Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 19-C Bài 101-143 Hãy tỉnh thức và sẵn sàng --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 12, 32-48: "Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó. "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến: TN19-C101
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.
Khi con người bị say đắmvào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú ... Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân - Thiện - Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người. Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không "đụng hàng" dành cho những đại gia "đỏ", một địa vị tại trần thế ..., đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa ? Đối với những người sống đức tin thì không ! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:
2/ Tỉnh Thức để đón Chúa:
Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến. Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha. Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta. Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày ? Khó lắm ! Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian, quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.
Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả ..., thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.
Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.
Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:
"Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa ". Amen.
Không phải khoe khoang, nhưng như phần nhiều anh chị em, tôi cũng thường xuyên đọc Tin mừng: TN19-C102
Không phải khoe khoang, nhưng như phần nhiều anh chị em, tôi cũng thường xuyên đọc Tin mừng. Tôi dùng Tin mừng để cầu nguyện và luôn giảng lời Sách thánh. Tôi đã làm như thế trong nhiều năm, nhưng thú thật, tôi không bị tác động gì nhiều từ bài dọc một trích sách Khôn ngoan. Nếu có, chắc tôi sẽ bối rối và cần được giúp đỡ. Có lẽ anh chị em cũng vậy. Nếu điều này đúng với cả anh chị em và cả tôi nữa thì tôi chắc là cộng đoàn chúng ta sẽ chia sẻ vấn nạn này khi nghe bài đọc một. Đoạn văn này bắt nguồn từ đâu? Nói về cái gì? Và nó liên hệ đến đời sống của chúng ta ra sao?
Thường thì tôi sẽ không chọn giải pháp đọc những dẫn giải Kinh thánh ngay, nhưng thường cố lắng nghe thông điệp từ những tác động bên ngoài. Nhưng hôm nay, tôi phải sử dụng đến quyển hướng dẫn Thừa tác viên Lời Chúa, Độc giả Tin Mừng và Người công bố Lời" (Chicago: Liturgy Training Publication, 2010) khi soạn bài giảng lễ Chúa Nhật. Trong những quyển sách đó có những đoạn chú giải ngắn gọn về các bài đọc và tôi thường thấy khá hữu ích, nhưng với bài đọc hôm nay thì quả thật lại là một thách đố. Quả vậy, Quyển hướng dẫn Thừa tác viên Lời đề nghị đọc bản Tin mừng trước để có thể hiểu rõ bài đọc một hơn. Tôi chọn cách làm ngược lại: đọc bản văn này trước khi bước vào "lãng địa Kitô giáo" với bài Tin mừng.
Tác giả sách Khôn ngoan lấy lại một biến cố quá khứ, việc Chúa giải cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập (đêm vượt qua) và diễn giải nó cho thế hệ tín hữu mới của thế kỷ thứ I. Chúa đã đưa ra một lời hứa (lời "thề") với cha ông họ (mà bài đọc trích thư Do Thái gọi các ngài là "tiền nhân"), những người đang mong chờ sự giải thoát. Họ phải sống trong niềm tin, tin vào lời Chúa hứa, và hy vọng một ngày kia những lời hứa ấy sẽ được hoàn tất. Như thư Do Thái nhắc nhở chúng ta: "Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy."
Đức tin chưa đạt tới đích, cũng chẳng có một bằng chứng cụ thể về sự hiện hữu của nó. Cũng vậy, tín hữu có thể thấy những gì chưa thực sự nhìn được bằng mắt vì chúng ta nhìn bằng con mắt đức tin. Cũng chính niềm tin không thể nhìn thấy đó đã giữ vững những tiền nhân mà hôm nay sách Khôn Ngoan ca tụng. Đó cũng là đức tin của con cái của Apraham và Sara, mà thư Do Thái nói với chúng ta, dù họ chết mà chưa được thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn tất. Cuộc đời của họ kết thúc với một chữ "Amen" đầy tín thác vào Thiên Chúa.
Chúng ta đã biết những người sống niềm tin mà những bản Kinh thánh này nhắc tới; những người đả phải thử thách nghiêm trọng bằng nhiều mất mát và đau thương nơi chính mình hay những người thân yêu. Nhưng dù có phải đối diện với muôn vàn khốn khó, các ngài vẫn không từ bỏ tin tưởng Thiên Chúa. Dù lắm khi những chứng cứ chống lại đức tin đó cứ dâng lên như sóng thủy triều trước mắt họ. Nhưng các ngài vẫn luôn tín thác và chính nhờ đức tin ấy đã cho các ngài "bằng chứng những điều không trông thấy." Khi chúng ta trải qua những thử thách như thế, thậm chí những gì thân thiết nhất với chúng ta cũng có thể thử thách chính đức kiên cường và niềm tin của chúng ta. Chúng ta không thể đưa ra bằng chứng cụ thể về giá trị đức tin của chúng ta. Chúng ta chỉ tin, như cha ông chúng ta đã tin, vào Đấng đã hứa ở với chúng ta, Đấng mà sách Khôn ngoan đã khẳng định là xứng đáng để chúng ta tin tưởng; và chính "lời hứa" của Ngài cho chúng ta can đảm bước tiếp những bước can đảm trên hành trình đức tin của mình.
Giờ thì chúng ta đã sẵn sàng để bước vào bài Tin mừng. Để cho rõ ràng và đi vào trọng tâm, tôi chọn bài bài ngắn (Lc 12, 35-4o). Bài Tin mừng này kể một dụ ngôn quá đủ cho chúng ta ngày nay!
Dụ ngôn người đầy tớ chờ đợi chủ trở về là sự hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa đối với những ai đã chịu gian nan vất vả mà vẫn tin tưởng vào Ngài, những người đã được hai bài đọc trước tán dương. Bài thánh vịnh đáp ca đã tóm tắt như sau: "Hồn chúng tôi trông Đức Chúa là Đấng luôn phù trợ và chở che." Dụ ngôn cho thấy rằng những ai tin tưởng đợi chờ đã không thất vọng và đã thấy lời hứa cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất nơi sự hiện diện của Đức Giêsu.
Những ai tin tưởng thì "tỉnh thức" khi chủ đến, dù cho phải chờ đợi lâu - dẫu là "nửa đêm hay lúc trời gần sáng." Thế hệ Kitô hữu đầu tiên, những thính giả của thánh Luca, đã được khích lệ sống tỉnh thức và sẵn sàng để đón Chúa Giêsu trở lại. Đức Giêsu đã hứa với nhữg môn đệ có tinh thần cảnh giác là: khi Người trở lại, những ai hoàn thành bổn phận của mình cách đầy tin tưởng sẽ được chủ chăm sóc chu đáo. Chẳng lẽ anh chị em lại không yêu thích sự đảo ngược vai trò được mô tả trong dụ ngôn: ông chủ vừa mới trở về, đứng chờ bên bàn ăn để phục vụ những đầy tớ trung thành - sự đối đãi lạ thường mà những kẻ đầy tớ chẳng bao giờ có thể nghĩ mình như thế! Vì thế, quy tụ nơi đây để thờ phượng, chúng ta cũng đang cố gắng tin tưởng và tỉnh thức - như dụ ngôn khích lệ. Nhưng chúng ta không phải là những độc giả của thánh Luca. Cũng chẳng phải là cách ngày Đức Giêsu lên trời vài thế hệ, nhưng là 2000 năm! Nên chúng ta hết sức cần một niềm tin mà thư Do Thái đã ca tụng, "Tin là bảo đảm cho những già ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy." Chính đức tin đó và niềm hy vọng mai sau mới giúp chúng ta đủ sức tỉnh thức và đợi chờ Chúa. Chúng ta chưa từ bỏ Người, cũng chẳng phải vì chúng ta nghiến răng chịu đựng và "làm việc kiệt quệ" trong suốt những năm tháng qua. Không, nếu như thế, chúng ta chẳng khác gì những con robot được kiểm tra qua những nghi lễ bên ngoài với những quyết định khắc nghiệt.
Ngược lại, dù chúng ta có chiến đấu dài lâu, dù với tư cách như một giáo hội hay cá nhân, chúng ta vẫn tìm được niềm vui không thể diễn tả và sự tự tin trong niềm tin của chúng ta. Chúng ta cũng hy vọng rằng những gì chúng ta cảm nghiệm bây giờ thì chưa phải là trọn vẹn cuộc sống của chúng ta. Đức Giêsu là Đấng mà chúng ta vẫntrông đợi và chúng ta tuyên xưng Người là Thầy của chúng ta. Trong khi đó, chúng ta được mời gọi tiếp tục hành trình của mình, như Abraham và Sara, "không biết" nơi kết thúc, nhưng tin vào sự hiện diện của Thầy giửa chúng ta, phục vụ chúng ta, như Người thực hiện hôm nay trong hy lễ này, lương thực cần thiết cho chúng ta tiếp tục hành trình.
Làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục cố gắng để luôn là những môn đệ tín thác - nhất là những ngày này, không chỉ thế giới, mà cả Giáo hội của chúng ta đang làm chúng ta thất vọng? Chúng ta tiếp tục, chúng ta là Giáo hội của đức Kitô vì, những gì đức Giêsu nhắc đến trong dụ ngôn đã xảy đến. Người đã ngự đến trong Thánh Thần của Người, và đã "lẻn vào" trong nhà chúng ta. Quả là đức Giêsu đã dùng một hình ảnh thật tuyệt vời để nhấn mạnh đến việc trở lại bất ngờ của Người: Người giống như một kẻ trộm lén lút. Chúng ta cần phải tỉnh thức. Hãy thực hành một sự tỉnh thức đặc biệt trong tuần này - để xem chúng ta có thể bắt được "kẻ trộm" lẻn vào cuộc sống của chúng ta và khiến chúng ta ngạc nhiên hay không.
Vậy chúng ta sẽ thấy điều gì? Làm sao chúng ta biết lúc "kẻ trộm" lẻn vào? Hãy tìm kiếm sức mạnh lạ lùng trong giây phút khủng hoảng. Hãy chờ đợi một niềm vui ẩn sâu bên dưới những công việc thường ngày. Hãy đợi chờ sự bất ngờ, có thể là một bữa tiệc với người thân yêu hay bạn cũ. Hãy chờ có người đến xin anh chị em giúp đỡ để chúng ta có thể nhận ra chúng ta được mời gọi để cho đi. Hãy tìm kiếm sự hiện diện bình yên trong những giây phút cầu nguyện trong yên lặng. Hãy tìm kiếm sự phó thác được canh tân để anh chị em tiếp tục thực hiện sứ mạng mình được mời gọi. Dù Đức Giêsu có sử dụng hình ảnh ông chủ trở về hay nhình ảnh kẻ trộm đi chăng nữa, chúng ta cũng vẫn hiểu rằng, chúng ta cần nghe theo lời cảnh báo của Người là hãy tỉnh thức, biết rằng Người sẽ trở lại và vẫn mãi trở lại mỗi ngày với các môn đệ có cặp mắt và đôi tai thức thỉnh.
Tỉnh thức vẫn là đề tài hết sức ấn tượng đối với mọi người. Bởi vì, tỉnh thức và sẵn sàng luôn đặt con: TN19-C103
Tỉnh thức vẫn là đề tài hết sức ấn tượng đối với mọi người. Bởi vì, tỉnh thức và sẵn sàng luôn đặt con người trước sự chết. Thực vậy, ít có người đang sống mà luôn suy nghĩ tới cái chết, hay coi cái chết như một định luật phải chịu.Thường con người luôn bôn ba tìm kiếm, tích lũy, ưa thích làm giầu và chỉ nghĩ tới hưởng thụ. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho hay con người phải:" Tỉnh thức và sẵn sàng ". Tỉnh thức và sẵn sàng như người chủ canh trộm, như năm cô trinh nữ khôn ngoan...
Jean-René Fracheboud viết:" Tỉnh thức quả thật là một nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng ! Tỉnh thức gợi lên cho chúng ta tuổi thanh xuân của cuộc đời, và cả mùi vị của sự tự do sẵn sàng hiến dâng tất cả sức mạnh cho những công việc vĩ đại và tốt đẹp.Tại sao phải tỉnh thức ? Bởi vì Thiên Chúa hứa ban cho những ai biết tỉnh thức một món quà quý giá. Như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:" Anh em đừng sợ! Vì Cha anh em, Đấng ngự trên Trời, biết rõ điều gì tốt đẹp và sẽ ban cho anh em Vương Quốc của Người ". Như thế, Chúa dạy chúng ta hãy sống xứng đáng cuộc đời trần gian này.
Đời sống ở trần gian là một cuộc chờ đợi Chúa Kitô đến. Do đó, mọi việc ở trần gian như lời nói, việc làm, hành vi, thái độ đều nhất nhất được đặt trong tâm tình chờ đợi. Bởi vì, Chúa thường đến bất ngờ, nên chúng ta phải liên lỉ tỉnh thức, chờ đợi. Con người phải tỉnh thức và sẵn sàng bằng việc thắt dây lưng và cầm đèn cháy sáng. Dân Do Thái khi xưa thường mặc chiếc áo vừa dài vừa rộng, nên muốn cho khỏi vướng, họ thường xắn lên và thắt chặt bằng chiếc dây ngang hông. Chúa dạy rằng phải vứt bỏ tất cả những gì làm cản trở đời sống thiêng liêng của chúng ta như tiền tài, danh vọng, của cản. Tất cả những thứ đó làm chúng ta bị ngừng trệ, bị vướng mắc, cản trở chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Đền cầm tay nghĩa là đức tin của chúng ta phải sâu xa, phải tỏa sáng . Đức tin như thánh Phaolô nói:" Đức tin không việc làm là đức tin chết ". Cầm đèn cháy sáng như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn và lại mang cả dầu. Chúng ta phải tỉnh thức trong tư thế đó, thì bất cứ lúc nào Chúa đến dù có bất ngờ mấy đi nữa, chúng ta cũng luôn sẵn sàng.Chúa rất hài lòng vì chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng Chúa còn ban thưởng cho chúng ta ngoài sức tưởng tượng của chúng ta là ban cho ta tiệc Nước Trời. Chúng ta luôn tâm niệm bữa tiệc Nước Trời là bữa tiệc tình yêu.Và chỉ có những ai chịu khó luyện tập yêu thương mỗi ngày và mọi ngày mới được vào tham dự Thiên Đàng.
Chúa còn dạy chúng ta:" Sự chết đến với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến ". Không ai biết được giờ chết vì Thiên Chúa mốn giữ bí mật như vậy là để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta còn khỏe và còn sống lâu dài. Không ai biết được mình sẽ sống được bao lâu. Tất cả đều do quyền năng của Thiên Chúa, vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Chúa dạy chún ta phải khôn ngoan dùng ơn huệ Chúa ban, chúng ta phải làm lời ra số vốn Chúa trao cho chúng ta. Chúa đòi chúng ta phải trung tín và khoan ngoan để thi hành ý của chủ.Tất cả mọi người đều phải tính sổ với Chúa khi nhắm mắt lìa trần. Khôn hay dại là tùy mỗi người chúng ta. Chúa sẽ căn cứ việc chúng ta làm ở đời này mà thưởng hay phạt chúng ta.
Jean-René Fracheboud viết tiếp:" Món quà Thiên Chúa hứa ban đó là Vương Quốc của Người, một kho tàng vô tận, vững bền, nơi những tên trộm không lấy đi được bất kỳ thứ gì và mối mọt không thể làm hư hại. Vương Quốc này, đó chính là Chúa Giêsu dành cho Phêrô, để Ông nhận ra mình đã chối Chúa ba lần, và ăn năn quay trở về với Chúa: Vương Quốc ấy là con tim tràn đầy yêu thương,là sự tự do mời gọi thêm những tự do khác vì giao ước muôn đời.
Nhưng cần phải tỉnh thức để đón nhận trọn vẹn món quà này, kho tàng này,.Bất trắc luôn rình rập bên cạnh, bởi vì chúng ta quá bận rộn và chỉ chú tâm đến những của cải phù vân để rồi quên đi kho tàng không bao giờ hư mất ở nhà Cha trên trời, vì chúng ta hành động quá nhiều mà không để Chúa hành động trong đời ta, bởi vì chúng ta sống tách biệt với Thiên Chúa và quên đi thế giới nội tâm trong tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Xin giúp chúng con luôn biết trung tín và khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Amen.
Cuộc đời có lắm ngạc nhiên và những ngạc nhiên này tô điểm cho đời thêm thú vị. Không ngạc: TN19-C104
Cuộc đời có lắm ngạc nhiên và những ngạc nhiên này tô điểm cho đời thêm thú vị. Không ngạc nhiên đời nhàm chán. Ngạc nhiên đến từ những sinh hoạt hàng ngày ta dành cho người và người dành cho ta. Không ai có khả năng chuẩn bị để đón ngạc nhiên bởi vì chúng đến bất thình lình, không thể tiên đoán. Nếu tiên đoán được đâu còn là ngạc nhiên.
Sống thoải mái, bình thường, trung thành làm công việc hàng ngày, làm với một tâm tình vui, thoải mái, chân thành. Như thế là chuẩn bị chu đáo đón ngạc nhiên. Ai có thể đoán được buổi nói chuyện với người kia cuộc đời mình thay đổi. Ai đoán được đứa con mình sau này xóm làng ai cũng mến. Ai tiên đoán được sách dậy Bảo vệ Hạnh Phúc Gia Đình làm cho gia đình hàng xóm chia lià. Cũng là đoạn Kinh Thánh đó năm nào cũng nghe nhưng sao lần này tôi cảm thấy rất gần gũi. Quả là ngạc nhiên trước khi vào thánh đường lòng rối tơ vò, tâm động thác lũ mà chỉ sau ít phút bình an trở lại, tâm hồn yên lặng. Rồi cũng có lần đầu lễ sốt sắng, nửa sau lo ra, bồn chồn chỉ muốn ra về sớm.
Có những ngạc nhiên ta vui mừng đón nhận và chia sẻ với người lại cũng có những ngạc nhiên ta từ chối, dẫy nảy nhưng nó vẫn bám theo, không tài nào dứt ra. Không ngạc nhiên sao giữ gìn sức khoẻ đến thế mà lại bệnh sớm hơn mọi người. Không ngạc nhiên sao mặc dù chuẩn bị mọi thứ nhưng khi đến việc vẫn thấy bồn chồn, lo lắng.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta một ngạc nhiên lớn trong đời. Ngạc nhiên ở chỗ ông chủ khen người đầy tớ trung thành sẵn sàng đợi chủ về. Người đầy tớ không làm điều gì to, cũng chẳng làm việc bất thường. Tất cả những gì anh ta làm mọi người đều có thể làm. Anh trung thành, vui vẻ trong công việc. Sẵn sàng đón chủ về bất cứ khi nào, sáng trưa, chiều tối, và ngay cả đêm khuya. Lúc nào anh cũng sẵn sàng chu toàn công việc. Chính điểm này mà chủ khen là người đầy tớ khôn ngoan, trung thành và giao cho trách nhiệm lớn, quan trọng hơn.
Là môn đệ Đức Kitô chúng ta cũng cần có tâm tình đó, luôn sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô, luôn sẵn sàng chia sẻ tình yêu Chúa cho tha nhân. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta làm công việc vĩ đại, không cần phải chuyển núi dời non, không cần phải xây cất lâu đài đồ sộ. Ngài kêu gọi chúng ta chia sẻ tâm tình của mình với mọi người. Ngài kêu gọi chúng ta sống khiêm nhường và trung thành với công việc hàng ngày. Ngài mong chúng ta sống vui mỗi ngày, hoàn thành công việc trong tinh thần vui vẻ đón nhận tất cả, sẵn sàng làm những gì cần làm trong ngày, dù là bếp núc hay vườn tược, dù là kinh doanh hay chăn nuôi. Hãy hoàn thành công việc với tâm tình yêu mến, khiêm nhu. Đây là khuôn mẫu của người đầy tớ khôn ngoan. Bạn sẽ ngạc nhiên nhận được lời ông chủ khen tặng là người khôn ngoan, trung thành. Bạn sẽ được những người khác coi là thân hữu và luôn kính trọng.
Có lẽ ngạc nhiên lớn nhất trong đời là ngạc nhiên sau những năm tháng phục vụ cuối đời bạn nhìn lại thấy không hối tiếc việc đã làm nhưng hài lòng vì đã sống một đời sống thành nhân. Người thành nhân là người yêu người quí mình với tất cả tấm lòng. Ai chân thành yêu mến người thì cũng chân thành yêu mến Thiên Chúa. Nguồn vietcatholic.org
Ai cũng có những khoảng mong chờ, chung hay riêng, lâu hay mau, mong chờ ai đó hoặc điều gì đó.: TN19-C105
Ai cũng có những khoảng mong chờ, chung hay riêng, lâu hay mau, mong chờ ai đó hoặc điều gì đó. Khoảng mong chờ là miền sa mạc của tâm hồn. Khoảng mong chờ nào cũng đều có nỗi trăn trở đặc thù, dù “khoảng” đó rộng hay hẹp. Có tin tưởng mới mong chờ, mà mong chờ thì phải sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu cũng cháy bỏng mong chờ nên Ngài đã phải thốt lên: “Tôi khát” ( Ga 19, 28 ).
Khát gì ? Trong một lần tham dự Thánh Lễ, Thánh Faustina thị kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá, và nghe thấy tiếng kêu than phát ra từ Thánh Tâm Chúa: “Ta khát ! Ta khao khát cứu độ các linh hồn. Hỡi ái nữ của Ta, hãy giúp Ta cứu các linh hồn. Hãy kết hiệp những nỗi đau khổ của con với Cuộc Khổ Nạn của Ta và dâng mọi đau khổ lên Chúa Cha để cứu các tội nhân” ( Nhật Ký Thánh Faustina, số 1032 ).
Nỗi mong chờ của Chúa Giêsu quá lớn vì chúng ta quá cứng lòng. Thánh Phêrô đã nhận xét: “Người công chính còn khó được cứu độ” ( 1Pr 4, 18 ). Khó lắm, do đó mà phải cố gằng không ngừng, không thể cứ “tỉnh queo” hoặc “chờ sung rụng”. Phải SỐNG ĐẠO chứ không chỉ GIỮ ĐẠO. Sống đạo thì phải tích cực chứ không thể “mơ màng” rồi “yêu sách” với Chúa đủ thứ ! Cái khó đó không phải do Thiên Chúa “hạn chế” ơn cứu độ, mà vì chúng ta chưa thực sự chấp nhận Thiên Chúa là cứu cánh tối hấu.
Chúng ta cũng mong chờ ngày đêm, mong chờ được yêu Chúa hết lòng, mong chờ được cứu độ, được tận hưởng vĩnh phúc trường sinh nơi Thiên Quốc – nơi Chúa Giêsu đang mong đợi chúng ta. Sách Khôn Ngoan cho biết: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm. Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” ( Kn 18, 6 – 7 ).
Sách Khôn Ngoan cho biết thêm: “Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương để làm cho chúng con được rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. Con lành, cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Và ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do cha ông truyền lại”. Không thể mong chờ với động thái thụ động, mà phải tích cực hành động cụ thể để chứng tỏ sự mong chờ và thánh hóa nỗi mong chờ, nhờ đó và với Đức Tin, người mong chờ được nên công chính.
Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen” ( Tv 33, 1 ). Tại sao ? Bởi vì người công chính là người thuộc về Chúa: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” ( Tv 33, 12 ).
Thiên Chúa luôn “để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” ( Tv 33, 18 – 19 ). Chúng ta phải chứng tỏ được sự thật minh nhiên: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” ( Tv 33, 20 ). Ai như vậy thì thật là hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng rất hạnh phúc.
Thánh Phaolô xác định: “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” ( Dt 11, 1 – 2 ). Rõ ràng Đức Tin rất quan trọng. Vì TIN mà ( trông ) CẬY ( hy vọng ), cũng vì TIN mà YÊU ( mến ). Đó là bộ ba quan yếu cho đời sống tâm linh, gọi là ba nhân đức đối thần ( nhân đức Thần Học ). Mối liên kết rất lôgích và chặt chẽ.
Thánh Phaolô dẫn chứng: “Nhờ Đức Tin, ông Ápraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ Đức Tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ Đức Tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng Trung Tín” ( Dt 11, 8 – 11 ). Đó là những Đức Tin chân chính, thuần túy và tuyệt đối. Tin tưởng chứ không ảo tưởng. Thật vậy, TIN được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Ranh gới rất mong manh, vì vậy mà phải luôn thận trọng: Cẩn tắc vô ưu !
Thánh Phaolô giải thích: “Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài” ( Dt 11, 12 – 16 ). Cách giải thích có vẻ “dài hơi”, nhưng phải vậy để chúng ta hiểu rõ, không gì mơ hồ trên hành trình Đức Tin.
Thánh Phaolô dẫn chứng thêm: “Nhờ Đức Tin, khi bị thử thách, ông Ápraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật, ông Ápraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” ( Dt 11, 17 – 19 ). Vì tin vô điều kiện, tin đến mức sẵn sàng hy sinh chính đứa con yêu của mình, ông Ápraham trở thành tổ phụ của những người tin – tín nhân hoặc tín hữu. Đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, tuyệt đối tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng chí nhân và chí thiện, Ngài muốn chúng ta được hưởng những điều tốt lành của Ngài, nhưng để chúng ta được vậy thì Ngài muốn chúng ta hết lòng tín thác và yêu mến Ngài, và cũng để được Ngài yêu thương hết lòng, như Chúa Giêsu đã từng động viên và nhắn nhủ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” ( Lc 12, 32 ).
Chúa Giêsu căn dặn mọi người: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” ( Lc 12, 33 – 34 ). Cũng như một lần khác Ngài so sánh: “Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” ( Mt 24, 28; Lc 17, 37 ). Rất thực tế, chẳng có gì khó hiểu.
Chúa Giêsu ví dụ cụ thể: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” ( Lc 12, 35 – 40 ).
Ngài không muốn chơi trò ú tim hoặc “gài bẫy” chúng ta, mà Ngài muốn như vậy để công trạng của chúng ta được tăng lên. Vả lại, khi chờ đợi thì đâu ai biết điều gì đó có xảy đến hay không, hoặc người đó có đến hay không. Nếu có hẹn trước thì miễn bàn, chẳng có gì thú vị.
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người ?” ( Lc 12, 41 ). Xem chừng Phêrô nhà ta chân chất thật thà quá cỡ thợ mộc, dường như hóa ngây ngô ! Rồi Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc ? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” ( Lc 12, 43 – 46 ). Có thể chúng ta không đến nỗi “chè chén say sưa”, “chén thù chén tạc” hoặc “chén chú chén anh”, nhưng cách sống của chúng ta đã “tố giác” như vậy: Còn trẻ, còn khỏe, còn thở,... chưa chết đâu !
Nhưng bất ngờ, nước ngập đến chân, chạy gì nổi ! Thế thì tiêu ! Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít” ( Lc 12, 47 – 48a ). Cái sự “không biết” ở đây không phải là “giả nai” rồi tìm cách biện hộ. Cuối cùng, Chúa Giêsu nói một câu khiến chúng ta phải giật mình: “Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” ( Lc 12, 48b ). Đó là luật công bằng, vì Thiên Chúa rất mực công bình. Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sẵn sàng và tích cực sống Đức Tin trong thời gian mong chờ Con Chúa trở lại, dù lâu hay mau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Chuyến bay 4590 của hãng Air France đã vào đường bay số 24 tại phi trường Charles de Gaulle: TN19-C106
Chuyến bay 4590 của hãng Air France đã vào đường bay số 24 tại phi trường Charles de Gaulle. Phi công trưởng, Ðại Úy Christan Marty đã quan sát một cách cẩn thận các đồng hồ trong buồng lái của chiếc Concorde được sản xuất vào thập niên 1960. Trước đó, phi công Marty đã ra lịnh cho sửa chữa lại những trục trặc nhỏ của động cơ số 2. Cùng với phi công phụ Jean Marcot, hai người đã duyệt lại danh sách các việc phải làm trước khi cất cánh. Như tất cả các phi công lái phản lực cơ, Marty và Marcot, cả hai đã nhìn xuống phi đạo để xem có vật gì nằm trên phi đạo hay không, các vật có thể rơi rớt từ các xe kéo máy bay ra phi đạo, đến các bầy chim bị hoảng hốt bởi tiếng nổ của động cơ, như đã từng gây ra vấn đề cho các phi công tại phi trường Charles de Gaulle trước đây nhiều năm.
Trong lúc hành khách cảm thấy nhẹ nhõm vì thoát khỏi trọng lực ( G forces ) khi máy bay cất cánh, thì các kiểm soát viên trên đài kiểm soát không lưu đã thông báo một tin khủng khiếp cho phi công Marty là một bánh xe máy bay bị nổ.
Nhưng vào thời điểm này, máy bay đã vượt qua điểm đi/không ( go/no ), máy bay đã đạt tốc độ 210 dặm/giờ ( 336 cây số/giờ ). Khói đã bốc ra từ hai động cơ ở cánh trái của máy bay, nhưng người ta vẫn tin rằng hai động cơ còn hoạt động bình thường. Nhưng thực ra không phải như vậy, chiếc Concorde vẫn tiếp tục muốn vươn lên độ cao, nhưng hai động cơ bị chết bên trái đã hoạt động như trọng lực, từ từ đẩy máy bay qua trái.
Anh Marty được xem như anh hùng vì đã cố gắng đưa máy bay tránh rớt xuống ngôi làng của tỉnh Gonesse, tuy nhiên, anh không thể nào cho hạ cánh khẩn cấp xuống phi trường Le Bourget cách tỉnh Gonesse không bao xa, cũng như không thể quay trở lại phi trường Charles de Gaulle. Marty đã cố gắng giữ cho máy bay được thăng bằng, nhưng không được, ông đã báo cho đài kiểm soát biết là ông không thể nào kéo cần lái phía sau máy bay, để cho máy bay hạ xuống.
Vậy là chỉ một phút sau khi cất cánh, đã bay cách phi đạo 4 dặm, vỏn vẹn trong vòng 4 phút là máy bay đâm xuống một khách sạn. 31.500 gallon nhiên liệu đã bùng cháy. Tất cả 100 hành khách mà hầu hết là người Ðức và phi hành đoàn gồm 9 người ( hai phi công, một kỹ sư cơ khí, 6 tiếp viên hàng không ) cùng với 4 người ngụ trong khách sạn, đều bị tử nạn. ( Tuần Báo Đại Chúng )
Cái chết thật bất ngờ và thật nhanh. Tai nạn kinh khủng của Concorde, khi vừa khởi sự chuyến bay 4590 của hãng Air France, khiến cả thế giới phải bàng hoàng, kinh hãi.
Hôm nay, trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca, chúng ta nghe Đức Gêsu trấn an: “Đừng sợ !” Dù có mất đi của cải, địa vị, người thân, hay chính mạng sống mình đi nữa, cũng đừng sợ hãi.
Đừng sợ !
“Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã bằng lòng ban Nước Trời cho anh em.” ( Lc 12, 32 ). Thân phận con người chẳng ai thoát khỏi nỗi ám ảnh sợ hãi. Thoạt sinh ra, hài nhi khóc thét lên sợ hãi chào đời. Nỗi lo âu, khiếp hãi luôn mãi đeo theo con người dai dẳng, cho tới khi nhắm mắt xuôi tay. Có lẽ vì thế, trong toàn bộ Kinh Thánh ghi nhận tất cả 365 lần lời dặn “Đừng sợ !”, mà Thiên Chúa trực tiếp trấn an con người, hay qua các thiên sứ, ngôn sứ, và qua chính Đức Giêsu. Như thế lời an ủi đó đủ cho con người mỗi ngày trong một năm.
Nỗi sợ hãi biểu hiện cho sự yếu đuối, bất lực của con người trước nghịch cảnh xảy đến. Lo sợ mất mát, hư hao, hay bị tước đoạt mất của cải, vật chất, lẫn tinh thần. Càng giàu có, càng công thành danh toại, càng có chức tước, địa vị cao, càng lo sợ. Nhưng nghèo đói, hoạn nạn, thất bại, cũng lo sợ không kém.
