người một cách trực diện. Hôm nay quả là dịp may hiếm có, cô xoắn xít bên Người , “ngồi bên chân Chúa để mà nghe lời Người”.
Chị lo bếp núc, em lo tiếp khách, trò chuyện với khách, xem ra là chuyện bình thường trong mỗi gia đình. Thế nhưng chính vì muốn công việc đón tiếp Đức Kitô thật sự tươm tất, không để Người chê cười nếu chẳng may có điều gì không trọn hảo. Mattha đã lo lắng nhiều, đã chuẩn bị nhiều. Rồi trong sự đa đoan ấy, cô cần có em phụ giúp một tay, nên có lẽ hơi bực bội trong lòng. Đó là tâm lý bình thường của một con người, không có gì đáng trách. Nhưng cũng vì tâm lý cố hữu của một người phụ nữ khiến Matha lên tiếng, không phải chỉ là phiền trách em mình, mà lây sang cả vị khách quí. “Lạy Thầy , em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao ? “. Chính sự nôn nóng đã làm cho Mattha đánh mất đi thiện chí của mình. Cô quay sang đòi hỏi Chúa “ Xin Thầy bảo em con giúp con ( với chứ ! ). Đức Giêsu đã không phê phán Mattha, Người chỉ khéo léo nhắc cô đang trong tâm trạng bối rối “Mattha, Mattha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất “.
Chúa không cho rằng việc chuẩn bị về của ăn thức uống là không cần thiết, nhưng thông qua việc đến thăm hai chị em, Người muốn tỏ cho con người hiểu được sứ mạng của Người đến trần gian. Người là một vị Thiên sai mà có tiếng từ Trời vọng lên: “ Này là con ta yêu dấu , hãy vâng nghe lời Người” . Mattha nhìn Đức Giêsu như một vị khách quý, một người Thầy dạy trong dân. Còn Maria, cô nhận ra Thầy Giêsu là đấng được sai đến trong dân Israel để cứu độ con người . Cô đã tận dụng những giây phút quý giá bên Người để đón nhận Lời Người. Cả hai chị em đều chọn Chúa, đều muốn làm vui lòng Chúa. Nhưng với Mattha, cô muốn Chúa theo ý cô, cô muốn Chúa phải nhìn nhận thiện chí của cô là đang phục vụ Người. Còn Maria, cô muốn được lắng nghe Lời Chúa, muốn được trao trọn vẹn lòng mến đến Chúa, trao trọn cuộc đời cho Chúa mà không kể công sức mình. Chỉ xin Chúa thực hiện nơi cô bất cứ điều gì Người muốn, như Đức Maria thân mẫu Chúa từng thưa với sứ thần.
Ngày hôm nay, trước biết bao thần tượng ảo trên thế giới này khiến con người, nhất là các bạn trẻ, đang chạy theo. Xin cho con biết chọn lựa, biết nhận ra và xác tín rằng Đức Kitô là đối tượng lón nhất và duy nhất của cuộc đời con . Xin Chúa giúp con đừng mải mê, bối rối, lo lắng về nhiều chuyện mà quên đi việc cần làm là mỗi ngày dành ra ít phút, kề bên Chúa để được nghe Lời Người vọng lên trong tâm hồn con.
“ Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi? “
Việt Nam từ trước tới nay vẫn được biết đến như một dân tộc có lòng hiếu khách. Ngày xưa ở TN 16-C159
Việt Nam từ trước tới nay vẫn được biết đến như một dân tộc có lòng hiếu khách. Ngày xưa ở vùng quê, các ngôi nhà hàng xóm thường không cần hàng rào, mọi người có thể đi tắt qua sân, ghé vào thăm nhau bất cứ lúc nào. Có dịp thăm các gia đình vùng quê, chúng ta sẽ thấy còn lại những nét đẹp của lòng hiếu khách. Mỗi khi có khách, dù lạ hay quen, người miền quê đều đón tiếp hết sức niềm nở ân cần. Tuy nhiên, cuộc sống kinh tế khá hơn, dường như đã làm phai mờ lòng hiếu khách nơi nhiều người. Các ngôi nhà liền sân được thay thế bằng tường cao rào kín, những cuộc viếng thăm của xóm giềng cũng ít đi. Người được thăm dường như cũng tỏ ra dè chừng, nghi ngờ khi có khách lạ đến nhà. Trong họ hàng ruột thịt, các cuộc thăm viếng dần được thay thế bởi những cú điện thoại, hoặc con cái có về thăm cha mẹ cũng hết sức vội vàng. Con người thời hiện đại có thể có rất nhiều giờ ăn nhậu với bạn, nhiều giờ cho đối tác, nhưng lại có ít giờ cho gia đình vợ con và nhất là cho cha mẹ.
Không chỉ trong tương quan xã hội và gia đình đang dần mất đi sự gặp gỡ, mà trong đời sống đức tin, con người cũng đánh mất hoặc xem thường việc gặp gỡ, tiếp xúc với Thiên Chúa.
Các bài đọc ngày Chúa nhật XVI hôm nay chỉ cho chúng ta những thái độ cần thiết phải có khi đón tiếp Chúa. Câu chuyện ông Apbraham trong bài đọc một cho chúng ta một khung cảnh gần gũi như một làng quê Việt Nam. Một buổi trưa hè nóng nực, Apbraham ra hóng mát tại gốc cây sồi ngay cửa lều thì thấy có ba vị khách lạ đi ngang qua. Vừa trông thấy, ông vội chạy ra đón khách và sụp xuống đất lạy. Ông đã thể hiện tấm lòng trọng kính đối với ba vị khách này. Ông còn nài nỉ: Nếu đẹp lòng quý Ngài, xin quý Ngài ghé thăm nhà tôi, rửa mặt, dùng bữa. Ông đã chuẩn bị bữa trưa cho ba vị khách, chính ông đứng hầu bàn trong khi các vị khách dùng bữa. Trước khi ra đi, ba vị khách đã để lại cho Apbraham một niềm vui và hy vọng khi hứa với ông: Bằng rầy sang năm, tôi trở lại, Sara vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai.
Ba vị khách chính là Thiên Chúa đã đến thăm Apbraham như thăm người bạn. Apbraham đã thể hiện thái độ trọng kính và hiếu khách đối với Thiên Chúa. Ông hết sức nhiệt tình quảng đại với Thiên Chúa và nài ép Chúa ở lại với gia đình ông. Đáp lại lòng hiếu khách của Apbraham, Thiên Chúa đã chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của Apbraham và Ngài đã lấp đầy khát khao ấy bằng lời hứa cho ông có được con trai nối dõi. Câu chuyện cũng cho thấy, Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho con người gấp trăm gấp ngàn lần những gì con người dám quảng đại dành cho Chúa.
Tin Mừng Luca cũng thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu viếng thăm gia đình Matta, Maria và Lazarô. Các thành viên trong gia đình này đã đón tiếp Chúa như một vị ngôn sứ và như một người bạn, tức là vừa kính trọng vừa thân thiết. Đối với Chúa Giêsu, Ngài vẫn coi Lazarô như bạn thân, và gia đình Matta-Maria là điểm dừng chân của Chúa mỗi khi lên Giêrusalem. Với sự niềm nở, hiếu khách, khi nghe tin Chúa Giêsu còn ở đầu làng, Matta là chị, đã mau chóng chạy ra đón Chúa Giêsu vào nhà. Việc chạy ra tận đầu làng để đón Chúa thể hiện lòng yêu mến và sự khao khát được gặp Chúa.
Nhưng có chuyện đã xảy ra trong gia đình. Hai chị em Matta và Maria có hai hai cách thức và hai thái độ đón tiếp Chúa khác nhau. Cô Matta tất bật phục vụ, lo chuyện cơm nước, còn cô Maria lại ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người dạy. Có lúc, cô Matta đã sốt ruột, dường như trách Chúa: Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay ? Chúa đã trả lời: Matta, con lo lắng nhiều việc quá, chỉ có một việc cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.
Hình ảnh Matta bận rộn và Maria chăm chú ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người là hình ảnh hai nếp sống đạo trong Giáo hội, nếp sống hoạt động tông đồ phục vụ và nếp sống chiêm niệm suy gẫm lời Chúa. Chúa không chê, không loại trừ những hoạt động bên ngoài của cô Matta, cũng không từ chối việc cô tất bật phục vụ Chúa, nhưng Chúa muốn nhắc cho Matta một điều cần thiết nhất và quan trọng nhất, đó là việc cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa như Maria. Trong đời sống của mỗi tín hữu cũng như người tông đồ, các hoạt động bên ngoài, dù là những hoạt động công ích hoặc hoạt động vì Chúa, vì anh em, cũng dễ làm cho con người vơi cạn nguồn năng lượng. Đàng khác, các hoạt động tông đồ bác ái có nguy cơ trở thành việc làm không phải vì Chúa mà vì bản thân, trở nên trống rỗng, nếu không thường xuyên ngồi bên chân Chúa để được nghe, được tiếp thêm năng lượng và để điều chỉnh lại mục tiêu.
Một nguy cơ khác dễ xảy ra nơi những con người hoạt động tông đồ, làm việc cho Chúa đó là một thứ tự hào tự mãn về thành quả mình đạt được và trách cứ, phê bình người khác như cô Matta. Cô Matta không chỉ trách cô Maria đã không giúp gì được cho mình trong việc phục vụ, mà cô Matta còn thầm trách Chúa Giêsu đã không quan tâm tới cô, không công bằng với cô, vì cô vất vả phục vụ nhiều hơn cô em Maria. Cô muốn được Chúa chú ý đến mình nhiều hơn.
Chúa Giêsu đã điều chỉnh thái độ và suy nghĩ của Matta và chỉ cho Matta biết đâu là thứ tự ưu tiên mà người môn đệ của Chúa cần có: Chị lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi. Việc phục vụ của Matta là tốt và là cần thiết nhưng chỉ như thế thôi chưa đủ. Chúa muốn người hoạt động tông đồ luôn phải giữ được thế cân bằng giữa việc phục vụ và cầu nguyện, hoạt động tay chân và việc lắng nghe, suy niệm Lời Chúa. Việc nghe và suy gẫm Lời Chúa sẽ trở thành nguồn năng lượng và là động lực cho hoạt động tông đồ. Chúa Giêsu còn khẳng định việc nghe và suy gẫm Lời Chúa là điều tốt nhất và là ưu tiên nhất trong đời sống của người tín hữu. Chọn lựa ngồi bên chân Chúa như cô Maria để lắng nghe Lời Chúa là chọn lựa khôn ngoan và là chọn lựa tốt nhất. Vì bất cứ ai ở gần bên Chúa, ngồi dưới chân Chúa trong tư thế và thái độ của một học trò ngoan ngoãn, sẽ đón nhận được sự dạy bảo của Chúa và không ai có thể lấy đi mối tương quan thân tình với Chúa.
Như đã chia sẻ ở trên, trong đời sống đức tin, nhiều người đã tỏ ra không quan tâm hoặc đánh mất việc đón tiếp Chúa và nghe Lời Chúa. Chúa vẫn đứng ở cửa nhà, Chúa đang gõ cửa tâm hồn, nhưng nhiều người đã cố tình bỏ qua tiếng mời gọi của Chúa, họ khóa chặt cửa lòng không muốn để Chúa bước vào tâm hồn mình. Trong cuộc sống, người ta không muốn cho khách vào nhà vì sợ phiền phức, sợ mất thời giờ, mất tài sản và cũng có thể vì căn nhà luộm thuộm, dơ bẩn nên không muốn khách bước vào. Cũng vậy, nhiều người không muốn đón Chúa vào tâm hồn vì sợ phiền phức, sợ phải gặp Chúa, sợ mất giờ, sợ Chúa chạm đến các chỗ lỉnh kỉnh trong tâm hồn.
Nhiều người ngày nay không khác gì cô Matta, để mình bận rộn vào quá nhiều việc: lo cho gia đình, cơm áo gạo tiền, công danh sự nghiệp, khiến họ không còn giờ cho Chúa và không còn giờ để ngồi lại lắng nhe Lời Chúa dạy bảo. Cũng có những Kitô hữu đang nhiệt thành với công việc tông đồ, nhưng đã đánh mất động lực và nguồn năng lượng, đánh mất thói quen thường xuyên ngồi bên chân Chúa để nghe và suy gẫm. Vì thế, công việc tông đồ của họ trở nên trống rỗng, việc bác ái từ thiện không còn là việc được thúc đẩy bởi lòng mến, nhưng bởi cái tôi và sự háo danh của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, biết chọn đâu là phần tốt nhất cho cuộc đời mình, chọn những gì là bền vững, không bị ai lấy đi như cô Maria đã chọn. Cuộc sống vội ngày nay khiến cho nhiều người trẻ chạy đua theo nhịp sống xã hội, khiến họ không còn giờ để dừng lại, cũng không còn giờ để ngồi lại bên chân Chúa để nghe Lời Ngài. Vì thế, nhiều người đã bị hổng chân, trở nên trống rỗng trong đời sống đức tin.
Xin Chúa cho mỗi người biết mở lòng ra để đón Chúa Thánh Thể vào tâm hồn mình mỗi ngày, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp trăm ngàn lần sự quảng đại của chúng ta như Chúa đã trả lại cho Apbraham. Chúa cũng sẽ chỉ cho chúng biết chọn lựa cách sống tốt nhất cho đời sống linh hồn và cả thể xác chúng ta. Amen.
Hôm ấy, Chúa Giê-su đến thăm gia đình Mác-ta. Mác-ta tất bật lo việc nấu nướng để hầu hạ TN 16-C160
Hôm ấy, Chúa Giê-su đến thăm gia đình Mác-ta. Mác-ta tất bật lo việc nấu nướng để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giê-su lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mác-ta: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin mừng, Chúa Giê-su khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều cần thiết và quan trọng nhất.
Lời Chúa là ánh sáng soi đường
Lắng nghe Lời Chúa là việc cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. Thánh vịnh 119 viết: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề…
Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.
Một chiếc xe phải vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà không có đèn soi thì sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, chắc chắn sẽ không thoát khỏi tai ương.
Lời Chúa mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống
Trong thời kỳ đất nước Việt Nam chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại Nam Á, nước Ấn-độ, một đất nước to lớn hơn nhiều, cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động, họ làm theo lời dạy của Chúa Giê-su, đó là: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi… Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra…” (Luca 6, 27-28).
Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin mừng của Chúa Giê-su, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gãy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.
Vài chục năm sau, tại Hoa-kỳ, mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.
Ngày 30 tháng 1 năm 1956, nhà riêng của mục sư King bị đánh bom. Một đám đông những người da đen ủng hộ ông tỏ ra giận dữ và tụ tập trên con đường trước ngôi nhà, tự vũ trang với dao, súng, gậy gộc, đá và chai lọ để trả thù cho ông. Bấy giờ mục sư King nói với họ: “Đừng hốt hoảng, đừng làm bất kỳ điều gì trong giận dữ! Ai có vũ khí, xin hãy đem về; ai không có vũ khí, xin đừng thủ đắc chúng. Chúng ta không thể giải quyết vấn nạn này bằng những vụ bạo động trả đũa… Chúng ta phải yêu thương những người anh em da trắng, bất kể họ đã làm gì đối với chúng ta. Chúng ta phải hành động để họ biết rằng chúng ta yêu họ. Lời dạy của Chúa Giê-su vẫn còn vang vọng đến hôm nay: “Hãy yêu thương kẻ thù, hãy chúc phúc cho kẻ rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình” (Lc 6,27-28). Đó là điều chúng ta phải làm. Chúng ta phải lấy tình yêu để đáp trả lòng thù hận.”
Nhờ đấu tranh theo đường lối yêu thương và hoà dịu của Tin mừng, người da đen đã thành công rực rỡ: Chừng 45 năm sau ngày phát động đấu tranh bất bạo động (1963), một người da đen (Obama) đã được bầu làm tổng thống Hoa-kỳ.
Như thế, Lời Chúa đã thật sự đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề trong xã hội và đời sống.
Lạy Chúa Giê-su, Lời dạy của Chúa như ngọn hải đăng soi đường cho nhân loại giữa biển đời tăm tối; Lời Chúa như kim chỉ nam chỉ lối cho người lạc bước giữa rừng sâu.
Xin cho chúng con luôn quý trọng Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động hằng ngày của mình, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ luôn được an vui hạnh phúc.
Cuộc sống văn minh hiện đại, nhiều người vẫn bày tỏ quan điểm thân thiện của mình, trước, trong TN 16-C161
Cuộc sống văn minh hiện đại, nhiều người vẫn bày tỏ quan điểm thân thiện của mình, trước, trong, và sau lần gặp gỡ: vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi. Đối tác làm ăn, khẩu hiệu phục vụ, người ta có thể bằng nhiều chiêu rất bắt mắt và xuôi tai: khách hàng là thượng đế, thầy thuốc như mẹ hiền, chất lượng, đáng tin cậy… Mối quan hệ giữa người với người, bao giờ cũng có hai mặt lý và tình. Lý giúp ta sáng suốt lựa chọn suy nghĩ, hành động đúng, tình giúp ta giữ mối tương quan thân thiện, tốt đẹp hơn.
Cuộc tiếp đón nồng hậu cần phải chu đáo, trang trọng, đẹp cả hình thức lẫn nội dung ? Phong cách của người trẻ có phải họ luôn thích sôi động, phóng khoáng ? Đối với người lớn tuổi, họ thích trầm tư, thận trọng, theo chiều hướng ăn chắc mặc bền ? Cuộc tiếp đón khách quý mà Tin mừng chia sẻ hôm nay, có phải là “hụt hẫng” với Macta, và hạnh phúc “bất ngờ” đối với cô em Maria ? Thông thường cuộc thăm viếng bao giờ cũng nhằm xây dựng mối tương quan thân tình, chuyện ăn uống hẳn không phải là mục đích.
Đón tiếp khách nồng hậu, đâu phải cứ rượu thơm thịt béo là đạt chuẩn, nhưng còn là biết nghe và hiểu vị khách quý đang trải lòng như thế nào. Đức Giêsu không lý sự với Macta, không tình cảm ủy mị đến độ quên đi sự hiếu khách và tính chu đáo của các thành viên gia đình hôm đó. Tâm lý chung, khách viếng thăm vì tình vì nghĩa, đâu mấy ai vì mê ăn uống, mong được phục vụ. Phản ứng tự nhiên của chủ nhà, tử tế ân cần với khách, không thể thiếu việc ăn uống hàn huyên tâm sự.
Đức Giêsu không chê tấm lòng phục vụ của Macta, nhưng Ngài mời gọi mỗi người hãy chọn phần tốt nhất, vì có biết lắng nghe, mới hiểu và phụng sự đúng ý Chúa được. Thời đại văn minh, người ta chú ý đến tính chuyên môn, một nghề thì sống, đống nghề thì chết. Các bậc cha mẹ thường chú ý đến giáo viên giỏi, nhằm hướng dẫn từng bộ môn cho con mình học tốt hơn, dù mục đích là mong con cái nên người giỏi toàn diện. Cô Macta diễn tả lòng kính trọng khách quý bằng việc phục vụ ăn uống, cô Maria diễn tả lòng hiếu khách là lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện bên Chúa. Đức Giêsu thấu biết tấm lòng yêu mến phục vụ của hai chị em Macta và Maria, do đó Ngài sẽ chúc phúc cho gia đình họ.
Ngày hôm nay, không khó để chúng ta phân biệt đâu là khách quý, và như thế nào là phục vụ khách ân cần hoặc nồng thắm nhất. Chúng ta cũng đủ hiểu, ưu tiên hàng đầu là biết lắng nghe và thực hành điều Chúa truyền dạy cách nghiêm túc. Chúa không cần chúng ta đặt lại quan niệm cách yêu mến của Macta và Maria ai tốt hơn. Ngài cũng không có ý nói chiêm niệm cầu nguyện là việc nên làm hơn là hoạt động phục vụ. Chúa cần có Macta, Chúa cũng cần có Maria, đón tiếp cách nồng hậu phải có tấm lòng tin yêu chân thành. Người biết lắng nghe Lời Chúa thì cũng phải biết thực hành Lời Chúa, mới đúng là người biết chọn phần tốt nhất: yêu mến phục vụ.
Người xưa có câu: em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em, phần nào cũng lý giải, không vì ganh tỵ mà Macta thưa với Đức Giêsu: “xin Thầy bảo em con giúp con một tay”. Chúng ta cũng nên hiểu theo ý tốt là Macta cũng khao khát được ngồi hầu chuyện với Chúa. Rất mong việc nấu bếp xong, để được nghe Lời Chúa, hầu biết yêu mến phục vụ cách tốt nhất. Để tiếp đón khách cho đúng, và biết làm hài lòng khách cho lịch sự văn minh, ai cũng cần phải được học tập, như câu tục ngữ: học ăn học nói, học gói học mở.
Khách đến nhà không trà thì nước, khách đến nhà là niềm vui và vinh dự cho gia đình, khách còn mang hình ảnh Thiên Chúa viếng thăm, chúc phúc cho gia đình. Chị em Macta theo khả năng riêng của mình, hẳn họ đều yêu mến và phục vụ Chúa cách tốt nhất. Chúa Giêsu ghi nhận tấm lòng hiếu khách của gia đình họ, chính vì yêu mến phục vụ, Macta đã hiểu Chúa không cần chị phải quá vất vả làm gì cho Chúa, nhưng mọi người hãy vui vì có sự hiện diện của Chúa. Nếu các em của Macta đã biết chọn phần tốt nhất, hẳn người chị phải vui mừng, vì biết rằng các em của chị đã trưởng thành, đang được chúc phúc.
Cổ nhân nói rằng: đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không chịu học. Chị em Macta đã chia sẻ kinh nghiệm về việc đón tiếp Chúa thế nào là chu đáo nồng hậu, Ngài cần chúng ta được niềm vui, chứ không phải lo cho Chúa được gì. Tiếp đón khách quý là tiếp đón mọi đối tượng không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tiếp đón ân cần như là tiếp đón Chúa hiện diện. Biết Chúa ghé thăm là diễm phúc, hãy chuẩn bị tâm hồn tốt nhất để lắng nghe, thưa chuyện, đó là điều cần thiết hơn. Lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, chính là người khôn ngoan, người có niềm vui vì đã biết yêu mến phục vụ theo tinh thần môn đệ của Đức Kitô. Amen.
Sau một hành trình dài dằng dặc như địa ngục trong xe chở gia súc từ Singapore – nơi họ đã TN 16-C162
Sau một hành trình dài dằng dặc như địa ngục trong xe chở gia súc từ Singapore – nơi họ đã trải qua 8 tháng tù trước đó – Đại tá Philip Toosey (1904-1975) cùng với 690 tù nhân thuộc Lữ đoàn 135, quân đội Anh, đã đến trại giam Tamarkan, Thái Lan, nằm trong một khu rừng cách Bangkok 120 km về phía tây, gần sông Kwai Yai. Sang ngày hôm sau, số tù nhân tăng vọt lên 1.000. Các sĩ quan nhất trí bầu chọn Toosey làm sĩ quan cấp cao. Sự bình chọn này được Trung úy Nhật Kosakata, chỉ huy trại, công nhận.
Kosakata báo cho Toosey biết nhiệm vụ của các tù nhân là xây dựng 2 chiếc cầu bắc qua sông Kwai: một chiếc cầu gỗ dài 100m cho các phương tiện giao thông nhẹ; một chiếc cầu thép dài 300m, dựng trên 11 cột chống bêtông, với 2 km bờ đê hai bên, là đường ray trọng điểm dẫn đến phòng tuyến tiếp tế của Nhật. Thời gian hoàn thành là từ 9 tháng – 1 năm. Một ngày làm việc bắt đầu từ lúc trời vừa hửng sáng. Sau khi được phát cơm và canh, các tù nhân được điểm danh, chia thành từng nhóm, bước lên nhận cuốc, xẻng, điểm danh lần nữa, rồi tiến vào rừng. Nguyên tắc là công việc của ngày phải được hoàn thành, và không có nhóm nào được phép về trước. Tù nhân làm việc chân đất dưới ánh nắng mặt trời gay gắt từ 7h sáng đến 7-8h tối.
Cầu được xây toàn bằng sức lực con người. Tù nhân liên tục bị hành hạ và trừng phạt bởi những lỗi lầm nhỏ bé nhất, nhưng Toosey ra lệnh, rằng bất cứ hành động phi nhân tính nào của bọn lính gác, cũng cần phải được báo cáo lên ông ngay lập tức. Đến tháng 12/1942, chiếc cầu gỗ gần hoàn thành. Các tù nhân rất vui sướng khi thấy nước sông dâng lên cao bất ngờ và cuốn trôi chiếc cầu. Nhưng niềm vui ngắn ngủi tan biến ngay lập tức, bởi họ phải làm việc cực nhọc hơn để xây dựng lại nó, với chỉ tiêu hoàn thành là từ tháng 12 cho đến tháng 8. Toosey biết rằng, quân Nhật sẽ xây đường xe lửa bằng bất cứ giá nào vì vậy, ông nói với các tù nhân rằng, kỷ luật lao động là điều quan trọng.
Toosey từ chối học tiếng Nhật, để ông luôn luôn có thể nói câu: “Tôi không hiểu”. Ông may mắn có được sĩ quan phụ tá David Boyle, có thể nói được tiếng Nhật bồi và làm phiên dịch cho ông cho đến hết cuộc chiến. Dần dần, quân Nhật cũng hiểu ra, rằng nếu như ông nói không, thì có nghĩa là ông sẽ khăng khăng như vậy cho đến khi chúng bắn chết ông thì thôi.
Chẳng bao lâu, ông đã thuyết phục được chúng bàn giao lại cho ông những vấn đề về xử lý công cụ và phân công lao động. Các sĩ quan phụ trách công việc được giao nhiệm vụ làm giám sát công trình thay cho bọn lính canh. Và nếu như các kỹ sư Nhật bàn giao mục tiêu của ngày hôm sau cho ông, thì ông sẽ cùng mọi người nghĩ ra cách nào tốt nhất để hoàn thành công việc vào đầu giờ chiều, khiến nhiều tuần trôi qua, mà không có ai bị đánh đập cả.
Vệ sinh là nỗi ám ảnh của Toosey, vì rất nhiều căn bệnh của khí hậu nhiệt đới đi kèm với ruồi. Ông thường xuyên kiểm tra lều chòi, nhà bếp, bắt tù nhân phải cạo râu, cắt tóc, vì đấy là nơi trú ẩn của chấy rận. Những nỗ lực của ông đã được đền bù. Chỉ có 9 người chết trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 5.
Những phần cơm canh nghèo nàn được bổ sung bằng trứng, thịt, trái cây, bắp mua được từ các dân buôn địa phương, mỗi khi các nhóm làm việc được ra ngoài. Toosey cương quyết với yêu cầu 1/3 số tiền được trả cho các sĩ quan, phải được dùng để mua thực phẩm và thuốc men cho người bệnh. Ông đã thuyết phục tên chỉ huy trại cho phép mở một trang trại nuôi vịt và heo, sau khi biết được có một sĩ quan từng là nông dân chăn nuôi gia cầm.
Đích thân ông còn là người bắt mối liên lạc đầu tiên với một tổ chức bí mật, để cung cấp thuốc men và tiền bạc cho nhiều trại giam, cứu thoát mạng sống của hàng trăm người. Toosey rời trại giam Tamarkan vào năm 1943 và nó trở thành nhà tù nhốt các phạm nhân về sau này. Cuối cùng, các cây cầu đã bị phá hủy, không phải do lính biệt kích như trong phim mô tả, nhưng là do quân Anh, Mỹ ném bom. Đại tá Toosey được công nhận là người anh hùng, theo tiêu chí mà con người của thế giới ngày nay có thể làm được. Đó là hiểu biết những điều kiện cần thiết của hoàn cảnh để tồn tại! (Thuý Hân, theo Reader’s Digest)
Đại tá Philip Toosey đã công khai phục vụ chu đáo, giúp đỡ, chăm lo các bạn tù, nhưng vẫn bị Hollywood bôi nhọ qua bộ phim Cầu Sông Kwai (1957) của đạo diễn David Lean, với tài tử Alec Guinness đóng vai Đại tá Nicholson, hợp tác với quân Nhật, đày đoạ đồng hương. Trong Tin Mừng thánh Luca Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu ghé thăm nhà chị em Mácta, Maria và Lazarô, được phục vụ qua cung cách khác nhau của hai chị em.
Cô Mácta một mình bận rộn bếp núc, lo phục vụ chiêu đãi Đức Giêsu và các môn đệ. Trong khi đó, cô em Maria phục vụ đón tiếp. Thấy cô em cứ mải trò chuyện, Mácta bất bình, thưa cùng Người: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” Cô đâu biết rằng Maria cũng đang hết sức bận rộn phục vụ Lời Chúa, quan trọng, cao quý và cấp bách vô cùng. Vậy để việc phục vụ đúng đắn, hiệu quả, hữu ích cho tha nhân và nhất là để làm sáng danh Thiên Chúa, thì phải cần thiết nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa.
Nhờ Chúa
Cần luôn biết ơn, cảm tạ, ca ngợi Chúa. Rồi chăm chú lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Thánh Ý Chúa trong từng phút giây hiện tại, cùng chân thành tâm sự với Người. Dốc hết tâm can, niềm vui lẫn nỗi buồn, thành công hay thất bại, bối rối ứng xử, chọn lựa theo Chúa hay theo thế tục. Nguyện xin Người chỉ bảo, hướng dẫn đi trong ánh sáng đường ngay nẻo chính, trong chân lý và sự thật. Đó chính là cầu nguyện, một bí quyết quan trọng, thiết yếu của người môn đệ, thực sự muốn phục vụ Chúa và tha nhân.
Khi được hỏi về bí quyết để can đảm dấn thân, tích cực phục vụ những người hấp hối, bệnh hoạn, phong hủi, Mẹ Têrêsa chỉ vắn tắt, đơn sơ trả lời: “Bí quyết của tôi rất đơn giản: cầu nguyện.”
Mẹ Têrêsa luôn cầu nguyện trước khi bắt tay phục vụ. Mỗi ngày nhà dòng Mẹ dành nguyên một giờ chầu Mình Thánh Chúa trước khi săn sóc những người nghèo khổ, hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối,” giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa. Cầu nguyện để đón nhận sức sống, lòng can đảm, hy sinh, nghị lực chịu đựng, để dấn thân phục vụ. Mẹ Têrêsa đã trở nên thân tộc của Đức Giêsu khi thực hiện lời dạy: “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Với Chúa
Cùng với Chúa phục vụ quảng đại, cởi mở, thân thiết thắm tình huynh đệ, không phân biệt đối xử, chẳng kể giầu nghèo, sang hèn, thân hay sơ, thành viên hay cảm tình viên. Không cần biết đồng đạo hay khác đạo, chẳng quan tâm đồng bào hay ngoại kiều, chẳng hề chấp nhất phe ta hay phe địch.
Hơn nữa, cùng với Chúa đặc biệt quan tâm đến những thân phận thấp hèn, nghèo túng, cô quả, đau yếu, bênh hoạn, sống bên lề xã hội. “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!… Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 12-13)
Cụ thể hôm nay, Đức Giêsu ân cần an ủi, nhắc nhủ cô Mácta, khi thân thương hai lần xướng gọi tên cô: “Mác-ta! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Người mời gọi Mácta thoát ra khỏi thói đời, bận rộn, lo toan, quá quan tâm đến vật chất, đến lương thực mau hư nát, mà vô tình quên đi lương thực trường sinh là Lời Chúa, là Thánh Ý Chúa. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi”.
Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi thói đố kỵ, ganh tương, so bì, hơn thiệt, tự tôn, tự đại khi phục vụ. Thường con người hay có khuynh hướng kiêu căng, vị kỷ, dẫu đang phục vụ, cũng muốn được phục vụ lại chính mình, muốn được nhìn nhận công nhận công trạng, cống hiến. Chứ không muốn âm thầm cho đi, lặng lẽ khiêm tốn phục vụ, vì lo áo gấm đi đêm, liệu có ai hay biết chăng. Vì thế, Đức Giêsu đã phải tha thiết cảnh báo: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời…” (Mt 6, 1)
Trong Chúa
Phục vụ trong Chúa thì luôn sẵn sàng bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Ngay trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã quỳ xuống, cúi mình rửa chân cho 12 môn đệ, dẫu rằng Người biết các ông sẽ lìa bỏ Người chịu cô đơn chống chọi giữa bầy sói, thậm chí Người còn biết cả kẻ phản bội, chối Người và bán Người cho quân dữ. Nhưng Người vẫn không hề phân biệt đối xử, không giận dữ, cũng không hề chua chát than thở, hay trách móc, mà vẫn chu đáo, vui vẻ rửa chân cho tất cả. Một thái độ từ bỏ mình tuyệt đỉnh dành cho những ai muốn theo Người, noi theo đến muôn đời.
