*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Cô Ac-mi-et-ca, một người mẫu nổi tiếng của Hoà Lan, vừa tròn 24 tuổi. Cô đã mua được một vé máy bay trong chuyến bay TWA800. Nhưng rồi vào phút chót, vì một trở ngại của công việc, khiến cho cô quyết định hoãn lại chuyến đi.
Chắc hẳn là cô đã không ngừng cảm tạ Thiên Chúa về ơn thoát chết. Bởi sau đó, cô được biết: Chuyến bay đó đã nổ tung trong khoảnh khắc, sau khi rời sân bay. Toàn chuyến bay đã rơi gọn xuống lòng biển sâu, không còn một ai sống sót. Và cho tới nay, sau bao tốn hao sức lực và tiền bạc, người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân của tai nạn đó.
Nhưng, thoát được cái chết ghê gớm này, thì cô lại rơi vào một cái chết khác, không kém tang thương, đó là chưa được một tháng sau, giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thì thình lình, cô bị một người lạ mặt đâm túi bụi vào người. Bị nhiều vết thương hiểm nghèo, các bác sĩ đành bó tay, và cô ta đã tắt thở sau đó, trước sự kinh ngạc của mọi người. Họ là những người mến mộ cô ta, nhưng cũng đành bất lực, không thể cứu sống của ta được.
*****
Chúa Giêsu căn dặn chúng ta:
“Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, không biết giờ nào đâu” (Luca 21,36).
Chẳng ai biết giờ chết của mình, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, ở phải giây phút nào của cuộc sống. Nhưng chắc chắc chắn cuộc hẹn đó phải có.
Điều cần thiết là chúng ta phải luôn tỉnh thức, phải luôn sẵn sàng chờ đợi giờ Chúa đến gọi chúng ta.
Tỉnh thức, không phải là không ngủ, mà là ngủ trong sự tỉnh thức.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày, lúc nào cũng đọc kinh, cũng đọc lời Chúa, nhưng mà là để cho lời Chúa chi phối cuộc sống của ta.
Khi nhận ra mình đang bị mê muội, chính là lúc chúng ta bắt đầu tỉnh thức.
Các thánh khác chúng ta là ở chỗ đó: Với đức tin mạnh mẽ và với ý thức thân phận mỏng giòn, các ngài luôn trong tư thế chuẩn bị, luôn trong tư thế sẵn sàng.
Các ngài luôn nhớ đến kiếp lữ hành tạm bợ, như bông hoa sớm nở chiều tàn, nên lòng các ngài luôn hướng về Trời Cao, luôn mong mỏi giờ hạnh ngộ cùng với Đấng Vĩnh Hằng, Đấng mà các ngài luôn tôn thờ, Đấng mà các ngài luôn kính yêu.
*****
Cái chết bất ngờ của người mẫu nổi tiếng Ac-mi-et-ca đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ:
- Dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một Bàn Tay Siêu Việt điều khiển.
Cô không thể giữ nổi hơi thở của mình. Cô đâu có ngờ: Cái may thoát nạn vừa được hưởng, thì cũng chính là cái tiếng chuông cảnh báo giờ kết thúc của cuộc đời cô.
Không ai có thể nắm chắc được sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền năng, cho đến thứ dân hèn mọn.
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền trên sự sống con người, mới có quyền gọi con người về với Ngài khi nào Ngài muốn. Cho nên phải tính thức, cho nên phải sẵn sàng, trong tư thế đạo đức thánh thiện của một người con Chúa.
Chúa đã báo trước: Tiếng gọi ấy sẽ thật là bất ngờ.
*****
Lạy Chúa nhân từ, Chúa biết chúng con còn quá nặng nợ trần gian, mặc dầu biết rằng: Đời là bể khổ. Trần thế là tạm bợ. Dương gian là chốn lưu đầy. Nhưng chúng con vẫn quyến luyến, vẫn vấn vương trần gian này, thay vì biết quan tâm hơn đến những việc trên trời, đến quê hương thật của chúng con, thì chúng con lại quên mất.
Chúng con chỉ biết lao đầu vào việc hưởng thụ, vào tiền tài, vào danh vọng, vào sắc dục.
Chúng con chỉ biết đầu tư tiền của, công sức, thời gian, cho cuộc sống hôm nay, mà rồi quên đi việc đầu tư vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin hãy đánh động lòng chúng con, để chúng con cũng biết hướng tâm về Chúa.
Xin đừng để bụi trần làm mờ ám cùng đích thật của chúng con, nơi Chúa đang giang cánh tay yêu thương đón chờ.
Xin Chúa nhắc nhở cho chúng con biết phải luôn chuẩn bị sẵn sàng, phải lo tỉnh thức, để không phải ngỡ ngàng, khi con được Chúa gọi ra đi bất cứ lúc nào. Amen.
Có một chị nội trợ, có chồng, có con, trong một gia đình rất bình thường, đã viết một lá thư tâm sự với một linh mục, được đăng công khai trên tờ báo Công Giáo Và Dân Tộc cách đây vài năm. Nội dung của lá thư đại khái như sau:
Kính thưa cha, qua những gì cha đã giảng dạy trong dịp tĩnh tâm vừa qua và qua những gì con đã đọc được trong kinh thánh, con thấy một ngày sống của Chúa Giêsu quả là tất bật. Ngài rất vĩ đại. Ngài quả là một Đấng Thiên Sai. Ngài quả là một Đấng tiên tri. Ngài quả là một vị Vua Cao Cả. Ngài quả là một vị tư tế thánh thiện tuyệt hảo. Ngài chữa bệnh. Ngài rao giảng trên núi. Ngài làm phép lạ. Ngài gọi anh mù ra riêng một bên, rồi làm cho anh ta được sáng mắt. Ngài biến đổi tâm hồn của một cô gái bị 7 quỷ dữ ám. Ngài làm cho kẻ chết sống lại. Và Ngài đã làm biết bao nhiêu chuyện phi thường, giúp cho không biết bao nhiêu người. Quả thật, quả thật, con yêu mến Chúa vô cùng, con cảm phục Chúa vô chừng.
Nhưng, khi càng cảm phục Chúa bao nhiêu thì con lại càng cảm thấy buồn bã bấy nhiêu.
Con buồn, vì một ngày sống của con sao mà không giống Chúa tí nào cả.
Thưa cha, từ sáng sớm, vừa mở mắt ra, là con phải lo cà phê cho chồng, lo sữa cho con nhỏ, lo chiên cơm cho những đứa con lớn cho chúng ăn, để chúng kịp giờ đi học. Bản thân con cũng chưa kịp rửa mặt nữa.
Khi mà tất cả, chồng đi làm, con đi học, thì lạy Chúa và thưa cha, con lại phải lo đi thu gom những tàn dư của những áo quần mặc hôm trước. Con có hàng thao đồ. Rồi lạy Chúa, ngày nào cũng thao đồ. Thứ hai thao đồ. Thứ ba thao đồ. Thứ tư đồ đầy thao. Thứ năm thao đầy đồ. Và con phải giặt, phải xả, phải phơi, phải ủi, phải xếp, phải đưa vào tủ cho ngăn nắp, cho gọn gàng, của ai ra người đó. Ngày nào cũng chỉ có bấy nhiêu thôi, con đâu có làm được những chuyện gì gọi là vĩ đại, con đâu có làm được gì gọi là cao cả như Chúa đâu. Cho nên con cảm thấy buồn và con rất buồn. Buồn, vì con cảm thấy xa sự thánh thiện quá.
Rồi lạy Chúa, khi phơi đồ xong, con vừa chỉ kịp rửa mặt, thì cái giỏ treo ở góc bếp kêu lên, chị ơi em nè chị. Thế là con xách giỏ ra chợ.
Đi chợ vừa về thì ông táo ở bếp lên tiếng: Chị ơi em đây, em sẵn sàng rồi, chị có dùng đến không ?
Rồi việc lo cho ông táo xong, thì cũng lại là lúc chồng về, con về. Thế là con lo dọn bữa ăn trưa cho mọi người.
Ăn xong, họ đi ngủ trưa, còn con thì lại phải lo lấy đồ phơi vô nhà. Lại ủi, lại xếp, lại đơm nút, lại vá những chỗ hình chữ L, rồi lại xếp vô tủ.
Rồi lạy Chúa, buổi chiều về những đứa con đại học chữ to kêu ơi ới: Mẹ ơi cho con tắm. Thế là con lại phải xăng tay áo lên, lại phải xăng quần lên để tắm cho chúng nó.
Rồi cha ơi, Chúa ơi, tối đến, lại cơm tối.
Cơm tối xong, con mệt quá, con đi ngủ. Có khi, con chỉ kịp đọc qua quýt một vài kinh cho an tâm là đã xong bổn phận đọc kinh tối.
Mà rồi nào có được ngủ yên đâu. Mới 11 giờ đêm, thì đồng hồ nước đã gọi. Thế là phải xách xô, lại phải xách ống nước ra để chuyền nước, kẻo ngày mai không có nước xài. Bởi lâu nay, nước hay bị cúp thất thường.
Đang chuyền nước thì thằng con trai nhỏ ở trong mùng kêu ơi ới: Mẹ ơi cho con đái.
Cho nên cha ơi, Chúa ơi, con thấy một ngày của con sao mà xa vời với Chúa Giêsu quá.
Chúa Giêsu thánh thiện và vĩ đại bao nhiêu, thì con lại thấy một ngày sống của con sao nó tầm thường và chán chường bấy nhiêu. Con buồn quá.
*****
Thế nhưng, vị linh mục đó đã trả lời cho lá thư của chị như sau:
Chị ơi, trong một bài giảng phong thánh cho 1 vị thánh hiển tu, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã nói với các vị Hồng y, với các quan khách, và với cộng đoàn dân Chúa đang dự lễ hôm đó như sau:
“Kính thưa chư vị quý mến. Cho đến hôm nay, tôi vẫn chưa tìm thấy được một việc gì nổi bật nơi vị thánh của chúng ta, để chia sẻ với quý chư vị. Bởi vị thánh này chỉ làm toàn những việc tầm thường thôi.
Ngài không có làm gì gọi là cao cả: Ngài không có bằng cấp cử nhân, tiến sĩ. Ngài không phải là thành viên của hàn lâm viện. Ngài không hề có đi rao giảng ở các nước truyền giáo. Suốt đời của Ngài không hề làm một phép lạ nào.
Thế nhưng, thưa qúy chư vị.
- Không phải tổng số những việc làm, sẽ đánh giá sự thánh thiện của một người.
- Không phải giá trị cao thấp, lớn nhỏ của việc làm, để đánh giá sự thánh thiện của một người.
Nhưng là chính cường độ tình yêu được đặt trong mỗi việc làm, sẽ đánh giá sự thánh thiện của một người.
Vậy thì chị ơi, xin chị đừng có sợ cái thao đồ. Mà chị hãy sợ:
- Trong mỗi thao đồ, chị có đặt cường độ tình yêu ở trong đó hay không ?
- Chị có đặt sức mạnh của tình yêu và lòng kiên nhẫn ở trong đó hay không?
Càng yêu Chúa, càng yêu chồng, càng yêu con nhiều, thì thao đồ đó sẽ đánh dấu sự thánh thiện của chị.
Như vậy, cái mà chị cho là tầm thường thì coi chừng, đó chính là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho chị, nếu chị biết sử dụng chìa khóa đó.
Xin chị đừng quá mơ ước những chuyện cao siêu, những chuyện phi thường.
- Chị muốn được tử đạo ư ? Còn bổn phận lo cho chồng, lo cho con, ai sẽ gánh vác ?
- Trốn tránh trách nhiệm của mình có phải là công đức, có phải là thánh thiện trước mặt Chúa không ?
Mà mơ ước tử đạo kiểu của chị, thì nói thiệt thời này, sẽ không còn nữa đâu, chị đừng mơ. Chính khi chị cố gắng chu toàn những bổn phận hằng ngày, chính khi chị làm những việc tầm thường, những việc nho nhỏ như chị đã làm, đang làm và sẽ tiếp tục làm ở trong gia đình, mà biết đặt cường độ tình yêu trong đó, yêu Chúa, yêu chồng, yêu con, thì có thể coi đó là tử đạo rồi đó. Và sự thánh thiện sẽ được Chúa đánh giá cũng từ đó.
Lạy Chúa, xin cho con biết đặt cường độ tình yêu vào trong từng việc làm hằng ngày của con, để con xứng đáng là con Chúa và đáng được Chúa yêu thương hơn nữa. Amen.
Có một nghệ sĩ kia rất có tài châm biếm. Ông ta rất dễ dàng và nhanh chóng khám phá ra những khuyết điểm của bất cứ ai mà ông ta gặp gỡ. Rồi sau đó, ông sẽ cải biên, ông sẽ cho thêm mắm, thêm muối vào, để cho những khuyết điểm đó trở thành ly kỳ hơn, trở thành hấp dẫn hơn. Và cuối cùng, ông sẽ đưa những khuyết điểm đó lên sân khấu, để làm trò cười cho mọi người.
Rồi một đêm kia, trong một giấc chiêm bao, ông nằm mơ, ông thấy mình đang đi trên một con đường hoang vắng, mà trên vai thì ông phải vác những thứ hành trang thật cồng kềnh, thật nặng nề, nặng đến độ có thể để đè bẹp cả thân xác ông xuống đất. Ông cố gắng xoay qua xoay lại cho dễ chịu hơn, nhưng không thể được. Ông muốn ném tất cả những thứ cồng kềnh nặng nề đó xuống đất, nhưng cũng không thể được.
Rồi trong cơn mệt nhoài, ông cầu nhầu lẩm bẩm: Hành trang này là những thứ gì và là của ai, mà rồi tôi phải cong lưng, cực khổ, mà vác nó như thế này.
Nói vừa dứt câu, thì ông liền nghe một tiếng vọng lại từ xa, vọng lại rất rõ. Tiếng vọng đó giải thích:
Hành trang đó là những khuyết điểm của những người, mà con thường nhanh nhẹn bới móc ra, để làm trò cười cho thiên hạ. Tại sao con than phiền. Tại sao con kêu cực, kêu khổ, đó không phải là những thứ, mà con đã khám phá ra hay sao ? Chính con đã khám phá ra, cho nên chúng phải thuộc về con, chúng phải là sở hữu của con, chứ không phải của ai đâu.
*****
Bạn thân mến,
Một người có cái tính kiêu căng, hay khinh dễ, coi thường kẻ khác, thì thường khó lòng mà có những tư tưởng tích cực, khó lòng mà nghĩ tốt về người khác bao giờ. Người đó luôn nhìn những sai lệch, người đó luôn nhìn thấy những lỗi lầm của kẻ này người nọ mà thôi.
Nó cũng giống như một thân cây đã cằn cổi thì không thể đâm chồi, không thể nảy lộc, và không thể sinh hoa trái ngon ngọt được.
Trái lại, với tâm địa khinh người, họ chỉ biết nhìn mặt trái mà thôi. Họ chỉ thấy những khuyết điểm và những tiêu cực để chế giễu, để cười cợt, để chê bai. Lối sống như thế của họ đã làm phiền lòng cho không biết bao nhiêu người, thế mà họ vẫn tỉnh queo. Họ không có một chút áy náy, họ không có một chút bận tâm gì. Ai đau khổ mặc kệ ai, việc của họ họ cứ làm, đường của họ họ chứ đi.
Hơn nữa, với cái lối sống như thế, họ sẽ không bao giờ nghĩ được là họ đang làm hại chính mình. Bởi gậy ông rồi sẽ đập lưng ông. Bởi cuộc đời của họ sẽ không bao giờ thấy được có những cái gì là tích cực, thấy được những cái gì là tốt đẹp, không hề thấy được những cái gì là phấn khởi, mà quanh quẩn chung quanh họ, lúc nào cũng chỉ toàn là những cái xấu, chỉ toàn là những cái tiêu cực, cho nên lúc nào họ cũng cảm thấy chán chường, họ cũng cảm thấy nặng nề, họ cũng cảm thấy khó chịu và họ cảm thấy thất vọng
Có một văn sĩ đã viết được một câu rất hay:
Lỗi lầm nặng nề nhất của con người,
là hay bận tâm đến những lỗi lầm của kẻ khác.
Nếu người nghệ sĩ trên đây luôn có một cặp mắt quảng đại và yêu thương thì ông ta sẽ thấy được những điều tốt đẹp nơi kẻ này, người nọ, để ngợi khen, để tán dương, để khuyến khích. Và như thế, ông ta sẽ vui lây với niềm vui của kẻ khác, của những người mà ông tán dương khuyến khích.
Trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta vướng mắc một lỗi lầm nào đó, thì chúng ta thường tìm đủ mọi cách, tìm đủ mọi lý do, để tự bảo chữa mình.
Còn ngược lại, nếu có ai đó bên cạnh ta, mà có sơ xuất lỗi lầm điều chi, thì ta lại vội vàng chê bai, chỉ trích, lên án không thương tiếc. Chính cái lòng kiêu căng, tự phụ, muốn hơn người, đã làm cho chúng ta ra mù quán.
*****
Lời chúa Giêsu cảnh báo trong kinh thánh, tuy đã hơn 2.000 năm rồi, thế mà sao vẫn còn y như mới, đối với mỗi người chúng ta. Chúa dạy:
“Đừng có nhìn cái rác ở mắt của anh em,
mà rồi không thấy cái xà trong con mắt của mình” (Matthêu 7,4).
Chúng ta phải can đảm thú nhận cái lỗi lầm này, là chúng ta hay suy đoán liều cho kẻ này người nọ, mà lại rất dễ dãi đối với chính mình.
Thấu hiểu được yếu đuối này của ta, cho nên chúa Giêsu đã dạy chúng ta một cách sống sao cho phù hợp hơn, đó là
“Các con hãy yêu thương anh em của mình như chính mình” (Matthêu 19,19).
Để sống theo cách Chúa dạy, chúng ta quyết không làm cho người khác bất cứ những gì, mà ta không muốn họ làm cho ta.
Tục ngữ Việt Nam có câu:
Yêu nhau mọi sự chẳng nề,
100 chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tấm lòng đại lượng và yêu thương, để biết nhận ra những gì là tốt đẹp, là tích cực nơi những anh chị em sống bên cạnh chúng con, để nâng đỡ họ, để khuyến khích họ, như con muốn họ làm những điều ấy cho con. Amen
Một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa để mua hàng.
Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ, mà mẹ em đã ghi trên miếng giấy.
Người bán hàng nhìn em, và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú. Sau khi xếp gọn các món hàng vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước một cái thùng đầy kẹo, vừa mở nắp thùng, ông vừa bảo em thò tay vào thùng lấy kẹo. Em bé vui mừng thò tay vào thùng, lấy ra một cái kẹo.
Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
- Em hãy bóc lấy thêm cho đầy lòng bàn tay của em đi.
Em bé tinh nghịch mỉm cười đáp:
- Vậy thì, xin ông hãy bốc lấy kẹo giúp con đi.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao thế ?