Tuy nhiên, nỗi lo sợ chẳng thể cứu vãn, hay bảo đảm an toàn viên mãn cho sự sở hữu, chiếm hữu, hay thành quả tích lũy được. Bời chưng, tất cả chỉ là hư ảo phù vân. Nay còn mai mất, như đồng bạc tanh tưởi, luân chuyển từ tay người này sang tay người nọ. Của cải động sản, bất động sản rồi cũng hư hao do mối mọt, bị trộm cướp, bị chiếm đoạt. Chức vị rồi cũng bị mất đi do tị hiềm, phe cánh, do chính biến, do luật đào thải tuổi tác, mặc lòng, người ta vẫn còn đau đáu tham quyền cố vị.
Nỗi lo âu, sợ hãi còn tràn ngập đến, vì hoang mang trước biến cố bất ngờ, trước nỗi khó khăn, nguy hiểm, trước cơn đau đớn, nhục hình, trước cái chết được báo trước.
Thế tại sao Đức Giêsu lại ân cần khuyên nhủ: “Đừng sợ” ? Là vì Người hứa ban phần thưởng tuyệt vời: Nước Chúa. Vậy làm sao để có thể lãnh nhận được phần thưởng cao sang đó, nếu không biết chia sẻ và phục vụ chân tình, như người đầy tớ luôn tỉnh thức, trung tín và khôn ngoan. Chia sẻ Đức Giêsu đã kể nhiều dụ ngôn về chia sẻ, như người phú hộ và Ladarô, như người Samari nhân lành, như người bạn bị làm phiền ban đêm. Bởi vì chia sẻ chính là xả kỷ vị tha, hy sinh, bỏ mình lo cho tha nhân, biểu hiện tình người, tình nhân ái, lòng thương xót, tái hiện tình yêu của Thiên Chúa, làm chứng cho Đức Kitô Cứu Thế. "Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên Trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” ( Lc 12, 33 ).
Lên 15 tuổi, Thánh Antôn Maria Claret ( ảnh vẽ ) đã sớm giã từ bút nghiên để giúp cha mẹ buôn bán. Với bản tính thông minh, tài tháo vát và cách ăn nói lưu loát, hoạt bát, Thánh nhân đã sớm gây tạo được một gia sản giầu có kếch xù. Là một con người đạo đức, coi mọi sự giầu sang phú quí chỉ là tạm bợ, rác rến, không tồn tại lâu dài, Thánh nhân đã bỏ tất cả mọi sự như lời Chúa Giêsu kêu mời: "Hãy bán của cải mình đi mà bố thí…” Thánh nhân đã bỏ lại tất cả và xin gia nhập Tiểu Chủng Viện.
Chia sẻ không chỉ của cải vật chất, mà còn cả tinh thần, như hiệp thông, hợp tác với tha nhân trong nhiều môi trường đa dạng, để chuyển giao kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ thuật, hòng thăng tiến và phát triển cộng đoàn, xã hội. Hiện nay, nhiều tình nguyện viên từ các nước phát triển đến các quốc gia, miền, vùng xa xôi hẻo lánh, lạc hậu, để chuyền giao công nghệ, giúp đỡ hay huấn luyện về y tế, giáo dục, nông công nghiệp…
Phục vụ
Không chỉ chia sẻ những gì mình có mà thôi, mà còn cần phục vụ một cách tỉnh táo, sẵn sàng, trung tín và khôn ngoan nữa. Phục vụ Chúa và tha nhân mọi nơi, mọi lúc, bất cứ môi trường nào, thời gian nào. "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay" ( Lc 12, 35 – 36 ).
Trong tư thế người phục vụ, áo quần tươm tất, gọn ghẽ, nhanh nhẹn, tận tâm và sẵn sàng, nhà cửa sáng sủa, sạch sẽ, chúng ta mới có thể chu đáo đón tiếp Chúa đến bất kỳ khi nào. Với tha nhân cũng thế, chúng ta mới có thể giúp đỡ, hay ứng cứu hiệu quả và kịp thời cho mọi người.
Chẳng thể luộm thuộm, bẩn thỉu áo quần, nhà cửa tăm tối, tâm hồn hoen ố, nhếch nhác tội lỗi mà xứng đáng dón rước Chúa đến thăm. Chẳng thể nào đang còn tham lam, giận ghét, đố kỵ, oán thù, mà đến với tha nhân được.
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến" ( Lc 12, 39 – 40 ).
Trong truyện Quo Vadis, chúng ta thấy Giáo Dân Roma thời sơ khai, ban đêm di chuyển như những bóng ma. Người này theo người kia xuống hang toại đạo ( catacombs ) để cầu nguyện. Tại sao Giáo Dân Roma thời ấy lại hăng say cầu nguyện suốt đêm như vậy ? Chắc chắn để tránh bị chính quyền Roma bắt bớ, nhưng điều chính yếu là vỉ họ nghĩ Chúa Giêsu sắp trở lại, nên họ cầu nguyện chuẩn bị đón Chúa đến. ( Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Bài Giảng số 35 )
Như thế, khi phục vụ chúng ta luôn sẵn sàng và luôn tỉnh thức, như người lính lâm trận, luôn đề phòng và đối phó mọi bất trắc. Người chiến sĩ Kitô cần trang bị tận răng bằng võ khí tâm linh, dưỡng nuôi bằng cầu nguyện, tăng lực bằng Lời Chúa và Thánh Thể, bảo vệ bằng Thần Khí Thánh Linh.
"Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc ? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta.Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.” ( Lc 12, 42 – 44 ).
Phục vụ với tấm lòng chung thủy và nhân ái mới xứng danh Kitô hữu. Trung tín với Thiên Chúa và tha nhân. Yêu thương và đùm bọc tha nhân. Tích cực chờ đợi Chúa đến với bổn phận chu toàn, đảm đương trọn vẹn trách nhiệm với tha nhân. Tích cực đón Chúa với tâm hồn thanh tẩy trong sạch. Tích cực đón Chúa khi trở nên chứng nhân đích thực cho Đức Giêsu.
Tóm lại, để tránh bất ngờ khi Chúa gọi về, để được cứu rỗi, tưởng thưởng Nước Chúa, chúng ta luôn biết chia sẻ và tận tình phục vụ tha nhân trong tỉnh thức và yêu thương. Thể hiện thái độ sẵn sàng bằng kết hợp cầu nguyện với hành động cụ thể.
Thế giới và xã hội hôm nay đang cần Chúa đến để đổi mới và trở nên tốt hơn. Và chính chúng ta, những người Kitô hữu có trách nhiệm tạo điều kiện cho Chúa đến trong mọi môi trường của xã hội bằng chính cuộc sống của chúng ta. Nhưng muốn đem Chúa đến, trước tiên chúng ta phải là dụng cụ tốt của Chúa, là đầy tớ trung thành và là chứng nhân đích thực của Ngài. Tất nhiên, việc làm chứng nhân cho Chúa trong thời đại này càng gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng Lời Chúa nói với các Tông Đồ ngày trước vẫn còn giá trị đối với mỗi người chúng ta: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã bằng lòng ban Nước Trời cho anh em.” Đây chính là lời ban sức mạnh, khuyến khích chúng ta kiên trì và sẵn sàng làm chứng cho Chúa. ( Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Bài Giảng 35 )
Lạy Chúa Giêsu, Chúa khuyên chúng con đừng sợ trước nghịch cảnh thế gian. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết nương tựa vào quyền năng Chúa, để chúng con có thể chống trả những cơn cám dỗ, những đam mê xác thịt, hầu được lãnh nhận Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn dạy chúng con biết chia sẻ và phục vụ Thiên Chúa và tha nhân với lòng tỉnh thức, trung tín và khôn ngoan, đễ chúng con có thể đem Chúa đến mọi người. Amen.
Tin mừng Chúa Nhật 19 thường niên C là những lời giáo huấn cụ thể để làm người môn đệ đích thực, TN19-C107
Tin mừng Chúa Nhật 19 thường niên C là những lời giáo huấn cụ thể để làm người môn đệ đích thực, đó là bán những của cải hiện có mà bố thí, luôn luôn tỉnh thức, nhận ra và thi hành ý của chủ mình là Thiên Chúa. Người môn đệ trung tín và khôn ngoan luôn luôn chu toàn trách nhiệm của mình, dù có chủ hay vắng chủ. Người đó thi hành trọn vẹn trách nhiệm trong tình yêu mến ông chủ. Những lời giáo huấn cụ thể này áp dụng cho người tín hữu, giúp họ sống trọn vẹn ý nghĩa cuộc đời mình.
"Hỡi đoàn con bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con..." là lời trấn an của Chúa Giêsu cho mọi kitô hữu. Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta. Người muốn chúng ta được hạnh phúc và sống có ý nghĩa. Người ban Nước Trời - nước công chính, bình an, hoan lạc trong Thánh Thần - như một phần thưởng cho những môn đệ đích thực.
Để trở nên môn đệ đích thực, chúng ta cần lắng nghe những lời mời gọi của Chúa Giêu. Người muốn chúng ta hãy tích trữ kho tàng trên trời, vì đó là kho tàng không hư nát, mối mọt không làm hại được, và trộm cướp không lấy mất được. Kho tàng đó chỉ có được khi rộng lòng và rộng tay cho đi. Cho đi là nhận được. Người càng tích trữ kho tàng dưới đất là của cải vật chất mà không tích trữ kho tàng trên trời là những việc tốt lành, đạo đức, là người thiếu khôn ngoan.
Hơn nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý hay tôi tớ, chứ không phải là những người chủ. Đã không là người chủ, chúng ta cần luôn tỉnh thức để đón chờ và phục vụ chủ của mình là Thiên Chúa. Những yêu cầu của người chủ cần được thực hiện trọn vẹn. Là người kitô hữu, chúng ta đón chờ Đức Giêsu trở lại, đồng thời phục vụ tức là chia sẻ cơm áo cho những người nghèo: ai cho người nghèo khổ, bé mọn dù chỉ một ly nước, là làm cho chính Chúa...
Chúa Giêsu nói đến phần thưởng của người tôi tớ tỉnh thức là "chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng". Đây là hình ảnh bữa tiệc Nước Trời mà ông chủ là Thiên Chúa sẽ khoản đãi những người tôi tớ đích thực vào ngày cánh chung. Theo lẽ thông thường, người tôi tớ phải phục vụ chủ, nhưng ở đây, chính ông chủ phục vụ người tôi tớ. Mọi trật tự thông thường bị đảo lộn. Đây là điều khó hiểu và không thể chấp nhận theo lý lẽ thường tình. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa đối với tạo vật của Người vượt quá mọi giới hạn, mọi trật tự thông thường. Thiên Chúa làm tất cả như Ngài muốn. "Tình yêu chỉ biết một chiều kích, và đó là chiều kích vượt quá mọi chiều kích" (thánh Bênađô). Là những tôi tớ, chúng ta không có quyền đòi hỏi bất cứ gì. Chúng ta chỉ trông chờ vào lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Phần thưởng thứ hai của người tôi tớ trung tín và khôn ngoan là "chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản của mình". Được tin tưởng và trao phó trách nhiệm cai quản là phần thưởng cao quí. Đây là hình ảnh áp dụng cho những người có trách nhiệm: Các vị lãnh đạo trách nhiệm về những người thuộc quyền mình, cha mẹ trách nhiệm về con cái, nhà giáo dục trách nhiệm về người môn sinh... Điều kiện trước tiên của người có trách nhiệm là cần trung tín và khôn ngoan. Trung tín và khôn ngoan để phục vụ những người được giao phó cho mình. Phục vụ là một công việc đòi hỏi nhiệt tâm và lòng mến cao độ.
Phải chăng chúng ta là những người tôi tớ đích thực của Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta là những người trung tín và khôn ngoan.
Lạy Chúa, có quảng đại cho đi, con mới lãnh nhận được dồi dào. Xin cho con luôn biết chia sẻ những lời an ủi, tấm lòng nhân ái, tâm tình cảm thông. Xin cho con biết hiến dâng cả thời giờ, sức khỏe và của cải cho anh em con. Xin cho con không ngừng yêu mến và phục vụ anh em như con đang yêu mến và phục vụ chính Chúa. Amen.
Đồng tiền liền khúc ruột”, chẳng phải ngẫu nhiên vô tình mà ông cha ta có được những câu nói: TN19-C108
“Đồng tiền liền khúc ruột”, chẳng phải ngẫu nhiên vô tình mà ông cha ta có được những câu nói bất hủ như thế. Người nào nói không cần tiền, thật ra chỉ là kẻ nói dối. Anh có tốt bao nhiêu, mà không có tiền, cũng chẳng thể trở thành người hào phóng được. Đồng tiền là người bạn cần thiết nhất cho con người trong mọi thời đại là vậy.
Tiền là người bạn, vì nó thực sự quan trọng và gắn liền với chúng ta trong mọi trạng huống cuộc đời. Người ta khó có thể tồn tại nếu như không có tiền. Tiền là một trong những bảo đảm tiên vàn cho sự sống nhân loại.
Thế nhưng, cho dẫu tiền bạc quan trọng đến đâu, cũng không thể thay thế lương tâm nhân loại với những giá trị thần linh. Nếu ai đặt tiền bạc lên vị trí ưu việt, là mục đích tối cao, ấy là kẻ nô lệ cho bạc tiền. Người ta cần tiền để sống thật, nhưng tiền bạc không thể mua được nước trời, không thể đánh đổi những giá trị tinh thần .
Thế giới ngày nay coi trọng tiền bạc hơn cả con người. Nếu vậy, lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” ( Lc 12, 33 ) xem chừng khó quá, nan giải quá. Ngày ngày trên thế giới có biết bao nhiêu án mạng xảy ra cũng chỉ vì tranh chấp của cải bạc tiền. Người người cần tiền, nhà nhà cần tiền, thế giới ai ai cũng cần tiền. Vì có tiền mới có quyền lực, địa vị, chức vụ, sự nghiệp và ngay cả tình yêu. Nếu nói như Đức Giêsu bán hết của cải đi để bố thí, là đồng nghĩa với việc chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Nhưng cái mất đó chính là cái được. Được Nước Trời, được tình yêu và lòng mến, được sự sống Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một cuộc sống, một kho tàng không thể hư hại, không thể tiêu tan được. Người hào phóng, giàu có theo đúng nghĩa của Đức Giêsu là vậy.
Hơn bao giờ hết, con người trong thế giới đương đại hôm nay đang lăn xả, lao đầu vào vòng xoáy của hưởng thụ và đề cao bản thân. Người ta không từ bất kỳ một thủ đoạn nào để khiến cho mình ngày càng giàu có hơn. Giàu có chính là tham vọng lớn nhất của con người thời đại. Vì có tiền là có tất cả, đến mua “tiên” cũng còn được là. Cứ vậy, cứ vậy, thế giới càng ngày càng đắm chìm vào những cơn mê hưởng lạc. Không chỉ ngày mà còn là đêm, không chỉ đêm mà còn là thâu đêm suốt sáng, người giàu mải miết đắm mình vào vòng xoáy tội lỗi, ăn chơi và hưởng thụ. Kẻ nghèo vẫn nghèo, ai lầm than vẫn lầm than, ai cơ cực vẫn cơ cực. Vận mệnh cứ tiếp nối, cứ xoay vần như những định luật bất di dịch của cuộc sống.
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ và ông chủ để khuyến cáo nhân loại. Ngài kêu gọi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng như những người đầy tớ chờ chủ đi ăn cưới về. Tư thế sẵn sàng nghênh đón chủ của đầy tớ cho thấy thái độ làm việc, sự tuân giữ kỉ luật và lòng yêu mến của họ, đây thực sự là những người đầy tớ trung thành. Sự trung thành đó, không thể mất đi nhưng ngược lại sẽ được bù đắp gấp trăm ngàn lần: “Chủ sẽ thắt lưng đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” ( Lc 12, 37 ).
Kỳ diệu thay, lòng trung tín đã hoán đổi vị thế giữa chủ và tớ. Thay vì đầy tớ phải hầu hạ, phục vụ chủ, thì lúc này, ông chủ lại trở thành người phục vụ đầy tớ mình vì lòng trung thành và yêu kính của gia nhân đối với chủ mình.
Đáng tiếc thay, thế giới đương đại đã bị của cải vật chất làm mờ mắt, không thể nhận ra hay phân biệt điều lành dữ, phúc thiện nữa rồi. Hoặc có đấy nhưng vì lương tâm đã bị tham vọng bào mòn, không còn đủ sáng suốt, minh mẫn mà chọn lựa. Đồng tiền đã khiến con người mờ mắt. Họ say sưa trong trụy lạc và đam mê, tự tin cho rằng cuộc sống còn dài, tiền bạc còn dư thừa nên tha hồ hưởng thụ vì cho rằng: “Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và ché chén say sưa” ( Lc 12, 44 ), Tất nhiên, “Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày nó không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” ( Lc 12, 46 ).
Lạy Chúa, lời kêu gọi của Ngài với những hình ảnh dẫn dụ thật cụ thể, sống động và xác thực nhưng dường như tiếng kêu ấy vang lên trong thế giới rồi cũng bị tham vọng của nhân loại cuốn trôi. Chẳng còn mấy ai lắng nghe, đón nhận và thi hành Lời Hằng Sống nữa rồi. Cũng như họ, con nghe đấy, hiểu và biết đấy, thế nhưng vẫn không hề thực hiện. Không phải vì tham vọng của cải bạc tiền, nhưng trên hết vì cuộc sống ngày càng khó khăn thử thách. Con đang sống trong một thế giới mà mọi giá trị của nó đều bị đảo lộn. Đồng tiền đã hóa thân vào cuộc sống và làm chủ thế giới.
Lời Chúa dạy con hãy biết cho đi, hãy biết sẻ chia những giá trị vật chất mau qua chóng tàn để đổi lấy Sự Sống vĩnh cửu. Lời Chúa dạy con phải biết tỉnh thức trước những cạm bẫy cuộc đời để trung thành theo Chúa, Đấng là Chủ đời mình. Chỉ cần con nhận biết đâu mới thực sự quan trọng và cần thiết, con sẽ không bị bóng tối hào nhoáng thế trần ru ngủ nữa. Xin giúp con, tỉnh thức và tỉnh thức, sẵn sàng và sẵn sàng… như người đầy tớ chờ ngày Chúa đến với con.
Nhờ khoa học, vốn học, thời nay, con người ta đang biết quá nhiều chuyện trên đời, kể cả những: TN19-C109
Nhờ khoa học, vốn học, thời nay, con người ta đang biết quá nhiều chuyện trên đời, kể cả những điều bí mật nhất trong vũ trụ, trong thiên nhiên. Tiếc là, chỉ còn một điều mà cả triệu năm rồi chưa ai dám nói mình biết: giờ chết. Giờ chết của chính mình thì không biết đã đành, giờ chết của người thân đang nằm hấp hối trước mắt mình kia, đôi khi cũng đoán non đoán già mà vẫn không chính xác. Đúng là sự chết thì cố định, giờ chết thì bất ngờ !
Đã không biết giờ chết, đôi khi chúng ta lại còn không muốn biết, không dám biết, không cần biết, chẳng quan tâm đến sự chết… vì muốn cho cuộc sống mình cứ thoải mái khỏi bị ám ảnh về một lần từ biệt, một lần chỉ đi từ nhà ra tới nghĩa trang thôi mà là chuyến đi xa muôn trùng:
Tưởng gần mà lại hóa xa Ấy lần từ biệt căn nhà trần gian Bao nhiêu đưa tiễn bàng hoàng Tưởng người bất động trong quan tài buồn. ( Hồ Giang A )
Nếu các Kitô Hữu Công Giáo hiểu rằng sự chết cố định, giờ chết bất ngờ, ý nghĩa của sự chết là một cuộc trở về quê hương mới, hẳn không cần bận tâm tới giờ chết nữa, nhưng điều đáng bận tâm là việc chuẩn bị cho sự chết thế nào, để biến cố ấy kết thúc một hành trình quý giá, và mở ra một cuộc sống mới với Thiên Chúa, một cuộc sống mới của thần linh. Chúng ta vẫn nghe, vẫn hát: “Cuộc sống này chỉ thay đổi mà không mất đi” ( Kinh Tiền Tụng Lễ Cầu Hồn – Bài hát Sự Sống Thay Đổi, Ns. Phanxicô ). Thay đổi như thế nào ? Nếu chỉ dừng lại ở điểm “thay đổi” thôi, thì vẫn còn mơ hồ lắm. Có nhiều người vẫn ước gì thay đổi có nghĩa là mình sẽ lại tiếp tục làm người, nhưng là người tốt lành thánh thiện. Sao không xác tín cách mạnh mẽ rằng: việc thay đổi ấy là thay đổi tình trạng sống tạm bợ thành tình trạng sống vĩnh cửu, thay đổi từ tình trạng “người” sang tình trạng “thần linh” ?
Chuẩn bị là sống mật thiết với Chúa Giêsu
Như vậy, việc chuẩn bị cho sự chết phải là việc sống thiết thân với Chúa Giêsu, trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu trong cõi sống trần gian này, để được sống, được là bạn hữu của Thiên Chúa trong cõi sống muôn đời.
Không ! Người đang hát lời thương Hân hoan về với quê hương muôn đời Bởi trong suốt cuộc làm người Đã nên bạn hữu của Người, Giêsu. ( Hồ Giang A )
Chuẩn bị bằng việc sống thiết thân với Chúa Giêsu là nghe và thực hiện Lời Người đã dạy, đi con đường Ngài đã đi, yêu như Ngài đã yêu, sống như Ngài đã sống, đồng hình đồng dạng, đồng tâm, đồng chí, đồng ý, đồng bàn với Ngài trong mọi tình huống cuộc đời. Và cuối cùng, cùng chết với Ngài để hoàn tất lời xin vâng tuyệt đối, để được cùng sống lại với Ngài, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha, trở về với Cha. Việc chuẩn bị ấy, Chúa Giêsu gọi là biết “thắt lưng, thắp đèn, tỉnh thức” đón chờ Chúa đến. Cụ thể hơn, kết hiệp với Thánh Thể Chúa Giêsu. Tôi nhớ lần thăm anh bạn bịnh ung thư nằm tại bệnh viện Chợ Rẫy. Sau mấy lời thăm, anh cảm ơn, rồi nắm lấy tay tôi và nói: “Anh Hoàng ơi ! Tôi tạ ơn Chúa. Ung thư, đau đớn lắm, nhưng để mình có thời gian chuẩn bị đón Chúa đến, trở về với Chúa. Có các sơ đem Của Ăn Đàng cho tôi anh à. Mừng lắm”. Sau sáu tháng kiên trì, chờ đợi, anh đã được Chúa gọi về ngay hôm Lễ Chúa Lên Trời 2013.
Trong khi đó, ma quỷ không muốn cho con người hiểu rằng chết là hạnh phúc, là cuộc trở về với sự sống ngàn thu, nhờ tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Bởi vì, chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết do tội lỗi và mở lối cho con người vào sự sống muôn đời của Thiên Chúa. Ma quỷ không muốn cho ai được cứu rỗi. Vì thế, chúng vẫn luôn luôn vẽ ra cho con người chân dung kinh khủng của cái chết, cho con người tiếc nuối về sự sống với bao nhiêu khoái lạc ở trần gian, cho con người tìm đủ cách để kéo dài sự sống tạm bợ này.
Ma quỷ rất sợ chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu để chuẩn bị đàng hoàng cho cuộc gặp gỡ ấy. Vì thế, chúng luôn tìm cách tách chúng ta ra khỏi Lòng Mến của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu. Đã vậy, đối với những con người chưa tin vào Thiên Chúa, chúng gieo trong lòng họ tư tưởng rằng "chẳng có Thiên Chúa đâu, chết là hết, nên chi phải hưởng thụ đời này cho no say, cho bưa, cho đã".
Với các Kitô hữu, chúng lại gieo tư tưởng nguy hiểm nhất rằng: chưa chết đâu, còn lâu mới chết ! “Em rất khỏe, trẻ, đẹp, giàu, sang, hiền lành, phúc hậu, đạo đức, nết na… và nhất là “em chưa chết đâu em, em hãy còn sống lâu, đẹp mãi”. Cơn cám dỗ ấy thật dễ nghe, dễ chịu. Từ đó, con người ta ra công lo cho cái trẻ, cái đẹp, cái giàu sang hưởng thụ ở sự sống đời này, mà quên hẳn đi chuẩn bị cần thiết cho Giờ Chúa đến. Khi các Kitô hữu Công Giáo quên hẳn đi việc kết hiệp với Chúa Giêsu, lao mình vào các cuộc ăn chơi hưởng thụ vật chất đời này, ấy là lúc ma quỷ ăn mừng thành công vĩ đại của nó. Chúng nó còn mừng vui hơn nữa khi thấy những người mắc bẫy của chúng là những người đáng lý ra phải làm gương sáng về việc chuẩn bị.
Nhớ đến Chúa Giêsu
Thiết tưởng, trong cuộc đời, mỗi chúng ta có trăm ngàn chuyện nhớ, nỗi nhớ. Mà nỗi nhớ quan trọng nhất cho đời sau là nhớ đến Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc ta, thì chúng ta lại quên.
Những người tình nhớ nhau, nhớ quay quắt, nhớ điên dại, nhớ hình dáng, tiếng nói, nhớ cái nắm tay, nhớ nụ hôn nồng, nhớ kỷ niệm bềnh bồng lãng du lãng mạn… Sao chúng ta lại không thể nhớ đến Chúa Giêsu với một chút nồng nàn như ta nhớ đến chuyện tình, chuyện tiền trên gian trần này ? Câu trả lời rất đơn giản vì ta đang yêu Chúa Giêsu quá ít !
Xin mượn mấy câu thơ trong bài “Ước Gì, nỗi nhớ…” Ước gì nỗi nhớ Thiên Đàng Gấp đôi nỗi nhớ trần gian hư phù Mỗi ngày nhớ Chúa Giêsu May ra hiểu cõi thiên thu thế nào… ( Hương Nam )
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu Chúa Giêsu thật nhiều, và nhớ Chúa Giêsu nhiều hơn nhớ đến chuyện sống chết và thôi, không bận tâm đến chuyện giờ nào con sẽ phải chết. Amen.
- Tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ trung tín, thức canh chờ mở cửa đón chủ về vào lúc ban đêm (c 35-38).
- Tỉnh thức sẵn sàng như người chủ nhà biết giờ kẻ trộm đến, sẽ canh phòng không cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình (c 39-40).
- Tỉnh thức sẵn sàng như người quản lý trung tín và khôn ngoan, luôn chu toàn bổn phận phát lương thực cho gia nhân theo lệnh của ông chủ (c 42-48).
3. CHÚ THÍCH:
- C 32-34:
+ Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ: Các môn đệ được gọi là đoàn chiên bé nhỏ vì số lượng ít, không địa vị quyền hành và sống khó nghèo, đang khi kẻ thù của các ông thì vừa đông vừa mạnh lại vừa giàu có. Nhưng Đức Giê-su đã trấn an các ông: đừng vì thế mà tỏ ra khiếp nhược sợ hãi, vì “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), vì có Thầy luôn ở bên và vì Thiên Chúa sẽ ban phần thưởng thiêng liêng là Nước Trời đời đời cho các ông sau này.
+ Hãy bán của cải mình đi mà bố thí: Đức Giê-su khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát và từ bỏ, thể hiện qua hành động sẵn sàng bán đi những của cải mình có mà phục vụ tha nhân.
+ Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó: Nếu xác định kho tàng của mình là các của cải thiêng liêng, thì các môn đệ sẽ liệu sao để có được nhiều thứ của cải ấy.
- C 35-37:
+ Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn: Đây là thái độ Mô-sê yêu cầu dân Do thái phải có khi ăn bữa tiệc chiên Vượt qua trước giờ xuất hành ra khỏi Ai-cập (x. Xh 12,11). Đây cũng là thái độ của các tín hữu hôm nay chờ đợi giờ Đức Giê-su lại đến vào ngày thế mạt (x. Lc 12,37; 17,8).
+ Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về: Ông chủ đi ăn cưới là hình ảnh tiên báo Đức Giê-su sắp lên trời trước khi Người sẽ trở lại lần thứ hai vào ngày tận thế.
+ Để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay: Chúa sẽ đến bất ngờ trong giờ chết của mỗi người, cũng như trong ngày tận thế chung của nhân lọai. Mọi người đều phải sẵn sàng mở cửa đón rước Người.
+ Thật là phúc cho họ !: Ở đây Đức Giê-su đã thêm một mối phúc nữa là: “Phúc cho những ai tỉnh thức sẵn sàng”.
+ Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn...: Việc này khó xảy ra trong thực tế, nhưng được dùng để diễn tả một thực tại thiêng liêng: Chúa sẽ ưu ái phục vụ lại các đầy tớ trung tín. Họ sẽ được no thỏa ân tình của Chúa như lời sách Khải huyền: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3,20).
- C 38-40:
+ Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về: Người Do thái thường chia thời gian ban đêm làm bốn canh là: Chập tối, nửa đêm, gà gáy và tảng sáng (x. Mc 13,35). Canh hai hay canh ba tức là khoảng từ 9 giờ tối đến 3 giờ sáng là lúc người ta buồn ngủ nhất. Ở đây nhấn mạnh đến thái độ phải có của các môn đệ là luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ giờ nào.
+ Ai là người quản gia trung tín khôn ngoan mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở: Hai đức tính mà người lãnh đạo cộng đoàn phải có là khôn ngoan và trung tín. Nếu người quản lý cấp phát phần thóc gạo cho gia nhân đúng giờ, thì mới chứng tỏ mình là một con người trung tín. Anh ta sẽ được ông chủ tín nhiệm trao nhiệm vụ coi sóc tất cả gia sản của ông.
- C 45-48:
+ Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”...: Đức Giê-su nêu lên sự trở về chậm trễ và bất ngờ của ông chủ, như là một cách thế để thử thách lòng trung thành của các Tông đồ và những người lãnh đạo cộng đoàn.
+ Đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa: Đây là tội thiếu tinh thần trách nhiệm, sa đà vào thói ăn chơi mà bỏ bê nhiệm vụ quản lý của người đầy tớ.
+ Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra: Đức Giê-su sẽ đến bất ngờ và sẽ cô lập, ra vạ tuyệt thông cho những kẻ bất trung ấy.
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (Lc 12,36).
2. CÂU CHUYỆN:
1)Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ quí, có một cái nắp có thể mở ra đóng vào được. Khách đến chơi trông thấy chiếc quan tài thường hỏi nhà sư rằng: “Ngài chế tạo ra cái này để làm gì vậy ?” Nhà sư trả lời: “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi là sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu. Sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.
2)Một nhóm bạn đang chơi đá bóng ngoài sân trường. Trong lúc nghỉ ngơi sau hiệp thi đấu, thầy quản giáo hỏi các em rằng: “Giả như Chúa cho các em biết các em chỉ còn sống được 15 phút nữa là sẽ phải chết. Vậy các em sẽ làm gì trong thời gian còn lại này? Em thì trả lời sẽ về từ giã cha mẹ và những người thân. Em khác cho biết sẽ đi gặp cha linh hướng và xin xưng tội. Em khác nữa thì nói mình sẽ vào nhà nguyện chầu Thánh Thể thật sốt sắng. Còn một cậu bé vốn có lòng đạo đức nhất la Lu-y Gông-gia-ga thì lại thưa: “Thưa Thầy, còn em cứ tiếp tục chơi ạ !” Khi được hỏi lý do tại sao lại cứ chơi khi biết mình sắp chết, thì cậu bé đã trả lời: “Vì mỗi sáng thức dậy em đều dâng ngày mới cho Chúa. Và trong ngày em năng nói với Chúa những lời nguyện tắt. Em nghĩ Chúa cũng chỉ cần em làm như vậy”.
3. SUY NIỆM:
1) Phải tỉnh thức và sẵn sàng luôn: Tin mừng hôm nay nhắc nhở mọi người muốn được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su thì cần có thái độ “Tỉnh thức và sẵn sàng”:
-Như người đầy tớ trung tín (c 35-38): Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng là ngủ trong tình trạng tỉnh thức, giống như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi ăn cưới về vào bất cứ giờ nào trong đêm để khi chủ về gõ cửa là mở ngay.
-Như người chủ nhà có trách nhiệm (c 39-40): Một người chủ nhà có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn canh thức để tránh cho trộm khỏi đến đào ngạch khoét vách nhà mình. Một người làm việc có tinh thân trach nhiệm cao sẽ được hưởng hoa trái là hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn như người ta thường nói: “Cẩn tắc vô ưu”. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng khuyên các tu sĩ dưới quyền rằng: “Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện. Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là đức ái. Hoa trái của đức ái là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an “.