Hơn nữa, khi phục vụ mà chịu thử thách, chịu đau khổ, chịu hành hạ, xách nhiễu, thì càng được nhiều phúc lành, như đệ bát phúc xác nhận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 5, 11-12)
“Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến, đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô.” (Đường HY Vọng, số 611)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn kết hiệp với Lời Chúa, nguồn sống dồi dào sung mãn. Đồng thời xin cũng dạy chúng con luôn sống quảng đại, luôn biết cho đi, dấn thân phục vụ tha nhân, như Chúa luôn yêu thương trao ban. Nhất là xin dạy chúng con biết từ bỏ bản thân, để chấp nhận khổ giá khi theo Chúa.
Khấn xin Mẹ Maria an ủi, cầu bầu và dìu dắt chúng con luôn biết cân bằng đời sống cầu nguyện và đời sống phục vụ, để chúng con có thể kín múc nguồn lực dồi dào từ Đức Giêsu Kitô, cung ứng dư đầy cho các hoạt động phục vụ Nước Chúa. Amen.
Theo hướng Giêrusalem, ĐGS cùng các môn đệ lên đường, có nơi từ chối (N 13), có nơi đón TN 16-C163
Theo hướng Giêrusalem, ĐGS cùng các môn đệ lên đường, có nơi từ chối (N 13), có nơi đón tiếp.
Hôm nay có lẽ là ngày hạnh phúc, ĐGS và các môn đệ, khi vào một làng, được tiếp đón. Luca ghi nhận: ‘ĐGS vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Matta đón Người vào nhà mình’ (c.29).
Ở đây ĐGS thực thi điều Người truyền dạy cho các môn đệ khi sai các ông ra đi, ở lại với chủ nhà đón tiếp và ăn những gì mà người ta dọn cho: ‘Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó’ (CN 14).
Gia đình đón tiếp Chúa vào nhà, có hai chị em. Luca nhận ra hai cách tiếp đón khác nhau. Chị là Matta đi ngay xuống bếp lo bữa. Em là Maria ngồi bên chân ĐGS tâm tình và nghe Người nói. Câu chuyện được Luca tường thuật đầy gợi ý.
Hai hình thức đón tiếp của hai mẫu người chưa thực sự hoàn hảo.
Khi mời ĐGS vào nhà, Matta xuống ngay nhà sau tất bật lo bữa ăn mà quên đi tất cả, ngay các câu chào nói thông lệ nhất. Em là Maria thì mãi miết ngồi bên chân Chúa để nghe Người nói mà chẳng để tâm tiếp tay chị lo việc phục vụ. Matta khó chịu thái độ của em vì bao việc phải một mình đảm đang nên trở lên đến gần bên ĐGS thưa với Người: ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay’ (c.40).
Bài học được trao cho Matta xứng đáng với sự lo lắng bên ngoài của chị, trong khi khen ngợi Maria. Chúa nói: ‘Matta, Matta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất’ (c.41).
Matta khi quá lo việc phục vụ bữa ăn, mà quên đi ‘Người Khách’ của mình cần gì, muốn gì? Điều này gợi nhớ đến câu chuyện mà ĐGS cùng các tông đồ đến bờ giếng Giacob. Chúa một mình ở lại gợi chuyện với người phụ nữ Samari, khi các tông đồ chia nhau vào làng mua sắm thức ăn, trở lại mời Chúa dùng bữa, Người bảo các ông ‘Thầy đã có của ăn’. Của ăn của Người ở đây, no đầy nhất là linh hồn những ‘con chiên lạc’, ‘chiên yếu đuối’. Người giúp cho người phụ nữ Samari tự nhận ra mình và chạy nhanh vào làng kêu gọi mọi người cùng ra xem kìa: ‘Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao’? (x. Ga.4,7tt).
Còn Maria, ngồi miệt mài bên chân Chúa, có phải là thái độ ‘ngoan hảo’? Maria tuy được khen ngợi thái độ lắng nghe Lời Chúa dạy dỗ, theo giáo huấn ở một nơi khác: ‘Ai là mẹ và anh em tôi nếu không phải là những người nghe tôi nói đây’ (x.Mt..12,4tt), nhưng vẫn có gì đó làm nên bất toàn. Điều này không giống với vị tiền hô của Chúa, Gioan Tẩy Giả (x. Lc. 3,1-9)! Tuy ngài vào sống trong hoang địa chay kiêng kham khổ, nhưng sau đó lại ra đi làm phép rửa, rao giảng kêu gọi mọi người sám hối đón Đấng cứu độ, nghỉa là có lúc sống giây phút chiêm niệm mà cũng có khi ra đi hoạt động trong tinh thần phục vụ. Maria thì chỉ có ngồi bên chân Chúa lặng lẽ ngắm nhìn tiếp nhận những gì Chúa ban qua Lời Người, thiếu hành động. Kết hợp chiêm niệm với hành động tương tác để đi đến thống nhất là phương thức tối ưu trong việc dựng xây đời đạo đức.
Lại nữa với Matta, thái độ lăng xăng bên ngoài không được coi là nặng ký hay đầy giá trị mà cần kết hiệp thế nào, dung hòa sao đạt được một tổng hợp toàn vẹn nơi một người có xác lẫn tâm hồn, nghĩa là có chiêm niệm để gặp gỡ Đấng tối cao, mà không quên bên cạnh còn có người thân cận. Cũng như Maria, có điều không thể chối bỏ, ĐGS thường dạy: đón tiếp tha nhân là đón tiếp Chúa, cho một người cần sự giúp đỡ là làm cho chính Chúa đấy sao? Bài giảng ‘ngày phán xét’ làm bằng chứng nặng ký gởi cho Maria suy gẫm (x. Mt.25,21tt)?
Khi tường thuật câu chuyên về gia đình có hai chị em, Luca muốn kết hợp hai CN 15 qua và 16 nay kết nối làm nên nỗi bật hai giới răn cao trọng nhất: mến Chúa trên hết còn phải yêu thân cận như chính mình.
Nhìn lại, với kitô hữu hôm nay, nhất là trong trào lưu ăn khách lan nhanh, hưởng thụ, khuynh hướng len cả vào tận bên trong các giáo đường, bên trong bao tâm hồn kitô hữu Việt Nam, không trừ ảnh hưởng sâu đậm nơi nhiều kitô hữu thế giới. Người ta cố làm các việc đạo đủ cho riêng mình để lên trời. Đọc kinh, dự lễ, rước lễ, lần chuỗi, dẫu có làm việc thiện, nhất nhất cho đúng luật sống đạo mà giới hạn chỉ cho riêng tư mà không hề bận tâm dành thoáng chút tâm thức nhớ đến ai đó trong quay quắt hụt hẫng niềm tin và lòng đạo ngay cả đang hiện diện bên cạnh mình.
Xin tri ân Thánh Luca, vì ngài đã hướng dẫn con sửa lại khiếm khuyết tâm lý đạo đức độc chiều: chỉ biết ‘TÔI YÊU’ Chúa, còn ai mặc!
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT, Chúa đã yêu Cha trên trời mà còn hi sinh cho người trần thế! Xin hãy dạy con sống thực tâm điều mà Luca gợi lại để truyền đạt luật từ trong Cựu Ước bất biến xuyên qua thời đại Tân Ước: Yêu Chúa và yêu thân cận như chính mình.
Một vị vua quyết định đi thăm dân. Có một gia đình tiếp vua bằng một bữa tiệc sang trọng. Chủ TN 16-C164
Một vị vua quyết định đi thăm dân. Có một gia đình tiếp vua bằng một bữa tiệc sang trọng. Chủ nhà vất vả lo dọn tiệc. Đến khi thức ăn được dọn, mọi người quá mệt, không còn hứng thú để nghe và kể cho vua nghe những gì vua cần biết.
Đến thăm nhà thứ hai,vua được cả nhà niềm nở đón tiếp. Dù chỉ có bữa ăn đạm bạc, nhưng mọi người đều quay quần bên vua, nói cho vua nghe những ước mơ của gia đình, của dân làng. Khi ra về, vua hài lòng với buổi gặp gỡ đúng như ý muốn.
Tương tự, Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy hai thái độ tiếp khách của hai chị em Mattha và Maria đối với Chúa Giêsu. Cả hai đều tiếp đón Chúa nồng hậu, rất quý khách, yêu mến khách. Hai thái độ tiếp khách ấy đều đáng trân trọng. Nhưng Chúa Giêsu lại đánh giá cao thái độ của cô em, tức cô Maria, khi nói với chị Mattha: “Con lo lắng nhiều việc quá. Chỉ có mỗi một việc cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Hai thái độ tiếp khách của hai chị em là gì? Chị Mattha đon đả chuẩn bị cơm nước, tiệc tùng đãi khách. Còn em gái Maria luôn ở bên khách, lắng nghe khách nói. Thánh Luca cho biết: “Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Chúa dạy”. Ngồi bên chân chứ không phải ngồi ngang hàng. Ngồi bên chân Chúa, đón nhận từng lời của Chúa, đó là “phần tốt nhất”, không còn gì tốt hơn, mà cô Maria đã chọn.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ, vì lời nói này mà Chúa đánh giá thấp việc phục vụ của chị Mattha. Tin Mừng không cho thấy chỗ nào Chúa chê bai chị. Làm sao có thể chê bai được đối với một người quý khách đến nỗi trở nên bận rộn vì khách. Hơn nữa, làm sao có thể chê bai, khi đó là việc phục vụ tận tình, tận lực của một người. Đúng hơn, tôi nghĩ câu nói: “Con lo lắng về nhiều việc quá…”, là lời trách yêu, Chúa dành cho chị Mattha. Tôi lại càng khẳng định mạnh hơn, đó là lời trách yêu khi biết rằng, chính vì yêu Chúa nhiều, Mattha mới có thái độ tiếp đón nồng hậu đến vậy!
Nói gì thì nói, từ hai thái độ tiếp khách của Mattha, Maria, và thái độ đáp trả của Chúa Giêsu, bạn và tôi phải chân nhận rằng: điều Chúa muốn là ta hãy đề cao Lời của Người trên hết mọi sự, trước khi lo việc đời hãy lo việc đạo. Trước khi vất vả vì sự sống thân xác, vì miếng cơm manh áo, hãy vững tin vào Chúa, phó thác đời mình cho Chúa. Trước khi mưu cầu danh vọng, giàu sang, mạnh mẽ…, hãy hướng tới tương lai đích thực là sự sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa. Trước khi suy nghĩ, trước khi có bất cứ hành vi nào, hãy quy chiếu vào Lời Chúa mà tra vấn chính suy nghĩ và hành vi ấy của mình. Tắt một lời: Trên hết mọi sự, Lời Chúa phải là lẽ sống của người Kitô hữu.
Thái độ của hai chị em Mattha, Maria và thái độ đáp trả của Chúa Giêu còn dạy ta hãy quân bình đời sống thường nhật với trách nhiệm Kitô hữu. Vì sự quân bình ấy rất quan trọng, giúp ta sống ơn gọi nên thánh ở giữa đời. Một mặt, ta không thể không làm lụng vất vả tạo ra cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng cũng không vì thế, biến mình thành kẻ suốt ngày chỉ “cơm-áo-gạo-tiền”, quên mất Thiên Chúa, quên mất nghĩa vụ làm người con thảo hiếu với Cha trên trời. Vì sự sống thân xác không bao giờ là lý do cho phép ta vịn vào ngụy biện cho lối sống nguội đạo, lạnh nhạt đức tin. Mặt khác, ta cũng không được nại vào sự cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, dạy hay học giáo lý… mà quyên bổn phận thánh hóa lao nhọc khi phải sống vất vả giữa đời.
Cuộc đời này cần có những Mattha và rất cần những Maria. Đúng hơn, chính bản thân bạn và tôi phải vừa là Mattha, nhưng cũng vừa là Maria. Nghĩa là biết quân bình giữa lao động và cầu nguyện.
Ngay cả khi vì cuộc sống, ta trở nên mỏi mệt nhất, chán chường nhất, nếu biết luôn gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, và có thói quen dâng lên chúa những tâm sự của riêng mình, chính lúc ấy, những giới hạn ấy của thân xác sẽ trở nên hoa trái cứu độ tuyệt vời.
Vì giá trị của lao nhọc trở nên lớn lao như thế trong đời sống cầu nguyện, bạn và tôi hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy ở bên Chúa không ngơi nghỉ bằng chính sự cầu nguyện, ngay cả khi ta đang làm việc lẫn lúc dành cho Người một thời gian thích hợp trong từng ngày sống như: khi đọc kinh, lần chuỗi, viếng Thánh Thể, cầu nguyện riêng hay chung trong gia đình, đọc và suy niệm Lời của Người, khi dâng thánh lễ, khi lãnh bí tích…
Biết làm việc và biết cầu nguyện, ta đã làm quân bình đời sống Kitô hữu của mình. Chính khi sống được như thế, chúng ta đang tiến lên trong ơn gọi nên thánh mà Chúa Kitô hằng mời gọi mình.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta thích làm việc, và rất đam mê cầu nguyện. Khi còn sống, mỗi ngày, Mẹ phải giải quyết một số lượng công việc vô cùng lớn. Nhất là Mẹ quá bận rộn vì tha nhân và các việc bác ái, nhưng không bao giờ bỏ các giờ đọc kinh, cầu nguyện.
Ban sáng, Mẹ dậy sớm cầu nguyện một giờ đồng hồ. Trước khi làm việc gì, Mẹ đều bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Nhất là những công việc càng khó khăn bao nhiêu, càng vượt quá sức mà Mẹ phải giải quyết, Mẹ càng cầu nguyện nhiều hơn, sốt sắng hơn. Trong các công tác của mình, cũng như trong khi đang làm việc, Mẹ đều hiến dâng cho Thiên Chúa.
Nếu Mẹ Têrêsa không liên hệ chặt chẽ với Chúa như vậy, chắc chắn số lượng công việc quá lớn, sẽ làm Mẹ chán nản lắm, mệt mỏi lắm, do đó sự bực tưc, gắt gỏng cũng không phải là ít.
Ngược lại, chính nhờ sự cầu nguyện, Mẹ được nối kết với nguồn sức mạnh tối cao của Thiên Chúa. Vì thế, mọi người nhìn nhận rằng Mẹ trở nên hiền lành, nhân từ, khiêm nhu, rộng lượng, rất đáng yêu…
Bởi vậy, từ thái độ của hai chị em Mattha, Maria và thái độ đáp trả của Chúa Giêsu, đến gương của Mẹ Têrêsa, cho ta hiểu rằng, ơn cứu rỗi không tùy thuộc vào số lượng công việc đã làm, nhưng chỉ tìm thấy nó trong mối liên hệ và hiện diện giữa ta với Chúa cùng đồng loại quanh mình, khi làm việc và cầu nguyện mà thôi. Vì thế, bạn và tôi hãy sống như có Chúa đang hiện diện với mình trong công việc, trong sự cầu nguyện, và hãy sống như mình đang sống trong Chúa qua mỗi bước đi, nụ cười, lời nói, hành vi… thường nhật của mình.
Hãy là Mattha giữa đời thường và hãy là Maria khi mang lấy đời thường ấy đến với Chúa!
Trong cuộc sống, để hiểu một người, nhất là người mình yêu thương, và làm theo ý muốn, ý thích TN 16-C165
Trong cuộc sống, để hiểu một người, nhất là người mình yêu thương, và làm theo ý muốn, ý thích của người đó quả là không dễ chút nào! Với con người đã khó, đối với Thiên Chúa lại càng khó hơn nhiều. Làm thế nào chúng ta có thể hiểu và biết ý muốn của Thiên Chúa được nếu như ta không lắng nghe. Có ở bên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và hiểu được thánh ý Chúa, chúng ta mới biết chọn điều Chúa muốn và hành động thế nào cho đúng, cho đẹp lòng Chúa. Vậy ta cùng ngồi xuống với chị Maria để học lắng nghe và rồi ta cũng biết chọn lựa điều Chúa muốn và là phần tốt nhất cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa bất ngờ dừng lại, ghé vào nhà chị em Matta. Đến mái nhà Bêtania, Chúa như cảm thấy thân thiện, hài lòng vì có những người bạn chân thành. Thế nên, ngay lập tức cô Matta nồng nhiệt chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng để tiếp đãi người bạn của gia đình: “Cô Matta thì tất bật lo việc phục vụ.” Như một thói quen, cô hối hả làm việc… Trái lại, Maria em cô lại an nhiên tự tại ngồi bên chân Chúa để lắng nghe, sẻ chia tâm sự…”Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.” Bữa ăn chưa có sẵn nên cô Matta cần làm xong và hẳn là cô chẳng hài lòng khi em cô không phụ giúp! Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói với Matta “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Và Người đánh giá cao thái độ của em cô.
Khi đón tiếp khách vào nhà, chúng ta thường bận rộn chú trọng đến những món ăn, những khung cảnh, nơi chốn để tiếp mà dường như ta hay quên đi chính vị khách và những tâm tình của khách. Cô Matta có biết Thầy Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để đi chịu chết hay chăng? Đã hai lần Thầy tiên báo về cuộc Thương Khó rồi! Cô có hiểu tâm trạng của Thầy bây giờ như thế nào không? Biết bao nhiêu lời vu khống và chống đối bủa vây, tâm hồn Thầy đang buồn sầu vì biết những gì sắp xảy ra! Bước vào mái nhà của cô, Chúa muốn tìm sự cảm thông, an ủi, lắng nghe và như được trở về chính mái ấm yêu thương của Người. Thế mà Matta cứ tất bật lo chuyện ăn uống! Cô lo lắng cho Chúa và cũng yêu Chúa nhưng theo ý riêng của cô. Cô chưa hiểu Chúa và làm theo điều Chúa muốn!
Điều Chúa muốn nơi Matta, Maria và tất cả chúng ta là trở thành môn đệ của Chúa. Và thái độ đầu tiên của người môn đệ là lắng nghe lời Chúa dạy, là biết dùng thời giờ để ở bên Chúa, nghe Chúa và nói với Chúa. Chúng ta có thể trở nên môn đệ của Chúa với khả năng lắng nghe và rao giảng Lời Chúa.Từ nay, cả những phụ nữ cũng có thể đạt được “Phần tốt nhất” chứ không chỉ lo việc bếp núc nấu ăn trong nhà theo truyền thống. Dẫu rằng chúng ta vẫn cần ăn và hôm ấy chắc chắn Chúa cũng dùng những món ngon mà cô Matta nấu. Nhưng Chúa muốn chúng ta xác định việc nào quan trọng hơn. Chúng ta chọn Chúa hay chọn công việc của Chúa? Yêu Chúa hay yêu công việc của Chúa ?
Chiêm niệm và hoạt động như hai mặt của đồng xu, được đan quyện vào nhau làm nên sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.“(Mc 3,14) Thế nhưng chúng ta hay bị cám dỗ lao theo sứ mạng rao giảng và hoạt động mà lãng quên đời sống cầu nguyện. Có những hoàn cảnh cần ta hành động, phục vụ nhưng dù thế, chúng ta cũng đừng bao giờ quên phần tốt nhất và quan trọng hơn là trở về bên Chúa, là cầu nguyện, lắng nghe để ta biết được thánh ý Chúa.
Nhiều khi chúng ta cho rằng lao động là cầu nguyện và rồi ta bỏ những giờ kinh nguyện tĩnh lặng bên Chúa mà chỉ lo hoạt động bên ngoài. Thật nguy hiểm với quan niệm này! Dẫu rằng trong khi lao động, ta vẫn có thể hướng lòng lên Chúa, kết hợp với Chúa, nhưng như thế chưa đủ để ta kín múc được nguồn năng lực và ân sủng từ Chúa. Những công việc, những tổ chức và hoạt động ta làm với ý hướng ban đầu rất tốt là theo ý Chúa, vinh danh Chúa, nhưng nhiều khi trong thực hiện, ta lại quên mất Chúa mà chỉ lo làm theo ý mình và làm vinh danh cá nhân mình. Nếu như đời sống của chúng ta luôn được cân bằng với hai chiều kích chiêm niệm và hoạt động, khi ấy chắc chắn ta sẽ yêu Chúa, tìm thực thi ý Chúa và ý thức việc ta làm là công việc phục vụ Chúa và Giáo Hội. Để rồi kết quả có thành công hay thất bại, ta vẫn bình an vì đã hết lòng chọn điều Chúa muốn và làm theo ý Chúa, ta sẽ không sợ nguy hiểm , không ngại rủi ro nhưng một lòng tín thác vào Chúa.
Chỉ một lần ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Lời Người dạy, đã làm cho cô Maria trở thành người biết chọn phần tốt nhất và trở nên tông đồ của Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Chắc chắn cô không chỉ nghe mà còn vâng giữ Lời Chúa, vì “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.”(Ga 14,23a) Khi chúng ta lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ được Chúa Cha thánh hiến (Ga 17,17) Chính ở bên chân Chúa mà ta biết được ý muốn của Chúa để vâng giữ. Và khi đó, ta đã làm cho lời hứa của Chúa được hiện thực “Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.“(Ga 14,23b) Nơi tâm hồn những ai lắng nghe Lời Chúa, chọn điều Chúa muốn và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ luôn hiện diện, yêu mến và chúc lành. Ước mong sao mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn biết thao thức lắng nghe lời Chúa dạy và tìm hiểu điều Chúa muốn ta làm là gì, để rồi ta biết làm theo ý Chúa, biết phục vụ trong tình yêu với những khả năng Chúa ban để làm vinh danh Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thích những giờ nguyện cầu bên Chúa và xin hãy dạy chúng con biết chọn điều Chúa muốn, yêu điều Chúa yêu và hết lòng làm những việc tốt theo thánh ý Chúa. Amen.
Chỉ có một sự cần mà thôi”. Chúa Giêsu quả quyết như thế. “Sự cần” ấy thể hiện qua hình ảnh TN 16-C166
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Chúa Giêsu quả quyết như thế. “Sự cần” ấy thể hiện qua hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Chúa.
Ngày nay, chúng ta cũng phải làm như Maria, thực hiện “Sự cần” ấy suốt đời mình. Đó chính là lắng nghe Lời Chúa, là uống lấy từng lời Chúa dạy, là nỗ lực làm cho Lời Chúa chi phối lẽ sống, là để cho Lời Chúa điều khiến mọi hành vi, mọi lời nói, mọi biểu cảm của mình.
Lời bài hát “Xin cho con biết lắng nghe…” là lời quen thuộc. Nội dung bài hát vừa là lời nài xin, nhưng cũng vừa thể hiện niềm ý thức của người tín hữu về sức mạnh cần thiết của Lời Chúa.
Vì ý thức ấy, ta xin Chúa cho mình biết lắng nghe Lời Chúa trong đêm tối, lắng nghe Lời Chúa giữa những lúc lẻ loi. Đêm tối hay lẻ loi có thể là những lúc đối mặt với thử thách, những lúc tâm trí ngậm ngùi vì đau khổ. Nhưng cũng có thể là những lúc ta cần khoảng không gian cô tịnh, khoảng vắng tách biệt mọi ồn ào, mọi lo nghĩ để lắng nghe Lời Chúa, để thẫm thấu Lời Chúa.
Nhưng đồng thời, ta cũng xin cho mình biết lắng nghe Lời Chúa giữa cuộc sống. Cuộc sống là những nụ cười hay tiếng khóc, là lúc thăng hay lúc trầm, là lúc khỏe mạnh hay yếu đau, lúc thành công hay thất bại, lúc bị phản bội hay được đón nhận, lúc nhận ra sự yêu đương hay lòng thù hận…
Nếu Chúa nói với ta trong tĩnh mịch, thì Người cũng không ngừng lên tiếng giữa những êm ả hay tất bật, giữa những ồn ào đầy bôn ba chật vật. Người vẫn lên tiếng bên ta trong mọi khoảnh khắc, mọi thời gian. Hiện diện của Chúa là hiện diện đầy. Người hiện diện bền bỉ, liên lỉ.
Như vậy Lời Chúa vang lên mọi nơi, mọi lúc. Ta lắng nghe Chúa là lắng nghe qua từng thời gian, từng biến cố, từng hoàn của mình, hay của bất cứ ai, bất cứ nơi nào mà ta có mặt hay tham dự vào. Ta xin Chúa hãy dạy ta, hãy làm cho ta được sống theo thánh ý Chúa, sống theo Lời của Chúa.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Hãy xem đó là lời xác tín suốt cuộc đời làm người của ta. Bởi ai chăm chú lắng nghe Chúa, ai xác tín chỉ có Lời Chúa là “sự cần” duy nhất trong đời mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc, sẽ cảm nếm ngọt ngào, dù phải đi cùng những sóng gió, trắc trở. Dẫu phải trải qua gian nan, họ sẽ chiến thắng và gặt hái những hoa trái của ơn thánh, hoa trái của sự thánh thiện.
Sách Sáng thế ghi lại câu chuyện vợ chồng Tổ phụ Abraham – Sara, đã phải đau khổ nhiều vì mong mỏi, cả đến thèm khát một đứa con, nhưng nhiều chục năm qua, sự thèm khát ấy đã nên mỏi mòn, vô vọng.
Vậy mà một lần, Vợ chồng Tổ phụ đã đón nhận ba người khách lạ, chính là Thiên Chúa hiện thân. Khi vợ chồng Tổ phụ mở rộng cửa nhà, cũng chính là lúc ông bà mở toan cõi lòng đón tiếp và lắng nghe ba người khách lạ. Ông bà có ngờ đâu, mình đã đón tiếp và lắng nghe Thiên Chúa của mình.
Từ đây, ơn Chúa làm nên những hoa trái kỳ diệu trong cuộc đời ông bà. Không ai tưởng tượng nổi, từ lòng dạ son sẻ và từ niềm hy vọng đã héo hon, lại có thể sinh con. Biến cố ấy trở thành biến cố lớn của lịch sử cứu độ. Bởi Lời Thiên Chúa hứa về một dòng dõi “đông như sao trời, như cát biển” đã từ lâu lắm, nay thành hiện thực. Và việc cụ già sinh con, trở thành điều kỳ diệu. Đứa con của lời hứa ấy lại là bình minh cho một dân tộc vĩ đại sau này.
Mọi thứ trong cuộc đời (hoàn cảnh, sức khoẻ, gia đình, đất nước, sứ mệnh…) đều có thể thay đổi. Nhưng Lời Chúa muôn đời bền vững. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24,35). Chính Chúa Giêsu khẳng định như thế.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Hãy như vợ chồng Tổ phụ Abraham, luôn sẵn sàng để Chúa nói, sẵng sàng lắng nghe tiếng Chúa. Bởi Lời Chúa dạy cũng chính là sự thể hiện Thánh ý Chúa định hướng cuộc đời ta, giúp ta sống, làm quân bình cho tinh thần, là la bàn định vị lối sống đạo đức, là niềm an ủi, là nguồn sống, niềm vui, bình an, hy vọng… trọn một đời Kitô hữu.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. “Sự cần” ấy đã là, đang là và sẽ là điểm cốt lõi xác nhận con người, con đường cuộc sống, niềm tin, giá trị, sứ mệnh… của người tín hữu.
Không ai có thể vẽ biểu đồ cuộc sống và niềm tin của chúng ta cho chúng ta, hoặc cho biết chính xác điều Thiên Chúa muốn ta làm và những quyết định ta cần phải thực hiện khi theo Người. Chỉ có Lời Chúa, chỉ có một sự cần mà thôi, sẽ là chìa khóa để mỗi người mở ra cánh cửa thiêng thánh ấy.
Vì thế, lắng nghe tiếng Chúa là cách thức thắp đèn sáng giúp bản thân nhận rõ hơn hướng đi mà Chúa đã định cho mình. Thánh Kinh luôn luôn khẳng định điều ấy khi cho biết:
“Lời Chúa hứa lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung… Muôn lạy Chúa, lời Ngài bền vững đến ngàn đời, trên cõi trời cao… Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi… Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường” (Tv 119, 11.89.105.130).
“Hãy quay về nghe lời Ta sửa dạy. Này Ta luôn để thần khí Ta trên các ngươi, khiến các ngươi hiểu rõ lời Ta dạy bảo” (Cn 1, 23).
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
“Lời Chúa là Thần Khí và là Sự Sống… Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống… Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì cách ông thật là môn đệ tôi, các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 4, 24. 6,63. 8, 31-32).
“Có đức tin, là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô… Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được phép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó, chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 10, 17. 15, 4).
Nếu chúng ta không có hoàn cảnh để thỉnh thoảng, rút lui vào cuộc sống cô tịch, thì ít ra, những giờ phút đọc Lời Chúa trong gia đình, khi cử hành Lời Chúa trong thánh lễ, những giờ phút cầu nguyện…, phải trở thành thời gian hữu ích, thời gian bổ dưỡng tinh thần bằng chăm chú lắng nghe, chăm chú suy gẫm, hay cố bắt lấy một ý, một câu của Lời Chúa trong giờ cử hành ấy. Để rồi sau đó, trở về với cuộc sống, trong tâm tình thờ phượng, chúng ta chìm lắng trong Chúa, nghiền ngẫm trong Lời của Chúa.
Hoặc mỗi khi bị khủng hoảng, ta nhanh chóng quay về với Chúa Giêsu, Đá Tảng của mọi thời đại, đặt tâm tư của mình bên Chúa. Hãy để Chúa nói. Hãy thinh lặng hoàn toàn để nghe tiếng Chúa.
Hãy mở Kinh Thánh ra để suy niệm bất cứ một đoạn Lời Chúa nào. Hãy xin Chúa lên tiếng và sáng soi cho ta hiểu tiếng Chúa nơi bản văn Kinh Thánh ấy. Hãy luôn xác tín: “Chỉ có một sự cần mà thôi”. Đó là nghe và sống Lời Chúa.
Sách Samuel có kể câu chuyện vua Đavit và toàn thể Israel rước Hòm Bia Thiên Chúa về Giêrusalem TN 16-C167
Sách Samuel có kể câu chuyện vua Đavit và toàn thể Israel rước Hòm Bia Thiên Chúa về Giêrusalem. Đi tới sân lúa nhà ông Nakhon, bò bỗng trượt chân. Ông Utda giơ tay đỡ lấy Hòm Bia của Đức Chúa. Vì tội đó mà Đức Chúa phạt ông chết tại chỗ. Thấy vậy ông Đavit sợ quá, không muốn rước Hòm Bia Thiên Chúa về nữa, nên gởi ở nhà ông Ôvêt Êđôm, ở đó, Thiên Chúa ban phước lành cho ông và nhà ông. Người ta báo tin cho vua Đavit hay, thế là vua Đavit tổ chức rước Hòm Bia về thành của mình, để Thiên Chúa hiện diện với mình, để Thiên Chúa ban phước lành cho nhà mình; nói cách khác Đavit muốn được sống với Chúa, như Chúa đã từng sống với ông Ôvêt Êđôm.
Lời Chúa trong Chúa Nhật 16 TN C hôm nay cũng cho chúng ta thấy việc sống gắn bó với Chúa là điều tốt đẹp nhất.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: St 18, 1-15
Câu chuyện trong sách sáng thế này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Apraham. Chính nhờ lòng hiếu khách đó mà ông đã không ngờ rằng mình đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa. Để đáp lại lòng hiếu khách của ông, Đức Chúa đã cho hai vợ chồng ông đứa con trai, mặc dù hai ông bà đã già nua. Phần thưởng lớn lao cho những người đón tiếp Chúa là những điều mình không thể ngờ được. Tuy nhiên điều mà Apraham làm không phải để được điều này điều nọ, nhưng chính là lòng tốt của ông muốn đón tiếp mọi người. Gương tổ phụ Apraham cho chúng ta nhớ đến phúc thứ bốn của kinh thương người có 14 bốn mối: Thứ bốn cho khách đỗ nhà. Sâu xa của việc đón tiếp người khác chính là được đón tiếp Chúa hiện thân qua từng con người mình gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày, vì: “Bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.
Đáp ca: Tv. 14
Thánh vịnh 14 thuộc thể loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi: “Ai được Chúa cho vào ngụ trong nhà Chúa?” Câu trả lời là những người tốt, những người biết sống theo lề luật, giới răn của Chúa. Hay nói ngắn gọn lại là những người muốn sống với Chúa.