Em bé dí dỏm trả lời:
- Bởi vì, bàn tay của ông, lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
*****
Câu trả lời của em bé, tuy ngây thơ, nhưng lại ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa: Với cái nhìn trong sáng và trực giác bén nhạy của tuổi thơ, em đã biết nhận ra sự bé nhỏ của mình, và nhận ra sự lớn lao của người khác.
Vì lòng khiêm tốn, sinh lòng tin tưởng. Đó chính là thái độ nội tâm của mỗi người chúng ta cần phải có, mỗi khi cầu nguyện với Chúa.
Người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an là một mẫu gương sáng chói về lòng đơn sơ, về sự khiêm nhường, về sự tin tưởng và trung kiên khi cầu gnuyện:
“Vâng, lạy Ngài. Bởi vì những chó con cũng được ăn những miếng bánh vụn của chủ, từ bàn rơi xuống” (Matthêu 15,27).
Đó là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất, vì bà không tự cho mình có cái quyền đòi hỏi, nhưng bà chỉ trông cậy và lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thôi, như kiểu chó con đợi bánh rơi xuống từ bàn ăn của chủ.
Cầu nguyện là thân thưa cùng Thiên Chúa với niềm xác tín:
- Người là Cha nhân từ, đầy lòng yêu thương.
- Người là Cha có một trái tim nhân hậu, trái tim quảng đại mênh mông bao la như biển cả.
- Người có bàn tay lớn và có quyền phép vô cùng.
- Người là Đấng đã tác thành mọi sự trên trời dưới đất, trong vũ trụ này.
Lạy Chúa, xin dạy cho con biết đến cùng Chúa với lòng tin vững mạnh, và với tâm tình phó thác, như con thơ nép mình bên người cha nhân hiền.
Con tin rằng: Chúa là cha con. Đường lối của Chúa thì vượt xa tầm hiểu biết của trí khôn hạn hẹp của con. Tình thương của Chúa mênh mông, hơn lòng ích kỷ của con. Bàn tay của Chúa lớn hơn gấp trăm, gấp ngàn lần bàn tay nhỏ bé của con. Con xin đặt tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Con xin phó thác cuộc đời con cho Chúa, phó thác cả những khi con không hiểu tí gì, về những gì mà Chúa đang thực hiện cho cuộc đời của con, bởi vì con tin chắc rằng:
- Chúa luôn chọn phần tốt nhất cho con.
- Chúa luôn chọn phần lớn nhất cho con.
Chúa luôn chọn phần tuyệt hảo nhất cho con, cho hạnh phúc đời đời của con, Amen.
Trong một buổi họp dành cho những người chuyên lo việc giáo dục và đào tạo, bỗng tôi chú ý một chuyện kể của một thầy giáo. Nội dung của câu chuyện đại khái như sau:
Có một người kia nuôi một đàn chiên trong khu vườn của mình. Rồi một hôm, có một con chiên trong đàn khám phá thấy có một lỗ hổng ở hàng rào. Nó vội vàng tìm cách để chui qua lỗ rào đó. Khi chui được ra bên ngoài, nó cảm thấy sung sướng vô chừng. Nó cảm thấy thoải mái. Nó cảm thấy thật hạnh phúc. Nó tung tăng chạy nhảy theo sở thích. Nó chạy nhảy thật xa, xa cho đến độ quên cả lối về. Đến khi trời sắp tối, nó mới giật mình lo lắng. Và càng hốt hoảng hơn, khi nó thấy có một con chó sói đang rình rập ở trong bụi rậm gần đó. Nó cố hết sức lao cho thật nhanh về phía trước. Nó cố chạy để thoát thân. Nó cứ chạy, mà rồi không biết chạy đi đâu, vì nó đã mất phương hướng.
Phần con chó sói, nó quyết tâm đuổi theo cho kịp, để bắt con mồi.
Khi con chó sói chạy đến gần thì cũng là lúc con chiên gặp may: Nó gặp được ông chủ đang đi tìm nó. Ông đánh đuổi con chó sói, và vác nó lên vai mang về chuồng. Con chiên hú hồn hú vía. Thật may mắn cho nó.
*****
Khi nghe biết chuyện này thì mọi người, ai ai cũng đều khuyên ông chủ: Hãy liệu cách để sớm bít cái lỗ hổng đó lại, để tránh trường hợp tương tự như vậy có thể xảy ra. Và coi chừng, lần sau sẽ còn tệ hại hơn nhiều.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên, là ông chủ từ chối những lời đề nghị đó. Và nhất quyết cứ để nguyên trạng thái lỗ hỏng đó.
*****
Con chiên lạc trong câu chuyện trên đây, chính là hình ảnh của mỗi người chúng ta, khi không biết sử dụng sự tự do của mình cho đúng, cho hợp lý.
Chúng ta còn nhớ: Ở những trang đầu của bộ sách thánh cho biết. Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Nghĩa là có lý trí, có ý chí, có tự do, và có tình yêu.
Nhưng kinh thánh cũng cho biết:
- Cũng ngay từ đầu, con người đã sử dụng sự tự do đó không theo ý của Thiên Chúa. Con người đã lạm dụng sự tự do, để phản nghịch với Thiên Chúa, để phạm tội chống lại Thiên Chúa, và đã tự mình làm mất đi cái quyền làm con Thiên Chúa. Cho nên không đáng được Chúa yêu thương nữa.
- Và cũng từ đó, sự dữ đã nhập vào thế gian.
- Và cũng từ đó, phát sinh đau khổ và sự chết cho nhân loại.
Thế nhưng, không vì thế, mà Thiên Chúa ghét bỏ con người. Thiên chúa vẫn tiếp tục yêu thương, nên đã sai Con Một của Người, đó là Chúa Giêsu đến trần gian, để cứu vãn những gì con người đã làm mất, để chỉnh sửa lại những gì con người đã làm sai, đã làm không đúng, đã làm cho con người ra méo mó đi.
Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, mà con người đã được đưa trở lại tình trạng ơn nghĩa với Thiên Chúa, và được Thiên Chúa nhận lại làm con của người.
Khi con người đã được Thiên Chúa thương yêu, được Chúa cứu chuộc bằng chính mạng sống của Con Ngài, đã được Thiên Chúa cứu chuộc bằng chính mạng sống của Con Yêu Quý của Ngài, và Cửa Trời từ đó, đã mở ra để đón nhận con người.
Nhưng không phải vì thế, mà Thiên Chúa huỷ bỏ sự tự do của con người. Ngài vẫn tiếp tục tôn trọng sự tự do của con người.
Bởi khi tạo dựng con người, Ngài đã tạo dựng con người giống như hình ảnh của Ngài, đó là có lý trí, có ý chí, có tự do, có tình yêu.
Ngài không muốn cho cái hình ảnh đó nơi con người hôm nay bị méo mó đi.
Bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay là phải cố gắng, mà gìn giữ cho nguyên vẹn hình ảnh của Thiên Chúa nơi ta.
- Hãy trung tín với Chúa.
- Hãy sống cho trọn tình trọn nghĩa với Chúa.
- Hãy sống sao để Chúa có thể nhận ra hình ảnh của Ngài nơi ta, một con người có lý trí, một con người có ý chí, một con người có tự do, một con người có tình yêu chân thật.
Đừng lạm dụng nó, để làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa nơi ta, kẻo sau khi kết thúc những ngày sống ở trần gian này, Chúa sẽ không nhận ra chúng ta là những con cái của ngài, vì gương mặt của ta đã bị méo mó quá nhiều, đã bị lệch lạc quá nhiều, không còn đúng là hình ảnh của một người con Chúa nữa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con, đã hi sinh chịu chết vì chúng con một cách nhục nhã đau thương trên thập giá.
- Chúng con cảm tạ Chúa.
- Chúng con biết ơn Chúa vô vàn.
Xin cho con luôn biết cảm nghiệm tình Chúa yêu thương con, trong mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Xin cho con đừng bao giờ lạm dụng sự tự do mà Chúa ban cho con, để rồi làm cho Chúa phải phiền lòng vì con. Amen.
Có một hành khất ngồi bên vệ đường, nghe tin hôm đó, Đức Vua sẽ ngự giá đi qua. Anh ta cố gắng hết sức, để lết đến cổng làng, lòng nhủ thầm:
Đây là dịp may duy nhất, để tôi thấy được Đức Vua.
Thế rồi, khi vừa thấy xa giá xuất hiện từ đàng xa, anh ta cố gắng đưa tay lên vẫy chào. Nào có ngờ đâu, trước sự sửng sốt của mọi người. Đức Vua ra lệnh cho dừng xe lại. Rồi chính ông lại đưa tay ra, để xin người hành khất bố thí.
Người hành khất, trong cứ chỉ lúng túng, bối rối, đã đưa tay vào trong chiếc bị củ kỷ nhơ bẩn của mình, lấy ra một hạt lúa. Anh trịnh trọng đặt hạt lúa vào trong tay Đức Vua. Đức Vua tiếp nhận món quà từ tay người hành khất, rồi tiếp tục cuộc hành trình giữa cát bụi mịt mù.
Chiều đến, khi về tới nhà, người hành khất mở chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa những hạt lúa trong túi, anh nhận ra một hạt ngọc óng ánh.
Lúc bấy giờ, người hành khất mới khóc nức nở hối tiếc: Phải chi ta đã cho đức vua hết tất cả những gì ta có !!!
*****
Thiên Chúa đối xử với chúng ta cũng giống như vị Vua đối xử với người hành khất. Ngài muốn trao ban cho chúng ta tất cả kho báu trên trời.
Thiên Chúa vẫn muốn đến với từng người chúng ta, như một người hành khất.
Chúng ta tưởng mình đang chìa tay van xin Ngài trước. Kỳ thực, chính Ngài mới là kẻ không ngừng đưa tay ra để xin ta mở rộng cõi lòng ta, mở rộng đôi tay của ta.
Thiên Chúa dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài: Có lý trí, có ý chí, có tự do.
Thiên Chúa tôn trọng chúng ta. Ngài muốn trao ban tất cả cho chúng ta. Nhưng cũng chính vì yêu thương, cho nên Ngài không làm cách nào khác, hơn là van xin, hơn là kêu mời chúng ta.
Ngài chờ đợi nơi chúng ta một cái gật đầu. Ngài van xin chúng ta một hạt lúa nhỏ, rút từ trong cái bị khốn cùng của chúng ta.
Lạy Chúa, mỗi khi con làm một nghĩa cử nhỏ mọn, cho người anh em của chúng con, mỗi khi con tin yêu, mỗi khi con hy vọng giữa bao nhiêu thử thách khó khăn, mỗi khi con khiêm tốn sám hối sau những lần vấp ngã, là mỗi lần chúng con trao tặng cho Chúa những hạt lúa bé nhỏ của con, để từ đó, con nhận trở lại tất cả kho tàng yêu thương của Chúa.
Xin ban cho con lòng quản đại, để con cũng biết tưởng nghĩ đến những thân nhân, và biết san sẻ tình thương cho mọi người, vì biết rằng: Làm như thế Chúa sẽ yêu thương con nhiều hơn nữa. Amen.
Bà đang cầu nguyện trong nhà thờ, bỗng dưng như nghe có tiếng Chúa nói thì thầm bên tai: Này con, con hãy xây nhà cho Cha ở đi.
Xác tín đây là lời Chúa nói riêng cho mình. Bà quý tộc Elizabeth mau mắn lo xây một nhà nguyện, trong khu đất rộng, ngay bên cạnh nhà, trong khu vườn riêng của bà.
Nhưng khi nhà nguyện được xây dựng xong, bà Elizabeth vẫn còn nghe tiếng Chúa nói như một lời, y như trước: Này con, con hãy xây nhà cho Cha ở đi.
Bà nghĩ: Hay là Chúa muốn bà xây một nhà thờ lớn hơn, đẹp hơn, nguy nga hơn, cho xứng với Chúa. Bởi vì, sự giàu có, mà Chúa đã ban cho bà hiện nay, thì còn quá dư thừa.
Thế là bà Elizabeth lo đi tìm một miến đất lớn hơn, rộng hơn, để mua, để xây cho Chúa một nhà thờ đẹp hơn, lớn hơn, trang hoàng lộng lẫy hơn.
Bà Elizabeth nghĩ thầm: Lần này, chắc là Chúa phải hài lòng lắm. Bởi vì trong vùng này, không có một ngôi nhà nào đẹp hơn, lớn hơn đến như thế.
Lạ lùng thay, khi cầu nguyện, bà Elizabeth cũng vẫn còn nghe tiếng Chúa vang nài một cách khẩn thiết hơn: Này con, con hãy lo xây nhà cho Cha ở đi.
Bà Elizabeth thưa với Chúa: Con đã xây cho Chúa một ngôi nhà đẹp nhất rồi. Con đã xây dựng cho Chúa một ngôi nhà lớn nhất vùng này rồi, sao Chúa còn muốn xây nhà nào cho Chúa nữa ? Chúa muốn con xây nhà cho Chúa như thế nào đây? Chúa muốn con xây cho Chúa một vương cung thánh đường lớn nhất nước này hay chăng?
Tiếng Chúa thì thầm trả lời: Không. Con hãy nhìn qua cái cửa sổ mà xem. Con đang xem thấy cái gì ?
Dạ, con thấy một gia đình đang nương tựa dưới gốc cây, bên lề đường.
Và tiếng Chúa nhỏ nhẹ nói: Con hãy xây cho họ một căn nhà. Đó là con đã xây nhà cho Cha.
*****
Chúng ta dễ bị cám dỗ hành xử như bà quý tộc Elizabeth trong câu chuyện trên.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: Hãy biết nhìn Ngài, hãy biết khám phá ra Ngài nơi những người bé mọn, nơi những kẻ nghèo hèn.
Chúa nói trong Kinh Thánh Matthêu đoạn 15 câu 40:
“Cha bảo thật các con. Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Cha đây, là các con đã làm cho chính Cha”.
Nhìn thấy Chúa trong anh chị em đã là một điều khó. Và làm việc gì đó cho anh chị em xung quanh, như thể là làm cho Chúa, thì lại càng khó hơn nhiều.
Nhưng dù khó hay dễ, mỗi người kitô hữu chúng ta, đều được mời gọi phục vụ anh chị em mình vì Chúa. Vì Chúa, mà phục vụ anh chị em mình.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một trái đất đủ lương thực để nuôi sống mọi người. Đừng trách Chúa đã tạo ra sự nghèo khổ, mà chỉ nên trách chính mình.
Tại sao ta lại khóa cử từ tâm của ta lại ?
Tại sao ta khóa lòng ta lại ?
Xã hội chúng ta hôm nay còn nhiều người đói, là vì chúng ta không dám chia sẻ điều mà chúng ta đang có một cách dư thừa.
Xã hội chúng ta còn quá nhiều người nghèo, là vì chúng ta bị lôi cuốn vào cơn lốc của thời trang, của hưởng thụ, của mua sắm.
Xã hội chúng ta còn quá nhiều người, người sống không ra người, là vì chúng ta còn xa lạ với những lời Chúa dạy.
Bởi chúng ta không nghe được những gì Chúa đang nói với ta: Cha đang đói. Cha đang khát. Cha đang trần trụi, Cha đang đau yếu.
Thánh Giacôbê đã cảnh báo chúng ta rằng: Này anh em, ai bảo mình có đức tin, mà không có hành động nào đi theo đức tin đó thì nào có lợi ích gì ! Đức tin cái kiểu đó có thể cứu được mình hay chăng ?
Một Thân xác không có hơi thở, là một xác chết, thì cũng vậy, đức tin không có việc làm, là đức tin chết. Không có lời nào rõ ràng hơn.
Chúng ta đang sống đức tin của mình như thế nào đây ?
Biết bao lần chúng ta muốn tránh né, không làm việc gì đó cho anh chị em sống bên cạnh chúng ta, mà lại chỉ muốn đọc kinh mà thôi, đọc thật dài, đọc thật nhiều, đọc thật lâu….
Chúng ta đừng để Chúa quở trách chúng ta, như đã từng quở trách dân Do Thái xưa kia: Dân này chỉ biết thờ kính Ta bằng môi, bằng miệng, chứ lòng của chúng thì quả là rất xa Ta.
Mẹ Têrêxa Calcutta ta đã bị đăm mê lôi cuốn bởi những con người đau khổ, bởi những con người nghèo đói, bởi những con người bệnh tật.
Dưới mắt của mẹ, đó không chỉ là những người đáng thương, mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ. Chính tình yêu người, và tình yêu của Chúa Giêsu nơi mẹ, đã quyện vào nhau: Vì yêu Chúa, cho nên mẹ Têrêxa đã yêu con người mãnh liệt hơn. Mẹ đã tập khám phá ra Chúa Giêsu trong mỗi con người, cho dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa.
Chắc chắn sẽ có những Chúa Giêsu đi qua cuộc đời của chúng ta, như vị vua cải trang làm người hành khất.
Đến ngày Phán Xét, coi chừng chúng ta sẽ phải đối diện với những ngỡ ngàng thê thảm.
Bởi ta đã từng làm ngơ, để Chúa đói khát, trần truồng, bệnh tật, không nơi nương tựa, mà chúng ta đã không quan tâm đủ, hay chúng ta đã từng ngoảnh mặt làm ngơ một cách nào đó.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết: Ngày Tận Thế, Chúa sẽ xét xử mỗi người chúng con, dựa trên cái tiêu chuẩn tình yêu: Yêu chúa và yêu người.
Và mỗi khi đi xưng tội, không mấy khi chúng con đã xưng cái tội thiếu sót quá nhiều, đó là bỏ lỡ những cơ hội làm việc lành phúc đức, nghĩa là có những việc lành phúc đức có thể làm được, mà vì lười biếng bỏ qua không làm, con không coi đó là tội để xưng.
Xin Chúa giúp cho chúng con biết đổi mới tâm hồn, cho con biết mở rộng rộng con ra, để đón nhận tất cả những ai đang cần đến con, để biết trích một phần nào của cải, những gì chúng con có, để làm việc từ thiện, bác ái.
Và cũng biết tìm thời gian để thờ phượng Chúa, và lo xây dựng cho phần rỗi đời đời mai sau của chúng con nữa. Xin Chúa chúng con. Amen.
Có một tác giả, khi đọc đoạn Phúc Âm nói về ngày phán xét (Mt 25,31-41), đã có những cảm hứng, đã tưởng tượng viết ra một câu chuyện sau đây.
Tuy là một câu chuyện tưởng tượng, nhưng cũng có cơ sở để chúng ta suy nghĩ. Nội dung của câu chuyện như sau.
Trong ngày phán xét chung, khi mà con người và vũ trụ trời đất, đã tới ngày tận cùng, thì Thiên Chúa sẽ xuất hiện một cách uy nghi, như một vị thẩm phán, trước mặt toàn thể nhân loại, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, căn cứ theo những việc lành dữ họ đã làm, khi còn sống ở trần gian, để thưởng công họ, hoặc để luận tội họ.