-Như người quản gia trung tín và khôn ngoan (c 42-48): Sự trung tín khôn ngoan được biểu lộ qua việc anh quản gia luôn chu toàn công việc bổn phận là cứ đúng giờ cấp phát lương thực cho gia nhân. Nhưng nếu anh ta “nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa”, thì số phận của anh ta sẽ “phải chung số phận với những tên thất tín”. Vào thời Hội Thánh sơ khai, các tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca vì nghĩ lầm rằng ngày tận thế đã gần kề, nên có lối sống buông thả không chịu làm việc gì cả. Do đó, thánh Phao-lô đã phải viết thư để chấn chỉnh lối sống lười biếng ấy như sau: ”Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói: Trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy: hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Ts 3,10-12).
2) Cụ thể chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến thế nào ?:
- “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”: Mỗi tín hữu chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chu toàn các bổn phận đạo đức hằng ngày như dâng lễ cầu nguyện sớm tối để đón nhận ơn Chúa. Tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách tay luôn cầm cây đèn là đưc Tin, chứa đầy dầu ân sủng là đức Cậy, để luôn cháy sáng là đức Mến giữa cuộc sống đời thường.
- Phải làm gì để đón Chúa đến ngay từ bây giờ ?: Hãy luôn ý thức sống tốt giây phút hiện tại bằng việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Tránh chỉ lo tích trữ của cải cho mình, đừng quá bám víu vào những của cải trần gian như Lời Chúa dạy: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,32-34).
- Chu toàn công việc bổn phận: Đối với những ai được Chúa trao quyền quản lý một gia đình, một hội đoàn, một cộng đoàn dòng tu hay giáo xứ... Hãy nhớ rằng: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Quyền bính là phương tiện để phục vụ tha nhân. Người ta có thể lạm dụng quyền bính để phục vụ bản thân và làm khổ kẻ khác như tên quản lý trong bài Tin mừng đã “Đánh đập tôi trai tớ gái”, “chè chén say sưa” vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về. Ngừơi quản lý sẽ bị phạt nặng hơn vì đã biết ý Chúa mà còn cố tình bỏ việc bổn phận của mình.
- “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”: Sẵn sàng để biết sử dụng của cải đúng theo ý Chúa: Cụ thể là chia cơm sẻ áo cho những người nghèo đói, góp phần nuôi dưỡng các trẻ mồ côi, người già neo đơn và động viên an ủi nhưng người đau khổ bất hạnh… Hiện nay nhiều người tuy rất tỉnh thức đọc kinh cầu nguyện, nhưng lại đang mê ngủ trước những đòi hỏi phải chia sẻ bác ái của Tin Mừng. Nếu các tín hữu luôn tỉnh thức bằng việc quan tâm giúp đỡ người bên cạnh thì hai phần ba nhân loại sẽ không còn nghèo đói nữa. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta hãy tập quảng đại cho đi những gì mình có. Hãy “làm những công việc bình thường bằng một cách thức phi thường” noi gương thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, để chiếu ánh sáng tin yêu giúp cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa như lời Chúa dạy: “Cũng vậy ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em” (Mt 5,16).
- Phải sẵn sàng phục vụ để loan báo Tin Mừng: Những ai không có tiền vẫn có thể làm việc tông đồ băng việc phục vụ. Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta và các nữ tu Thừa Sai Bác Ái đã không cho người nghèo đói bệnh tật tiền bạc vật chất, nhưng cho sự ân cần phục vụ trong yêu thương. Đây cũng là một phương cách loan báo Tin Mưng hữu hiệu. Hiện nay có nhiều tín hữu vẫn đang mê ngủ khi chỉ lo hưởng thụ tiện nghi vật chất va các đam mê thấp hèn... mà không ưu tiên tìm kiếm Nước Trời bằng việc chia sẻ phục vụ tha nhân. Thánh Phao-lô đã khuyên tín hữu chúng ta như sau: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi !” (Ep 5,14).
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết tỉnh thức để đừng bao giờ ngủ quên trong những đam mê lạc thú giả tạo. Xin cho lòng trí con hiểu rằng: đồng tiền chỉ là phương tiện giúp con nên hoàn thiện hơn, giúp con có điều kiện thực thi bác ái là chia sẻ cơm áo cho người nghèo. Xin cho con xác tín rằng: Khi giờ chết đến, con sẽ không thể mang theo được tiền của mà con đã ky cóp bấy lâu. Chính những đồng tiền cho đi, đồng tiền quảng đại chia sẻ cho kẻ khác, sẽ trở nên kho tàng quý giá không bao giờ bị hư nát cho con ở đời sau. Xin giúp con luôn biết hướng lòng trí về những sự trên trời.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 12:32-48)
Đừng sợ” là điệp khúc Chân phước Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thường lập lại trong các sứ: TN19-C111
“Đừng sợ” là điệp khúc Chân phước Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thường lập lại trong các sứ điệp của ngài, để khích lệ chúng ta hãy can trường đối diện với nền văn hóa hưởng thụ của thế giới hôm nay. Nó bắt nguồn từ lời trấn an mà Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Chúa Giê-su đã khẳng định lý do tại sao chúng ta phải giữ vững thái độ kiên cường khi hành động như người con của Cha trên trời.
Chúa Giê-su đã thấy rõ những sợ hãi của chúng ta và Người muốn chuẩn bị cho chúng ta đủ sức đối phó với những sợ hãi ấy. Trước hết Người âu yếm gọi chúng ta là “đoàn chiên nhỏ bé” của Người. Chiên đã là loài vật yếu đuối, lại còn nhỏ bé nữa, cho nên mạng sống của nó lệ thuộc vào tình yêu thương chăn dắt của mục tử. Chúa Giê-su muốn gợi lại hình ảnh tác giả Thánh Vịnh 23 sử dụng để ca ngợi Thiên Chúa: Đức Chúa là Đấng chăn dắt tôi, tôi còn sợ chi? Như vậy, phó thác nơi Chúa phải là thái độ căn bản để chúng ta không sợ bất cứ điều gì. Nhưng căn cứ vào đâu để chúng ta có thể phó thác? Đó là vì Thiên Chúa là “Cha anh em”. Chúa là Cha nhân từ, nên chúng ta phải tin tưởng Người chứ! Nếu quả thực chúng ta muốn làm con cái Cha trên trời thì chúng ta hãy nghe Người dạy chúng ta đừng sợ phải làm những điều tốt nhất và cần thiết nhất. Có hai điều được Chúa Giê-su nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay.
Điều đầu tiên là “Hãy sắm lấy một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Lối sống của con cái thế gian là thu tích tiền bạc của cải, làm giầu ở đời này. Nhưng cũng giống như nhà phú hộ trắng tay khi cái chết đến thăm (Lu-ca 12:16-21), chúng ta sẽ không thể mang theo tài sản xuống mồ. Còn lối sống của con cái Chúa luôn hướng về tương lai vĩnh cửu là kho tàng ở trên trời. Giữa hai lối sống ấy, chúng ta phải chọn lựa và thường thì chúng ta cảm thấy sợ hãi khi phải chọn điều mình chưa thấy được trước mắt. Vậy Chúa bảo chúng ta đừng sợ khi phải sử dụng của cải để làm việc lành phúc đức, như bố thí và giúp đỡ người nghèo khổ, vì đó là cách chúng ta tích trữ cho kho tàng trên trời.
Điều thứ hai là “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Giờ phút Con Người sẽ đến là giờ phút chúng ta phải đối diện với việc Chúa phán xét chúng ta sau khi chúng ta lìa đời. Sợ chết là lẽ đương nhiên của người đời, nên người ta làm đủ mọi cách để kéo dài sự sống. Tuy nhiên còn một điều liên hệ đến sự sống mà chúng ta ít nghĩ đến, là sự sống đời sau tiếp nối sự sống đời này. Đâu là bí quyết Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta để đừng sợ trước cái chết và việc phán xét? Là chúng ta hãy nhìn Chúa như “ông chủ”, không phải một ông chủ khắc nghiệt, nhưng ông chủ lo lắng chăm sóc cho đầy tớ đến độ sẵn sàng “thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ”. Thực là một hình ảnh cảm động và đầy khích lệ nói lên lòng Cha trên trời yêu thương chăm sóc chúng ta!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Các nhà tâm lý học hoặc bác sĩ tâm thần có thể giúp đỡ một bệnh nhân làm chủ được sự sợ hãi. Còn hơn một chuyên gia hay bác sĩ, Chúa Giê-su dạy chúng ta đừng sợ hãi vì Người là Mục Tử nhân lành. Người sẽ dẫn dắt chúng ta can đảm đi hết cuộc lữ hành trần gian để đưa chúng ta tới kho tàng không hề hư nát và hưởng gia nghiệp của Cha trên trời. Người cũng sẽ trở lại để đón chúng ta, như Ông Chủ thắt lưng và đưa chúng ta vào bàn tiệc thiên quốc. Để được như vậy, Chúa dạy chúng ta chỉ cần làm một điều thôi: hãy sẵn sàng.
Sẵn sàng sẽ là câu hỏi chúng ta trả lời mỗi ngày, nhất là vào giờ xét mình và cầu nguyện trước khi đi ngủ. Sẵn sàng và sợ hãi giống như nước với lửa. Nếu nước đã sẵn sàng thì lửa sợ hãi cũng phải tắt thôi! Sẵn sàng đón Chúa đến không chỉ là tư thế nhất thời, nhưng là thái độ và lối sống của Ki-tô hữu trong mọi lúc (canh hai hoặc canh ba) và mọi nơi. Lời cầu nguyện ý nghĩa nhất của Ki-tô hữu, kẻ sẵn sàng, phải là: “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Khải Huyền 22:20).
Lc 12:32-48: 32 "Ðừng sợ! hỡi đàn chiên nhỏ bé! Vì Cha các ngươi đã khấng ban Nước cho các ngươi!"
33 "Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí! Hãy sắm cho mình những ví tiền sẽ không hề cũ nát, kho tàng không hao vơi trên trời, nơi trộm không lai vãng, và một không nhấm nát. 34 Vì kho tàng các ngươi ở đâu, thì lòng các ngươi cũng ở đó".
35 "Các ngươi hãy lo sao: áo xắn đai lưng và đèn chong sáng, 36 Các ngươi hãy nên giống như những người đợi chủ về, lúc mãn tiệc cưới, để thoạt chủ về gõ cửa, thì lập tức mở được cho chủ. Phúc cho những tôi tớ nào chủ đến mà sẽ gặp được đang canh thức! 37 Quả thật, Ta bảo các ngươi, chủ sẽ thắt lưng, đặt họ nằm xuống giường tiệc; và qua kại, chủ sẽ hầu bàn cho họ. 38 Và giả như ông đến, dù lối canh hai, hay canh ba, mà còn gặp được như thế, thì họ có phúc thật!"
39 "Hãy biết điều này: Nếu gia chủ đã giết giờ nào trộm đến, tất ông đã không để nhà mình bị đào ngạch. 40 Các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con người sẽ đến".
41 Phêrô mới nói: "Thưa Ngài, Ngài nói ví dụ đó cho chúng tôi, hay tất cả mọi người?" 42 Và Chúa nói: "Vậy ai là người quản lý trung thực, khôn ngoan, chủ sẽ đặt trên nô bộc của ông, để phân phát phần thực phẩm cho phải thời? 43 Phúc cho tôi tớ đó, chủ đến mà gặp nó đang làm như thế! 44 Ta bảo thật các ngươi: chủ sẽ đặt người ấy cai quản tất cả của cải nhà mình. 45 Nhưng nếu tên đầy tớ ấy nghĩ trong lòng: Chủ ta trễ lâu mới về; và ta tra tay đánh đập tớ trai, tớ gái, và ăn uống say sưa, 46 chủ tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ khai trừ nó, cho nó đồng phận cùng những kẻ bội tín."
47 "Ðầy tớ nào đã biết ý chủ mình, mà lại không dự bị sẵn sàng hay không làm theo ý chủ, thì sẽ ăn đòn nhiều hơn. 48 Còn kẻ không biết, nhưng đã làm điều đáng phải đòn, thì sẽ ăn đòn ít hơn."
"Kẻ được cho nhiều, thì cũng bị hỏi nhiều; và kẻ được gởi nhiều thì cũng bị đòi hỏi nhiều hơn".
Đoạn tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba câu kết (cc.32-34) của đoạn 12:22-34 và đoạn 12:25-48. Đoạn 12:22-34: TN19-C112 Lượng
Đoạn tin mừng Chúa nhật nầy gồm ba câu kết (cc.32-34) của đoạn 12:22-34 và đoạn 12:25-48. Đoạn 12:22-34 là lời Chúa Giêsu căn dặn đừng lo lắng gì về của cải, và ngay cả những thức cần thiết cho cuộc sống đời nầy. Người nói hãy bán đi tất cả và cho người nghèo, Nước Trời sẽ đuợc ban cho (c. 32). Đó mới là kho tàng đích thật phải giữ gìn. Từ loan báo quà tặng Nước Trời, Luca chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến (12:35-48). Chúa chính là Nước Trời.
Đoạn nầy gồm hai phần lớn: 12:35-40 và 12:41-48. Cấu trúc của phần một (12:35-40) là đối đảo giữa các câu 35-37 và 38-40: Các câu 12:35-40: A. Mời gọi tỉnh thức (c. 35); B. Giải thích (c.36); C. Phúc cho người tỉnh thức (c.37a); D. Phần thưởng (c.37b); C’ Phúc cho người tỉnh thức (c. 38); B’ Giải thích (c. 39); A’ Mời gọi tỉnh thức (c. 40). Các câu 35-37 nhấn mạnh tỉnh thức khi không có mặt chủ; trong khi các câu 38-40 nói đến sự trở về bất ngờ của chủ. Các câu 12:41-48: Diễn từ bị cắt ngang bởi câu hỏi của Phêrô (c.41), và đề tài chuyển sang hướng khác, nói đến việc phục vụ trong khi đợi chủ về. Dụ ngôn trong đoạn nầy (cc. 42-46) có thể phân thành hai phần song song và đối nhau: 1- Người quản lý khôn ngoan chu toàn trách nhiệm và được ân thưởng khi chủ trở về (cc.42-44); 2- Người quản lý không chu toàn trách nhiệm và chịu hình phạt (c.45-46). Hai câu 47-48 là phần hai của đoạn. Điểm chung nối kết hai đoạn chính nầy là chủ đề việc đến không biết trước của “chủ” (12:36.37.41.42.43.45.46.47), và những thái độ tỉnh thức của người tôi tớ (12:37.43.45.46.47).
Tỉnh thức khi chủ chưa về (cc.35-37)
Chúa Giêsu nói với các môn đệ diễn từ nầy trong quan là Chúa (kyrios) - anh em (hymeis) (cc.36.40), cũng là chủ (kyrios) - tớ (doulos). Mệnh lệnh đầu tiên cho các môn đệ ngay ở câu đầu tiên là “Thắt đai lưng” (c.35), nhắc đến câu chuyện đêm ăn chiên vượt qua của người do thái (Xh 12:11), chỉ thái độ sẵn sàng ra đi đón chủ; và “đèn đốt sáng” cũng chỉ sự sẵn sàng: thắp sáng đường đón chủ về (x. 8:16;11:33). Việc Chúa đến thường được mô tả giữa đêm khuya để chỉ sự thình lình (x. 12:38); Mt 25:6.13). Người do thái ra đi gặp Chúa giữa đêm khuya, trong khi người Ai cập còn mê ngủ. Người tôi tớ phải thắt đai lưng và đốt đèn đợi cho đến khi chủ về (c. 36). Động từ “chờ đợi” ở đây, prosdechomai, đồng nghĩa với “tỉnh thức”, grēgorēo, (c. 37). Cả hai động từ đều ở thể phân từ, chỉ sự kéo dài, thời hạn. Tương tự như Matthêô (25:1-13), Luca dùng những yếu tố tiêu biểu: đốt đèn, chờ đợi, tiệc cưới để nói về sự sẵn sàng đón Chúa. Mối phúc của người tôi tớ tỉnh thức chờ đợi là được thấy chủ về (x. 10:23), nghe tiếng và mở cửa cho chủ. Việc làm theo ý chủ đưa người tôi tớ vào trong thông hiệp với chủ. Câu 37 gây kinh ngạc (x. 17:7-10), vì người chủ đã đổi vai. Ông đứng vào vị trí của người tôi tớ để phục vụ người tôi tớ. Có thể là Luca nghĩ đến các môn đệ đang ăn uống bàn tiệc của Chúa Giêsu trong Nước của Người (22:30), và Người ở giữa họ như người phục vụ (22:27). Vậy người môn đệ tỉnh thức để đón Chúa và được vào dự phần phúc trong bàn tiệc của Người.
Chủ sẽ về bất ngờ (cc.38-40)
Đoạn nầy dùng nhiều từ ngữ về thời gian: “canh hai, canh ba” (c.38), “giờ” của kẻ trộm (c.39), “giờ” của chủ (c.40), để nhấn mạnh điều nầy là không ai biết trước cách chắn chắn khi nào Chúa đến. “Kẻ trộm” (c.39) được dùng thay cho người chủ đi dự tiệc cưới về. Câu cuối cùng của đoạn (c.40) giải thích cách rõ ràng là việc người chủ hay kẻ trộm đến, chính là việc Người Con của Nhân Loại đến. Các môn đệ phải biết điều nầy là họ không biết gì lúc nào Chúa đến. Sự vô tri nầy giúp họ phải tỉnh thức.
Luca dẫn vào đoạn thứ hai bằng câu hỏi của Phêrô, muốn biết giáo huấn tiếp theo đây sẽ ngỏ đến ai: các môn đệ hay mọi người (c.41). Câu trả lời cho thấy đó là những người được cắt đặt để coi sóc cộng đoàn (c.42).
Người quản lý khôn ngoan (cc.42-44)
Người chủ cắt đặt người quản lý, có thể ân thưởng (c. 44) hoặc trách phạt (c. 46) tùy theo thái độ và hành động của người quản lý. Đoạn nầy nói đến người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau nầy (16:1-10). Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản. Therapeuō nghĩa trước tiên là “chữa lành” (x. 9:11); tuy nhiên ở đây có nghĩa là “gia nhân”. “Trung tín” đối nghĩa với bất trung (x. 16:10). Luca đề cập đến sự trung tín rất cụ thể: trung tín việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tải sản khi chủ thấy ông nầy đã trung tín với việc trước (c. 43). “Khôn ngoan”, tính từ chỉ được dùng một lần trong Luca. Từ nầy được dùng nhiều trong Matthêô, đặc biệt trong dụ ngôn năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan (25:2.4.8.9). Phronimos chỉ người biết hành xử đúng với qui luật tự nhiên và cả ý của Thiên Chúa (Mt 7:24). Công việc người quản lý làm là công việc của Thiên Chúa, nên ông phải làm theo thời điểm Người qui định. Kairos có nghĩa vừa là “thời điểm”, vừa là “thời hạn”. Kairos là thời của Thiên Chúa (1:20; 12:56; 19:44; 20:10…). Thời nào Luca không đề cập đến, ông chỉ nói đến đang lúc người quản lý làm như thế mà chủ đến, thì có phúc cho người quản lý đó. Động từ “làm” chỉ hành động đang diễn ra (c. 43). Và người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc”, makarios, và được cặt đặt coi sóc gia sản của chủ (c. 44), nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.
Người quản lý bất trung (cc.45-46)
Tình cảnh của người tôi tớ trong đoạn nầy ngược hẳn với người quản lý trên. So sánh với Matthêô, Luca bỏ “tính từ “xấu” gán cho người tôi tớ (Mt 18:48), thêm động từ “trở về”. Ý nghĩ “Chúa đến muộn” (c. 45) có thể rất phổ biến giữa cộng đoàn của Luca. Hai khía cạnh tiêu biểu của người tôi tớ nầy: đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống và say sưa hay vì phân phát phần thực phẫm cho gia nhân. Trường hợp nầy Luca đặt vào giả thiết “Nếu…” (c. 45), như là một nguy cơ có thể xảy ra. Hành động của người tôi tớ nầy nhắc nhớ đến người giàu có (12:19). Cả hai đều không nghĩ là Chúa có thể đến bất cứ lúc nào. Động từ “đến” (c. 46) đặt ở đầu câu, và ở thì tương lai, muốn nói là chắn chắn Chúa sẽ đến. Chắc chắn là người tôi tớ không biết lúc nào chủ sẽ về, nhưng lỗi của người nầy là không chờ đợi (động từ ở thì hiện tại), nghĩa là không tỉnh thức cho đến lúc chủ về (x. 12:36.37).
Về hình phạt, ông chủ sẽ hai việc cho người nầy “cắt người làn đôi”, và “đặt người nầy vào chung với những người bất tín” (c. 46). Việc “cắt thành hai”, dichotomeō, là phân mảnh thân xác ra và sự sống không còn nữa; nghĩa là “giết chết”. Việc xếp chung người nầy với những người bất trung gợi lên hai điều: người đầy tớ nầy cũng bị kể là người “bất trung”, apisteō; đối nghịch với người quản lý trung tín trên, apisteos; và người nầy không được hưởng sự hiệp thông với chủ, đối nghịch với người quản lý trung tín (c. 44). Hai hành động nầy tương đương với việc Thiên Chúa có thể “giết chết” thân xác, và ném cả con người vào hoả ngục (12:4-5). Thưởng hay phạt sẽ được thực hiện cách dứt khoát vào thời Người Con của Nhân Loại đến (12:40).
Lời mời gọi tỉnh thức dành cho mọi người: sẵn sàng nội tâm và chu toàn trách nhiệm.
Mọi quốc gia đều lấy sự giàu mạnh làm lý tưởng. Ai cũng mơ ước và cố gắng làm sao cho dân giàu TN19-C113
Mọi quốc gia đều lấy sự giàu mạnh làm lý tưởng. Ai cũng mơ ước và cố gắng làm sao cho dân giàu nước mạnh. Vậy mà chỉ có Nước Trời xem ra lại chỉ muốn có sự nghèo khó.
Thực vậy sự nghèo khó gắn liền với Nước Trời, đó là điều đã được Chúa Giêsu công bố: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cái mối tương quan bất khả phân ly giữa Nước Trời và sự nghèo khó ấy: Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng và cũng chẳng có mối mọt đục phá. Lý do của sự gắn bó giữa Nước Trời và sự nghèo khó không phải như nhiều người vẫn nghĩ là vì Nước Trời thuộc về trật tự siêu nhiên, một thực tại đối lập với thực tại trần thế. Cái lối suy nghĩ như thế không giúp ích gì để soi sáng cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm Nước Trời, trái lại nó còn làm cho lu mờ khó hiểu thêm, hay nói đúng hơn, nó xuyên tạc hoàn toàn ý nghĩa của mầu nhiệm đó.
Không phải vì Nước Trời là một thực tại thuộc về tâm linh mà đối lập và chống lại thực tại vật chất. Trái lại, giữa hai thực tại vẫn có một sự liên tục: giữa trần gian và Nước Chúa. Giữa trời đất đang có và trời mới đất mới đang hình thành có một liên hệ không thể nào tách biệt. Điều đó phần nào cũng giống như mối liên hệ giữa con sâu hiện tại và cánh bướm của tương lai, giữa hạt thóc hôm nay và bông lúa của ngày mai.
Vì thế, khó nghèo ở đây trước hết, không phải là chủ trương không có gì, và nhất là không phải chỉ dừng lại ở chuyện không có của cải vật chất. Sự nghèo khó ở đây phải là một sự nghèo khó tuyệt đối, một sự nghèo khó trong tâm hồn giống như cái “tiết trực tâm hư” theo lý tưởng của người quân tử Trung Hoa, nghĩa là cái lòng thanh bạch, không tham lam chất chứa gì cho mình. Hay là cái vô ngã của nhà Phật, chủ trương dẹp bỏ tận gốc của tham sân si, là cái tôi. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình.
Do đó sư nghèo khó này không phải chủ yếu ở chỗ không có gì và không muốn có gì, mà còn là sự từ bỏ cái có mà nhân loại không ai muốn bỏ, tức là cái tôi của mình. Tuy nhiên muốn từ bỏ cái tôi mà lại không muốn từ bỏ những gì thuộc về nó, những gì nó có và bám vào để tồn tại, thì cũng chẳng khác gì muốn dập tắt ngọn lửa mà vẫn còn để cho nó bám vào chất cháy. Bởi đó không ai có thể từ bỏ chính mình mà lại không từ bỏ của cải vật chất cũng như danh vọng và địa vị. Thế nhưng sự từ bỏ ấy không phải để tạo cho mình một sự thanh tĩnh vô vi, một thứ niết bàn nào đó theo quan niệm Phật giáo, nhưng là để dâng hiến theo đòi hỏi của tình yêu, dâng hiến trọn vẹn để phục vụ anh em vì Nước Trời.
Khi yêu nhau, người ta sẵn sàng đem tất cả những gì mình có đến đặt dưới chân người mình yêu, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay người mình yêu, sẵn sàng dâng hiến cả mạng sống mình cho người mình yêu, sẵn sàng sống tất cả vì người mình yêu và cho người mình yêu. Người nghèo khó theo chân Chúa Giêsu cũng phải là người hiến dâng trọn vẹn như thế. Chính trong kinh nghiệm ấy mà thánh Phaolô đã nói: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Dòng dõi của Tổ phụ Abraham đã thừa hưởng gia bảo quý báu là đức tin. Tuy phải đối diện với muôn TN19-C114
Dòng dõi của Tổ phụ Abraham đã thừa hưởng gia bảo quý báu là đức tin. Tuy phải đối diện với muôn vàn gian khó và chung đụng với nhiều tôn giáo thờ các thần ngoại, con cháu của Tổ phụ Abraham tiếp tục đặt niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Họ đã trung thành với truyền thống của cha ông. Họ là nhóm nồng cốt lưu truyền cho các thế hệ sứ mệnh đã được trao ban cho các Tổ phụ. Họ là những người công chính cầm cân nẩy mực giúp cho đoàn dân quy hướng về Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ghi nhận: "Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ." (Kn 18,9). Số còn sót lại của dòng dõi Abraham đã trải qua vinh nhục và sướng khổ để hoàn thành sứ mệnh.
Lịch sử Ơn Cứu độ là một cuộc lữ hành trong đức tin. Thư gửi tín hữu Dothái đã nhấn mạnh: "Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt." (Dt 11,1-2). Qua đức tin, các cha ông đã tiến đi trong sự phó thác và sự quan phòng của Thiên Chúa. Các ngài sống chết trong niềm tin, dù chưa hề chứng kiến các sự kiện xuất hiện. Bước đi trong niềm tin chứ không phải đi trong cảnh nhãn tiền. Từ lời hứa ban ơn cứu độ với Adong và Evà, qua các Tổ phụ Noe, Abraham, Isaac, Jocob, Giuse và Môisen… Thiên Chúa luôn đồng hành và dẫn dắt lịch sử cứu độ. Thiên Chúa luôn trung tín với lời đã hứa. Các Tổ phụ đã luôn đặt niềm tin nơi Chúa: "Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất." (Dt 11,13).
Bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục giảng về của cải Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc và của cải hay hư nát mà đổi lấy kho tàng trên trời. Lữ hành trần thế nhưng mắt của chúng ta hướng về trời cao. Mỗi người chúng ta có một định mệnh riêng. Khởi đi từ dưới đất tạm thời và sẽ kết thúc nơi vĩnh hằng. Nơi đó có thể là nơi hằng sống ở thiên đàng hoặc nơi bị đày ải khổ đau. Muốn gặt hái những hoa trái tốt lành, chúng ta phải chăm sóc gieo hạt cẩn thận. Hoa trái an lạc không phải tự nhiên hay ngẫu nhiên mà kết thành. Muốn hưởng hạnh phúc quê thật, chúng ta phải làm việc lành phúc đức và tích trữ những của cải không hư nát. Chúa Giêsu dạy: "Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát." (Lc 12,33).
Truyện kể có bà lão ăn mày tên là Mary. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ ăn xin. Không kể mùa đông băng giá, bà chỉ mặc manh áo sờn rách. Bà van xin kể lể cảnh túng cực. Bà kiên tâm xin người qua kẻ lại thương tình bố thí. Tối đến bà trở về túp lều gỗ. Bà ăn uống đơn sơ. Vì quá kham khổ nên bị bệnh và chết. Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh tìm đến nơi. Vào căn lều nhỏ, thấy bà đã chết nhưng tay vẫn chỉ vào một góc nhà. Họ đã đào bới và tìm thấy cái hộp, có 127.000 đô la. Thật là món tiền khổng lồ nhưng lại vô ích cho chủ nhân.
"Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó." (Lc 12,34). Đúng thế, đồng tiền nối liền khúc ruột. Tiền bạc rất cần cho cuộc sống nơi dương thế, nhưng tiền bạc không là cùng đích. Của cải tiền bạc như con dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại hạnh phúc và cũng có thể huỷ hoại niềm vui hoan lạc cuộc sống. Tiền bạc là phương tiện tốt giúp tìm được hạnh phúc thật nếu chúng ta dùng tiền bạc như một tên đầy tớ hữu dụng. Chúa Giêsu đã nhắc nhở rằng kho tàng ở đâu thì lòng ở đó. Khi lòng chúng ta mải mê với của cải trần đời, tâm hồn cũng sẽ bị hoen ố lây. Thường tình, ai trong chúng ta cũng mến chuộng tiền bạc. Tiền giúp chúng ta tránh khỏi cảnh lầm than, thiếu thốn, nhưng tiền không là tất cả. Có tiền, chúng ta có thể mua được nhà, được xe và các phương tiện đồ dùng nhưng chưa chắc đã mua được sức khoẻ, tri thức, tình yêu và hạnh phúc. Chúng ta nên cẩn thận về cách kiếm tiền, tiêu tiền và dùng tiền để sinh hoa trái an vui và hạnh phúc cuộc đời.
Có người quan niệm rằng tiền là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ… Lợi nhuận của đồng tiền đã lôi kéo nhiều tâm hồn vào con đường lầm lạc. Có người nghĩ rằng dối gian gạt người khác và gạt các nhân viên chính quyền thì không phải là sự gian dối. Chủ trương là miễn làm sao đạt được mục đích riêng tư, lợi ích cho bản thân và gia đình. Có trường hợp làm giấy hôn thú giả và cưới giả để lấy một món tiền. Hai bên đều có lợi. Bất chấp tiếng nói lương tâm hay lỗi phạm các giới răn của Chúa. Có nhiều tín hữu bên ngoài có vẻ sùng đạo cũng đã vào hùa với nhau để làm chứng dối cho nhau.
Như trường hợp một người đã có gia đình, vợ và con cái ở quê nhà. Ông sang Hoa Kỳ đi du lịch, visa đã gần hết hạn và muốn được ở lại Hoa Kỳ. Qua mai mối, ông âm thầm ly dị vợ và làm giấy hôn thú với một người Công giáo khác. Có chứng minh hình ảnh và nhân chứng thật rõ ràng. Khổ nỗi, các nhân chứng quá thật, dàn cảnh có linh mục và bạn bè cùng chụp hình chung làm bằng chứng để phỏng vấn, rồi tổ chức đám cưới giả để qua mắt chính quyền. Người được việc, kẻ được tiền và người mai mối thì vui vẻ thành công. Hả hê vì có bạn, có tiền và có kết quả theo ý muốn. Đôi khi cậy vào danh Chúa để khoe rằng Chúa đã nhận lời cầu nguyện, cảm tạ ơn Chúa.
Khi còn đang sung sức, mạnh khoẻ, chúng ta cố gắng làm việc tốt. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi ngày đều có sự thay đổi và cuộc sống đời này thật mong manh. Sự sống, sự chết cận kề. Chúng ta không biết được việc gì sẽ xảy ra ngày mai. Chúa Giêsu cảnh báo: "Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến." (Lc 12,40). Chẳng ai học được chữ ngờ. Cái gì cũng có thể xảy ra. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế chuẩn bị. Chuẩn bị về mọi khía cạnh của cuộc sống. Sự chuẩn bị sẽ giúp chúng ta sống an bình và vui vẻ hơn. Không còn giận hờn, ghen ghét. Không chôn giữ những sự báo thù trong lòng. Bỏ qua, tha thứ cho nhau. Tạo bầu khí thân thiện. Giữ tâm hồn hồn thanh thản. Không mắc nợ nhau điều gì. Sống giao hoà với Thiên Chúa và anh chị em. Sống an vui tự tại và thanh thản. Nhắm chính hướng đi về cùng đích và nhận ra mục đích của cuộc đời. Khởi đi từ đất thấp, kết thúc nơi trời cao.