Tin Mừng: Lc 10, 38 – 42
Bài Tin Mừng hôm nay rất rõ ràng. CG đóng vai chính, bước vào nhà của hai chị em Matta và Maria. Ai cũng thương Chúa hết và mỗi người thể hiện qua một việc. Matta thì lăng xăng lo phục vụ Chúa về chuyện ăn uống, ngủ nghỉ. Maria thì lo phục vụ Chúa qua việc rửa chân cho khách theo phong tục của người Do Thái. Chính vì vậy mà cô có điều kiện để ngồi dưới chân Chúa, hỏi thăm Chúa điều này điều điều nọ, được nghe Chúa nói chuyện.
Chẳng có gì xảy ra nếu Matta không lên tiếng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con một tay”. Matta tưởng rằng việc phục vụ của mình là quan trọng nhất, nên bắt người ta cũng phải làm như mình vậy. Sâu xa của vấn đề là Matta muốn được chú ý, muốn được khen ngợi trong hành động phục vụ của mình. Thay vì kêu Maria “tiếp chị đi con!”, CG đã nói cho Matta biết điều nào là quan trọng nhất.
Mới đọc qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta lầm tưởng CG đề cao lối sống chiêm niệm, cầu nguyện của Maria, đồng thời chê bai thái độ phục vụ của Matta. Ý của CG là dù chiêm niệm hay hoạt động đều phải sống với Chúa để nghe tiếng Chúa, để thực hành lời Chúa.
Như vậy phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy những con người tiếp rước Chúa: Apraham, Matta, Maria. Điều Chúa muốn là không phải chúng ta làm gì cho Chúa, nhưng là biết sống với Chúa.
II. SỐNG VỚI CHÚA
Linh mục, nhạc sĩ Thái Nguyên viết bài hát mà nhiều người yêu thích: “Sống với Chúa, qua từng giây phút trong cuộc đời, trong niềm vui nỗi buồn mọi nơi, trong tình yêu khi đầy khi vơi”. Từng giây phút trong cuộc đời, cả khi chúng ta làm việc, nghỉ ngơi, cầu nguyện… mọi tâm trạng trong cuộc sống, khi buồn, khi vui… mọi hoàn cảnh trên đường đời, khi thành công, khi thất bại… chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa.
Mỗi người một ơn gọi khác nhau. Điều đó được thể hiện qua sự phong phú của các dòng tu. Có dòng chiêm niệm, suốt ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện. Có dòng hoạt động, ưu tiên cho việc bác ái, phục vụ… Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ tôi ở nơi thanh vắng, trên núi đồi, trong rừng vắng, ở nơi ít người… Hoặc có người ở phố thị ồn ào, náo động… Mỗi người một tâm tính khác nhau. Có người thích nhìn cảnh hoàng hôn, có người thích cảnh xe cộ, người người qua lại… Tất cả những ơn gọi, những hoàn cảnh, những tâm tính đó đều được mời gọi sống với Chúa. Tựu trung lại có hai hình thức trong cuộc sống, đó là hoạt động và chiêm niệm
Trong hoạt động:
Trong hoạt động chúng ta được mời gọi sống gắn bó với Chúa, kẻo những hoạt động của chúng ta chỉ là những thứ ồn ào, không giá trị gì cả. Chúng ta buôn bán suốt ngày, nhưng hãy ý thức trong công việc làm ăn mình thể hiện tư cách là người con cái Chúa đê làm ăn buôn bán cho thành thật. Chúng ta lái xe suốt ngày, nhưng chúng ta có ý thức trên mỗi bước đường chúng ta đi có bàn tay Chúa nâng đỡ hay không? Chúng ta làm ở công ty, xí nghiệp 8 tiếng mỗi ngày, nhưng chúng ta có ý thức để dâng lên Chúa từng hành động, từng công việc của mình không? Nói tóm lại trong mọi hoạt động, dù làm gì, ở đâu, chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa.
Một người công giáo nọ nhờ là thương binh, nên sau một thời gian làm trong xí nghiệp, ông được đề bạt giữ chức giám đốc. Người ta thấy ông giám đốc thương binh này sáng sáng đạp xe đến nhà thờ dự lễ, rồi uống cà phê mới đến chỗ làm; chiều chiều sau khi tan sở ông ghé ngang đài Đức Mẹ lần chuỗi, tối tối ông quy tụ gia đình con cái lại để đọc kinh tối gia đình. Trong công ty ông có vài người công giáo, ông gặp riêng họ và dặn dò: “Tụi mày là người công giáo, nên tụi mày phải gương mẫu hơn những người khác. Đứa nào mà lấy lý do bận đi làm, bỏ ngày Chúa Nhật là tao đuổi việc luôn”. Đấy, trong hoạt động người ta vẫn gắn bó với Chúa được!
Trong chiêm niệm:
Tuy nhiên trong chiêm niệm người ta sẽ dễ gắn bó với Chúa hơn, đó là điều không thể nào chối cãi được. Nghĩa là khi người ta để lòng mình không bị những ồn áo náo động bên ngoài lôi kéo, lúc đó người ta sẽ được quy hướng về Đấng là trung tâm cuộc đời người ta.
Chúng ta dễ dàng bắt gặp những người cố thoát ra khỏi những ồn ào, náo động của cuộc sống để tìm về với Chúa trong chiêm niệm. Ví dụ những cuộc tĩnh tâm hằng tháng, hằng năm. Ví dụ sau một tuần làm việc, người ta tổ chức đi hành hương. Sau một năm mệt mỏi người ta đi du lịch, nghỉ ngơi. Hoặc khi gặp những khó khăn, những bất trắc, người ta rời khỏi hoàn cảnh của mình để tìm đến nguồn an ủi của Chúa… Trong chiêm niệm người ta dễ gắn bó với Chúa hơn.
Như một vườn hoa muôn màu muôn sắc, mỗi một sắc hoa đều tô điểm cho đời, mỗi một hương hoa đều cho đời thi vị,… thì việc hoạt động và chiêm niệm như những bông hoa trong vườn hoa của Giáo Hội, miễn là làm sao chúng ta biết gắn bó với Chúa để Chúa muốn chúng ta hoạt động như thế nào, Chúa muốn chúng ta chiêm niệm ra làm sao. Đó là sự thánh thiện của những vị thánh. Đó là sự thánh thiện mà Chúa muốn những người con cái Chúa: Sống với Chúa.
“Xin cho con được sống với Chúa, để đời con luôn thắm tươi, đem niềm vui phúc ân cho người. Xin cho con được sống với Chúa, để đời con luôn tươi mới, mang an bình hạnh phúc mọi nơi”
Chúng ta không bao giờ biết khi nào Chúa sẽ thăm viếng chúng ta. Có khi Chúa thăm viếng chúng TN 16-C168
Chúng ta không bao giờ biết khi nào Chúa sẽ thăm viếng chúng ta. Có khi Chúa thăm viếng chúng ta qua những tư tưởng tốt lành hay sự nhận biết rõ ràng chúng ta không cô đơn. Có khi Chúa đến qua những giây phút chúng ta cảm thấy bình an trong tâm hồn, hay qua những người tốt lành thánh thiện, hay trong những người cần đến chúng ta. Và dĩ nhiên Chúa đến khi cuộc sống trần thế của chúng ta chấm dứt.
Trong bài đọc 1 hôm nay, Chúa đến với ông A-bra-ham qua 3 người khách lạ, và đã được ông thiết đãi một cách thân mật và ân cần. Thật tình lúc đầu A-braham đã không biết mình đang tiếp đón chính Thiên Chúa. Nhưng sau khi nhận biết Chúa đến viếng thăm ông để ban cho ông và người vợ là Sa-ra một ơn sủng mà ông bà hằng cầu mong là một đứa con trai. Qua ân sủng đặc biệt này, A-braham nhận ra vai trò trở ngược, ông chỉ là tạo vật, được Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình đến thăm viếng, và ban cho ông bà một ân sủng đặc biệt là đứa con trai nối dõng tông đường. Bài đọc một hướng dẫn chúng ta đón nhận bài Tin mừng qua câu truyện Chúa Giê-su được hai chị em Mát-ta và Maria tiếp đón vào nhà mình, và được Chúa ban cho lời sự sống.
Cách đây không bao lâu tôi gặp lại một người bạn cũ lâu năm, và sau khi thăm hỏi, chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc thật lâu. Anh là một người Công giáo và tuy đã biết, nhưng rất ngạc nhiên tôi trở thành linh mục. Sau đó chúng tôi nói chuyện với nhau về cầu nguyện. Tôi chia sẻ với anh về một cách cầu nguyện của tôi mà tôi cảm thấy thích hợp và hiệu nghiệm từ khi là linh mục đến nay. Ngoài việc đọc kinh thần vụ, khi cầu nguyện, tôi nói với anh, tôi luôn hình dung có Chúa hiện diện ngồi cùng bàn, bên cạnh, trước mắt, hay cùng đi bộ và cùng trò truyện. Tôi nói với Chúa tất cả những gì trong tâm tư như tôi đang thật sự nhìn thấy Ngài trước mắt. Và tôi tin một cách vững chắc Chúa luôn luôn hiện diện mọi lúc trong cuộc sống. Qua sự biểu lộ trên gương mặt, tôi biết đây là lần đầu tiên anh nghe được cách cầu nguyện này, lần đâu tiên ý tưởng này xuất hiện trong đầu của anh. Anh nói với tôi “Tôi không biết phải nói gì nếu Chúa Giê-su đến nhà tôi, muốn thăm tôi trong chốc lát.” Tôi nói với anh “Anh chỉ cần nói với Chúa những gì trong đầu óc của anh thôi, nói với Chúa như nói với một người bạn hiền, hay một người bạn tốt.” Và tôi đề nghị với anh cố gắng dành 10 phút trong ngày và thử cầu nguyện như vậy một thời gian. Từ đó tới nay, tôi chưa nghe anh cho biết phương cách đó có thích hợp với anh không, nhưng tôi tự hỏi và muốn biết có bao nhiêu người cảm thấy thoải mái và tự nhiên cầu nguyện bằng cách này.
Dĩ nhiên, như ông bà anh chị em biết, có nhiều cách cầu nguyện như đọc và suy gẫm Kinh thánh, lần chuỗi, đọc kinh, đọc sách các thánh, đọc Thánh vịnh, hay cầu nguyện trước Thánh Thể. Tuy nhiên cách cầu nguyện ngoại lệ, không theo cách thức nào chỉ ngồi tâm sự và trao đổi những suy nghĩ, những ưu tư, lo lắng với Chúa, hay cảm tạ, tri ân Ngài, hay chỉ ngồi im lặng lắng nghe trong sự hiện diện của Chúa, là một ơn sủng rất to lớn cho chính tôi. Và tôi thú nhận tôi thực hành phương cách cầu nguyện này mọi ngày, dù muốn hay không, và đó cũng là lời khuyên của các bậc thánh nhân, những người viết sách đạo đức và tinh thần, và luôn luôn là một sự tốt đẹp. Và đó cũng là lời Chúa Giê-su nói với Mát-ta liên quan đến việc bà Maria làm, ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời Ngài trong bài Tin mừng hôm nay “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”
Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, một nhà thông luật đến hỏi Chúa Giê-su “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Và để trả lời, Chúa đã kể cho ông nghe câu truyện người Samarita nhân hậu bày tỏ tình yêu thương một cách quảng đại với tha nhân. Và có thể, chủ đích của thánh Lu-ca cho chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria là để chúng ta hiểu sâu sa hơn về câu trả lời của Chúa Giê-su. Cuộc sống của người Ki-tô hữu tin theo và yêu mến Chúa là làm những việc tốt lành và trở nên người tốt lành, nhưng cũng còn có một điều quan trọng khác là sự liên hệ mật thiết với Chúa. “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi,” đây là câu trả lời hoàn toàn cho câu hỏi “Thưa Thày, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Yêu mến Chúa là kết hợp mật thiết với Chúa để được sự sống đời đời.
Như chúng ta biết rõ ràng, hai chị em Mát-ta và Maria có một sự liên hệ rất thắm thiết với Chúa, và mặc dầu thánh Lu-ca không cho chúng ta biết, nhưng chúng ta biết hai chị em sống trong thành phố Bét-tha-ni, cách thành phố Giê-re-sa-lem vào khoảng dặm. Nhà của hai chị em là nơi Chúa hằng đến thăm viếng mỗi khi mệt nhọc trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, và cũng thường ngụ lại mỗi khi Chúa lên Giê-ru-sa-lem trong những dịp lễ lớn đông người. Chúng ta có thể hình dung Chúa nở một nụ cười và nói “Mát-ta, Mát-ta.” Một lời đáp trả thật thân thương. Và trong lời nói với bà “có một sự cần mà thôi” Chúa không ý ám chỉ những nhu cầu cần thiết cho đời sống như ăn và uống là không quan trọng. Nhưng có một sự cần thiết hơn những công việc mà Mát-ta thật sự đang phục vụ cho những người khách được thoải mái, là sự quá lo lắng về nhiều thứ, lấy mất thời giờ quí báu để lắng nghe lời Chúa và để tâm sự với Chúa. Mát-ta đang làm những việc rất tốt lành, nhưng đây là thời điểm phải chậm lại để lắng nghe lời sự sống. Và chúng ta cũng nhận thấy một điều khó có thể tưởng tượng là Maria, một người mà Tin mừng thánh Gioan cho chúng ta biết rất yêu mến Chúa, cố tình trốn tránh bổn phận công việc phục vụ Chúa và dồn hết mọi công việc cho chị Mát-ta. Và tôi nghĩ rằng Mát-ta biết và hình dung ra còn có một sự kiện quan trọng hơn phải đến và sẽ đến sau tất cả những công việc phải làm để phục vụ cho khách, và đó chắc chắn là điều mà Chúa Giê-su muốn ám chỉ.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria có nhiều điều quan trọng muốn chỉ dạy chúng ta liên quan đến đời sống Ki-tô hữu chúng ta hôm nay. Chúng ta muốn làm những điều tốt lành, nhưng một điều tốt lành chúng ta phải làm là phải cố gắng làm cho cuộc sống chúng ta chậm lại, để có thời giờ cầu nguyện, lắng nghe lời của Chúa, lời ban sự sống và những ơn lành hồn xác cho chúng ta, và đó cũng là việc chúng ta đang làm trong thánh đường hôm nay. Vì vậy, chúng ta cùng dâng lời cảm tạ Chúa đã dẫn và sẽ đến thăm viếng chúng ta trong Thánh lễ này. Xin Chúa giúp chúng ta biết trân quí sự thăm viếng của Chúa, để được Chúa ban ơn, thêm sức.
Chúng ta thông cảm với Macta. Dường như là Chúa Giêsu đã không công bằng với cô. Xét cho TN 16-C169
Chúng ta thông cảm với Macta. Dường như là Chúa Giêsu đã không công bằng với cô. Xét cho cùng, Tin Mừng đặt trọng tâm vào các hành động. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu khen, không phải là người hoạt động mà là người biết ngồi để lắng nghe. Điều đó không có nghĩa là Chúa Giêsu không trân trọng những gì Macta đã làm. Người không trách mắng cô. Chúng ta phải hiểu đó là sự quan tâm của Người dành cho cô.
Chúa Giêsu nhìn nhận những hiệu quả nơi những người như Macta, có bản chất quảng đại với mọi người, nhưng lại quá lo lắng về những việc đã làm được. Không đơn giản là Macta bận rộn, mà là cô đã quá bận rộn. Luôn lo lắng, âu lo; cô trở nên nô lệ cho chính công việc của mình.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta được hình thành từ những công việc nhỏ nhặt và bổn phận thuộc hai loại sau: cấp bách và thiết yếu. Có những công việc mà chúng ta có thể cho là cấp bách nhưng chỉ có một ít thực sự là thiết yếu. Chúng ta cần phải phân biệt giữa hai điều này. Giống như Macta, chúng ta có khuynh hướng ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, lại bị trì hoãn làm sau; và khi nếu ta có làm thì chúng ta làm một cách vội vã và cẩu thả.
Làm thế nào chúng ta biết được việc gì cần phải ưu tiên ? Cách tốt nhất để xác định những công việc thực sự cần được ưu tiên là hãy suy gẫm lại dựa trên sinh hoạt thường ngày. Chúng ta dành nhiều thời gian nhất cho những công việc gì ? Công việc gì lấy đi năng lực của chúng ta nhiều nhất ? Đó là những công việc ưu tiên của chúng ta trong thực tế. Nó có thể gây nên một thảm kịch hoặc một tình trạng khẩn cấp, khi đặt những sự việc vào trong viễn tượng của ta, và nhắc nhở chúng ta đâu mới thực sự là vấn đề.
Điều dễ dàng xảy ra nhất trên thế gian này là đặt sai thứ tự ưu tiên của công việc. Khi Đức Hồng Y Joseph Bernardin, nguyên Tổng Giám Mục Chicago, biết mình bị ung thư giai đoạn cuối đã nói: “Tôi nhận ra rằng sao lại có quá nhiều những việc tầm thường và không quan trọng đã làm tiêu hao cuộc sống hằng ngày của tôi.”
Maria đã xác định đúng việc cần phải ưu tiên, bà ta đã bỏ mọi thứ qua một bên và chỉ để lắng nghe lời Chúa Giêsu. Có nhiều người tương tự như Macta hay còn hơn nữa, bận rộn với đủ thứ việc và luôn không có thời gian. Họ là những người tham công tiếc việc. Chúng ta cần phải có cái nhìn vượt xa hơn những việc vặt hằng ngày và những việc khẩn cấp. Chúng ta cần phải dành thời gian cho chính bản thân mình. Vượt trên tất cả, chúng ta cần có thời gian để suy tư nhìn lại mình. Thomas Moore, nhà văn và nhà tâm bệnh học người Mỹ, đã nói:
“Một trong những phương pháp điều trị bằng tâm lý hết sức đơn giản là tự dành cho chính bản thân mình một vài phút mỗi ngày để hồi tâm trong thinh lặng. Hoạt động đơn giản này sẽ giúp ta nhận ra những gì thiếu sót trong cuộc sống của ta - thời gian thư giãn không làm gì cả, đó chính là chất dinh dưỡng cần thiết cho tâm hồn. Điều này chẳng có gì phải nghi ngờ, thế mà có nhiều người lại không cần đến hoặc cảm thấy hoạt động này gây lãng phí hay phiền hà.”
Nếu chúng ta có thể dành khoảng thời gian tĩnh lặng với Chúa thì cuộc sống của chúng ta có thể sẽ êm đềm hơn, không bị cuốn trôi theo những lo lắng và băn khoăn, cuộc sống sẽ sâu lắng và phong phú hơn. Thực tế, mọi điều đều có ích lợi, đời sống tâm linh, những mối tương quan và ngay cả công việc.
Hoạt động và chiêm niệm không hề tương phản lẫn nhau. Cả hai đều rất cần thiết và phải được hoà hợp trong cuộc sống.
Tôi mơ thấy một ngày kia Chúa sẽ ghé thăm gia đình tôi cũng như Chúa đã ghé thăm gia đình TN 16-C170
Tôi mơ thấy một ngày kia Chúa sẽ ghé thăm gia đình tôi cũng như Chúa đã ghé thăm gia đình Macta và Maria. Vì thế tôi lau chùi nhà cửa thật sạch sẽ và đánh bóng mọi thứ. Sau đó tôi dọn một cái bàn và trải chiếc khăn bàn đẹp nhất, cùng với bộ đồ gốm và bạc đẹp nhất; tôi cũng đặt trên đó cả nến và hoa. Thức ăn thì tôi không tiếc thứ gì. Khi tất cả đã sẵn sàng và khách của tôi sắp đến, tôi trải thảm đỏ để tiếp đón.
Người đến và tôi nghĩ tôi đã làm cho Người hãnh diện. Tôi đã chuẩn bị hết sức chu đáo. Tôi sẽ phục vụ Người từ đầu đến chân. Chưa có vị vua nào được phục vụ chu đáo như vậy. Tôi chắc chắn rằng chuyện trò không trở nên nhạt nhẽo. Và về phần Người, thì Người vô cùng nhân từ, lịch thiệp. Người bày tỏ sự cảm kích tột bực đến nỗi tôi phải lúng túng. Mọi thứ diễn tiến suôn sẻ như vòng quay của chiếc kim đồng hồ. Khi Người ra đi rồi, tôi cảm thấy vui vẻ tốt lành, nhưng rồi có điều gì đó khiến tôi phải băn khoăn.
Có một lúc tôi cảm thấy đã bỏ phí về điều đáng lý phải xảy ra. Và một câu hỏi xuất hiện trong tôi: Người đã muốn gì nơi tôi ? Thức ăn ? Lòng hiếu khách ? Tôi rất phân vân. Nhưng sau đó tôi lại nghe một câu hỏi khác vang lên trong tôi: Người muốn ban tặng điều gì cho tôi ? Tôi cảm thấy chắc chắn rằng Người muốn ban tặng điều gì đó cho tôi. Nhưng cho dẫu đó là điều gì đi nữa, thì tôi đã không cho Người cơ hội để thực hiện. Tôi đã cố gắng gây ấn tượng rằng mọi sự đều đã hoàn hảo, và tôi chẳng còn cần bất kỳ điều gì nữa.
Một số người rất tốt sẵn sàng trao ban nhưng lại không biết cách đón nhận. Bác sĩ Marie de Hennezel đã thành lập khoa dành cho các bệnh nan y tại một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách của bà “Cận kề với cái chết”, bà đã kể về một phụ nữ được đưa tới khoa này. Bệnh nhân này đã từng giúp đỡ rất nhiều người nhưng lại không thể giúp chính bản thân mình. Bệnh nhân này luôn luôn muốn được trao ban tình yêu thương với mọi người, giờ đây trong bệnh viện bà đang nhận được lại một cách dư dật. Nhưng thật khó để nhận lại điều gì. Bà nói đến tình yêu gia đình của mình, và vì thế mà bạn bè và những người chăm sóc cho bà, như "nguồn nước mà bà không biết cách nào để uống". Bà cần phải học để trở lại thành một đứa trẻ, khiêm nhường để đón nhận quà tặng. Nhưng điều đó thật không dễ chút nào vì bà ở trong tình trạng hoàn toàn đối lập: thích được trao ban một cách vị kỷ.
Những người chú trọng đến bản thân mình thường ghét phải nhận một điều gì từ bất kỳ ai. Tại sao ? Vì điều đó làm cho họ cảm thấy họ thấp kém hơn người khác và phải mắc nợ người khác. Mặt khác, họ thích trao ban vì điều đó thoả mãn cái tôi của họ, vì thế (có lẽ bằng một cách vô thức) họ cảm thấy họ vượt trội hơn người khác.
Trao ban là điều quan trọng. Nhưng biết lãnh nhận cũng quan trọng không kém. Tự bản thân chúng ta không có ai là hoàn hảo. Chúng ta cần lãnh nhận từ người khác và trên hết là từ Chúa. Còn gì bi thảm hơn khi ta không có khả năng để nhận lãnh. Biết trao ban thì chưa đủ, chúng ta cũng phải biết lãnh nhận như thế nào. Cả hai đều là hoạt động của ân sủng.
Câu chuyện trong Tin Mừng đã cho chúng ta thấy điểm khác nhau cơ bản giữa Macta và Maria. Macta không biết cách lãnh nhận, nhưng Maria thì biết. Maria đã dâng cho Chúa món quà bằng chính tâm trí cởi mở và trái tim đón nhận. Macta, ngược lại, rất cừ khi trao ban nhưng lại kém khi lãnh nhận. Ngay cả Chúa cũng không thể cho bà thêm được điều gì.
Chúng ta không có một đời sống tâm linh thật sự nếu chúng ta không dành thời gian để sống TN 16-C171
Chúng ta không có một đời sống tâm linh thật sự nếu chúng ta không dành thời gian để sống với Chúa và lắng nghe lời Chúa. Nhiều người trong chúng ta nói rằng đã cầu nguyện ban sáng và tối rồi, như thế là khá nhiều. Nhưng, than ôi, những phút cầu nguyện này thường bao gồm những lời quá quen thuộc, mà chúng ta đọc lầm bầm trong vội vã, trong khi suy nghĩ của ta đang đối diện với những công việc đang chờ đợi. Những lời cầu nguyện đó cũng giống như việc đáng lý phải tắm gội kỹ càng, ta chỉ rửa có đôi bàn tay mà thôi. Chúng ta cần phải tập trung, hết lòng cầu nguyện; cầu nguyện có thể nói như kẻ đói cần được ăn và cần thiết đến nỗi không có cách nào khác có thể thay thế được. Cầu nguyện như thế mới có thể biến đổi và củng cố con người chúng ta. “Cầu nguyện không phải là đòi hỏi. Đây là niềm khao khát của tâm hồn. Đây cũng như là một lời tự thú mỗi ngày về sự yếu đuối của bản thân ta” (Gandhi).
Với nhiều người, cầu nguyện bao gồm việc đọc các lời cầu hơn là cầu nguyện xuất phát từ tâm hồn. Về một khía cạnh nào đó, cầu nguyện chỉ bắt đầu khi từ ngữ kết thúc. Lời trên môi miệng ta đọc là điều rất thông thường, nhưng chỉ là những lớp sóng trên bề mặt của sự hiện hữu nơi ta mà thôi. Đỉnh cao của tâm tình thờ phượng là thinh lặng.
Hầu như chắc chắn rằng phần lớn những lời cầu nguyện hiệu quả nhất chỉ có khi đặt bản thân ta trước sự hiện diện của Chúa, chẳng cần phải nói hoặc làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Chúa, giống như Maria đã làm. Nhưng với một số người thì việc này xem chừng là phí thời gian trong khi chúng ta còn quá nhiều việc khác phải làm.
Đặt bản thân ta trước sự hiện diện của Chúa, chẳng cần phải nói hoặc làm gì cả, là điều không dễ chút nào. Đa số đều đòi hỏi có sự ý thức về chính giá trị của công việc đang làm. Họ không biết làm thế nào để đối phó với thái độ ngồi không trong tĩnh lặng. Kết quả là cuộc sống của họ trở nên nông cạn và hời hợt.
Nhiều người có khuynh hướng đặt ngang hàng tình yêu Chúa với những hoạt động xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể bị lợi dụng như là một sự tránh né và là lối thoát. Nhưng các hoạt động xã hội cũng vậy. Hoạt động của chúng ta có thể để nhằm tránh né việc tìm kiếm Chúa. Và nếu không có cầu nguyện, dễ dàng trở thành việc hoàn toàn do mình định hướng, tự mình đi tới hơn là được Chúa dẫn dắt.
Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều tại khu rừng ở Maine. Ông đã làm gì trong khoảng thời gian đó ? Ông trồng một vườn rau, đọc sách và chiêm ngắm thiên nhiên. Nhưng thỉnh thoảng ông cũng chẳng làm gì cả. Ông nói “Đôi khi vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trước hiên nhà tràn ngập ánh nắng từ lúc mặt trời mọc cho tới trưa, say sưa trong mơ màng, giữa những cây thông, trong một khung cảnh tĩnh mịch và lặng yên với tiếng chim hót xung quanh.”
Ông đã thu hoạch hoa trái gì từ công việc này ? Ông nói:
Trong thời gian đó, tôi lớn lên như cây bắp vươn mình trong đêm. Tôi không bị thiệt hại gì về thời gian của mình cả, nhưng tôi được hưởng nhiều hơn và vượt trên cả những gì tôi có ở cuộc sống bình thường. Chỉ cần mẫn siêng năng thì không đủ, vì sẽ giống như những con kiến. Vấn đề là sự cần mẫn siêng năng ấy nhằm vào điều gì ? Đừng sợ cuộc sống của bạn sẽ kết thúc, điều đáng phải sợ là nó có thể chẳng bao giờ được bắt đầu.
Một vài người sẽ loại trừ Thoreau coi ông như là một kẻ mơ mộng, ăn không ngồi rồi. Nhưng chúng ta cần dành thời gian để cầu nguyện và suy niệm, giá như chỉ ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Không phải chúng ta phí thời gian mà là đã sử dụng thời gian một cách khôn ngoan. Chúng ta cần cố gắng để mỗi ngày có được một khoảng thời gian, để chiêm ngắm gương mặt của Chúa.
Nếu nhìn thoáng qua và nông cạn thì công việc của Maria có phần dễ hơn - những gì cô đã làm là ngồi đó, còn phần của Macta thì khó hơn. Nhưng khi suy gẫm thì ít nhất chúng ta có thể nhận ra rằng phần của Maria khó hơn nhiều. Thật chẳng dễ dàng chút nào để bỏ qua tất cả công việc ta đang làm và tập trung sự chú ý vào người khác. Để có được sự chú ý toàn tâm với Chúa là điều không dễ nhưng là một thành quả tâm linh rất lớn.
Không có đời sống chiêm niệm, người môn đệ Đức Giêsu là chúng ta không thể loan báo Tin TN 16-C172
TMĐP- Không có đời sống chiêm niệm, người môn đệ Đức Giêsu là chúng ta không thể loan báo Tin Mừng, không thể làm chứng Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Khung cảnh ở nhà Bêtania hôm ấy thật dễ thương, nhưng cũng rất “vấn đề”. Dễ thương vì công việc đón tiếp Đức Giêsu vừa là bạn thân thiết, vừa là khách qúy của gia đình đã được phân phối một cách tuyệt vời: trong khi bà chị Mácta “tất bật lo việc phục vụ” bếp núc, chuẩn bị bữa ăn, thì cô em Maria ân cần tiếp chuyện Đức Giêsu bằng “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngưòi dậy” (Lc 10,39.40), nhưng cũng không không tránh được “vấn đề”, khi cô chị Mácta, vì qúa lo lắng chuẩn bị bữa ăn đãi người khách quá qúy đã buông nhẹ lời trách cô em trước mặt Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”.
Người viết trộm nghĩ: giá mà bà chị Mácta chịu khó kiên nhẫn một chút, không trách em gái trước mặt Đức Giêsu thì có lẽ sẽ chẳng có vấn đề gì, và cuộc tiếp đón Đức Giêsu đã hoàn hảo đến độ “chuẩn không cần chỉnh”, vì không để khách qúy một mình trơ trọi, nhưng luôn có người nhà tiếp chuyện, và đến giờ ăn, cả nhà sẽ cùng khách dùng bữa vui vẻ.
Nhưng nếu không có “vấn đề” thì vấn đề chiêm niệm và hoạt động trong đời sống Kitô hữu sẽ chẳng được giải đáp một cách sáng tỏ, rõ ràng, chính xác, bời chính Đức Giêsu, khi Ngài trả lời cô chị Mácta: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn, lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-2).
Trước hết, qua Lời của Đức Giêsu, chúng ta cần ghi nhận: bà chị Mácta đã làm việc rất tốt là chu đáo lo liệu phục vụ Đức Giêsu như khách qúy.
Mácta đã noi gương hiếu khách của Ápraham khi ông và vợ ông đã ân cần, vồn vã đón tiếp ba vị khách là sứ thần của Đức Chúa “tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày” (St 18,1). Lòng qaủng đại và hiếu khách của ông bà đã nhận được Lời Hứa của ức Chúa từ miệng ba vị khách: “Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại ngươi, và Xara sẽ có một con trai” (St 18,14).
Việc làm của Mácta rất tốt,bằng chứng là Đức Giêsu đã âu yếm gọi tên bà đến 3 lần, và không một lời trách móc. Ngài chỉ nói cho Mácta biết thêm một điều mới mà chị chưa biết, đó là chị đã lo lắng quá nhiều chuyện đến nỗi không còn thời giờ cần thiết phải có ở một người môn đệ, và thời giờ cần thiết phải có của người môn đệ theo ý muốn của Đức Giêsu, chính là “ngồi bên chân Chúa và lắng nghe Ngài dậy” (Lc 10,39).
Sở dĩ người môn đệ được mời gọi lắng nghe Chúa dạy, vì họ phải sống kết hợp mật thiết với Chúa, “phải bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”, bởi “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,7.9) và người môn đệ được sung mãn trong Người (x. Cl 2,10). Cũng thế, sứ vụ của người môn đệ Đức Giêsu là rao giảng Đức Giêsu, “khi khuyên bảo mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn hảo trong Đức Kitô” (Cl 1,28), nên người môn đệ sẽ không thể chu toàn sứ vụ khó khăn trên, nếu không có thời gian ở bên Thầy để lắng nghe Thầy dạy dỗ, chỉ bảo và để tình yêu được lớn lên trong Thầy.
Vì thế, Đức Giêsu đã không ngần ngại qủa quyết trước mặt bà chị Mácta: “Maria đã đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 42), vì chỉ tình yêu được ăn rễ sâu trong Chúa mới vĩnh cửu tồn tại.