Bấy giờ, Chúa sẽ phân chia nhân loại ra làm hai, tượng trưng bằng chiên và dê:
- Chiên thì người cho đứng bên phải, gồm toàn những người hiền từ, lành thánh, những người đạo đức, những người, mà mỗi ngày trong cuộc sống, họ đã biết cố gắng hết sức để sống lương thiện, để làm thật nhiều việc lành phúc đức, những việc từ thiện bác ái, biết quan tâm giúp đỡ kẻ này người nọ, và tất nhiên, là biết cố gắng tìm thời gian, để lo việc thờ phượng Chúa sáng tối, ở nhà thờ, cũng như ở gia đình, và nhất là không bao giờ dám làm buồn lòng Chúa, hay buồn lòng bất cứ ai, dù việc lớn hay việc nhỏ.
*****
- Còn Dê thì người cho đứng bên trái, gồm toàn những người dữ, những người xấu, những người chuyên là điều ác.
Họ là những người biếng nhác trong việc thờ phượng Chúa. Họ không mấy quan tâm đến những việc đạo đức. Họ lười biếng trong việc xưng tội rước lễ. Họ không mấy khi quan tâm đến các việc từ thiện bác ái. Họ không mấy khi làm phúc đức bố thí. Họ là những người vô tâm. Họ đã không biết giúp đỡ ai đã đành, mà còn chuyện gia đình, chuyện vợ chuyện chồng, chuyện con cái, họ cũng vô tâm. Họ sống dững dưng, như những người không có trách nhiệm gì. Lúc nào họ cũng bị chi phối bởi những công việc làm ăn, lo vui chơi với bạn bè, lo tìm những thú vui riêng tư một cách ích kỷ. Họ chỉ thích bài bạc. Họ chỉ thích chè chén say sưa. Họ chỉ thích theo duổi những thú vui bất chính…
Nói chung, họ là những người không biết dùng thời gian, không biết dùng tài năng, không biết dùng công sức, không biết dùng tiền bạc của cải, để đầu tư cho phần rỗi dời đời của mình.
Khi phân chia Chiên và Dê xong, Chúa Giêsu mới rảo mắt chung quanh nhìn mọi người. Và cuộc phán xét bắt đầu:
Trước hết, ánh mắt của Chúa dừng lại ở một cô con gái, tuổi khoảng 30. Thấy ánh mắt của Chúa nhìn mình, bỗng cô hốt hoảng, tay chân run rẩy, mặt mày xanh mét.
Chúa lên tiếng: Này cô kia, mau lên đây.
Cô ta, giọng run run trả lời:
Lạy Chúa, cuộc sống của con bình thường như mọi người thôi. Con đâu có làm gì ác. Con không có làm điều gì xấu đâu !!
Chúa tỏ vẻ khó chịu: Ta đã bảo lên, thì cứ lên đi. Con là vợ phải không?
- Dạ dạ, con là vợ, con hiền lắm ạ! Con ngoan lắm ạ! Con giỏi việc nhà lắm! Con giỏi việc đi chợ và bếp núc. Con lo cho con cái chu đáo lắm ạ !
Chúa lên tiếng: Sao con nói nhiều quá ? Con làm mẹ phải không?
- Dạ con có 3 đứa con. Con thương chúng nó lắm. Con lo cho chúng nó đầy đủ lắm.
+ Đã bảo lên thì cứ lên đi, sao con nói nhiều quá vậy ! Con cứ lên đây, Cha sẽ thưởng cho con, vì con đã là vợ, vì con đã là mẹ.
Nghe Chúa nói thưởng, cô ta sung sướng, thở phào nhẹ nhõm, nhanh chân chạy tới Chúa Giêsu.
Ngay lúc đó, Chúa Giêsu biến hình thành người chồng, chồng của cô ta.
Đang khi cô ta còn đang ngở ngàng sửng sốt, chưa hiểu gì, thì Chúa Giêsu, với hình dáng người chồng của cô ta, lên tiếng nói:
- Em ơi, lúc anh mới cưới em về, em đã từng nói với anh: Anh đẹp trai lắm, anh thông thái lắm, anh khỏe mạnh cường tráng lắm, em rất hãnh diện về anh. Khi đi dạo phố bên cạnh anh, trông anh giống như cây tùng, cây bách, em rất an tâm, em sự rất hãnh diện với bè bạn. Anh đúng là chỗ dựa cho cuộc đời em. Anh chính là cây cao bóng cả, để cho đôi cánh chim yếu ớt của em núp bóng nương thân.
Nhưng mà này em, bây giờ em nghĩ lại xem, những lời nói đó của em cũng thường thôi, những lời nói đó qúa dễ, cô gái nào cũng nói được như vậy, nên em đâu có gì đặc biệt, để anh thưởng cho người vợ của anh?
Rồi khi anh có công ăn việc làm, có đồng ra đồng vào, nên những chi tiêu trong gia đình cũng tương đối thoải mái, gia đình ta không đến nỗi thiếu thốn, thì lúc đó em đã nói với anh: Em hạnh phúc quá, em may mắn quá, em có được người chồng biết thương vợ thương con, biết lo lắng cho gia đình thật chu đáo.
Nhưng mà này em, bây giờ em nghĩ lại xem, những lời nói đó của em cũng thường thôi, những lời nói đó quá dễ, cô con gái nào cũng nói được như vậy, nên em đâu có gì đặc biệt, để cho anh thưởng cho người vợ của anh phải không?
Rồi khi anh thất nghiệp. Anh không tìm được việc làm. Tất nhiên, không phải là do lỗi của anh, không phải do anh lười biếng, mà là do những biến động của xã hội, của chính trị, của kinh tế thị trường. Thế là cuộc sống của gia đình ta bị chao đảo.
Lúc đó, em vẫn bình tĩnh, vẫn can đảm nói với anh: Anh ơi, anh đừng lo. Anh không phải là người chồng vô dụng đâu. Anh cứ tiếp tục đi tìm việc làm đi. Mọi chuyện ở nhà đã có em lo. Chuyện con cái thì đã có em đây. Chúng ta sẽ giảm bớt đi những chi tiêu lại. Chúng ta cố gắng sống tiết kiệm hơn. Cùng lắm, chúng ta bán một vài thứ không cần thiết, để giải quyết cho lúc khốn khó này. Sau này, khi có tiền, chúng ta sẽ mua sắm lại. Anh cứ an tâm mà đi tìm việc làm đi.
Những lời nói đó của em, có giá trị động viên anh biết chừng nào. Nó giúp tăng thêm nghị lực cho anh biết chừng nào. Nó giúp cho anh tiếp tục sống, và sống một cách lạc quan. Đâu phải cô con gái nào cũng nói được những câu như vậy. Đâu phải người vợ nào cũng nói được những lời lẽ như vậy. Anh đã ghi nhận, và giờ đây anh sẽ thưởng cho em, thưởng cho người vợ thật yêu quí, thưởng cho người vợ thật tuyệt vời của anh.
Rồi một hôm, anh gặp một tai nạn lao động: Anh mất một chân, anh mất một tay, anh mất một con mắt, nhưng em vẫn bình tĩnh và can đảm nói với anh: Anh ơi, chân anh mất, còn có chân em, hãy để cho em dìu anh đi. Tay anh mất, còn có tay em, hãy để cho em lấy khăn lau mặt anh, hãy để em lấy nước cho anh uống. Con mắt anh hư, còn có con mắt của em đây, em sẽ giúp anh. Anh đừng lo, anh không phải là một con người thừa thải đâu. Anh vẫn là lẽ sống cho em. Anh vẫn là niềm vui cho em. Anh vẫn là chỗ dựa tinh thần cho em và cho con cái. Gia đình ta sẽ không có gì hay đổi. Gia đình ta sẽ tiếp tục đứng vững như xưa. Gia đình ta vẫn hạnh phúc.
Những lời nói đó của em, có giá trị động viên anh biết chừng nào. Nó giúp tăng thêm nghị lực cho anh biết chừng nào. Nó giúp anh tiếp tục sống, và sống một cách lạc quan. Đâu phải cô con gái nào cũng nói được những lời như vậy. Đâu phải người vợ nào cũng nói được những lời lẽ như vậy. Anh đã ghi nhận, và giờ đây anh sẽ thưởng cho em, thưởng cho người vợ thật yêu quí, thưởng cho người vợ thật tuyệt vời của anh.
Rồi những lúc anh lâm bệnh nặng, khi tuổi đã già như một người khách không mời mà cứ tới. Lúc đó, mắt anh mù loà, tay chân anh rung rẩy, đụng tới cái gì là hư cái đó, là ngã, là đổ, là bể... Em đã không hề trách mắng anh. Em đã không hề la lối nặng nhẹ anh. Em đã không hề chưởi xiên chưởi xéo anh. Em vẫn tiếp tục bình tỉnh và can đảm dùng những lời lẽ, những cử chỉ thật nhẹ nhàng đối xử với anh: Anh ơi, em còn khoẻ hơn, vì người nữ có sức chịu đựng tốt hơn, dẻo dai hơn. Đây, em đưa cho anh cái khăn để anh lau mặt nè. Đây tay em, anh cầm đi, để em dìu anh đi. Đó là những câu nói anh đã ghi nhận, hôm nay anh sẽ thưởng cho em. Bởi, những lời nói đó, tuy rất tầm thường, nhưng đã toát ra từ một tình yêu thâm sâu. Chính cái nồng độ tình yêu đó đã làm cho những lời nói và những việc làm đó có một giá trị tuyệt vời, không có gì có thể cân đo đong đếm được.
Thế là cô ta vui mừng quá, gương mặt thật rạng rỡ, chạy một mạch về chỗ của mình.
*****
Sau đó, Chúa lại trở về nguyên hình của một vị thẩm phán. Chúa tiếp tục rảo mắt nhìn quanh. Bỗng Chúa nhìn thẳng vào một anh thanh niên và gọi lên: Anh kia, cái anh có râu quai nón kìa. Mau lên đây.
Anh chàng thanh niên bỗng tái mặt. Anh hốt hoảng phân bua: Lạy Chúa, râu quai nón đâu phải là một tội. Râu quai nón đâu phải là một cái gì xấu đâu?
Chúa trả lời: Ta đâu có nói cái gì xấu đâu. Đã bảo lên thì cứ lên đi.
Thế là anh ta ngoan ngoãn tiến lên gần Chúa. Chúa hỏi: Anh đã từng làm chồng phải không?
- Dạ, thưa phải.
+ Anh đã từng làm Cha phải không ?
- Dạ, thưa phải, con đã từng làm Cha.
+ Ta gọi anh lên, là để thưởng anh đây. Thưởng, vì anh đã là chồng, vì anh đã là cha.
Anh ta ngở ngàng thưa với Chúa: Thưa, con có làm gì đâu, để đáng Chúa thưởng?
Chúa trả lời: Có chứ.
Ngay lúc đó, Chúa Giêsu biến hình thành người vợ, vợ của anh ta.
Và đang khi anh ta còn đang bở ngở sửng sốt chưa hiểu gì, thì Chúa Giêsu, với hình dáng là người vợ của anh ta, lên tiếng nói:
- Anh ơi, lúc mới cưới em về, em rất đẹp, em rất xinh, em rất duyên dáng, cho nên anh đã nói với em: Anh yêu em suốt đời, vì vợ anh xinh đẹp nhất trần gian.
Nhưng mà này anh, bây giờ anh nghĩ lại xem, những lời nói đó cũng thường thôi, những lời nói đó quá dễ, anh con trai nào cũng nói được những câu như vậy, và người chồng nào cũng nói được những lời lẽ như vậy, nên anh đâu có gì đặc biệt, để em thưởng cho người chồng của em?
Người vợ lại tiếp tục nói: Lúc em còn khoẻ mạnh, khéo léo trăm chuyện, công dung ngôn hạnh tứ bề, em khéo nấu ăn, em khéo sắp xếp mọi công chuyện trong nhà thật chu đáo, thật trật tự, thật ngăn nắp, thật gọn gàng, thật sạch sẽ, rất vừa mắt anh, cho nên anh đã nói: Đi đâu cũng không bằng ở nhà. Ở nhà, có em bên cạnh nên anh rất an tâm, bởi đã có em lo cho anh trăm bề, lo cho anh đủ mọi chuyện. Em quả là một người vợ thật giỏi gang. Em quả là một người vợ thật đảm đang. Anh cảm thấy rất sung sướng. Anh cảm thấy hạnh phúc vô chừng.
Nhưng mà này anh, bây giờ anh nghĩ lại xem, những lời nói đó cũng thường thôi, những lời nói đó quá dễ, anh con trai nào cũng nói được những câu như vậy, và người chồng nào cũng nói được những lời lẽ như vậy, nên anh đâu có gì đặc biệt, đáng để em thưởng cho người chồng của em?
Rồi, những lúc em mang nặng đẻ đau, anh đã không bỏ mặc em, mà đi tìm những bông hồng khác, những thiên thần khác, những “thiên thần người nghèo”, những “con gà” móng đỏ.
Rồi lúc em bị các bác sĩ cho biết, là em mắc chứng bệnh nan y, ung thư tử cung, sáu tháng là cùng. Trong hoàn cảnh đó, anh đã không tỏ ra thất vọng. Anh đã không bỏ bỏ em một mình, để tìm đến với những bạn nhậu, để quên đi những nỗi chán chường thất vọng của anh. Nhưng ngược lại, anh vẫn tiếp tục túc trực bên giường bệnh của em. Anh luôn luôn động viên em: “Em đừng lo, đã có anh luôn luôn bên cạnh để lo cho em. Em hãy can đảm lên”.
Rồi khi em xấu đi, do những lo toan của cuộc sống, do vất vả trăm bề. Gương mặt của em đã không còn xinh xắn như thời còn xuân trẻ, do thời gian đã đục khoét những đường hẽm trên gương mặt em, thì anh đã không tàn nhẫn nói với em: “Sao mà mau già quá vậy?”. Nguợc lại anh vẫn động viên em: “Em đừng quá lo, tình của chúng ta vẫn tiếp tục đẹp cho tới mãi thiên thu”.
Anh ơi, những lời nói đó anh hùng lắm, những lời nói đó can đảm lắm, em biết và em đã ghi nhận một cách thật cảm phục, một cách thật trân trọng. Và giờ đây, em sẽ thưởng cho anh, thưởng người chồng yêu quí của em, thưởng cho người chồng thật tuyệt vời của em.
*****
Bạn thân mến, ngày tận thế, Chúa cũng sẽ thưởng chúng ta, nếu chúng ta nói được những lời lẽ tương tự như thế.
Chúa cũng sẽ thưởng chúng ta, nếu chúng ta làm được những việc làm tương tự như thế.
Và chỉ có thế thôi. Đơn sơ vô chừng. Cũng thường thôi.
Nhưng Chúa sẽ ghi nhận để thưởng, vì trong “cái thường đó”, Chúa đã thấy rõ cường độ tình yêu bên trong: Yêu Chúa, yêu chồng, yêu vợ, yêu con. Tuy sâu lắng, nhưng đã thể hiện ra bên ngoài, với một sức mạnh rất can đảm, rất anh dũng, giống như các thánh tử đạo xưa kia.
Bởi vì yêu nhiều, cho nên đã dám hy sinh nhiều. Mà đã hy sinh nhiều, nên đáng được Chúa thưởng nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết, vì yêu Chúa yêu người, mà luôn can đảm sống từng giây phút của cuộc sống, theo những gì Chúa đã sắp xếp an bài cho cuộc đời của con.
Xin Chúa giúp con luôn sống anh dũng, luôn sống can đảm trong mọi hoàn cảnh, để chúng con luôn xứng danh là người con của Chúa. Amen.
Mahatma Gandhi là một con người rất nổi tiếng ở Ấn Độ. Ông luôn tự hào là một con người không bao giờ nói dối.
Mà đúng như vậy.
Tuy ông là một nhà chính trị, nhưng không bao giờ ông nói dối, dù để thủ lợi cho mình hay cho phe nhóm của mình.
Dù khi phải đối mặt với phe đối lập thù nghịch, ông vẫn giữ được một khí tiết như thế.
- Một khi ông đã nói, là có, là đúng như vậy.
- Một khi ông đã hứa điều gì, thì coi như là chắc chắn sẽ được thực hiện.
- Một khi ông đã hẹn với ai, thì không hề lỗi hẹn bao giờ.
Không nói dối, là quyết tâm của Gandhi ngay từ hồi còn nhỏ.
Đã có lần chính ông Mahatma Gandhi kể lại câu chuyện về thời thơ ấu của mình như sau:
Một hôm, khi tan học về, vì mải mê vui chơi với bạn bè, cho nên tôi đã về nhà trễ hơn mọi ngày. Khi bị mẹ gặng hỏi, tôi cố tình nói dối, cố tình nói quanh cho xong chuyện.
Nào ngờ, với khối óc ngây ngô, non nước của tôi, làm sao có thể qua mặt mẹ tôi được. Thế là, tôi đành phải nhận: Tôi đã nói dối.
Câu chuyện tưởng là nhỏ, tưởng là thường thôi, tưởng như thế là đã xong, vì tôi đã nhận tội.
Thế nhưng, sau đó mẹ tôi quyết không ăn cơm. Năn nỉ cỡ nào, mẹ tôi cũng nhất quyết không ăn. Tôi xin lỗi cỡ nào, mẹ tôi mẹ tôi cũng nhất quyết không tha. Mãi cuối cùng, mẹ tôi mới lên tiếng:
Này con, mẹ không muốn sống nữa,
- bởi vì mẹ cảm thấy nhục nhã vô chừng,
- bởi vì mẹ đã sinh ra một đứa con nói dối.
Mẹ thà chết, còn hơn là để cho mọi người nhìn vào mặt mẹ, là đã có một đứa con nói dối.
Bởi nói dối,
- là chứng tỏ mình là một con người tầm thường,
- là một con người nhu nhược,
- là một con người nhát đảm,
- là một con người đê tiện,
- là một con người hèn hạ.
Sinh ra một đứa con như thế, quả là một nỗi nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa.
Lúc bấy giờ, tuy hãy còn quá nhỏ, nhưng tôi đã cảm thấy được phần nào cái nỗi bức xúc đau đớn, mà mẹ tôi đang phải chịu, vì tôi đã nói dối.
Tôi không biết phải làm gì, để cho mẹ tôi nguôi ngoai, để cho mẹ tôi bớt đi phần nào đau khổ.
Bỗng, một ý tưởng chợt hiện ra trong đầu óc của tôi, và tôi đã làm ngay.
Tôi vội lấy một cây gắp than, gắp một cục than hồng đang cháy đỏ ở trên bếp lò, bên cạnh chỗ mẹ con tôi đang đứng. Tôi đặt cục than đỏ lên lòng bàn tay của tôi, và tôi đã thề hứa với mẹ tôi rằng: Con thề hứa với mẹ: Là từ nay trở đi, không bao giờ con dám nói dối nữa.
Mẹ tôi vội vàng cầm lấy tay tôi, và hấp cục than ra khỏi lòng bàn tay của tôi.