Chúa ban cho mỗi người một kho tàng riêng biệt, có kẻ hơn người kém. Mỗi người đều có bổn phận và trách nhiệm về những khả năng đã lãnh nhận. Dùng vốn liếng đúng nơi, đúng lúc và sinh hoa kết trái đúng mùa. Chúng ta không cần phải so sánh số vốn liếng với người khác. Chúa cho ai nhiều thì sẽ đòi lại nhiều: "Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn." (Lc 12,48). Tránh đi sự tự phụ và kiêu căng. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều là hồng ân Chúa ban. Nếu có khoe khoang, chúng ta hãy khoe về sự yếu đuối và bất toàn của mình. Sự thành công của chúng ta cũng lệ thuộc rất nhiều vào tha nhân. Hãy luôn nhớ rằng yếu tố của thành công là do thiên thời, địa lợi và nhân hoà.
Lạy Chúa, các Tổ phụ xưa đã bước đi trong đêm tối của niềm tin. Các ngài đã đi đến cùng đường và nêu gương đức tin kiên vững cho mọi thế hệ. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chúng con sẽ được an nghỉ trong tình yêu của Chúa vì Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Chúng ta vừa được Chúa dạy cho chúng ta về cách sống ở đời, Chúa muốn cho mọi người chúng ta sống TN19-C115
Chúng ta vừa được Chúa dạy cho chúng ta về cách sống ở đời, Chúa muốn cho mọi người chúng ta sống thật khôn ngoan.
1. Cuộc sống ở đời.
Chúng con thấy mọi người sinh ra đều được sống ở đời. Nhưng sống ở đời là sống như thế nào?
Trong bài suy niệm Chúa nhật tuần trước Chúa đã cho chúng ta thấy cuộc sống ở đời này là cuộc sống thật mau qua, không có gì tồn tại mãi mãi . Vì là cuộc sống mau qua như thế nên Chúa khuyên chúng ta hãy tìm đến cuộc sống vĩnh cửu trên trời bằng cách làm giầu trước mặt Chúa (Lc 12,21), đừng bám víu vào cuộc sống ở đời này kẻo rồi khi cuộc đời trần thề này chấm dứt lúc đó hối cũng không kịp.
Chúng con hãy nghe câu chuyện này:
Thành phố Priène ở Tiểu Á xưa bị quân địch tràn ngập và cướp bóc. Dân thành phố cố gắng vun quén thu xếp những đồ vật quí giá nhất và nhanh chân chạy chốn. Chỉ có nhà khôn ngoan là Bias vẫn tiếp tục bình thản đi trên đường với hai bàn tay trắng. Trên người ông chỉ có chiếc áo dài, chiếc áo khoác và đôi giày. Ông đang đi, gặp một người trong số các bạn bè của ông đang đẩy xe kéo theo mình đủ thứ đồ vật quí giá.
- Bias! - người này la lớn- Anh giàu hơn tôi, nhưng bây giờ sao anh nghèo thế?
Ngay lúc ấy bỗng xuất hiện những người lính hôi của, và chỉ trong nháy mắt, họ đã chiếm hết tất cả những gì anh này mang theo, rồi biến mất. Bias bèn cười và nói với bạn:
- Hãy làm như tôi, anh bạn yêu mến! Tôi không bao giờ cầm những vật mà người ta có thể đánh cắp mất trong chốc lát. Tôi tích lũy một kho tàng mà không ai có thể lấy của tôi được và tôi đem nó theo ra ngoại quốc!
- Anh có đem theo trong người một kho tàng ư?
- Vâng, một kho tàng quí hơn tất cả vàng bạc của Priène nữa!
- Anh có thể chia sẻ với tôi chút ít, vì bây giờ tôi đã trở thành kẻ trắng tay không?
- Anh có thể lấy hết tất cả, nếu anh muốn, bởi vì điều này cũng chẳng làm tôi nghèo hơn đâu. Kho tàng ấy là lòng yêu mến, hiểu biết và nhân đức!
Của cải vật chất trên đời là như vậy. Chính vì thế mà Chúa muốn chúng ta phải biết khôn ngoan. Nhưng sống khôn ngoan là sống như thế nào chúng con?
2. Sống khôn ngoan là biết sống đúng cương vị vai trò của mình trước mắt Chúa trên trần gian này. Vai trò địa vị đó là gì chúng con? Thưa là một người quản gia quản lý những gì Thiên Chúa ban cho mỗi người cũng như cả loài người chúng ta.
a. Nhưng thử hỏi Chúa muốn một người quản gia quản lý những gia sản Chúa trao phó cho ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta phải là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
* Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
* Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
* Là quản lý khôn ngoan, ta phải biết chọn lựa những gì tốt đẹp nhất cho cuộc sống của mình.
Đức Cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Noel, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà "Giáng sinh"
Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách "Hạnh Các Thánh ". Bossuet nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt. Tôi 1ấy cuốn "Hạnh Các Thánh".
Tuy nhiên, khi ông này vừa mở cuốn sách ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tương tượng niềm vui của ông và nỗi hối tiếc hờn giận của ba người kia. Ông này đã không hối hận về sự lựa chọn của mình.
* Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời tạm bợ này thật mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Ðợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Ðợi chờ là phải tích cực làm việc.
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này:
Có một tu sĩ kia sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là "Ông thánh nhỏ".
Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào việc rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi biết là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nghe xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần lại hiện ra. Như đoán trước được ý của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đấy ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc ngay.
Thiên thần nhìn vị tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:
- Này vị thánh nhỏ, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
Hay quá chúng con! Làm việc bổn phận Chúa trao cho hằng ngày. Đó là người quản lý trung tín và khôn ngoan rồi. Cha chúc chúng con sống được như thế. Amen. Lm Giuse Đinh Tất Quý
Có một người kể rằng: Nghe ai đó quảng cáo “nấm tróc ăn ngon lắm”, bạn tôi liền trổ tài đầu TN19-C116
Có một người kể rằng: Nghe ai đó quảng cáo “nấm tróc ăn ngon lắm”, bạn tôi liền trổ tài đầu bếp. Trong ngày sinh nhật của mình, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon.
Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi.” Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy sắm sẵn cho mình một gia tài trên trời, là nơi không có mối mọt, không có trộm cắp. Gia tài đó được xây dựng trên việc lành phúc đức khi mà chúng ta biết cho đi. Cho đi tiền bạc, thời giờ để phục vụ, để yêu thương. Cuộc sống con người tựa như một quản gia của Thiên Chúa. Thiên Chúa rộng rãi ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành hồn xác, không phải để ta thoả mãn bản thân mà để ta có điều kiện phục vụ mọi người. Ngày Chúa đến. Chúa không hỏi gia tài Chúa ban còn hay mất mà Chúa hỏi chúng ta đã làm gì với nén bạc Chúa trao? Đã tiêu xài cho bản thân hay sinh lời cho Chúa?
Thế nhưng, khi nhìn vào cuộc sống hôm nay, người ta chỉ thấy bon chen, ích kỷ. Con người sống giành giật nhau, “cá lớn nuốt cá bé”. Cuộc sống như một chiến trường mà con người luôn phải tỉnh thức để chiến đấu, để tồn tại trong thế giới lắm thị phi. Con người dường như không có giờ để nghĩ tới đời sau vì cái ăn, cái mặc và cả cái tính đua đòi đã làm con người không còn thời giờ nghĩ tới đời sau. Con người bước vào trần thế như đang lâm vào một thế trận luôn phải chiến đấu để tồn tại, để thắng hơn người. Con người đã “tối mày tối mặt” bởi những chuyện trần gian mà quên tìm kiếm Nước Trời.
Con người sống như thể chỉ có đời này. Họ vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn cưới vợ gả chồng... Cuộc đời tưởng chừng chỉ đi loanh quanh trong vòng luẩn quẩn đấy đã dẫn dắt con người như lạc trong một mê hồn trận của danh lợi thú trần gian. Con người chỉ lo tích trữ tiền cho đời này mà quên còn phải tích đức cho đời sau. Con người nhiều khi dám đánh đổi cả mạng sống mình vì tiền nhưng họ lại ngại hy sinh, ngại tích đức cho đời sau!
Cuộc đời là phù vân. Nếu con người biết cuộc đời này chẳng là gì so với sự sống đời đời sẽ giúp con người biết dùng đời này để mua lấy đời sau. Chúa không bảo chúng ta bỏ đời này, chê ghét đời này, mà Chúa bảo chúng ta phải biết dùng đời này để tích góp sự sống đời sau. Đời nà sẽ qua đi nhưng chúng ta sẽ được gì ở đời sau? Hãy biết dùng đời này để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đừng vì mải mê trong danh lạc thú mà đi ngược đường về trời.
Xin cho chúng ta luôn biết tỉnh thức để chiến thắng những mê muội trần gian. Xin đừng vì những danh lợi thú mau qua mà đánh mất gia tài trên trời. Amen.
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em".
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà TN19-C117
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà chúng ta cùng đi theo: từ mấy Chúa nhật qua. Đức Giêsu tiến lên cái chết của Người, sự "xuất phát" của Người (Lc 9,51). Không cần phải là một thầy bói để đoán trước tương lai. Trong một số trường hợp, người ta biết rất rõ điều gì sẽ xảy ra. Đối với Đức Giêsu và các bạn hữu Người, trong những tuần lễ cuối cùng trước lễ Vượt qua, điều đó rõ ràng và đáng ngại: Người sắp đối đầu với sự thù nghịch cứng rắn và không nao núng của những vị đứng đầu tôn giáo... giữa sự ác cảm của quần chúng không còn chút quan tâm đến con người đã từ khước trở thành Đấng Mêsia "của họ", Đấng Mêsia công thành danh toại và chiến thắng tất cả. Cứ bề ngoài mà xét, thất bại chung cuộc đang đến gần: Một dự án thất bại, một cuộc đời thất bại.
Vả lại chính trong bối cảnh đó mà Đức Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!". Thật vậy, nhóm các môn đệ ít ỏi ấy nhỏ bé và mong manh làm sao! Đức Giêsu cố động viên họ khi gọi họ bằng từ thân ái ấy: "Đoàn chiên bé nhỏ".
Nhưng từ ngữ ấy cũng là một cách diễn tả của Thánh Kinh mang một ý nghĩa thần học. "Đoàn chiên" có "chủ chiên" dẫn dắt, hình ảnh này muốn nói rằng Thiên Chúa yêu mến và bảo vệ dân được chọn của Người (St 48,15; Gr 31,10; Ed 34). “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ" (Tv 22).
Thế là một lần nữa, chính miệng con người Giêsu Nadarét đưa ra một khẳng định đầy táo bạo: Nhóm nhỏ này, yếu ớt và nghèo khổ, không quyền thế, không văn hóa, không chỗ dựa, không có lòng can đảm là "Israel mới", dân mới của Thiên Chúa. Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!
Ngày nay, Đức Giêsu nói với tôi cũng lời đó, trong những lúc tôi gặp thử thách. Ngày nay, Đức Giêsu nói lại điều đó với Giáo Hội hiện nay, trong những lúc Giáo Hội gặp khủng hoảng.
Tôi lắng nghe. Tôi lắng nghe.
Theo Đức Giêsu vì sao chúng ta phải xua tan sự sợ hãi? "Bởi vì Cha anh em coi việc ban cho anh em Nước của Người là điều tốt lành". Đời sống anh em có một ý nghĩa trong Thiên Chúa, cho dù vì lý do này hay lý do khác, đời sống ấy có một bề ngoài thất bại, cho dù bạn bè bỏ rơi anh em, kẻ thù đè bẹp anh em, mọi người không hiểu anh em, cho dù anh em đến phải nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Chúa con, tại sao Chúa lại bỏ con? Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu công bố rằng Thiên Chúa ban Nước của Người cho những "người nghèo khó", cho những người khốn khổ, sa cơ thất thế. Cả người làm kinh doanh đã phá sản, cả người chồng bị ly dị hoặc bị tổn thương trong tình yêu, cả gái giang hồ đã tàn phai hương sắc, cả phạm nhân bị kết án tử hình, cả người tội lỗi đã chối bỏ thầy mình, cả nhưng Người đã bỏ rơi Thầy vì một lý do nào đó. Tất cả đều có thể vượt qua nỗi tuyệt vọng trong Đức Giêsu. Nước của Thiên Chúa không phải là một cuộc chinh phục đang thắng lợi nhưng là một ơn của Chúa Cha. Khi đổ đầy ơn ấy cho anh em Chúa Cha thấy điều đó là tốt lành.
“Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thế hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó".
Đây là kết luận đơn giản của tất cả những gì chúng ta vừa nghe. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ông, phú hộ mà chúng ta đã nghe Chúa nhật vừa qua. Đối với người đã đặt mọi sự an toàn trong Thiên Chúa, các "của cải trần gian" không quan trọng gì mấy! Vậy thì, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho và hãy yêu thương không đòi đáp lại, dù chịu thiệt. Bạn hãy bố thí bằng tấm lòng thời gian và tài sản của bạn. Tất cả đều là hư vô, không có gì thật trừ tình yêu?
Trái tim của bạn ở đâu? Bạn có yêu không?.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay".
Tách rời khỏi những giá trị và những thành công ảo tưởng, lòng chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của nó, xua đuổi mọi sợ hãi, trở thành sung sướng Vậy bí quyết của sự triển nở đích thực ấy là gì dù trong những hoàn cảnh bất lợi nhất? Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một Người đang đến. Thiên Chúa "đến". Người tới gần. Người ở đây rồi.
Đức Giêsu đã loan báo Người sẽ trở lại vào thời sau rốt, trong ngày Quang Lâm. "Maranatha" "Xin Chúa hãy đến" Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được xem như cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Đấng Chí ái: "Chính vì thế mà thánh nữ Têrêxa Avila nghĩ đến giây phút cuối cùng của đời bà như lúc mà "dải lụa của cuộc gặp gỡ êm dịu ấy được tháo tung". Nhưng Thiên Chúa, dưới dải lụa: "trong bóng đêm" ẩn giấu, không ngừng đi đến. Vậy, trang Tin Mừng này nói về vô số lần Thiên Chúa đến mà chúng ta thường lỡ hẹn, bởi vì chúng ta ở chỗ khác và chúng ta không "tỉnh thức".
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy thì thật là phúc cho họ!"
Thêm một mối phúc thật nữa: “Phúc cho những ai tỉnh thức" "Thật là phúc cho họ!"
Trái tim của chúng ta được tạo ra là vì Chúa. Làm sao chúng ta lại ngạc nhiên nếu chỉ mình Chúa, sau cùng mới có thể làm cho tim ta no thỏa? Trái tim này rất lớn! Bạn không thể chỉ làm đầy nó bằng các tình yêu trần thế. Chỗ trũng ước vọng của bạn lớn như Thiên Chúa. Hãy yêu thương! Hãy yêu thương? Bạn chớ bao giờ ngừng yêu thương? Bạn sẽ không bao giờ hết yêu thương bởi vì thanh Thiên Chúa muốn đổ đầy cho bạn. Dĩ nhiên, bạn phải sống những yêu thương nơi gian trần với sự mạnh mẽ như một biểu tượng và sự thực hiện ban đầu của tình yêu cao cả.
"Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, và người làm vợ, hãy yêu thương chồng mình… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh" (Ep 5,32). Hôn nhân là một "bí tích", một "dấu chỉ": Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Nếu bạn có may mắn yêu thương và được yêu thương, bạn hãy sung sướng và không ngừng sống tình yêu thương của bạn "trong Chúa". Nhưng cả khi bạn có cảm tưởng làm hỏng tình yêu thương ấy; Bạn hãy đặt tình yêu thương ấy "trong Chúa". Bạn được "mời gọi đến bàn ăn của Thiên Chúa". Chính Người muốn phục vụ bạn? làm cho bạn no thỏa. "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và: mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Có người gõ cửa! Chúng ta hãy ra mở nhanh lên, chính là Người.
Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Hình ảnh mới lạ này, hình ảnh kẻ trộm rất táo bạo và đúng kiểu của Đức Giêsu. Giờ đây khi nói về: giờ kẻ trộm đến, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh hoàn toàn bất ngờ, làm hoang mang, thoạt đầu không thể hiểu được nhiều lần Người đến. Đức Giêsu cũng gợi ý rằng chúng ta thật sự "lâm nguy", nếu chúng ta không tỉnh thức: Phải lay động sự đờ đẫn, sự ngủ thiếp của chúng ta. Lúc đang chờ đợi lâu dài, trong đêm tối, ngọn gió gay gắt của buồn chán như muốn dập tắt ngọn lửa trong lòng chúng ta. Tôi đang "ngủ quên" hoặc đang "tỉnh thức".
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?". Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ, đúng lúc? Khi chủ, về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình".
Vậy là ở đây trên cùng một chủ đề về sự tỉnh thức là một dụ ngôn mới, lần này gởi cho những người có trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu; họ là những người "quản lý" họ không phải là những "ông chủ”. Họ phải có hai đức tính: Sự trung tín và lương tri! Họ chỉ có một vai trò duy nhất: nuôi sống mỗi người! Tôi muốn cầu nguyện cho họ, xuất phát từ đoạn Tin Mừng này. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở đấy một định nghĩa tốt về mọi người "có trách nhiệm" trong tất cả các lãnh vực.
Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đây tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên thất tín”.
Như trong ba dụ ngôn khác nói về sự mong đợi, Đức Giêsu nêu lên sự chậm trễ và sự bất ngờ. Ong chủ lâu về quá ông trễ nải. Có lẽ ông ấy sẽ không bao giờ về? Có lẽ việc Thiên Chúa đến là một ảo tưởng? Thế thì, chúng ta cứ ăn, cứ uống, cứ vui chơi; cho dù điều đó có dẫn chúng ta đến chỗ đàn áp, thống trị và đánh đập ngược đãi những người khác. Cơn cám dỗ ấy của "người có trách nhiệm", chúng ta hãy ghi nhận điều này, có thể: là của Phêrô và các Tông đồ. Chúng ta đã được cảnh báo rõ ràng. Các nghệ sĩ thời Trung cổ không ngần ngại chạm hình các giám mục và các Giáo hoàng xếp hàng cùng với đoàn người bị kết án trong ngày phán xét trên mặt dựng của các nhà thờ. Và sau này, các họa sĩ cũng làm như thế trong các bục họa. Điệu nhảy tư thần. Lời lảnh báo đáng sợ cho tất cả mọi người: Không ai có đặc quyền trước mặt Thiên Chúa.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Luôn luôn là chủ đề về trách nhiệm. Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và hiểu biết mà người ta có. Trách nhiệm của chúng ta có thể chỉ là một phần. Đức Giêsu đã nói như thế với biết bao tinh tế! Khi áp dụng nguyên tắc này chúng ta thường phải phán xét người khác với lòng khoan dung và phán xét chính mình với sự thật.
Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài TN19-C118
1. Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội hoạ, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh công Sơn tất cả những thứ đó chỉ "ở trọ" nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre, Con cá ở trọ trong khe nước nguồn... Môi xinh ở trọ người xinh, Duyên dáng ở trọ đôi chân Thúy Kiều... Tôi nay ở trọ trần gian, Mai sau về chốn xa xăm với Người.
-----------------------------------
Một Thiền sư nổi tiếng nọ đến trước cửa lâu đài của ông vua giàu có. Không người lính gác nào dám chặn ông lại. Ông chậm rãi bước vào và tiến thẳng đến ngai vàng chỗ nhà vua đang ngự.
Vua nhận ra vị khách quí ngay lập tức và nhà vua hỏi:
- Ngài cần gì chăng? - Tôi cần một chỗ ngủ trong quán trọ này – vị Thiền sư trả lời: - Nhưng đây đâu phải là quán trọ – nhà vua nói. Đây là lâu đài của ta. - Vậy tôi có thể xin ngài cho tôi biết ai là chủ của tòa lâu đài này trước Ngài không? - Cha ta. Ông ấy đã chết rồi. - Và ai là chủ trước cha ngài? - Ông nội ta. Ông ấy cũng đã chết.
- Như vậy là nơi đây đã có những người đã sống trong một thời gian ngắn và sau đó đã ra đi. Có phải Ngài đã nói với tôi là nó không phải là một quán trọ không?
Sau đó vị Thiền sư thong thả giải thích cho nhà vua… nói rồi ông điềm tĩnh ra đi.
2. Như vậy thực chất cuộc đời cuả mỗi người chúng ta trên trần gian là gì? Thưa chỉ là một người quản lý.
a. Là người quản lý ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
* Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phản bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Không được dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Không được dùng tài năng để phục vụ lợi nhuận riêng mình. Không được dùng trí thông minh để gieo rắc nọc độc tư tưởng. Không được biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng phải dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
* Là quản lý khôn ngoan, ta phải biết nhìn xa.
--------------------------
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra - đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho có nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (TP)
b. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông minh chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Ðức Giêsu đã dậy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Ðể sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời.” Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá.” Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Ðể gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú. * Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Ðợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Ðợi chờ là phải tích cực làm việc. La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn sau:
Một cụ già cuốc đất trồng cây. Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói:
- Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây… Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.
Ông cụ trả lời:
- Chắc gì lão chết trước, chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với già có khác chi nhau về phương diện đó.
Thời gian sau, ba cậu vì công việc, đi lính, kinh doanh… đều chết cả, hoặc vì ngộ nạn, hoặc vì chết trận…
Cụ già được tin buồn, khóc thương ba trẻ.
Câu cửa miệng người đời vẫn nói: tre già, măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời?
Trời hay, Trời biết hết chứ. Nhưng có điều cho xảy ra như vậy để con người không ai biết giờ mình chết. Có như thế con người mới lo tỉnh thức.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong.”
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ khuynh hướng và mối quan tâm của TN19-C119
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ khuynh hướng và mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, thái độ này thúc đẩy thánh nhân sau này viết sách Công Vụ. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh ký tập hợp những lời nói khác nhau của Đức Giê-su với bốn dụ ngôn: “các đầy tớ tỉnh thức” (12: 35-38), “tên trộm ban đêm” (12: 39-40), “viên quản gia trung tín hay bất trung” (12: 41-46) và “đầy tớ bị phạt nhẹ hay nặng tùy mức độ hiểu biết ý chủ” (12: 47-48). Giáo huấn này Đức Giê-su ngỏ lời đặc biệt đến các môn đệ, “đoàn chiên bé nhỏ” này, họ được hứa ban Nước Trời và sẽ là nhân tố của Giáo Hội Ngài (12: 32-34). Giữa những lời này, chúng ta đọc thấy một trong những lời khác thường nhất của Chúa Giê-su mà các thánh ký khác đã không bao giờ trích dẫn: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến tận bên mà phục vụ”. Hạt trân châu này ở trung tâm bản văn và chiếu sáng bản văn một cách rực rỡ.
Thánh Lu-ca luân phiên nhắm đến Giáo Hội tại thế và Giáo Hội của những người được tuyển chọn. 1. Lời hứa ban Nước Trời:
“Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Đây là những lời thân thương trìu mến, vì quả thật các môn đệ còn quá nhỏ bé về tầm cở, về số lượng, về quyền thế, về học thức… Đây cũng là những lời Kinh Thánh, vì lẽ hình ảnh mục tử trong Kinh Thánh thường có cung giọng Mê-si-a, như Mk 2: 12-13: “Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ tập hợp số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ góp chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa. Người mở đường đưa chúng tiến lên, chúng chọc một lỗ hỗng, đi qua cổng và ra ngoài. Đức Chúa, Vua của chúng đi qua trước, chính Người sẽ dẫn đầu”, hay Ed 34: 31: “Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi”.
Đàn chiên nhỏ bé này đón nhận lời hứa ban sự sống đời đời: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Những điều kiện gia nhập Nước Trời được xác định liền ngay: đức nghèo khó và tư thế tỉnh thức. 2. Đức khó nghèo:
Đàn chiên nhỏ bé phải nêu gương về đức nghèo khó: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Bản văn theo sau giống với bản văn Mát-thêu (6: 19-21), tuy nhiên thánh Mát-thêu lại đưa bản văn này vào “bài giảng trên núi”. Tại thánh Lu-ca, lời nhắc nhở về đức nghèo khó này đến như lời kết của dụ ngôn người phú hộ dại khờ và những lời khuyên tín thác vào ơn Quan Phòng (Lc 12: 16-32). 3. Tư thế tỉnh thức:
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn….”. Để tiện làm việc, người Do thái thường thắc lưng áo choàng lên cho đỡ vướng víu. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt những lời khuyên này vào trong cái khung diễn từ của Đức Giê-su về thời cánh chung (Mt 24: 42), trong khi thánh Lu-ca đặt chúng vào trước diễn từ này, nhưng cùng theo cùng một hướng nhắm: lịch sử và cuộc sống của Giáo Hội diễn ra giữa thời gian ông chủ ra đi và trở lại. 4. Phúc cho những đầy tớ trung tín:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Với đàn chiên nhỏ bé, họ sẽ lan truyền sứ điệp của Ngài cho đến chấp nhận hy sinh mạng sống mình, Đức Giê-su đề cập đến lòng tín trung: lòng tín trung của họ sẽ được thưởng thật bất ngờ nhất, ngoài sức tưởng tượng của mọi người: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Còn hình ảnh nào bạo dạn hơn khi trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ chư thánh. Dụ ngôn này thuộc riêng của thánh Lu-ca.
Chắc chắn, Chúa Giê-su đã tự nhận mình là người phục vụ. Buổi chiều Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã rửa chân cho các tông đồ của Ngài. Ngài đã nói với họ: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 27). Những cử chỉ và lời nói này của Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài, là một cuộc đời phục vụ một cách khiêm tốn và tình bạn mà Ngài muốn đưa ra làm gương: “Con Người đến không để được phục vụ, nhưng phục vụ”. Nhưng việc trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ bàn tiệc thiên quốc thật khó mà quan niệm được, tuy nhiên phù hợp với mặc khải Tin Mừng về việc Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ môn đệ Ngài với trọn tấm lòng yêu thương của Ngài. 5. Giáo Hội phục vụ:
Thánh Phê-rô không hiểu rõ ý nghĩa của dụ ngôn; thánh nhân đoán rằng dụ ngôn này nhắm đến các môn đệ. Vì thế, thánh nhân nêu vấn đề: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”.
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng là một cách thức tấn phong dành cho chính thánh nhân: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?... Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Chính Giáo Hội, qua thánh Phê-rô, được ủy quyền quản lý gia sản của Thầy, và được ủy nhiệm nuôi dưỡng tất cả các gia nhân và cung cấp lương cho họ. Đây là một ân ban nhưng cũng mối nguy hiểm, vì dựa vào công việc này mà Thiên Chúa sẽ xét xử họ. Trách nhiệm thì đa dạng, nhưng có một mẫu số chung: mỗi người sẽ chịu hình phạt hay nhận phần thưởng tùy theo cách hành xử của mình và tùy theo mức độ hiểu biết ý Chủ: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Chết là một sự kiện lớn nhất trong cuộc sống, nhưng nó lại đến một cách bất ngờ. Với một số TN19-C120
Chết là một sự kiện lớn nhất trong cuộc sống, nhưng nó lại đến một cách bất ngờ. Với một số người, cái chết đến như tên trộm trong đêm tối. Nó có thể xảy ra vào lúc chập choạng tối, giữa đêm hoặc đầu hôm. Tuy nhiên, điều bất ngờ này có thể lại là một ân sủng, buộc chúng ta phải cảnh giác, luôn chuẩn bị sẵn sàng mọi lúc.
Chuẩn bị không có nghĩa là phải hoàn thành mọi điều mình muốn, mà là phải có trách nhiệm với những công việc mình làm tại thời điểm hiện tại. Ngày kia, một đan sĩ đang lau nhà trong đan viện thì có người hỏi thầy sẽ làm gì nếu biết mình sẽ chết trong vòng một giờ nữa. "Tôi sẽ vẫn lau nhà", đan sĩ trả lời. Nói cách khác, thầy sẽ tiếp tục công việc mình đang làm.
Nhiều người tin rằng hạnh phúc là khi không bị ràng buộc trách nhiệm, không phải trả lời bất kỳ điều gì ; không có vấn đề gì hoặc không bị ai quấy rầy. Nhưng thực ra thì không phải như vậy mà thực tế lại trái ngược hoàn toàn. Hạnh phúc và sự thành toàn của một người, không hệ tại ở sự tự do, mà là đón nhận trách nhiệm. Nhưng trách nhiệm đó phải là một sự đón nhận trong yêu mến chứ không phải bị ép buộc.
Người nào thi hành công việc chỉ vì đó là bổn phận, thì người đó vẫn chưa hoàn tất bổn phận của mình. Nhiệm vụ càng khó khăn, đòi hỏi ta phải hiến dâng với tất cả nhiệt huyết thì bản thân ta càng được nâng cao. Ân huệ cao quý nhất trong cuộc sống, sự tự do nhất đó là khi mà việc chúng ta phải làm cũng chính là việc chúng ta yêu thích làm. "Khi ngủ, tôi mơ thấy cuộc sống chỉ toàn là niềm vui ; nhưng khi thức giấc, tôi nhận ra cuộc sống là một bổn phận. Vì thế tôi thực hiện và nhìn bổn phận như là niềm vui" (Tagore).
Trong buổi lễ nhậm chức Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ thứ hai, ông Dag Hammarskjold đã đọc bài diễn văn cảm ơn. Trong đó ông đã trích câu thơ Thuỵ Điển: "Ngày nào sẽ đến với ta đầy ắp niềm vui và rất ít nỗi buồn ?" và ông thêm vào câu trả lời của mình: "Ngày mà chúng ta cảm thấy mình đang sống với hết trách nhiệm, trọn vẹn và xứng đáng với công sức mình cố gắng ; thì ngày đó sẽ đầy ắp niềm vui và rất ít nỗi buồn."
Thật là đẹp khi cái chết đến với ta vào lúc mọi công việc đã thực hiện xong, mọi nhiệm vụ đã được hoàn thành và được sắp đặt cẩn thận. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn điều này có thể xảy ra hay không, vì không ai biết được cái chết đến lúc nào. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ điều này: vấn đề không phải là cái chết đến khi nào và đến như thế nào, mà vấn đề là chúng ta đã sống như thế nào. Chúng ta phải phấn đấu để sống trọn vẹn và mạnh mẽ, không thụ động trước những bệnh tật, những thảm hoạ có thể xảy đến cho cuộc sống con người.
Một vài năm trước tại Mỹ, một linh mục dòng Phanxicô, người chuyên hoạt động vì trẻ em nghèo, khi tham dự vào cuộc đua xe đạp để gây quỹ từ thiện đã bị một chiếc xe hơi đụng và qua đời trong tai nạn đó. Đó không phải là cái chết dễ chịu. Tuy nhiên, theo cái nhìn của người Kitô hữu, đó lại là một cái chết mang ý nghĩa cao đẹp. Ngài qua đời trong khi đang làm việc vì Chúa. Ngài giống như người đầy tớ trung thành mà Chúa Giêsu đã nói đến trong Tin Mừng.
Cuộc sống rất quý báu nhưng chúng ta không thể nào vui hưởng cuộc sống trên trần gian này mãi được. Hạnh phúc cho những ai ý thức được trách nhiệm của mình. Sự cao quý của họ hệ tại nơi tinh thần trách nhiệm của họ. "Chúng ta không được gọi để trở nên người thành công, mà được gọi chỉ để làm người trung thành" (Mẹ Têrêsa).
Trong tác phẩm "The Tablet", Ignotus đã viết (01.04.2000) có hai cách để tiếp cận cuộc sống, hoặc là TN19-C121
Trong tác phẩm "The Tablet", Ignotus đã viết (01.04.2000) có hai cách để tiếp cận cuộc sống, hoặc là người lập kế hoạch, hoặc là người lữ hành. Người lập kế hoạch thường có khuynh hướng muốn điều khiển cuộc sống của mình và lên kế hoạch cho từng giai đoạn để bấm nút đạt đến mục tiêu. Người lên kế hoạch thường hành động theo cách thức mà xã hội cho là thành công, và họ dành hầu hết thời gian để cố gắng sống xứng hợp với lối sống và những giá trị khác. Họ trở nên thất vọng nặng nề nếu họ thất bại khi thực hiện các mục tiêu của mình.