Maria đã chọn phần tốt nhất, vì đó là phần quan trọng nhất, niềm vui lớn nhất của của người môn đệ đích thực. Chọn phần tốt nhất với Maria khi “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”, chúng ta được tháp nhập vào con người Đức Giêsu không chỉ trong các hoạt động bên ngoài, trong tương quan với mọi người, trong sứ vụ được trao phó, trong mọi hoạt cảnh vui buồn, thành công, thất bại, và ngay cả dưới chân Thánh Giá lúc “Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ hấp hối, tắt thở” mà thiên hạ ngạo nghễ nguyển rủa, khinh chê, khi chương trình cứu thế của Ngài bị coi như hoàn toàn đổ vỡ, tan nát, thất bại toàn bộ, toàn phần.
Quả thực, không có đời sống chiêm niệm, tức “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngưòi dậy”, người môn đệ Đức Giêsu là chúng ta không thể loan báo Tin Mừng, không thể làm chứng Đức Giêsu chịu đóng đinh, vì chúng ta quên chọn phần tốt nhất bảo đảm cho các hoạt động tông đồ của mình không lạc hướng, trệch đường, không ra ngoài quỹ đạo “giúp mỗi người được chúng ta rao giảng “nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1,28), bởi “chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,29) như thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại đã xác tín và chia sẻ kinh nghiệm chiêm niệm và hoạt động của ngài với chúng ta.
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đi liền ngay sau dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” mà chúng TN 16-C173
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đi liền ngay sau dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” mà chúng ta đã suy niệm Chúa nhật trước. Nếu dụ ngôn người Samari dạy chúng ta phải quan tâm đến những người xung quanh, thì câu chuyện về hai chị em ở làng Bếttania lại lưu ý chúng ta đặt trung tâm đời mình trên mối tương quan với Thiên Chúa. Từ một câu chuyện rất đơn sơ trong đời thường, Chúa Giêsu muốn giáo huấn chúng ta về sự lựa chọn ưu tiên trong cuộc đời.
Hai chị em, bà Mát-ta và bà Maria được diễn tả như hai nhật vật hoàn toàn khác nhau: Maria thinh lặng suy tư, Mátta lại nhanh nhẹn xốc vác; Maria suy tư sâu lắng, còn Mátta lại bận rộn ngược xuôi. Chúa Giêsu là trung tâm của mối quan tâm của hai chị em, vì cả hai người đều hướng về Người bằng hai cách thức khác nhau: Mátta phục vụ Chúa, còn Maria thì lắng nghe giáo huấn của Người. Cả hai người đều thiện chí và nhiệt tình đối với Chúa.
“Mátta, con lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”. Câu trả lời này của Chúa Giêsu có lẽ đã làm cho Mátta “chưng hửng”. Nhiều người chúng ta có thể cũng chung tâm trạng với bà. Làm sao để hiểu ý của Chúa qua câu trả lời này? Một số tín hữu, khi đọc đoạn Tin Mừng này, lại hiểu như sự so sánh giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động trong ơn gọi của các dòng tu. Thực ra, câu chuyện này đưa ra một so sánh chứ không phải nhấn mạnh đến một mâu thuẫn. Mátta không phải là người tồi nhất và Maria cũng không phải là người tốt nhất, nhưng bà là người đã chọn phần tốt nhất. Trong câu chuyện này, Mátta đã làm một việc tốt, nhưng Maria lại làm một việc tốt hơn. Chúa Giêsu không coi nhẹ công việc của Mátta và coi trọng việc làm của Maria. Tuy vậy, Chúa vẫn coi việc lắng nghe Lời Chúa là việc ưu tiên. Maria đã chọn đúng phần ưu tiên đó. Maria đã chọn lựa ngồi bên chân Chúa và theo Chúa Giêsu, thì chọn lựa đó tốt hơn chọn lựa của Mátta. Đây chính là trung tâm và là giáo huấn của câu chuyện.
Trong Tin Mừng theo thánh Luca, sự ưu tiên dành cho Chúa luôn được khẳng định. Trước đó, ở chương 9, từ câu 57 đến câu 61, tác giả đã ghi lại ba trường hợp đến xin theo Chúa Giêsu. Các câu trả lời của Chúa đều nêu bật sự ưu tiên của người môn đệ là đi theo Chúa và tín thác nơi Người. Những ai theo Chúa Giêsu phải dành cho người tình yêu vượt lên trên tất cả những mối liên hệ máu huyết gia đình và bạn bè. Sự từ bỏ Chúa Giêsu yêu cầu đôi khi làm chúng ta ngạc nhiên: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27).
Hành động bận rộn để tiếp khách của Mátta không phải là điều đáng phê phán. Trái lại, còn được khen ngợi. Chúng ta có thể thấy điều đó qua Bài đọc I. Lòng mến khách của ông Abraham và bà Sara đã được Chúa thưởng công. Tác giả sách Sáng thế đã mô tả sự bận rộn của hai ông bà để đón tiếp Chúa, khi Ngài hiện ra tại cụm sồi ở Mam-rê. Chứng kiến sự tiếp đãi ân cần của ông bà, Chúa đã hứa ban cho ông bà một mụn con, điều mà ông bà hằng ao ước bấy lâu. Hơn thế nữa, chính khi ân cần tiếp đón các vị khách mà ông bà được gặp gỡ Thiên Chúa. Chúa Giêsu sau này dạy chúng ta: chính khi chúng ta đón tiếp khách lạ, người nghèo, tù đày, đau khổ… là chúng ta đón tiếp Chúa, vì Người đồng hoá với những người bất hạnh này.
Thánh Phaolô lại “phục vụ” Chúa ở một phương cách khác. Thánh nhân khẳng định: chính Đức Kitô đang hiện diện giữa các tín hữu. Lòng nhiệt thành loan báo Chúa Giêsu đã giúp Phaolô có nghị lực để hứng chịu mọi gian nan đau khổ. Không những thế, ngài còn vui mừng được chịu đau khổ vì các tín hữu. Lời thánh Phaolô giúp chúng ta liên tưởng tới thánh Phêrô và các tông đồ đầu tiên, khi bị tra khảo đánh đập trước Hội đồng Do Thái, đã vui mừng và tự hào vì được chịu đau khổ vì Đức Giêsu (x. Cv 5,41).
Thông điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta, đó là trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, phải ưu tiên cho việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Thực ra, một khi lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ đối xử tốt hơn đối với tha nhân. Thực hành Lời Chúa là nền tảng và là khởi đầu cho những hành động tốt đẹp. Mátta và Maria diễn tả hai khía cạnh của cuộc sống Kitô hữu. Cả hai đều giúp chúng ta gặp Chúa và gặp tha nhân.
Chớ phàn nàn trước mặt mình đất quá hẹp, hãy lùi một bước tự khắc khoảng trống sẽ rộng ra TN 16-C174
Chớ phàn nàn trước mặt mình đất quá hẹp, hãy lùi một bước tự khắc khoảng trống sẽ rộng ra. (Khuyết danh). Đừng than thân trách phận, nhầm tưởng giầu, xinh đẹp, là tài giỏi, là thành công, có thể bạn sẽ phải hụt hẫng vì ý nghĩ đó. Cổ nhân có câu: tưởng rằng chị ngã em nâng, ai ngờ chị ngã em bưng miệng cười. Cứ tưởng phải gào to nói lớn bề trên mới nghe, phải quát nạt, đe doạ nhiều, kẻ dưới sẽ tuân thủ ! Đôi khi một số tự tin đến độ thái quá: chuyện nhỏ như con thỏ, cơm chưa ăn, gạo còn đó, làm gì phải bối rối ? Cuộc sống vẫn cho ta cơ hội, gọi là có quyền hy vọng tới niềm vui trưởng thành ở phía trước. “Ngày cá tháng tư, tôi gởi 100 tin nhắn: I love you. Tôi nhận được 99 lời giễu cợt, chê là sến, là nhảm, và một tin nhắn “mẹ cũng yêu con”.
Thất bại là mẹ thành công, nhiều người đã tự an ủi mình như thế. Chẳng qua là không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người mất hy vọng vì hoàn cảnh ! Mời đón Thầy Giêsu vào nhà, là do chị Martha, bận rộn lo chuyện ăn uống, là chị Martha, thưa Thầy về việc bức xúc cũng là người chị, nhưng gián tiếp bênh vực, khích lệ, Thầy Giêsu lại khen người em Maria. chị Martha, hẳn rất cần được cảm thông, vì chưng: em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em. Vâng, người thầy vĩ đại không thể im lặng trước sự thật: “chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất”. Vị Thầy ân cần, mở tâm trí và chạm tới trái tim, ít là Martha nhận ra phận vụ của mình là gì, Thầy Giêsu thì giúp tất cả nhận ra mình được yêu thương.
Thực ra, lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu, có ai làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin ? Thầy Giêsu ghé gia đình chị em Martha, và mang tình yêu thương đến, chứ đâu phải đến để ăn, để được phục vụ ? Giới trẻ hôm nay nói: miếng ngon giữa làng, ai đang hoàng là dại; tay ai dài người ấy với, ở đâu có người chiến thắng, ở đó có người thua cuộc ! Trong tình yêu, người ta có thể quên đi lời bạn nói, nhưng những gì bạn để lại trong lòng họ, thì không bao giờ nhạt phai. Trong tình yêu, không có cao thấp, hơn thiệt, và chỉ người biết hy sinh là người làm sáng rõ nhất về nét đẹp của “ân tình”. Martha chắc là đã không khỏi giật mình khi nghe Thầy giải thích: “con lo lắng bối rối về nhiều chuyện làm gì ?”
Không mất niềm hy vọng, điều này hẳn vẫn đang nhắc ta hãy rà soát lại những ưu tư lo lắng của mình, ta có tin, có coi việc lắng nghe, cầu nguyện, và ý thức: chỉ có một sự cần là thế nào ? Lòng nhiệt thành và tình yêu mến của hai chị em Martha – Maria, tuy khác nhau, nhưng hai chị em cùng biểu lộ niềm tin: Đức Giêsu chính là Thầy là Chúa, cần được trân trọng, đón tiếp nồng hậu. Cách suy nghĩ tiêu cực ở đời là Thiên Chúa sẽ quở trách kẻ lười biếng, đánh phạt kẻ tội lỗi, kẻ làm sự xấu, ban ơn chúc phúc, tuyên dương người đạo đức thánh thiện. Để tôn trọng danh dự hơn vật chất, cha ông chúng ta có những lời dạy chí lý: tốt danh hơn lành áo. Sống ở đời: có thể bạn nghèo, xấu, bẩn, hoặc hôi, nhưng tuyệt đối không được hèn. Đức Giêsu không chỉ có ý nhắc chị Martha, mà Ngài còn muốn nói với hậu thế: hãy chọn phần tốt nhất và sống phần tốt nhất để minh chứng việc mến Chúa yêu người của bạn.
Không mất niềm hy vọng, còn gọi là không mất niềm tin vào Đấng là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. Đức Giêsu là ơn ban, là tình yêu nhưng không đến từ Chúa Cha, Ngài đã nói tới một sự thật, có thể làm phật lòng nhiều người như câu tục ngữ: thuốc đắng giã tật. Thực ra, Đức Giêsu nói đến một việc cần, cũng là điều tốt nhất: có tình yêu Giêsu là có hạnh phúc, là có tất cả. Đức Giêsu không kêu gọi trở nên giầu có, cũng không có ý nhắc bảo phải làm những việc to lớn, việc cao sang hay hèn hạ cũng phải làm tận tâm vì tình yêu mến. Cô em Maria không nói, không phải là cô khờ dại, không phụ giúp chuyện bếp núc, cũng chưa ai khẳng định là cô lười biếng, chọn lựa ngồi bên chân Thầy Giêsu, hẳn cô là người biết sử dụng sự khôn ngoan.
Không mất đi niềm hy vọng, nhiều tài lắm mưu, hay cục mịch vụng về, túng thiếu khả năng, chúng ta vẫn phải lạc quan: đừng thở dài, hãy vươn vai mà sống, dẫu bùn ở dưới chân thì nắng vẫn ở trên đầu. Tính cách cô Martha năng động, cô Maria trầm lắng, cả hai đều thể hiện được tình yêu mến Thầy Giêsu, chỉ thế là đẹp là chuẩn rồi. Đức Giêsu chia sẻ Lời Chúa, trao đổi kinh nghiệm sống cho Maria, Ngài cũng không quên nói với Martha và chúng ta hôm nay: phần tốt nhất là làm gì, chứ không phải thụ động. Vì chưng, thành công đâu phải là cánh cửa mở ra hạnh phúc, mà hạnh phúc không phải là chìa khoá dẫn tới đích thành công, chính xác, nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn có cả thành công và hạnh phúc. Trong khi các chuyên gia về tâm lý nói rằng: khi có niềm tin, tình yêu không thể chết, dù cuộc đời chấm hết thì tình yêu vẫn còn đó. Không mất niềm hy vọng, sẽ mãi mãi cần ta phải bày tỏ niềm tín thác vào tình yêu Giêsu: phần tốt nhất là làm gì để có Chúa đồng hành, sống như thế nào để đạt tới bến bờ hạnh phúc. Amen.
Người việt hay có thói quen “khách đến nhà không gà thì vịt”. Đôi khi khách chưa tới đã tất TN 16-C175
Người việt hay có thói quen “khách đến nhà không gà thì vịt”. Đôi khi khách chưa tới đã tất bật ngược xuôi đi chợ, làm đồ ăn, thật là bận rộn. Tôi cũng từng đến nhà này nhà kia chơi và cũng thấy gia chủ bận rộn ở bếp làm đồ ăn, lâu lâu bố thí cho khách vài câu hỏi xã giao!
Thực ra, khách đến nhà không hẳn khách muốn dùng cơm. Có khi chỉ tiện ghé qua để thăm hỏi, để uống tách trà, để nghe , để tâm sự, để hiểu nhau hơn và yêu mến nhau hơn. Tình cảm con người chỉ nẩy sinh và bền vững nhờ những tiếp xúc thân tình, những chia sẻ và cảm thông. Tình cảm nảy sinh từ bàn ăn người ta gọi là chiến hữu , có qua có lại và có khi thành gánh nặng cho nhau.
Chúa Giê-su khi ghé thăm gia đình chị em Matta ở Betania cũng vậy. Ngài muốn gia chủ dành nhiều thời gian nói chuyện với khách hơn là bận rộn mâm cao cỗ đầy. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp nhận. Vì khách đến không phải vì bữa ăn. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và hiểu biết lẫn nhau. Thế nên, Chúa đã nói với Matta: “Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo”.
Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Đôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thời giờ dành cho nhau. Nhiều người luôn cảm thấy bỉ bỏ rơi ngay chính trong gia đình của mình. Rồi khi xa mặt cách lòng thì người ta lại lười đến viếng thăm nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình người bền vững là nhờ sự gần gũi, sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau. Tình người cũng giống như con đường, cứ qua lại nhiều sẽ thành đường và ít qua lại thì con đường lại sớm thành cỏ dại hoang vu.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua việc viếng thăm, qua việc giúp đỡ, qua chia sẻ với nhau trong mọi vui buồn cuộc sống. Nhất là xin Chúa cũng viếng thăm gia đình chúng ta để nhờ Chúa thì gia đình chúng ta sẽ luôn được bình an. Amen.
Khung cảnh ở nhà Bêtania hôm ấy thật dễ thương, nhưng cũng rất “vấn đề”. Dễ thương vì công TN 16-C176
Khung cảnh ở nhà Bêtania hôm ấy thật dễ thương, nhưng cũng rất “vấn đề”. Dễ thương vì công việc đón tiếp Đức Giêsu vừa là bạn thân thiết, vừa là khách qúy của gia đình đã được phân phối một cách tuyệt vời: trong khi bà chị Mácta “tất bật lo việc phục vụ” bếp núc, chuẩn bị bữa ăn, thì cô em Maria ân cần tiếp chuyện Đức Giêsu bằng “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngưòi dậy” (Lc 10,39.40), nhưng cũng không không tránh được “vấn đề”, khi cô chị Mácta, vì quá lo lắng chuẩn bị bữa ăn đãi người khách quá quý đã buông nhẹ lời trách cô em trước mặt Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”.
Người viết trộm nghĩ: giá mà bà chị Mácta chịu khó kiên nhẫn một chút, không trách em gái trước mặt Đức Giêsu thì có lẽ sẽ chẳng có vấn đề gì, và cuộc tiếp đón Đức Giêsu đã hoàn hảo đến độ “chuẩn không cần chỉnh”, vì không để khách qúy một mình trơ trọi, nhưng luôn có người nhà tiếp chuyện, và đến giờ ăn, cả nhà sẽ cùng khách dùng bữa vui vẻ.
Nhưng nếu không có “vấn đề” thì vấn đề chiêm niệm và hoạt động trong đời sống Kitô hữu sẽ chẳng được giải đáp một cách sáng tỏ, rõ ràng, chính xác, bởi chính Đức Giêsu, khi Ngài trả lời cô chị Mácta: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn, lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-2).
Trước hết, qua Lời của Đức Giêsu, chúng ta cần ghi nhận: bà chị Mácta đã làm việc rất tốt là chu đáo lo liệu phục vụ Đức Giêsu như khách qúy.
Mácta đã noi gương hiếu khách của Ápraham khi ông và vợ ông đã ân cần, vồn vã đón tiếp ba vị khách là sứ thần của Đức Chúa “tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày” (St 18,1). Lòng quảng đại và hiếu khách của ông bà đã nhận được Lời Hứa của ức Chúa từ miệng ba vị khách: “Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại ngươi, và Xara sẽ có một con trai” (St 18,14).
Việc làm của Mácta rất tốt, bằng chứng là Đức Giêsu đã âu yếm gọi tên bà đến 3 lần, và không một lời trách móc. Ngài chỉ nói cho Mácta biết thêm một điều mới mà chị chưa biết, đó là chị đã lo lắng quá nhiều chuyện đến nỗi không còn thời giờ cần thiết phải có ở một người môn đệ, và thời giờ cần thiết phải có của người môn đệ theo ý muốn của Đức Giêsu, chính là “ngồi bên chân Chúa và lắng nghe Ngài dạy” (Lc 10,39).
Sở dĩ người môn đệ được mời gọi lắng nghe Chúa dạy, vì họ phải sống kết hợp mật thiết với Chúa, “phải bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”, bởi “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,7.9) và người môn đệ được sung mãn trong Người (x. Cl 2,10). Cũng thế, sứ vụ của người môn đệ Đức Giêsu là rao giảng Đức Giêsu, “khi khuyên bảo mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn hảo trong Đức Kitô” (Cl 1,28), nên người môn đệ sẽ không thể chu toàn sứ vụ khó khăn trên, nếu không có thời gian ở bên Thầy để lắng nghe Thầy dạy dỗ, chỉ bảo và để tình yêu được lớn lên trong Thầy.
Vì thế, Đức Giêsu đã không ngần ngại quả quyết trước mặt bà chị Mácta: “Maria đã đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 42), vì chỉ tình yêu được ăn rễ sâu trong Chúa mới vĩnh cửu tồn tại.
Maria đã chọn phần tốt nhất, vì đó là phần quan trọng nhất, niềm vui lớn nhất của của người môn đệ đích thực. Chọn phần tốt nhất với Maria khi “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”, chúng ta được tháp nhập vào con người Đức Giêsu không chỉ trong các hoạt động bên ngoài, trong tương quan với mọi người, trong sứ vụ được trao phó, trong mọi hoạt cảnh vui buồn, thành công, thất bại, và ngay cả dưới chân Thánh Giá lúc “Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ hấp hối, tắt thở” mà thiên hạ ngạo nghễ nguyển rủa, khinh chê, khi chương trình cứu thế của Ngài bị coi như hoàn toàn đổ vỡ, tan nát, thất bại toàn bộ, toàn phần.
Quả thực, không có đời sống chiêm niệm, tức “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngưòi dạy”, người môn đệ Đức Giêsu là chúng ta không thể loan báo Tin Mừng, không thể làm chứng Đức Giêsu chịu đóng đinh, vì chúng ta quên chọn phần tốt nhất bảo đảm cho các hoạt động tông đồ của mình không lạc hướng, trệch đường, không ra ngoài quỹ đạo “giúp mỗi người được chúng ta rao giảng “nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1,28), bởi “chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,29) như thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại đã xác tín và chia sẻ kinh nghiệm chiêm niệm và hoạt động của ngài với chúng ta.
Trong một thế giới thực dụng coi trọng hiệu quả, thì Giáo Hội ngày càng có rất nhiều Mácta và TN 16-C177
Trong một thế giới thực dụng coi trọng hiệu quả, thì Giáo Hội ngày càng có rất nhiều Mácta và rất ít Maria. Muốn đạt tới những thành quả mục vụ, bao giờ chúng ta đặt nặng chương trình hành động, chẳng mấy ai đưa ra chương trình cầu nguyện. Thế nhưng chỉ trong cầu nguyện, chúng ta mới tìm thấy sức mạnh và tính cách chân chính để hoạt động. Mọi hoạt động sẽ mất phương hướng và lệch lạc khi chúng ta thiếu lắng nghe tiếng Chúa. Khi được hỏi về bí quyết của đời sống mình, thì Mẹ Têrêsa trả lời ngay: “Bí quyết của tôi rất đơn giản là cầu nguyện”. Nhà bác học Ampère đã đóng góp nhiều cho nền văn minh nhân loại, người ta đánh giá ông là con người vĩ đại, nhưng ông đã khẳng định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”.
Các vị thánh đều nổi bật đời sống cầu nguyện, nhưng không vì thế mà coi nhẹ đời sống phục vụ. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn văn Thuận nói, “Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai, ta hãy xem người ấy cầu nguyện thế nào? Thực tế cho thấy, một người càng sống đời cầu nguyện lại càng nảy sinh ước muốn hoạt động tông đồ, và một người hăng say hoạt động tông đồ bao giờ cũng phát sinh nhu cầu muốn rút lui vào nơi yên tĩnh để cầu nguyện. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Khuôn vàng thước ngọc của đời sống chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”. Vì thế, vấn đề không phải là chọn một trong hai mẫu người Maria hay Mácta, hoặc chọn một trong hai cách hiện diện, mà là chọn Chúa trong mọi sự. Một Hội Thánh quân bình khi có cả hai mẫu người là Mácta và Maria.
Phúc Âm cho ta thấy cả hai chị em đều chân tình đón rước Chúa vào nhà, nhưng Mácta vồn vả và tất bật hơn, vì muốn tiếp đãi Thầy bằng một bữa ăn thịnh soạn. Còn Maria lại có vẻ vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Mácta cảm thấy bức xúc và thốt lên: “Em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?” Mácta không chấp nhận Maria ngồi đó nghe lời Thầy, chị muốn lôi cô em xuống bếp để phục vụ theo kiểu của mình và theo ý của mình.
Đức Giêsu thấy cần phải giải tỏa cho Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức, nhất là giải phóng chị khỏi cái tôi hẹp hòi, cái nhìn chủ quan, tính cách độc đoán, nên Ngài lên tiếng:“Mácta ơi! Con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!…”. Mácta cứ tưởng phải làm thật nhiều, chứng tỏ mình thật hay, thành quả phải thất tốt, thì bản thân mình mới thật quan trọng. Thế nhưng Đức Giêsu cho chị biết:“Chỉ có một chuyện cần thiết thôi, và Maria đã chọn phần tốt nhất…”.
Cũng như Mácta, ai cũng muốn phục vụ Chúa, nhưng dần dần, điều chi phối mình không phải là Chúa, mà là thành công và nổi nang của bản thân. Cũng như Mácta, chúng ta huy động người khác để phục vụ cho dự tính của riêng mình. Khi thấy người khác không nhận ra sự quan trọng của việc mình làm, không thấy được thành quả mình thực hiện, là ta dễ mất bình tĩnh và không còn tế nhị. Có khi chúng ta bắt Chúa đứng về phe mình để thấy người khác không đáng gì. Có khi ta coi Chúa như bình phong để biểu diễn tài nghệ và uy thế của mình.
Chúng ta phục vụ và người khác cũng đang phục vụ. Sự phục vụ trong vai trò của mình không được làm hư hại hay hạ thấp sự phục vụ của người khác. Giá trị của phục vụ không nằm trong công việc lớn nhỏ, trong vị trí hay chức vụ, nhưng nằm trong tâm tình, ý hướng và cách thái của người phục vụ. Sự phục vụ chân chính bao giờ cũng đòi hỏi một sự tế nhị, nhường bước để tạo được hoà khí, bình đẳng và bổ túc cho nhau trong mọi công việc. Phục vụ mà gây ra bất an hay bất ổn là dấu hiệu của sự bất chính và là mầm mống của sự phân rẽ.
Nếu không tỉnh thức đủ, sợ rằng phục vụ sẽ trở thành cách thức củng cố cái TÔI. Tuy nhiên trước sau gì thì chiếc mặt nạ cũng sẽ rơi xuống trước sự thách đố của một hành vi phục vụ chân chính, là đòi hỏi tinh thần từ bỏ. Làm thế nào để ta phục vụ mà không thấy mình phục vụ. Làm thế nào để ta thật sự biết ngắm nhìn Chúa mà không ngắm nghía sự quảng đại của mình. Làm thế nào trong mọi sự, ta biết chọn phần tốt nhất như Maria để có thể đi vào trái tim của Chúa.
Cần có giờ chìm sâu trong cầu nguyện mỗi ngày để có thể sống thân tình với Đức Kitô là chính Đấng phục vụ. Nơi Ngài sự phục vụ của ta được thanh luyện nên trong sáng, được thánh hoá nên cao cả, hầu góp phần với Chúa đem lại niềm vui ơn cứu độ cho mọi người.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Ý nghĩa cuộc đời con là chính Chúa, giá trị và cùng đích đời con cũng là Ngài. Cuộc sống con sẽ đi về đâu, nếu đời con vắng Chúa? Bao việc con làm có nghĩa gì đâu, nếu lòng con xa Chúa? Bao điều con đạt được có giá trị gì đâu, nếu tâm con thiếu Chúa? Bao thứ con hiểu biết có ích chi đâu, nếu trí con nằm ngoài Chúa? Bao danh giá và địa vị có là gì đâu, nếu bản thân con không gặp Chúa? Tất cả chỉ là trống rỗng, nếu Chúa không ở trong con. Mọi cái chỉ là hư vô, nếu con không ở trong Chúa. Trong Chúa mọi sự trở thành có, ngoài Chúa mọi thứ trở thành không. Với Chúa đời con đầy hy vọng, không Chúa chẳng có gì để mong. Xin cho con mỗi ngày kề bên Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng nghe Chúa, được gặp gỡ Chúa, để từ đó biết hành động theo ý Chúa. Xin cho con biết chọn phần tốt nhất, là sống với Chúa bằng tất cả tình thân, nêu cao một tình mến giữa gian trần, trong hy sinh và dấn thân phục vụ. Amen.
Đức Kitô đến thành Bêtania, hai chị em Martha và Mary đón tiếp Đức Kitô cách nồng hậu. Cách TN 16-C178
Đức Kitô đến thành Bêtania, hai chị em Martha và Mary đón tiếp Đức Kitô cách nồng hậu. Cách đón tiếp khách nói lên tấm lòng của chủ nhà. Cả hai đều quí mến Đức Kitô, cả hai đều làm hết sức mình cho Đức Kitô cảm thấy ấm cúng, thoải mái. Cô chị lo nấu nướng, cô em ngồi dưới chân Đức Kitô lắng nghe Ngài giảng dậy. Mỗi cô diễn tả tâm tình mình một cách. Vì thế ta thường nghe nói: cha mẹ sanh người, trời sanh tánh. Tánh nết mỗi người mỗi khác.
Hai chị em rất hân hạnh được đón tiếp vị khách quí. Cả hai công việc phục vụ và lắng nghe đều đòi hỏi kinh nghiệm. Cả hai việc đều là cách giao tế xã hội trong cuộc sống thường nhật. Công việc này đôi khi tạo nên căng thẳng, lo lắng, bối rối. Căng thẳng, bối rối về thời gian, lo lắng không làm vừa lòng những gì mình muốn thực hiện. Đây chính là kinh nghiệm của Martha. Cô muốn làm những gì tốt đẹp nhất cho Đức Kitô nhưng dường như điều đó không xảy ra như lòng ước mong. Cô đến cầu cứu Đức Kitô.
‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để í tới sao? Xin Thầy bảo em giúp con một chút. Đức Kitô đáp: Martha, con lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần mà thôi. Mary đã chọn phần tốt hơn và không bị ai lấy mất’ Lc 10,41-42.
Không có chi sai lầm khi kêu cầu Chúa giúp. Thực ra, kêu cầu Chúa giúp là việc đáng khuyến khích, việc làm tốt lành. Kêu cầu Chúa giúp thể hiện niềm tin, lòng mến và tâm tình tạ ơn. Đây chính là lời cầu nguyện. Thánh Giacôbe (2,17) còn dậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, nhưng người ta có thể nhìn thấy việc làm tốt lành của đức tin. Đây là cách diễn tả lòng yêu mến Chúa cách rõ ràng nhất. Tin mà không thực hành đức ái, làm việc tốt lành là tin thụ động.
Vấn đề của Martha không phải ở việc kêu cầu Đức Kitô giúp mà chính là cô bận rộn với quá nhiều công việc. Việc kêu cầu Đức Kitô chứng tỏ hai chị em rất gần gũi, tin tưởng Đức Kitô. Cô cũng tin chắc Đức Kitô sẽ đáp lại lời cô yêu cầu. Đức Kitô nhắc cô mỗi công việc có giá trị khác nhau. Đừng chọn theo số lượng nhưng chọn theo phẩm chất, chất lượng. Quan trọng nhất là chọn việc làm mang lại phẩm chất không hư nát và phẩm chất đó không ai lấy đi được.
Ngày nay xã hội đánh giá thành công, thất bại dựa vào yếu tố làm hài lòng mong đợi đa số. Cố gắng làm hài lòng người khác làm giảm phẩm chất cuộc sống mình, bởi không ai có thể làm hài lòng mọi người. Buồn phiền, lo lắng sợ sệt là điều không thể tránh. Có những buồn phiền, lo lắng phải lẽ, nhưng hầu hết buồn phiền về những việc nhỏ, ít quan trọng, không cần phải quan tâm quá đáng. Martha lo lắng quá nhiều chuyện đến nỗi không phân biệt rõ đâu là chính, đâu là phụ. Cô quên mất Đức Kitô thăm hai chị em không phải vì thực phẩm thân xác mà chính là thực phẩm tâm linh. Đức Kitô đến mang sự sống cho tâm hồn, bình an cho con tim, và làm giầu í nghĩa cuộc sống. Mary đã chọn điều không ai có để cho, cũng như không ai có thể lấy. Điều này quan trọng hơn gấp bội những gì Martha làm để đón tiếp Đức Kitô.
Chúng ta xin ơn khôn ngoan. Chọn lắng nghe Lời Chúa, để có bình an tâm hồn.
Khi yêu ai, người ta sẽ muốn ở lại bên cạnh người mình yêu để lắng nghe người ấy, mong muốn được TN 16-C179
Khi yêu ai, người ta sẽ muốn ở lại bên cạnh người mình yêu để lắng nghe người ấy, mong muốn được phục vụ và dành hết tâm sức để phục vụ người mình yêu. Lắng nghe và phục vụ, điều nào quan trọng hơn và đâu là phần tốt hơn để diễn tả tình yêu? Lắng nghe lời Thầy Giêsu dành cho cô Mácta, ta sẽ nhận được câu trả lời cụ thể.
Hôm nay, trong khi Thầy trò đi đường, Thầy Giêsu đã ghé thăm nhà chị em cô Mácta. Cô Mácta hớn hở đón Người vào nhà. Thầy Giêsu rất yêu mến chị em nhà Mácta nên Người vẫn thường ghé thăm nhà cô như thế. Chị em cô đều rất yêu quý Thầy Giêsu và luôn sẵn sàng đón rước Người bất cứ lúc nào. Cô tất bật phục vụ: nào lo nước nôi, nào lo cơm nước. Là một chủ nhà hiếu khách, cô luôn chân luôn tay lo việc bếp núc, mong có thể thết đãi Thầy bữa cơm chu đáo. Cô thật xứng danh một phụ nữ đảm đang. Cô không chỉ tiếp đón một mình Thầy Giêsu mà có lẽ cô cũng đón tiếp các môn đệ (ít là mười hai tông đồ, và cả những người đang đi theo Thầy). Ta có thể thấy sự vất vả của cô khi một mình lo phục vụ cho bằng ấy người. Em gái cô là Maria thì đang say sưa ngồi bên chân Thầy mà nghe Thầy giảng. Lời Thầy giảng thật tuyệt vời quá, chẳng thể nào rời gót đi mà không lắng nghe. Cô có trông thấy chị mình chạy đôn chạy đáo, tất bật từ nãy giờ không? Cô cứ ngồi bên chân Thầy như thế mà không để ý đến nỗi vất vả của chị mình sao?