Mẹ tôi xuýt xóa đau đớn, như là đang chịu cái nỗi đau đớn thay thế cho tôi.
Sau khi băng bó vết thương, mẹ tôi ôm tôi vào lòng, hôn lấy hôn để, và đã tỏ ra rất vui mừng phấn khởi.
Mẹ tôi nói: Bây giờ, thì mẹ mới có can đảm để mà sống với con.
Kể từ đó trở đi, Gandhi không bao giờ dám thất hứa với mẹ về lời hứa này.
Ông thường nói:
Mỗi khi tôi nhìn thấy cái vết sẹo trên lòng bàn tay của tôi, tôi lại nhớ tới những đau khổ, mà mẹ tôi phải chịu, khi tôi nói dối, nên tôi quyết sống chân thật, sống ngay thẳng, sống lương thiện, trọng danh dự, và không bao giờ dám nói dối.
*****
Bạn thân mến, tốt thì khoe, xấu thì che. Đó là điều tự nhiên, là điều rất thường tình trong cuộc sống. Ai cũng thế thôi. Thời nào cũng vậy thôi.
Còn trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói: Những người sống chân thật sẽ không sợ ánh sáng. Chỉ có những kẻ xấu xa và gian ác mới sợ ánh sáng mà thôi. Bởi ánh sáng sẽ phơi bày ra tất cả những cái xấu xa, và những điều gian ác của họ đã làm trong bóng tối.
Người sống chân thật, thì không có gì để phải sợ. Chỉ có người sống gian dối, sống lừa đảo, sống thủ đoạn, mới sợ, mới lo tìm đủ mọi cách, để che giấu những sự xấu xa, những sự dối trá quỷ quyệt của họ.
Điều mà những người nói dối không hề nghĩ tới, đó là mỗi khi nói dối, là cái dũng khí nơi họ sẽ bị giảm đi.
Càng nói dối nhiều, thì họ
- càng trở thành những con người nhu nhược,
- càng trở nên những con người hèn hạ,
- càng trở nên những con người tầm thường,
- càng đáng cho mọi người khinh khi, coi thường, ruồng bỏ, loại trừ ra khỏi xã hội.
Những người quen nói dối sẽ làm cho họ trở nên khiếp nhược. Lúc nào họ cũng sợ. Sợ tất cả mọi người.
Sợ kẻ thù đã đành, mà có khi sợ cả những bạn bè, và những người thân nữa.
Tất nhiên, là họ sợ cả Thiên Chúa.
Mà nói thiệt, lừa dối ai thì còn được, chứ lừa dối Thiên Chúa thì làm sao lừa dối được. Bởi Thiên Chúa là đấng thấu suốt mọi sự, kể cả những ý tưởng, tâm tư thầm kín nhất trong lòng ta, Chúa cũng đều thấu rõ.
Những người quen sống trong sự dối trá, là những người đa nghi, khổ sở. Họ luôn nơm nớp lo sợ. Sợ những gian dối của họ bị mọi người biết đến.
Họ sẽ là những người khốn khổ nhất trên đời, bởi mọi người chung quanh nghi ngờ họ, và họ cũng nghi ngờ tất cả mọi người.
Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật, và là sự sống của con. Xin hướng dẫn từng bước con đi, để con luôn biết xa tránh những gì là gian dối, những gì là không thật trong cuộc sống của con, để con có thể lúc nào cũng đứng thẳng người lên, hãnh diện và tự hào, vì con là con của Chúa. Amen.
Phi trường quốc tế Pensylvania, là một trong những phi trường lớn nhất, hiện đại nhất, và đầy đủ tiện nghi nhất, trong những phi trường của Hoa Kỳ.
Cách phi trường vài giây đồng hồ bay, là một ngôi nhà thờ lớn, nằm ở cuối, một trong những phi đạo nhộn nhịp nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho máy bay mỗi lần hạ cánh xuống phi đạo, giáo dân ở đây đã tự ý đặt lên trên tháp chuông một bóng đèn néon lớn, uốn khúc theo hình Thánh giá.
Từ đó, trong những lúc đêm khuya, hay khi gặp phải sương mù dày đặc, các phi công đều nhắm vào Thánh giá, như là tiêu chuẩn để hạ cánh xuống phi đạo, bảo đảm nhất, an toàn nhất.
*****
Bạn thân mến, nơi nào có người Kitô, là nơi đó có Thánh giá.
Thánh giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, của hy vọng, và của sự sống.
Bởi người Kitô hữu vẫn luôn hát:
“Vinh dự của chúng ta là Thánh giá của Đức Kitô”.
*****
Ngày xưa, những người Do Thái đã ngắm nhìn con rắn đồng trong sa-mạc, để được cứu thoát khỏi nọc độc do rắn cắn, thì ngày nay, nếu muốn được cứu độ, chúng ta cũng phải biết ngắm nhìn lên Thánh giá Chúa.
Thánh giá Chúa, là bản án tố cáo tội ác của tất cả nhân loại.
Nhưng Thánh giá Chúa, cũng là dấu chỉ của tình yêu bao la vô bờ bến của Thiên Chúa, dành cho con người.
Qua cái chết, Chúa Giêsu đã chiến thắng kẻ thù khủng khiếp nhất của nhân loại, đó là hận thù, đó là ghen ghét.
Khi sắp trút hết giọt máu cuối cùng, Chúa Giêsu đã xin Thiên Chúa Cha tha cho các lý hình, những người đã từng hành hạ Người, hành hạ cho đến chết, chết một cách nhục nhã đau thương trên Thánh Giá, thì người tín hữu Kitô, được gọi là những môn đệ chân chính của Chúa, cũng phải bắt chước Chúa, mà sống quảng đại và tha thứ, không bao giờ được phép chất chứa trong lòng mình sự hận thù ghen ghét, bởi đã mang trên mình danh hiệu của Đấng đã rao giảng sứ điệp lòng tha thứ.
Lạy Chúa, xin nhắc nhở cho con, luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa,
- mỗi khi con gặp gian nan thử thách,
- mỗi khi con gặp phải những chán chường thất vọng,
- mỗi khi con bị lạc lõng giữa dòng đời,
- mỗi khi con mất phương hướng, do những vất vã bôn ba lo toan cho cuộc sống.
Bởi Thánh giá Chúa chính là ngọn hải đăng định hướng cho cuộc đời con, giúp con tìm lại mục đích và ý nghĩa của cuộc sống.
Chính Thánh giá Chúa sẽ là sức mạnh, sẽ là niềm cậy trông của cuộc đời con.
Xin cho con luôn là chứng tá cùa tình yêu nhân hậu của Chúa nơi môi trường con sống.
Xin cho con luôn biết sống khoan dung, tha thứ một cách quảng đại, vì Chúa mà con chấp nhập những buồn lòng trái ý, do kẻ này người nọ gây nên, nhất là những người đó lại là những người thân tín, những người gần gũi, những người mà con thương mến, lại vô tình hay cố ý đã gây nên cho con.
Xin cho con luôn sống mạnh mẽ con đảm, như Chúa đã làm gương cho con trên Thánh Giá. Amen.
Robert Bruce, vua xứ Tô-Cách-Lan, sau nhiều lần liên tiếp thất trận, quân đội tổn thất nặng nề, uy tín bị sút giảm thê thảm, nhà vua đã tỏ ra chán chường, thất vọng, bi quan..
Ông bèn rút quân, lui vào trong một cái hang động, để quân đội được nghỉ ngơi, và cũng để lẫn trốn quân thù đang truy lùng.
Khi kiểm quân lại, ông thấy binh lính hao mất quá nhiều: Kẻ thì chết, người thì bị thương, nhiều người khác đào nhiệm mong thoát thân.
Trước tình hình đó, ông cảm thấy quá mệt mỏi chán chường. Ông trong tình trạng lúng túng không biết phải làm gì. Có lúc ông như quẫn trí, vì đang trong tình trạng quá bi đát. Ông muốn tháo lui bỏ cuộc. Bởi kẻ thù thì quá mạnh, quá đông, mà ông thì trong hoàn cảnh như bế tắc.
Các tướng lãnh đã đến bên cạnh để động viên ông. Bởi họ đã biết: Chiến đấu thì cũng chết. Mà không chiến đấu thì cũng chết. Thà là chiến đấu cho can đảm, cho anh dũng thì vẫn hơn.
Rồi, khi nhìn đất nước đang bị dày xéo bởi những kẻ thù xâm lược, nhân dân đang than khổ, thì ai là người yêu nước thương nòi, mà lại có thể ngồi yên được chăng?
Thế nhưng, phần nhà vua, Người vẫn án binh bất động, chưa thấy có quyết định gì, chưa thấy có gì sáng sủa hơn.
Chính lúc vô cùng tuyệt vọng dó, thì nhà vua tình cờ thấy một con nhện đang giăng tơ giữa 2 tảng đá. Nó cột một đầu tơ vào tảng đá bên này, rồi quăng mình qua tảng đá bên kia. Nhưng lần nào cũng thất bại, vì không lao mình tới đích được.
Ông thích thú ngồi lâu giờ để xem con nhện.
Con nhện cứ làm đi làm lại không biết bao nhiêu lần, lần nào cũng thất bại. Nhưng nó vẫn không chịu bỏ cuộc.
Trông thấy thế, nhà vua tự nhủ: Con nhện này kiên nhẫn thật, can đảm thật. Nó mà giăng được sợi tơ này qua khối đá bên kia, thì ta, ta cũng phải tiếp tục đem quân ra giao chiến mà thôi, để bảo vệ đất nước của ta.
Thế rồi sau cùng, con nhện nhỏ bé đó đã thành công. Nó đã lao mình tới được tảng đá bên kia, và bình tĩnh cột đầu tơ vào đó. Và con nhện sau đó, đã xây tổ cho nó thật dễ dàng.
*****
Nhà vua liền đứng bật dậy và la lên:
Ôi con nhện bé nhỏ kia ơi, ta cám ơn ngươi, vì ngươi đã dạy cho ta được một bài học thật quí báu. Ta nhất định sẽ không bỏ cuộc. Ta sẽ tiếp tục lên đường, để giải phóng xứ Tô-Cách-Lan của ta.
Với quyết tâm mãnh liệt đó, nhà vua đã kéo quân ra trận, đã giao chiến và đã thành công. Nhà Vua đã thắng trận thật vẻ vang, đã cứu lấy tổ quốc Tô-Cách-Lan khỏi quân thù xâm lược.
*****
Bạn thân mến, trong cuộc sống hằng ngày, những người thiếu kiên nhẫn, thường chẳng làm được gì.
Những việc làm của họ kết thúc cũng chẳng đi tới đâu, bởi
- Họ thường hay bỏ dở nửa chừng.
- Họ thường đứng núi này trông núi nọ.
- Họ thường không biết tính xa.
- Họ cũng chẳng nghĩ rộng.
- Họ không chịu cân nhắc đắn đo hơn thiệt cho công việc họ đang làm.
- Họ rất khác với những người kiên tâm bền chí, luôn nhắm thẳng cái đích đã suy nghĩ chín chắn, để tiến tới cho đến cùng.
*****
Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc Nườc Trời cũng vậy.
Nước Trời chắc chắn không phải là thứ dễ chiếm hữu, hay có thể chinh phục được trong một khoảnh khắc.
Để chiếm đoạt được Nước Trời, phải là cả một công phu, là cả một nghệ thuật. Nó đòi hỏi ta phải biết vận dụng tài năng. Nó đòi hỏi ta phải chấp nhận mất nhiều thời gian, mất nhiều công sức, và nhất là nó đòi hỏi ta, phải có rất nhiều kiên nhẫn lắm.
Trong cuộc sống thường nhật, ai trong chúng ta cũng đều có ít nhiều kinh nghiệm này:
Đó là, dù đã có kế hoạch, dù đã có những dự tính chu đáo, nhưng thất bại nhiều khi vẫn không tránh khỏi, huống chi là trong lãnh vực tâm linh, trong lãnh vực đạo đức, đòi hỏi chúng ta cao hơn nhiều.
Nếu chúng ta không chịu cố gắng, nếu chúng ta không chịu đầu tư, nếu chúng ta không chịu bắt đầu đi bắt đầu lại, chắc chắn thành công sẽ không có trong tầm tay.
Ta cũng nên nhớ điều Chúa Giêsu đã cảnh báo các môn đệ mình trong vườn Giếtsêmani:
“Các con phải tỉnh thức luôn, bởi tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác thì lại yếu đuối nặng nề” (Mt 26,41b).
Có một điều ta cũng nên biết, là sự khiêm tốn, còn là điều kiện cần thiết để rèn luyện đức kiên nhẫn.
Nếu một người cứ luôn ngại ngùng, cái gì cũng ngại: Không dám quyết điều gì, không dám làm điều gì, không dám xông pha vào bất cứ điều gì, thì bao giờ mới có thể trưởng thành, thì bao giờ mới có thể thành công trong cuộc sống.
Chúng ta cũng phải cảnh giác coi chừng:
Sự tự ái, sự mắc cỡ, sự xấu hổ, sự tự ti mặc cảm, hay sự hay nghĩ ngợi ... cũng chính là một cách biểu hiện tính kiêu căng tự phụ, đang tiềm ẩn trong ta.
Coi chừng, chính nó sẽ là một trở ngại lớn, để ta rèn luyện đức khiêm tốn.
Bởi ta luôn luôn sợ kẻ này người nọ biết những khiếm khuyết của ta, nên lúc nào ta cũng án binh bất động, không làm gì hết, coi như là cách thế an toàn nhất, để che đậy những cái yếu kém nơi ta.
Mà nếu như thế, thì chúng ta sẽ rất có ít cơ may để thành đạt trong cuộc sống, trong lãnh vực đời, cũng như trong lãnh vực đạo.
Đang khi ở xã hội, người thường nói:
“Làm đi, rồi sẽ rút kinh nghiệm”.
Để có vàng tốt, thì vàng đó cần phải cho qua lửa để tôi luyện.
Người ta cũng thường nói:
“Học hành phải đi đôi với nhau”.
Học mà không có hành, thì kiến thức của những cái học đó chỉ là vô ích mà thôi.
Thánh Phanxicô, thường có thói quen bắt đầu một ngày mới, bằng việc nhắc nhở các tu sĩ của mình như sau:
“Chúng ta lại bắt đầu trở nên thánh!”.
Có nghĩa là việc nên thánh là một việc luôn phải được bắt đầu đi, bắt đầu lại mỗi ngày. Và không bao giờ cho phép tự mãn coi là đủ.
Đó là sự khiêm tốn nhận biết mình, để luyện tập thêm đức kiên nhẫn.
Chúng ta nên nhớ, điều đáng sợ không phải là sự thất bại, mà chính là sự mỏi mệt, là sự chán nản, là sự ngã lòng, là sự không còn muốn tiến bước thêm nữa.
Thật vậy, tội lỗi tuy đáng sợ, nhưng nó không hủy hoại cuộc sống của ta, bằng chính cái thái độ chịu trận, buông xuôi của ta, thái độ cố tình chấp nhận tiếp tục cứ ở lỳ trong tình trạng tội lỗi của mình, trong tình trạng nguội lạnh của mình.
Niềm hạnh phúc thật và chiến thắng sau cùng, sẽ tùy thuộc vào lòng kiên nhẫn của ta, như lời Chúa đã phán:
"Ai bền tâm đến cùng, sẽ được cứu rỗi".
Thánh Phaolô cũng khuyên nhủ các tín hữu của Ngài như sau:
"Hãy vui lên, bởi vì đã có niềm hy vọng. Hãy cứ kiên nhẫn lúc gặp gian nan, và hãy lo chuyên chăm cầu nguyện (Rm 12,12).
Chính Ngài cũng đã nêu gương cho chúng ta, trong việc kiên tâm bền chí, trong hành trình đức tin của Ngài.
Chính Ngài đã viết trong thư thứ 2 gởi cho giáo đoàn Corintô như sau:
“Tôi đã chiến đấu anh dũng, trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, và đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7) .
Lạy Chúa, xin chữa trị cái căn bệnh kiêu căng tự phụ và hiếu thắng sẵn có nơi con, căn bệnh muốn thành công ngay, mà không chịu hy sinh, không chịu cố gắng, không chịu phấn đấu cách kiên nhẫn.
Xin Chúa cũng tha tội cho con, cái tội hay nãn lòng, hay thất vọng, cũng tại vì con hay cậy sức riêng mình, mà không cậy dựa vào ơn Chúa.
Cũng bởi tại con thường hay quên lời Chúa đã dạy:
“Không có Thầy, chúng con sẽ chẳng làm được gì đâu”.
Lạy Chúa, xin giúp con biết phấn đấu nhiều hơn nữa trong cuộc sống. Amen.
Một ngày kia, thánh Vian-nê (Gioan Maria Vianney), trông thấy một người đàn bà, hớt hải, vội vàng chạy vào trong nhà thờ, mặt mày rất ủ dột, dáng dấp rất đau khổ, bà không giấu nỗi hai hàng nước mắt đang lăn trên má.
Cha tìm cách gặp bà, sau buổi bà cầu nguyện trong nhà thờ, để hy vọng có thể giúp bà được điều gì chăng.
Bà cho cha biết:
Chồng con vừa mới xuống hoả ngục.
Cha ngạc nhiên hỏi: Sao con biết ?
Bà cố lấy hết bình tĩnh trả lời:
Cha tính coi: Làm sao không xuống hoả ngục được, bởi chồng con suốt ngày say xỉn, mà ngày nào cũng vậy, quanh năm suốt tháng cũng đều như thế.
Còn chuyện vợ con, chuyện gia đình, thì ôi thôi, không bao giờ quan tâm để ý, ai ra sao thì mặc ai.
Còn nói đến chuyện đạo hạnh, chuyện kinh lễ, thì phải công nhân là khô khan nguội lạnh vô chừng.
Còn chuyện tham gia những sinh hoạt đoàn thể, tham gia các công tác từ thiện, xã hội, bác ái, thì coi như không có bao giờ.
Thưa Cha, cuộc đời của chồng con, càng nói ra càng thê thảm.
Con đã từng khuyên. Con đã từng góp ý, nhưng không có kết quả gì. Con đành phải chịu vậy thôi. Phải chấp nhận hy sinh, chịu dựng cái cảnh này cho đến ngày hôm nay, chỉ vì bí tích Hôn Phối, chỉ vì bổn phận là vợ, chỉ vì thương yêu con cái.
Cha biết không: Mới trưa hôm nay, trên con đường về nhà, chồng con đang trong tình trạng say xỉn, mà một mình đi ngang qua cái cầu, rồi rơi xuống sông và đã chết ngay, không kịp trăn trối. Và tất nhiên là không kịp ăn năn tội, cũng chẳng kịp lãnh nhận các bí tích sau cùng.
Con sợ quá cha ơi. Con lo lắng quá cha ơi. Con vội chạy đến nhà thờ để cầu nguyện và cũng để báo tin cha hay.