Ngược lại, người lữ hành là người đón nhận cuộc sống như đón nhận một món quà mà nó sẽ được mở ra từ từ theo năm tháng, bất kể chúng ta có cố gắng thế nào đi nữa, thì chúng ta cũng không thể điều khiển những sự việc sẽ xảy đến. Người lữ hành không nhụt chí bởi thất bại và những điều thất vọng, nhưng họ xem đó là những cơ hội để tinh thần được tăng trưởng. Không giống như người lập kế hoạch, người lữ hành không bao giờ cảm thấy hoàn toàn an tâm hoặc dễ dàng với những giá trị xã hội.
Người lập kế hoạch từ chối sống bởi đức tin. Ngược lại, người lữ hành lại sống đức tin, ý thức rằng cuộc sống đầy rủi ro nhưng vẫn đón nhận. Họ nhận biết cuộc sống đầy những bấp bênh nơi thân phận con người nhưng vẫn sống vui. Đó là cốt lõi của niềm tin, họ đặt cuộc sống mình trong tay Chúa, và do đó mở rộng lòng mình để lãnh nhận sự che chở của ân sủng Chúa. Họ vui mừng với khoảnh khắc hiện tại và có khả năng sống cuộc sống tràn đầy.
Tổ phụ Abraham là gương mẫu vĩ đại của lòng tin trong Cựu Ước (bài đọc 2). Ông là một người lữ hành hoàn hảo. Tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ của mình, và lên đường đi đến miền đất Chúa hứa ban, nơi ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc lớn. Đó là một cuộc hành trình đến một nơi vô định. Điều duy nhất ông có được là lòng tin vào Chúa.
Chúng ta là con cháu tinh thần của Abraham. Chúng ta chứng tỏ mình thật sự là con cháu khi noi theo niềm tin của tổ phụ chúng ta. Cuộc sống đầy những điều bất ngờ. Như Abraham, chúng ta cũng đi trên hành trình đến nơi vô định. Chúng ta thực sự không biết được điều gì đang ở phía trước hành trình cuộc sống. Tuy nhiên, mặc cho thất bại và tuyệt vọng, chúng ta vẫn tiếp tục hành trình, nỗi nhớ nhà được thay thế bằng niềm hy vọng sẽ được thực hiện, nơi ấy đời sống đích thực của chúng ta sẽ bắt đầu.
Với trọn niềm tin, Abraham đã qua đời khi chưa thấy lời Chúa hứa được thực hiện. Là Kitô hữu, chúng ta trải qua hành trình cuộc sống của mình để đi đến miền đất hứa Nước Trời. Nhưng rồi chúng ta chết trước khi đến đích. Như Abraham, chúng ta lữ hành trong đức tin và chết trong hy vọng.
Đặc biệt vào lúc từ giã cõi đời này, chúng ta được Chúa mời gọi noi theo đức tin của Abraham. Với cái chết, chúng ta phải để lại tất cả ở phía sau, lên đường tới một miền đất lạ, chỉ còn trông cậy vào lời hứa của Chúa. Nếu chúng ta đã sống bởi đức tin, thì bước cuối cùng trong hành trình sẽ ít gian khổ nhất so với những bước trước đó.
Là Kitô hữu, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta không cô đơn trong hành trình cuộc sống. Chúng ta thực hiện hành trình cuộc sống với tư cách là thành viên trong cộng đoàn đức tin. Niềm tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ ta khi niềm tin của bản thân ta bị chao đảo.
Trong lúc này, giống như người đầy tớ mà Chúa Giêsu đề cập tới, chúng ta phải phấn đấu để trung thành với Chúa và với anh chị em. Trắc nghiệm đích thực của lòng trung thành là thái độ luôn tin tưởng, ngay cả trong lúc gặp những trở lực hay thất bại. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải có niềm tin tưởng ngay cả trong những điều nhỏ, tin tưởng rằng cuộc sống quan trọng và chúng ta có thể thực hiện một sự thay đổi. Chúng ta sẽ tìm thấy sự can đảm và niềm hy vọng từ câu nói của mẹ Têrêsa: "Chúng ta không được gọi để trở nên người thành công, mà được gọi chỉ để làm người trung thành."
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Thiên Chúa đặt chúng ta quản lý trái đất này, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta trở nên những nhà quản lý tốt trong công trình tạo dựng của Người.
Xướng: Cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và các Đức Giám Mục, để các ngài trung thành phục vụ như những người đầy tớ của Thiên Chúa.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu, để đức tin mà họ tuyên xưng bằng lời nói sẽ được sinh ích lợi nơi công việc làm của họ.
Xướng: Cầu nguyện cho các đôi vợ chồng được luôn chung thuỷ với nhau.
Xướng: Cầu nguyện cho những ai đang hiện diện nơi đây: để niềm tin nơi Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh, lòng can đảm và niềm hy vọng trên hành trình cuộc sống của chúng ta.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin ban cho chúng con lòng yêu mến những điều Chúa đã chỉ dạy, và một niềm khao khát những điều Chúa đã hứa ban, để dẫu khi sống giữa những thay đổi và bấp bênh của thế giới này, lòng chúng con luôn gắn bó với thế giới hoan lạc vĩnh cửu. Chúng con cầu xin …
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong TN19-C122
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800, nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển, toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau, đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.
Cái chết bất ngờ của cô người mẫu nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.
Quả thực, Kinh Thánh và giáo lý cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, bởi vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy đến cho mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày chết, còn hầu hết đều không biết trước. Chúng ta không biết trước ngày giờ mình chết, chẳng ai có thể phỏng định được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời, và cũng chẳng ai biết mình sẽ chết thế nào: chết từ từ hay chết bất thình lình, chết vì bệnh tật hay tai nạn, chết ở đâu: trên cạn hay dưới nước, ở nhà hay ngoài đường, chết trong tình trạng ơn nghĩa hay tội lỗi, mê man hay tỉnh táo, có kịp chịu các phép sau cùng hay không. Tóm lại, Chúa có thể đến gọi chúng ta khi chúng ta đang làm việc, đang khi chúng ta ngon giấc hay trong lúc chúng ta đang vui chơi giải trí… chúng ta hoàn toàn không hay biết gì về ngày giờ Chúa đến và Chúa gọi chúng ta ở chỗ nào.
Chính tính cách bất ngờ đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn sẵn sàng và do đó luôn cố gắng sống tốt lành. Cũng vậy, tính cách bất ngờ ấy cũng là điều tốt cho chúng ta, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác, chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng, hoặc tệ hại hơn, tự ru ngủ mình để rồi tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng. Chính vì tính cách bất ngờ ấy mà nhiều lần Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay, Chúa bảo chúng ta: bao lâu sống ở đời này, tư thế của chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng giống như người đầy tớ trung tín chờ đợi chủ về. Chủ có thể về bất cứ lúc nào, điều làm cho chủ hài lòng là khi trở về thấy người đầy tớ hoàn toàn sẵn sàng, khi ông gõ cửa là mở ngay. Rồi Chúa còn đưa ra một thí dụ nữa để nhấn mạnh thêm về sự khẩn trương phải sẵn sàng, cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến viếng nhà mình, nên ông luôn canh chừng để khỏi mất mát. Thì việc Chúa đến cũng bất ngờ như vậy, nên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này, dù có bất ngờ và đột ngột, chúng ta vẫn không lo sợ. Trái lại, chỉ những ai không tỉnh thức và không sẵn sàng mới đáng lo sợ mà thôi. Nói khác đi, sự chết bất ngờ như vậy có thể là hoàn toàn tự nhiên, bình thường, không phải là số mệnh, không phải Chúa định, cũng không phải Chúa có ý chơi xấu chúng ta, chỉ nhằm nhè lúc chúng ta lơ là thì Ngài đến. Thật ra tính cách bất ngờ đó có lợi cho chúng ta: đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh, đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc nước trời.
Vậy tỉnh thức là thế nào? Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức, tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường và trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa, nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tranh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hằng ngày, vẫn liên đới với mọi người, nhưng sống và làm việc một cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
“Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3, 3)
Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh TN19-C123
Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Nước Trời:" Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là có phúc cho họ." Tỉnh Thức có nghĩa là nhận biết chính mình, không mê muội, ảo tưởng về bản thân và các giá trị cuộc đời. Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng giữa thực tại và mộng tưởng mơ hồ, nhưng là người nhận biết bản thân mình và sống thực với mọi hoàn cảnh. Người sống tỉnh thức là người sống có lý tưởng và hành động trong sự khôn ngoan. Sách Khôn Ngoan có viết:
“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi, và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất...”
Thật vậy, người sống tỉnh thức là người sống khôn ngoan dưới ánh sáng Lời Chúa. Họ sẵn sàng tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục và của cải thế gian. Họ là người có phúc vì họ đã sống tỉnh thức. Khi ta nhận thức được điều này, thì lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ càng có ý cho mỗi người chúng ta hôm nay, Ngài nói: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó."
Cũng như người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, và hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Ngài đưa ra một quy luật quá khó khăn đối với anh ta. Nghe thấy thế, anh ta buồn rầu và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Nếu ngày hôm nay Chúa bảo chúng ta làm như anh nhà giàu này, thì chúng ta cũng bỏ đi ngay. Bằng chứng là có nhiều người ngày nay, họ bỏ Chúa, xa lìa Giáo Hội để chạy theo của cải thế gian hơn là đi tìm chân lý và tích lũy kho tàng trên trời. Sự thực, chúng ta cũng không hơn gì anh nhà giàu trong Tin Mừng. Anh ta là kiểu mẫu cho nhân loại thời nay. Lòng người thì hẹp và ngắn hơn tình thương và ân phúc Chúa ban tặng cho chúng ta mỗi ngày.
Với hình thức giữ đạo thì rất tốt, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu tinh thần sống đạo và chia sẻ cho nhau theo giá trị Tin Mừng, đó cũng là lý do tại sao Chúa Giê-su nói: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Người nghèo thì chết đói kẻ giàu thì phình da. Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ sững sờ, ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay, họ sẽ nghĩ gì?. Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền của để được vinh thăng cuộc đời.
Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!”. Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ, như thánh Phêrô nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa.? Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta mang được gì ra khỏi thế gian này!. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, đi nhiều nơi, nhưng chỉ có một con đường mà tất cả chúng ta đều phải đi chung, đó là con đường sự chết, đi vào nấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có tiền tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm được gì, chẳng mang theo được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay và lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái và yêu thương đọng lại trong những người thân yêu, và những người yêu thương chúng ta. Tất cả là của Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa rất nhiều thứ, nhưng khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta không có quyền để chọn lựa cho số phận của mình. Chính Thiên Chúa quyết định số phận cho chúng ta.
Có thể, Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng đây chính là chân lý mà Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài và tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. "Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ thì Con Người sẽ đến." Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo khó theo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói các con cứ sống nghèo túng, đau khổ khi chết thì ta sẽ được cứu độ và lên thiên đàng. Nhưng, Chúa Giêsu nói: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ." Cái nghèo ở đây chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và sống khó nghèo. Cái nghèo nơi mẹ Teresa Calcutta là hy sinh, phục vụ cho những mãnh đời bất hạnh, họ cần được tình thương, quan tâm và chăm sóc của chúng ta khi họ lìa đời. Đó là sống giá trị tinh thần nghèo khó theo Phúc Âm. Sự quan tâm yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ tha nhân là giới răn: “Kính Chúa yêu người”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức để chon lựa đúng giá trị cuộc sống hiện tại, và xin cho chúng con biết khôn ngoan sáng suốt để nhận thức chân lý của Chúa. Nhờ đó, chúng con có thể dùng của cải thế gian này để mua lấy Nước Trời mai sau. Amen.
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần? Những người đang trên đường TN19-C124
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần?
Những người đang trên đường
Đức Giêsu nói: “Đừng tích trữ những gì có thể mục nát hay trộm cướp có thể lấy đi được, nhưng hãy tích trữ những gì không hư nát và không thể bị đánh cắp”. Cái mình cho là quý, mình luôn bận tâm và hướng lòng về đó. Cái mình cho là quý, có thực sự là những điều trường tồn? Tiêu chuẩn nào giúp mình nhận ra cái có giá trị thực sự? Cái chết giúp con người nhận ra, mình chỉ là lữ khách.
Cái chết đến với mình lúc nào mình đâu có biết! Một tai nạn giao thông có thể xảy ra ai lường trước được. Mình đâu có thể mang tài sản vật chất đi với mình được. Cuộc đời này qua mau. Ai hành động như thể sống vĩnh viễn trên cõi đời này, là người không khôn ngoan. Giờ chết đến, tôi sẽ ra đi tay trắng, và chỉ mang theo chính mình, ngay cả thân xác này cũng không thể mang theo được.
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ chờ chủ về để dạy thái độ phải có khi sống trên dương thế này. “Sẵn sàng”. Phải tỉnh thức vì không biết giờ nào chủ về đến. Cái chết là chung cho tất cả mọi người, cho cả các tông đồ và dân chúng. Cách đối xử của Thiên Chúa với mọi người đều như nhau, dù ở bất cứ địa vị hay bậc sống nào. Sự trung thành không hệ tại ở chức vụ nhưng qua cuộc sống, nơi việc làm.
Đức tin giúp sống linh đạo lữ hành
Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn còn phải tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Vì tin mà bao nhiêu người đã dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa.
Nếu không có đức tin, Noê, Abraham, và các anh hùng tử đạo đã không hành xử như vậy. Nếu không có đức tin, các tín hữu đã chẳng sống nghèo và giúp đỡ những người khốn khổ. Nếu không có đức tin, chắc người ta đã sống phóng đãng và bất chấp tất cả, cốt sao để được lợi trước mắt.
Đức tin giúp con người hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, chấp nhận những điều không vừa ý một cách can đảm và anh hùng, cũng như giúp con người sống hạnh phúc trong những điều kiện mà người ta tưởng rằng không có thể.
Linh đạo lữ hành
Khi coi cuộc sống trần gian như cuộc lữ hành, không có nghĩa, coi thường cuộc sống trần thế, nhưng muốn nói, cuộc sống trần thế là thời gian dẫn ta tới sự sống vĩnh cửu.
Cuộc sống trần thế này rất quan trọng, nếu ta không tận dụng hoặc không sống nó một cách trọn vẹn, ta không thể dễ dàng tới đích ở cuối đường đời. Cuộc đời chóng qua, nhưng rất quan trọng. Cũng tương tự dùng máy bay để đi tới một nơi nào đó, tuy dù chỉ bay trong mấy giờ nhưng rất quan trọng, nếu không dùng thời giờ đó một cách đúng đắn nghiêm chỉnh, người ta không đi được tới nơi người ta muốn. Đời tạm dẫn ta về quê trời, nếu không sống trọn vẹn đời tạm, e rằng khó đạt đến quê trời.
Đức tin giúp người ta nhận biết đúng thực tại, và Thiên Chúa luôn luôn ban ơn giúp người ta sống với Ngài ngay trong cuộc sống đời tạm này. Thiên Chúa làm tất cả cho ta. Hãy tin tưởng và vui sống, ngay cả trong “biển đời” này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là nét đẹp của cuộc đời này? 2. Thiên Chúa muốn bạn làm gì trong suốt đời bạn? 3. Điều gì ngăn cản bạn sống hạnh phúc trong cuộc sống này?
Trong Bài đọc thứ nhất (Kn 18, 6-9), Tác giả sách Khôn Ngoan nhắc đến biến cố Vượt Qua trong sách Xuất Hành. Qua mọi thời, biến cố này luôn khắc ghi trong tâm khảm của người Do Thái. Đó là một bất ngờ tiêu cực với người Ai Cập, nhưng lại là bất ngờ tích cực với người Do Thái. Qua đó tác giả khuyên nhủ thế hệ sau phải sống xứng đáng là con cháu của những người đã trải qua biến cố bất ngờ này, bằng cách là luôn nhớ đến những công trình tay Chúa làm ra để luôn sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Đoạn Tin Mừng (Lc 12, 32-48) liệt kê cho ta liên tiếp những phụ từ “Hãy”, biểu thị ý yêu cầu có tính chất mệnh lệnh hoặc thuyết phục, động viên nên làm việc gì đó, nên có thái độ nào đó:
“Hãy bán tài sản của mình mà bố thí…” (Lc 12, 33a) “Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách…” (Lc 12, 33b) “Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng…” Lc 12, 35) “Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về…” (Lc 12, 36)
Tất cả những mệnh lệnh này nói lên sự khôn ngoan đích thực của con người mà tự bản thân của ta không thể nào nhận thức được nếu không có sự hướng dẫn của Đức Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác nó chính là tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã phải thao thức, ấp ủ, gói ghém tất cả trong cả cuộc đời của Ngài để trao ban cho ta để ta có được hạnh phúc đời đời.
Vì vậy điều căn bản đầu tiên trong mối tương quan với Thiên Chúa là phải biết rằng Chúa thương mình, Chúa lo lắng cho mình, Chúa hy sinh tất cả mọi sự cho mình. Khi cảm nhận được tình thương đó, con người sẽ cố gắng để đáp trả ít là bằng việc nghe lời Chúa dạy.
Một người thương mình thật sẽ nhận tất cả những gì của mình về phía họ. Đừng nghĩ mình thiệt thòi khi người thương mình nhận tất cả những gì của mình về phía họ. Điều tuyệt vời trong tình yêu đích thực là không bao giờ người ta bận tâm đến những giá trị vật chất, mà chỉ nghĩ cách để làm sao cho tình yêu đó thêm triển nở, vì vậy vật chất trở thành điều thứ yếu trong tình yêu chân thật; Hơn thế nữa, còn mang vào họ cả những khuyết điểm, những yếu đuối, những tội lỗi của ta. Điều đó được thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu khi Ngài gánh lấy tội lỗi của Ta và hy sinh tính mạng vì ta.
Nhiều người đặt ra suy nghĩ: “Vậy phải làm sao để trả ơn người đã làm ơn cho ta?” Trong tình yêu chân thành không hề có việc trả ơn, vì tất cả chỉ là cái tình cái nghĩa dành cho nhau. Chỉ cần biết rằng dù mình như thế nào thì vẫn có một người sẵn sàng che chở, bênh vực.
Vì vậy những mệnh lệnh của Đức Giêsu hôm nay nếu được đặt trong mối liên hệ một người bạn chân thành thì chắc chắn ta sẽ có thái độ cố gắng hơn vì biết có người yêu thương ta quá nhiều.
Kế đến ta tìm cách để thực hiện những lời dạy của Đức Giêsu, không phải để trả ơn Ngài, nhưng để ta được điều tốt hơn.
Những lời dạy của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này cho thấy sự thật về thế giới hôm nay, một thế giới bị giá trị vật chất quay cuồng khiến người ta không còn tỉnh táo để phân định đâu là giá trị thật.
“Là con người cần có một tấm lòng Để trải rộng trao cuộc đời trước mặt Để ý chí luôn lớn hơn vật chất Để chúng ta sống chân thật bên nhau Nếu chẳng may ai hoạn nạn nơi đâu Đừng nghĩ rằng tiền sẽ mua được hết Đừng mặc cả bán cuộc đời, cái chết Hãy nhớ: đồng tiền bạc trắng hơn vôi Vật chất nào đổi được tấm lòng người Giữa đời thường bon chen và gấp vội Cầm bát cháo, khắc lời ông cha nói Bước lên bờ lưu luyến bến đò xưa Được ai giúp xin đừng quên gửi thưa Một lời đáp là ngàn vàng cao giá Cùng ánh mắt sẽ thay cho tất cả Trước một tấm lòng ta hãy nhớ: Cảm ơn!” (sưu tầm)
Tuần báo Khoa Học Phổ Thông số ngày 3/8/2001 có đăng mẩu tin ngắn này: Cô Army Dolby 26 tuổi TN19-C126
Tuần báo Khoa Học Phổ Thông số ngày 3/8/2001 có đăng mẩu tin ngắn này: Cô Army Dolby 26 tuổi, sống ở Yorshire nước Anh, có người yêu là anh Johnstone sống ở Sydney nước Úc. Vì nhớ nhung và vì muốn làm một ngạc nhiên bất ngờ cho nên nàng đã lằng lặng đáp máy bay vượt 20.000 km để đến thăm chàng. Nhưng khi đến Sydney, thì nàng mới hay, chàng người yêu của nàng cũng muốn làm một ngạc nhiên bất ngờ cho nàng, nên đã không báo trước gì cả, lấy máy bay bay qua Anh, tới Yorshire để gặp nàng. Hai bất ngờ gặp nhau trong một ngày, cho nên chẳng ai gặp được ai. Còn bài Tin Mừng hôm nay vang lên bên tai ta như thể đang Mùa Vọng: chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến. Bất ngờ là đề tài suy niệm Lời Chúa hôm nay, với 2 điểm: (1) Có những loại bất ngờ nào ? và (2) Làm sao để loại bất ngờ ?
1. Có những loại bất ngờ nào ?
Chắc các vị càng lớn tuổi càng trải qua nhiều bất ngờ không ngờ. Trong bài Tình Nhớ, Trịnh Công Sơn đã viết, “Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy, người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây… Tình ngỡ chết trong nhau nhưng tình vẫn rộn ràng. Người ngỡ đã quên lâu nhưng người vẫn bâng khuâng… Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về …” Đó có thể là loại bất ngờ về thời gian và không gian. Tưởng xa (xưa) mà bất ngờ lại thật gần (kề).
Đang đi đường, bất ngờ con chó chạy qua, cán phải, phải vào nhà thương. Không phải chó vào, mà người vào. Tưởng không thể thương nhau được, mà bất ngờ có biến cố nào đó xảy đến, hai người gắn bó với nhau. Ngược lại cũng không thiếu. Tưởng gắn bó được với nhau suốt đời, mà bất ngờ phải xa nhau mãi mãi. Những bất ngờ trong tình yêu này, tiểu thuyết, phim ảnh khai thác hoài mà không phai. Có rất nhiều loại bất ngờ, nhưng dựa vào Lời Chúa hôm nay, xin nói đến 2 loại bất ngờ: bất ngờ về thời gian và bất ngờ về tính cách.
a) Thời gian
Không ai chối cãi được rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng nhấn mạnh rất nhiều đến sự bất ngờ và là sự bất ngờ về thời gian:
"Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". "Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến" “Anh em hãy sẵn sàng vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”.
Rõ ràng những chi tiết trong lời Đức Giêsu đều nhấn mạnh đến sự bất ngờ về thời gian. Vào ngày không ngờ, giờ không biết chính là lúc Chúa đến.
Trong cuộc sống thường ngày, ta rất thường gặp những bất ngờ về thời gian. Bất ngờ nhưng lại rất thường gặp. Đúng là mâu thuẫn ngay trong ngôn từ. Giống như thành ngữ Tây: Hãy vội vã một cách thong thả. Hâtez-vous lentement. Bất ngờ về thời gian, nhưng thường xảy ra trong dòng đời. Đang tán gẫu, bất ngờ ông chủ tới. Vài lần bất ngờ như thế, là bất ngờ mình bị thôi việc. (Thực ra thì chẳng bất ngờ gì cả việc mình bị thôi việc này). Trong giờ học, đang đọc tiểu thuyết, bất ngờ giám thị tới. Tiểu thuyết bị thu, hạnh kiểm điểm trừ. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm, biết bố mẹ đi vắng lâu, ở nhà dẫn lâu la về phá phách, bất ngờ ông bà quay trở lại, bắt gặp. Bất ngờ về thời gian rất thường xảy ra trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội. Chúng là những bài học tốt cho ta chuẩn bị cái bất ngờ về ngày giờ Chúa đến. Ngày không ngờ, giờ không biết, Chúa đến… Ngài còn sẵn sàng hạ xuống để ví mình như kẻ trộm rình đến, trong thời gian đêm tối nữa kìa. Và như thế từ bất ngờ về thời gian ta chuyển qua bất ngờ về tính cách. Chúa mà lại có tính cách như kẻ trộm, kẻ trộm đêm hôm.
b) Tính cách.
Bất ngờ này có lẽ ta ít quan tâm hơn nhưng lại rất cần chú ý.
Hãy thử nhìn lại biến cố Lụt Hồng Thủy mà có lần Đức Giêsu đã trưng dẫn làm hình ảnh gợi ý suy tư: "Trong những ngày trước nạn Hồng Thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay không biết gì". Họ không hay biết gì vì xem ra mọi sự đều thuận buồm xuôi gió: làm ăn phát đạt, kinh tế phát triển, dựng vợ gả chồng, vui chơi thỏa thích. Cứ theo lôgích tự nhiên mà nói, chỉ có dấu hiệu của hạnh phúc chứ không có dấu hiệu gì loan báo tai họa cả. Ai ngờ! Tai họa đã ập đến ngoài cái lôgích bình thường của cuộc sống và của suy nghĩ nhân loại.
Khi Đức Giêsu đến cũng vậy. Chúa đã đến viếng thăm dân của Ngài, nhưng dân Ngài lại không nhận biết. Vì Ngài đã đến trong một tính cách hoàn toàn khác với ước mong và dự định của con người. Người ta đã nuôi sẵn trong đầu óc và tâm tưởng hình ảnh về Đấng Sẽ Đến phải là: giàu sang, quyền quý, uy nghi, hùng mạnh. Đang khi đó, Ngài lại đến trong cảnh khó nghèo, cơ cực, yếu đuối... từ khi sinh ra đến lúc chết đi. Làm sao có thể nhận ra Ngài cho dẫu Ngài đang ở giữa họ và chung sống với họ.
Bất ngờ về tính cách ta vẫn thường gặp trong đời thường. Ai cũng tưởng ông ấy nghèo, ăn xin, nhưng khi nằm xuống, mới biết ông ta có bạc triệu cất giấu. Ai cũng nghĩ Trần văn Giao, giám đốc công ty xây dựng và kinh doanh nhà Đông Phương là giám đốc giỏi, trẻ tuổi mà tài cao. Bất ngờ, bị bắt, mới vỡ lẽ mình giao tiền cho Trần văn Giao là tên lừa đảo. Danh sách bị bất ngờ, lên tới cả ngàn, trong đó có cả những công ti lớn, quốc doanh, như nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội. Mới đây Võ Kim Cự nói rất bất ngờ khi Formasa gây ô nhiễm. Tưởng Formosa (tiếng Latinh nghĩa là đẹp) giàu đẹp như thế, ai ngờ gây ô nhơ như vậy. Còn nói bằng ngôn ngữ hình ảnh của Tin Mừng hôm nay, có sự bất ngờ của tên kẻ trộm đến giữa đêm khuya, nhưng cũng có cả sự bất ngờ của tên ăn cướp đến giữa ban ngày, đi xe con, mặc áo veste... vì thế ai cũng tin tưởng quý mến, nhưng thực chất của hắn vẫn chỉ là tên ăn cướp! Cướp đêm là trộm, cướp ngày là… vẫn luôn có (*). Cuộc sống hôm nay đầy dẫy những thứ bất ngờ như thế
2. Làm sao để loại bỏ bất ngờ ?
Bất ngờ về thời gian và bất ngờ về tính cách là hai loại bất ngờ thường gặp. Làm sao để loại hai loại bất ngờ này. Câu chữ nghiêng đặt đầu bài Tin Mừng hôm nay cho ta lời đáp: Hãy tỉnh thức để được sẵn sàng. Nói cách khác, để không bị bất ngờ thì hãy tỉnh thức.
Người thức thì thường khó mà tỉnh. Người thức đêm, thì phải ngủ ngày bù lại. Còn người đã làm việc ban ngày, cộng thêm thức đêm canh chừng, thì không thể tỉnh được quá ba đêm, cho dù cà-phê Trung Nguyên, Mê Trang đậm đặc được cung cấp. Cho nên tỉnh thức Chúa nói đây, cái chính không phải là thức, mà là tỉnh.
Ta hay nói: Sự việc bất ngờ xảy ra mà ông ta tỉnh bơ như không có gì. Tỉnh bơ có thể là xấu, vì đó là thái độ dửng dưng: tỉnh bơ không ngó tới. Nhưng tỉnh bơ cũng mang nghĩa tốt, lúc đó, tỉnh bơ có nghĩa là quen thuộc lắm rồi, chẳng có gì là bất ngờ cả.
Làm quen với sự bất ngờ về thời giờ Chúa đến bằng cách gặp Chúa hoài, thì có gì là bất ngờ nữa. Gặp Chúa trong giờ kinh, gặp Chúa trong giờ lễ, gặp Chúa trong nhà thờ, gặp Chúa trong giờ thờ phượng, thì ta cứ đi ngủ thẳng chân, mà chẳng lo bất ngờ giờ Chúa đến, vì cả lúc ngủ mà ta vẫn tỉnh, tỉnh nghĩa là quen.
Làm quen với sự bất ngờ về tính cách trong cách Chúa đến, bằng cách gặp Chúa trong hình bánh, gặp Chúa trong công việc, và nhất là gặp Chúa trong người nghèo, thì có gì là bất ngờ nữa khi Chúa đến với bất cứ tư cách nào.
Trong thư Rôma, thánh Phaolô viết giữa ban ngày, mà người nói: Đã đến lúc anh em phải thức dậy. Không thức làm sao đọc được lá thư đó. Thức dậy lâu rồi, Phaolô ơi ! Phaolô còn nói thêm: Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Chắc tín hữu Roma cũng phải buồn cười khi giữa thanh thiên bạch nhật, mà Phaolô lại nói: đêm sắp tàn, ngày gần đến, nếu như không có câu đi theo: anh em hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy khí giới sự sáng.
Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm ? Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi trên với các đệ tử của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác: “Thưa thầy, ấy là lúc ta phân biệt được đâu là cô gà mái đâu là cậu gà trống.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời nữa cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng chút hài lòng nào. Cuối cùng cả đám xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào người khác và nhận ra đó chính là anh chị em ruột của mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối đưa đường, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ khí giới sự sáng soi tỏ mọi lối đường.
Nhưng vượt cao hơn lời giải thích của sư phụ, ta còn có thể mạnh dạn nói: đêm sẽ tàn, ngày sẽ tới khi ta nhìn người khác, nhất là người khác đây là người cùng khổ, người bị bỏ rơi… như là chính khuôn mặt của Chúa Kitô chịu đóng đinh. Không phải chỉ nhìn họ như anh chị em mình, mà nhìn họ như chính hiện thân của Chúa. Nếu vậy, ta chẳng còn gì là bất ngờ cả, hay nói đổi lời, ta loại được bất ngờ khi Chúa đến với ta dưới bất cứ tư cách nào: bởi vì ta đang tỉnh –tỉnh nghĩa là quen—quen nhận biết khuôn mặt của Ngài.
Bất ngờ về thời giờ Chúa đến và bất ngờ về tư cách Chúa trở lại đã được ta phân tích để loại bỏ bất ngờ bằng cách năng gặp Chúa và biết nhận ra Người nơi người anh em, nhất là anh em cùng khổ. Đó là ta loại bỏ được tính bất ngờ đáng sợ, nhưng đồng thời lại đón nhận được cái bất ngờ đáng yêu—ở đời cũng thường có những bất ngờ thích thú đáng yêu, như nàng Dolby kia từ Anh bay qua Úc để gặp người yêu, tạo ngạc nhiên thích thú cho chàng Johnstone; như em nhắm lại, anh cho em xem cái này… chắc chắn khi mở mắt ra, trước mặt em không phải là ổ bánh mì thịt nguội, hay cái bánh ú nóng, mà là phải ngạc nhiên bất ngờ hơn nhiều—thì thánh Phaolo nói trong 2Cr “điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề tưởng nghĩ,” tức là những cái thật bất ngờ ngạc nhiên, Thiên Chúa đã dành sẵn cho kẻ có lòng yêu mến Người. Chớ gì chúng ta cũng được những bất ngờ đáng yêu đó. Amen
Anphong Nguyễn Công Minh, ofm ---------------------------- (*) bài thơ lục bát về "Cướp" của nhà thơ Nguyễn Duy rất là hay, đỉnh hay !
(Suy niệm Tin mừng Luca (Lc 12, 32-48) trích đọc vào Chúa nhật 19 thường niên.)
Hiện nay, nhiều người Việt nhiều tiền lắm của cố tìm cách nhập cư vào những nước giàu mạnh như TN19-C127
Hiện nay, nhiều người Việt nhiều tiền lắm của cố tìm cách nhập cư vào những nước giàu mạnh như Hoa Kỳ, Úc, Canada… để lập nghiệp và tìm kiếm một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, cuộc sống tại những nơi được xem như là đáng ước mơ đó cũng có nhiều khó khăn, phức tạp và cuối cùng, ai cũng như ai, phải phủi sạch hai tay để bước qua thế giới bên kia, chẳng mang theo được gì.