Quá mệt và lo lắng vì một mình làm không xuể bằng ấy việc, cô mới tiến lại gần Thầy Giêsu mà thưa: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40). Trong lời ấy như có sự cầu xin và trách móc. Cô phục vụ vì yêu mến Thầy, muốn phục vụ Thầy cho tận tình chu đáo. Một mình cô bận rộn, vất vả mà cô em gái lại được thảnh thơi ngồi bên chân Chúa, đến lúc này cô mới tủi thân, mới thưa với Thầy chăng! Cô yêu mến Thầy nhiều lắm và chắc chắn em của cô cũng rất yêu mến Thầy. Nghe cô nói, Thầy Giêsu đáp lại: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” (Lc 10, 41). Thầy gọi cô như để kéo cô ra khỏi nỗi lo toan, ra khỏi những bận tâm đang làm cô mệt mỏi. Cô đứng trước mặt Thầy, đặt bình nước xuống hay đặt bất cứ thứ gì đang làm cô bận tay để chỉ nghe Thầy nói. Đứng lại bên Thầy, dừng lại nghe Thầy nói, cô mới có thời gian để lau những giọt mồ hôi đang vã ra, tay chân cô mới được nghỉ ngơi đôi chút. Đến lúc này cô mới hiện diện bên cạnh Thầy, thật gần, dù chỉ để trách móc Thầy, để giãi bày nỗi lòng với Thầy.
Thầy thấu hiểu nỗi băn khoăn của cô chứ. Thầy thấy tất cả những việc cô làm. Thầy yêu thương cô và Thầy không muốn cô bị công việc phục vụ làm cho kiệt sức. Thầy quý trọng tấm lòng hiếu khách của cô nhưng điều quan trọng hơn là Thầy muốn cô ở lại bên cạnh Thầy. Thầy có thể dùng tạm một vài miếng bánh và uống một chén nước thôi cũng được, không cần mâm cỗ gì cho sang. Cô em đã phản ứng như thế nào trước lời trách móc của chị mình? Thánh sử Luca không thuật lại cho ta biết nhưng chỉ giúp ta lắng nghe lời thầy Giêsu khuyên bảo cô chị Mácta: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 42). Chỉ có một điều cần thiết mà thôi đó là ngồi bên Thầy để lắng nghe lời Thầy. Dành thời gian ngồi lại bên Chúa chính là nền tảng cho tất cả mọi sứ vụ. Vì bận tâm lo việc phục vụ và bị nỗi lo lắng làm cho mệt mỏi mà cô Mácta không còn thì giờ ngồi lại bên Thầy Giêsu. Điều làm Thầy vui lòng chính là thái độ lắng nghe. Nếu ta ghé thăm nhà một người thân mà họ cứ mải miết làm việc này việc kia (dù đó là việc làm cơm đón khách) mà không hề ngồi lại cho ta hỏi thăm sức khỏe hay chuyện trò thân thiết thì ta có vui không? Chắc chắn ta chỉ muốn trò chuyện thân thiết với họ hơn là thấy họ vất vả tất bật vì ta. Trong lời thân thưa của mình, cô Mácta đã thể hiện nỗi bất bình của mình. Cô bực mình đứa em không biết thương chị, buồn vì Thầy Giêsu không để ý đến mình. Cô bị công việc bù đầu và không còn thời gian để yêu mến Chúa Giêsu và lắng nghe Ngài nữa. Maria không bị công việc làm cho bận lòng, cô chỉ ngồi bên chân Chúa và nghe lời Chúa với lòng yêu mến thiết tha. Cô có đáng trách không khi không để ý đến chị mình? Chắc chắn cô không cố ý ngồi lì ra đấy mà tránh việc nhưng cô muốn được ở bên cạnh người mình mến thương, muốn dành thời gian để ở lại tiếp đón Thầy Giêsu. Cô hướng trọn ánh mắt và tâm hồn vào khuôn mặt Thầy và chăm chú lắng nghe lời Thầy và không bị điều gì khác chi phối. Niềm vui ban đầu vì được thầy ghé thăm của Mácta đã bị nỗi lo toan và mỏi mệt giết chết. Chỉ đến khi được Thầy kéo ra khỏi những công việc ngổn ngang ấy, cô mới nhận ra cô cần ở bên cạnh Thầy, vì Thầy muốn ghé thăm cô. Còn Maria, sau khi đã no say lời Chúa thì cô cũng vui vẻ phụ giúp chị mình.
Lạy Chúa Giêsu! Mỗi ngày, xin cho con biết dành giờ để ở lại bên Chúa, để được Người dạy dỗ và tiếp thêm năng lượng cho con. Để khi đã thỏa lòng, con biết phục vụ với tâm thế của một người được Chúa sai đi. Amen.
Trên đường đi rao giảng, Đức Giêsu cùng các môn đệ ghé vào một làng kia, một người phụ nữ TN 16-C180
Trên đường đi rao giảng, Đức Giêsu cùng các môn đệ ghé vào một làng kia, một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô ấy có một người em gái tên là Maria. Trong lúc Mácta tất bật lo việc phục vụ thì cô Maria ngồi ì bên chân Chúa mà nghe giảng. Mệt quá, Mácta chạy đến bảo Thầy nói với em cô lại giúp mình một tay, nhưng Thầy Giêsu cho rằng cô lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thiết thôi và phần ấy Maria đã chọn.
Nhà có khách, ai trong chúng ta cũng chuẩn bị sao cho tươm tất, hiếu khách, không để khách cười chê. Câu chuyện đón khách của chị em nhà Mácta hôm nay mở ra cho ta điều gì? Vị khách hôm nay của hai chị em Mácta và Maria thật đặc biệt, một vị khách khá quen thuộc – Thầy Giêsu. Vì quen thân nên Mácta mới có thể chạy đến mà cầu cứu thầy Giêsu như vậy chứ: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40). Tại sao Mácta không nói thẳng với em mình mà lại chạy đến với Thầy Giêsu? Phận nữ nhi lo việc bếp núc, phục vụ bữa ăn là chuyện cần làm. Bởi đó, Mácta trách Maria kể cũng phải. Nếu có Maria cùng làm, Mácta sẽ đỡ vất vả và vui vẻ hơn. Nhưng dường như Thầy Giêsu lại đứng về phía Maria. Tại sao vậy?
Thực ra trong chuyện này, chúng ta chẳng thể nói ai đúng ai sai, ai là người đáng khen, ai là người đáng trách. Chúa Giêsu không hề có ý gạt Mácta sang một bên, không hề coi thường việc phục vụ của Mácta, Ngài thường rất hài lòng với cách phục vụ của cô. Bởi đó, Ngài và các môn đệ khi có dịp đi qua làng này đều ghé vào nhà hai chị em để nghỉ chân. Có thể nói, Mácta rất quý Thầy Giêsu. Biết Thầy đến làng, cô vội chạy đi đón, mời Người về nhà nghỉ chân. Trong lúc Thấy nghỉ chân, cô tranh thủ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi, làm món gì đó cho Thầy trò lót dạ. Cô thừa biết, Thầy Giêsu và các môn đệ đã thấm mệt sau một đoạn đường dài, hẳn bụng đã đói. Xem ra, cách nghĩ, cách phục vụ của Mácta thật chu đáo, không ai chê được. Cô muốn dành những điều tốt nhất cho Thầy và cả các môn đệ của Người. Cô là một người phụ nữ đảm đang, biết quán xuyến, ân cần, tử tế và rất hiếu khách. Còn Maria thì sao?
Khác với chị của mình, không biết tự lúc nào Maria đã ngồi sát bên chân Chúa để nghe lời Người. Có lẽ đã khá lâu. Lâu đến nỗi Mácta phải sốt ruột chạy đến kháo với Thầy, xin Thầy bảo em cô giúp mình một tay. “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 42). Đó là điều Thầy Giêsu đã tuyên bố. Tại sao vậy? Thầy Giêsu nhìn thấy sự tất bật, vất vả lo lắng của Mácta nhưng điều Người muốn lại là điều khác. Người muốn được lắng nghe. Chắc hẳn, Maria đã rất chăm chú nghe từng lời của Thầy Giêsu. Người cảm thấy rất vui vì có Người ngồi lắng nghe mình. Quả thật, giả như Maria cũng chạy vào bếp tất bật lo việc phục vụ cùng chị thì ai sẽ là Người ngồi tiếp chuyện với Thầy đây. Có thể lúc ấy, em của các cô là Ladarô không có nhà. Vậy Maria ngồi đó nghe Chúa giảng là điều hợp lý. Maria đã chọn phần tốt nhất, và Thầy Giêsu rất hài lòng về điều đó.
Còn chúng ta? Chúng ta chọn cách nào trong việc đón tiếp Chúa? Cách của Maria hay của Mácta? Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta đón tiếp Chúa với thái độ và tâm tình nào? Chúng ta có đang háo hức, nôn nóng mỗi khi có Chúa đến thăm nhà? Lắng nghe Lời Chúa là thái độ rất được Chúa Giêsu ủng hộ. Người muốn chúng ta để tâm đến Lời của Người. Để tâm đến Lời là để tâm đến chính Người. Người rất vui khi có ta đến bên, ngồi lắng nghe những tâm tình của Người, lắng nghe nỗi lòng của Người. Người ngỏ lời với những ai thật sự yêu quý Người. Như xưa Chúa đã nhắn nhủ với Mácta nay Người cũng nhắn nhủ với mỗi người chúng ta: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42). Mỗi người chúng ta hãy dành cho Chúa sự quan tâm cách đặc biệt, hãy dành giờ lắng nghe Người để biết Người muốn gì và làm theo lời Người dạy bảo; đừng để mình bị chi phối quá nhiều bởi những cái thứ yếu, nhưng trên hết hãy đặt việc lắng nghe và thực hành lời Chúa là điều chính yếu nhất.
“Khi ấy, Đức Giê-su đi vào một làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà” ( x. Lc 10, 38-42 )
Ta có khuynh hướng mời Chúa viếng thăm nơi nào ta cảm thấy tương đối thoải mái, đã được TN 16-C181
Ta có khuynh hướng mời Chúa viếng thăm nơi nào ta cảm thấy tương đối thoải mái, đã được chọn lọc và viễn tưởng rằng sẽ có một sự phản hồi tích cực từ phía Chúa. Tuy nhiên, muốn chạm đến sự thân mật với Ngài, ta buộc phải mời Ngài ghé thăm căn nhà của mình và đồng ý cho Ngài quan sát tất cả những gì diễn ra trong đó. Bao gồm ánh sáng và bóng tối, sự tích cực lẫn tiêu cực, những gì ta đang che đậy, thậm chí cả những con sóng nội chiến của ta với Chúa và với đồng loại.
Chúng ta sẽ được khai mở những thực tại trần trụi khi ngỏ ý mời Chúa ghé thăm căn nhà của mình. Nhìn vào ngôi nhà tại Bêtania, sự gặp gỡ bên ngoài cho thấy một Mác-ta nhiệt tình, hiếu khách, đảm đang và ngỡ rằng cô thật hoàn hảo trong cách phục vụ. Tuy nhiên, đó chỉ là những nét phác thảo thô sơ về chân dung của một Mác-ta đầy khiếm khuyết mà thôi. Đi sâu vào căn nhà ấy là những xáo trộn âm ỉ trong suy nghĩ, sự không bằng lòng với thực tại và những khó chịu được cô che lấp một cách rất khéo léo. Nhưng với tất cả sự tinh tường, Chúa Giê-su phô bày cho Mác-ta thấy rõ những bóng tối còn ẩn khuất trong tâm hồn cô. Những biểu hiện của một cái tôi ganh tị, tôn dương chính mình dần được tỏ lộ để đưa đến một sự thật “tôi là”. Chính trong ánh sáng hiện diện của Chúa, chúng ta gặp được cái tôi đích thực nơi mình, nhìn nhận cho chính xác mình thực sự là ai. Điều đó cũng mang lại một thực tại đau đớn khi phải đối diện với bản ngã khủng khiếp nơi mình. Tuy nhiên, nó có sức biến đổi và chữa lành những khuyết tật trong tâm hồn ta nhờ việc khiêm tốn để Chúa chỉ dạy.
Bên cạnh đó, việc mời Chúa đến nhà là cơ hội để nhận được những ân sủng của Người. Để đổi lấy sự hiện diện của Chúa không phải điều dễ dàng. Do đó, ta phải nỗ lực mời gọi Chúa lưu lại nhà mình bằng đủ mọi cách. Mác-ta cho Chúa niềm vui bằng sự phục vụ với những bối rối bên ngoài, thì Maria lại chọn cách chịu xâu xé bởi những chiến đấu về sự “vô dụng” trong chính nội tâm của mình. Ở thời điểm này, Maria bị giằng co giữa việc dành thời gian cho Chúa và những công việc ngổn ngang ngoài kia. Ngồi nghe Chúa nói, nhưng không quên để ý đến sự tất bật của chị mình. Bấy giờ, sự quan tâm của Chúa bị xé toạc làm đôi, nửa cho Chúa nửa kia cho sự “cầu cứu” của chị. Lúc này, cảm giác về sự vô nghĩa khi ngồi đó mà chẳng làm gì khiến Maria rơi vào trạng thái chiến đấu nội tâm: chọn Chúa hay chọn công việc? Trong hai thái cực đó, Maria quyết định dành phần ưu tiên cho Chúa. Vì cô trung thành với sự lựa chọn của mình nên tiếng nói của Chúa dần thắng thế những lo loan, ưu phiền. Chính trong sự hiện diện “vô ích” này mà Maria làm vui lòng Chúa và được mặc khải cho biết đó mới là sự khôn ngoan và ưu tú nhất cô dành được. Phần Chúa, Ngài biết rõ những diễn biến trong cõi lòng của mỗi người. Dù hoạt động hay bất động, tinh tế hay vụng về, nhưng tất cả đều khiến Ngài hài lòng vì chúng ta đón tiếp Ngài một cách chân thành, đơn sơ nhất. Người đã ở lại và ban cho căn nhà của họ tràn đầy niềm vui và ân sủng.
Cũng như ngôi nhà của Mác-ta và Maria, tâm hồn chúng ta là nơi chứa đựng tất cả những gì “ta là”. Đừng che giấu những góc khuất nơi mình vì sợ phải đối diện với sự ghé thăm của Chúa. Nếu không đủ khiêm tốn mời Chúa vào nhà, ta vẫn mãi sống với những giới hạn và cao ngạo viển vông nơi mình. Lúc đó, Chúa sẽ lướt qua cánh của nhà mình mà không chút phản hồi nào. Đừng để căn nhà của mình trở nên hoang tàn vì vắng bóng sự hiện diện của Chúa.
Cầu nguyện và hoạt động chắp lại với nhau thành đôi cánh giúp người tín hữu trở nên hoàn thiện TN 16-C182
Cầu nguyện và hoạt động chắp lại với nhau thành đôi cánh giúp người tín hữu trở nên hoàn thiện, gặp được Chúa, đến với tha nhân, kiện toàn bản thân.
Abraham và Sara
Tổ phụ Abraham và Sara là đại diện cho lối sống này. Bài đọc I mô tả khi Abraham ngưới mắt lên thấy ba vị khách quí, ông sấp mình xuống van xin để được đón khách vào nhà, rồi gọi vợ là Sara: “Em ơi ra làm bánh, tiếp khách mau, anh đi bắt bê non làm thịt đãi khách” (x. St 18,). Chính ông đứng hầu khách nữa.
Tiếng cười vang dội sau bữa ăn vì tin vui đến. Một trong ba vị khách nói, bà sẽ sinh con và trở thành mẹ của nhiều dân tộc. Nghe tin ấy Bà cười phá lên. Vì dưới cái nhìn của chính bà thì lời này là không thể, vì ông đã già và bà đã lão. Nên sau này khi sinh con, ông bà đặt tên cho là “Anh cười”, tiếng Do thái là Isaac. Đây là kết quả của cầu nguyện và hoạt động song hành với nhau. Thiên Chúa hứa ban cho ông bà.
Marta và Maria
Hai phụ nữ này quê ở Betania, bà con với Chúa Giêsu. Hai bà với hai cách hành xử được người ta qui chiếu về hai cách sống và ơn gọi của người Kitô hữu là: chiêm niệm và cầu nguyện. Thánh sử Luca miêu tả họ như sau: Maria thì ngồi dưới chân Chúa “lắng nghe lời Người”, trong khi Marta bận rộn với nhiều việc phục vụ (x. Lc 10,39-40), nàng bận bịu tới độ hướng tới Chúa Giêsu và nói: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm gì sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với” (Lc 10, 40). Nhưng Chúa Giêsu dịu dàng quở trách: “Marta, Marta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi, là con hãy nghỉ ngơi, và ngay cả điều quan trọng nhất, con hãy nghỉ ngơi bên cạnh Thày, chiêm ngắm Thầy và nghe Thầy nói” (Lc 10, 41).
Chính lời trên của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Marta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Marta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, thì lại được khen là người khéo chọn “phần tốt nhất”. Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa.
Áp dụng
Phần lớn trong chúng ta, được Thiên Chúa đã kêu gọi sống như “Marta”. Nhưng cũng đừng quên rằng Chúa muốn chúng ta ngày càng như “Maria”: Đức Giêsu Kitô cũng mời gọi chúng ta “chọn phần tốt hơn” và không để cho bất cứ ai lấy mất.
Chúng ta nên nhớ rằng điều quan trọng nhất không phải là những gì chúng tôi có thể làm, nhưng là Lời Chúa soi sáng đời sống chúng ta, và do đó nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà việc chúng ta làm chất chứa tình yêu.
Chúa Giêsu không có nói suông, Người đã đi bước trước làm mẫu gương cho chúng ta trong đời sống lao động và cầu nguyện. Lần giở lại các trang Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra một ngày ở Caphácnaum được sánh ví như “ngày làm việc mẫu” của Chúa Giêsu. Trong ngày đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ làm việc liên lỉ, rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng,… mà còn không ngừng kết hiệp với Chúa Cha qua đời sống cầu nguyện. (Mc 1, 29 – 39)
Không chỉ làm việc, Chúa Giêsu còn tìm mọi thời gian để cầu nguyện. Có thể nói, cầu nguyện là điều không thể thiếu trong đời sống tại thế của Chúa Giêsu. Người làm việc không ngừng, nhưng cũng kết hiệp với Chúa Cha cách liên lỉ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn kết hiệp với Chúa Cha, trò chuyện tâm sự với Cha của Người. Cầu nguyện không ngừng nhất là trong những công việc quan trọng cần đến sự cố vấn của Chúa Cha luôn là điểm nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chính vì thế, đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu là mẫu gương cho mỗi người chúng ta.
Chuyện kể rằng: Có một chàng thanh niên thông minh trí thức đi tìm thầy để học thêm, nhưng để gặp được thầy, anh phải qua sông, mà phương tiện chỉ là thuyền đò. Anh bước xuống thuyền của một ông già. Anh nhìn thấy trên mái chèo của ông lái đò, mái bên phải có hàng chữ (cầu nguyện), mái chèo bên trái mang chữ (lao động). Chàng trai nhếch mép cười vào nói: Bố già ơi! Lẩm cẩm chậm tiến quá! Đã lao động thì cần gì phải cầu nguyện nữa.
Ông lái đò chẳng nói gì cả, ông gác mái chèo cầu nguyện lên mạn thuyền và chỉ chèo với cái mái chèo lao động. Ông chèo, chèo mãi … nhưng thuyền cứ quay tròn chứ không tiến lên phía trước. Chàng trai hoảng hồn tưởng đò sắp đắm, liền kêu to: Ông ơi, ông làm gì vậy, sao ông lại chèo có một mái, ông chèo cả hai mái cho cân mau, thuyền đắm bây giờ. Ông nhẩn nha nói: thì cậu chẳng bảo tôi rằng, đã lao động thì cầu gì phải cầu nguyện nữa.
Ông bà anh chị em thấn mến, đời sống người kitô hữu chúng ta được ví như một chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả thế gian này, để tới bến nước thiên đàng chúng ta rất cần hai mái chèo là “lao động” và “cầu nguyện”. Hai mái chèo cùng kết hợp hài hoà với nhau, thì khi điều khiển con thuyền mới mau cập bến. Nếu chỉ lao động làm ra nhiều của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống mà không nghĩ tới việc cầu xin cùng Chúa, thì cũng như chèo đò với một cái mái chèo. Như mẩu chuyện trên, để từ bờ bên này sang bờ bên kia, cập bến bình an, đò cần phải hai mái chèo, chèo với một mái chèo “lao động” thì cái xuồng sẽ cứ mãi quay tròn, không thể tiến về phía trước để cập bến được.
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách TN 16-C183
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách.
Cả hai cùng đón tiếp Chúa, nhưng Chúa lại nhẹ nhàng trách Matta quá tất bật, bận tâm phục vụ và khen Maria ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Lời Chúa. Phải chăng qua đó Chúa đề cao con đường chiêm niệm, cầu nguyện hơn là sống hoạt động tông đồ bên ngoài? Và như thế, có gì mâu thuẫn với lời Chúa dạy phải cứu giúp anh em trong “dụ ngôn người Samatitanô nhân hậu” của Tin mừng tuần trước?. Thực ra, tiếp đón Chúa Giêsu như hai chị em Matta và Maria là đáng quý. Cả hai đã dành cho Chúa một sự tiếp đón nhiệt tình, thân mật. Matta lo việc bếp núc, chuẩn bị bữa cơm. Maria ngồi dưới chân Chúa lắng nghe. Mỗi người một cách, cố gắng làm vui lòng người khách đặc biệt với dáng vẻ uy nghi cao quý siêu thoát đang ghé thăm gia đình. Chúa Giêsu tán thưởng cả hai. Cả hai đã minh hoạ đầy đủ trọn vẹn Lề Luật của Thiên Chúa là kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Hành động của Matta và Maria là hai yếu tố cần thiết, nhưng có sự cần thiết hơn trước khi hành động là lắng nghe.
Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.
Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: “Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Matta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: “Matta, Matta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất“. Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa.
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. “Phần hơn” của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài”. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Ðiều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: “Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28); “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35). Điều cốt yếu ở đây không phải là ưu tiên về thời gian (làm cái này trước rồi làm cái kia sau) hay số lượng (làm “việc Chúa” nhiều, làm “việc đời” ít)… nhưng ưu tiên về giá trị. Khi làm việc gì, nếu mình tận tình làm việc cho đẹp lòng Chúa, như Chúa muốn, thì mình vẫn đang chọn phần tốt nhất như cô Maria bởi vì mình vẫn đang qui chiếu về Chúa, đang lắng nghe lời Chúa và thi hành thánh ý Chúa về đời mình. Thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725). Đời sống Kitô hữu đích thực vừa là một hoạt động có chiêm niệm vừa là một chiêm niệm có hoạt động. (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 23). Cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Cần thực hiện cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống hàng ngày.
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.
Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.
Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.(Mana)
Trong cách so sánh có dạng nhất, hơn – kém, và bằng. Nói văn vẻ, đó là so sánh cực cấp, tương TN 16-C184
Trong cách so sánh có dạng nhất, hơn – kém, và bằng. Nói văn vẻ, đó là so sánh cực cấp, tương đối và đồng đẳng.
Trong câu chuyện về hai chị em Mácta và Maria (Lc 10:38-42), Chúa Giêsu đã nói về cô em Maria: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã CHỌN PHẦN TỐT NHẤT và sẽ không bị lấy đi.” Chúa Giêsu xác định việc lắng nghe lời Ngài là PHẦN TỐT NHẤT. So sánh cực cấp nghĩa là tuyệt đối, không gì hơn nữa. Dĩ nhiên Ngài không có ý chê Mácta, chê cách hoạt động.
Mỗi hoa mỗi vẻ, mỗi người mỗi tính. Hai chị em gái là hai con người, với hai động thái, hai phong cách phục vụ. Cả hai người đều là phụ nữ, phải chăng Thiên Chúa đã tiền định tinh thần phục vụ nơi phụ nữ? Rất có thể, nhưng chúng ta lại có xu hướng coi thường phụ nữ, coi thường những người phục vụ. Nếu vậy thì trái ngược với ý Chúa. Cách nào cũng cần, nhưng vấn đề là lúc nào nên áp dụng cách nào.
Thánh Luca cho biết rằng Chúa Giêsu vào làng kia – tức là làng Bêtania. Ngài vào nhà người thân quen, nhà này có ba chị em là Mácta, Maria và Ladarô. Cô Mácta đón Ngài vào nhà. Sau đó, cô em Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Ngài dạy bảo. Không biết hôm đó cậu Ladarô đi đâu mà không thấy xuất hiện. Cô Mácta tất bật lo việc phục vụ, nấu nướng.
Có lẽ làm một mình cũng mệt, thế nên cô nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Nhưng Ngài nói ngay: “Mácta ơi! Cô băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Chắc hẳn Chúa Giêsu không có ý chê những người lo việc bếp núc, lo phục vụ ở “hậu trường,” mà Ngài chỉ nhắc khéo là “đừng thái quá.” Nếu quá chú trọng cái phụ thì sẽ xao lãng cái chính, cái cần hơn.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy rằng nếu không có những người dựng cảnh sân khấu thì vở diễn không thể ra mắt công chúng, không có người lồng tiếng thì bộ phim không thể trình chiếu, không có người nấu nướng thì không thể có bữa tiệc ngon,… Có rất nhiều dạng khác cũng vậy. Công việc phụ mà thực sự quan trọng. Đặc biệt về tâm linh, phục vụ là một ơn gọi. Bất cứ ai cũng có ơn gọi này. Chúa Giêsu luôn đề cao tinh thần phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mt 20:26; Mc 10:43)
Nói chung, Chúa Giêsu muốn mọi người “phục vụ chứ KHÔNG hưởng thụ.” (Mt 20:28; Mc 10:45) Nhưng cũng phải lưu ý đến tinh thần phục vụ: Tận tâm vì Chúa chứ không vì thứ gì khác. Vả lại, tín nhân không thuộc về thế gian này, mà thuộc về “cõi trên” – Thiên Đàng, Nước Trời. Cuộc đời này chỉ là cõi tạm, là hành trình quá độ, là “ngưỡng vượt qua” để vào cõi vĩnh hằng, về quê hương đích thực.
Cha sinh con, trời sinh tính. Chẳng ai giống ai, ngay cả anh chị em trong một gia đình cũng mỗi người một tính nết, thậm chí phong cách còn trái ngược nhau. Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) nhận định: “Chúng ta phải im lặng trước khi có thể lắng nghe. Chúng ta phải lắng nghe trước khi có thể học hỏi. Chúng ta phải học hỏi trước khi có thể chuẩn bị. Chúng ta phải chuẩn bị trước khi có thể phụng sự. Chúng ta phải phụng sự trước khi có thể dẫn đường.”
Thiên tài đa năng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nói: “Đời tôi chẳng là gì nếu tôi không còn hữu ích cho người khác.” Sống hữu ích cho người khác là sẵn sàng giúp người khác khi cần, tức là phục vụ. Phụng sự là phục vụ hết lòng: phụng sự Thiên Chúa, phụng sự nhân loại, phụng sự tổ quốc, phụng sự lý tưởng,… Đó là dạng phục vụ “cao cấp,” phải có lòng khiêm nhường mới khả dĩ phục vụ vô điều kiện.
Tinh thần phục vụ của Tổ phụ Ápraham dành cho khách đến nhà được kể lại trong trình thuật St 18:1-10 rõ ràng: Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!” Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”
Theo phong tục của người Do Thái, chủ nhà rửa chân cho khách khi họ tới nhà. Chúa Giêsu đã dùng phong tục này để dạy chúng ta bài học yêu thương và phục vụ trong khi Ngài cùng ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ, và đó là Bữa Tiệc Ly.
Không dễ thực hiện việc rửa chân mặc dù đó là điều bình thường. Quả thật, những gì xem chừng là đơn giản nhất thì lại phức tạp nhất. Những chuỗi DNA rất đơn giản mà lại liên kết thành sự sống kỳ diệu, con người không thể làm được, có sẵn đó mà tìm hiểu cũng chỉ hiểu phần nào, không thể thấu suốt. Thế mà vẫn có những người không muốn tin vào Thiên Chúa. Kỳ quặc hay cố chấp?
Với lòng hiếu khách, ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara, bảo bà lấy ba thúng tinh bột làm bánh đãi khách. Còn ông đi bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ làm thịt. Ông còn lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách. Ông đứng hầu dưới gốc cây khi khách dùng bữa. Phong cách phục vụ của ông Ápraham vừa chu đáo vừa khiêm tốn. Thật đáng noi gương ông!
Khi khách hỏi về bà Sara, ông nói rằng bà xã ở trong lều. Khách cho biết điều quan trọng: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai.” Vô cùng kỳ lạ, bởi vì lúc này ông Ápraham đã 75 tuổi và bà Sara đã 70 tuổi. Hai vợ chồng già còn son này cũng vẫn cầu xin có con từ lâu lắm rồi. Lời hứa kia là điều quá lạ lùng đối với phàm nhân, nhưng đối với Thiên Chúa thì chẳng lạ lùng gì, bình thường mà thôi.
Thánh Vịnh gia nói: “Van nài liền được cứu nguy, đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài.” (Tv 22:6) Bởi vì “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề.” (Tv 34:19) Vợ chồng ông Ápraham luôn tín thác vào lòng Chúa thương xót, và họ đã được mãn nguyện nhờ họ tin cậy vững lòng.
Ai là người được vào ngụ trong nhà Chúa và được ở trên núi thánh của Ngài? Thánh Vịnh gia cho biết: “Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã.” (Tv 15:2-3) Những người ăn ngay nói thật thì không dám mon men tới đường lối xấu xa. Chắc chắn như vậy. Họ “coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay.” (Tv 15:4-5a) Người Việt rất thực tế khi ví von: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.”
Những người công chính là những người của Chân Lý, Công Lý, và Bát Phúc. Họ luôn hết lòng phụng sự Thiên Chúa, với tư cách là con cái của Ngài, chắc chắn rằng họ “không hề nao núng, chẳng hề chuyển lay bao giờ.” (Tv 15:5b) Điều quan trọng và diễm phúc là họ đã có “thẻ xanh” và sẽ chính thức trở nên Công Dân Nước Trời khi hoàn tất hành trình trần thế.
Là người đã có kinh nghiệm, Thánh Phaolô chân thành chia sẻ: “Giờ đây, TÔI VUI MỪNG ĐƯỢC CHỊU ĐAU KHỔ VÌ ANH EM. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi XIN MANG LẤY VÀO THÂN CHO ĐỦ MỨC, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người PHỤC VỤ Hội Thánh, theo KẾ HOẠCH Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi PHẢI RAO GIẢNG lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa.” (Cl 1:24-26)
Phụng sự Thiên Chúa là như vậy, phụng sự Ngài qua việc phục vụ Giáo hội và phục vụ tha nhân. Mục đích phục vụ được Thánh Phaolô giải thích: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô.” (Cl 1:27-28)
Hoàn thiện để nên thánh. Nhưng nên thánh một mình là ích kỷ, Ngài muốn chúng ta phải cùng dìu nhau lên Đỉnh Tình Yêu – cả Tabor và Canvê. Tương lai là Công Dân Nước Trời thì phải như vậy. Ước gì mỗi chúng ta đủ mạnh dạn và hãnh diện nói được như Thánh Phaolô: “Chính vì mục đích ấy mà tôi phải VẤT VẢ CHIẾN ĐẤU, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.” (Cl 1:29) Đó là phong cách phục vụ lẫn nhau, phục vụ vì Thiên Chúa chứ không vì bất cừ điều gì khác.