Cha Vianê, như được Chúa Thánh Thần soi sáng, nên đã lên tiếng an ủi bà ta như sau:
- Chồng con không mất linh hồn đâu. Chồng con đã được lên Thiên Đàng rồi.
Quá ngạc nhiên, bà ta hỏi lại: Sao cha biết ?
Cha Vianê cắt nghĩa:
- Con có biết không, đây chính là do ơn riêng mà Đức Mẹ Maria dành cho chồng con.
Bởi con đâu có biết: Chồng con, tuy có bê trễ việc đạo, rất ít khi đến nhà thờ, rất ít khi thấy xưng tội rước lễ, nhưng ông ta rất có lòng sùng kính Đức Mẹ.
Cha còn nhớ, nhiều buổi trưa Cha ngồi đọc kinh ở nhà thờ đây, Cha đã từng thấy rất nhiều lần, chồng con, mỗi khi đi ngang qua Đài Đức Mẹ, đã dừng chân lại để lâm râm nguyện đôi ba kinh. Có khi còn đặt một bó hoa tươi dưới chân Đức Mẹ. Đó cũng chỉ là những loại hoa thường thôi, chỉ là những loại hoa dại thôi, những loại hoa, có lẽ anh ta đã hái được ở ngoài đồng, trên con đường anh đi về nhà.
Cha thấy: Những lần anh ta quỳ gối, lâm râm đọc kinh trước tượng Đức Mẹ, trông anh ta sốt sắng lạ thường.
Cho nên, vì anh ta đã có lòng sùng kính mến Đức Mẹ một cách đặc biệt, thì Đức Mẹ chắc chắn sẽ không bỏ anh ta trong giờ sau hết.
Bởi cha nghĩ: Lúc anh ta bị rơi xuống sông, khi thân xác vừa chạm nước, anh ta có tỉnh lại vài giây, anh ta có đủ thời gian để ăn năn tội cách trọn.
*****
Lạy Mẹ Maria, giữa một thế giới khô cằn tình người, xin Mẹ hãy làm tươi nở trong con những cánh hoa yêu thương, những cánh hoa tha thứ, những cánh hoa thắm đượm tình người.
Giữa một thế giới hưởng thụ, đầy dẫy những tiện nghi vật chất, xin Mẹ đừng để con vì thế, mà lòng đạo trở nên khô khan nguội lạnh, sao lãng những bổn phận đạo đức:
- Bổn phận hằng ngày: Đọc kinh sáng, kinh tối.
- Bổn phận hằng tuần: Đi lễ ngày Chúa Nhật.
- Bổn phận hằng tháng: Lo xét mình xưng tội, để rước lễ thật sốt sắng.
Rồi, giữa một xã hội tất bật, bôn ba lo toan cho cuộc sống, đến không còn thời gian, xin Mẹ đừng để con vì thế, mà lại quên Chúa, hay là cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc sống, cố tình loại trừ Chúa ra khỏi cuộc đời của con.
Xin Mẹ hãy nhem nhúm trong con những cành hoa tươi, tuy dầu chỉ là những loại hoa dại thôi, những loại hoa tầm thường thôi, những loại hoa nhỏ bé thôi, nhưng trong những loại hoa đó, chứng tỏ được lòng con nhiệt tình yêu mến Chúa và yêu mến Đức Mẹ.
Dù hoàn cảnh sống có vất vả, dù xã hội có bon chen, mất hết tình người, thì xin Mẹ cũng hãy giúp con đừng quên xây dựng tình Chúa, và phục vụ giúp đỡ những anh chị em sống bên cạnh con.
Lạy Mẹ Maria, giữa một thế giới đang bị khô cằn đi về niềm tin và hi vọng, xin Mẹ giúp con cố gắng phấn đấu hết sức của mình, hết khả năng của mình, để làm tươi nở trong con, và trong những anh chị em sống bên cạnh con, cũng được tươi nở những cánh hoa của niềm hy vọng, của tin yêu, của cậy trông, và của phó thác vào Chúa.
Bạn có bao giờ để ý đến Ba Cái Nhất của mẹ chúng ta không ?
Ba Cái Nhất đó là:
1. Mẹ là người gần gũi nhất với con.
2. Mẹ vất vả và khó nhọc nhất vì con.
3. Và Mẹ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất vì con.
Bạn cứ thinh lặng, ngồi lắng đọng, và suy nghĩ đôi chút, thì sẽ thấy:
1. Mẹ là người gần gũi nhất với con, là bởi vì mẹ đã cưu mang con chín tháng mười ngày trong dạ của mẹ, với biết bao nhiêu là lo âu, vất vả, nặng nề, khó nhọc, đớn đau... cho nên mới có câu thơ:
Mẹ hiền mang nặng đẻ đau, Chỉ mong con lớn, con mau nên người.
2. Mẹ là người vất vả khó nhọc nhất vì con, là bởi vì, sau khi con mở mắt chào đời, mẹ đã phải thức khuya dậy sớm, lo cho con từng miếng ăn, từng giấc ngủ, thao thức trắng đêm, khi con đau ốm...
Cả cuộc đời của mẹ chỉ biết hy sinh cho con và vì con mà thôi !
Vì thế cho nên, nhạc sĩ Y Vân mới có thể sáng tác thành một bài ca bất hủ: “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình”, để nhắc nhở cho những người con, về tình yêu vĩ đại bao la và rất cao thượng của mẹ:
Hát: “Thương con thao thức bao đêm trường, Con đã yên giấc mẹ hiền vui sướng biết bao, Thương con khuya sớm bao tháng ngày, Lặn lội gieo neo nuôi con tới ngày lớn khôn.
Dù cho mưa gió không quản thân gầy mẹ hiền, Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền, Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm. Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên”
Chưa hết, mẹ vẫn còn tiếp tục lo cho con, và vẫn dõi theo con, khi con đến tuổi trưởng thành, khi con đã yên bề gia thất, và cả sau khi dựng vợ gả chồng cho con, và thậm chí, ngay cả khi con đã trở thành Linh Mục Tu Sĩ, mẹ cũng vẫn giành cho mình cái độc quyền lo lắng đó.
Mẹ lo cho đến khi nhắm mắt lìa đời mới hết lo:
Nuôi con lệ nhỏ hai hàng, Nuôi con càng lớn mẹ càng thêm lo, Mẹ thân gầy guộc ốm o, Cả đời chắt bóp dành cho con mình.
Suốt đời chỉ biết hy sinh, Không than, không trách, lặng thinh, hay cười, Khi con khoẻ, mẹ vui cười, Con đau thì mẹ tơi bời ruột gan.
Sanh con đã khổ muôn vàn, Nuôi con mẹ khổ gấp ngàn lần sanh, Lo cho đến tuổi trưởng thành, Yên bề gia thất, hay thành Sơ, Cha.
Mẹ già vẫn cứ... tà tà, Lo cho đến lúc... Chúa Cha gọi về ! ( mới hết lo ! ).
3. Mẹ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất vì con, là vì khi con thành công, khi con thành tài, thì chẳng thấy ai nói gì đến mẹ.
Nhưng khi con hư hỏng, hay phạm những lỗi lầm này khác, thì người ta chẳng ngần ngại đổ lỗi ngay cho mẹ, tại mẹ, và bởi vì mẹ.
Cho nên mới có câu người ta thường nói: “Con dại cái mang”. Hoặc là “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà...”
Mẹ cũng còn phải chịu nhiều thiệt thòi, và chịu nhiều đối xử bất công khác nữa.
Chẳng hạn, khi những đứa con chửi tục, chửi thề... mỗi khi chúng phun ra những tiếng “ĐM”, những tiếng “Đan Mạch”... chúng lại đưa Mẹ vào trong những câu chửi thô tục của chúng.
Bạn thấy có bất công không?
Bất công và phi lý quá sức đi chứ!
Chưa hết ! Mẹ còn phải ngậm đắng nuốt cay, âm thầm chịu đựng những lời nói xấc láo, những thái độ hỗn hào, những cử chỉ hất hủi và khinh dể của con trai, của con gái, của con dâu, của cả con rể nữa !
Đau khổ chồng chất khổ đau, đắng cay lại thêm cay đắng, cứ thế liên tiếp xảy ra trong cuộc đời của mẹ, chẳng bao giờ nào ngừng!
Ông bà ta thường nói:
“Sóng trước đổ đâu,
thì sóng sau đổ đấy!”
Và Chúa Giêsu cũng đã khẳng định:
“Anh em đong bằng đấu nào,
thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6, 38 ).
Vì thế cho nên, tôi và bạn phải cẩn thận, phải coi chừng, đừng bao giờ nói những lời nặng nề, vô lễ, hỗn láo, to tiếng, hay là có những thái độ và cử chỉ, làm cho sự đau khổ và gian nan vất vả của mẹ, vốn đã có quá nhiều, ngày ngày lại càng phải chồng chất thêm nữa !
Tội bất hiếu với mẹ cha là một tội nặng lắm, bạn đã biết không?
Tội nặng, là bởi vì “hiếu thảo với mẹ cha” chính là một mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Đây cũng không phải chỉ là một thói quen truyền thống. Đây cũng không phải chỉ là một tập quán tốt đẹp thôi đâu !
Bạn không tin hả ?
Thử mở Kinh Thánh ra mà xem, thì sẽ thấy ngay:
“Kẻ làm con, hãy tôn kính cha mẹ của mình. Đó là điều răn thứ nhất, có kèm theo lời hứa: Để ngươi được sống hạnh phúc và được hưởng thọ trên mặt đất này" (Ep 6, 2–3 ).
Vì việc ăn ở hiếu thảo với cha mẹ là một mệnh lệnh, là một giới răn, cho nên, khi tôi và bạn thi hành giới răn này, là chúng ta đang làm đẹp lòng Thiên Chúa ( Cl 3, 20, 1 Tm 5, 4 ),
Và chắc chắn: Bạn và tôi, sẽ được Thiên Chúa chúc phúc ( Hc 8, 3 ).
*****
Bạn thân mến, nếu hôm nay, bạn nhận thức được rằng: Mẹ của bạn là người gần gũi nhất với bạn, long đong vất vả khó nhọc nhất, và là người chịu nhiều thiệt thòi nhất chỉ vì bạn, thì tôi xin bạn, hãy bắt đầu ngay từ hôm nay:
Hãy làm một cái gì đó cho mẹ của bạn được hạnh phúc, được vui vẻ, được hài lòng, có thể bắt đầu ngay chính giây phút này.
Thử làm một lần xem sao. Hãy thưa với mẹ:
“Con xin cám ơn mẹ, vì công ơn dưỡng dục, vì những hy sinh, vì những sự ân cần, vì những sự tận tụy, và vì tình yêu thương vô bờ bến, mà mẹ đã, đang và sẽ tiếp tục dành cho con”.
Nếu còn đang ở chung với mẹ, bạn hãy nhớ dành ra mỗi tháng, ít là một phần tiền lương của bạn, để giúp mẹ trang trải những chi phí trong nhà, như tiền nhà, tiền gạo, tiền chợ, tiền xe, tiền điện, tiền nước, tiền bếp gas, tiền điện thoại...
Đừng để mẹ phải cong lưng, làm tối mặt tối mày nữa !
Và bạn nên nhớ, hãy chịu khó thường xuyên đưa mẹ đến nhà thờ dự lễ, hay là tham gia các sinh hoạt hội đoàn trong Giáo Xứ, vì đây là những việc, làm cho mẹ rất vui và cũng rất cần thiết trong tuổi già !
Nếu không còn ở chung một nhà với mẹ nữa, thì bạn hãy chịu khó thường xuyên về thăm mẹ, hoặc thường xuyên gọi điện thoại hỏi thăm mẹ, hoặc thỉnh thoảng, nhớ gửi tặng quà cáp cho mẹ trong những dịp lễ quan thầy, hoặc trong những dịp lễ tết, hoặc những ngày kỷ niệm của gia đình...
Đừng quá keo kiệt, đừng quá tính toán hơn thiệt với mẹ, kẻo khi Mẹ mất rồi, ta không còn có cơ hội nữa đâu !
Nếu mẹ của bạn không may, đang phải chịu cảnh đau lâu ốm dài, nằm liệt giường liệt chiếu, hoặc có cái tính hay quên, hoặc lẩm cẩm, lẩn thẩn một cách nào đó... thì xin bạn, cũng hãy kiên nhẫn và ân cần hơn nữa, trong việc chăm sóc cho mẹ, bởi vì làm như vậy, là bạn đang chu toàn mệnh lệnh của Chúa: “Ngươi phải thảo kính cha mẹ của ngươi !”
Bạn hãy bắt đầu tỏ ra là một người con hiếu thảo ngay đi, kẻo một ngày nào đó, bạn sẽ phải khóc ròng, và hối hận, thì đã quá muộn:
Mẹ đi rồi, tâm hồn con tan nát Một trời buồn đổ lệ... tiễn mẹ đi Đã muộn rồi... Tang lễ lớn ích gì ? Nhìn mộ mẹ... con ngậm ngùi đau khổ.
Còn nếu trong trường hợp mẹ đã qua đời rồi, thì bạn hãy siêng năng xin lễ, siêng năng đi tham dự Thánh Lễ và rước lễ, siêng năng lần chuỗi, nhớ ăn chay, hy sinh, hãm mình, và làm nhiều việc từ thiện bác ái, với ý chỉ cầu nguyện cho mẹ, càng nhiều càng tốt.
Đây là những món quà đẹp nhất và quý nhất, mà bạn có thể gửi cho mẹ. Chắc chắn sẽ rất đẹp lòng Thiên Chúa, và sẽ rất hữu ích cho mẹ!
Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng quá vô tình trước những hy sinh cao cả của mẹ cha, nhưng biết quan tâm lo lắng chăm sóc cho các ngài nhiều hơn nữa, về phần xác, cũng như phần hồn, đời này cũng như đời sau, như Chúa đã dạy chúng con. Amen.
Mùa chay năm nay, cha xứ có mời một cha dòng về mở Tuần Đại Phúc cho giáo dân. Nhà thờ hôm đó chật ních giáo dân.
Mọi người im lặng hướng mắt về cha giảng. Bài giảng được bắt đầu bằng một câu chuyện như sau:
Có một bà mẹ đau nặng, hấp hối, gần chết. Tất cả các con cái đều tề tựu về đông đủ quanh giường bệnh. Chỉ còn thiếu có một người con trai út, vì anh ta đang bị giam ở trong tù.
Đây là đứa con nông nổi, có nhiều tật xấu. Một đứa con đã nhận được nhiều tình thương nhất, nhưng cũng là đứa con đã gây cho bà mẹ nhiều buồn phiền nhất. Bà đã tốn không biết bao nhiêu nước mắt vì đứa con này.
Khi cảm thấy giờ sau hết của mình đã gần kề, bà tha thiết ao ước, mong muốn thấy mặt đứa con út lần cuối.
Mọi người đều cố gắng, tranh thủ bằng mọi cách, để thực hiện cho được sự mong muốn của bà.
Cuối cùng, vì nhân đạo, nhà tù đã cho phép đặc biệt, để cho người con được về thăm mẹ, theo yêu cầu của bà, trong những giây phút cuối đời.
Khi giấy phép được ký, thì bốn người lính hộ tống đứa con út, 2 tay vẫn bị còng, đưa về nhà, để cho bà mẹ được gặp mặt lần cuối.
Khi đứng kề bên giường người mẹ, người con út quá xúc động, không nói được một lời nào.
Mà chính người mẹ cũng đã quá yếu, nên cũng không thể thốt ra được một điều gì, dù chỉ thều thào một cái nhếch miệng cũng chẳng thể.
Tuy vậy, tâm trí của bà vẫn còn tĩnh táo. Bà mở to đôi mắt, chăm chú nhìn đứa con yêu dấu. Chỉ có thế.
Sau vài phút, bốn người lính lại tiếp tục đưa người con út trở về nhà tù.
Nhưng, phép lạ đã xảy ra sau đó.
Ánh mắt tròn xoe của người mẹ hiền, vừa tỏ nỗi sầu khổ, vừa biểu lộ tâm tình yêu thương trìu mến, đã có giá trị gấp ngàn lần, hơn những lời răn bảo, sửa dạy, trách mắng, trong lúc bình thường.
Trong nhà tù, một mình trong phòng giam chật hẹp, người ta thường thấy người con út này quỳ gối, khóc nức nở thâu đêm suốt sáng, tỏ dấu ăn năn hối lỗi, về những lỗi lầm của mình.
Anh cũng bắt đầu cầu nguyện. Anh đã tha thiết xin Chúa đoái thương, tha thứ cho anh những nông nổi của tuổi trẻ.
Anh bày tỏ với trưởng tại giam, là tha thiết xin gặp được linh mục Tuyên Úy, vị linh mục, mà những tháng qua, nếu bất chợt có gặp, anh cũng chẳng màng bận tâm.
Khi quỳ gối dưới chân linh mục, anh đã khiêm tốn xưng thú hết mọi lỗi lầm của anh, với tất cả lòng ăn năn, thống hối, chân thành.
Từ giây phút đó, cuộc đời của anh đã được ơn đổi mới hoàn toàn.
Ơn Chúa đang hoạt động mạnh mẽ nơi anh.
Mãn hạn tù, người con út nông nổi này, được trở về với gia đình, và đã trở lại trường học, học thật chăm, học thật ngoan.
Xong bậc trung học, anh xin vào chủng viện.
Sau bao năm tu luyện trong chủng viện, anh đã được thụ phong linh mục.
Và vị tân linh mục này đã tình nguyện xin Đức Giám mục cho phép đi truyền giáo, tại ở một vùng xa xôi, thật hẻo lánh bên Phi Châu, một nơi rất nghèo khổ, cuộc sống rất cơ cực... Và ngài rất thành công trong việc truyền giáo.
Câu chuyện kể đến đây, đã gây nhiều xúc động nơi các thính giả, và đã tạo nên nhiều thương cảm đối tân linh mục.
*****
Rồi cha giảng lại tiếp tục giảng:
Nhưng mà thưa quí ông bà anh chị em, đó là câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 90 năm rồi, mà ở mãi tận bên Phi Châu, và nay vị linh mục đó đã trở thanh người thiên cổ.
Còn câu chuyện thứ hai tôi sắp kể, là câu chuyện hôm nay, là câu chuyện của một vị linh mục vẫn đang sống ở giữa chúng ta: Đó là cha Mansour Labaky, người Liban.
Cha là cộng tác viên đắc lực của phong trào chuyên lo giúp đỡ các trẻ bụi đời, và các trẻ lề đường ở Paris, thủ đô nước Pháp.
Cha Mansour Labaky đã có lần kể cho tôi nghe về người mẹ của cha, một người mẹ rất hiếm thấy trong các bà mẹ, kể cả các bà cố, mẹ các linh mục.
Câu chuyện mà Cha Mansour Labaky kể về mẹ của mình như sau:
Năm đó tôi vừa học xong bậc tiểu học. Trong một đêm tối, sau khi cùng với mẹ đọc kinh tối chung với mọi người trong gia đình, tôi đã thỏ thẻ nói với mẹ, là tôi muốn đi tu làm linh mục. Mẹ tôi vui mừng lắm, khi nghe tôi nói lên ước muốn này. Mẹ tôi cảm động nói:
- Mẹ rất tán thành.