Biết thế, nên một doanh nhân thành đạt người Mỹ, sống trên đất Mỹ, tiền bạc dư đầy, là ông Chuck Feeney, nay đã gần 80 tuổi, tìm cách chuyển tất cả tài sản mình có vào kho tàng tuyệt đối an toàn và không thể hao hụt, mất mát trên thiên quốc.
Ông đã thực hiện kế hoạch này như sau:
- Thay vì sở hữu biệt thự riêng, sang trọng lộng lẫy và đầy đủ tiện nghi thì ông lại sống trong một căn hộ cho thuê giá rẻ ở San Francisco để sống qua ngày;
- Thay vì sắm ô tô riêng thì vợ chồng ông đi lại bằng xe buýt công cộng;
- Thay vì xài đồ sang, xài hàng hiệu mắc tiền, thì ông mặc những bộ quần áo rẻ tiền; khi đi nhà hàng thì chọn những món ăn rẻ nhất, những đồ dùng của ông là thứ hàng rẻ mạt. Có lẽ món đồ “xa xỉ” nhất mà ông đang sở hữu là chiếc đồng hồ đeo tay bằng nhựa trị giá 15 đô!
Nhờ cần cù lao động tối đa và chi tiêu tối thiếu, số tiền ông tích lũy được cộng với số tiền ông quyên góp lên đến 8 tỷ Mỹ kim! Ông dồn hết tất cả số tiền đó vào việc từ thiện và những dự án mang lại phúc lợi cho nhiều người.
Thế là bằng cách này, ông sở hữu được một kho báu không thể hao hụt trên thiên đàng, mai đây tha hồ vui hưởng.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta biết sống khôn ngoan như thế. Ngài phán: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.”
Tại sao Chúa dạy phải bán tài sản đi mà bố thí?
Vì mai đây, mọi người trên dương gian, ai cũng như ai, phải phủi sạch hai tay từ giã đời này, chẳng mang được gì theo.
Tại sao lại phải sắm những túi tiền không hề cũ rách?
Vì những túi tiền ta đang có và bao nhiêu vàng bạc chất chứa bên trong mai đây sẽ chẳng còn thuộc về ta nữa nhưng sẽ sang tay người khác.
Tại sao phải sở hữu kho tàng không hề bị hao hụt, không hề có trộm cướp lai vảng hoặc mối mọt đục phá?
Vì khi từ giã đời này, ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng; tuy vậy, kho tàng ta tích lũy được trên thiên đàng luôn còn mãi với ta.
Vì thế, chọn lựa khôn ngoan nhất, sáng suốt nhất, là ngay từ hôm nay, chúng ta hãy chuyển đổi của cải, vàng bạc, tài sản mình có để sở hữu một kho tàng không hao vơi, không hề mất mất mát trên thiên quốc, rồi mai đây tha hồ mà vui hưởng.
Nhưng cụ thể là phải chuyển đổi cách nào?
Là tận dụng những ân huệ và vốn liếng Chúa ban như tiền tài, của cải, thời giờ, sức khỏe, tài năng… của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em chung quanh, nhất là những người gặp khó khăn, túng thiếu, bất hạnh.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con ghi nhớ lời Chúa dạy: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” để rồi chúng con không còn ham mê quyến luyến của cải đời này, không còn làm nô lệ cho tiền tài danh vọng, nhưng biết làm theo lời Chúa dạy là: “Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” để mai đây được vui hưởng hạnh phúc cùng Chúa muôn đời.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
-----------
Tin mừng Luca (12, 32-48)
32 "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.
33 "Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.34 Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
35 "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.36 Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.37 Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.38 Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ.39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu.40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người? "42 Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta.44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa,46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
47 "Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước TN19-C128
1. "Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước tiến".
Nói đến hiện hữu của người Kitô hữu là nói đến đức tin. Đức tin hướng về quá khứ, dựa vào một lời nói, chỉ một lời, một lời hứa.
Đức tin cũng hoàn toàn hướng về tương lai, vì chờ đợi lời hứa được thực hiện dù lời hứa ấy chỉ được bảo đảm bằng một lời nói. Người tín hữu tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện điều Ngài đã nói nhưng đức tin là tiến bước từ lời hứa này đến lời hứa khác mà không nắm giữ hoặc chiếm hữu điều gì.
Trong giây phút hiện tại, đức tin là một cuộc lữ hành, một bước đi, giống như Abraham và các tổ phụ là những di dân, khách lữ hành và những người rày đây mai đó.
Như vậy, phải chăng chúng ta bị kết án là chẳng có gì, chúng nắm giữ được gì? Đây chính là điều nghịch lý của đức tin: đức tin là "phương tiện giúp chiếm hữu được điều chúng ta mong đợi."
Sự chờ đợi đã có đầy tràn tương lai rồi. Đức Kitô, Đấng sẽ đến, Đấng chúng ta đón chờ, đã hiện diện rồi. Người ở giữa chúng ta qua những ai phục vụ. Như vậy, công việc của đức tin là loại trừ khỏi chúng ta những gì chúng ta tin là đã nắm vững và đặt trong tay chúng ta giá trị duy nhất của tương lai. Chúng ta tiến về giá trị đó và trông đợi nó: giá trị đó là phục vụ và chia sẻ. Đó là cách thế tốt để đón chờ, để tỉnh thức trong đức tin.
2. "Hãy thắt lưng sẵn sàng phục vụ"
Thiên Chúa gõ cửa nhà tôi. Người tỏ lộ qua các biến cố và lời khẩn nài của mọi người. Người còn tỏ lộ cho tôi qua lời kêu gọi của những người chung quanh và bè bạn. Người ước mong được ở với tôi. Và tôi có nguy cơ không quan tâm đến những ước muốn của Người. Người gọi tôi nhưng tôi không có mặt để trả lời. Tôi thuộc loại những kẻ thuê bao vắng mặt.
Đúng, từ lâu lắm, có thể nói là suốt cả cuộc đời, tôi đã là loại người như thế? Thiên Chúa không ngừng đi qua nhà tôi để chỉ thấy nơi tôi sự trống vắng và bóng tối.
Phải chăng chúng ta đã đánh mất sở thích chờ đợi và ước ao? Chúng ta muốn tất cả mọi sự và muốn chúng phải có ngay lập tức. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được hoạch định.
Điều bất ngờ khó có chỗ đứng.
Chính Thiên Chúa ước ao đến nhà chúng ta. Vào bất cứ giờ nào. Ngay cả buổi tối khi chúng ta đã chuẩn bị lên giường. Hoặc thậm chí ban đêm khi chúng ta muốn được yên ắng nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc.
Thiên Chúa không để ý đến giờ giấc. Người luôn hiện diện. Người can thiệp thường xuyên, bất cứ lúc nào. Khi thấy chúng ta tỉnh thức và chờ đợi, Người sẽ sung sướng và vui mừng chia sẻ của ăn và những phương diện tết đẹp nhất trong đời sống của chúng ta.
Nếu thấy chúng ta vì ao ước mà săn sàng. Người sẽ "đốt lên" trong ta ngọn lửa sự sống. Người sẽ trao cho chúng ta Lời của Người. Người sẽ liên kết chúng ta với sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa của Người.
Chúng ta phải thắt lưng sẵn sàng, đó là thái độ của người sẵn sàng tham dự. Không phải một giờ mỗi tuần. Cũng không phải vài phút mỗi ngày, nhưng luôn luôn, thường xuyên. Đến nỗi Chúa đến bất cứ giờ phút nào cũng không bao giờ có thể làm chúng ta bất ngờ. Người sẽ thấy chúng ta luôn thắt lưng sẵn sàng. Và ngọn đèn của chúng ta luôn thắp sáng để nhận ra Đấng đang đến mà đón tiếp Người, mọi lúc. Một thái độ như vậy không có nghĩa là chúng ta không bao giờ kịp thở. Không có nghĩa là chúng ta không ngừng lại, không nghỉ ngơi. Nhưng có nghĩa là đôi mắt chúng ta luôn dò xét đôi tai luôn lắng nghe. Con tim luôn sẵn sàng. Tinh thần luôn tỉnh thức.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX Thường Niên năm Ca mời gọi mỗi người chúng ta trung TN19-C129
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX Thường Niên năm Ca mời gọi mỗi người chúng ta trung tín với niềm tin, trung tín với niềm hy vọng, trung tín với sự phục vụ.
Kn 18: 6-9
Tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên đêm giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đó là đêm dân Do thái, trung tín với tôn giáo tổ tiên mình, cử hành lễ Vượt Qua. Nhờ lòng tin, họ được vào Đất Hứa.
Dt 11: 1-2, 8-19
Thư gởi cho các tín hữu Do thái nhắc lại những mẫu gương đức tin của các thánh nhân thời Cựu Ước: họ đã xác tín rằng những lời hứa Thiên Chúa ban có liên quan đến những thực tại tinh thần và đã cảm thấy mình là những lữ khách trên đường về Thiên Quốc.
Lc 12: 32-48
Tin Mừng Lu-ca cho người tín hữu bí quyết gia nhập Nước Trời: trung tín phụng sự Thiên Chúa cho đến cùng. Những tôi trung sẽ được dự phần vào Bàn Tiệc cánh chung, ở đó Thiên Chúa sẽ đích thân phục vụ họ.
BÀI ĐỌC I (Kn 18: 6-9)
Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất trong số những sách Cựu Ước. Sách được soạn thảo ở thành phố A-lê-xan-ri-a, Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
1.Bối cảnh:
Vào lúc đó, thành phố A-lê-xan-ri-a là chiếc nôi rực rỡ nhất của nền văn minh Hy-lạp. Thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của kiều bào Do thái Hải Ngoại vì số lượng người Do thái đông đúc cư ngụ ở đây. Tác giả sách Khôn Ngoan ngỏ lời với đồng bào của ông bằng Hy-ngữ, họ không còn biết tiếng Híp-ri. Ông bận lòng về sức quyến rũ mà nền văn hóa Hy-lạp ảnh hưởng trên đồng bào của ông. Ông muốn cho họ thấy rằng Đức Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa trổi vượt tất cả mọi khôn ngoan phàm nhân.
Tội bội giáo còn có chiều hướng gia tăng vì chính sách tôn giáo của chính quyền. Đây là sự kiện hiếm hoi trong lịch sử Ai-cập vào thời nhà Pơ-tô-lê-mai cai trị. Pơ-tô-lê-mai VII (146-117 tCn) và nhất là Pơ-tô-lê-mai VIII (117-81 tCn) đã từ bỏ chính sách tự do tôn giáo trước đây mà quay ra quấy nhiễu và bách hại người Do thái. Vì thế, tác giả kêu gọi người Do thái hãy trung tín với tôn giáo tổ tiên của mình. Đó là ý nghĩa bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này.
2.Đêm Vượt Qua, đêm giải phóng:
Tác giả đã công kích đa thần giáo và thờ ngẫu tượng của dân Ai-cập, vào thời kỳ dân Do thái ở giữa họ. Cuối cùng đêm giải phóng vĩ đại đã đến. Sau khi đã vội vả cử hành lễ Vượt Qua tại tư gia, dân Do thái đã có thể trốn thoát khỏi đất nô lệ này, trong khi Thiên Chúa giáng phạt trên những kẻ áp bức họ. Cuộc xuất hành khỏi Ai-cập, dưới dấu chỉ của lễ Vượt Qua, đã luôn luôn được xem như biến cố tái sinh dân Ít-ra-en, biến cố sinh thành dân Chúa chọn. Vào giờ phút đó, họ ý thức về căn tính tôn giáo đặc thù của mình. Tác giả thắp sáng niềm tin của các bậc tiền nhân, họ đã tin vào những lời hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và đã thấy chúng được ứng nghiệm ở nơi việc họ được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai-cập.
Niềm vui cứu độ và sự tác động của ân sủng quy hướng về Thiên Chúa, Đấng tôn vinh dân Ngài và giáng phạt kẻ thù của họ; nhưng nhất là, tác giả nhấn mạnh đức trung tín của những người công chính này đối với tôn giáo tổ tiên:
“Con lành cháu thánh của những người lương thiện, âm thầm dâng lễ tế trong nhà” (Kn 18: 9a).
Câu này ám chỉ đến sự kiện theo đó lễ Vượt Qua là một ngày lễ được âm thầm cử hành tại tư gia, nhưng cũng ám chỉ đến việc Pha-ra-ô cứ lần lữa từ chối để dân Ít-ra-en ra đi cử hành “lễ của họ” trong sa mạc. Vì thế, những người Ít-ra-en trung tín này đã âm thầm cử hành lễ Vượt Qua trong nhà để Pha-ra-ô không hay biết.
Thật kỳ lạ, ngay tự bây giờ, tác giả đặt quyết định phân chia đất Ca-na-an giữa các bộ tộc vào thời chinh phục:
“Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia” (Kn 18: 9b)
Đồng thời, ngay tự bây giờ, tác giả cũng mô tả diễn tiến việc cử hành lễ Vượt Qua vào thời sau này:
“Và ngay tự bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca của cha ông truyền lại” (Kn 18: 9c).
Quả thật, chỉ sau này mà việc cử hành lễ Vượt Qua sẽ được kết thúc với việc hát “Hallel”, nghĩa là xướng lên các bài thánh vịnh ngợi khen.
3.Sứ điệp:
Tác giả sách Khôn Ngoan mời gọi đồng bào của ông “ôn cố tri tân”, nhớ lại những việc đã qua mà hiểu biết những việc hiện tại. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập ngoại giáo, ở đó việc thờ ngẫu tượng diễn ra hằng ngày. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập, ở đó chính quyền cũng quấy nhiễu và áp bức họ. Thật ra, không cốt rời bỏ đất nước này, nhưng noi gương các bậc tiền nhân của mình về lòng mộ đạo và trung tín của các ngài đối với tôn giáo tổ tiên. Họ cũng phải là “con lành cháu thánh của những người lương thiện”. Họ đừng quên đêm giải phóng vĩ đại đem lại ý nghĩa như thế nào trong Lịch Sử Thánh của họ, đêm đã làm cho Ít-ra-en thành một dân biệt phân, dân được Thiên Chúa cam kết rằng Ngài ân cần chăm sóc họ một cách đặc biệt.
BÀI ĐỌC II (Dt 11: 1-2, 8-9)
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, phụng vụ đề nghị cho chúng ta những đoạn trích Thư gởi tín hữu Do thái. Trong suốt năm phụng vụ trước, năm B, chúng ta đã đọc những đoạn trích dài của thư này. Trong năm phụng vụ này, năm C, khởi đi từ Chúa Nhật XIX chúng ta đọc phần cuối, phần liên quan đến đức tin.
1.Bối cảnh:
Xin nhắc lại rằng Thư gởi tín hữu Do thái đã được một tác giả vô danh, chắc chắn là một môn đệ của thánh Phao-lô, soạn thảo vào năm 65. Có nhiều tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của thánh Phao-lô, nhưng chủ đề trọng tâm: hy tế của Đức Ki-tô, không là tư tưởng của thánh Phao-lô. Người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ phải hứng chịu những cuộc quấy nhiễu và bách hại. Đoạn văn trước đoạn văn của chúng ta ám chỉ đến điều này: “Xin anh em nhớ lại, những ngày đầu: lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn vừa bền vững” (Dt 10: 32-34). Bị trục xuất, bị tước đoạt của cải, họ nao núng; thậm chí vài người, vì nỗi luyến nhớ những phụng tự xưa, toan tính bỏ cuộc, vì thế tác giả đã khuyên bảo: “Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như vài người quen làm” (Dt 10: 25) và “Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (Dt 10: 39).
2.Bản chất của đức tin:
Đối với các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo này, quen thuộc với Kinh Thánh, tác giả gởi đến họ những lời khuyên nhũ của mình bằng ngôn từ Kinh Thánh. Ông phác họa bức tranh về những chứng nhân đức tin mà Cựu Ước xem như những vị anh hùng. Trước hết, ông định nghĩa bản chất của đức tin một cách ngắn gọn nhưng súc tích: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không trông thấy”.
Câu này, được các nhà thần học lấy lại nhiều lần, đã trở thành một trong những định nghĩa kinh điển về đức tin. Đức tin hoàn toàn hướng về tương lai, nghĩa là, về những thực tại không trông thấy được. Câu này được cấu trúc theo thể loại “đối xúng đồng nghĩa”, nghĩa là hai vế đối xứng với nhau và diễn tả hai khía cạnh của cùng một thực tại. Như vậy, “những điều ta hy vọng” được xác định ở về thứ hai: “những điều ta không trông thấy”. Cũng một cách như vậy, sự “bảo đảm” được xác định bởi “bằng chứng” mà niềm tin vào những điều không trông thấy ban cho.
3.Gương của các tiền nhân:
Quả thật, tác giả không nhằm định nghĩa đức tin cho bằng giải thích thái độ của các tiền nhân. Nguyên lý hướng dẫn cuộc sống của họ là niềm tin vào những lời hứa mà họ đã biết nhận ra những thực tại tinh thần. Ông Áp-ra-ham, người mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông đất làm gia nghiệp vẫn là một kiều cư, vì ông biết rằng lời hứa này là niềm hy vọng về một quê hương không trông thấy được. Thiên Chúa hứa với vị tổ phụ hiếm muộn này ban cho ông một hậu duệ đông đúc không kể xiết là để cho ông hiểu rằng bên kia đứa con của mình, lời hứa nhắm đến một hậu duệ thuộc trật tự tinh thần, vân vân.
Tác giả dẫn chứng nhiều mẫu gương. Như vậy, tác giả muốn giúp những ai đang chao đảo trong đức tin hiểu rằng trong đêm thử thách của họ, đức tin là ánh sáng nuôi dưỡng niềm hy vọng, và với tư cách những người lữ khách trên cõi trần này, sự kiên tâm bền chí của họ sẽ dẫn đưa họ đến Thiên Quốc.
TIN MỪNG (Lc 12: 32-48)
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ khuynh hướng và mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, thái độ này thúc đẩy thánh nhân sau này viết sách Công Vụ. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh ký tập hợp những lời nói khác nhau của Đức Giê-su với bốn dụ ngôn: “các đầy tớ tỉnh thức” (12: 35-38), “tên trộm ban đêm” (12: 39-40), “viên quản gia trung tín hay bất trung” (12: 41-46) và “đầy tớ bị phạt nhẹ hay nặng tùy mức độ hiểu biết ý chủ” (12: 47-48). Giáo huấn này Đức Giê-su ngỏ lời đặc biệt đến các môn đệ, “đoàn chiên bé nhỏ” này, họ được hứa ban Nước Trời và sẽ là nhân tố của Giáo Hội Ngài (12: 32-34). Giữa những lời này, chúng ta đọc thấy một trong những lời khác thường nhất của Chúa Giê-su mà các thánh ký khác đã không bao giờ trích dẫn: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến tận bên mà phục vụ”. Hạt trân châu này ở trung tâm bản văn và chiếu sáng bản văn một cách rực rỡ.
Thánh Lu-ca luân phiên nhắm đến Giáo Hội tại thế và Giáo Hội của những người được tuyển chọn.
1.Lời hứa ban Nước Trời:
“Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Đây là những lời thân thương trìu mến, vì quả thật các môn đệ còn quá nhỏ bé về tầm cở, về số lượng, về quyền thế, về học thức… Đây cũng là những lời Kinh Thánh, vì lẽ hình ảnh mục tử trong Kinh Thánh thường có cung giọng Mê-si-a, như Mk 2: 12-13: “Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ tập hợp số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ góp chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa. Người mở đường đưa chúng tiến lên, chúng chọc một lỗ hỗng, đi qua cổng và ra ngoài. Đức Chúa, Vua của chúng đi qua trước, chính Người sẽ dẫn đầu”, hay Ed 34: 31: “Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi”.
Đàn chiên nhỏ bé này đón nhận lời hứa ban sự sống đời đời: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Những điều kiện gia nhập Nước Trời được xác định liền ngay: đức nghèo khó và tư thế tỉnh thức.
2.Đức khó nghèo:
Đàn chiên nhỏ bé phải nêu gương về đức nghèo khó: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Bản văn theo sau giống với bản văn Mát-thêu (6: 19-21), tuy nhiên thánh Mát-thêu lại đưa bản văn này vào “bài giảng trên núi”. Tại thánh Lu-ca, lời nhắc nhở về đức nghèo khó này đến như lời kết của dụ ngôn người phú hộ dại khờ và những lời khuyên tín thác vào ơn Quan Phòng (Lc 12: 16-32).
3.Tư thế tỉnh thức:
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn….”. Để tiện làm việc, người Do thái thường thắc lưng áo choàng lên cho đỡ vướng víu. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt những lời khuyên này vào trong cái khung diễn từ của Đức Giê-su về thời cánh chung (Mt 24: 42), trong khi thánh Lu-ca đặt chúng vào trước diễn từ này, nhưng cùng theo cùng một hướng nhắm: lịch sử và cuộc sống của Giáo Hội diễn ra giữa thời gian ông chủ ra đi và trở lại.
4.Phúc cho những đầy tớ trung tín:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Với đàn chiên nhỏ bé, họ sẽ lan truyền sứ điệp của Ngài cho đến chấp nhận hy sinh mạng sống mình, Đức Giê-su đề cập đến lòng tín trung: lòng tín trung của họ sẽ được thưởng thật bất ngờ nhất, ngoài sức tưởng tượng của mọi người: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Còn hình ảnh nào bạo dạn hơn khi trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ chư thánh. Dụ ngôn này thuộc riêng của thánh Lu-ca.
Chắc chắn, Chúa Giê-su đã tự nhận mình là người phục vụ. Vào buổi ăn cuối cùng với các môn đệ, trong khi các môn đệ còn bàn cãi sôi nổi với nhau xem ai là người lớn nhất, Đức Giê-su từ tốn nói với họ: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 27). Những cử chỉ và lời nói này của Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài, là một cuộc đời phục vụ một cách khiêm tốn và tình bạn mà Ngài muốn đưa ra làm gương: “Con Người đến không để được phục vụ, nhưng phục vụ”. Nhưng việc trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ bàn tiệc thiên quốc thật khó mà tưởng tượng được, tuy nhiên phù hợp với mặc khải Tin Mừng về việc Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ môn đệ Ngài với trọn tấm lòng yêu thương của Ngài.
5.Giáo Hội phục vụ:
Thánh Phê-rô không hiểu rõ ý nghĩa của dụ ngôn; thánh nhân đoán rằng dụ ngôn này nhắm đến các môn đệ. Vì thế, thánh nhân nêu vấn đề: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”.
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng là một cách thức tấn phong dành cho chính thánh nhân: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?... Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Chính Giáo Hội, qua thánh Phê-rô, được ủy quyền quản lý gia sản của Thầy và được ủy nhiệm nuôi dưỡng tất cả các gia nhân và cung cấp lương cho họ. Đây là một ân ban nhưng cũng mối nguy hiểm, vì dựa vào công việc này mà Thiên Chúa sẽ xét xử họ. Trách nhiệm thì đa dạng, nhưng có một mẫu số chung: mỗi người sẽ chịu hình phạt hay nhận phần thưởng tùy theo cách hành xử của mình và tùy theo mức độ hiểu biết ý Chủ: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Cuộc đời thật công bằng. Mình làm mình hưởng. Hạnh phúc hay khổ đau cũng tuỳ vào việc mình TN19-C130
Cuộc đời thật công bằng. Mình làm mình hưởng. Hạnh phúc hay khổ đau cũng tuỳ vào việc mình làm hôm qua và hôm nay mình nhận lại. Tuy nhiên, khi nhìn vào dòng đời ta thấy sao có vẻ quá bất công!Tại sao những kẻ gian xảo, bất lương, chối bỏ Chúa lại là những kẻ thịnh vượng hơn cả, còn người hiền thì cứ liên tiếp gặp đủ tai này vạ kia? Tại sao những kẻ lừa dối xảo ngôn thì được ca tụng như vĩ nhân, còn kẻ ăn nói chân thành lại bị kết án xem thường?
Nhưng thựcra cuộc đời không bất công đâu, ai gieo gì sẽ gặt nấy. Hoạ- may cũng do chính mình làm nên.
Có chuyện kể rằng:
Vợ chồng An có một cửa hàng bán thực phẩm. Một hôm, An đi chơi về hỏi vợ: - Này em, khúc giò thiu đâu rồi ? - Nhà đối diện mua rồi. - Thế cân xúc xích bị chuột gặm ? - Nhà ấy cũng mua rồi. - Còn hộp bơ cũ năm ngoài đã quá hạn ? - Nhà ấy cũng vét nốt !
An lấy hai tay ôm đầu: - Thôi rồi ! Anh vừa được nhà ấy mời ăn cơm !
Thựcra cuộc đời rất công bằng. Mỗi người đều có niềm vui và nỗi buồn khác nhau. Có điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Có người nhiều tiềnnhưng lại thiếu sứckhoẻ.Có người sự nghiệp, thành tích không cao nhưng sức khoẻlại tốt. Hạnh phúc hay đau khổ cũng tuỳ vào cách nhìn của mỗi người. Một người nghèo sẽ tìm được niềm vui chỉ với vài trăm ngàn, nhưng khi có nhiều rồi, anh ta sẽ phải tiêu gấp nhiều lần mới thấy hạnh phúc thật sự.Thực ra nếu chúng ta có cả thế giới này thì chúng ta cũng vẫn chỉ ăn ngày 3 bữa, ngủ trên một chiếc giường mà thôi.
Hôm nayChúa Giê-su bảo cuộc đời con người có hạnh phúc đời này và đời sau hay không cũng tuỳ chúng ta có làm hết trách nhiệm của mình không? Chúa nhắc chúng ta phải làm việc hết trách nhiệm như một quản gia trung tín.Dẫu phải hy sinh từ bỏ vẫn sẵn sàng như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn ở tư thế làm việc như tôi tớ, như osin, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!
Nếu những ai trung tín trong trách nhiệm như vậy thì chắc chắn họ sẽ có một cuộc sống dư giả, thịnh vượng và hạnh phúc. Nhất là còn được Chúa Cha ân thưởng như lời Chúa Giê-su nói: “Cha của anh em đã vui lòng ban Nước Trời cho anh em”.
Cuộc đời ai cũng mong hạnh phúc thì hãy sống có trách nhiệm khi chu toàn bổn phận của mình với Chúa và tha nhân. Với Chúa luôn dành thời giờ tôn thờ Chúa qua việc đọc kinh dâng lễ, với tha nhân chính là biết sống phục vụ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm và đầy yêu thương. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ bị người thân xa lánh và họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc trường sinh mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.
Vâng ! Tỉnh thức là Lời nhắc nhở của Tin Mừng Chúa Nhật 19 TN hôm nay. Tỉnh thức cũng không TN19-C131
Vâng ! Tỉnh thức là Lời nhắc nhở của Tin Mừng Chúa Nhật 19 TN hôm nay. Tỉnh thức cũng không có nghĩa là phải thức suốt đêm để đánh bài, chè chén say sưa. Cũng không có nghiã là đọc kinh thật dài, đọc kinh suốt đêm, mà là phải biết sống Lời Chúa. Nói cách khác, tỉnh thức là suy tư Lời Chúa mỗi ngày. Ai biết sống Lời Chúa, thì người đó tỉnh thức. Tất cả mọi kinh nguyện đều bắt nguồn từ Kinh Thánh là Lời Chúa. Tuy nhiên, không có cách tỉnh thức nào cao hơn việc suy tư Lời Chúa mỗi ngày. Thật vậy, tỉnh thức là một trạng thái khôn ngoan, vì tỉnh thức làm cho con người luôn ở tư thế sẵn sàng, sáng suốt.Muốn tỉnh thức, chúng ta phải biết chờ đợi, chờ đợi là một tư thế cần có của người môn đệ Đức Kitô.
Xét về cuộc sống trần thế, sự tỉnh thức bao giờ cũng mang lại lợi ích cho con người, như tỉnh thức để ôn thi, tỉnh thức để chờ đợi một vấn đề gì đó, tỉnh thức để theo dõi những sự kiện quan trọng trong cuộc đời chẳng hạn, và như thế Chúa Giêsu đã dùng một dụ ngôn hết sức thực tế, dễ hiểu, là sự phải sẵn sàng để dạy cho các môn đệ, và cũng là cho mỗi người chúng ta hiểu được giá trị của sự tỉnh thức để đón chờ ngày giờ trọng đại của riêng mỗi một người trong chúng ta đó là giờ chết, giờ mà từng người một phải đối diện với Thiên Chúa. " Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn." ( c 35).
Vâng !Kính thưa quý vị, Chúa Giêsu đã khẳng định như vậy: " Khi Chủ trở về mà thấy họ đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ..." ( c 37 a).
Theo đó, Chúa Giêsu đã nêu bật vấn đề "tỉnh thức" và hệ quả tích cực kèm theo đó là "có phúc".Có thể nói rằng: Ai tỉnh thức thì người đó có phúc. Tại sao vậy ? Thưa , như Chúa Giêsu nói: " Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ." (c37 b). Chúa Giêsu cho biết cái " phúc " của sự tỉnh thức là gì ? Nghĩa là Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho những ai biết tỉnh thức khi Ngài gọi đến. Nhưng chúng ta biết lấy gì để giúp chúng ta thực thi điều Chúa Giêsu dạy. Điều ấy có nghĩa là khi chúng ta biết tỉnh thức để đón chờ Chúa đến, thì phần thưởng của chúng ta chính là được chính Thiên Chúa phục vụ. Nghĩa là khi nhân thế biết đón nhận và thực thi Lời Chúa, là chính lúc họ tỉnh thức để khi được Thiên Chúa chúc phúc, họ sẽ được no thỏa với Người.Giờ phút cuối cùng của mỗi một người, không ia biết trước, nhưng khi người nào biết thức tỉnh có nghĩa là họ biết đón nhận chính Thiên Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, thì họ không còn cảnh bơ vơ trong sự mê đắm trần thế. Mong sao Lời Chúa hôm nay là lúc thức tỉnh những ai chưa tỉnh thức, để khi "Ông Chủ của họ trở về thì họ không bị ngủ mê".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tỉnh thức ,để khi được gọi thì chúng con biết đáp trả trong tinh thần tỉnh thức, để đáng được Thiên Chúa là Ông Chủ nhân lành chúc phúc./. Amen
Trên các trang mạng truyền thông, chúng ta thấy: đêm ngày 14 tháng 7 năm 2016 vừa qua, nhân TN19-C132
Trên các trang mạng truyền thông, chúng ta thấy: đêm ngày 14 tháng 7 năm 2016 vừa qua, nhân lễ quốc khánh của đất nước Pháp, tại thành phố Nice đã xảy ra một cuộc khủng bố bất ngờ nhắm vào người dân vô tội. Tên khủng bố đã lái xe cách điên cuồng khi đâm vào những người đang lưu thông trên đường. Không dừng lại ở đó, hắn còn dùng súng và bắn vào đám đông, khiến cho 84 người chết và nhiều người khác bị thương, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em.
Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11.03.2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự. Sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.
Như vậy, sự sống, sự chết của mỗi người không ai biết trước. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, nhà thơ Nguyễn Khuyến khi nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng” để được cứu độ.
1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc”, vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình. Bởi lẽ, ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời. Sang Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.
Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế, khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.
Hãy “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khuya là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.
Qua lời dạy trên, Đức Giêsu muốn nhắc cho chúng ta một sự thật, đó là: ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi: “hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta
Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức cám dỗ con người như sau:
“Còn lâu mới chết. Cuộc sống còn dài. Vì thế, không vội gì phải gấp rút. Cứ ăn chơi thỏa thích cho bõ một đời. Đợi khi gần chết rồi ăn năn trở lại!”.
Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… Họ viện vào lý do là mình còn trẻ, khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân… Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng… Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế“tỉnh thức”.
Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật... Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương; là sám hối, canh tân; là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành. Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với mình bất cứ lúc nào, ở đâu… ta đều thấy an vui, thanh thoát vì đã chuẩn bị.
Như vậy, cái chết đối với người tỉnh thức thì chẳng khác gì một “cõi đi về”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.