Phục vụ có nhiều dạng, quan trọng là cách phục vụ. Nhiệt thành và tự nguyện chứ không miễn cưỡng. Tài năng là món quà đi kèm với bổn phận phụng sự thế giới, đặc biệt là vinh danh Chúa chứ không vinh danh mình, bởi vì tài năng không phải tự mình có được, mà do Thiên Chúa trao ban. Nếu không được Thiên Chúa tác động, hướng dẫn và trợ giúp, không ai có thể làm được gì. Thật vậy, chính Chúa Giêsu xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)
Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn khôn ngoan và giúp chúng con phân định theo ý Ngài, biết chọn điều tốt nhất, hành động theo khả năng Ngài trao ban. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria rước Chúa vào TN 16-C185
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria rước Chúa vào nhà mình. Nhưng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu sa, chúng ta phải trở về bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, vì có sự liên kết với nhau. Nếu chúng ta còn nhớ, trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, một người thông luật đến hỏi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được cuộc sống đời đời?” Chúng ta hãy tự hỏi còn câu hỏi nào quan trọng hơn câu hỏi này không! Thế nhưng nhiều Ki-tô hữu thờ ơ hay cho rằng không đáng quan tâm. Họ nghĩ rằng cuối cùng đến giờ chết, tất cả đều được cứu độ không cần biết đã sống như thế nào hay đã làm gì. Thái độ này không phải là sứ điệp mà chúng ta tìm thấy trong Tin mừng. Chúa Giê-su đã có lần tuyên bố: “Ta bảo thật cho các ngươi biết, nhiều người sẽ cố gắng tìm vào, nhưng không vào được.” (Lc. 13, 23-24) Ngoài ra, trong các dụ ngôn về Nước trời, Chúa Giê-su dạy chúng ta một cách minh bạch phải làm gì và sống như thế nào để được hạnh phúc Nước trời. Cho nên chúng ta phải lắng nghe và tuân thủ lời Chúa dạy một cách nghiêm trọng. Tôi nghĩ rằng là những Ki-tô hữu, hằng ngày chúng ta phải tự hỏi: “Lạy Chúa, hôm nay con phải làm gì hay sống như thế nào để được sống đời đời?”
Để trả lời cho câu hỏi: “Phải làm gì để được cuộc sống đời đời?”, Chúa Giê-su đã hỏi người thông luật: lề luật đã nói gì về điều này. Người thông luật có câu trả lời rất chính xác: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình.” Sau đó người thông luật đã hỏi Chúa Giê-su cho ông ta một định nghĩa về anh em là những ai, và dẫn đến dụ ngôn người Samaria nhân hậu.
Tôi tin rằng thánh Luca có một chủ đích khi đặt bài Tin mừng hôm nay ngay sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu. Đó là muốn diễn tả ý nghĩa phần đầu của giới luật quan trọng nhất: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi.” Chúng ta phải chú ý đến điểm nay: Tin mừng không nói Mát-ta không yêu mến Chúa trong khi Maria thì có. Bà Mát-ta yêu mến Chúa và bà thể hiện lòng yêu mến Chúa qua việc phục vụ, sửa soạn bữa ăn thịnh soạn cho Người và các môn đệ, như dụ ngôn người Samaria nhân hậu dạy phải giúp đỡ, săn sóc người khác, và đó là điều bà Mát-ta đang làm. Nhưng Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta rằng thỉnh thoảng chúng ta phải ngưng bận rộn và phải chú tâm đến Chúa, phải đó là điều bà Maria đang làm. Chú tâm còn được gọi là “cầu nguyện.” Hay nói cách khác, cầu nguyện phải đi đôi với những việc làm, với việc phục vụ, thì mới là những Ki-tô hữu chính đáng. Cầu nguyện và phục vụ phải đi đôi với nhau. Cầu nguyện là linh hồn của phục vụ, và phục vụ là kết quả của cầu nguyện. Nếu không có sự cầu nguyện thì nhiều khí chúng ta tưởng chúng ta hoạt động, phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình.
Hầu hết, khi đề cập hay nghe nói đến cầu nguyện là chúng ta nghĩ đến việc “đọc kinh”, đó là một phương cách cầu nguyện, nhưng cầu nguyện còn bằng cách lắng nghe, suy niệm về thành ý Chúa cho chúng ta, hay chỉ hiện diện bên Chúa, chú tâm đến Chúa mà không cần phải nói hay nghĩ gì. Đó là điều Maria đang làm, bà ngồi bên cạnh Chúa, im lặng lắng nghe lời Chúa nói. Và đó cũng là điều Chúa khuyên bà Mát-ta làm: “Con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi.” Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta bài học: trong cuộc sống bận rộn và bon chen này, chúng ta cần phải dành thời giờ cho Chúa, chúng ta phải hy sinh thời giờ đến với Chúa và cầu nguyện.
Có câu truyện như sau. Một linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, hỏi một gia trưởng: “Anh có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?” Gia trưởng trả lời: “Thưa cha, chúng con rất bận rộn, không có thời giờ.” “Giả như anh biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu không cầu nguyện, gia đình anh có cầu nguyện không?” “Ồ, chúng con sẽ cầu nguyện.” “Giả sử anh biết gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con anh có cùng cầu nguyện không?” “Dĩ nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.” “Giả sử mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Anh có sao lãng việc cầu nguyện không?” “Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này của cha là gì?” “Vấn đề của anh là không có thời giờ cầu nguyện. Anh có thể tìm được thời giờ cầu nguyện. Anh nghĩ cầu nguyện không quan trọng hơn những việc nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì anh có thể nghĩ tới.
Chúng ta gọi ngày Chúa nhật là Ngày Của Chúa, vì vậy chúng ta đến và hiện diện trong ngôi nhà Chúa hôm nay. Tôi tin rằng hôm nay, Chúa rất vui mừng và thật hạnh phúc vì mọi người đã dành chút ít thời giờ cho Chúa. Chu toàn bổn phận ngày Chúa nhật là một trong những phương cách quan trọng và hàng đầu mà chúng ta tỏ bày tình yêu mến Chúa trọn vẹn trong cuộc sống Ki-tô hữu. Thánh lễ là lời cầu nguyện quan trọng nhất, và là một hành động thể hiện lòng tôn kính toàn vẹn của chúng ta dâng lên Chúa.
Mẹ thánh Têrêsa Calcútta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt, Mẹ và các nữ tu đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ, hay hoạt động từ thiện bác ái, hay hy sinh phục vụ chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này, đó là cầu nguyện. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Thầy, chúng con không làm gì được.”
“Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.” Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa. Đó là cách sống diễn tả ý nghĩa phần đầu của giới răn quan trọng nhất: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi”, để được bình an đời này, và hạnh phúc Nước trời ngày sau.
Với dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu, Thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đến việc phục vụ anh em, nhất TN 16-C186
Với dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu, Thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đến việc phục vụ anh em, nhất là những ai bị tổn thương, để diễn tả lòng mến của Thiên Chúa tuôn chảy trong bản thân của người tín hữu. Hôm nay, qua hình ảnh và thái độ của Mát-ta và Ma-ri-a dành cho Chúa, Thánh Lu-ca không hề muốn phân biệt lối sống phục vụ và cuộc sống chiêm niệm như một số người vẫn chủ trương. Cả hai lối sống: cầu nguyện và hoạt động bổ túc cho nhau. Thật ra, qua câu chuyện và cách cư xử của Mát-ta và Ma-ri-a, Thánh sử muốn nhắn gửi các môn đệ một sứ điệp quan trọng: đó là phải lắng nghe lời Người, phải chú tâm để Người tiếp tục hướng dẫn.
Câu chuyện đón tiếp Chúa của hai chị em trong bài Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác nhau giữa Mát-ta và Ma-ri-a. Mát-ta quán xuyến mọi sự. Chị ta có hảo ý. Tuy nhiên vì lo lắng quá nên không nhận ra nhu cầu của Đức Giê-su, vị khách quí hôm nay đến thăm nhà của chị. Chị Mát-ta dành hết sức để chuẩn bị cho việc đón tiếp được hoàn hảo theo ý nghĩ của chị, cho nên chị không có khả năng nhận ra vị khách quí hôm nay muốn gì.
Trong khi đó thì Ma-ri-a không có gì hết, nên chỉ biết ngồi để lắng nghe Chúa. Thật ra, cô không lười. Cô đón tiếp Chúa bằng cả con tim, chú tâm đến sự hiện diện của Người, để mắt đến từng cử chỉ và lời nói của Người. Đối với cô, từ lúc Đức Giê-su bước chân vào nhà thì Người là tất cả. Còn Mát-ta, vì quá bận rộn nên không nhận ra Đức Giê-su là khách. Đức Giê-su đến thăm để bộc lộ ý muốn của Người cho hai chị em mà cô lại bận rộn như thế thì cho dù Người muốn cũng chẳng có cơ hội trao cho Mát-ta. Nói khác đi, vì quá bận rộn, Mát-ta chẳng còn tâm trí hay cơ hội nhận ra ý định của Chúa nữa.
Với cái nhìn nông cạn, chúng ta dễ dàng đồng ý với Chúa là Ma-ri-a đã chọn, không phải là phần tốt nhất mà còn dễ nhất nữa. Ma-ri-a chỉ việc ngồi thừ ra đó, còn bao nhiêu việc tất bật khác thì Mát-ta ôm trọn, thật là khó khăn! Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy, phần việc của Ma-ri-a khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không phải là việc dễ đâu. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó hơn. Nhưng đó mới là phuơng thế tuyệt hảo nhất trong việc hiệp thông để sinh ra lợi ích cho bản thân mình và tha nhân.
Thưa anh chị em,
Như vậy, sự bận rộn trong cuộc sống để hoàn thành việc của mình mà không nhận ra nhu cầu của người thân để quan tâm thì cũng giống như việc chạy đôn chạy đáo mà Mát-ta thể hiện hôm nay. Kết quả mà họ đạt được cũng không đáng khích lệ. Sau đây là một thí dụ.
Có một gia đình kia. Anh chị đã sống với nhau trên hai mươi năm trời và đã có với nhau ba người con. Họ gặp nhau, yêu nhau rồi cưới nhau. Khi mới cưới, vì trách nhiệm và bổn phận đối với thân nhân của hai bên gia đình còn ở Việt Nam, và nhất là muốn tạo cho gia đình riêng của anh chị một nền tảng vững chắc; cho nên anh chị đã phải cầy cả đêm lẫn ngày, anh chị đã nỗ lực làm việc không biết mệt mỏi. Mỗi người một công việc. Cả anh và chị thành công trong sự nghiệp. Ai cũng làm chủ. Tuy nhiên cái giá phải trả cho sự thành công này cũng không nhẹ. Chỉ vì vật lộn với công ăn việc làm, anh chị không còn nhiều thời gian cho nhau. Về đến nhà chỉ biết ngủ. Mối dây tương quan trong cuộc sống vợ chồng giả như có thì cũng chỉ là bổn phận qua loa cho xong. Đối với con cái, anh chị đã nuôi nấng các cháu rập theo cung cách quản lý nhân viên; mấy người con của anh chị không được lớn lên trong vòng tay yêu thương, vì thế cách hành xử của các cháu cũng bộc lộ một sự thèm muốn được yêu thương!
Người ngoài nhìn vào tưởng họ hạnh phúc chứ ai nào ngờ cảnh ‘phòng không gối chiếc’ hay ‘đồng sàng dị mộng’ đã xẩy ra với họ từ lâu rồi. Giờ này chỉ còn lại là sự chịu đựng cho qua khỏi kiếp này. Cái giả phải trả cho sự bận rộn trong cuộc sống mắc đến độ khi nhìn lại cũng chẳng còn biết làm thế nào để sửa chữa. Thật tội nghiệp!
Trong việc xây dựng mối dây tương quan giữa Chúa và ta cũng thế. Chúng ta đến với Chúa trong lúc bận rộn thì còn giây phút hay tâm tình nào dành cho Ngài đây! Sau đây là một trong những thói quen mà nhiều người đã vấp phải.
Có một bà thưa rằng: “Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt đời, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa”. Linh mục đó mới hỏi: “Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?”. Bà nói: “Ồ không, con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao?” Vị Linh mục đó trả lời: “Không, tôi không nghĩ như thế,” rồi nói tiếp: “Bây giờ, tôi xin đề nghị với cụ thế này nhé: mỗi ngày, cụ hãy dành riêng năm hoặc mười phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa”. Thưa cha, ngồi như thế dễ buồn ngủ lắm! Vị linh mục ôn tồn đáp: “Bà ơi, ngủ trong bàn tay yêu thuơng của Chúa là một hồng ân đấy, bà cứ tập đi.”
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: “Thưa Cha, thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Ngài, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh, mặt đối mặt với Ngài, con cảm thấy được bao trùm bởi sự hiện diện của Ngài”.
Thưa anh chị em,
Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất. Cô đã không nói gì nhưng trao trọn vẹn tấm lòng và con tim cho Chúa để Chúa họat động. Còn Mát-ta thì bận rộn để phô trương thanh thế, muốn chứng minh rằng mình đã quá đầy đủ, làm việc gì cũng hòan hảo thì Chúa còn làm đuợc gì nữa.
Ma-ri-a ngồi duới chân Chúa bộc lộ tâm tình lệ thuộc; và lắng nghe để nhận chỉ thị và huấn lịnh của Chúa. Còn Mát-ta lại bận rộn rồi yêu cầu Chúa làm điều cô muốn: “nói em con giúp con”.
Như Ma-ri-a chúng ta hãy lệ thuộc vào Chúa.
Giống Ma-ri-a chúng ta hãy lắng nghe Lời Người chỉ dậy. Và, Chúa sẽ huớng dẫn, thúc đẩy và tác động để chúng ta trở thành những Mát-ta, những Sa-ma-ri-a sống động.
Như thế, hãy ngồi để lắng nghe Chúa dậy như Ma-ri-a, rồi với lòng hiếu khách chúng ta cùng đứng dậy, noi gương người Sa-ma-ri-a và Mát-ta, đón tiếp và phục vụ Chúa trong anh em mình nhé. Amen!
Đọc bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay xong, tôi lại liên tưởng đến những Mác-ta ở trong dòng TN 16-C187
Đọc bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay xong, tôi lại liên tưởng đến những Mác-ta ở trong dòng tu, trong cộng đoàn giáo xứ, trong các hội đoàn và trong các gia đình… Những Mác-ta thời nay đang hành xử và có những phản ứng na ná giống như bà Mác-ta khi xưa ở Bê-ta-ni-a:
• Cha A càu nhàu và bực bội với bề trên: “Tại sao con nhập dòng đã lâu năm, kinh nghiệm đời linh mục của con nhiều hơn cha B nhiều, tại sao cha không giao cho con trông coi giáo xứ đó? Còn anh ấy chỉ mới chịu chức được vài năm, chả có tí kinh nghiệm mục vụ gì cả, thì cha lại giao cho anh ấy một xứ vừa to vừa đông giáo dân, lại nằm ngay trung tâm thành phố nữa!”
• Anh B than thở: “Năm nào tôi cũng phải nai lưng ra làm cho Đại Hội Thánh Mẫu, nào là chuẩn bị thực phẩm, nào là chất hàng lên xe, nào là nấu nướng, nào là dọn dẹp…Tại sao cha không gọi mấy người khác đi để giúp cho giáo xứ? Giáo xứ này đâu phải là của riêng con hay của riêng gia đình con đâu mà!”
• Chị C bực bội nói với mẹ: “Bộ mấy người đó là con nuôi và chỉ có một mình con là con đẻ hay sao, mà cả tuần nay bố nằm bệnh viện, chẳng ai đến chăm sóc cho bố, chỉ loáng thoáng đến rồi biến mất! Cái gì cũng đến tay con cả! Con ở suốt cả tuần nay, thức suốt mấy đêm liền, chẳng ai vào thay thế cho con cả vậy?”
Thật đáng tiếc cho cha A, anh B và chị C! Họ đã vất vả, đã khó nhọc, đã cống hiến bao nhiêu là công sức cho hội dòng, cho giáo xứ và cho gia đình của họ, nhưng khi họ thốt lên những lời nói đầy mùi vị cay đắng, pha lẫn sự tức tối và ghen tị như vậy thì tất cả công đức của họ đều tiêu tan thành mây khói. Đáng tiếc hơn nữa, khi có sự ghen tị, bực bội, tị hiềm ở trong lòng như vậy thì cha A, anh B và chị C không thể nào có được sự bình an trong tâm hồn, họ khó có thể sống lạc quan và sẽ khó lòng đối xử hoà nhã, vui vẻ với những người mà họ đang bì tị! Và những công việc mà họ đang làm không thể nào sản sinh những hoa trái ngon ngọt. Bạn thân mến, để tránh được tính ghen tị, bực bội và giận hờn khi phục vụ, xin bạn hãy để ý đến ba điểm sau đây:
• Thứ nhất, trước khi làm bất cứ công việc gì, dù việc nhỏ hay việc lớn, dù tầm thường hay quan trọng, dù là làm cho gia đình hay cho cộng đoàn giáo xứ…bạn và tôi hãy xin Chúa ban ơn giúp sức, gìn giữ, và dâng công việc mình sắp làm để cầu nguyện cho một ý chỉ nào đó. Ví dụ như, cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục, cho các linh mục sống thánh thiện, cho ơn gọi tu trì, cho ông bà, cha mẹ, cho con cái, cho các bệnh nhân, cho những người đang bỏ Chúa hay đang sống xa nhà Chúa…
• Thứ hai, khi phục vụ cho giáo xứ, khi chăm sóc ông bà cha mẹ, hay khi thăm viếng các bệnh nhân, khi làm việc thiện nguyện, làm việc bác ái…bạn và tôi đừng mong đợi lời khen ngợi hay tán dương của người đời. Dù những lời khen đó đến từ Giám Mục, linh mục hay là bề trên…bởi vì người đời khen thưởng thì chỉ tồn tại vài phút, vài ngày hay giỏi lắm thì vài tháng mà thôi. Hãy để Chúa khen thưởng mình thì mới có lợi lâu dài, có lợi đời đời. Vì chính Chúa Giê-su đã phán: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6:1).
• Thứ ba, khi làm việc, khi lao động, khi phục vụ, bạn và tôi hãy chú ý, và làm một cách tận tâm, làm cho thật chu đáo những công việc mà cha mẹ, cha xứ hay các đấng bề trên giao phó cho mình. Hãy làm với tất cả tấm lòng tri ân, yêu mến và cảm tạ. Hãy làm VÌ Chúa, làm CHO Chúa, và làm TRONG Chúa. Phục vụ và làm cho Chúa thì không bao giờ lỗ lã hay bị thiệt thòi cả, vì chính Ngài đã hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi…[thì sẽ] không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).
Tôi tin chắc rằng, để ý đến và thực hiện được ba điều trên, thì bạn và tôi sẽ không phải là những Mác-ta thứ hai, nhưng tâm hồn của chúng mình sẽ được bình an, lạc quan, vui tươi và hạnh phúc. Bạn tin không? Nếu tin, thì xin bạn hãy cố gắng chú ý và cố gắng thực hiện ba điểm mà tôi vừa chia sẻ bên trên ngay từ ngày hôm nay nhé! Xin Chúa chúc lành và ban cho bạn những ơn lành hồn xác, để bạn luôn phục vụ với sự cậy trông, với tất cả tấm lòng yêu mến, khiêm nhường và làm tất cả vì Chúa, với Chúa và làm cho Chúa. Amen!
Bản văn dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu mà chúng ta đã suy niệm tuần trước và việc TN 16-C188
Bản văn dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu mà chúng ta đã suy niệm tuần trước và việc Chúa Giêsu đến thăm Mátta và Maria ngày hôm nay là bổ sung cho nhau. Hai bản văn trình bày hai khía cạnh quan trọng của cùng một thực tại Kitô giáo: hành động giúp đỡ những người đang gặp khó khăn và lắng nghe lời Chúa. Hành động là kết quả của sự cam kết của chúng ta với người khác, nhưng nền tảng của hành động này là nghe lời Chúa. Thánh Luca, trong Tin Mừng của mình, đã đặt ngay sau dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu việc Chúa Giêsu đến thăm Mátta và Maria để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy” (Luca 10: 39).
Trong Tin mừng, Chúa Giêsu dường như chỉ trích Mátta mải lo việc chuẩn bị bữa ăn sao cho tốt đẹp. Trong thực tế, bà tiếp đón Chúa, như Ábraham đã làm trong bài đọc đầu tiên:
“Chúa hiện ra với ông Ábraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!” Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”
Ông Ábraham vội vã vào lều tìm bà Xara mà bảo: “Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh.” Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa” (Sáng thế ký 18: 1-8).
Cũng vậy, Chúa Giêsu Kitô không trách Mátta vì bà muốn đón tiếp khách, nhưng vì bà bận tâm, lo lắng quá nhiều.
Bản văn này của Sáng thế ký 18: 1-8 được đặt song song với Tin Mừng Luca 10: 38-42 với Mátta và Maria. Ở cả hai bản văn này, vấn đề là tiếp đón Thiên Chúa vào đời sống của mỗi một người qua con người của Chúa Kitô. Maria là hình bóng của Ábraham và Mátta là hình bóng của Sara. Có người lo việc tiếp đãi và có người ở lại với khách để nói chuyện và lắng nghe vị khách ấy. Cả hai đều cần thiết và hữu ích, nhưng nói chuyện và lắng nghe vị khách cần phải ưu tiên hơn chỉ lo việc tiếp đãi. Đó là một câu châm ngôn cổ trong Kinh thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đệ nhị luật 8:3) sau này được Chúa Giêsu lấy lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mátthêu 4: 4). Sáng thế ký 18: 1-8 và Luca 10: 38-42 minh họa câu châm ngôn này, sự sống là nhờ của ăn nhưng trên hết là nhờ vào kết quả của Lời Thiên Chúa, như trong công trình sáng tạo, nơi đó hành động sáng tạo là bởi Lời: “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng… Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước… Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra….” (Sáng thế ký 1: 1-31).
Một vị khách được thết đãi bữa ăn ngon nhất nhưng lại ở một mình bên bàn ăn, sẽ có nguy cơ cảm thấy cô độc và không thể vui vẻ mà ăn uống. Sự tiếp đón trên hết là sự chia sẻ và đối thoại, không chỉ là thức ăn mà còn là những gì sưởi ấm trái tim và tâm hồn, là cuộc gặp gỡ giữa cõi lòng với Thiên Chúa.
Bữa tiệc Thánh Thể, vốn là thực tại của chúng ta về những gì Abraham và Maria đã sống, cần phải dẫn đến việc cầu nguyện và đối thoại thân mật với Thiên Chúa mà chúng ta đã nhận lãnh và không thể kết thúc bằng việc rước lễ xong rồi bỏ đi mà không nói một lời nào với nhau. Chúng ta luôn phải nhớ rằng cuộc gặp gỡ diễn ra trước hết là nhờ Lời, ngay cả khi bữa ăn là dịp cho Lời này được bộc lộ.
Trong sách Khải Huyền, Thánh Gioan đã dùng một hình ảnh đẹp để mô tả đời sống Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Khải Huyền 3,20).
Chiêm niệm và hành động là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Lời Chúa làm sáng tỏ những ưu tiên của chúng ta và thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và đối với Chúa. Lời Chúa mang lại ý nghĩa cho các sự kiện hàng ngày, bao gồm cả niềm vui lớn cũng như đau khổ, bệnh tật và cái chết.
Thánh vịnh đúng khi nói: “Lời chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Thánh vịnh 119: 105). Trong những ngày nắng đẹp cũng như đêm đen tối, Lời Chúa chỉ đường cho tôi, đề xuất hướng đi tôi cần theo. Lời Chúa đối với tôi là “đường, sự thật và sự sống” (Gioan 14: 6).
Trong thế giới tiêu điều của chúng ta, nhiều người không còn biết chiêm niệm, tôn thờ và cầu nguyện… Cuộc chạy đua điên cuồng của cuộc sống, tiền bạc, du lịch, rủi ro làm cho chúng ta mất đi tinh thần hướng nội và khiến chúng ta bị giảm sút và hời hợt. Nếu tâm linh bị bóp nghẹt, một khoảng trống và sự mất cân bằng nguy hiểm sẽ được tạo ra.
Do đó, vấn đề không phải là đối lập Mátta là con người hoạt động với Maria là con người chiêm niệm mà là hiểu rằng hai người phụ nữ này đại diện cho hai khía cạnh quan trọng của đời sống Kitô hữu của chúng ta.
Các vị thánh vĩ đại hiểu rất rõ chân lý Tin Mừng này: Thánh Inhaxiô Loyola nói với các tu sĩ Dòng Tên của ngài rằng họ phải là “những người chiêm niệm trong hành động” và Thánh Bênêdictô đã xây dựng tất cả linh đạo Kitô giáo trên hai trụ cột của cầu nguyện và của hành động: “ora et labora”.
Hôm nay, chúng ta được mời gọi đánh giá lại khía cạnh chiêm niệm của đời sống Kitô hữu của chúng ta, để trả lại ưu tiên cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong suy niệm, để làm cho lời Chúa trở nên của ăn hàng ngày.
Trong dụ ngôn về người gieo giống, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng “những nỗi lo lắng về cuộc sống” có thể dễ dàng làm cho hạt giống Lời Chúa bị bóp nghẹt: “Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành” (Luca 8, 14) và Ngài sẽ mạnh mẽ nhắc lại rằng chúng ta không được để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Luca 21:34). Người nào nghe lời Chúa thì giống như người xây nhà trên đá: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mátthêu 7: 24).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Đây là điều mà Tin mừng hôm nay dạy chúng ta.
Đọc Cựu Ước, tôi thấy Chúa ban cho Tổ phụ Giacób có khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa TN 16-C189
Đọc Cựu Ước, tôi thấy Chúa ban cho Tổ phụ Giacób có khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao.
Chẳng hạn, trong một giấc mơ đêm, trên đường xa đến nhà cậu ruột là ông Laban, nhằm vâng lời cha là Issaác, cưới con của cậu làm vợ mình, Tổ phụ Giacób nhìn thấy chiếc thang cao tận trời. Trên đỉnh thang, có Thiên Chúa ngự. Tổ phụ cũng nhìn thấy đông đảo các thiên thần lên lên xuống xuống trên thang.
Từ một giấc mơ, Tổ phụ đã không xem đó chỉ là giấc mơ. Tổ phụ nhìn xuyên thấu điều tưởng chừng chỉ là giấc mơ, để khám phá tình yêu của Thiên Chúa, để nhận ra Đức Chúa của cha ông mình luôn ở cùng mình.
Tổ phụ cầu nguyện cùng Thiên Chúa ngay sau “biến cố” giấc mơ: “Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an, thì Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi” (St 29, 20-21).
Không chỉ ấp ủ lòng biết ơn Thiên Chúa, Tổ phụ Giacób còn lập bàn thờ để tỏ bày lòng biết ơn ấy. Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, từ giấc mơ đẹp, Tổ phụ biết rằng, trên dặm trường xa, Chúa vẫn theo mình. Chúa không ngừng đưa bàn tay phù trợ bao bộc, đỡ nâng, che chở.
Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, Tổ phụ Giacób cảm nhận bình an của Chúa suốt hành trình đời mình. Tổ phụ luôn biết ơn Chúa, luôn trung thành vâng nghe thánh ý Chúa.
Hôm nay:
1. Khi Chúa nói cho cả hai chị em Matta và Maria biết, “Chỉ có một sự cần mà thôi”, đó là hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy uống lấy từng lời Chúa dạy, hãy nỗ lực làm cho Lời Chúa chi phối lẽ sống, hãy để cho Lời Chúa điều khiển mọi hành vi, mọi lời nói, mọi biểu cảm của mình.
2. Là Chúa muốn nhấn mạnh:
Chúng ta hãy bám lấy, hãy theo sát Lời Chúa trong suốt hành trình cuộc sống của mình. Cuộc sống đó sẽ là những nụ cười hay tiếng khóc, là lúc thăng hay lúc trầm, lúc khỏe mạnh hay yếu đau, lúc thành công hay thất bại, lúc bị phản bội hay được đón nhận, lúc nhận ra sự yêu đương hay lòng thù hận…
Hãy luôn hiểu rằng, Lời Chúa luôn vang lên mọi nơi mọi lúc, mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, dù đó là thời khắc tĩnh mịch y như hình ảnh chị Maria thanh thản, an nhàn, thoải mái, vô tư, hạnh phúc ngồi bên chân Chúa...
Nhưng Lời Chúa vẫn vang vọng không ngừng giữa những tất bật, những ồn ào đầy bôn ba chật vật chẳng khác chi hình ảnh chị Matta bộn bề, khổ sở, trăm vất vả, ngàn lo âu...
Hãy khắc sâu tâm niệm này: Chúa không ngừng ở bên ta. Chúa vẫn luôn lên tiếng suốt dọc dài cuộc sống của ta trong mọi khoảnh khắc, mọi thời gian. Hiện diện của Chúa là hiện diện đầy. Chúa hiện diện bền bỉ, liên lỉ.
Như vậy:
- Ta lắng nghe Lời Chúa nói là lắng nghe qua từng thời gian, từng biến cố, từng hoàn cảnh của mình, hay của bất cứ ai, bất cứ nơi nào mà ta có mặt hay tham dự vào. Ta xin Chúa hãy dạy ta, hãy làm cho ta được sống theo thánh ý Chúa, sống theo Lời của Chúa.
Không thể lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao như Tổ phụ Giacob, thì ít ra, ta cần tập cho mình thói quen lắng nghe Lời Chúa nói không trừ bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào, biến cố nào.
- Thái độ của hai chị em Mattha, Maria và lời đáp“chỉ có một sự cần mà thôi” của Chúa Giêu, còn dạy ta hãy quân bình đời sống thường nhật với trách nhiệm Kitô hữu.
Sự quân bình ấy giúp ta sống ơn gọi nên thánh giữa đời. Một mặt, ta không thể không làm lụng vất vả tạo ra cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng cũng không vì thế, biến mình thành kẻ suốt ngày chỉ “cơm-áo-gạo-tiền”, quên mất Thiên Chúa, quên mất nghĩa vụ làm người con thảo hiếu với Cha trên trời. Sự sống thân xác không bao giờ là lý do cho phép ta vịn vào ngụy biện cho lối sống nguội đạo, lạnh nhạt đức tin.
Mặt khác, ta cũng không được nại vào sự cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, dạy hay học giáo lý... mà quyên bổn phận thánh hóa lao nhọc khi phải sống vất vả giữa đời.
Tập lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống chính là “chiếc thang Giacób” nối lòng ta với tình yêu bền chặt của Chúa. Nhờ đó, ta có thể gặp và kết hiệp nên một cùng Chúa.
Cần lắm việc chúng ta bắc một “chiếc thang” nối lòng mình đến lòng Thiên Chúa, để mãi trung thành trong đức thờ phượng, đức tin, đức cậy và lòng mến, dù cuộc sống có biến thiên đến mức nào đi nữa.
Hãy như Tổ phụ Giacób đã tạ ơn Chúa. Chúng ta cũng sẽ lập bàn thờ là chính tâm hồn mình, để thờ phượng Chúa.
Có Chúa ngự nơi bàn thờ tâm hồn, chắc chắn ta sẽ thấu biết Lời Chúa phán xuyên qua chuỗi ngày sống của ta.
Có Chúa làm khởi điểm và đích đến, có Lời Chúa làm điểm tựa cho sự sống là có tất cả lẽ sống, tình yêu sống, sự bình an lớn lao của tâm hồn, dù đó là lúc êm ả, lắng đọng hay chao đảo, mất phương hướng...
Một đan sĩ trẻ thắc mắc về câu khẩu hiệu của dòng: “Cầu nguyện và làm việc”. Vì vậy hôm nọ TN 16-C190
Một đan sĩ trẻ thắc mắc về câu khẩu hiệu của dòng: “Cầu nguyện và làm việc”. Vì vậy hôm nọ, vị đan viện phụ mời thầy chèo thuyền qua hồ cùng với người. Viện phụ chèo trước, nhưng với một mái chèo thôi. Hậu quả là chiếc thuyền cứ xoay lòng vòng, và họ chẳng tiến được chút nào hết. Đan sĩ trẻ liền nói: “Thưa cha, nếu không chèo bằng hai mái chèo, cha chẳng đến được đâu cả”. Viện phụ bấy giờ mới đáp: “Con có lý! Mái chèo bên phải là cầu nguyện, mái chèo bên trái là làm việc. Nếu không dùng cả hai một lượt, con sẽ xoay lòng vòng thôi”. Ở đây, ta nhớ lại lời thánh Phan-xi-cô Sa-lê-di-ô: “Mỗi Ki-tô hữu cần nửa giờ cầu nguyện riêng mỗi ngày, ngoại trừ khi chúng ta bận rộn; vì thế chúng ta cần một giờ”.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói lên chúng ta chân lý ấy, qua thái độ của hai người bạn Đức Giê-su và qua câu tuyên phán của chính Người. Đức Giê-su lúc ấy đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, thực hiện một cuộc hành trình chiếm rất nhiều chỗ trong trình thuật của Lu-ca thánh sử. Hơn mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,29). Nơi Chúa nhật 13, chúng ta thấy ngay sau khi được công nhận như Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, Đức Giê-su đã quả quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51). Chúa nhật 14, chúng ta chứng kiến sứ vụ của 72 môn đồ (x. Lc 10,1-20). Chúa nhật mới rồi, chúng ta đã ở trên đường Giê-ri-cô, 30 km cách Giê-ru-sa-lem, để nghe dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (x. Lc 10,25-37). Hôm nay, chúng ta dừng lại tại một ngôi làng không được gọi tên, song chính là Bê-ta-ni-a, cách trung tâm thủ đô 3km. Suốt trên con đường này, Lu-ca cho ta thấy Đức Giê-su đã tâm sự nhiều với môn đệ, chắc để chuẩn bị họ sống thời gian sắp tới, khi Người sẽ chẳng còn ở với họ nữa. Nói như thế có nghĩa là các giai thoại và lời tuyên phán đánh dấu từng quãng cuộc đăng trình này đều quan trọng.