Và rồi cha tôi cũng bày tỏ niềm vui không kém.
Mẹ tôi đã ôm tôi vào lòng, và hôn tôi hồi lâu, với tất cả sự thân thương trìu mến.
Mẹ tôi thì thầm nói với tôi: Mẹ sẽ ủng hộ con hết mình, và quyết tâm sẽ đồng hành với con, cho đến khi con đạt được ước nguyện.
Sáng hôm sau, mẹ tôi thức dậy sớm, dẫn tôi đi lễ. Và sau thánh lễ, đã dẫn tôi sang nhà xứ để gặp cha xứ.
Sau khi biết được ước nguyện của tôi, cha xứ xoa đầu tôi, chúc lành cho tôi, và hứa sẽ ủng hộ tôi hết mình.
Kể từ đó, tôi có dịp gặp cha xứ nhiều hơn. Tôi được chọn vào hội giúp lễ.
Cuối cùng, nhờ sự hướng dẫn chỉ bảo của cha xứ, tôi đã được đưa vào chủng viện.
Sau mọt thời gian dài tu luyện, tôi được gọi lên chức linh mục.
Hay tin này, mẹ tôi đích thân đến chủng viện, chào thăm cha giám đốc, và cám ơn các cha giáo.
Mẹ tôi lại nói nhỏ với tôi:
Hay tin con được được Đức Giám Mục gọi con lên bàn thánh, mẹ tặng cho con món qua này.
Bà cẩn thận mở thùng giấy ra, trao cho tôi một cái keo thủy tinh khá lớn. Bà nói:
- Này con con, kể từ giây phút con được nhận vào chủng viện, hằng ngày, ngày nào cũng vậy, mẹ đã cố gắng làm thật nhiều hy sinh, hãm mình. Và đã gia tăng nhiều việc lành phúc đức, để dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho con, để xin Thiên Chúa gìn giữ, dìu dắt con, từng bước, trung thành theo ơn Chúa gọi.
Mỗi lần, mẹ làm một việc hy sinh, hay một việc đạo đức nào, mẹ ghi nhớ bằng việc bỏ vào keo thủy tinh này một hột lúa mì.
Bây giờ, tất cả những hạt lúa mì này mẹ đã giữ cẩn thận, rất kỷ. Nay, mẹ xin trao tặng lại cho con. Con hãy nhờ ai đó, những người chuyên môn làm bánh lễ, để họ xay ra thành bột, và đúc thành chiếc bánh lễ, để con thánh hiến trên bàn thờ, trong ngày con dâng lên Thiên Chúa Thánh Lễ đầu tay.
Đây là món quà ghi dấu tình mẹ thương con và đã cộng tác với con trong bao năm tháng qua.
Và con hãy an tâm, bao lâu Chúa cho mẹ còn sống, mẹ sẽ còn tiếp tục hợp tác với chức vụ linh mục của con, bằng những hy sinh nhiều hơn nữa, trong cuộc đời âm thầm, trong đời thường của mẹ.
*****
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban con một người mẹ thật quảng đại và thật cao cả. Con xin cám ơn Chúa.
Xin Chúa gìn giữ mẹ con lúc người còn sống.
Xin Chúa cũng dủ lòng xót thương, khi người đã qua đời.
Xin cho những đứa con còn mẹ hôm nay, luôn biết trân trọng, luôn biết yêu mến và gìn giữ, như là món quà thân thương cao quí nhất, một món quà vô giá, để đừng vì một lý do nào đó, mà rồi đánh mất đi cái ân huệ đó.
Xin cho những người con mất mẹ, biết tìm chỗ tựa nương an ủi, bên Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, và cũng là Mẹ của tất cả chúng con. Amen!
Nếu như mỗi người, đều có một ngôi sao chiếu mệnh, thì mẹ tôi khi sinh ra, đã có một ngôi sao thật xấu.
Số là bà ngoại tôi mất, thì mẹ tôi chỉ mới lên sáu.
Ông ngoại muốn mẹ tôi được chăm sóc chu đáo hơn, nên đã cưới vợ khác.
Do cuộc sống khó khăn, nên ông ngoại phải đi làm xa, mới có đủ cái ăn, cái mặc, cho mọi người trong gia đình.
Còn ở nhà, mẹ tôi phải làm việc quần quật như một “người ở đợ”.
Cứ như thế, ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, mẹ tôi lớn lên trong cảnh nhọc nhằn đòn roi thường xuyên.
Thời gian lặng lẽ trôi đi thật nặng nề. Và mẹ tôi đã trở thành một cô gái xinh xắn, nhưng ít nói, đôi mắt lúc nào cũng hằn sâu một nỗi buồn.
Chuyện gì phải đến, rồi cũng sẽ đến.
Công việc làm ăn của ông ngoại tôi bắt đầu sa sút, nên mẹ tôi phải ra ngoài, bươn chải để tự kiếm sống, và cũng để tránh những lời mắng nhiếc, sỉ vả, nặng nhẹ của “Bà dì”.
Sau đó, thì mẹ tôi lại phát hiện ra mình bị mắc “Phong-cùi”, mà lúc bấy giờ, mọi người đều khiếp sợ và xa lánh.
Người ta đưa mẹ tôi vào trại “Trại Phong Thanh Bình”.
Tại đây, mẹ tôi đã gặp ba tôi (cũng là một bệnh nhân của trại). Hai người đã yêu thương nhau tha thiết, chân thành, và rồi đã đi tới hôn nhân.
Cuộc đời của mẹ tôi đã bắt đầu mở sang một trang mới.
Mẹ tôi đã có một chỗ dựa thật chắc chắn, đó là hạnh phúc gia đình, đó là sự giúp đỡ đùm bọc, chở che của bà con cùng cảnh ngộ, của các ân nhân xa gần, của những sinh hoạt vui chơi của trại, tạo nên những thân tình, ấm ấp tình người, nên mẹ tôi cũng vơi đi phần nào những mặc cảm sẵn có.
Mẹ tôi có 3 người con, mỗi người con làm khổ mẹ một cách.
Nhưng lúc nào, mẹ tôi cũng khéo léo giải quyết, với tấm lòng bao dung, nhân hậu và không bao giờ than van kêu trách.
Bởi mẹ tôi vốn theo đạo Chúa. Không biết có phải nhờ niềm tin vào Chúa, hay là do những lời Giáo huấn của đạo, mà mẹ tôi đã có đức nhẫn nại, chịu đựng thật tuyệt vời, và thường giải quyết những khó khăn rất là êm xuôi nhẹ nhàng.
Anh Hai tôi, thì không được học hành đàng hoàng. Anh mơ ước thì quá nhiều, tham vọng quá lớn, để rồi, vì hoàn cảnh và thực tế cuộc sống không đáp ứng được, nên cuối cùng, sinh ra chán đời, bỏ bê tất cả, buông xuôi tất cả.
Trong nỗi chán chường thất vọng đó, anh tôi đã bị vướng vào cái con đường nghiện ngập, rượu chè, hút xách, ma túy.
Đời anh tưởng như đã “bỏ đi”.
Thế mà mẹ tôi, bất chấp tất cả, vẫn kiên trì, vẫn chịu đựng, vẫn khéo léo khuyên nhủ và động viên anh tôi.
Cuối cùng, “nàng tiên nâu” cũng phải chịu thua mẹ tôi, đã từ bỏ anh tôi, đã trả lại cuộc sống đời thường cho anh tôi.
Còn chị ba thì luôn gặp khó khăn trong chuyện làm dâu. Mỗi lần về đến nhà, thì cứ gục đầu vào vai mẹ mà khóc, mẹ tôi lại nhỏ nhẹ bảo ban cho chị, giúp chị tìm lại thăng bằng trong cuộc sống.
Còn tôi, khi sinh ra, thì sức khoẻ rất yếu, mạng sống tôi như luôn bị treo trên sợi chỉ mành. Do đó, mẹ tôi thương tôi, và cưng chiều tôi, hơn các anh chị. Mẹ tôi chăm sóc cho tôi từng ly, từng tí, từng chút một.
Chính vì thế, mà tôi ngày càng sinh ra ngang ngược hơn. Mỗi khi ở trường về, nếu có bạn bè nào tôi trêu chọc tôi điều gì đó, thường là chế giễu tôi là con của người cùi, là người mắc bệnh phong. Thế là hôm đó, vừa bước vào nhà, là tôi trút ngay tất cả các cơn giận, những sự bực tức, lên đầu mẹ tôi.
Tôi luôn tự hỏi bản thân và cũng trách cha mẹ tôi: Là tại sao, tôi lại phải sinh ra trong một gia đình, có cha có mẹ mắc bệnh phong?
Và tại sao, cả nhà tôi lại phải sống trong một tập thể, toàn là những người mắc bệnh phong?
Những mặc cảm, những xấu hổ, cứ luôn ám ảnh trong đầu tôi, có khi làm cho tôi mất ăn, mất ngủ, vì thường xuyên bị trêu chọc.
Mà vì những mặc cảm này, cho nên tôi ít dám có bạn bè, ít vui chơi sinh hoạt tập thể, và không bao giờ dám nói cho bạn bè biết, về bất cứ điều gì, liên quan đến ba mẹ tôi, hay về nơi tôi đang sống, để tránh những lời đàm tếu, trêu chọc, soi mói của bạn bè, để khỏi phải đau khổ thêm nữa.
Nhưng đó là những chuyện khi tôi còn nhỏ.
Còn bây giờ, tôi đã trưởng thành, tôi đã hiểu ra rằng: Nếu không có cha mẹ tôi thì sẽ không có tôi. Nếu không có “Trại Phong Thanh Bình” này, thì có lẽ tôi đã không được học hành, sẽ không được giáo huấn, và chắc chắn sẽ không có được hạnh phúc như ngày hôm nay.
Và tôi cũng đã bắt đầu thương mẹ tôi nhiều hơn, một người mẹ suốt đời sống âm thầm, lặng lẽ, hy sinh, chịu đựng tất cả vì con cái.
Nhưng, điều quan trọng nhất, mà tôi đã khám phá ra, đó là:
Con đường, mà tôi đang đi, không phải là lúc nào cũng bằng phẳng, cũng tràn đầy hoa hồng.
Tôi đã biết, nên tôi không còn sợ nữa, không còn những mặc cảm nữa, cho nên không bao giờ tôi chùn bước, trước bất cứ một khó khăn thử thách nào.
Bởi tôi đã học được bài học hy sinh, chịu đựng rất cao cả, rất quí giá nơi mẹ tôi. Bài học đã giúp mẹ tôi thành công. Bài học đã giúp anh chị em chúng tôi thành thân.
Hôm nay, tôi đã xác tín rằng: Nếu không chịu hy sinh nổi, nếu không chịu đựng nổi, nếu không khuất phục nổi chính bản thân, thì chắc chắn sẽ chẳng làm gì được điều gì lớn cho mình, cho xã hội, và sẽ trở nên những con người vô dụng thôi.
Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa, vì con đã được một người Cha người Mẹ, đã một đời hy sinh tận tụy, chịu đựng mọi thứ, thật vất vả, thật khổ cực vì con. Thường những chịu đựng đó rất là âm thầm, cho nên con nào có hay, con nào có biết, để thông cảm, để chia sẻ.
Bởi, con rất vô tình, có mấy khi quan tâm đủ, để thấy, để hiểu, để biết, để đừng làm khổ thêm cho cha mẹ nữa.
Cho nên, con đã làm cho những nổi khổ đau, nhục nhằn của cha mẹ, vốn đã có quá nhiều rồi, hằng ngày, lại phải cứ tiếp tục chịu đựng thêm nữa.
Xin Chúa tha thứ cho tính nhẹ dạ nông nổi, ít hiểu biết của con. Xin cho con biết thức tỉnh. Xin cho con biết phải làm gì, để bù đáp lại cho những lỗi lầm đã qua. Và xin Chúa trả công bội hậu cho cha mẹ của con. Amen.
Một cậu bé chạy đến bên bà mẹ đang chuẩn bị bữa ăn tối, cậu đưa cho bà một tờ giấy với hàng chữ cậu mới viết.
Sau khi lau tay, Bà mẹ cầm tờ giấy lên và đọc:
- Hôm nay con cắt cỏ thế cho mẹ: 5.000 đ
- Dọn dẹp phòng của con trong tuần thế cho mẹ: 3.000 đ
- Ra tiệm mua đồ giúp cho mẹ: 3.000 đ
- Đổ rác thế cho mẹ: 3.000 đ
- Dọn dẹp ngoài sân thế cho mẹ: 3.000 đ
- Rửa chén bát giúp cho mẹ: 3.000 đ
Tổng cộng: 20.000 đ
Bà mẹ liếc nhìn đứa con đứng bên cạnh. Bà lấy cây viết, lật tờ giấy ngược lại phía sau lưng, bà viết tiếp:
- Chín tháng mười ngày cưu mang trong bụng mẹ: Không tính tiền.
- Lúc con bệnh, mẹ lo lắng săn sóc cho con: Không tính tiền.
- Những đêm mẹ thức khuya, chăm sóc và cầu nguyện cho con: Không tính tiền.
- Những đồ chơi, quần áo, thức ăn, nước uống, mẹ lo cho con: Không tính tiền.
- Mẹ chỉ dạy và lo cho con học hành ở nhà trường: Không tính tiền.
- Và tình yêu của mẹ dành cho con: Không tính tiền.
Cậu bé đọc xong, nước mắt rơi trên má, cậu nhìn vào mắt mẹ và rồi ôm mẹ hồi lâu, mới lên tiếng nói:
"Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ. Con rất vô ơn. Con rất vô tình. Con rất bất hiếu. Mẹ thương con biển hồ lai láng. Con thương mẹ tính tháng tính ngày. Con xin lỗi mẹ. Con xin lỗi mẹ. Con thương mẹ vô chừng, mẹ ơi".
Bạn thân mến,
Đã bao lần chúng ta cư xử với mẹ chúng ta như một đứa con nít: Thật vô tình, thật vô ơn, thật bất hiếu, đã tạo nên mẹ biết bao buồn phiền, biết bao đau khổ, biết bao lo âu nghĩ ngợi, mất ăn, mất ngủ, có khi sinh ra biết bao bệnh tật, mà nào chúng ta có hay, mà nào chúng ta có biết.
Bởi, có bao giờ chúng ta quan tâm đến mẹ chúng ta đâu, để thấy, để hiểu, để cảm thông những gì đang làm rối bời ruột gan của mẹ, đã làm tan nát tâm hồn mẹ.
Lúc nào, chúng ta cũng cứ dững dưng, như một người khách lạ, như một người ngoài cuộc.
Lúc nào, chúng ta cũng cứ nghĩ: Mẹ là một người có bổn phận phải lo cho ta điều này điền nọ.
Lúc nào, chúng ta cũng tự cho mình có cái quyền đòi hỏi, nhưng không bao giờ chúng ta nghĩ: Mình có bổn phận phải làm cái gì đó cho mẹ.
Có khi chúng ta đóng vai một ông chánh án, để phê phán, để kết án mẹ, đủ điều, đủ cách.
Lúc nào, chúng ta cũng vẫn cứ cho mình là đúng, là phải, là có lý. Còn tất cả mọi sai trái, mọi lỗi lầm, thì chúng ta cứ thản nhiên trút lên đầu của mẹ.
Nếu chúng ta biết mở to đôi mắt ta ra đôi chút, nếu chúng ta chịu hồi tâm suy nghĩ đôi chút, chúng ta sẽ ngộ ra ngay, như một đứa bé vừa tỉnh sau cơn mê.
Không cần phải dẫn chứng nhiều đâu. Chỉ cái công đưa ta vào đời, để ta thành người, để từ không không ra có, để chúng ta được như ngày hôm nay, thì thử hỏi: Còn có công ơn nào lớn hơn ?
Rõ ràng: Công ơn sinh thành và dưỡng dục đó, có thể sánh ví được như trời cao, như biển rộng, bao la, mênh mông, không bến bờ.
*****
Bạn thân mến,
Hằng năm, cứ vào Chúa Nhật thứ hai, trong tháng 5 dương lịch, người ta thường kỷ niệm ngày Hiền Mẫu, ngày của mẹ, ngày nhớ ơn mẹ: Nhớ về ơn cưu mang, ơn sinh thành, ơn dưỡng dục, nhớ về tình yêu thương bao la, nhớ về sự hy sinh cao cả của các bà mẹ dành cho con cái của mình
Trong ngày Hiền Mẫu, chắc chắn đã có nhiều cuộc sum họp, vui chơi, ăn uống, trong gia đình, bên cạnh người mẹ thân yêu.
Chắc hẳn đã có những cú điện thoại của những người con xa nhà, gọi về cho mẹ, với những lời thăm hỏi thân thương trìu mến.
Chắc chắn đã có những cuộc thăm viếng, với những bông hoa tươi, được dâng tặng, với những gói quà xinh xắn, gởi đến cho mẹ, gói ghém những tâm tình tri ân cảm tạ, nói lên tình yêu thương đáp trả, và nói lên sự quan tâm chăm sóc của những người con hiếu thảo dành cho mẹ của mình.
*****
Trong số những người mẹ hạnh phúc đó, cũng còn có biết bao bà mẹ bất hạnh, bị bỏ quên trong cuộc đời.
Có biết bao bà mẹ đang sống những ngày cuối đời, trong cô đơn buồn tuổi, ở các viện dưỡng lão.
Có biết bao bà mẹ đang lê lết cuộc sống, trong thân xác bệnh hoạn, ở các cơ sở từ thiện.
Các bà mẹ này, sau một đời hy sinh cho con cái, vẫn còn tiếp tục hy sinh, trong tuổi già sức yếu cạn kiệt của mình.
Các bà mẹ này đã còn đang sống, nhưng dưới mắt của con cái, hình như họ đã chết rồi.
Trong nỗi cô đơn bất hạnh đó, họ thèm có một ai đó tới lui, thăm viếng, nhưng chẳng hề có.
Họ thèm có được một lời thăm hỏi thân thương trìu mến, nhưng chẳng có ai ban cho.
Họ thèm nghe một câu nói yêu thương, để làm ấm lòng trái tim tẻ lạnh, trong tuổi già, nhưng chẳng được:
Thương mẹ đi, con ơi, Lúc này đây, mẹ còn đang sống, Đừng đợi chờ, ngày mẹ khuất bóng ra đi, Khắc lời ngọt ngào, trên đá vô tri, Lời thật ngọt, nhưng đá thì lạnh lắm !!!
Nếu con đang nghĩ đến mẹ, có những lời dịu dàng đầm ấm, Nói đi con, đừng đợi khi mẹ ngủ yên, Giấc ngủ ngàn năm, cõi chết vô biên, Mẹ sẽ chẳng còn được nghe con nữa!