Ngày nay, nhiều người đã từng đi máy bay. Trước khi máy bay cất cánh, tiếp viên hàng không sẽ TN19-C133
Ngày nay, nhiều người đã từng đi máy bay. Trước khi máy bay cất cánh, tiếp viên hàng không sẽ nhắc nhở hành khách như sau: "Xin quý khách chú ý, chúng tôi xin hướng dẫn những nguyên tắc an toàn trên chuyến bay này …". Sau đó người tiếp viên sẽ chỉ cho bạn cách gài dây an toàn và khuyên bạn nên gài trong suốt chuyến bay. Bạn cũng sẽ được chỉ dẫn vị trí những lối thoát hiểm. Trong trường hợp đột ngột mất trọng lực trong khoang máy bay, mặt nạ cá nhân khí oxy sẽ tự động hạ xuống trước mặt bạn. Bạn sẽ được cho biết rằng dưới ghế ngồi của bạn có một áo phao để sử dụng trong trường hợp máy bay đâm xuống biển.
Những hiểu biết cơ bản đằng sau tất cả những hướng dẫn này nhằm giúp hành khách được trang bị sẵn sàng khi trường hợp bất trắc xảy ra. Nhưng tiếc rằng chỉ có một số ít người chú ý đến những hướng dẫn mà người tiếp viên nhắc nhở. Nếu có vấn đề xảy ra thì những hướng dẫn an toàn này giúp cho người ta vượt qua khỏi sự mất bình tĩnh hoảng sợ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta những lời chỉ dẫn trong hành trình cuộc sống, một hành trình mà tất cả chúng ta đều phải trải qua. Người dạy ta phải chuẩn bị cho một sự kiện bất ngờ. Giống như những đầy tớ trung thành, chúng ta phải chuẩn bị cho bản thân mình luôn trong tình trạng sẵn sàng. Không sợ hãi, nhưng luôn tin tưởng và hy vọng.
Mỗi ngày chúng ta càng ý thức được cuộc sống trôi qua nhanh như thế nào, và sự bấp bênh của nó. Chúng ta không được dựng nên bằng đá mà ngược lại là thứ rất mỏng manh dễ vỡ. Cuộc sống của chúng ta có thể bị lấy đi mất chỉ trong chớp mắt. Tuy nhiên, sự ngắn ngủi và mỏng manh của kiếp sống con người lại làm cho chúng ta cảm nhận được sự quý giá của mạng sống mình trên trần gian này.
Chúa Giêsu đã biết tính bất định của cuộc sống này. Dụ ngôn chúng ta nghe hôm nay nhấn mạnh rằng sự chết có thể đến bất kỳ lúc nào. Phải chăng Chúa sẽ thử thách, lấy đi mạng sống của ta cách bất ngờ giống như những kẻ trộm đột nhập vào nhà. Điều đó chúng ta không thể hình dung ra được. Tử thần là kẻ trộm sẽ cướp đi mạng sống của ta, chứ không phải là Thiên Chúa.
Cuộc sống đầy thay đổi không ngăn cản chúng ta tận hưởng cuộc sống hiện tại. Ai trong chúng ta cũng đều muốn cuộc sống của mình kết thúc khi những kế hoạch mình đã đạt được và mọi công việc đã hoàn thành. Nhưng không ai biết được liệu mình có cơ hội đó hay không. Cơ hội mà chúng ta có được là trung thành với trách nhiệm và bổn phận mỗi ngày, như những người đầy tớ mà Chúa Giêsu đã nói đến. Rồi chúng ta có thể bước đi tới một nơi mà ta hoàn toàn không biết, như tổ phụ Abraham đã trải qua trong niềm tin tưởng vào lòng nhân từ và tình yêu thương của Chúa.
Ngày xưa, có một anh hề, kẻ đã từng mua vui cho đức vua và hoàng cung. Nhưng sau đó vì lỡ lời mà anh bị khép vào tội chết. Trước khi lệnh hành quyết được thi hành, đức vua cho triệu anh ta đến và nói: "Xét thấy vì những trò vui mà ngươi đã đem đến cho ta trong bao năm qua, nay ta cho phép ngươi được chọn lấy cái chết theo cách mà ngươi muốn."
Anh hề suy nghĩ trong giây lát và trả lời: "Tâu đức vua, nếu người chấp thuận thì tôi xin được chết vì tuổi già."
Đức vua vô cùng thích thú vì câu trả lời của anh ta và đã cho anh được toại nguyện. Đa số chúng ta cũng muốn được chọn lựa theo cách này, nhưng chúng ta không biết là mình có được cơ hội này hay không.
Chúng ta là người phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Phúc cho những đầy tớ nào biết trung thành và có trách nhiệm. Người đầy tớ trung thành không lo sợ ngày chủ trở về. Trái lại, anh ta vui mừng về điều đó.
Bất kỳ lúc nào cũng đều bất lợi cho người đầy tớ bất trung. Và bất kỳ lúc nào cũng đều là thời điểm tốt lành cho người đầy tớ trung thành. "Chúng ta không được gọi để trở nên người thành công, mà được gọi chỉ để làm người trung thành" (Mẹ Têrêsa).
Chúng ta chỉ có thể sẵn sàng và tỉnh thức trước những dấu chỉ của Nước Trời như người TN19-C134
TMĐP- Chúng ta chỉ có thể sẵn sàng và tỉnh thức trước những dấu chỉ của Nước Trời như người quản gia trung tín và khôn ngoan vẫn còn đang tỉnh thức khi chủ bất thình lình về trong đêm.
Không ai dám hãnh tiến cho rằng mình chẳng bao giờ phải sầu buồn, lo lắng; cũng không gia đình nào dám vênh vang tự đắc chưa hề có vấn đề, bởi khó khăn, vất vả, lo âu là lương thực hằng ngày của con người, và vấn đề dưới muôn hình vạn trạng đã trở nên như hình với bóng trên từng bước chân của hành trình nhân loại.
Vì thế, đã sống là phải lo: lo ăn gì mặc gì, lo hiện tại, tương lai, lo tương quan đổ vỡ, lo chỗ ở, chỗ ngồi, chỗ đứng chênh vênh, xiêu vẹo, lo đường công danh bế tắc, lo sự nghiệp bị dòm ngó, đe doạ, phá hoại.
Trước những tân toan, lo lắng của con người, Đức Giêsu đã mặc khải:
1/ Giá trị và kho tàng đích thực của đời sống con người trên dương thế chính là Nước Thiên Chúa:
Sau khi “nói với các môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc … Hãy nhìn chim trời: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng… Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, dệt vải, thế mà … ngay cả cua Salômon, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy …” (Lc 12, 22.24.27), Đức Giêsu khẳng định: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ của Thầy, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12,32).
Khẳng định điều trên, Đức Giêsu cho các môn đệ biết chỉ có một giá trị, “một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”(Lc 12,33), và Nước Trời chính là quê hương hằng phúc mà mọi người phải tìm về, bởi tất cả những gì được coi là quý giá, sang trọng ở trần gian đều sẽ phải hư nát, tan biến đi.
2/ Hãy mua sắm Nước Trời bằng của cải trần gian:
Tuy của cải trần gian sẽ hư nát, nhưng chúng là phương tiện để mua lấy Kho Tàng đời đời trên trời, nếu chúng ta biết dùng để xây dựng thế giới thành một thế giới bình an, hạnh phúc trong bác ái, huynh đệ nhờ tương thân tương ái, chia sẻ với mọi người. Đó là lý do Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Hãy bán tài sản của mình mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không hề hao hụt trên trời” (Lc 12,33).
3/ Nước Trời phải là nơi chúng ta liên lỷ hướng về:
Đức Giêsu quả quyết với các môn đệ: Nước Trời mới là Kho Tàng đích thực, là quê hương vĩnh cửu con người phải liên lỷ hướng về. Liên lỷ hướng về như người giầu có hướng về nơi chôn dấu tài sản, vì “kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34); liên lỷ hướng về Nước Trời như “người quản gia trung tín, khôn ngoan” thương mến chủ và được chủ thương mến giao nhiều trọng trách liên lỷ hướng lòng về chủ, và vì muốn làm vui lòng chủ, nên lúc nào cũng sẵn sàng ứng trực để bất cứ lúc nào chủ gọi đến, cần đến, người ấy đều có mặt để thực thi điều chủ muốn.
Quả thực, chúng ta chỉ có thể sẵn sàng trước Thiên Chúa, và tỉnh thức trước những dấu chỉ của Nước Trời như người đầy tớ có phúc khi chủ bất thình lình về trong đêm mà thấy anh vẫn còn đang tỉnh thức (x. Lc 12,36), nếu chúng ta xác tín Nước Trời mới là quê hương hằng phúc và Kho Tàng vĩnh cửu không bao giờ hư nát Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến, tín thác vào Ngài, như các tiền nhân trong đức tin đã được Thiên Chúa chứng giám vì các ngài nhờ tin đã “vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi” đến nơi Chúa muốn, mà “không biết mình đi đâu”; nhờ tin đã đón nhận mọi thử thách, dù là thử thách hiến tế con một của mình, mặc dù đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ một dân tộc đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển (x. Dt 11, 8.17).
Xin Chúa ban cho chúng ta trái tim yêu mến những sự trên trời và liên lỷ hướng lòng về Thiên Chúa, để có thể tỉnh thức khi Chúa đến, như người quản gia trung tín và khôn ngoan.
Tỉnh thức là hệ luận cần rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng mọi sự ở trần gian này TN19-C135
“Tỉnh thức” là hệ luận cần rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời. Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôâi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Khuyến). Cho nên Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng”.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca đã thu góp lại một số dụ ngôn của Đức Giêsu nói về việc phải “Tỉnh thức”. Đức Giêsu lòan báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi ngày đó. Đồng thời Ngài cũng sẽ đến với từng người khi gọi họ ra đi khỏi đời này, và ngày đó còn được giữ bí mật, nhưng chắc chắn phải đến. Ngày con người phải ra đi khỏi đời này là một bất ngờ như việc kẻ trộm đến lúc chủ nhà đang ngủ say. Ai cũng phải chịu nhận sự bất ngờ ấy, vì như người ta thường nói:”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”
* Đáp lại lời Chúa gọi trong Tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình vào một thời gian nào không ai biết, nhưng có một điều quan trọng là chúng ta phải “thắt lưng và cầm đèn cháy sáng trong tay” khi Chúa đến. Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây phải có tính cách tích cực, nghĩa là không phải cứ ngồi đấy mà chờ hay không ngủ, hoặc ăn không ngồi rồi, nhưng tỉnh thức ở đây là tư thế của một người đang làm việc với ý thức rằng mình đang đợi Chúa đến. Phúc cho chúng ta, nếu Chúa đến trong lúc chúng ta đang làm việc thì Chúa sẽ thưởng công bội hậu như ông chủ đặt đứa đầy tớ trung thành vào bàn ăn và hầu hạ nó.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Kn 18, 6-9.
Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên. Có lẽ tác giả viết sách này trong lúc dân Do thái ở bên Ai cập đang cử hành lễ Vượt Qua trong cảnh lưu đầy. Theo yêu cầu của những người Do thái di tản (diaspora), tác giả nhắc lại cho họ một biến cố vĩ đại, đó là việc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập và chọn họ làm dân riêng. Đây là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do thái.
Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2: Dt 11,1-2. 8-9.
Đức tin chính là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng”, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin của tổ phụ Abraham là gương mẫu cho chúng ta. Tin là đi trong đêm tối nhưng đầy tin cậy và kiên nhẫn trong chờ đợi.
Do lòng tin vào lời Chúa hứa mà tổ phụ Abraham đã rời bỏ quê hương xứ sở, ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu. Đã có Chúa dẫn dắt. Và cũng do lòng tin, Abraham đã dám tế lễ con mình cho Chúa trong tuổi già của mình mà không nghĩ gì đến lời hứa của Chúa sẽ thực hiện ra sao .
+ Bài Tin mừng: Lc 12,32-48.
Thánh Luca tập hợp ở đây một loạt những yếu tố có gốc gác khác nhau, nhưng chủ đề cũng chỉ là tỉnh thức và sẵn sàng. Ta chú ý đến hai dụ ngôn chính:
a) Dụ ngôn người đầy tớ: Công việc của người đầy tớ là phải sẵn sàng chờ ông chủ đi ăn cưới về, đó là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn” vì không biết giờ nào chủ mới về. Tư thế đó đòi người đầy tớ khi vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ báo hiệu ông chủ về thì phải mau mắn phục vụ ngay. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
b) Dụ ngôn người quản lý: Thánh Luca muốn dùng từ “Người quản lý” để chỉ những người lãnh đạo. Những người được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đòan phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi Chúa đến, những người đang phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng; trái lại, những người lãnh đạo lơ là và biếng nhác trong việc phục vụ sẽ bị trừng phạt. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính của dụ ngôn này là trung thành trong nhiệm vụ được giao phó.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
I. ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY HÔM NAY.
1. Phải biết sống siêu thóat.
Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai là “đoàn chiên bé nhỏ” bởi vì các ông chỉ là số ít, lại không có địa vị trong xã hội và sống khó nghèo, như đàn chiên giữa sói rừng, đang khi những kẻ chống đối vừa đông lại vừa mạnh. Đức Giêsu có ý động viện họ can đảm trước những khó khăn đang chờ trước mặt, nên Chúa mới gọi họ bằng một từ ngữ thân thương “Đoàn chiên bé nhỏ”.
Nhân dịp này, Đức Giêsu còn nhắc đến ý tưởng của Chúa nhật tuần trước: Muốn làm môn đệ phải sống siêu thoát, biết chia sẻ cho người khác. Chúa động viên các ông khi đang tích trữ làm giầu vật chất, phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa nữa. Hãy sắm cho mình một kho tàng trên trời được tích trữ bằng những việc lành, bằng cách bố thí những gì mình có.
Truyện: Cái lợi của tiền bạc.
Một người có ba người bạn. Lúc bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba thì giao tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa xử tội. Ôâng liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối viện cớ bận việc không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dầu không được ông ta quí lắm, lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận tòa án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.
Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng: người bạn thứ nhất của con người là tiền vì lúc còn sống ai cũng o bế nó, nhưng khi ta chết, nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng bố thí cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi dù họ có thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa địa chôn cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là các việc lành phúc đức, bố thí, vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh thường nó, đôi khi ta mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó cương quyết theo ta đến tận tòa phán xét để bênh vực, và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên đàng .
Theo như câu chuyện trên H. Cousin bình luận:”Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giầu trước mặt Chúa, là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời đời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biến cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với tất cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất”.
2. Phải biết tỉnh thức.
Để diễn tả sự gắn bó với Nước Trời, Đức Giêsu đã lần lượt dùng những dụ ngôn diễn tả bằng sự tỉnh thức dọn mình chết lành. Về hai dụ ngôn này, Mathhêu chỉ kể lại dụ ngôn “Ông chủ tỉnh thức” (Mt 24,43-44), Marcô chỉ lấy dụ ngôn “Đầy tớ tỉnh thức (Mc 13,33-35), còn ở đây Luca kể cả hai. Kiểu nói “Hãy thắt lưng, Hãy cầm đèn trong tay” được dùng để diễn tả tư thế đang làm việc, đang tỉnh thức. Ở đây diễn tả hành vi sẵn sàng, trong tư thế dọn mình để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết.
Dụ ngôn kẻ trộm cũng diễn tả yếu tố bất ngờ, kẻ trộm chỉ có thể hành động được khi chủ nhà ngủ say, không đề phòng. Giờ chết đến cũng bất ngờ như kẻ trộm, cho nên hãy đề phòng, hãy tỉnh thức.
Vậy tỉnh thức là gì?
Tỉnh thức và sẵn sàng có thể hóan đổi cho nhau: Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.
Hay nói cách khác, tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay.
3. Phải biết trung thành.
Trong huấn dụ về sự tỉnh thức, Chúa đã dạy chúng ta trong Tin mừng:”Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, hãy làm như người đợi ông chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nhiệm vụ của người đầy tớ phải đứng chờ ông chủ về là nhiệm vụ chính yếu, người đầy tớ phải hết sức cẩn thận, không được lơ là trong một giây phút. Do đó, Chúa cũng dạy chúng ta phải trung thành trong những việc đã được trao phó, việc lớn hay việc nhỏ không quan trọng, việc quan trọng là làm tròn trách nhiệm trong ý thức, làm nhiệt tình và thực lòng chứ không vì miễn cưỡng. Việc ông chủ có hiện diện ở đấy hay không cũng không quan trọng mà cái quan trọng là lúc nào cũng làm việc một cách đầy đủ như ông chủ đang có mặt.
Truyện: Vườn hoa xinh đẹp.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ mầu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp mầu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi:
- Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?
- Khoảng 40 năm rồi.
- Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?
- Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi.
- Ôâng có thư từ gì với cụ không?
- Không, ông ta bận lắm.
- Ôâng ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?
- Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này.
- Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?
- Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
II. ĐÁP LẠI LỜI CHÚA DẠY.
1. Hãy dọn mình chết lành.
Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một người đang đến. Thiên Chúa đang đến. Đức Giêsu đã loan báo Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết, trong ngày Quang lâm: Maranatha: Xin Chúa hãy đến. Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được coi như cuộc gặp gỡ “mặt đối mặt” với Đấng Chí Aùi.
Sự sống con người thật bấp bênh, có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta cũng chưa dám chắc là sẽ an toàn 100%, do đó, phải chuẩn bị đối phó với việc bất ngờ.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có ảo tưởng hết sức nguy hiểm này là mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn “ngày mai” để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng “ngày mai” ấy không bao giờ đến. Người ta có ai ngờ rằng với hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki bên Nhật hồi tháng 8 năm 1945 đã tiêu diệt một lúc 147.000 nhân mạng trong giây lát?
Truyện: Thiệt hại trong thế chiến II.
Theo đài phát thanh Tòa thánh ngày 1.9.1951 dựa vào bản thống kê của Liên hiệp quốc trong đệ nhị thế chiến, số người chết như sau:
- 32 triệu người chết trong các mặt trận. - 25 triệu người chết trong các trại giam. - 15 đến 25 triệu thanh thiếu niên, người già trẻ nít chết vì bom đạn. - 25 triệu người mất hết tài sản. - 45 triệu người phải di tản hoặc lánh nạn hoặc đi đầy.
Tất cả những người chết đó có tưởng mình sẽ chết không? Nếu tài sản chúng ta mất quá dễ dàng như vậy thì hãy tìm bám vào những cái bền vững hơn.
Không ai muốn chết, ai cũng muốn sống mãi, nhưng thực tế không cho phép. Kẻ trước người sau mỗi người sẽ phải ra đi khỏi cõi đời này như kinh nghiệm của Văn Thiên Trường ngày xưa đã nói:”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết, phải cố mà giữ lấy tấm lòng thanh.
Ngày xưa, có một người pha trò trong cung đình. Trong nhiều năm liền đã giúp việc mua vui cho nhà vua và triều đình. Nhưng rồi ông đã phạm phải một hành động thiếu suy xét và bị kết tội chết. Trước khi bản án được thi hành, nhà vua gọi ông ta đến và nói:”Vì nhiều lần ngươi đã đem lại cho trẫm những giờ phút vui vẻ trong bao năm qua, nên trẫm sẽ ban cho ngươi được chọn cách mà ngươi phải chết”.
Người pha trò suy nghĩ một lúc rồi đáp:”Thưa Hoàng thượng, ngài thật là chí lý, kẻ tôi tớ này xin chọn cách chết bởi tuổi già”
Nhà vua thấy rất vui vì lời đáp ấy đến nỗi ngài đã chiếu cố đến lời cầu xin của ông ta.
Phần lớn chúng ta đều muốn chọn lựa như thế. Nhưng chúng ta không biết liệu chúng ta có được hay không.
2. Phải tỉnh thức thế nào?
Thái độ cơ bản của người Kitô hữu là tỉnh thức. Người Kitô hữu phải tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đọan hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Tỉnh thức là tình trạng đang luôn luôn làm nhiệm vụ. Thi sĩ Tagore nói:”Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và tôi thấy đời là bổn phận. Tôi hành động và tôi thấy bổn phận là niềm vui”.
Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thụy điển:”Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông:”Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với một bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
Chúng ta không biết và không đoán được giờ chết của chúng ta vì giờ chết được giấu kín. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta có cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai họa mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Tỉnh thức là biết sống mọi giây phút hiện tại cho đầy đủ, đừng để phí đi một giây phút nào qua đi trong vô ích vì thời giờ là cái vốn mà Chúa ban cho chúng ta để làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức. Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau:
Để nhận ra giá trị của một năm: Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm. Để nhận ra giá trị của một tháng: Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng. Để nhận ra giá trị của một tuần: Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo. Để nhận ra giá trị của một ngày: Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con. Để nhận ra giá trị của một giờ: Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau. Để nhận ra giá trị của một phút: Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe búyt. Để nhận giá trị của một giây: Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn. Để nhận ra giá trị của một sao: Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng để nhận ra giá trị của một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn (Nguyễn văn Thái).
3. Đã chuẩn bị sẵn sàng chưa?
Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiếân, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói:”Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ:”Quá muộn”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh:”Si vis pacem, para belluu”: Nếu muốn được bình yên, phải chuẩn bị chiến tranh.
Và thời xưa người Trung quốc cũng đã từng có tư tưởng như vậy:Bình thời luyện vũ, lọan thế độc thư”: Thời bình thì phải lo luyện võ, thời lọan thì phải lo đọc sách. Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị chiến tranh, để khi chiến tranh xẩy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị để đối đầu với mọi tình huống bất trắc có thể xẩy ra.
Đối với giờ chết cũng vậy, đang lúc sống thì phải nghĩ đến lúc chết để đề phòng. Nếu ai đã từng chuẩn bị cho giờ chết thì họ sẽ bình tĩnh trong giờ chết, họ bình tĩnh chờ đợi cho giờ ấy xẩy đến vì họ coi mình như nắm chắc được phần rỗi, vì người ta đã khẳng định rằng:”Sống sao chết vậy”.
Nhưng chúng ta hay có ảo tưởng rằng giờ chết còn xa, chưa cần phải chuẩn bị gấp, họ chưa hiểu được câu ngạn ngữ dân gian:”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì thế họ cứ từ từ, chờ đến tuổi già mớùi chuẩn bị. Nhưng ai biết được chữ “ngờ”, ai ngờ được kẻ trộm đến lúc mình không tỉnh thức.
Một nhà văn hào kể một câu truyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào? Đang tỉnh thức hay ngủ mê? Có biết chu tòan nhiệm vụ được trao phó không?
Truyện: Cứ tiếp tục họp
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói:”Không biết hôm nay có phải là tận thế không: nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu tòan nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Ai cũng muốn chết trong sự bình an. Chớ gì những giây phút cuối cùng chuẩn bị đi vào đời sau, ta cảm thấy Chúa ở gần như người mẹ ấp ủ con. Lúc đó ta thưa với Chúa rằng:”In manus tuas , Domine, commendo spritum meum”: Lạy Chúa, con xin phó dâng hồn con trong tay Chúa. Chớ gì tâm hồn ta được bình an, thảnh thơi như đứa con nằm trong tay mẹ hiền để say trong giấc ngủ ngon lành.
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ: ”Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé”! Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện: ”Lạy Chúa, xin giúp con sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời:”Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé”.
Người lương thường tin tháng 7 âm lịch là tháng cô hồn. Tại sao có tháng này và cô hồn là ai TN19-C136
Người lương thường tin tháng 7 âm lịch là tháng cô hồn. Tại sao có tháng này và cô hồn là ai? Có phải là linh hồn người chết không? Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng 2/7, Diêm Vương ra lệnh mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì “thả cửa” để cho quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7 quỷ phải quay lại địa ngục. Bởi vậy, vào đêm 14/7, người ta thường đốt nến, vàng bạc hoặc giết gà vịt cúng quỷ đói để cầu được bình an và những điều tốt đẹp, không bị quỷ phá hoại con người nữa. Cũng theo truyền thuyết dân gian, quỷ là những cô hồn hay còn là ngạ quỷ (quỷ đói) vì người ta cho rằng, ngạ quỷ là một dạng tái sinh khi con người chết đi, nếu khi còn sống, con người làm nhiều việc tốt, sau khi chết sẽ được đầu thai kiếp khác làm người. Ngược lại, nếu làm điều xấu, người ấy sẽ bị đầy xuống địa ngục làm ngạ quỷ.
Lần giở lại những trang đầu tiên của Kinh Thánh, vì thương xót con người, Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn loài muôn vật và đặc biệt là con người, giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ" (St 1,27,28). Ấy vậy, con người không vâng lời Thiên Chúa nên đã phạm tội với Chúa, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người. Ngài đã sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu nạn, chịu chết và Phục sinh để chúng ta được sống dồi dào ngay đời này và viên mãn đời sau (1Ga 4,9), chứ không muốn con người chết đời đời làm quỷ đói khát, khóc lóc ghiến răng.
Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta rằng: "Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”. “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”, không có nghĩa rằng bán hết tài sản cho hết người nghèo để mình trở lại nghèo khố rách áo ôm, không! Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”, có nghĩa là cho đi cái mình có. Cho cái mình có là cái gì? Trước hết là đức tin, chúng ta nhận được đức tin qua Hội thánh nhờ Bí tích Thanh Tẩy. Đức tin là điều kiện cần để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt được hạnh phúc Nước Trời, chứ không bao giờ xuống hỏa ngục làm quỷ dữ (Mt 25,34). Vậy, chúng ta phải tích cực duy trì đức tin, làm cho nó mạnh hơn, trưởng thành hơn qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Mặt Khác, chúng ta phải biết chia sẻ và rao truyền đức tin ấy cho những người chưa biết Chúa, ngõ hầu họ cũng được hạnh phúc và làm thánh trên thiên đàng. Cuối cùng, “Bán hết tài sản của mình đi” chẳng phải là tài năng, sức lực, trí khôn, danh dự, địa vị, tiền bạc… của tôi để đem lại hạnh phúc cho những người bần cùng nhất của xã hội đó sao? Vì vậy, xã hội chúng ta sẽ ra sao, nếu chúng ta sống chỉ biết nhận mà không cho đi, keo kiệt, ích kỷ hay lo thu tích thật nhiều của bằng mọi mưu mô xảo trá gian tà; như thế được lời cả thế gian mà mất linh hồn, làm tôi cho quỷ và làm quỷ đói sau này thì nào có ích gì.
Cụ thể, đọc lại trang Tin Mừng Thánh Mátthêu Chúa Giêsu nói về Cuộc Phán Xét chung rằng những người được lành thánh trên thiên đàng đó là những người vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han. Thiên Chúa cũng sẽ kết án những người tội lỗi, ích kỷ rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Rõ ràng Lời Chúa dạy chúng ta rằng chúng ta khi chết được làm thánh hay thành quỷ là tùy thuộc vào công việc bác ái và đức tin của chúng ta. Điều đáng chú ý rằng đế làm được những việc bác ái đó, chúng ta phải Mến Chúa yêu người thật cụ thể, sẵn sàng cho đi những gì mình có hôm nay để được phần phúc mai sau.
Vì vậy, trong bài chia sẻ với các bạn trẻ tại Ba Lan, Đức thánh Cha Phaxicô nói rằng việc bước theo Đức Giêsu trên Con Đường Thập Giá, một lần nữa chúng ta nhận ra được tầm quan trọng của việc noi gương Ngài qua mười bốn công việc bác ái. Trước hết, “thương xác con người”: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng người ốm và tù nhân, chôn xác kẻ chết. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho nhưng không. Chúng ta được mời gọi để phục vụ Đức Giêsu nơi những ai bị loại trừ ra ngoài lề xã hội, để đụng chạm xương thịt cực thánh của Ngài nơi những ai đang trong hoàn cảnh khó khăn, những người đói khát, nơi kẻ trần truồng và bị bỏ tù, kẻ đau yếu và thất nghiệp, những người bị bắt bớ, những người di cư và tị nạn. Nơi đó chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa của chúng ta; nơi đó, chúng ta đụng chạm được Chúa. Sau những việc bác ái phần xác là tới những việc phần hồn: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cũng như cầu cho kẻ sống và kẻ chết. và ĐỨC Thánh cha kết luận rằng Qua việc đón nhận những người bị loại trừ đang đau khổ về thể lý và đón nhận những kẻ tội lỗi đang đau khổ về tinh thần, chúng ta xác nhận tư cách người Ki-tô hữu của mình.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta khi nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: chúng ta chỉ có thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú... Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng chúng ta còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác. Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy. Và cuối cùng, bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy. Chính vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực được phần phúc là làm thánh chứ không bao giờ thành quỷ dữ, quỷ đói cả. Amen.
Trong Tin Mừng, Thánh Mátthêu từng kể rằng về Cuộc Phán Xét chung rằng: "Bấy giờ Đức Vua TN19-C137
Trong Tin Mừng, Thánh Mátthêu từng kể rằng về Cuộc Phán Xét chung rằng: "Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han. Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Rõ ràng Lời Chúa dạy chúng ta rằng sự thưởng phạt của mỗi người chúng ta sau khi chết tùy thuộc vào công việc bác ái và đức tin của chúng ta. Điều đáng chú ý rằng đế làm được những việc bác ái đó, chúng ta phải có lòng thương xót như Chúa Cha, Ngài sẵn sàng cho đi những gì Ngài có.
Quả thế, Lần giở lại những trang đầu tiên của Kinh Thánh, vì thương xót con người, Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật và đặc biệt là con người. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ" (St 1,27,28). Ấy vậy, con người không vâng lời Thiên Chúa nên đã phạm tội với Chúa, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người. Vâng, lòng thương xót của Thiên Chúa muôn ngàn đời mãi trọn tình vẹn nghĩa với con người cho nên chính Ngài đã sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu nạn, chịu chết và Phục sinh để chúng ta được sống dồi dào ngay đời này và viên mãn đời sau (1Ga 4,9). Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta rằng: "Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”. “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí”, không có nghĩa rằng bán hết tài sản cho hết người nghèo để mình trở lại nghèo khố rách áo ôm, không! Có nghĩa là cho đi cái mình có. Cho cái mình có là cái gì? Trước hết là đức tin, chúng ta nhận được đức tin qua Hội thánh nhờ Bí tích Thanh Tẩy. Đức tin là điều kiện cần để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt được hạnh phúc Nước Trời (Mt 25,34). Vậy, chúng ta phải tích cực duy trì đức tin, làm cho nó mạnh hơn, trưởng thành hơn qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Mặt Khác, chúng ta phải biết chia sẻ và rao truyền đức tin ấy cho những người chưa biết Chúa, ngõ hầu họ cũng được hạnh phúc như ta hầu khi Chúa đến, Ngài sẽ nhìn thấy mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ đều phủ phục, thờ lạy Ngài là Chúa duy nhất (Kh 5,9-10). Cuối cùng, “Bán hết tài sản của anh” chẳng phải là tài năng, sức lực, trí khôn, danh dự, địa vị… của tôi để đem lại hạnh phúc cho những người bần cùng nhất của xã hội đó sao? Vì vậy, xã hội chúng ta sẽ ra sao, nếu chúng ta sống chỉ biết nhận mà không cho đi, keo kiệt, ích kỷ hay lo thu tích thật nhiều của bằng mọi mưu mô xảo trá gian tà; như thế “được lời cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì và lấy gì đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Vì vậy, trong bài chia sẻ với các bạn trẻ tại Ba Lan, Đức thánh Cha Phaxicô nói rằng việc bước theo Đức Giêsu trên Con Đường Thập Giá, một lần nữa chúng ta nhận ra được tầm quan trọng của việc noi gương Ngài qua mười bốn công việc bác ái. Trước hết, “thương xác bảy mối”: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng người ốm và tù nhân, chôn xác kẻ chết. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho nhưng không. Chúng ta được mời gọi để phục vụ Đức Giêsu nơi những ai bị loại trừ ra ngoài lề xã hội, để đụng chạm xương thịt cực thánh của Ngài nơi những ai đang trong hoàn cảnh khó khăn, những người đói khát, nơi kẻ trần truồng và bị bỏ tù, kẻ đau yếu và thất nghiệp, những người bị bắt bớ, những người di cư và tị nạn. Nơi đó chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa của chúng ta; nơi đó, chúng ta đụng chạm được Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói với chúng ta điều này khi Ngài giải thích những tiêu chuẩn mà dựa vào đó chúng ta sẽ được phán xét: bất cứ khi nào chúng ta làm điều đó cho những người anh chị em bé mòn này, chúng ta đang làm cho chính Ngài (Mt 25,31-46). Sau những việc bác ái phần xác là tới những việc phần hồn: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cũng như cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Qua việc đón nhận những người bị loại trừ đang đau khổ về thể lý và đón nhận những kẻ tội lỗi đang đau khổ về tinh thần, chúng ta xác nhận tư cách người Ki-tô hữu của mình”.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta khi nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú... Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác. Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy. Và cuối cùng, bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy. Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Nếu "con cái đời này" biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao "con cái sự sáng" lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời. Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Chính vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những người có lòng thương xót như Chúa. Amen.