Trước Hết Bằng Cách Nghe Lời Người
Khác hẳn với lần Đức Giê-su bị đối xử tệ bạc trong một thôn làng xứ Sa-ma-ri, hôm nay Người gặp được một ngôi nhà hiếu khách. Người quả không luôn bị xua đuổi, chẳng mãi lang thang trên đường... Có lúc Người dừng lại tại nhà bạn hữu để nghỉ ngơi, trò chuyện, chẳng vội vàng... thời gian dành cho tình bạn chẳng phải là thời gian mất đi!
Trên sườn đồi, cạnh con đường bụi bặm, ngôi nhà Người biết đang ở đó. Gần bên cửa sổ có chấn song, một cây táo trổ hoa đang tỏa hương ngào ngạt. Hôm ấy là mùa xuân và lễ Vượt qua đến gần. Đức Giê-su gõ cửa. “Shalom! Chào Thầy! Ô, vui quá, xin mời Thầy vào!”. Mác-ta và Ma-ri-a xuất hiện. Đó là hai chị em ruột. Họ có một em trai nữa, La-da-rô. Các Tin Mừng nói đến họ ba lần, và trong cảnh nào cũng thế, mỗi người bày tỏ tính khí điển hình của mình không thay đổi: Mác-ta hoạt động, Ma-ri-a hiền hậu. Thánh Gio-an, trong một câu ngắn, cho chúng ta biết: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11,5). Dịp gia đình họ gặp tang, Gio-an nói Đức Giê-su đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mác-ta cũng đang dọn bữa, còn Ma-ri-a cũng “ngồi dưới chân Người” (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giê-su đã từng có vài bạn nữ. Chính tại nhà họ mà Người trở lại mỗi chiều trong tuần cuối cùng của mình trước khi chết (x. Mt 21,17; 26,6; Mc 11,11; Lc 19,29; Ga 11,1.18; 12,1). Thành thử đây ít nhất là một nơi Đức Giê-su đã có thể thưởng thức sự dịu dàng của tình bạn.
“Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ”. Hình tượng thật đẹp! Phải im lặng chiêm ngắm cảnh này càng lâu càng tốt. Cố gắng tưởng tượng mình đang ở trong căn phòng. Cố gắng tái dựng các cử chỉ, các chuyển động, các tiếng ồn, các mùi vị, các màu sắc, các khuôn mặt, các cõi lòng.
Đức Giê-su trò chuyện cùng Ma-ri-a đang ngồi bệt xuống đất dưới chân Người, đôi tai chăm chú. Họ nói gì với nhau? Giọng Người thế nào? Phải chăng Người kể lại với cô lần nữa dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành? Phải chăng Người giải thích cho cô lần nữa các mối phúc? Phải chăng Người không ngớt nói lại với cô cách Người quan niệm các cội nguồn của hạnh phúc đích thật? Hay đúng nhất là Đức Giê-su đã thì thầm tâm sự với Ma-ri-a về cái chết và sự phục sinh của Người? Người lên “Giê-ru-sa-lem” chính là vì thế! Tâm tư Người đầy ứ chuyện này. Người đã nhiều lần thử chia sẻ ưu tư của mình với môn đệ, nhưng xem ra họ vẫn không hiểu. Với Ma-ri-a, biết đâu khi nghe tâm sự này, lại chẳng có một đồng cảm nhiệm mầu và tuyệt diệu do tình bằng hữu tạo ra? Dẫu sao, nhờ Mác-cô và Gio-an, chúng ta biết rằng người phụ nữ đầy trực giác này đã hiểu hơn những kẻ khác mầu nhiệm an táng và phục sinh của Đức Giê-su. Đức Giê-su sẽ trở lại Bê-ta-ni-a, ở nhà cô, trong những ngày trước lễ Vượt qua, và Ma-ri-a, rất dịu dàng, sẽ thực hiện trước một kiểu ướp xác bằng hương liệu...
Sau Đó Bằng Cách Phục Vụ Anh Em
“Mác-ta tiến lại mà nói: 'Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!'” Sự can thiệp này của Mác-ta nêu bật tất cả điểm khác biệt giữa hai chị em. Trước khi nghe Đức Giê-su trả lời, chúng ta chớ có dèm pha Mác-ta mà cần tỏ lòng khâm phục cô đã. Không nên đặt đối lập Mác-ta với Ma-ri-a. Mác-ta có ích. Việc phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giê-su cũng được tôn vinh qua mọi thứ tình yêu “phục vụ” con người... “Các ngươi đã cho Ta ăn, các ngươi đã cho Ta uống, hãy đến hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc” (Mt 25,34).
“Chúa đáp: ‘Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!’” Chúng ta không thể không nhận thấy sự long trọng của tước hiệu được Lu-ca dùng ba lần này: “Chúa”. “Chúa” chỉ Đức Ki-tô vinh hiển sau Phục sinh. Điều đó cho thấy quang cảnh chẳng những muốn kể cho chúng ta nghe một giai thoại lịch sử, dù thú vị. Một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc khải”. Người sắp nói chính là Chúa vinh quang. Điều Người sắp nói rất quan trọng và phải được đón nhận “trong đức tin”. Tất cả trình thuật đi trước, mà dầu sao rất đơn giản, hướng đến lời tuyên phán sẽ thốt ra tự miệng Người.
Có thể ta đã chờ đợi Đức Giê-su kêu mời Ma-ri-a tỏ ra lịch sự với chị. Trong những trường hợp như vậy, Đức Giê-su đã thường yêu cầu chúng ta “phục vụ”, yêu mến. Rõ ràng, câu trả lời của Người ở đây nằm trên một mức độ khác hẳn. Đức Giê-su trách Mác-ta quá lo lắng và bận rộn. Đây là một trong những chủ đề ưa thích của Người. Người đã từng nói “các lo lắng và chuyện đời” có thể bóp nghẹt Lời Chúa được gieo trong một tâm hồn nào đó (x. Lc 8,14). Người sẽ yêu cầu các môn đệ chớ lo lắng về thức ăn áo mặc (x. Lc 12,22-26). Người sẽ chỉ thị cho các nhà truyền giáo là chớ lo lắng chuyện tự vệ khi họ bị cáo trước tòa án thế gian (x. Lc 12,11). Người sẽ nói là chớ “để lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời” trong khi chờ Con Người đến (x. Lc 21,34). Này bạn! chớ quên điều chủ yếu, Đức Giê-su bảo.
Điều Đức Giê-su kết án nơi Mác-ta không phải là công việc lẫn nhiệt tình đón tiếp của cô... nhưng là sự căng thẳng và bận rộn thái quá mà cô đặt vào đó. Hiển nhiên có một sự bực bội nào đấy khiến ta khép kín trong chính mình. Hãy đón nhận từ Chúa lời mời gọi của Người là biết chậm lại. Chúng ta trải qua thời giờ trong chạy nhảy, máy động, hối hả (sống vội). Thời gian nghỉ hè có thể càng trở thành thời gian để tìm lại sự quân bình của ta, để “sống” thay vì chạy! Này bạn! chớ quên điều chủ yếu, Đức Giê-su bảo.
Vậy cái duy nhất cần thiết ấy là gì? Đó là làm những gì Ma-ri-a làm: “Ngồi bên chân Chúa, nghe lời Người dạy dỗ”. Khi khẳng định cách triệt để và mạnh mẽ rằng đó là cái duy nhất chủ yếu của con người, Đức Giê-su đã ban một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải đi trước mọi ưu tư trần tục. Trong nhiều cơ hội khác, Đức Giê-su đã đưa ra cho ta cũng một đòi hỏi tương tự: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Này bạn! chớ quên điều chủ yếu, Đức Giê-su bảo.
Đức Giê-su thành thử không gièm pha việc “phục vụ” Mác-ta cống hiến bằng cách bận rộn lo việc bếp núc. Nhưng ngay cả cái có giá trị nhân bản nhất cũng phải bỏ mà “theo Người” (x. Lc 5,11; 18,22; 9,61). Nghe Lời Chúa! Đấy là bổn phận đầu tiên của con người, của Ki-tô hữu. Đó là điều cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để, Đức Giê-su dạy. Có cầu nguyện thâm trầm thì mới phục vụ hữu hiệu. Có sống sâu xa với Chúa mới không sống hời hợt với con người. Có biết quỳ gối trước Thiên Chúa thì mới đứng thẳng trước thế gian. Một thánh lễ sốt sắng khởi đầu cho một ngày sống anh hùng... Và đây không phải là lần đầu tiên hay lần cuối cùng Người khẳng định điều này. Không nghe Lời Chúa, đó là xây nhà trên cát (x. Lc 6,47-49). Nghe Lời Chúa, đó là trở nên một mảnh đất sinh hoa quả (x. Lc 8,4.15). Hạnh phúc duy nhất đích thực của Bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, chẳng phải là làm mẹ Người, nhưng là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hiện” (x. Lc 11,27-28). Chúng ta yêu nghe Lời Chúa như thế nào? Phải chăng đó là “phần tốt nhất” của ngày sống chúng ta? Đâu là các ưu tiên của chúng ta? Đâu là điều chủ yếu?
THI HÀNH LÒNG THƯƠNG XÓT ĐỂ NGÀY CHÚA NHẬT HÓA THÁNH
Điều răn thứ ba của Mười Điều Răn dạy rằng giữ ngày Chúa nhật, tức là thánh hóa ngày Chúa nhật TN 16-C191
Điều răn thứ ba của Mười Điều Răn dạy rằng giữ ngày Chúa nhật, tức là thánh hóa ngày Chúa nhật. Vì sao phải thánh hóa ngày này? Vì chưng, Thánh Kinh Cựu Ước dạy “Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh” (Xh 20,11). Thánh Kinh còn dạy trong ngày này, Dân Chúa tưởng nhớ biến cố giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai Cập. Cho nên, Thiên Chúa ban cho Ít-ra-en ngày sa-bát, để họ tuân giữ như một dấu chỉ giao ước vững bền (x. Xh 31,16 ). Ngày sa-bát được hiến dâng cho Thiên Chúa, là ngày thánh dành để chúc tụng Thiên Chúa, ca ngợi công trình sáng tạo và những kỳ công Người đã thực hiện để cứu Ít-ra-en. Cho nên, Lời Chúa dạy: “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã ngưng các việc và nghỉ ngơi” (Xh 31,17), thì con người cũng phải “ngưng làm việc” để những người khác, nhất là kẻ nghèo “lấy lại sức” (Xh 23,12).
Sang Tân Ước, Chúa Giê-su đã sống lại vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Lc 24,1), ngày phục sinh của Đức Ki-tô. Vì là “ngày thứ nhất” nên nhắc đến cuộc sáng tạo đầu tiên; “ngày thứ tám” liền sau ngày Sa-bát (Mc 16,1), nên mang ý nghĩa một công trình sáng tạo mới đã được khai mở với biến cố Đức Ki-tô phục sinh. Đối với các Ki-tô hữu, đây là ngày thứ nhất của mọi ngày, ngày lễ quan trọng nhất trong các lễ, ngày của Chúa, ngày Chúa nhật.
Vì vậy, để ngày Chúa nhật là ngày thánh, ngày nghỉ ngơi đúng nghĩa, Hội Thánh dạy thứ nhất trong ngày này phải cử hành bí tích Thánh thể của Chúa, là trung tâm đời sống của Hội Thánh (GLHTCG, số 21770) và chóp đỉnh, nguồn mạch của đời sống Kitô hữu (LG 11). Thứ hai, phải biết nghỉ ngơi, có nghĩa rằng: “Khi hưởng những giờ nghỉ ngơi, các Kitô hữu nên nhớ đến những anh chị em của mình, những người cùng có một nhu cầu và quyền lợi như mình nhưng họ không thể nghỉ ngơi vì nghèo khổ và túng cực. Theo truyền thống đạo đức Kitô giáo, ngày Chúa Nhật được dành riêng để làm việc lành và khiêm tốn phục vụ cho các bệnh nhân, các người khuyết tật và các người già yếu. Các Kitô hữu cũng phải thánh hóa ngày Chúa nhật bằng cách dành thời giờ và sự chăm sóc cho gia đình mình và cho các người lân cận” (GLHTCG, số 2186).
Người Việt Nam thường có câu: “Lời chào cao hơn mân cỗ”. Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi và xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là được anh chị em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh chị em chia sẻ, cảm thông, an ủi và giúp đỡ. Cho nên dù cuộc đời có đau khổ, bệnh hoạn hay khuyết tật nhưng được anh chị em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao, làm cho đời người thêm lạc quan, bình an và hạnh phúc.
Vì thế, Lời Chúa hôm nay mô tả hai cuộc viếng thăm của hai người và nhờ cuộc viếng thăm mà họ đã độ được tha nhân là mang niềm vui hạnh phúc và bình an đến cho những người họ được thăm viếng (xin giải thích chữ “Độ” là đưa qua, đưa tới). Cụ thể, bài đọc 1 Sách Sáng Thế kể một người khách đến thăm nhà ông bà Ápraham và Sara. Họ đến để chia sẻ với nhau những đau khổ, nhất là bà Sara đau khổ vì không có con. Cuối cùng người khách đó đã chúc cho bà có con nhờ ơn Chúa, Chúa đã độ đến ông bà là có con trai, ông bà vui mừng hạnh phúc. Rồi, Bài Tin Mừng cũng gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giêsu đã dành cho một gia đình ở Betania. Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria nghèo hèn và cuôi cút. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm. Và Chúa đã độ tới gia đình côi cút này là mang lại được hạnh phúc ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện, đồng hành sẻ chia nỗi khổ cuôi cút. Nên nhớ rằng Chúa Giêsu đến gia đình này không vì miếng ăn, không đến để được phục vụ nhưng Chúa đến để yêu thương, phục vụ, quan tâm, liên đới, cảm thông và sẻ chia. Cho nên, chỉ có Chúa Giêsu độ cả trần gian.
Cuộc sống hôm nay của chúng ta cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự, sẻ chia niềm vui, nỗi buồn với nhau và càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau và qua lại nhau hay còn gọi là độ tới nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, không độ tới nhau thì làm sao mà cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ yêu thương và cầu nguyện lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm, an ủi và giúp đỡ, tình người sẽ phôi phai và nhạt nhẽo theo thời gian. Hơn nữa, ngày nay hầu như thiếu vắng các cuộc viếng thăm do con người bị cuốn vào ma lực của tiền bạc, hưởng thụ nhất là thế giới ảo nên thiếu sự đối thoại và như thế nó sẽ làm cho con ngừơi trở nên vô cảm dững dưng và mãi mãi không độ tới nhau. Cho nên, không lạ gì trên mạng xã hội đang nổi lên bài hát đang gây bão “Độ ta, không độ nàng” viết rằng: “Phật ở trên kia cao quá. Mãi mãi không độ tới nàng. Vạn dặm tương tư vì ai. Tiếng mõ vang lên phũ phàng. Chùa này không thấy bóng nàng. Bồ đề chẳng muốn nở hoa. Dòng kinh còn lưu vạn chữ. Bỉ ngạn phủ lên mấy thu”. Còn Chúa Giêsu của chúng ta thì khác, Ngài thì độ hết cả trần hoàn, không chừa một ai cho nên: “Vì lòng yêu thương nhân thế, Chúa đã sinh hạ xuống trần. Vạn dặm yêu thương tha nhân, kiếp sống không còn phủ phàng. Nhà thờ lễ cưới đón nàng. Lòng người bác ái nở hoa. Đồi cao còn in thập giá. Phục sinh bừng lên khắp nơi. Đk: Trời chiều can-vê đẹp quá. Tiếng Chúa rung chuyển núi đồi. Gọi người đi hoang về thôi. Có Chúa giang tay đón chờ. Tội trần nhờ ơn Cứu chuộc, trở lại nguồn suối bình an. Vì yêu độ hết cả trần hoàn.
Vâng, tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi hay ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của chị anh em xung quanh ta. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông, thăm viếng và đỡ nâng. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau, và nâng đỡ cho nhau chân tình hơn. Vì vậy, trong buổi tiếp kiến chung, Đức thánh Cha Phanxicô: “Lòng thương xót không nói suông nhưng là sống. Lòng thương xót không phải là một khái niệm trừu tượng, và theo những lời của Thánh Giacôbê Tông Đồ có thể nói rằng lòng thương xót mà không có việc làm là lòng thương xót chết”. Đây chính là điều Chúa Giêsu muốn ngày của Chúa phải được hóa thánh nơi mỗi người chúng ta hôm nay, một ngày Chúa nhật vừa thánh thiện đối với Chúa vừa độ được cả tha nhân.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho Chúa qua việc sốt sắng tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật và đặc biệt biết dành thời gian nghỉ ngơi cho mình và cho nhau qua những việc viếng thăm, giúp đỡ, chăm sóc, an ủi và cảm thông đầy tình người trong gia đình và xã hội. Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình để lo cái lo cho cái của anh chị em, để biết sống hết mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương xót nhau. Amen.
Cô Macta không chỉ mời Chúa Giêsu đến nhà một lần đâu. Chắc là nhiều lần. Thánh Gioan ghi TN 16-C192
Cô Macta không chỉ mời Chúa Giêsu đến nhà một lần đâu. Chắc là nhiều lần. Thánh Gioan ghi: “Đức Giêsu thương chị em cô Macta, Maria và Ladarô”. Chính Gioan cũng đã cư ngụ trong nhà ấy nhiều lần cùng với Chúa Giêsu.
Cách ăn nói của cô Macta cho chúng ta thấy, cô rất tự nhiên với Chúa Giêsu như người nhà: “Thầy coi, em con để con làm việc một mình, còn nó ngồi chơi không. Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Nếu là người xa lạ hay người khách, ai dám nói với giọng điệu đó?
Chắc chắn gia đình cô Macta là một gia đình khá giả, vì có thể chứa mười ba người khách: Chúa Giêsu và mười hai môn đệ. Với một lượng khách như thế, cô Macta phải cực khổ như thế nào để tiếp đãi khách.
Maria thì cứ vui vẻ ngồi dưới chân Thầy nghe Thầy dạy. Cử chỉ của Maria cũng cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu không là một người lạ mà là một người thân.
Bận bịu vì quá nhiều việc, thấy Maria ngồi không, Macta cũng hơi bực bội và xin Chúa bảo Maria phụ mình một tay. Chúa Giêsu cho Macta thấy rằng, Ngài không cần những bữa ăn thịnh soạn, có một điều cần hơn mà cô không biết đó là lắng nghe lời Ngài.
Bận bịu để lo cho Ngài là một điều tốt, nhưng có một điều khác tốt hơn. Macta cho chúng ta một gương mẫu mà chúng ta cũng nên noi theo, đó là tiếp đón Chúa vào nhà một cách chân tình chứ không lấy có lấy rồi.
Macta mời Chúa về nhà và tận tình phục vụ Ngài. Chúng ta có mời Chúa đến với chúng ta không? Mời nhiệt tình hay chiếu lệ? Hãy nhìn lại những lần chúng ta dự lễ. Chúng ta có vui mừng đón tiếp Chúa như cô Macta không? Chúng ta có làm hết cách để Chúa vui không? Thái độ đón tiếp của chúng ta có thực sự thân mật vui vẻ không, hay chúng ta có mặt mà lòng trí chúng ta bận rộn những chuyện không cần thiết?
Nơi nhiều giáo xứ, vào những dịp lễ lớn, có người chỉ chú trọng đến việc trưng bày nhà thờ, hoa đèn mọi thứ, đem hết khả năng lo trang hoàng cho lộng lẫy hoành tráng mà xao lãng việc cầu nguyện.
Chúa vẫn không cấm chúng ta chưng dọn bên ngoài để có những thánh lễ thật hoành tráng, nhưng điều cần thiết là lắng nghe lời Chúa.
Trong xã hội hôm nay, Chúa Giêsu vẫn bị bỏ rơi. Con người hôm nay xem Ngài như một cái gì không cần thiết, cái gì thừa thãi, vì họ chỉ biết “thờ cái bụng”, như thánh Phaolô đã nói. Chúng ta cũng bị ảnh hưởng phần nào của bầu không khí vô đạo hôm nay. Xem vật chất như điều chính yếu, còn Chúa thì khi nào cần mới đến với Ngài. Chúa Giêsu phải được yêu thương hơn và chính chúng ta phải làm đủ mọi cách theo khả năng để con người hôm nay biết Ngài là hạnh phúc duy nhất của họ. Hãy mời Chúa vào trong chúng ta và đem Chúa vào các tâm hồn.
Chúa Giêsu không trách Macta, nhưng Ngài cho thấy, những việc làm bên ngoài là điều phụ thuộc.
Maria quên hết mọi sự. Có Thầy đến, Thầy quan trọng hơn tất cả. Ngồi dưới chân Thầy, lắng nghe Thầy dạy dỗ là một niềm vui cho Maria. Đó cũng là điều quan trọng hơn tất cả. Chính Chúa Giêsu cũng xác nhận như thế: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi”.
Chúa Giêsu không đến để “được phục vụ”. Ngài không cần chúng ta làm một điều gì cho Ngài cả. Ngài đến để cứu vớt và đem hạnh phúc cho chúng ta. Ngài chỉ mong chúng ta gắn bó với Ngài để được sống và được sống dồi dào, thì việc quan trọng không là việc bên ngoài. Chỉ cần ngồi dưới chân Ngài và vui mừng lắng nghe lời Ngài. Điều lý tưởng là nếu chúng ta vừa là Macta vừa là Maria thì tuyệt vời. Chúng ta “làm điều này mà không bỏ điều kia”. Chúng ta có thể dung hòa được cả hai việc thì đó mới là lý tưởng.
Cuộc sống của chúng ta không thể phân chia làm hai, một bên là hoạt động trần thế, một bên là hoạt động tâm linh. Cần thống nhất cuộc sống một cách nhịp nhàng. Sống là sống với Chúa trong mọi hoạt động trần thế của chúng ta và vẫn phải dành cho việc lắng nghe lời Chúa một phần không nhỏ và cần thiết.
Cha Peyriguère đang nằm điều trị ở bệnh viện, viết thư cho một người thăm hỏi sức khỏe của ngài, ngài viết mấy lời hết sức ngộ nghĩnh: “Cha đang uống thuốc cho Chúa Giêsu mau mạnh, và lúc mát trời cha đi dạo trong khuôn viên bệnh viện cho Chúa Giêsu khỏe hơn”. Ngài đã thực hiện những gì thánh Phaolô đã sống: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Giêsu sống trong tôi”.
Đây không phải là một điều gì khó mà chúng ta không thực hiện được. Chúng ta nghĩ rằng chỉ có các thánh mới sống được như thế. Thực ra, chỉ cần ý thức và để ý đến Ngài, chúng ta sẽ làm được.
Chính thánh Phaolô đã nối kết hai thái cực trong ngài. Ngài hoạt động không ngơi nghỉ. Giảng dạy suốt ngày, có lúc gần suốt đêm. Những hành trình của ngài dài hàng ngàn cây số, ngài vẫn là Macta và Maria hiệp nhất nơi ngài. Sống như thế gọi là yêu.
Những người yêu nhau, dù mỗi người một nơi, vẫn yêu nhau, vẫn làm việc cho nhau. Họ nhớ nhau liên lỉ, ngay trong những lúc bận bịu nhất.
Nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa, thì dù ở đâu, làm gì, chúng ta vẫn nhớ và yêu mến Chúa. Thánh Phaolô cũng nói: “Không, tôi thâm tín rằng… không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô…”
Chúng ta được liên kết chặt chẽ với Chúa Giêsu khi chúng ta ăn lấy Ngài. Chúng ta với Ngài không còn là hai mà là một xương một thịt, hơn cả những đôi tình nhân. Ngài mãi mãi là điểm hẹn lý tưởng để tình yêu chúng ta không phai nhạt, và tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy yên hàn, hạnh phúc.
Cầu nguyện và hoạt động là hai việc không thể thiếu trong đời sống người kitô hữu chúng ta. Người TN 16-C193
Cầu nguyện và hoạt động là hai việc không thể thiếu trong đời sống người kitô hữu chúng ta. Người kitô hữu đích thực là người có đời sống cầu nguyện kết hợp mật thiết với Chúa. Người cầu nguyện đích thực thì không thể chỉ cầu nguyện mà không hành động. Cầu nguyện mà không hoạt động thì không phải là cầu nguyện thật. Vì thế cầu nguyện và hoạt động luôn hiệp nhất với nhau một cách sâu xa trong đời sống người kitô hữu chúng ta.
Abraham và Sara
Abraham và Sara là đại diện cho đời sống người kitô hữu trong cầu nguyện và hành động. Vừa thấy khách quí, Abraham ra đón rước vào nhà và sấp mình xuống cầu nguyện, rồi mang nước và bánh cho khách. Abraham không có làm một mình mà còn gọi Sara cộng tác làm bánh, còn ông đi bắt bê non làm thịt (x. St 18,), mỗi người mỗi việc để khách vui lòng, chủ và khách gặp nhau vang lên tiếng cười giòn giã.
Sara là vợ của Abraham mà ba tôn giáo độc thần là Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo, đều nhận ông là cha của họ trong đức tin. Nếu thế, Sara, người phụ nữ xinh đẹp này đã đồng hành với Abram, cũng là "Mẹ trong đức tin", bởi bà cũng quyết định rời bỏ thành Ur xứ Canđê (thuộc Iraq ngày nay) đến định cư tại đất Canaan.
Sara có một vai trò quan trọng. Tên của bà được nhắc đến bảy lần là bằng chứng (x. St 18, 1-15 ). Con số bảy trong Kinh Thánh có ý nghĩa là tràn đầy. Vì Abram sẽ trở thành Abraham khi Thiên Chúa chỉ ra một sự thay đổi về sứ vụ, Sarai, có nghĩa là "công chúa của tôi" trở thành Sara, nghĩa "công chúa". Sara sẽ không còn là của riêng Abraham nữa. Bà có một sứ mệnh mà Thiên Chúa đã ủy thác cho trong tương quan với Abraham. "Tôi sẽ chúc lành cho bà mẹ của các dân tộc và các vua".
Tiếng cười vang dội sau bữa ăn. Bởi một trong ba vị khách loan báo rõ ràng rằng bà sẽ là mẹ của nhiều dân tộc mặc dù son sẻ. Nghe tin ấy Bà cười phá lên. Vì dưới cái nhìn của chính bà thì lời hứa này là không thể. Dù vậy bà vẫn đặt tên cho con trẻ là Isaac, có nghĩa là "Anh cười." Isaac là con của tiếng cười, con của những điều không thể. Thiên Chúa hứa ban cho bà khả năng sinh nở và Ngài trung thành với lời hứa. Đây là kết quả của cầu nguyện và hoạt động song hành với nhau.
Marta và Maria
Tin Mừng thánh Luca chương 10, nói về hai chị em Marta và Maria quê tại Betania. Cứ sự thường, thái độ của Marta và Maria được người ta qui chiếu về hai cách sống là: chiêm niệm và cầu nguyện, ơn gọi của người Kitô hữu. Thánh sử Luca miêu tả họ như sau: Maria ngồi dưới chân Chúa "lắng nghe lời Người", trong khi Marta bận rộn với việc phục vụ (x. Lc 10,39-40), bận tới độ hướng tới Chúa Giêsu và nói: "Lậy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm gì sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với" (Lc 10, 40). Nhưng Chúa Giêsu quở trách dịu dàng: "Marta, Marta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi, là con hãy nghỉ ngơi, và ngay cả điều quan trọng nhất, con hãy nghỉ ngơi bên cạnh Thày, chiêm ngắm Thầy và nghe Thầy nói" (Lc 10, 41).
Chính lời trên của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Marta, vì Maria đã để Marta làm mọi việc, còn cô ngồi vui vẻ trò chuyện với Chúa Giêsu, thì lại được khen là người khéo chọn "phần tốt nhất ". Vậy là việc Marta làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Marta khi Người nêu bật hành vi của Maria "ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người". Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ của Marta và Maria. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa.
Ðiều quan trọng trước hết là hiểu rằng ở đây không phải là sự chống đối giữa hai thái độ: lắng nghe lời Chúa, chiêm niệm, và phục vụ tha nhân một cách cụ thể. Đây không phải là hai thái độ chống đối nhau, nhưng trái lại, chúng là hai khía cạnh không bao giờ tách rời nhau, chung sống trong sự hiệp nhất và hài hòa sâu xa, bởi chúng có cùng nòng cốt đối với cuộc sống kitô của chúng ta làm nên người tín hữu trọn hảo.
Áp dụng
Chúa Giêsu muốn nói gì vậy? Ðiều duy nhất cần lo lắng ấy là gì?
Chúng ta phải phối hợp và áp dụng cả đời sống của Marta và Maria. Phần lớn trong chúng ta, được Thiên Chúa đã kêu gọi sống như "Marta". Nhưng cũng đừng quên rằng Chúa muốn chúng ta ngày càng như "Maria". Đời sống và sức mạnh của người kitô hữu chỉ có thể bền vững và triển nở nếu kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, lắng nghe Lời Chúa, tránh những tiếng ồn ào và tẻ nhạt che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "chọn phần tốt hơn" và không để cho bất cứ ai lấy mất. Đừng quên rằng điều quan trọng nhất không phải là những gì chúng ta có thể làm, nhưng là Lời Chúa soi sáng đời sống chúng ta, và do đó nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà việc chúng ta làm chất chứa tình yêu.
Một lời cầu nguyện mà không đưa tới hành động cụ thể đối với người anh em nghèo, bệnh tật, cần giúp đỡ, người anh em đang gặp khó khăn, là một lời cầu nguyện cằn cỗi và không trọn vẹn. Nhưng đồng thời trong việc phục vụ Giáo hội khi người ta chỉ chú ý tới việc làm, đặt trọng lượng nơi các sự vật, nhiệm vụ, cơ cấu, mà quên đi trọng tâm là Chúa Kitô, không dành thời giờ cho việc đối thoại với Chúa trong lời cầu nguyện, thì có nguy cơ phục vụ chính mình chứ không phục vụ Thiên Chúa nơi người anh em cần sự giúp đỡ. Thánh Biển Ðức tóm gọn kiểu sống mà thánh nhân chỉ cho các tu sĩ của người trong hai từ "ora et labora" "cầu nguyện và làm việc". Chính từ việc chiêm niệm, làm nảy sinh tương quan tình bạn với Chúa nơi chúng ta. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhớ chúng ta rằng: Chúa có nhiều điều để nói với chúng ta nhiều hơn chúng ta nghĩ. Vậy, hãy tìm kiếm, những khoảnh khắc của sự thinh lặng và bình an đến gặp Chúa Giêsu, và với Chúa, chúng ta gặp được chính mình. Chúa Giêsu Kitô mời gọi chúng ta phải chọn "phần tốt nhất" (Lc 10,42). (Trích thông điệp: Giáo Hội sống từ Thánh Thể). Lạy Mẹ Maria, Mẹ của sự lắng nghe và phục vụ, xin dậy chúng con suy niệm trong lòng Lời của Chúa Giêsu Con Mẹ và cầu nguyện với lòng trung thành, để luôn chú ý tới các nhu cầu của tha nhân cách cụ thể hơn. Amen.
Tin Mừng Lc 10, 38 – 42: "Matta con lo lắng bối rối về nhiều chuyện, chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai lấy đi được".