Và con ơi ! Chút tình yêu nhỏ bé, Cho mẹ đi, lúc mẹ còn ở thế, Này con ơi, dù một chút muộn màng, Đối với mẹ, ôi vô vàn trân trọng...
*****
Khi nói đến công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ trần thế, chúng ta cũng không thể không nhắc đến người mẹ trên trời: Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ của mỗi người chúng ta.
Ngày 13/5/2007 là kỷ niệm 90 năm, ngày Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên, với 3 trẻ chăn chiên tại ở Fatima, một làng quê, nhỏ bé, nghèo nàn, thuộc nước Bồ-Đào-Nha.
Mẹ đã nhắn nhủ, mời gọi mỗi người chúng ta:
- “Hãy cải thiện đời sống” và
- “Hãy siêng năng lần chuỗi thật nhiều”.
Rồi, lại một biến cố trùng hợp đã xảy ra, cũng vào ngày 13/5/1981, tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị mưu sát, bởi một tay súng chuyên nghiệp, có tên là Ali Agca. Ngày và giờ của cuộc mưu sát tại quảng trường thánh Phêrô, lại trùng hợp sít sao, với ngày và giờ Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Quả là sự trùng hợp bí ẩn, nhiệm mầu, thật lạ lùng.
Cuộc mưu sát đã được chuẩn bị rất chu đáo, bởi một tay súng chuyên nghiệp. Nhưng cuộc mưu sát đã không thành, đã không thể làm hại được Đức giáo hoàng.
Còn viên đạn đã đâm vào ngực của ngài, nhưng nằm cách quả tim chỉ vài centimét.
Khi suy nghĩ về biến cố này, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết lại mấy dòng nhật ký tâm sự như sau:
“Trong tất cả những gì đã xảy ra cho tôi vào ngày hôm ấy, tôi cảm nghiệm rõ ràng, có bàn tay che chở của Đức Mẹ Maria. Có sự ưu ái chăm sóc gìn giữ một cách đặc biệt của Hiền Mẫu trên trời.
Đức Mẹ đã minh chứng cho thấy rằng:
- Đức Mẹ có sức mạnh lớn hơn viên đạn có sức giết người.
- Đức Mẹ có sức mạnh lớn hơn những âm mưu đen tối của con người, và của ma quỉ.!”
Đó là những cảm nghiệm của đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi nói về cuộc mưu sát.
Còn tay súng giết giết người đó đã nghĩ gì?
Chắc hẳn là anh ta đã hiểu được rằng: Ngoài sức lực của con người, còn có một quyền lực khác trên cao, mạnh hơn, lớn hơn con người nhiều!!!
*****
Lạy Chúa, những năm tháng hạnh phúc nhất đời con, chính là những năm tháng con được nằm trong vòng tay yêu thương ấp ủ của mẹ.
Xin cho con luôn biết trân trọng, luôn biết gìn giữ, luôn biết chăm sóc ân huệ này.
Xin cho con luôn biết cám ơn Chúa vì con có mẹ: Mẹ trần thế và Mẹ trên trời. Amen
Câu chuyện, mà tôi sắp kể ra đây, chắc là bạn không tin đâu, và chắc bạn cũng chẳng có ngờ tới đâu. Mà nói thiệt, chính bản thân tôi, tôi cũng chẳng ngờ tới nữa.
Số là tôi đã chết cách đây đã được 25 năm rồi.
Ngày giờ tôi chết, tôi đã không ngờ. Mà cái cách chết của tôi, tôi cũng không ngờ là thê thảm đến mức như vậy:
Tôi đã chết vì một tai nạn giao thông.
Khi tôi chết, trông tôi thật thảm hại vô chừng.
Nhưng cái thê thảm nhất đáng nói ở đây, đó là lòng người ta đã quay mặt hẳn đối với tôi, ngay sau khi tôi chết.
*****
Như thói quen của mọi người, thì sau khi chết được 3 năm, tôi đã có đến tảo mộ lần thứ nhất.
Ngày đó, tôi thấy mộ của tôi không còn hoa thơm, không còn có ai đứng bên cạnh mộ tôi.
Mà nói thiệt, tôi đứng đó suốt một buổi chiều, trong hồi hộp đợi chờ, mà chẳng thấy có một bóng người đến viếng mộ tôi.
Mây trời thì cứ dần dần hạ thấp xuống, làm xám xịt cả một chân trời.
Cuối cùng, những tia nắng yếu ớt cũng đã tắt hẳn.
Dẫu vậy, tôi vẫn cứ tiếp tục đứng đó chờ đợi thật lâu rồi mới đi.
Tôi nhớ rất rõ: Nghĩa trang hôm ấy vắng lặng, im lìm, lạnh ngắt, không một ngọn gió.
Nhưng cũng phải thành thật công nhận rằng: Sau 3 năm tôi chết, thì vẫn còn có vài người nhớ đến tôi, xin lễ và cầu nguyện cho tôi.
Còn việc ra viếng mộ của tôi thì chẳng còn thấy một ai nữa.
Tôi thấy rõ điều đó, cho nên những năm kế tiếp, tôi đã không trở lại mộ tôi. Bởi nếu tôi có trở lại, thì năm nào rồi cũng sẽ như thế thôi.
Đợi cho đến hôm nay, 25 năm sau, tôi mới trở lại ngôi mộ của tôi một lần nữa, bởi tôi coi đây là một kỷ niệm đặc biệt của tôi, ngày Lễ Bạc của tôi.
Tôi trở lại, đứng bên cạnh mộ tôi, nơi mà tôi đã từng đứng trước đây, khi tôi đến tảo mộ lần thứ nhất cách đây 22 năm.
Nhìn vào bia mộ của tôi, tôi thấy tên của tôi vẫn còn. Tên của tôi, tuy đã được khắc ghi vào bia đá, nhưng rong rêu đã phủ đầy gần kín, làm cho hình ảnh và tên tuổi của tôi đã bị nhoè đi, lem luốc lổ chỗ.
Còn mộ đá của tôi thì cũng cùng chung một số phận:
Mộ tôi không còn sạch đẹp như ngày tôi mới chết.
Mộ tôi nay đã bị xuống cấp trầm trọng. Rong rêu đóng bám khắp nơi, làm cho mộ tôi giống như một khối đá xần xù, đen điểu, xám xịt, bẩn thỉu.
Nhìn quanh cái nghĩa trang bây giờ, tôi thấy đã thay đổi khá nhiều:
Ngày xưa, làm gì có cây cổ thụ bên cạnh mộ tôi.
Không biết người ta đã trồng nó tự bao giờ, mà bây giờ cái tàn của nó quá lớn, che kín cả một vùng trời, che kín cả mộ tôi.
Các loại giây leo thì cũng đua nhau bao phủ chằng chịt trên thân nó.
Còn cái mộ bên cạnh tôi xưa kia, nay đã không còn nữa, bởi người ta đã bốc nó đi đâu rồi. Thay vào đó là cái mộ mới, với một cái tên lạ hoắc.
Tôi thấy có điều này vẫn còn giống hệt như xưa, đó là nghĩa trang vẫn lạnh tanh, và yên tĩnh vô chừng. Vẫn tiếng dế kêu, vẫn tiếng ễnh ương rên rỉ nghe thật não nề.
Còn các côn trùng thì vẫn thi nhau ca hát về đêm, tiếng của chúng hoà vào nhau thành một bản nhạc bi ai, thật buồn thảm.
Tôi tiến lại gần mộ của tôi, và cố nhìn vào cái xác của tôi ở dưới lớp đất sâu, tôi thấy chiếc quan tài đã mục từ bao giờ.
Đất đã xập xuống, đè lên bộ xương của tôi. Đất thì ẩm ướt, sền sệt như bùn, quyện vào xương của tôi, trông thật nhơ nhớp kinh hồn.
Tôi phải chịu cảnh nhơ nhớp này quanh năm ngày tháng.
Còn hình hài của tôi thì nay trông thật chẳng ra gì.
Chính tôi cũng không còn có thể nhận ra tôi nữa.
Các sâu bọ thì thi nhau bám vào xương tôi, làm cho bộ xương của tôi không còn nhẵn nhụi như trước nữa.
Chiếc sọ đầu thì hình như còn nguyên vẹn hơn.
Hai hốc mắt sâu hoắc, trông rất to, trông thật đáng sợ.
So sánh với những chiếc sọ chung quanh, thì sọ nào cũng giống như sọ nào, không còn có thể phân biệt ai là ai nữa.
Khi còn trẻ, tôi đã tốn biết bao công sức, tiền bạc, thời gian, để lo chăm sóc cho mái tóc của tôi được óng ả, cho làn da của tôi được mịn màng, quyến rủ, hấp dẫn.
Thế mà bây giờ, tất cả đã chẳng còn gì. Rõ ràng, tôi đã làm những việc không công vô ích, đúng là công dã tràng: Cái sọ đầu của tôi, nay thì trọc lóc, da thịt của tôi thì đã làm mồi cho côn trùng. Nhìn vào tôi, sao tôi cảm thấy quá xa lạ đối với chính mình.
Đã thế, ngày tảo mộ lần thứ hai này, tạm gọi là ngày lễ bạc của tôi đi, tôi đã biết chắc là sẽ rất thê thảm. Chắc chắn là không có ai ra viếng mộ tôi đâu. Chắc chắn là chẳng có một bông hoa nào ở mộ tôi đâu. Một cây nhan chắc chắn cũng sẽ không có đâu.
Nhưng tôi vẫn cố tình trở lại mộ tôi, bởi đây là kỷ niệm 25 năm ngày chết của tôi, là kỷ niệm đặc biệt của riêng tôi.
Bất chợt tôi nghe có tiếng khóc, thì ra một đám tang mới. Người ta đang khiêng một người thân mới qua đời ra mộ để chôn: Có linh mục mặc áo lễ. Mọi người đang cầu kinh. Có ca đoàn hát rất rôm rả. Tôi thấy quanh mộ có rất nhiều hoa tươi, rất nhiều vòng cườm, đủ cỡ, đủ loại, những thứ, mà chỉ vài ngày nữa thôi, là người ta sẽ hốt cho vào hố rác.
Tôi nhớ lại: Sao mà giống tôi đến thế cách đây 25 năm.
Khi nhìn kỷ ngôi mộ bên cạnh, tôi mới nhận ra, là tên của một người đàn bà. Bà chỉ mới chết thôi. Áo quần còn mới lắm, còn đẹp lắm, có vẻ sang trọng lắm, nhưng bên trong, thân xác đã bị thối rửa rồi, dòi bọ thì lúc nhúc đông vô kể. Chúng chen chúc để rút rỉa da thịt của bà.
Tôi đi tìm những người trí thức, nhưng không thấy ai cả. Bởi sau khi chết, mọi khối óc đều đã tan rửa thành đất. Chỉ còn lại cái hộp sọ trống rỗng. Mà nhìn hộp sọ, thì ai cũng giống như ai.
Tôi cũng có đi tìm những người danh giá nổi tiếng. Nhưng cũng chẳng thấy có ai, bởi ai cũng giống như ai, chẳng có ai sang hơn ai, cũng chẳng có ai hèn hơn ai. Bởi tất cả cũng chỉ là những bộ xương đen đủi, bẩn thủi, tanh hôi, ghê tởm mà thôi.
Tôi cũng có đi tìm những người giàu có. Nhưng cũng không hề thấy có ai, bởi nhìn vào những bộ xương trần trụi, nằm giữa khối bùn đen nhớp nhúa, không một mãnh vãi che thân, thì làm gì biết ai là những con người quyền quí, cao sang, giàu có.
Còn vàng bạc, đá quí, hột xoàng, kim cương... nói chung là những đồ trang sức, nếu xưa kia đã có, thì họ cũng đã bị những người thân tuốt lột hết tất cả rồi, ngay khi họ vừa tắt thở. Bởi những của quí giá đó, những người thân muốn giữ lại cho họ. Người ta chỉ chôn xác chết mà thôi.
*****
Sau đó, tôi đã rời bỏ nghĩa trang, để đi rảo quanh những con đường, mà xưa kia tôi vẫn thường đi:
Nhà cửa hai bên đường trông đẹp hơn xưa, đường xá rộng rãi hơn xưa, xe cộ tấp nập hơn xưa. Nhưng trông ai cũng có vẻ tất bật, hối hả, vội vàng, trên gương mặt và trong ánh mắt, thấy phản phất nhiều lo âu, nhiều buồn sầu, nhiều khổ đau.
Trên đường đi, tôi thấy người ta thường hay chào hỏi nhau rất lịch sự, nhưng hình như họ không gặp được nhau. Bởi sau cái chào vội vàng, thì họ đã quên ngay, không còn nhớ là đã chào ai nữa.
Tôi có nhận ra được một vài người thân quen. Nhưng trông họ đã thay đổi quá nhiều.
Gương mặt họ trông đã già hẳn đi. Những vết nhăn hiện rõ trên gương mặt. Còn sắc mặt thì xanh xao hốc hác.
Hình như, họ đang bị nhiều thứ bệnh tật dày vò, làm cho họ khổ đau. Chân thì đi không vững. Tay thì bị run run rẫy rẫy.
Tôi cũng nhận ra được một vài người thân quen khác, nhưng thấy họ không còn sống chung với con cháu trong gia đình nữa, mà phải sống trong những nỗi cô đơn buồn tuổi ở các viện dưỡng lão.
Một số khác thì lại phải lê lết cuộc sống trong thân xác bệnh hoạn ở các cơ sở từ thiện xã hội.
Thật đáng thương cho họ biết chừng nào !!!
Tôi có trở lại chính gia đình của tôi. Tôi thấy các sách vở, các bài viết, các giấy tờ, các hình ảnh, bằng khen, giấy khen, huân chương, huy chương... những thứ, mà xưa kia tôi rất quí, tôi rất trân trọng, bởi tôi đã phải mất biết bao nhiêu là thời gian, mất biết bao nhiêu công phu, công sức mới có được.
Thế mà bây giờ, người ta đã dẹp chúng đi đâu cả rồi. Không biết họ đã cân ký bán ở chợ, hay đã cho vào cái hố rác nào đó, hay đã làm mồi cho lão táo rồi.
Kể cả di ảnh của tôi, khi mà tôi mới chết, người ta rất trân trọng, lúc nào cũng đầy dẫy bông hoa, hương khói nghi ngút.
Nhưng bây giờ thì không còn thấy một dấu vết gì nữa. Bởi những người đến sau đã không còn biết tôi là ai nữa ?
Đó, là những gì tôi đã ghi nhận được, sau khi tôi trở lại, nhân kỷ niệm 25 năm, ngày chết của tôi.
Tôi không ngờ ngày lễ bạc của tôi, khi tôi tảo mộ lần thứ 2, lại buồn tẻ, thê thảm đến thế.
Bây giờ, tôi lại càng xác tín thêm: Ngày lễ bạc, cũng chỉ là kỷ niệm của riêng tôi thôi.
Nhưng từ đó, tôi cũng đã ngộ ra được một sự thật thê thảm về lòng người. Mà phải như vậy thôi, bởi đời là thế, thế đời là thế.
Tôi nghĩ:
Nếu bây giờ, tôi được trở lại với cái kiếp người, tôi quyết tâm sẽ sống khác hẵn, tôi sẽ không sống như lúc trước đâu:
- Tôi sẽ không mất quá nhiều thời gian để chạy theo những hư danh phù phiếm.
- Tôi sẽ không quá bận tâm lo tích lũy những của cải tạm bợ chóng qua, mà phải quyết tâm dùng thời gian, dùng tiền bạc, dùng của cải, dùng tài năng và dùng công sức nhiều hơn, để lo đầu tư cho phần rỗi đời đời của mình.
Tuy quyết tâm là như vậy, nhưng mà đã quá trễ, bởi dễ dàng gì mà tôi lại có được cái may mắn đó.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con yếu đuối, vì con tội lỗi.
Xin cho những người còn đang sống hôm nay, biết ý thức được cuộc sống họ đang sống, để đừng hoang phí thời gian nữa, mà phải biết lo, phải biết nghĩ, phải biết cân nhắc cho kỷ, biết chọn lựa cho đúng những cái đáng phải chọn lựa, và phải biết can đảm loại bỏ những gì là tạm bợ, là phù phiếm, là chóng qua, là vô ích, để còn biết dành nhiều thời gian, tiền bạc, của cải, công sức, mà đầu tư cho phần rỗi đời đời của mình. Amen.
Một buổi sáng như thường lệ, ông Alfred (Alfred Nobel) đang ngồi thưởng thức ly cà phê nóng, bỗng ông hốt hoảng giật nẫy mình, khi đọc thấy trên tờn báo để trước mặt, với hàng chữ thật lớn, in thật đậm:
"Alfred, ông vua Lựu Đạn vừa mới qua đời".
Ông ngẫm nghĩ:
“Có lẽ người ta đã in nhầm lẫn tên của mình với tên của một người nào đó chăng?”
Thế rồi, vì tính tò mò muốn biết thêm bài báo đã nói gì.
Ông bỏ ly cà phê xuống bàn. Ông ngấu nghiến đọc.
Rõ ràng, đây không phải là một sự nhầm lẫn, mà là người ta muốn lên án tử cho ông.
Người ta cho ông là một người chuyên mua bán cái chết, chuyên làm giàu trên xương máu của những người chết.
***
Mà quả thật như vậy.
Ông Alfred chính là người đầu tiên phát minh ra loại chất nổ giết người.
Ông đã mở một cái xưởng sản xuất bom đạn thật lớn, thật qui mô. Và ông đã trở nên giàu có, đã trở nên tỷ phú, nhờ xương máu của biết bao nhiêu người đã nằm xuống.
Với những vũ khí giết người đó, ông đúng là người lái buôn sự chết.
Đã có lần ông tự hỏi:
- Mình có nên tiếp tục theo đuổi cái nghề không lành mạnh này nữa chăng ?
Chẳng lẽ, ta lại sẽ phải xuống mồ với cái danh hiệu là “người buôn bán sự chết”.
Thế rồi, trong những ngày sống trong thinh lặng của tâm hồn mình, ông Alfred đã có dịp suy nghĩ.
Ông đã có dịp đối diện với lương tâm của mình.
Cuối cùng, ông đã tỉnh ngộ. Ông Alfred đã quyết định thay đổi nghề nghiệp, thay đổi cuộc sống.
Ông đã quyết tâm dùng tất cả thời giờ, tiền bạc và sức lực còn lại, để thực hiện những việc làm có ý nghĩa hơn, tích cực hơn, hữu ích hơn cho mọi người, nhằm thăng tiến con người, nhằm xây dựng hòa bình.
Ông muốn xoá đi một quá khứ đen tối đã qua, do chuyên nghiên cứu, chế tạo ra vũ khí, giết hại không biết bao nhiêu người.
Ông quyết tâm, ông đã làm, và ông đã rất thành công. Và Tên tuổi của ông đã thật sự đi vào lịch sử của nhân lọai, không phải với cái danh hiệu là người lái buôn sự chết, mà là người sáng lập ra giải thưởng Nobel hòa bình, rất được mọi người trân trọng cho đến ngày nay. Và giải thưởng này đã mang tên của ông, đó là Alfred Nobel.