Tin mừng Lc 12: 35-40 Tỉnh thức không phải là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường trong tư thế chờ đợi.
Một cụ già và một thanh niên ngồi đang ngồi đàm đạo với nhau bên tách cà phê dưới bầu trời TN19-C138
Một cụ già và một thanh niên ngồi đang ngồi đàm đạo với nhau bên tách cà phê dưới bầu trời Manhattan. Rồi bỗng dưng cụ già lấy ra một cuộn băng và đặt nó vào máy cassette. Ông mỉm cười, nói: trong cuộn băng này có ba đoạn ghi âm ngắn về ba người khác nhau đến xin tôi giúp đỡ. Tôi muốn cậu lắng nghe những đoạn ghi âm này. Với tôi, điểm tương đồng của ba người trong ba mẩu ghi âm này có lẽ là sự bất hạnh.
- Người đầu tiên rõ ràng đã phải trải qua một thời kỳ khủng hoảng do việc kinh doanh thua lỗ. Anh ta nhiếc móc mình đã không làm việc chăm chỉ và không vững tin vào con đường phía trước.
- Người phụ nữ cất tiếng sau đó chưa kết hôn vì cô cảm thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ già yếu. Cô ấy nhớ lại trong tiếc nuối và đau khổ về những cơ hội xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc mà cô đã từ bỏ.
- Giọng nói thứ ba là của một người mẹ có thằng con trai vừa gặp rắc rối với cảnh sát, bà trách mình đã không biết dạy dỗ con cái.
Người bạn già của tôi tắt máy rồi trở lại ghế ngồi.
Trong những đoạn ghi âm này có một cụm từ được lặp lại đến những sáu lần, nó ẩn chứa ý nghĩa không mấy tích cực. Hai từ đáng buồn nhất trong mọi ngôn ngữ, đó là hai chữ: GIÁ MÀ.
Có lẽ cậu sẽ ngạc nhiên nếu biết rằng tôi đã ngồi trên chiếc ghế này và lắng nghe hàng ngàn lần những câu nói buồn đau khắc khoải bắt đầu bằng hai chữ “giá mà”. Họ đã nói với tôi rằng:
- Giá mà tôi hành động khác đi;
- Giá mà mọi chuyện không xảy ra như thế;
- Giá mà tôi không mất bình tĩnh để rồi thốt ra những lời lẽ chua chát đó, có những hành động thiếu thành thật đó, nói những lời dối trá đó;
- Giá mà tôi khôn ngoan hơn, hoặc bớt ích kỷ đi hoặc biết tự kiềm chế hơn...
Họ cứ nói và nói cho đến khi tôi buộc phải ngắt lời hoặc yêu cầu họ dừng lại. Đôi khi, tôi cũng buộc họ phải nghe những đoạn ghi âm mà cậu vừa nghe và rồi tôi nói với họ: giá mà anh (chị) ngừng nói “giá mà” thì chúng ta đã làm được một điều gì đó ý nghĩa hơn trong cuộc sống.
Để diễn tả sự gắn bó với Nước Trời, Đức Giêsu đã lần lượt dùng những dụ ngôn diễn tả bằng sự tỉnh thức. Về hai dụ ngôn này, Mathhêu chỉ kể lại dụ ngôn “ông chủ tỉnh thức” (Mt 24,43-44), Marcô chỉ lấy dụ ngôn “đầy tớ tỉnh thức (Mc 13,33-35), còn ở đây Luca kể cả hai.
Kiểu nói “hãy thắt lưng, hãy cầm đèn trong tay” được dùng để diễn tả tư thế đang làm việc, đang tỉnh thức. Ở đây diễn tả hành vi sẵn sàng, trong tư thế dọn mình để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết.
Vậy tỉnh thức là gì?
Tỉnh thức ở đây cũng có nghĩa là sẵn sàng. Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải quan tâm và chấp hành nghiêm chỉnh. Tỉnh thức không phải là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường trong tư thế chờ đợi.
Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tránh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hàng ngày, vẫn liên đới với mọi người… sống và làm việc cách tốt đẹp.
Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng là chúng ta đang sống thế nào? Đang tỉnh thức hay ngủ mê? Nếu chúng ta đang sống tốt đẹp, chúng ta cứ vui sống.
Có câu chuyện kể rằng: một hôm, bọn trẻ đang vui chơi, một ông thầy đi tới hỏi các em: “nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các con sẽ làm gì?”.
Nghe hỏi thế, em thì nói: “con vào nhà thờ cầu nguyện”.
Em khác thưa: “con đi xưng tội”.
Có một em hồn hiên trả lời: “phần con vẫn vui chơi như thường”.
Và ông thầy hỏi: “tại sao con lại vui chơi như thường?”.
Em trả lời: “vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có gì phải lo sợ”.
Em bé đó chính là thánh trẻ Becman.
Khi đời chúng ta luôn sẵn sàng, khi lương tâm chúng ta không trách cứ chúng ta điều gì, khi mọi nợ nần của chúng ta với Chúa và anh em đều sòng phẳng, chúng ta không có gì phải lo sợ, chúng ta cứ vui sống. Hay nói cách khác, tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay: hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, nghĩa là hãy làm tốt mọi công việc ngay trong lúc này, chớ không phải cứ ngồi đó mà tụng đi tụng lại điệp khúc GIÁ MÀ.
Điệp khúc GiÁ MÀ sẽ chẳng giúp gì cho chúng ta trong cuộc sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Amen.
Biết sự vật, là biết quy luật vận chuyển của nó, và người ta có thể làm chủ, hiểu như người ta có TN19-C139
Biết sự vật, là biết quy luật vận chuyển của nó, và người ta có thể làm chủ, hiểu như người ta có thể can thiệp vào tiến trình vận hành đó. Người ta cũng có thể biết con người như một sinh vật, hiểu như biết những vận hành sinh học nơi con người, và can thiệp như các y bác sĩ đã thực hiện khi chữa bệnh cho con người.
Trong tương quan giữa con người với con người, ngoài những phản ứng tâm sinh lý người ta có thể khảo sát nghiên cứu và đặt thành quy luật, còn có một yếu tố quyết định, đó là chọn lựa tự do của con người. Chính yếu tố chọn lựa tự do của con người, hình thành mỗi người với bản sắc riêng, với cá tính và tư cách của họ. Con người không thể làm chủ được con người, hiểu như người ta không biết được những gì người khác chọn lựa với tự do của mình.
Trong lịch sử tội ác, kẻ gian có thể dùng những chất hóa học gây phản ứng sinh hóa học nhằm ảnh hưởng và điều khiển người khác, nhưng lúc đó người ta không còn tự do chọn lựa nữa; lúc đó người ta chỉ hành xử như một sinh vật chứ không hành xử như một con người, như thực tại nhân linh.
Con người với tự do, lúc này có thể hành xử khác với cách hành xử ở thời điểm trước. Trước người ta tốt, không có nghĩa bây giờ người ta tốt. Con người có thể thay đổi, có thể tốt hơn hoặc có thể dở hơn, tùy chọn lựa của mỗi người. Chính vì chọn lựa tự do, nên người ta không thể biết chính xác gì con người sẽ làm. Tự do, làm con người trở thành mầu nhiệm. Không ai biết trước về tương lai một người, kể cả các thiên thần, các thánh, và ma quỷ. Chỉ có một Thiên Chúa biết về tương lại con người, nhưng Thiên Chúa biết con người ở trên bình diện khác và không phương hại tự do con người bởi vì Ngài là Thiên Chúa. “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng biết ai cố tình từ khước và sống bất hạnh trọn đời vì họ đã chọn mãi mãi như vậy.
Tin, là hành vi tự do của con người đối với con người. Tại sao Kitô hữu yêu nhau lại dẫn nhau tới nhà thờ cử hành bí tích Hôn Phối? Bởi vì họ muốn Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu của họ, vì họ muốn cộng đoàn tín hữu cầu nguyện cho họ được trung thành trọn đời với nhau. Tại sao trong bí tích Hôn Phối, hai người lại thề hứa với nhau trước mặt cộng đoàn Hội Thánh địa phương? Nếu họ không có khả năng phản bội, thì họ đã chẳng phải thề. Họ thề, vì họ có thể thay đổi, và người kia tin rằng họ sẽ trung thành. Không có gì bảo đảm người đó sẽ trung thành, họ phải tin vào nhau, tin vào chính con người của nhau.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng không thể xác, nhưng Ngài là Thiên Chúa Ba Ngôi Vị. Vì vậy, tương quan với Ngài phải là tương quan tình yêu, nghĩa là, như hai người phải tin nhau để yêu nhau, thì con người cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ở một mức độ nào đó không cần chứng minh Thiên Chúa hiện hữu, vì trong tương quan tình yêu với ai đó, sự hiện hữu của người kia phải được hàm chứa và không thể nghi ngờ. Phải chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, e rằng tương quan đó chưa phải là tương quan tình yêu.
Niềm tin của Kitô hữu đối với Thiên Chúa không là niềm tin có Thiên Chúa hay không có Thiên Chúa, nhưng là mình có tin tưởng phó thác tương lai mình cho Thiên Chúa không. Kitô hữu chân chính không chỉ không nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa mà còn tin Thiên Chúa yêu mình; Ngài can thiệp vào đời mình để làm những điều tốt nhất cho mình. Tin vào những dấu lạ được kể trong lịch sử cứu độ, là tin Thiên Chúa đã yêu thương và can thiệp vào lịch sử dân Do Thái, để qua dân Do Thái Thiên Chúa diễn tả tình yêu đối với tất cả loài người.
Tin Thiên Chúa, hàm chứa biết Thiên Chúa hiện hữu, trông cậy phó thác nơi Ngài. Xưa Abraham đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, nên đã dám bỏ quê cha đất tổ để đi đến một nơi xa lạ mà không sợ những nguy hiểm trên đường. Cũng vì tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa mà Abraham dám hiến tế con như Thiên Chúa truyền lệnh dù chính Thiên Chúa đã cho biết dòng giống ông sẽ đông như sao trên trời như cát bãi biển qua Isaac. Vì tin và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, tin Thiên Chúa sẽ làm những điều tốt lành nhất cho mình và cho những người thân yêu của mình, mà bao anh hùng tử đạo đã dám chấp nhận cái chết để trung thành với Thiên Chúa.
Tin Thiên Chúa yêu thương mình, tin Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho mình, tin Thiên Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để cứu giúp mình, sẽ làm con người an tâm trong mọi trường hợp, ngay cả những lúc cùng quẫn nhất. Nếu không tin Thiên Chúa yêu thương mình, con người khó có thể sống hạnh phúc nếu không muốn nói, không thể sống hạnh phúc thật. Với Kitô hữu, Đức Yêsu là bảo chứng cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Nếu ai đó tin biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, thì họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Chưa nhận biết Đức Yêsu, con người chưa nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người.
Niềm tin vào Thiên Chúa được cụ thể hóa qua đời sống thường ngày của mỗi người. Yêu thương tha nhân, đặc biệt những người cần đến mình, những người nghèo, những người cô thế cô thân. Niềm tin vào Thiên Chúa được thể hiện qua việc phục vụ anh em xung quanh, trở thành niềm vui và chỗ dựa cho những người sống với mình. Đời sống hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau đã khởi đầu ngay ở đời này, thể hiện qua đời sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Ai yêu Chúa yêu người, thì đã được hạnh phúc ngay trong đời này. Chính tin tưởng trông cậy phó thác vào Thiên Chúa, làm con người có thể sống yêu thương và phục vụ anh em mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, tin là gì? 2. Tin là một cách biết. Bạn nghĩ sao về câu nói trên? 3. Tin vào Đức Yêsu, bạn được gì?
Chúa nhật thứ XIX thường niên C hôm nay, như một sự nối dài của Chúa nhật tuần trước, vì nếu TN19-C140
Chúa nhật thứ XIX thường niên C hôm nay, như một sự nối dài của Chúa nhật tuần trước, vì nếu kết thúc đoạn Tin Mừng tuần trước, Đức Giêsu nói: “Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giầu trước mặt Chúa” (Lc 12, 21). Vậy để trở nên giầu có trước mặt Thiên Chúa ta phải làm gì? Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên Trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát”. Tiên vàn, hãy tỉnh thức, trung tín và khôn ngoan. (x. Lc 12,32-48)
Vậy tỉnh thức như thế nào, có phải rằng cứ thức suốt không ngủ sao? Đức Giêsu khuyên chúng ta: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Các con hãy sẵn sàng”. (x. Lc 12, 36).
Đây không phải thức suốt không ngủ, càng không phải là chờ đợi cách thụ động: “Đầy tớ trung tính và khôn ngoan” là đầy tớ “khi chủ về còn thấy làm việc”, nghĩa là đang hăng say làm nhiệm vụ ông chủ đã trao phó cho, không gì khác là phục vụ trong yêu thương, theo gương của chủ mình . Vậy, “Ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy” (x. Lc 12, 42-43).
Trong câu nói của Chúa Giêsu có hai người, ông chủ và người đầy tớ. Trước hết chúng ta tự hỏi, ai là chủ nhà ở đây? Chắc chắn là Đức Kitô rồi, vì Ngài đã chẳng nói với các môn đệ mình rằng: “Anh em gọi Ta là Thầy và là Chúa thì thật là phải, vì Ta đúng như thế” (Ga 13,13). Và gia đình này là gia đình nào? Hiển nhiên là gia đình đã được Chúa cứu chuộc. Gia đình Thánh này là Giáo hội Công giáo trải rộng trên toàn thế giới nhờ sự phong phú lớn mạnh của nó, và cả những ai lấy làm vinh dự đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Chúa Giêsu. Vì chính Chúa Giêsu đã nói về chính mình rằng: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45). Người cũng là Mục Tử nhân lành, đã “trao ban mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Thế còn người quản lý này là ai, mà phải vừa trung tín và khôn ngoan? Thánh Phaolô Tông đồ chỉ cho chúng ta khi nói cùng lúc về chính mình và các bạn hữu của ngài: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Ðức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành” (1Co 4,1-2). Nhưng ai trong chúng ta nghĩ rằng chỉ có các Tông Đồ mới là những người lãnh nhận trách nhiệm quản lý này; những người kế vị các thánh Tông Đồ cũng là những người quản lý, như Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn” (Tt 1,7).
Những người Chúa chọn và đặt là những người tôi tớ của ông chủ nhà này, những quản gia của Thiên Chúa, những người lãnh nhận nhiệm vụ phân phát thóc lúa cho tha nhân.
Thật hợp tình hợp lý với Nước Trời do Đức Kitô loan báo: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 25-27).
Với hình ảnh Ông Chủ, người Kitô hữu được mời gọi trở nên người đầy tớ trong đức ái, khi phục vụ anh em mình với lòng biết ơn và bằng tình yêu vô vị lợi, không tìm kiếm gì khác ngoài việc vâng lời Chúa làm cho triều đại Nước Thiên Chúa mau đến. Để giữ gìn lý tưởng sống giữa những lời mời gọi của thế gian, cần phải “hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (x.Col 3,1); “Vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian” (1 Ga 2, 16)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết luôn tỉnh thức nội tâm; để chúng con có thể chờ đợi Chúa với sự kiên trì thánh thiện, như người ta mong đợi con cái, bè bạn, hôn phu trở về. Xin đốt lên trong lòng chúng con chính ngọn lửa hy vọng đang đợi Chúa không hề tắt, để chúng con tỉnh thức trong niềm tin, và nhiệt thành phục vụ anh em. Amen.
Trong đời sống của người tín hữu, có một điều nghịch lý là “đầu đội trời, chân đạp đất”. Sống trong TN19-C141
Trong đời sống của người tín hữu, có một điều nghịch lý là “đầu đội trời, chân đạp đất”. Sống trong trần gian mà quê hương là Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế và Ngài đã từ trời đến với chúng ta trong trần gian này để nói cho chúng ta biết điều đó và Ngài đã về trời, “ngự bên hữu Chúa Cha”, chứng minh cho chúng ta thấy, quê hương thật của chúng ta là nơi Ngài chứ không ở trong quả đất khổ lụy này.
Nếu quê hương thật của chúng ta là Nước Trời thì trần gian này là gì? Là một nơi sống tạm, một đoạn đường phải vượt qua. Thân phận chúng ta là lữ hành. Chúng ta không bám vào cái gì được cả, vì mọi sự đều mau qua, chóng tàn và luôn thay đổi. Không có gì bảo đảm cho chúng ta cả.
Là lữ hành, chúng ta không thể dừng chân, dù muốn dù không chúng ta cũng phải đi thôi.
Nhưng đi về đâu?
Đi về miền ánh sáng diệu huyền mà Chúa Giêsu là người dẫn đường về “Nước mà Cha chúng ta đã vui lòng ban cho chúng ta”.
Thời nay, muốn đi đâu, chúng ta có đủ phương tiện xe cộ và có thể chở theo tất cả những gì mình muốn. Nhưng chuyến đi về Đất Hứa không có phương tiện nào cả, phải đi bộ. Đường dài, đi bộ, thì chúng ta mang theo được gì? Vì thế, Chúa Giêsu căn dặn chúng ta trước: “Hãy bán tài sản của anh em mà bố thí. Hãy sắm sẵn những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt, nơi kẻ trộm không bén mãng, mối mọt không đục phá”.
Chúng ta luộm thuộm đủ thứ ở trần gian: tiền bạc, tiện nghi… Chúa bảo: muốn đạt đến Nước Trời phải đi tay không, bố thí tất cả.
Chúa đưa ra điều kiện quá gắt gao, không thể thực hiện được! Bố thí thì phần nào thôi chứ! Cần phải sống nữa chứ!
Chúa muốn nói rằng Nước Trời quí báu hơn bất cứ cái gì ở trần gian, hơn của cải, tiền bạc, hơn cả mạng sống. Ngài cũng đã nói: “Ai liều mạng sống mình vì Nước Trời thì sẽ tìm được mạng sống…”
Chúng ta dám liều cho đi tất cả để được Nước Trời không?
Chắc không mấy người dám liều, nhưng nhiều người đã dám. Thánh Matthêu là một người thu thuế, tham nhũng, giàu có nhờ bóc lột thiên hạ, nhưng khi nghe tiếng gọi mời của Chúa, ông không ngần ngại, bỏ ngay mọi sự: bỏ cả tiền bạc, tương lai và đi theo Ngài.
Thánh Phanxicô Assisi, một thanh niên con của một đại gia giàu nhất thành Assisi, ngày ngày vui chơi với bạn bè, nhậu nhẹt, ca hát, tiền luôn đầy túi, nhưng khi đã nghe tiếng gọi trong tâm hồn, anh đã bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa và sống hoàn toàn nghèo khó.
Nhìn vào các thánh, chúng ta thấy biết bao nhiêu người đã từ bỏ tất cả để theo Chúa.
Các thánh tử đạo dâng hiến cả mạng sống mình cho Chúa.
Đó chỉ là một vài ví dụ. Tại sao các ngài có can đảm để làm như thế? Vì họ có một túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không hao hụt”…
Kho tàng đó là gì? Và ở đâu? Nơi trần gian này hay ở chốn trời cao?
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết, kho tàng tồn tại không ai cướp được, đó chính là Ngài. Phải buông bỏ mọi sự để gắn bó với Ngài, chúng ta mới hạnh phúc, chỉ có Ngài thôi. Ai trong chúng ta không biết điều đó, nhưng thường chúng ta hay bắt cá hai tay. Chúng ta muốn đoạt cả kho tàng trần gian và cả kho tàng thiên quốc. Chúa Giêsu không thể chấp nhận thái độ nước đôi đó. Ngài đòi hỏi tuyệt đối.
Trong tình yêu, người yêu chỉ có một. Không thể yêu hai người một lượt được. Đó chỉ là tình yêu giả dối thôi.
Kho tàng không hư nát của chúng ta chỉ có một và không có gì có thể thay thế. Phải buông bỏ của cải trần gian để chọn một mình Chúa. Những người dám theo Chúa sẽ không bao giờ thất vọng, nhưng tràn đầy bình an và hạnh phúc.
Chúa Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn khác nhấn mạnh hơn bài học của Ngài: người đầy tớ tỉnh thức chờ chủ về. Nếu Chúa là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta thì chờ đợi Ngài là một điều tất nhiên.
Một cô dâu hay chàng rể có thể ngủ được không khi ngày mai là đám cưới? Họ sẽ tỉnh thức và mong trời mau sáng.
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta tỉnh thức vì không có hẹn trước. Ông chủ về có thể là nửa đêm hay sau nửa đêm. Nếu người đầy tớ vẫn tỉnh thức thì phúc cho y. Chủ sẽ thưởng công bằng cách đãi cho đầy tớ ấy một chầu và chính ông chủ sẽ dọn đồ ăn, rót rượu cho đầy tớ.
Ông chủ nào tốt đến thế?
Nhưng chúng ta có một ông chủ tốt hơn bội phần. Ngài sẽ đãi chúng ta một bữa tiệc đặc biệt hơn, Ngài đãi chúng ta bằng chính Thịt máu Ngài: “Này là mình Thầy, hãy cầm lấy mà ăn…”
Bữa tiệc này là phần thưởng lớn lao dành cho những đầy tớ luôn sẵn sàng phục vụ: “Ông chủ sẽ đặt người đầy tớ ấy coi sóc tất cả gia sản mình”, tài sản ấy chính là Ngài.
Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ chiếm lấy Ngài, làm một với Ngài. Đó là kho tàng quí báu mà thế gian không thể có được.
Nhưng Thiên Chúa của chúng ta là Đấng mà chúng ta không thể nắm trong bàn tay. Ngài đến với chúng ta một cách thiết thực như thế, nhưng chúng ta vẫn không thể chiếm lấy Ngài. Ngài sống trong chúng ta, làm một với chúng ta, nhưng chúng ta vẫn khao khát Ngài, vẫn cảm thấy mối tình của chúng ta chưa trọn vẹn.Vì thế, càng ăn lấy Ngài, chúng ta càng cảm thấy cần Ngài hơn, vẫn tiếp tục đợi chờ Ngài. Tổ phụ Abraham đã nhận được lời hứa sẽ là cha nhiều dân tộc. Ông vẫn đợi chờ cho đến khi rời bỏ trần gian mới thấy lời hứa được thực hiện.
Chúa Giêsu đãi chúng ta bữa tiệc Mình Máu Ngài ở trần gian, Ngài vẫn chưa thỏa mãn được ước mơ của chúng ta. Ngài muốn khơi lên trong chúng ta một khao khát triền miên, cho đến khi chúng ta dự tiệc Chiên Con trên trời.
Sự khao khát này là khao khát của tình yêu, thúc giục chúng ta luôn tìm kiếm, tỉnh thức, không chểnh mãng, không chạy theo những yến tiệc trần gian luôn mời gọi.
Chỉ có Ngài mới thỏa mãn con tim của chúng ta. Trần gian vẫn mời gọi. Yến tiệc trần gian chỉ đem lại nhàm chán. Chỉ có Chúa Giêsu mới mang lại sự sung mãn tuyệt vời thôi: “Ai uống nước này sẽ còn khát, còn ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát nữa”. Đừng tìm nơi đâu hạnh phúc ta khao khát. Hãy tỉnh thức chờ Ngài qua đêm tối trần gian, Ngài sẽ trở lại như Ngài đã hứa… Và chúng ta sẽ cùng Ngài hát khúc tạ ơn bất tận.
1. LỜI CHÚA: "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay" (Lc 12,36).
2. CÂU CHUYỆN:
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường TN19-C142
1)Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ quí, có một cái nắp có thể mở ra đóng vào được. Khách đến chơi trông thấy chiếc quan tài thường hỏi nhà sư rằng: "Ngài chế tạo ra cái này để làm gì vậy?" Nhà sư trả lời: "Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi là sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu. Sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.
2)Một nhóm bạn đang chơi đá bóng ngoài sân trường. Trong lúc nghỉ ngơi sau hiệp thi đấu, thầy quản giáo hỏi các em rằng: "Giả như Chúa cho các em biết các em chỉ còn sống được 15 phút nữa là sẽ phải chết. Vậy các em sẽ làm gì trong thời gian còn lại này? Em thì trả lời sẽ về từ giã cha mẹ và những người thân. Em khác cho biết sẽ đi gặp cha linh hướng và xin xưng tội. Em khác nữa thì nói mình sẽ vào nhà nguyện chầu Thánh Thể thật sốt sắng. Còn một cậu bé vốn có lòng đạo đức nhất la Lu-y Gông-gia-ga thì lại thưa: "Thưa Thầy, còn em cứ tiếp tục chơi ạ!" Khi được hỏi lý do tại sao lại cứ chơi khi biết mình sắp chết, thì cậu bé đã trả lời: "Vì mỗi sáng thức dậy em đều dâng ngày mới cho Chúa. Và trong ngày em năng nói với Chúa những lời nguyện tắt. Em nghĩ Chúa cũng chỉ cần em làm như vậy".
3. SUY NIỆM:
1) Phải tỉnh thức và sẵn sàng luôn: Tin mừng hôm nay nhắc nhở mọi người muốn được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su thì cần có thái độ "Tỉnh thức và sẵn sàng":
- Như người đầy tớ trung tín (c 35-38): Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng là ngủ trong tình trạng tỉnh thức, giống như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi ăn cưới về vào bất cứ giờ nào trong đêm để khi chủ về gõ cửa là mở ngay.
- Như người chủ nhà có trách nhiệm (c 39-40): Một người chủ nhà có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn canh thức để tránh cho trộm khỏi đến đào ngạch khoét vách nhà mình. Một người làm việc có tinh thân trach nhiệm cao sẽ được hưởng hoa trái là hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn như người ta thường nói: "Cẩn tắc vô ưu". Mẹ Têrêsa Calcutta cũng khuyên các tu sĩ dưới quyền rằng: "Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện. Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là đức ái. Hoa trái của đức ái là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an ".
- Như người quản gia trung tín và khôn ngoan (c 42-48): Sự trung tín khôn ngoan được biểu lộ qua việc anh quản gia luôn chu toàn công việc bổn phận là cứ đúng giờ cấp phát lương thực cho gia nhân. Nhưng nếu anh ta "nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa", thì số phận của anh ta sẽ "phải chung số phận với những tên thất tín". Vào thời Hội Thánh sơ khai, các tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca vì nghĩ lầm rằng ngày tận thế đã gần kề, nên có lối sống buông thả không chịu làm việc gì cả. Do đó, thánh Phao-lô đã phải viết thư để chấn chỉnh lối sống lười biếng ấy như sau: "Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói: Trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy: hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân" (2 Ts 3,10-12).
2) Cụ thể chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến thế nào?:
- "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn":
Mỗi tín hữu chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chu toàn các bổn phận đạo đức hằng ngày như dâng lễ cầu nguyện sớm tối để đón nhận ơn Chúa. Tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách tay luôn cầm cây đèn là đưc Tin, chứa đầy dầu ân sủng là đức Cậy, để luôn cháy sáng là đức Mến giữa cuộc sống đời thường.
- Phải làm gì để đón Chúa đến ngay từ bây giờ?: Hãy luôn ý thức sống tốt giây phút hiện tại bằng việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Tránh chỉ lo tích trữ của cải cho mình, đừng quá bám víu vào những của cải trần gian như Lời Chúa dạy: "Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12,32-34).
- Chu toàn công việc bổn phận: Đối với những ai được Chúa trao quyền quản lý một gia đình, một hội đoàn, một cộng đoàn dòng tu hay giáo xứ... Hãy nhớ rằng: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Quyền bính là phương tiện để phục vụ tha nhân. Người ta có thể lạm dụng quyền bính để phục vụ bản thân và làm khổ kẻ khác như tên quản lý trong bài Tin mừng đã "Đánh đập tôi trai tớ gái", "chè chén say sưa" vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về. Người quản lý sẽ bị phạt nặng hơn vì đã biết ý Chúa mà còn cố tình bỏ việc bổn phận của mình.
- "Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến":
Sẵn sàng để biết sử dụng của cải đúng theo ý Chúa: Cụ thể là chia cơm sẻ áo cho những người nghèo đói, góp phần nuôi dưỡng các trẻ mồ côi, người già neo đơn và động viên an ủi nhưng người đau khổ bất hạnh... Hiện nay nhiều người tuy rất tỉnh thức đọc kinh cầu nguyện, nhưng lại đang mê ngủ trước những đòi hỏi phải chia sẻ bác ái của Tin Mừng. Nếu các tín hữu luôn tỉnh thức bằng việc quan tâm giúp đỡ người bên cạnh thì hai phần ba nhân loại sẽ không còn nghèo đói nữa. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta hãy tập quảng đại cho đi những gì mình có. Hãy "làm những công việc bình thường bằng một cách thức phi thường" noi gương thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, để chiếu ánh sáng tin yêu giúp cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa như lời Chúa dạy: "Cũng vậy ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh emlàm mà tôn vinh Cha của anh em" (Mt 5,16).
- Phải sẵn sàng phục vụ để loan báo Tin Mừng: Những ai không có tiền vẫn có thể làm việc tông đồ băng việc phục vụ. Mẹ Têrêsa Can-quýt-ta và các nữ tu Thừa Sai Bác Ái đã không cho người nghèo đói bệnh tật tiền bạc vật chất, nhưng cho sự ân cần phục vụ trong yêu thương. Đây cũng là một phương cách loan báo Tin Mưng hữu hiệu. Hiện nay có nhiều tín hữu vẫn đang mê ngủ khi chỉ lo hưởng thụ tiện nghi vật chất va các đam mê thấp hèn... mà không ưu tiên tìm kiếm Nước Trời bằng việc chia sẻ phục vụ tha nhân. Thánh Phao-lô đã khuyên tín hữu chúng ta như sau: "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!" (Ep 5,14).
4. THẢO LUẬN:
1)Bạn đã thấy một người bị chết cách bất đắc kỳ tử chưa? 2)Bạn có cần chuẩn bị cho giờ chết của mình không? 3)Bạn cần làm gì để đón cái chết sẽ đến cách bất ngờ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết tỉnh thức để đừng bao giờ ngủ quên trong những đam mê lạc thú giả tạo. Xin cho lòng trí con hiểu rằng: đồng tiền chỉ là phương tiện giúp con nên hoàn thiện hơn, giúp con có điều kiện thực thi bác ái là chia sẻ cơm áo cho người nghèo. Xin cho con xác tín rằng: Khi giờ chết đến, con sẽ không thể mang theo được tiền của mà con đã ky cóp bấy lâu. Chính những đồng tiền cho đi, đồng tiền quảng đại chia sẻ cho kẻ khác, sẽ trở nên kho tàng quý giá không bao giờ bị hư nát cho con ở đời sau. Xin giúp con luôn biết hướng lòng trí về những sự trên trời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Tin mừng Lc 12: 35-40 Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao TN19-C143
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng –nó theo sát chúng ta trong gang tấc. Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
"Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến". Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.
Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian.
Cuộc đời chúng ta thì vắn vỏi, hơn thế nữa cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào, chết ở đâu và chết trong tình trạng ra sao. Cái chết có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa đã phán dạy chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách từng giây từng phút trong cuộc sống, hãy ra sức bảo vệ tâm hồn trước những đợt tấn công, những cám dỗ của ma quỷ, để rồi bất kỳ lúc nào Chúa đến viếng thăm, Ngài cũng sẽ thấy được nơi chúng ta một tâm hồn trong sạch và đôi tay đầy công nghiệp. Đúng thế, tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp sẽ là như tấm hộ chiếu để chúng ta được bước vào nơi quê hương Nước Trời.
Ta thấy sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Đừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Đừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Đẹp biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai hoạ mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Người Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, "kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp".
Là Kitô hữu, ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng ta còn non yếu.
Đồng thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêsa: "Chúng ta không được kêu gọi để thành công nhưng chỉ để sống trung thành."