Thái độ đức tin căn bản của người tin vào Chúa chính là đón tiếp Chúa vào trong cuộc đời của TN 16-C194
Thái độ đức tin căn bản của người tin vào Chúa chính là đón tiếp Chúa vào trong cuộc đời của mình. Sự đón tiếp không chỉ thuần túy là mời khách vào nhà, lo cho khách của ăn vất chất mà chính là thể hiện tình yêu dành cho người khách. Đón tiếp Chúa cũng chính là thái độ yêu mến muốn Chúa đến sống thực sự trong cuộc đời của mình, để Người hướng dẫn soi sáng. Việc đón Chúa làm đẹp ý Người chính là thái độ biết lắng nghe, đón nhận và sống Lời Người.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 10:38-42
Matta và Maria tiếp đón Chúa
Hai chị em Matta và Maria đều tỏ lòng hiếu khách cách đặc biệt khi tiếp đón Chúa Giêsu đến thăm nhà mình. Tuy nhiên, hai người lại có hai thái độ, hai cách thức đón tiếp xem ra khác nhau. Lòng hiếu khách hệ tại ở việc trân trọng khách, lắng nghe và đáp ứng nhu cầu của khách hơn là bắt khách phải chiều theo sự đón tiếp của mình. Đón tiếp Chúa vào nhà mình, vào cuộc đời mình chính là biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Tin mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ điểm đó.
a. Đoạn Tin mừng này theo sự chú giải của các Giáo phụ như Ogirène, Thánh Ambrôsiô hay Thánh Cyrille d'Alexandre … thì hai chị em tượng trương cho hai lối sống tu đức hoạt động và chiêm niệm. Theo các ngài cả hai cách hoạt động phải luôn tồn tại trong người Kitô hữu.
b. Dựa theo văn mạch và toàn bộ tác phẩm của Luca kể cả Tông đồ công vụ thì xem ra Luca nhấn mạnh đến giá trị của Lời Chúa, đến việc lắng nghe và đón nhận Lời Chúa hơn. Phải dành ưu tiên cho việc lắng nghe Lời Chúa trong đức tin. Liên hệ với Cv 6,1-6: việc các Tông đồ chọn các Phó tế với mục đích là để các vị này chuyên lo việc dọn bàn, việc bác ái; còn các Tông đồ thì chuyên chăm vào việc rao giảng Tin mừng. Như vậy, có sự tương đồng giữa hai câu chuyện này: Lời được lắng nghe hay rao giảng chiếm vị trí tối cao vượt trên hết các việc khác.
c. Matta bị khiển trách không phải vì thái độ thiếu hiếu khách mà vì việc lo lắng thái quá đến vật chất, đến việc bắt người khác đón tiếp theo ý mình để rồi quên đi điều cần thiết duy nhất mà Maria đã làm đó là đón nhận Lời Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đón tiếp Chúa là đón nhận sứ điệp Tin mừng của Người:
Hai chị em Matta và Maria cùng đón tiếp Chúa Giêsu nhưng mỗi người mỗi cách. Matta thì rối rít chuẩn bị bữa ăn, cô lo toan sao cho Chúa, vị khách quí của gia đình được hưởng bữa ăn ngon nhất, được đón tiếp ân cần nhất. Tuy nhiên, lo lắng băn khoăn quá khiến cô không còn chú ý tới chính Chúa Giêsu là đối tượng của sự tiếp đón. Thái độ của cô xem ra không làm hài lòng Chúa cho bằng thái độ đón tiếp của cô em Maria. Cô này tiếp đãi Chúa bằng việc tiếp chuyện, ngồi dưới chân Chúa Giêsu và lắng nghe lời Người. Theo lẽ thường tình, khi một người khách đến thăm gia đình chắc hẳn họ sẽ hài lòng khi thấy gia chủ ân cần tiếp chuyện hỏi han và nhất là biết lắng nghe họ trao đổi tâm sự. Còn sẽ chẳng vui bao nhiêu nếu đến nhà mà chủ nhà để khách ngồi một chỗ, còn họ thì lo lắng chuyện cơm nước bếp núc. Như vậy, chắc chắn khách cảm thấy mình trở nên thừa thãi và là gánh nặng cho gia chủ. Đối với Chúa Giêsu, không hẳn Người đã có thái độ thường tình ấy, nhưng những gì Người nói với Matta và đề cao thái độ của Maria cho thấy, Người muốn trước hết phải biết đón nhận Lời Người và sứ điệp Tin mừng của Người. Maria đã chọn phần tốt nhất là lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.
Đối với Kitô hữu ngày nay, thái độ của chúng ta mỗi khi cầu nguyện, tham dự Thánh lễ… như thế nào, có thực sự mở lòng để đón rước Chúa, lắng nghe và sống Lời Chúa không? Hay chúng ta chỉ chăm chăm chú chú đến đọc kinh nào, đọc ra sao và với tư thế thế nào?
2. Nghe và sống Lời Chúa là ưu tiên của đời sống Kitô hữu:
"Matta con lo lắng bối rối về nhiều chuyện, chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai lấy đi được".
Khi trách Matta lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện, Chúa Giêsu lấy lại vấn đề mà Người thường giảng dạy các môn đệ và dân chúng: Đừng quá lo lắng về chuyện cái ăn cái mặc (Mt 6, 25-34; Lc 12,22-26); bận tâm đến những âu lo của cuộc sống vật chất sẽ làm chết ngạt Lời Chúa được gieo trong lòng (Lc 8,14; Mt 13,22). Theo văn mạch, Matta băn khoăn về nhiều điều đó là chuyện ăn uống, săn sóc, phục dịch Chúa Giêsu. Cô đã lo lắng đến nỗi quên đi chuyện cần thiết nhất: bỏ tất cả để nghe Lời Chúa. Với Chúa Giêsu, có một bậc thang giá trị: phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc lắng nghe Lời Chúa. Matta không bị khiển trách về lòng hiếu khách, về sự đón tiếp nhưng vì quá lo lắng đến vật chất khiến cô quên đi việc ưu tiên cần thiết ấy.
Qua lời khiển trách Matta, Chúa Giêsu kêu mời mỗi Kitô hữu chúng ta hãy rũ bỏ những lo toan vật chất, tiện nghi cuộc sống, rũ bỏ những âu lo trần thế để chọn phần tốt nhất không ai lấy mất được như cô Maria đó là lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, Lời mà chắc hẳn mỗi người đều đang đói khát. Trong cuộc sống hiện tại, đâu là ưu tiên một của tôi, Lời Chúa hay công danh sự nghiệp, cơm áo gạo tiền ở đời?
3. Đón tiếp Chúa là đặt mình phục vụ theo ý Người:
Matta vất vả nhiều, cô thấy mình có công và làm như vậy là đúng, cho nên, cô yêu cầu Chúa Giêsu nói với Maria phụ giúp mình. Cô muốn Chúa Giêsu và em cô phải quan tâm: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Phản ứng của Matta là một phản ứng tự nhiên như bao nhiêu người khác. Ai cũng muốn người khác biết đến mình, biết đến công lao và sự hy sinh của bản thân mình. Không chỉ có thế mà còn muốn bắt người khác phục vụ theo ý, theo cách của mình. Matta đã hành động và cư xử như thế. Chính vì thế mà cô đã hầu như quên mất sự hiện diện của Chúa Giêsu, không còn quan tâm đến ý muốn của Chúa. Câu đáp trả của Chúa Giêsu giúp cho Matta và mọi người một cách thức để đón tiếp làm vui lòng Người, đó là phục vụ và đón tiếp theo ý muốn của Người. Phải biết chiều theo ý của Chúa.
Thực tế cuộc sống cũng cho thấy một chân lý đơn giản lòng hiếu khách được thể hiện ở chỗ biết làm vui lòng khách, biết chiều theo ý thích của khách. Nghĩa là phải biết quan tâm đến khách muốn gì. Ở đây việc đón tiếp Chúa chính là phải làm theo ý Chúa, nghe theo Lời Người.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương và muốn đến viếng thăm gia đình cũng như tâm hồn mỗi người chúng ta. Trong niềm vui mừng được Chúa viếng thăm chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Giáo hội là nhà của Chúa, nơi Chúa tiếp đón và trao ban ơn Cứu độ của Người cho muôn dân. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội luôn biết rộng lòng đón nhận, cưu mang và giúp phát triển mọi người, mọi dân tộc, mọi nền văn hóa.
2. Ngày nay biết bao nhiêu anh chị em đói khổ, không nơi trú ngụ, không được hưởng quyền sống đúng với phẩm giá con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong xã hội, nhất là những nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết yêu thương chăm lo phát triển đời sống con người về mọi mặt.
3. Matta và Maria đã ân cần tiếp đón Chúa đến nhà mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương mở rộng cửa lòng đón nhận giúp đỡ anh chị em nghèo khổ chung quanh.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vui vẻ nhận sự đón tiếp của các bạn hữu. Xin Chúa yêu thương đến với chúng con, với gia đình và cộng đoàn chúng con. Xin mở lòng chúng con để tất cả biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin Mừng Lc 10: 38-42: Và trong Tin Mừng hôm nay Chúa gọi Matta: “Matta, Matta”, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một sự cần mà thôi...
Suy niệm
Trong kho tàng văn học Việt Nam, thi sĩ Nguyễn Khuyến đã viết một bài thơ kể về một tình bạn: “Bạn Đến TN 16-C195
Trong kho tàng văn học Việt Nam, thi sĩ Nguyễn Khuyến đã viết một bài thơ kể về một tình bạn:
“Bạn Đến Chơi Nhà” Đã bấy lâu nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu, nước cả, khôn chài cá; Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra hoa, cà mới nụ; Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta.
Những câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Mối tương quan bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật, không màng đến vật chất, lợi lộc.
Trên hành trình rao giảng, thỉnh thoảng Chúa Giêsu cũng có những nơi dừng chân, tiện dịp ghé qua thăm những người thân, bằng hữu. Lần này, thánh sử Luca cho chúng ta về một hoàn cảnh Chúa ghé vào thăm, làng Bêthania. Nơi đây có một gia đình mà Chúa Giêsu rất yêu quý, đó là gia đình của chị em Martha, Maria và Lazarô.
Lúc Chúa tới, Martha rất hiếu khách tiếp đón Chúa vào nhà, tất bật lo lắng nào là chỗ nghỉ tốt nhất, trổ tài nữ công gia chánh chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn nhất. Martha rất đảm đang trong việc phục vụ, điều đó thật là đáng khen. Tuy nhiên, dường như trong việc phục vụ này có một chút so đo tính toán. Martha cho rằng Maria em cô lười biếng, lánh nặng tìm nhẹ. Đến lúc không còn kiềm chế được nỗi ấm ức của mình, cô đã chạy đến trước Chúa. “Em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”. Tấm lòng cô yêu mến Thầy với nhóm môn đệ khiến cô tự tâm cố gắng trong việc phục vụ. Nhưng giờ đây cô lại xem mình như là kẻ hầu hạ, để rồi lòng không vui, việc phục vụ trở nên gánh nặng, không còn nhìn người em mình với ánh mắt tích cực, dẫn tới việc cô trách móc luôn cả Chúa, tại vì Chúa mà em cô ngồi đó, không xuống phụ chị việc làm bếp.
Thử hỏi nếu chúng ta là một người khách tới thăm bạn mình, chúng ta có muốn bị để lẻ loi, trong khi gia chủ lo làm bếp núc dưới nhà. Chúng ta là những người khách, tới thăm bạn vì muốn hàn thuyên với bạn hay vì để được no bụng, cái nào quan trọng hơn?
Chúa Giêsu không phủ nhận tất cả sự quan tâm lo lắng của Martha, và Người cũng đang quan sát, chú ý đến cô. Có thể nói Người “đang đi guốc trong bụng” cô, nên Người mới bảo cô: “Con lo lắng nhiều chuyện quá”. Chúa Giêsu muốn cho thấy chỉ có một điều cần thiết và quan trọng hơn hẳn đó là lắng nghe Lời Chúa. Lo lắng cho Chúa là điều đáng quý, nhưng để hết tâm trí để nghe Lời Ngài mà thực thành theo, lại còn đáng trân trọng hơn.
Nếu như Martha trách móc Chúa thì Chúa lại dùng tiếng gọi thân thương để thức tỉnh cô: “Martha, Martha!” Chúa nhẹ nhàng chỉ bảo cho Martha và mỗi chúng ta biết rằng “chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Vâng, thay vì lo lắng với lương thực trần thế miếng đói miếng no, Chúa Giêsu lấy hình ảnh cô Maria ngồi bên chân Chúa và nghe Lời Chúa để dạy chúng ta về việc biết lo cho lương thực thiêng liêng. Chính Lời Chúa là Thần Lương mới có thể biến đổi chúng ta từng ngày, thay đổi từ cách suy nghĩ, lối sống cho đến việc dấn thân và cung cách phục vụ vô vị lợi vì nước Trời. Một khi chúng ta chọn Chúa là hạnh phúc và no đủ cho đời mình vì đó là phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất. Còn khi chúng ta gắng sức chạy đôn chạy đáo, tất bật với miếng cơm manh áo mà thiếu Lời Chúa soi dẫn, chúng ta dễ sống cho ý riêng mình mà thôi.
Khi nói về tinh thần phục vụ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta chia sẻ như sau:
"Không cầu nguyện thì không có đức tin, Không có đức tin thì không có tình mến, Không có tình mến thì không có phục vụ, Không có phục vụ thì không có niềm vui, không có bình an."
Bốn bước căn bản Cầu nguyện - Đức Tin - Tình mến -Phục vụ mà mẹ Têrêsa đưa ra giúp chúng ta nhận ra rằng để có thể phục vụ được, trước tiên hãy ngồi lại cầu nguyện với Chúa và bên Chúa, từ đó đức tin của chúng ta mới được củng cố. Và khi chúng ta đủ tin, đủ yêu, chúng ta sẽ sẵn sàng dấn thân không mỏi mệt. Vậy, lạy Chúa, xin cho con dành giờ phút trong ngày để lắng đọng, siêng năng gẫm suy lời Chúa để biết thánh ý Chúa muốn trên cuộc đời con. Amen.
Thái độ của Maria và Mattha trong tin mừng được nhiều người chú giải cho rằng nó phản ánh đời TN 16-C196
Thái độ của Maria và Mattha trong tin mừng được nhiều người chú giải cho rằng nó phản ánh đời sống tu trì chiêm niệm và hoạt động, nhưng theo thiển kiến của tôi, lời giải thích như vậy không phản ánh hoàn cảnh lịch sử thời Đức Yêsu và cũng chẳng phản ánh trung thực nét chiêm niệm của những người sống đời hoạt động. Thái độ của Maria và của Mattha đối với Đức Yêsu, phản ánh thái độ của mỗi người trong tương quan với Thiên Chúa và với Đức Yêsu. Maria đặt tương quan thiết thân với Đức Yêsu trên tất cả, Mattha lo phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ tha nhân.
Điều đáng trách nơi Mattha không phải là những lo toan nhằm phục vụ Đức Yêsu và các tông đồ, nhưng là thái độ của Mattha đối với em mình là Maria, cũng như thái độ Mattha đòi Đức Yêsu can thiệp để Maria làm theo ý mình. Nếu không có Mattha lo việc phục vụ, thì việc thăm viếng của Đức Yêsu và các tông đồ cũng không hoàn toàn tốt đẹp. Việc Mattha lo phục vụ ăn uống rất đáng khen, nhưng điều dở nơi Mattha là đòi Maria phải bỏ việc tiếp Đức Yêsu, đòi Maria bỏ việc ngồi nghe Đức Yêsu mà làm công việc mà chị thấy là cần. Mattha thấy việc làm điều này điều kia là cần, nhưng Maria thấy việc ngồi bên chân Đức Yêsu và nghe Ngài nói chuyện là cần. Đừng bắt người khác làm theo ý mình, và cũng đừng áp lực người khác nữa can thiệp để đòi ai đó làm theo ý mình. Sở dĩ Mattha đòi như vậy, vì Mattha nghĩ việc “phục vụ” là cần nhất; thật ra, điều đó là cần nhưng điều khác cũng cần không kém.
Điều làm xung khắc giữa Mattha và Maria hôm nay, chúng ta lại thấy rất hài hòa nơi Abraham. Abraham rất hiếu khách, ông lo để ba vị khách có nước rửa chân, có lương thực để ăn, và chính ông lại đứng hầu tiếp chuyện với khách. Thái độ và cách hành xử của Abraham thật tuyệt vời.
Abraham chưa nhận ra ba vị đây chính là Thiên Chúa, nhưng thái độ của Abraham đối với ba vị khách này rất kính cẩn, rất hiếu khách. Không ai nghĩ rằng, đối xử với con người là đối xử với Thiên Chúa, nhưng sự thực lại đúng là vậy. Abraham đối xử với ba vị khách, là đối xử với Thiên Chúa. Dân Bêlem đối xử với thánh Yuse và Đức Maria cùng hài nhi nằm trong dạ Đức Maria, là đối xử với gia đình thánh và đối xử với Thiên Chúa. Đức Yêsu trong lời dạy trong Mt.25, 31tt đã đồng hóa mình với những người nghèo hèn nhất, và ai đối xử với nghèo hèn nhất thế nào là đối xử với Thiên Chúa như vậy. Với Maria và Mattha, Đức Yêsu lúc này là một vị thầy kính yêu nhưng hai chị chưa biết đó là Thiên Chúa nhập thể; tuy vậy, đối xử với Đức Yêsu là đối xử với Thiên Chúa. Đối xử tốt đối với Đức Yêsu, là đối xử tốt với Thiên Chúa; không đối xử tốt với Đức Yêsu, là không đối xử tốt với Thiên Chúa; tuy vậy, Đức Yêsu vẫn cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi và làm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết.” Con người đối xử với Thiên Chúa có thể không tốt, nhưng Thiên Chúa đối xử với con người thì luôn thành tín và yêu thương.
Thiên Chúa tới thăm Abraham, cho thấy tình thân và tình thương của Thiên Chúa đối với Abrahm thắm thiết như thế nào. Thiên Chúa biết nỗi bận tâm của Abraham và Sara khi hai người không có con; Thiên Chúa đã đoái thương và hứa sẽ cho Sara có con vào thời điểm này năm sau. Thiên Chúa yêu thương nên quan tâm đến những ước vọng của con người. Thiên Chúa luôn gần gũi và quan tâm đến nỗi bận tâm của mỗi người đến mức độ không ngờ: Thiên Chúa luôn can thiệp vào cuộc đời mỗi người, để yêu thương giúp đỡ và bảo vệ mỗi người.
Nơi Phaolô, người ta thấy một tình yêu rất đặc biệt đối với Đức Yêsu. Kể từ khi biết Đức Yêsu, Phaolô coi tất cả như thua lỗ bất lợi, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Yêsu. Biến cố Đức Yêsu chết và sống lại, Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, là một tin mừng thật đặc biệt đối với Phaolô. Phaolô muốn cho mọi người được biết Tin Mừng Cứu Độ này. Cả đời của Phaolô đã miệt mài rao giảng Tin Mừng Đức Yêsu Kitô. Phaolô hạnh phúc khi rao giảng Tin Mừng, vì Phaolô biết người ta sẽ hạnh phúc khi người ta nhận biết Đức Yêsu là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
Đức Yêsu là niềm tự hào, là vinh dự của Phaolô. Những người Phaolô phục vụ và rao giảng Tin Mừng, cũng là triều thiên và vinh quang của Phaolô. Chính nhờ Đức Yêsu, mà Phaolô có tương quan thân thiết đối với những người Ngài phục vụ. Nhờ Đức Yêsu, nhờ Đấng mà Phaolô rao giảng, Phaolô được tất cả trong Thiên Chúa. Phaolô vẫn mang trong mình tất cả những gì của kiếp người: “đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con” (2Cor.12, 8-9). Phaolô giống chúng ta mọi đàng với những giới hạn và khó khăn, nhưng ngài là người yêu mến Đức Yêsu rất đặc biệt. Đức Yêsu là tất cả đối với Phaolô. Phaolô trở thành một mẫu mực cho tất cả chúng ta, trong cách chúng ta đối xử với Thiên Chúa, với Đức Yêsu, và đối với con người. Thiên Chúa trên hết, Đức Yêsu là tất cả, và tha nhân là triều thiên và vinh dự của ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Con người có thể có tương quan thân thiết với Thiên Chúa không? Xin trưng bằng cớ cho lập trường của bạn.
2. Tương quan giữa con người với nhau diễn tả tương quan của con người đối với Thiên Chúa. Bạn nghĩ sao về câu nói trên?
3. Làm sao để phát huy mối tương quan tốt với Thiên Chúa cũng như mối tương quan tốt giữa con người với nhau?
Mặc dầu theo truyền thống thì chúng ta ủng hộ Cô Maria trong câu chuyện tin mừng hôm nay TN 16-C197
Mặc dầu theo truyền thống thì chúng ta ủng hộ Cô Maria trong câu chuyện tin mừng hôm nay. Cô đã tỏ ra xứng đáng là một môn đồ tốt của Chúa Giêsu. Nhưng điều tôi muốn nói là:?Cám ơn Chúa vì Cô Martha!". Cô Maria ngồi bên chân Chúa Giêsu chăm chú nghe Ngài giảng dậy. Thánh sử Luca vẽ một quang cảnh thật đẹp ở đây. Cảnh trí quá ư yên tĩnh và yêu kiều đến nỗi nhiều nghệ sĩ đã lấy nó như nguồn cảm hứng. Một nữ môn đệ lắng nghe Chúa dậy bảo. Còn chi thích hợp hơn cho một đề tài tôn giáo! Và bạn sẽ vẽ cảnh trí này ra sao? hay dựng nó thế nào cho một kiểu chụp ảnh? Cô Maria hơi nghiêng đầu về phía trước, toàn tâm toàn trí lắng nghe lời Ngài, lo lắng kẻo bỏ sót một lời nào. Còn Chúa Giêsu, thoải mái nhưng nghiêm nghị. Ngài ngồi cũng hơi nghiêng về phía Maria, quần áo tươm tất không vết nhăn, tay Ngài chỉ lên trời ở những điểm quan trọng, Ngài cố gắng nói rõ ràng chậm rãi, tiếng Ngài bình tĩnh, trong, vang và vững chải. Ngài không để một điều chi mù mờ khó hiểu. Ngài thường nhắc đi nhắc lại những ý chính. Maria hớn hở vì được nghe giáo lý tuyệt vời của Ngài. Xong bức tranh bạn treo lên tường ngắm nghía, mọi sự đều toàn hảo , gọn gàng, không một nét vụng về, lạc lõng. Ánh sáng trong lành từ của sổ chiếu vào, làm cho bức tranh thêm rực rỡ. Ngoài kia bầu trời trong xanh, không một gợn mây!
Phải chăng đó là câu chuyện tin mừng hôm nay? Tất cả đều hòa hợp toàn hảo, tất cả đều là ánh sáng? Tất cả đều rõ ràng cho các môn đệ đang lắng nghe lời Chúa và đó cũng là đời bạn, đời tôi? Không đâu! Tôi không nghĩ như vậy! ít là cuộc đời của tôi. Tôi đã từng phải vật lộn để được chút tâm trí mà lắng nghe lời Chúa. Bức tranh đẹp qúa và xem ra là ở một nơi xa vời nào đó, trên một ngọn đồi, trong một tu viện yên tĩnh nghiêm trang. Có thể là một thầy khổ tu hay một chị đan sĩ có điều kiện hòa điệu hoàn toàn đời mình với lời Chúa và lắng nghe lời Ngài trên ngọn đồi tu viện thơ mộng xa vắng trong một ngày quang đãng không mây! Còn thì chẳng mấy người có được những cơ hội tốt như vậy. Thực tế tôi đã cất công đi phỏng vấn nhiều tu sĩ nam nữ trên đất nước này và họ đều trả lời: chẳng được. Thì ra không ai trong chúng ta có hạnh phúc nghe lời Chúa ở một vị trí lý tưởng: không ai quấy rầy, hoàn toàn học được những điều cần thiết để đưa ra chính xác những quyết định cho đời mình!Chúng ta bất hạnh hơn Maria chăng? Thưa không! Th.Luca chẳng có ý viết tin mừng cho một số ít chọn sống đời chiêm niệm. Ngài viết cho đại đa số dân Chúa bận rộn. Cảnh trí của Maria chỉ có vài dòng, tiếp ngay sau là lời phàn nàn của Martha! Vì vậy tôi nói ở trên:"Tạ ơn Chúa vì Cô Martha!" và tôi nghĩ anh chị em trong nhà thờ này cũng đồng tình với tôi khi nghe Martha cất tiếng! Thực sự thì anh chị em đã đựoc biết trước mọi chi tiết củ? câu chuyện và anh chị em đã dự đoán sự nhập cuộc của cô ta. Có một lần khi diễn giải đọan tin mừng này, tôi nói:"Nếu như mẹ tôi được phép xé rách một câu chuyện nào trong tin mừng và vứt bỏ đi, thì đây là câu chuyện bà làm trước nhất. Cả nhà thờ bật cười tán thưởng. Thành ra họ cũng chẳng có được hoàn cảnh lý tưởng như cô!
"Lạy Chúa , Ngài không nghĩ đến sao.? Martha cất tiếng phản kháng khi cô nêu ra những khó khăn, nhọc mệt của mình. Chính cô Martha đã đón tiếp Chúa Giêsu vào nhà mình và chính chúng ta cũng tiếp rước Chúa Giêsu vào cuộc đời chúng ta! Nhưng mà sau cuộc đón tiếp là những hệ quả lao nhọc liền theo! Hằng trăm thứ việc phải làm, toàn là công việc nặng nhọc và chúng ta cảm thấy như phải làm một mình! Chúng ta ở đây không chỉ là cá nhân mà có khi là cả một cộng đoàn giáo xứ. "Lạy Chúa, Ngài không nghĩ đến sao ""? Giáo xứ chúng con phải vật lộn với trăm công nghìn việc để giữ cho giáo xứ đoàn kết an vui! Bầu khí trong giáo xứ thảnh thơi êm ả. Thánh Luca mô tả cộng việc của Martha là "diakonia"(tiếng Anh là Deacon, và tiếng Việt la phó tế). Ðây là chìa khóa để chúng ta hiểu ý nghĩa của bài tin mùng hôm nay. Martha đang làm cộng việc phục vụ Chúa Giêsu. Vậy thì Maria và Martha là hai mặt của cùng một thực tế, phục vụ Chúa Giêsu, làm môn đệ Ngài. Hai người đàn bà này không phải là hai lực lượng kình chống nhau, mà là hai chị em, cùng đón tiếp Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài, mặc dầu Martha không được đánh gía cao! Nhưng không vì thế mà của cô kém phần quan trọng. Làm môn đệ Chúa Giêsu không có ý nghĩa là chỉ lắng nghe lời Ngài, hoàn toàn thụ động như cô Maria, mà còn là thực hành lời Chúa.
Có học gỉả lưu ý rằng các tông đồ phái nam luôn luôn được mô tả như những người đối thoại với Chúa Giêsu. Vậy thì hai mẫu người đàn bà môn đệ của Chúa Giêsu, chưa người nào là đầy đủ, họ cần bổ túc cho nhau, và chúng ta tất cả có thể học hỏi ở họ về mặt này hay mặt khác.
Bài tin mừng hôm nay tiếp liền sau bài tin mừng tuần trước về người Samaritanô nhân hậu, như vậy Th.Luca gợi ý rằng những môn đệ ngồi bên chân Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài thì phải nhận ra lòng thương xót của Chúa trong câu chuyện dụ ngôn, nếu chúng ta không lắng nghe thì làm sao chúng ta có thể trở nên môn đệ đích thực của Ngài? Chúng ta sẽ ra đi nghĩ rằng mình là môn đệ Chúa, rồi phạm đủ mọi thứ sai lầm như hai thầy tư tế và lêvi kia. Nghe lời Chúa và phục vụ Hội Thánh cả hai đều cần thiết. Chúng ta cần cả hai trong cuộc sống nếu như muốn làm môn đệ trung thành của Ngài. Các nhà sư Phật giáo cũng có những suy nghĩ giống như vậy. Họ nói:"Sau những giây phút tịnh thiền, là đến các đĩa món ăn". Ngay cả đến những tu viện chiêm niện nghiêm ngặt nhất thì cũng phải mưu sinh trồng tỉa, lau chùi sàn nhà, nấu ăn, giặt dũ v.v.những công việc thường nhật để có thể nuôi sống lẫn nhau và giúp đỡ những ai đến gõ cổng tu viện. Thực ra, khẩu hiệu của các vị tu sĩ chiêm niệm là:"Cầu nguyện và lao động" (Ora et labora).
Khi chấp nhận môn đệ tốt của Chúa Giêsu phải gồm cả hai mặt lắng nghe và thực hành lời Chúa, tôi chẳng thể tránh một điều gai góc là làm thế nào tôi có thể nuôi dưỡng được vị trí chiêm niệm trong cuộc đời tôi. Nó luôn bị những náo động thế gian đe dọa, lấn át, bổn phận hằng ngày, tiếp khách, soạn bài giảng, nghề nghiệp, con cái, bạn bè, thỏa mãn nhu cầu cuộc sống, ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí. Nếu như Maria và Martha là hai mặt của cuộc đời tôi, thì chính khía cạnh Maria cần phải được chăm sóc, lo lắng nhiều hơn.
Linh mục James Finley trong sách "trái tim chiêm niệm" (The Contemplative heart) đưa ra một giải pháp, đó là: "hãy học làm thức tỉnh tính thần linh của mặt đất dưới chân bạn." Nghe lạ lùng quá, nhưng bí quyết thì rất đơn giản: hãy thánh hóa giây phút hiện tại mong manh của bạn. Chúng ta có tính hay quên, quên rằng vũ trụ này là do Chúa dựng nên, Ngài còn tiếp tục hiện diện đâu đây trên trái đất, trong vũ trụ, trong muôn loài. Chúng ta chẳng có thể nắm bắt được Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn có mặt ở đó, Mỗi buổi sáng, bình minh đẹp lắm, chiếu tỏa muôn hồng nghìn tía trên những ngọn đồi phía đông xa xa, chúng ta tưởng có Chúa ở đấy, nhưng khi leo lên đỉnh đồi chúng ta chẳng thấy Ngài đâu! Bông hoa nở trên bờ dậu đàng kia đẹp qúa, long lanh sương mai, chúng ta tưởng có Chúa ở đó, nhưng khi cầm bông hoa trong tay, lại chẳng thấy Ngài đâu! Nụ cười cô thôn nữ trước ngõ tươi quá, đẹp quá, dịu dàng quá, tưởng như một hạt ngọc làm ngây ngất tâm hồn, nhưng khi đi qua ngõ chỉ được một lời chào trong trẻo, chẳng thấy Chúa đâu.hay nói cách khác Chúa ở khắp mọi nơi, mọi tạo vật của Ngài. Nhưng Ngài không ở đấy để cho bạn nắm bắt được. Ngài vô hình kia mà! tuy Ngài vẫn có mặt ở bên bạn ,
Lạy Chúa xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe trong khi tiếng của Martha, của thế giới thực tế chen vào nhắc nhở chúng ta về đủ mọi thứ công việc trên đời để phục vụ Chúa trong tha nhân và nuôi sống lấy mình, lấy gia đình mình. Hai mặt của một cuộc đời. Xin Chúa cho chúng ta luôn luôn biết chạy đến bàn tiệc thánh thể để được nuôi dưỡng trên con đường gập ghềnh tiến về Giêrusalem, xứng đáng là những người môn đệ trung thành của Chúa. Amen.
Tin mừng Lc 10, 38-42: Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời.
Với trang Tin Mừng này, ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân TN 16-C198
Với trang Tin Mừng này, ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác.
Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.
Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông. Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó. Martha cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Martha rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Martha mà cho tất cả mọi người trong mọi thời: “Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp mất”. Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.
Maria đã được giới thiệu với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng nghe Người với tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên trước mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng hiến sự hiếu khách cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.
Ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện, mà quên mất “một chuyện cần thiết nhất”: lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện với Ngài.
Chúng ta lo xây cất cho Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời làm cho chúng ta được sống. Bời vì “con người sống không chỉn hờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa” (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.
Quả thật, Chúa muốn chúng ta vừa là Martha, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không nói rằng khi chúng ta làm việc như Martha, ta không thể cầu nguyện như Maria, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Martha vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối” để giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa.
Đây cũng chính là sự lầm lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.
Thực vậy con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con người còn có những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn. Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài giảng dạy.
Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Ðôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.
Chúa Giêsu không phủ nhận giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng quan tâm đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của dân chúng sao? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã từng hóa nước thành rượu để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn hết là cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.
Câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.
Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn này, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề... Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.