*****
Bạn thân mến.
Mỗi năm vào Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy đi vào trong nội tâm của lòng mình, vào trong thinh lặng của đời mình, và đi vào trong “sa mạc của tâm hồn mình”, để gặp gỡ mình, và để đối diện với chính mình, để nhờ đó chúng ta mới có thể gặp được Chúa Giêsu, để cùng cầu nguyện và chay tịnh cùng với Chúa Giêsu.
Và cuối, cùng chúng ta hy vọng sẽ được ơn Chúa biến đổi cuộc đời của ta cho nên tốt hơn, cho đẹp lòng Chúa hơn nữa.
Vào trong sa mạc của tâm hồn, còn là để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, để gọt dũa những tình xấu của mình, những thói quen không tốt của mình, để loại ra khỏi con người mình, những gì không phù hợp với những điều Chúa đã dạy, để loại trừ ra khỏi con người mình, những gì không phải là của Thiên Chúa, những gì không thuộc về Thiên Chúa, để cho tâm hồn của ta trở nên thanh khiết hơn, trong sạch hơn, hầu có thể xứng đáng đón nhận ơn Chúa Phục Sinh.
Vào trong sa mạc của tâm hồn, còn là để cho tâm hồn của ta được tôi luyện, là để cho niềm tin của ta được nuôi dưỡng, trong sự bình an và trong tình yêu thương của Chúa.
Sa mạc của tâm hồn, sẽ mang đến cho ta những giây phút thinh lặng và cầu nguyện, giúp ta gặp gỡ Thiên Chúa, và tìm gặp lại chính mình...
Chỉ khi ta sống một mình trong sa mạc của tâm hồn, ta mới nhận ra được sự yếu đuối của ta. Ta mới có thể khám phá ra những gì sai sót, lầm lỗi của ta. Ta mới thấy được những bất toàn của thân phận con người mỏng dòn của ta.
Và chỉ khi sống trong thinh lặng của sa mạc tâm hồn, ta mới nhận ra quyền năng vô biên cao cả của Thiên Chúa, sẽ khám phá ra tình yêu thương bao la của Chúa, để Chúa sẽ là chỗ dựa vững chắc cho niềm tin của ta, cho hạnh phúc đời đời của ta.
Vào trong sa mạc của tâm hồn, còn là chuyện ta quyết tâm cố gắng, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, là Cha nhân từ đầy yêu thương, để ta xin Chúa tha thứ cho ta, và để ta cũng biết bắt chước Chúa, mà tìm cách tha thứ cho những anh chị em đã có những lỗi lầm xúc phạm đến ta.
Rồi vào trong sa mạc của tâm hồn, còn là dịp để ta hồi tâm nhớ lại những việc làm sai trái của ta, để ta nhớ lại những lời ta nói, những việc ta làm, đã xúc phạm đến kẻ này người nọ, đã làm buồn lòng kẻ này người khác, có khi rất là vô tình, không hề hay biết nữa. Nhờ đó, chúng ta có thể chỉnh đốn lại cuộc sống của ta cho tốt hơn, cho lương thiện hơn, cho hoàn chỉnh hơn, như Chúa mong chờ nơi ta:
“Các con hãy nên hoàn thiện,
như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Matthêu 5,48).
*****
Lạy Chúa, Mùa Chay thánh là thời gian Chúa nhắc nhở mỗi con người chúng con, hãy cố gắng, mà sống tinh thần thinh lặng của sa mạc tâm hồn mình, hãy tích cực và hãy thường xuyên sống gắn bó với Chúa một cách mật thiết, và hãy cố gắng tìm mọi cách để sống hoà hợp với mọi người, những anh chị em sống bên cạnh con.
Lạy Chúa, xin giúp con tích cực sống những ngày Mùa Chay hồng phúc này. Amen.
Có một nhà hiền triết đã kể lại một câu chuyện như sau: Một hôm, tình cờ ông gặp một bé trai, ngồi khóc nức nở bên vệ đường. Ông dừng lại hỏi em, và được biết em tên là Kahi.
Ông ôn tồn hỏi:
- Này con, sao con khóc, ông có thể làm gì được để giúp con?
Cậu bé Kahi trả lời:
- Thưa ông, cha mẹ và các anh chị của con, đều là những người danh giá, tài năng, lại giàu có, sang trọng, có địa vị trong xã hội.
Nhưng, tất cả đều khinh khi coi thường con.
Họ nói: Nơi con không hề thấy có một điều gì tốt. Cho nên họ cảm thấy nhục nhã vì con. Và cuối cùng, họ đã quyết định đuổi con ra khỏi nhà, kể cả cha mẹ con. Bởi con không xứng đáng mang tên dòng họ của gia đình.
Bây giờ, thì con phải đi lang thang khắp đó đây, mà không biết phải làm gì. Con không biết phải đi đâu. Và ngày mai của con không biết sẽ ra sao ?
Nhà hiền triết, sau một lúc suy nghĩ, đã đề nghị em uống một loại thuốc an thần ông đang có, em sẽ ngủ một giấc dài, và rồi em sẽ bớt sợ hãi, khi gặp lại những người thân.
Bởi ông hy vọng, với cái kế này, ông có thể đưa em trở về nhà một cách an toàn ổn thoả, và sẽ nối lại được tình cảm với mọi người trong gia đình, nhờ những lời khuyên lơn góp ý của ông.
Tin tưởng vào cụ già, và nhất là khi thấy có người lớn quan tâm, yêu thương, tìm cách giúp đỡ mình, em bé liền gật đầu đồng ý ngay.
Sau khi thuốc đã thấm, Kahi đã ngủ một giấc thật say và thân xác của em đã trở nên dịu quặt, mềm nhũn như chết.
Nhà hiền triết mới bồng bế em về nhà.
Trước sự đông đủ của mọi người trong gia đình, nhà hiền triết mới lên tiếng nói; Tôi đã tình cờ gặp thấy em nằm bên vệ đường, và nhờ có tấm thẻ học sinh trong mình của em, mà tôi biết được địa chỉ, để đưa em về đây.
Tưởng con mình đã chết thật, cho nên cha mẹ em dặt em vào một chỗ trang trọng nhất trong nhà, và bắt đầu khóc lóc rất thảm thiết.
Sau khi lắng nghe những lời khôn ngoan của nhà hiền triết dạy bảo, gia đình đã hết lời cám ơn và rồi tiễn nhà hiền triết lên đường.
Sau đó, cha mẹ em ngồi lại để bàn tính chuyện tổ chức một lễ tang cho em, sao cho thật trang trọng, sao cho thật xứng với phong cách của một gia đình giàu có, quí phái, có uy tín nhất trong vùng:
- Người cha thì cho người đi thuê mướn một nhà văn nổi tiếng trong làng, để viết tiểu sử của em, sao cho thật hay, nhất là căn dặn phải nêu lên những đức tính tốt của một người con hiếu thảo, giỏi giang, để cho mọi người được biết.
- Còn người mẹ thì lo đi thuê một đội kèn tây về nhà, để thổi cho những ngày lễ tang, sao cho được rình rang xôm tụ.
Đã thế, cha mẹ em có lúc còn thay nhau ngồi túc trực bên cạnh em, vừa khóc lóc, vừa kể lể, toàn là những chuyện tốt đẹp của em.
Nhưng rồi sau cùng, khi thuốc đã từ từ hết công hiệu, Kahi tỉnh lại. Em rất hài lòng và vui mừng, vì được biết những cảm tình thân thương trìu mến của bao người dành cho em, trong đó có cả những người đã từng xô đuổi em ra khỏi nhà.
Phải nói là em vui mừng phấn khởi biết chừng nào.
Nhưng rồi trớ trêu thay, những giây phút vui mừng phấn khởi của em kéo dài không được bao lâu, thì mọi người đã thay đổi thái độ đối với em.
Thay vì vui mừng, vì đứa con coi như đã chết, nay được sống lại, thì mọi người đã tỏ ra bực dọc khó chịu, vì coi em như là người đã làm hư hỏng mọi công chuyện.
Thay vì ca ngợi chúc tụng em là người đã hiếu thảo, ngoan hiền, thì giờ đây lại phẩn nộ, tức tối, khó chịu với em, vì coi em là một người phá đám, đã âm mưu với người lạ mặt, để lừa gạt mọi người, đã biến gia đình thành trò cười cho thiên hạ. Và cuối cùng, họ lại một lần nữa đuổi em ra khỏi nhà.
*****
Bạn thân mến, câu chuyện trên đây giống như đùa.
Nhưng, những chi tiết thật trớ trêu của của câu chuyện, đã làm cho ta phải suy nghĩ nhiều lắm.
Chẳng hạn:
- Người ta thường than khóc người chết thật tha thiết, thật não nề, thật bi ai, nhưng lại thường thoải mái la lối, gắt gỏng, chửi bới không nể nang, không tiếc lời, đối với những người thân cận đang sống bên cạnh mình.
- Người ta thường hết lời ca ngợi công đức người chết, nhưng lại nuôi hận thù, ghen ghét, đến không đội trời chung với những người đang sống.
- Người ta thường thích thổi phồng những nhân đức, những tính tốt của người chết, và thường khuếch đại những việc làm của người chết, coi người chết như một thánh sống, nhưng lại thích nói hành, nói xấu, nói gian, nói dối, nói thêm, nói bớt cho những người sống bên cạnh, để rồi, họ không còn đất để sống với mọi người.
Có thể, vì người ta quan niệm: “Nghĩa tử là nghĩa tận”.
Điều đó cũng tốt thôi.
Nhưng phải chi người ta biết sống hết tình hết nghĩa đối với nhau, cố sống hết tình chân thật đối với nhau khi còn sống, để khi chết, việc thương tiếc của họ trong lễ tang, sẽ có ý nghĩa cao thượng biết chừng nào. Và dời sống của họ sẽ phù hợp với đạo lý biết mấy.
Để giúp chúng ta tránh được tình cảnh trớ trêu giống như gia đình của Kahi, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta, hãy cố gắng thực hiện ba điều này, là:
- Hãy luôn giữ tâm hồn trong sạch,
- Hãy luôn giữ lương tâm ngay thẳng, và
- Hãy tránh một kiểu sống thiếu đạo đức” (1 Tm 1:5).
Nếu chúng ta không cố gắng làm theo những lời khuyên này, thì đời sống đạo của chúng ta, cũng giống như những chiếc phèn la trống rỗng, kêu la thật inh ỏi, nhưng bên trong, không có gì là giá trị trước mặt Chúa, có khi còn thêm tội nữa.
Thánh Phêrô cũng dã từng dạy chúng ta như sau:
- Anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác,
- Hãy từ bỏ mọi điều xảo trá,
- Hãy từ bỏ những thói gian dối giả hình.
- Hãy cố gắng sống đơn sơ như những trẻ nhỏ, để Chúa dễ dàng đón nhận anh em vào Thiên Đàng hơn (1Phêrô 1,1-2).
Để được như vậy, chúng ta hãy cố tìm thời gian, để đọc lời Chúa. để suy gẫm lời Chúa, để đem lời Chúa áp dụng vào trong cuộc sống của ta. Nhờ đó, mà đức tin của ta mỗi ngày mới được trở nên giống Chúa Kitô hơn.
Và cũng nhớ đó, mà đời sống đạo của mỗi người chúng ta mới có những tương quang tốt hơn đối với Chúa, và đối với những người sống gần gũi bên cạnh ta.
Và cũng nhờ đó, mà chúng ta mới dám hy vọng phần thưởng đời đời, Chúa dành cho chúng ta sau này trên Thiên Đàng.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết rèn luyện tâm hồn, sao cho mỗi ngày một nên trong sạch hơn, đơn sơ hơn, với đôi mắt sáng hơn, để con biết khám phá ra những gì tốt, nơi những anh chị em sống bên cạnh con, để con có thể sống tốt với tất cả mọi người. Amen.
Có một cậu bé mắc phải một chứng bệnh điếc bẩm sinh.
Tai của em chỉ có thể nghe được khoảng 50% âm thanh, so với một người bình thường.
Một ngày nọ, em cầm về cho mẹ một lá thư của nhà trường, báo tin cho gia đình biết là em không thể tiếp tục học ở nhà trường được nữa.
Lý do là vì trí khôn của em quá yếu, quá kém, quá ngu đần.
Khi đọc xong lá thư của nhà trường, mẹ của em rất bình tỉnh, không tức giận con, không nổi nóng, không phẫn nộ, không trách mắng ra rày, mà còn âu yếm xoa đầu đứa con, vỗ về, như tỏ vẻ thông cảm, an ủi, bênh vực con. Bởi bà biết con của mình hơn ai hết.
Sau đó, bà cầm lá thơ, đích thân dẫn con mình đến nhà trường:
Trước, là để cám ơn quí thầy cô đã cực khổ dạy dỗ con của bà trong suốt những năm tháng qua.
Sau, là bà muốn báo tin cho nhà trường biết, là con bà không đến nỗi quá tệ, quá kém, quá ngu đần, đến độ không còn có thể học được thêm điều gì nữa. Fin
Và bà tuyên bố cho mọi người biết: Từ nay trở đi, bà sẽ đích thân dạy học cho con của bà. Tuyên bố xong, bà xin phép cáo lui ra về, trước sự ngỡ ngàng của mọi người.
*****
Bạn có biết không: Cậu bé có tật điếc bẩm sinh 50%, đã bị các thầy cô đuổi ra khỏi nhà trường hồi còn nhỏ, chính là nhà bác học thiên tài của thế kỷ, đó là ông Thomas Êdison, người đã từng đóng góp cho nhân loại không biết bao nhiêu là những phát minh về khoa học, về kỹ thuật, mà cho đến ngày nay, những phát minh đó vẫn còn rất thiết thực, rất có giá trị, và cũng rất hữu ích cho cuộc sống của con người.
Những phát minh của ông chẳng hạn:
- Sáng chế ra điện,
- Làm ra bóng đèn điện,
- Sáng chế ra máy chiếu phim,
- Làm ra máy ghi âm.
Bạn có biết không, khi ông qua đời, người ta đã tổng kết những phát minh của ông đã có tới hàng ngàn, và hầu hết đã được các nhà khoa học quốc tế công nhận.
Quả thật, mẹ của Thomas Êdison đã khẳng định rất đúng về đứa con mình:
“Con tôi không đến nỗi quá tệ, quá kém, quá ngu đần, đến độ không còn có thể học thêm được điều gì nữa”.
***
Bạn thân mến,
Tình thương và thái độ sống của bà mẹ ông Thomas Êdison đối với đứa con bệnh tật của mình, đã gợi lên cho chúng ta hiểu biết thêm về tình thương và thái độ từ bi, nhân hậu của Thiên Chúa, đối với mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, mặc dù chúng ta là những con người tội lỗi, là những con người yếu đuối, là những kẻ thấp hèn.
Thiên Chúa không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta, mặc dù có những lúc, chúng ta có thái độ vô tâm, hững hờ, dững dưng, và sống xa cách đối với Ngài.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người mẹ hiền, và có thể nói là còn hơn một người mẹ hiền nữa.
Bởi chính Thiên Chúa đã nhiều lần khẳng định trong Kinh Thánh:
“Giả như có một người mẹ nào đó, quên con cái của mình,
thì Ta, Ta không bao giờ quên đâu”.
Chính Chúa Giêsu, khi rao giảng về Tình yêu của Thiên Chúa, cũng đã dùng hình ảnh của một người chăn chiên tốt lành, đã dám liều lĩnh bỏ 99 con chiên lành lặn trong chuồn, để đi tìm, và tìm cho bằng được con chiên lạc. Và một khi đã tìm gặp, ông đã kiên nhẫn, đã băng bó vết thương, rồi vác chiên lên vai, đưa nó về chuồng.
Qua những lời nói và những thái độ của Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy và đã hiểu được phần nào tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, nhất là những con người yếu đuối, những con người thấp bé, yếu kém, những con người tội lỗi.
Qua những hình ảnh và những lời dạy của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, đã làm tăng thêm niềm hy vọng nơi mỗi người chúng ta: Những tội lỗi của chúng ta tuy có nhiều cỡ nào, cũng không làm cho Thiên Chúa thôi không yêu thương chúng ta.
Ngược lại, Ngài còn luôn tìm mọi cách, tìm mọi phương thế, để biến đổi chúng ta cho nên tốt hơn.
Ngài luôn tìm mọi cách, tìm mọi phương thế, để giúp chúng ta phát triển hết những tài năng, mà chính Ngài đã trao ban cho chúng ta.
Nếu không có tình thương và sự kiên nhẫn của người mẹ, thì cậu bé Thomas Êdison bị nhà trường đuổi, sẽ không bao giờ phát triển được hết tài năng của mình.
Cũng vậy, nếu như Thiên Chúa không yêu thương chúng ta, không kiên nhẫn nâng đỡ chúng ta, thì có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ có được những may mắn, sẽ không bao giờ được phát triển như ngày hôm nay.
Nhưng, chúng ta đừng ỷ lại, đừng lạm dụng tình thương của Thiên Chúa, đừng cứ tiếp tục ngụp lặn trong những tội lỗi của mình, trong những tật xấu của mình.
Chúng ta nên nhớ, chúng ta luôn được Chúa mời gọi để ăn năn, để hối lỗi, để trở về với Chúa.
Chúa luôn sẵn sàng chờ đón chúng ta như một người cha nhân hậu, đầy yêu thương.
Và chúng ta cũng luôn được Chúa mời gọi noi gương bắt chước Chúa, để sống kiên trì độ lượng nhân ái, đối với những anh chị em sống bên cạnh chúng ta.
Chúng ta cũng nên nhớ, nếu Thiên Chúa đã kiên trì yêu thương chúng ta, thì chúng ta cũng phải biết kiên nhẫn, biết yêu thương, và biết sống hoà hợp với tất cả những anh chị em sống bên cạnh ta.
Nếu tình yêu là phương thế duy nhất Thiên Chúa đã dùng để phát triển cuộc sống của ta, thì ta cũng phải biết dùng tình yêu như là phương thế, để giúp anh chị em sống bên cạnh ta, cũng được phát triển nữa.
Nếu Thiên Chúa không muốn cho bất cứ một ai phải hư mất, thì trong cuộc sống của ta, ta cũng đừng loại trừ bất cứ ai.
Bởi, tất cả mọi người đều là con Chúa. Bởi, tất cả mọi người trên trái đất này đều là anh em với nhau.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, về phẩm giá, về những tài năng, và về tất cả những gì mà Chúa đã ban cho con.
Xin giúp cho con luôn biết dùng nó mà yêu Chúa hết mình. Và cũng biết dùng nó, mà giúp thăng tiến những anh chị em sống bên cạnh con, giúp xã hội con đang sống cũng được thăng tiến, và giúp môi trường sống của con được lành mạnh hoá, được trong sạch hóa mỗi ngày một hơn. Amen.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 ----------------------------------------------